PDA

Xem phiên bản đầy đủ : TRUYỆN NGẮN - Hansy - Sưu tầm



Hansy
04-08-2014, 01:46 PM
https://encrypted-tbn0.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcRjzXW_hrCMFvGdDLGlptuFYAFn75x4w aMulCggPFiN7iUJvGI1


Hansy

Sưu tầm
Tháng 8.2014



https://fbcdn-sphotos-g-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xap1/t1.0-9/65525_453510124687144_1077440076_n.jpg

Hansy
04-08-2014, 01:59 PM
http://d.f11.photo.zdn.vn/upload/original/2012/11/01/14/53/1351756437241210_574_574.jpg


MỤC LỤC


1. BÀI TOÁN ĐỐ CUỐI NĂM - Nguyễn Nhật Ánh
2. BÍ MẬT CỦA ÔNG THẦY THỌT - Phạm Thành Châu
3. CHÚNG TÔI LÀ CHÓ - Trương Thái Du
4. CHUYỆN THẰNG BÉ TỴ NẠN BẤT ĐẮC DĨ - ThaiNC
5. HỎI hay NGÃ - Bích Vân
6. CHIẾC ĐIỆN THOẠI BỊ MẤT CẮP - VanTiensinh
7. CÁI CHẾT CỦA VỢ NGƯỜI PHÓNG DAO - Shiga Naoya
8. CÁI CHẾT CỦA CON MỰC - Nam Cao
9. CHIẾM ĐOẠT - Tam Tang
10. BÀI VĂN TẢ MẸ - Hồ Duyên

11. CHUYẾN TÀU HOANG ĐƯỜNG - Lê Minh Nhựt
12. CHUYỆN XẢY RA Ở QUÁN KARAOKE - Nguyễn Thế Duyên
13. CÓ HẬU - Phan Trang Hy
14. CÔ HỌC TRÒ ĐẶC BIỆT - Hoàng Trọng Muôn
15. CÔNG CHÚA MỴ NƯƠNG SANG MỸ - ThaiNC
16. CON ĐIÊN - Mầu Hoa Khế
17. CON GÁI NHÀ ĂN MÀY - Trương Thị Kim Chi
18. CON GÁI TÊN DẦN, TUỔI CỌP - Trần Tùng Chinh
19. CON HEO ĂN THỊT NGƯỜI - Nguyễn Vi Túy
20. GIẤY RÁCH CÒN CHẲNG MUỐN GIỮ LỀ - Nguyễn Thế Duyên

21. CON MA DA - Nguyễn Quang Sáng
22. CƯNG CHỒNG - Thanh Mai
23. DI CHÚC - Khuê Việt Trường
24. DÌ GHẺ - Hoàng Mộng Hoài
25. THƠ... CHẾT NGƯỜI - VanTienSinh
26. DIỄM XƯA - Hoàng Diễm Diễm
27. DI SẢN CỦA NỘI - Huỳnh Mẫn Chi
28. DỞ CHỨNG - Nguyễn Thế Hoàng
29. ĐÁNHTRÁO - Thiên Sơn
30. LÒNG DẠ ĐÀN BÀ - Thanh Mai

31. ĐỆ NHẤT KIẾM SỸ - ThaiNC
32. ĐỊA CHỈ THẦN TÌNH YÊU - Hàng Ưng
33. ĐIÊN - Khái Hưng
34. ĐIỆN THOẠI - Phạm Thái Lê
35. HỦ NHO - Nguyễn Thế Duyên
36. ĐIỆN THOẠI LÚC NỬA ĐÊM - Phong Điệp
37. ĐIỆP KHÚC MÌ TÔM - Cấn Vân Khánh
38. ĐIỀU BÍ MẬT CUỐI CÙNG - Nguyễn Tấn Huy
39. ĐIỀU KỲ DIỆU - Đinh Lê Vũ
40. HELLO - NT Mỹ Liên

41. ĐỊNH MỆNH - Ái Khanh
42. ĐỊNH MỆNH hay LÒNG NGƯỜI - Thương Hà
43. ĐỖ RỒI GÓP LẠI CÒN CHI - Ấu Tím
44. ĐOẠN KẾT MỘT BỘ PHIM - Phan Thị Thu Loan
45. ĐỪNG YÊU NGƯỜI LAM THƠ - Nguyễn Thị Thanh Dương
46. ĐOẠN KẾT MỘT MỐI TÌNH - Nguyễn Một
47. ĐỘC THÂN - Khánh Thảo
48. ĐỘC THOẠI - Hương Ngọc
49. ĐÓI - Thạch Lam
50. MỘT BUỔI ĐI SĂN - Dương Bình Nguyên

51. ĐỜI CHA ĂN MẶN - Nguyên Đỗ
52. ĐÔI KHOEN VÀNG - Nguyễn Thị Long An
53. ĐỔI NGHỀ - Nguyễn Quang Sáng
54. ĐỜI NHƯ Ý - Nguyễn Ngọc Tư
55. "CÔ GIÀ" NOEL - Dương Lệ
56. ĐỜI QUÈ - Lâm Huyền
57. ĐỔI THAY - Nguyễn Thanh Bình
58. ĐỒNG HỒ NÓI TIẾNG NGƯỜI - Phạm Văn Khôi
59. ĐỨA BÉ ĐÁNH GIÀY
VÀ CỌC TIỀN ĐÁNH RƠI - VanTienSinh
60. AI LÀ AI... - Đặng Quang Tình

61. ĐỨA CON KHÁC HỌ - Trần Thành Mỹ
62. ĐỨA CON LAI - Tô Đức Chiêu
63. ĐỪNG GẶP LẠI NGƯỜI XƯA - Tùy Anh
64. ĐUỔI BẮT - Vương Liễu Hằng
65. AI MANG HỘT NÚT ĐI RỒI - Đồng Sa Băng
66. ĐƯỜNG XƯA LỐI CŨ - Đồng Sa Băng
67. ĐÊM THỊ DÂN - Trương Thái Du







http://s1.img.yan.vn/Mlog/UploadUserCover/1000x280_a5ad862c-d2ae-4e80-ac55-bb82f633ccbc.jpg

Hansy
04-08-2014, 02:06 PM
1

Bài Toán Đố Cuối Năm

Nguyễn Nhật Ánh

Chiều hai mươi tết, tôi đem một xấp vải về nhà khoe vợ.
Sau khi mở gói giấy báo, vợ tôi trầm trồ:
- Chà đẹp quá! Ở đâu ra vậy?
Tôi ưỡn ngực:
- Quà tết của cơ quan anh đấy!
Hai vợ chồng trải xấp vải ra bàn, ngắm nghía, xuýt xoa. Ðột nhiên vợ tôi hỏi:
- Mấy thước vậy, anh?
- Ba thước.

Trong khi trả lời, tôi nhìn thẳng mặt vợ và cảm thấy cô ta thoáng vẻ nghĩ ngợi.
Quả vậy, vợ tôi chép miệng:
- Ba thước chỉ may được cho một đứa. Còn mấy đứa kia...

Sự lo lắng của vợ kéo tôi về với thực tế. Vợ chồng tôi có tất cả năm đứa con. Con Nhạn lớn nhất, mười bốn tuổi. Kế đến là thằng Luân, con Nga, thằng Quang và cuối cùng là thằng Ðạt, đứa út, ba tuổi. Với đàn con như vậy, tết nhứt hai vợ chồng tôi chỉ lo ăn cũng đủ mệt, cách chi nghĩ đến chuyện may sắm. Bây giờ với xấp vải cơ quan cho, cũng chỉ may được một bộ đồ thôi. Nhưng mà nên may cho đứa nào? Ðứa có đứa không, chúng tranh nhau cũng khổ. Phải làm sao cho chúng khỏi so bì mới được! Hai vợ chồng tính tới tính lui, cuối cùng tôi cũng nghĩ ra được một giải pháp.

Tối đó, sau khi ăn cơm xong, tôi tuyên bố:
- Các con ngồi quây lại đây nghe ba nói...
Tôi chưa dứt lời, thằng Luân đã vỗ tay lốp bốp:
- A, ba kể chuyện! Hoan hô!
Vợ tôi trừng mắt:
- Con để yên nghe ba nói nào!
- Không phải kể chuyện! – Tôi đính chính – Ba đố các con cái này...
Nghe tới đó, con Nga lắc đầu nguây nguẩy:
- Thôi, thôi, tụi con biết rồi! Ba lại đố cái gì không sơn mà đỏ, không gõ mà kêu nữa chứ gì?

Tôi cười:
- Không phải! Cái này mới toanh, chưa đố lần nào. Các con nghe kỹ nè. Có năm người đang đi trên đường, bỗng nhiên họ gặp một cái bánh, đố các con họ phải chia làm sao để khỏi cãi nhau?
Thằng Quang ngơ ngác:
- Bánh sao lại nằm giữa đường hả ba? Bộ ai làm rớt hả?
Cái thằng quỷ con này! Tôi rủa thầm trong bụng và trả lời cho qua:
- Ừ, có người làm rớt. Vậy phải chia như thế nào?
Con Nhạn vọt miệng:
- Câu dễ ợt mà ba cũng đố! Thì mỗi người cắn một miếng, cắn hoài cho đến khi nào hết thôi!
Tôi bối rối đưa tay gãi đầu trong khi bọn nhóc nhao nhao:
- Phải vậy không ba? Chị Hai nói đúng không?

Tôi gật đầu kia:
- Phải, phải! Các con giỏi lắm! Giờ nghe ba đố câu khác nè. Có năm người đi trên đường, giả dụ là năm đứa con đi...
- Cũng gặp bánh nữa hả ba? – Con Nga vụt hỏi.
- Không! Lần này không gặp bánh. Các con gặp một chiếc xe đạp bỏ không, vậy chiếc xe đạp thuộc về ai?
- Vậy chủ nó đâu? - Thằng Quang lại hỏi.
- Chủ chiếc xe đạp hả? – Tôi nhíu mày - Chiếc xe không có chủ. Nhưng con đừng hỏi nữa. Trả lời đi! Chiếc xe thuộc về ai?
Con Nga nheo mắt:
- Thì đứa nào biết chạy xe đứa đó lấy!

Con Nhạn và thằng Quang hùa theo:
- Ðúng rồi! Ðúng rồi!
Chỉ có thằng Luân là sửng cồ phản đối:
- Thôi đi! Tụi mày đừng có khôn!
Rồi nó quay sang con Nga, trừng mắt:
- Mày tính bắt tao chở mày đi học chứ gì?

Chả là trong năm đứa chỉ có mỗi thằng Luân biết đi xe đạp. Con Nhạn tập chạy xe trước thằng em nhưng con gái nhát gan nên đến giờ vẫn chưa đi được.
Nghe thằng Luân nạt, con Nga chu miệng:
- Xí! Ai mà thèm ngồi cho anh chở! Anh chạy ẩu có ngày té lọi giò...
- Tao chạy ẩu hồi nào? Ðừng có xạo!
Thấy tụi nhỏ cứ sa đà vào những “tiểu tiết” mà không chịu đi vào “trọng tâm” vấn đề, tôi đập bàn, gắt:
- Thôi, đừng cãi nhau nữa! Không có xe đạp xe điếc gì hết! Bây giờ các con sẽ gặp một bộ đồ...
Lần này, đứa nhanh miệng nhất cũng là con Nga. Nó cắt ngang lời tôi:
- Ðứa nào mặc vừa đứa đó lấy!

Tôi ngớ người ra và đưa mắt nhìn vợ. Tới nước này thì vở kịch của tôi không thể nào diễn tiếp được nữa. Hiểu rõ ý nghĩa cầu cứu trong mắt tôi, vợ tôi liền hắng giọng:
- Thôi, các con im lặng đi, nghe má nói nè!
Tụi nhỏ đang huyên náo lập tức im bặt. Rõ ràng chúng coi trọng má hơn ba.
- Nói thật với các con như thế này, ba con vừa được cơ quan cho ba thước vải. Ba thước vải chỉ may được một bộ đồ hoặc hai cái áo, mà các con những năm đứa. Do đó, ba má muốn hỏi ý kiến của các con, là nên may cho ai kỳ tết này. Kỳ sau sẽ tới những đứa khác.

Thấy câu chuyện không còn ở dạng đố chơi nữa mà trở nên quan trọng, tụi nhỏ đâm ra đứng đắn hẳn.
Sau một thoáng nghĩ ngợi, con Nhạn đề nghị:
- Thôi ba má may cho thằng Quang với thằng Ðạt đi. Thằng Quang được cái áo, thằng Ðạt còn nhỏ chắc may được một bộ.
Ý kiến thằng Luân hơi khác:
- Thằng Ðạt còn nhỏ cần quái gì đồ mới. Má may cho con Nga với thằng Quang đi.
Thằng Quang hùa theo thằng anh:
- Ðúng đó má, con một cái, chị Nga một cái.
Nhưng con Nga không chịu:
- Con không mặc đâu! Má may cho chị Nhạn với anh Luân đi! Tết năm ngoái con đã có áo mới rồi.
Tới lượt con Nhạn lắc đầu:
- Tao không mặc đâu!

Cứ vậy, mỗi đứa một ý, không ai chịu ai. Ðứa nào cũng muốn nhường cho đứa khác. Ðiều đó khiến tôi ngạc nhiên một cách thích thú. Nhưng tình thế quả thật khó xử. Cuối cùng vợ tôi phải đóng vai trọng tài:
- Các con đã có ý kiến rồi, bây giờ tới má.
Nghe vậy, tụi nhỏ im liền.
- Má ủng hộ đề nghị của Nga! - Vợ tôi thong thả - Bởi vì Nhạn với Luân đã lớn rồi, tết nhứt phải đi theo ba má thăm hỏi bà con họ hàng, do đó cần ăn mặc tươm tất một chút...
Rồi vợ tôi quay sang thằng Quang:
- Còn con, con có nghe câu “cũ người mới ta” bao giờ chưa?
- Dạ chưa! “Cũ người mới ta” là sao má?

- Tức là có những cái tuy cũ với người khác nhưng đối với mình vẫn là mới! - Nói tới đây, vợ tôi hơi ngập ngừng – Ví dụ những cái áo của anh Luân dù là cũ nhưng vì con chưa mặc qua lần nào, do đó đối với con vẫn là áo mới phải không?
Thằng Quang không hiểu ất giáp gì, nó vỗ tay hét toáng:
- Phải rồi, mới, mới! Má định cho con cái áo ca rô của anh Luân phải không? Con khoái cái áo đó lắm!
Vợ tôi thở phào:
- Ừ, má cho con cái áo ca rô. Còn Nga thì sửa lại cái áo tím than của Nhạn mà mặc, cái áo đó ngó vậy ma còn tốt lắm, con chịu không?
Con Nga lặng lẽ gật đầu, không biết nó buồn hay vui. Nhưng dù sao câu chuyện may mặc vẫn diễn ra tốt đẹp, không rắc rối như tôi tưởng. Thật là một gia đình hạnh phúc!


oOo

Chiều mồng một tết, hai vợ chồng tôi đang dọn dẹp trong phòng thì bỗng nghe ở ngoài hiên tiếng con Nga méc với con Nhạn:
- Cái áo của chị chỉ mục hết trọi mà má kêu tốt. Em vừa thở ra có một cái mà hai hột nút bay đi đâu mất tiêu.
Con Nhạn rầy:
- Ðứt nút là chuyện thường, có gì mà mày la hoảng như vậy. Ðem kim chỉ lại đây tao đơm giùm cho!

Rồi tôi nghe tiếng nó thở dài:
- Thiệt ra tao đâu có ham áo mới, nhưng kẹt phải đi đây đi đó với ba má thành ra phải may. Ít bữa hết tết, tao nói má sửa lại cho mày mặc, đừng lo!
Thiệt con nhỏ ngoan hết biết! Tôi mới khen thầm trong bụng thì đã nghe tiếng thằng Quang. Nó chơi đâu ở ngoài sân mới chạy vô:
- Chị Hai ơi! Cái áo ca rô của em rách rồi!
- Rách ở đâu? – con Nhạn tỏ vẻ lo lắng.
- Ở trên vai đây nè! Em vừa cúi xuống chưa kịp lượm viên bi đã nghe một cái “rẹt”.
- Ðâu? Ðưa tao coi nào! Chậc, rách có chút xíu à! Cởi ra tao mạng lại cho, lát nữa mặc!
Thằng Quang phụng phịu:
- Thôi, em không mặc cái áo “cũ người mới ta” này nữa đâu! Em thích mặc áo mới như anh Luân kìa!

Con Nhạn dỗ em:
- Mặc áo mới cực thấy mồ, sướng ích gì mà ham! Mỏi lưng không dám tựa, buồn ngủ không dám nằm, lúc nào cũng phải giữ cho thiệt sạch. Còn áo cũ thì tha hồ!
Nhưng thằng em không màng nghe lý lẽ của con chị, nó buồn bã “triết lý”:
- Nhà mình không bằng một góc nhà chú Kiệt. Thằng Thảo và con Sương đứa nào cũng có áo mới, chẳng như nhà mình năm nào cũng “cũ người mới ta” hoài!
- Thằng này lãng xẹt! - Con Nhạn nạt – Nhà người ta chỉ có hai anh em trong khi nhà mình tới năm đứa, bì sao được mà bì!

Thấy chị gắt, thằng Quang im re. Một hồi lâu, cũng chẳng nghe nó nói gì. Hình như nó đang lặng lẽ cởi áo. Con Nhạn nói đúng thiệt! - Tôi chua xót nghĩ - Nếu hồi đó mình quyết tâm chỉ có hai đứa thì bây giờ mọi sự tốt đẹp biết mấy! Bất gíác, tôi quay sang vợ và bắt gặp ánh mắt của cô ta. Ánh mắt nói: “Phải chi hồi đó...”


Nguyễn Nhật Ánh

Hansy
05-08-2014, 03:31 PM
2

Bí Mật Của ÔngThầy Thọt

Phạm Thành Châu

“Con ơi nhớ lấy lời cha.
Một năm ăn trộm bằng ba năm làm”

Hội An là một thành phố cổ. Khoảng thế kỷ 15, 16 đã là thương cảng phồn vinh của miền Nam thời Chúa Nguyễn. Các thương thuyền ngoại quốc thường ghé trao đổi hàng hóa. Người Nhật, người Tàu, người Bồ Đào Nha, người Tây Ban Nha có đại diện thương cục ở đấy. Sau nầy, lòng sông Thu Bồn, phía Cửa Đại bị phù sa lấp, cạn dần, tàu thuyền lớn không vào được nên các thương nhân bỏ đi, chỉ còn lại người Tàu. Họ là thần dân nhà Minh bên Tàu, khi Mãn Thanh cai trị nước Tàu, họ bỏ xứ ra đi, đến Hội An họ ở luôn tại đấy. Một số lấy người bản xứ, sinh con, xưng là người Minh Hương để tỏ lòng tưởng nhớ đến nhà Minh. Tôi là người Minh Hương nhưng không biết tiếng Tàu, cũng không rõ gốc gác mình ra sao.

Trước khi Hội An thành thương cảng, nó là lãnh thổ của Chiêm Thành. Di tích còn lại có thành Trà Kiệu, cố đô của Chiêm Thành, cách Hội An độ ba mươi cây số. Ngay tại Hội An thỉnh thoảng những người đào đất bắt gặp những tượng đá, vật dụng, nghe nói có khi gặp vàng nữa, nhưng dĩ nhiên chẳng ai dại gì nói ra. Trừ vàng, thường thì không ai muốn giữ các tượng đá trong nhà. Họ sợ ma Hời –chỉ người Chiêm Thành - vật chết. Họ đem để trước bình phong đền miếu hoặc gốc cây đa. tôi có thấy một tượng phụ nữ Chàm bằng đá, rất đẹp, để trước miếu Quảng An, sau có ông thầy dạy vẽ, thầy Kiệm, đem về dùng làm mẫu cho học trò tập vẽ. Chúng tôi sợ ma Hời bắt thầy chết, vậy mà thầy vẫn sống nhăn, chả sao cả.

Về cái miếu Quảng An, người ta đồn đó là miếu thờ ma Hời, nhưng không ai cúng ma Hời, chỉ thấy ngày rằm, mùng một có ông Ba Râu, một ông già ra thắp nhang, Xuân Thu nhị kỳ có lễ cầu an, rất long trọng. Lúc đó tôi còn học tiểu học không quan tâm đến, nhưng mỗi tối đi ngang qua miếu tôi sợ kinh khủng, không dám nhìn vào miếu, sợ ngài vật chết. Miếu nầy nằm ngay đầu hẽm đi vào nhà tôi. Đường hẽm nầy đi thông từ đường Phan Chu Trinh qua đường Trần Hưng Đạo. Thời pháp thuộc nó có tên kiệt Công Quán Cũ, còn đường Trần Hưng Đạo có tên là đường Công Quán, vì có trú sứ của tên công sứ Pháp. Trong kiệt Công Quán nầy có giếng nước ngọt nổi tiếng. Đó là giếng Bá Lễ.

Ngay đến bây giờ Hội An vẫn không có nước máy. Nhà nào cũng có giếng trong vườn để lấy nước sử dụng. Nhà khá giả thường thuê người gánh nước giếng Bá Lễ về làm nước uống, nấu ăn. Thế nên giếng lúc nào cũng tấp nập người đến kéo nước. các cô, bà lấy đó làm nơi trò chuyện. Tối lại, có các chàng lính tráng lãng vãng ra tán tỉnh, cập kè các cô, thế nên về ban đêm con đường thường xuyên tối thui. Vì tuy có điện đường, nhưng các chàng lính lấy đá ném cho vỡ bóng đèn để tiện làm ăn. Nhà tôi cách giếng Bá Lễ vài khu vườn, trong một khuôn viên rất rộng. giữa là nhà thờ tộc, quây quần chung quanh là nhà con cháu.

Phía sau là nhà người bác, tôi không rõ liên hệ ra sao, nhưng các người con của bác ta, hễ lớn thì tôi kêu bằng anh, chị, nhỏ thì tôi kêu mầy tao cũng chẳng ai sửa sai. Người bác nầy không khá giả gì. Ông ta bán kẹo kéo. Sáng sớm ông nấu đường trong một cái chảo, rồi đổ ra một cái thau, thau được đặt trên một hồ nước nhỏ cho mau nguội, xong ông đánh đường trên một chạc ba gắn trên cột nhà cho trắng đường, thành cục kẹo bự. Ông đặt cục kẹo trên bàn, banh ra, đổ đậu phọng rang vào và kéo hai mép lại với nhau. Giống bác sĩ mổ bụng bịnh nhân, chữa trị xong, bỏ ruột gan vào và khâu lại vậy.

Tôi thường dậy sớm, qua nhà ông ta, chờ khi đậu phọng rang đã nguội, tôi bóp cho vỏ mỏng tróc ra, bỏ vô mồm, ăn chán chê mà ông ta không nói tiếng nào. Coi bộ ông thích tôi lắm, buổi sáng nào ông cũng để sẵn cho tôi, khi thì chén cơm chiên, khi thì tô cơm hến để tôi điểm tâm trước khi đi học. Ông kể lại lai lịch nghề kẹo kéo của ông ta một cách hãnh diện. Rằng trước đây, vào khoảng thập niên 40, 50 Hội An chỉ có một người tàu bán kẹo kéo. Cách làm kẹo kéo khá đơn giản, nhưng chú chệt giấu nghề rất kỷ. Chú ở chung với người bà con trong một tiệm buôn. Sáng sớm, mới bốn năm giờ, chú đã dậy nấu kẹo. Chẳng phải chú siêng năng gì, nhưng chú sợ ban ngày, có người nhìn thấy sẽ bắt chước.

Người bác tôi, lúc đó còn rất trẻ, làm công nhân khuân vác trong tiệm, âm mưu ăn cắp nghề nên xin chủ ngủ nhờ trong tiệm. Tối đến, bác ôm chiếc chiếu, leo lên đống hàng hóa nằm ngủ, đến gần sáng bác hé mắt theo dõi chú chệt làm kẹo. Tiến trình làm kẹo thì bác nắm được, nhưng có một thứ nước mà chú chệt vô phòng ngủ đem ra đổ vào đường trước khi nấu thì bác chịu, không biết là chất gì? Sau, bác rình lúc chú đi vắng, mò vô buồng chú tìm. Hóa ra là hủ giấm chú giấu kỹ trong gậm giường. Sau nhiều lần nấu thử, bác tôi thành công. Bác làm một thùng kẹo kéo, nhờ người bạn đem đến trước tiệm, nơi chú chệt trọ, đứng đó suốt buổi, lại bán rất rẻ.

Chú chệt buồn tình bỏ đi. Thế là bác tôi hành nghề kẹo kéo từ đó. Nghề nầy cũng chỉ đủ nuôi vợ con sống qua ngày. Đi rả cẳng suốt ngày mà cái nhà tranh vách lá ngày càng xiêu vẹo. Vợ bác bán hàng vặt ở chợ Hội An, cũng chẳng phụ được bao nhiêu. Tôi nhớ một lần bác bị cảm vì hôm trước mắc mưa giông. Buổi sáng chủ nhật đó, bác trùm mền nằm, không làm kẹo. Tôi qua hỏi thăm, bác bảo người lạnh run, đau đầu... gì đó. Tôi bảo bác đưa tiền, tôi ra tiệm thuốc tây mua thuốc cho. Tôi cầm tiền, ra tiệm thuốc tây, kể bịnh cho người bán thuốc, mua về cho bác uống, chỉ gần trưa là bác dậy nấu kẹo chuẩn bị đi bán. Bác bảo tôi đọc cái toa thuốc cho bác nghe, chữa bịnh gì, uống thế nào... xong bác đưa tiền cho tôi ra tiệm thuốc tây mua một mớ. Thế là bác vừa bán kẹo vừa làm thầy thuốc. Bác ôm thùng kẹo kéo đi khắp vùng ngoại ô, về cả các nơi xa xôi hẻo lánh. Người nào bịnh bác cũng vào thăm, sờ đầu, bắt mạch (?!), hỏi bịnh trạng rất kỹ, bác cho ít thuốc uống tạm.

Chiều về bác bảo tôi ra nhà thuốc kể tình trạng của những bịnh nhân của bác và nhà thuốc bán cho thuốc chữa bịnh, thế là hôm sau bác đem thuốc cho thân chủ uống. Người dân nông thôn ít khi dùng thuốc tây, khi bịnh chỉ uống nước rễ cây, lá cây, xông, cạo gió, nay dùng đúng thuốc, linh nghiệm như thần. Bác không biết chữ, chỉ biết đọc được các con số. Thỉnh thoảng bác nhìn lên lịch và làm ra vẻ thông thái “Chà bữa nay tám tây rồi mà chỉ mới mồng hai âm lịch!” bác mù chữ nhưng nhớ công dụng các loại thuốc tây rất tài. Chỉ cần tôi đọc cái toa một lần là bác nhớ mãi. Đa số là thuốc trụ sinh, thuốc cảm và một vài thứ quảng cáo trên đài phát thanh. Bác còn mua thêm thuốc bán trong tiệm thuốc bắc như Tiêu Ban Lộ, Cứu Cấp Lục Thần Thủy...

Khi cho bịnh nhân uống bác thường gói vào một tờ giấy khác, nên ai cũng tưởng thuốc do bác bào chế. Thuốc tây thường là thuốc viên, bác bỏ vô cối giả thành bột, cũng gói thành những gói nhỏ. Mẹ tôi gọi bác là Ông Thầy Thọt, chẳng phải bác què chân mà vì mỗi sáng bác cứ đem thuốc ra đâm thọt trong cái cối nghe cọc cạch, cọc cạch. Nhờ sáng kiến đó mà bác nổi danh mát tay ở vùng thôn quê. thỉnh thoảng tôi thấy có người đem gà, vịt , chiếu Bàn Thạch đến biếu bác. Cuộc sống của gia đình bác coi mòi khá hơn trước chứ chẳng giàu có gì. Vậy mà đột nhiên một hôm bác bảo tôi “Tao sẽ ra Đà Nẳng ở, tao mua nhà ngoài đó rồi” Tôi hỏi “Bác làm gì mà giàu quá vậy?” Bác thì thầm một cách bí mật “Mầy đừng cho ai biết, con tao mầy cũng đừng cho biết. Tao bắt được vàng Hời, một con cua vàng sau miếu Quảng An”.

Trở lại chuyện miếu Quảng An. Thường thì ngày rằm, mồng một có ông Ba Râu ra thắp nhang, đèn. Cây đèn hột vịt, nhỏ xíu nên ánh sáng mờ ảo, bàn thờ trông càng thâm u ma quái. Chẳng những bọn trẻ con chúng tôi mà cả đến người lớn cũng sợ. Mấy chị đàn bà chửi lộn thường gài nhau “Mầy có ngon ra miếu Quảng An thề với tao, đứa nào ăn ngược nói ngạo, ngài vật cho sặc máu ra”. Lại có lời đồn rằng có chị gánh nước và anh lính dẫn nhau vô miếu làm gì đấy, ngài bắt dính nhau phải chở đi nhà thương gỡ ra. Nhưng lời đồn hấp dẫn nhất là thỉnh thoảng vào ngày mồng một có bầy cua vàng bò ra kiếm ăn sáng rực cả một góc sân. Nhiều người rình, nhưng không ai xác nhận có bắt được cua vàng, có thể họ bắt được nhưng giấu chăng? Chẳng hạn như ông bác họ của tôi bảo có bắt được, riêng tôi vẫn không tin, tuy không bao giờ nói ra.

Thời câu chuyện tôi đang kể đây khoảng năm 54, khi hiệp định Geneve chia cắt đất nước và đồng bào Miền Bắc ồ ạt di cư vào Nam. Thành phố Hội An cũng hân hạnh được đón một số, phần đông là công chức hoặc tiểu thương. Vì thiếu chỗ nên các đình miếu được trưng dụng làm nơi cư ngụ cho đồng bào. Miếu Quảng An đón một gia đình, sau nầy tôi biết tên là ông Dần vì ông có sạp hàng ở chợ Hội An. Người Bắc di cư đa số là công giáo, họ chẳng sợ ma quỉ bao giờ. Ma quỉ thấy thánh giá là bỏ chạy cả. Ấy vậy mà miếu Quảng An đã làm cho gia đình ông Dần một phen sợ hãi.

Nghe đồn rằng vào lúc gần khuya, đèn thắp sáng, mọi người còn thức, riêng ông Dần mới thiu thiu thì đứa con kêu thét lên, bà vợ cũng kêu thét lên khi thấy một cái đầu từ trên nóc miếu, chỗ có cửa sổ nhỏ, thò xuống, cái cổ cứ dài mãi ra. Cái đầu đen thùi, mắt trắng dã, miệng đỏ lói, nhe nanh như muốn cắn người ta. Khi ông Dần tỉnh ngủ thì chẳng thấy gì nhưng bà vợ cả quyết thấy rất rõ. Theo lời khuyên của mọi người, ông Dần nhờ một số bạn, buổi tối đến thổi kèn tây tò te cho đến khuya. Ma quỉ nghe kèn tây sẽ bỏ đi hết. Tôi cùng một số bạn tối nào cũng đến xem thổi kèn. Thấy đèn điện sáng trưng nên không còn sợ nữa. Ngày rằm mồng một vẫn thấy ông Ba Râu vào thắp nhang. Ít lâu sau, hình như ông Dần mua đứt cái miếu nên cửa nẻo được lắp vào, sơn phết lại rất khang trang. từ đó không thấy cúng kiếng gì nữa.

Chuyện người bác tôi tức ông thầy Thọt bảo rằng sẽ ra Đà Nẵng mua nhà chỉ xảy ra sau khi chuyện ma xuất hiện nhác gia đình ông Dần ít lâu thôi. Tôi không tin chuyện ông ta bắt được vàng. Trước đó có một lần, lúc gần khuya, trời lâm râm mưa, tôi đi coi hát về, thấy một người từ sau miếu đi ra. Tuy chỉ thoáng thấy dáng đi nhưng tôi biết ngay là ông bác tôi. Sáng hôm sau, tôi nói ngay “Khi hôm con thấy bác sau miếu Quảng An”. Bác bảo “Mầy đừng nói ai, tao rình bắt mấy con cua vàng. Có người ở trong miếu, nó động ổ nên bò ra kiếm ăn sau miếu”.

Thế rồi ít lâu sau bác mua nhà ngoài Đà Nẵng. Nhà gần chợ Cồn, buôn bán rất khá giả. Sau nầy lớn lên, có lần ra Đà Nẵng thi tú tài, tôi có trọ nhà bác mấy bữa. Bác vẫn tử tế như trước. Ngày thi xong bác đãi tôi một bữa tiệc nhỏ “Tao biết mầy thi là đậu nên tao đãi mầy trước” Nhân lúc ngà ngà hơi rượu tôi hỏi bác “Chuyện con rùa vàng có thật không bác?” Bác cười cười bảo “Mầy đã thấy rồi còn hỏi” “Nhưng con có thấy gì đâu?” “Cứ coi như thấy rồi đi, hỏi làm chi” Tôi biết bác không muốn nói, nhưng vẫn thắc mắc, không biết chuyện con cua vàng có thật không?

Đậu tú tài xong, tôi vào Sài Gòn học tiếp, rồi thành công chức, rồi sập tiệm, tôi đi tù. Khi có vụ HO đi Mỹ, tôi ghé thăm bác, ông thầy Thọt ngày trước. Mấy mươi năm, bác đã già lắm rồi. Tóc bạc, răng rụng nhưng vẫn còn vẻ tinh anh. Các con bác đã lập gia đình, chỉ có cô gái út còn sống với vợ chồng bác. Tối đó hai bác cháu ngồi lai rai, chuyện trò đến khuya. Khi bàn đến chuyện có số phận hay không, bác bảo “Ai cũng tin rằng con người đều có số phận thì chẳng chịu cố gắng, chẳng chịu làm lụng, rốt cuộc chỉ đi ăn mày”. Tôi cãi “Giày dép còn có số. Như bác chẳng làm gì cả, chỉ đi rình sau miếu Quảng An mấy lần là bắt được con cua vàng. Nhiều người cũng rình như bác mà đâu có gì. Đúng là bác có số trời cho làm giàu”. “Trời nào mà cho. Tao phải đem mưu kế, đem cái mạng tao ra...”.

Biết là bác sắp nói ra điều bí mật nên tôi nói khích “Gì mà mưu kế dữ vậy. Chịu khó rình một lúc. Bữa con thấy bác sau miếu... Cũng giống như con đi chơi khuya về thôi, có điều đừng sợ ma như bác mới được”. “Tao mà sợ ma à? Người ta sợ tao thì có. Chuyện ma hiện trong miếu để nhác vợ con ông Dần là tao, chứ ma nào”. “Bác làm ma à? Sao bác lại chổng ngược người ngoài cửa sổ được, lại còn kéo cái cổ dài ra?”. “Tao nằm trên nóc miếu thò đầu xuống. Còn chuyện cái cổ dài ra là vì chúng sợ quá tưởng vậy thôi”. “Nhưng bác leo lên nóc miếu làm gì? Thò đầu vô miếu làm gì?” Bác cười tỉnh khô, để lộ mấy cái răng còn sót, đen thùi. “Tao rình để ăn trộm chứ leo lên làm chi”.

Tôi năn nỉ “Bác kể thật con nghe, từ đầu đến cuối. Con nghi đúng mà. Làm gì có chuyện con cua vàng”. Bác làm một hơi rượu, khà một tiếng, rồi rung đùi coi bộ khoái trá lắm “Chuyện nầy chỉ vợ tao biết, bây giờ đến mầy là hết. Mấy đứa con tao mà biết, chúng sẽ khinh tao mà không nghĩ rằng tao đi ăn trộm chỉ vì chúng mà thôi”. “Nhưng trước giờ bác có làm nghề đó đâu. Bác lúc nào cũng làm ăn lương thiện. Mà sao bác chỉ rình có nhà ông Dần để ăn trộm mà không rình nhà khác?”.

“Bữa gia đình ông Dần mới dọn đến, tao đứng bán kẹo trước miếu Quảng An. Lúc đó bọn học trò đi học về, đứng xem cũng đông. Trong lúc bán, tao bỗng nghe trong miếu tiếng trẻ con khóc, thì ra bà Dần đánh đứa con nhỏ. Nó đang chơi với một mớ toàn vàng. Nhẫn, xuyến, dây chuyền, cà rá, hột xoàn... đứng xa mà tao thấy chói cả mắt. Tao bỗng nảy ra ý định ăn trộm vì thấy họ để của bừa bãi như thế ắt dễ tìm ra. Tao rình mấy đêm, thấy khó ăn quá, nhất là sau vụ vợ con ông ta thấy tao tưởng ma, nhưng ông Dần không tin. Mấy hôm sau tao thấy ông treo khẩu súng lục chỗ cột nhà, có lẽ mượn của ai đó để cảnh cáo tên trộm”. “Coi bộ khó ăn, lại nguy hiểm nữa. Mất mạng như chơi”. Tôi nói thế để bác thầy thọt của tôi hứng chí, nói tiếp. Mà tôi thấy cũng nguy hiểm thật. Bác cười khoái trá “Mầy thấy con người hơn nhau ở cái đầu...

Tao định trộm luôn khẩu súng nhưng làm thế khác gì chọc ổ kiến lửa là cảnh sát. Tao chỉ tìm lấy gói vàng mà thôi”. “Nhưng sau đó ông Dần vẫn có tiền mở sạp áo quần ở chợ Hội An?”. “Người chạy loạn nào cũng khôn mới sống được. Họ chia của. Vợ một ít, con một ít, rủi có tản lạc thì cũng còn cái để mà sống. Tao biết nên chỉ tìm thấy một gói đủ rồi. Chẳng phải nhân đạo, nhưng lấy hết bắt buộc họ phải thưa cảnh sát để tìm cho ra. Mất chút đỉnh thì họ làm thinh luôn”. “Nhưng người ta cảnh giác như thế, bác làm sao mà lục lọi được?”. “Đó, tao đã nói, dùng cái đầu trước, chân tay mới cục cựa sau”. “Bác nói hết luôn đi. Cứ lòng vòng!”.

“Mầy biết ông Ba Râu không? Ông đó chuyên thắp nhang ngoài miếu Quảng An. Tao chờ lúc ông ta đi vắng đến nhà tráo một mớ mê hồn hương vào bó nhang. Hít một chút là ngủ say như chết. Ngày rằm, mồng một ông ta đem nhang ra thắp ngoài miếu, thế là tao vào miếu lục soạn, cả nhà ông Dần đã bị mê hồn hương thì có khiêng mà vất ngoài đường cũng không hay”. “Nhưng mê hồn hương ở đâu bác có?”. “Cái nầy thì tao đã thề bán mạng không cho ai biết”. “Bác cứ nói đại khái thôi, đâu cần phải nêu tên”.

“Ừ, đó là ông thầy của tao. Ông ta là tổ sư ăn trộm. Lúc đó ông ta đã già nhưng giàu lắm. Ngay ở Hội An mình. Có nói tên mầy cũng không tin. Ông ta có bổn phận là ngày giỗ tổ phải cúng tổ bằng của ăn trộm. Ông ta già quá mà không có đồ đệ nên bảo tao đi ăn cắp giùm ông ta một vật gì đó để cúng tổ. Lúc đó tao nói rõ ý định ăn trộm nhà ông Dần, ông ta chỉ ngồi xích lô đi ngang trước miếu Quảng An có một lần là bày mưu cho tao làm vố đó. Dĩ nhiên muốn có mê hồn hương tao phải lạy ông ta làm sư phụ, lạy tổ xin vào nghề. Trộm vụ đó tao cúng tổ chiếc nhẫn vàng. Nhưng đó là vụ đầu tiên và cũng là vụ cuối cùng của tao”.

Tôi định bảo “Mưu kế là ở sư phụ bác, vậy mà bác kể như bác tài lắm vậy”. Nhưng tôi chỉ hỏi “Sau nầy bác có đến thăm sư phụ của bác không?”. “Có chứ! Tao đâu quên ơn thầy. thỉnh thoảng tao về Hội An ghé thăm. Ông ta giàu quá, đâu cần mình giúp, chỉ cần ngồi nghe ông ta tâm tình là ông ta vui rồi. Ông ta kể, học nghề từ lúc còn nhỏ. Nghề nầy còn bí mật gấp mấy lần Thiên Địa Hội, kỷ luật thì chỉ có sống hoặc chết thôi. Hể sư phụ ra lệnh là đồng nghiệp giết ngay”.

“Bác có đồng nghiệp không?” “Bây giờ ăn cắp vặt thì được, ai dám lọ mọ rình rập trong bóng tối, cảnh sát hay lính thấy được có mà ăn đạn. Mầy thấy cái trang thờ đàng kia là bàn thờ tổ. Ông thầy tao trước khi chết, truyền bài vị tổ sư cho tao vì không còn ai nối nghiệp”. “Như vậy sư phụ phải truyền cho bác các bí quyết ăn trộm chứ?”. “Dĩ nhiên. Ông thầy chỉ tao cách nghiên cứu địa hình địa vật, tính tình, thói quen những người trong gia đình mà mình sắp hành nghề, cách đào tường khoét vách, cách trừ chó, cách tẩu tán của ăn trộm, cách khai báo nếu rủi bị bắt, cách chịu đòn sao cho không bị đánh vào chỗ nhược...”.

“Có truyền cho bác cách làm mê hồn hương không?”. “Có chứ, cái nầy mới là bí truyền...”. Tôi nói đùa “Bác nhận con làm đồ đệ rồi truyền cách chế mê hồn hương đi”. “Tướng mầy mà trộm đạo gì được”. “Ủa, bộ ăn trộm cũng phải có tướng sao?”. “Thì phải có tướng ăn trộm mới nhận làm đồ đệ. Đâu có dễ mầy!” “Chắc sư phụ cũng truyền nghề xem tướng ăn trộm cho bác. Bác nói thử tướng ăn trộm ra sao?”. “Dễ quá! Mầy thấy có nhiều người đến nhà ai, cửa chính không vào mà cứ vào cửa hông hoặc hay dòm vô cửa sổ nhà người ta, khi nói chuyện thì mắt láo liêng nhìn khắp nơi mà không nhìn thẳng vào người đối diện...Tao không nói họ là ăn trộm, nhưng có khiếu ăn trộm, truyền nghề được. Chắc ăn nhất là mấy đứa nhỏ hay ăn cắp vặt, chúng có máu ăn trộm bẩm sinh trong người”.

“Còn mê hồn hương? Bác có biết làm không? Bác nói đại khái nghe cho vui thôi, đâu cần chi tiết”. “Ừ! Mầy biết mấy người đánh cá biển, thỉnh thoảng có người bị con rắn biển mà họ gọi là con “đẻn” cắn, cứ mê man, không biết gì hết. Không có thuốc chữa. Ngủ hoài rồi chết luôn. Nếu biết cách thì xúm nhau cứ phèn la, chuông, mõ gõ liên tục, lại phải banh mắt, la hét vào tai, gọi tên người bị nạn, hỏi chuyện... đừng cho ngủ. Phải la to “Không được ngủ, không được ngủ, ngủ là chết!”. Cố sao cho được một ngày, một đêm, nọc độc tan là sống. Bắt được con “đẻn” loại đó, đem về phơi cho thật khô, sao vàng, tán nhuyễn thành bột rồi làm như người ta làm nhang vậy. Tức là cũng chẻ tre thành cọng nhang, nhúng hồ rồi lăn trên bột “đẻn”, phơi cho thật khô, thế thôi. Khi muốn “hun” nhà ai, cứ đốt lên, nhè cửa sổ mà quạt vào...”.

“Bác có làm thử chưa?” “Tao có làm rồi nhưng không hiệu quả. Có lẽ không đúng loại “đẻn” mình cần. Ông thầy tao có cho bức tranh vẻ con “đẻn” đó, nó không giống thứ người ta đem bán cho tao, nhất là mấy cái khoanh màu trên mình nó. Nó dẹp lép như lá lúa. Tao hỏi dân biển, vài người bảo có thấy nhưng hiếm lắm, độc lắm, không ai dám động đến. Nghe nói nước miếng của nó thôi, dính chỗ nào trên người là chỗ đó lở ra thành từng vạt như người bị phỏng nặng vậy. Không có thuốc chữa...”

Tôi nghĩ rằng, ông bác họ tôi đã không nói thật. Tôi nhìn quanh, thấy căn nhà tuy không lớn nhưng ở địa thế buôn bán như thế nầy thì chỉ một vụ trộm đó thôi, làm gì mua nổi. Ông muốn giấu thật kĩ chuyện làm ăn không lương thiện nầy, nhưng giữ mãi trong bụng, ấm ức, chịu không được. Nay thấy tôi cũng có thể tin tưởng, vả lại tôi sắp đi Mỹ rồi, nên thổ lộ chút ít cho hả cái thú vị, khoái trá bấy lâu nay. Thử nghĩ coi, đang nghèo khó, nhà tranh vách lá, mưa dột tứ tung, cái ăn không đủ, bỗng nhiên mua nhà mặt tiền, mở tiệm...

Người trúng số phải la lên thật to, cười cho sướng, vênh mặt lên trời cho bỏ ghét cuộc đời...Nhưng ông bác tôi thì chịu, không thể làm như thế! Chả lẽ lại kêu lên “Tôi ăn trộm nên mới được như thế nầy!”?


Phạm Thành Châu

Hansy
06-08-2014, 07:02 PM
3

CHÚNG TÔI LÀ CHÓ

Trương Thái Du

1.
Dĩ nhiên bạn không phải là chó. Tôi xin lặp lại: “Tôi là chó!”. Từ “chó” nhạy cảm với bạn ư? “Chó” thì xấu sao?

Lạ cho loài người ngây thơ, chẳng hiểu tự bao giờ đã thành kiến “chó – chó má” với bao điều không ra gì. Nếu các bạn sạch sẽ vệ sinh, lấy đâu ra đồ dơ ngoài môi trường quanh các bạn để chó ăn, làm ai đó ghê người?

Chó có ích lắm chứ. Nào giữ nhà phòng trộm, bầu bạn trải lòng khi cần, thỉnh thoảng nịnh nọt liếm chân dụi tay, và đặc biệt biết nghe lời chủ. Tôi không bảo tôi nói riêng và loài chó nói chung rất trung thành với người đâu nhé. Các bạn tự huyễn đó thôi. Chưa khi nào chó bỏ chủ nghèo theo chủ giàu. Đơn giản, chúng tôi ít ảo tưởng và biết chấp nhận thực tại, gắng vươn lên từ thực tại. Chúng tôi không giống nhiều nhóm người vọng ngoại, luôn cả nghĩ chiếc áo của thiên hạ chắc mẩm đẹp hơn áo mình. Nực cười là họ còn quả quyết ngày mai của họ, trong chiếc áo xa lạ kia tất sẽ sáng sủa hơn hôm nay và hôm qua.

Tôi trưởng thành trong nhà em trai ông chủ. Ruột thịt họ chung dãy nhà trong khu qui hoạch “ngã ba chuồng chó”, cách nhau dăm cái hộp xi măng cốt thép lồi ra thụt vào. Ngày nọ ông anh đến bảo:

- “Mày nhường bớt tao con vàng. Đận này đám trộm chó hoành hành quá. Tao không sợ mất chó, chỉ sợ nó giả trộm chó để điều nghiên nhập nha.”

- “Sợ nó không quyến anh lại mò về đây. Chiều em bắt cho anh con chó nhỏ bên nhà bà già vợ.”

- “Đến lúc đó hẵng tính” – Người anh đắt tôi về luôn.

Chủ mới rất ân cần và chiều chuộng tôi. Cơm ngon, chỗ ngủ cao ráo sạch sẽ, dắt đi tè đi ị đúng lúc. Ba bảy hai mốt ngày đầu ông giữ rịt tôi trong sân, không cho chạy lăng quăng thăm em mực bên nhà cũ.

Tháng sau, chưa kịp dùng bữa trưa ông chủ mở cửa húyt sáo gọi tôi theo. Cậu em trai đang lui cui trộn canh thừa cho nàng mực, mau mắn mở cổng đón anh, rồi thơm thảo chia bớt khẩu phần kia cho tôi. Tôi chỉ ngửi qua rồi đến bên em mực hít hà.

- “Con chó này thế mà tệ, đã quên chủ nghèo rồi” – Người em nói.

- “Tính trung thành của chó thực ra là thói quen, là phản xạ có điều kiện. Nếu mặt bằng sinh sống cả vật chất lẫn tinh thần của người chủ mới nhỉnh hơn người chủ cũ, không bao giờ nó quay gót. Đừng choàng áo nhân tính lên lưng chó.

Ông chủ tôi nói đúng. Chơi với em mực tí xíu, bụng tôi đã sôi. Mặc anh em họ luận bàn triết học của lòng người thế kỉ 21, tôi bỏ về tìm tô cơm có thịt mà chị giúp việc luôn đúng giờ dọn ra bên ngạch cửa.

2.
Ông chủ nằm ghế mây đọc báo, chị giúp việc lại gần.
- “Kéo rèm kìa, bọn trưởng giả quanh đây thính tai hơn chó. Chúng nó mà chọc thối thì nhục quá cẩu” – Ông chủ nhắc.

- “Xóm mình dạo này lộn xộn quá” – Chị nàng thỏ thẻ - “Hôm qua tay nhiếp ảnh gia toan bóp cổ mụ bán sơn nước vì mụ dẫn chó tè vào bụi hoa nhài. Lúc sáng mợ nẩu hay khoe giàu tắm chó nước tóe loe cả ngõ, chàng thi sĩ hoa râm lại chửi té tát”.

- “Rách việc, nhúng cái mũi đen như than của cô vào đám lông xà mâu đầy bọ chét xung quanh làm gì. Bóp xuống vai đi, đêm qua kê cao gối cuốn theo mạch truyện Tôtem sói, ngủ lúc nào không hay. Cơ cổ hơi bị đau rồi” – Ông chủ ra lệnh cho chị giúp việc.

- “Sao hồi khuya “bả” lớn tiếng với ông vậy”? “Cứ gần chó đi rồi chó liếm mặt” là ngụ í gì”?

- “Mặc nó sủa, hơi đâu để bụng”.

Nghe họ nói chuyện tôi ù cả tai, bèn giả vờ ư ử xin đi ngoài. Chị giúp việc mau mắn mở cửa. May quá, cuối xóm ả me berger đang định bắt nạt em mực của tôi. Tôi nhảy vào cắn cảnh cáo ả mấy nhát đau điếng. Ả ăng ẳng chạy. Em mực mừng hết lớn:

- “Sao anh không cho nó quị luôn?”

- “Nó đã tởn đến già” – Tôi vênh mặt anh hùng rồi lí sự – “Đừng bắt chước sự dã man của con người”.

Bạn đọc ngạc nhiên chăng? Số là thế này, cách nay nửa năm mợ nẩu “khoe của” động thổ xây dựng căn nhà phố. Mợ tự hào trưng khắp xóm bản vẽ Tây – Tàu – Ta giao duyên, đặc biệt là ban thờ Phật tổ và gia tiên trên sân thượng có mái ngói nửa đình chùa nửa lăng tẩm rất “tâm linh”. Ngặt nỗi, hàng xóm mợ là cậu mắt xanh mũi lõ đang ở thuê, sống già nhân ngãi non vợ chồng với một cô da vàng. Theo luật Tây, chàng mũi lõ yêu cầu công trường làm đúng giờ hành chánh, tuyệt đối không giây bẩn đường nội bộ, hạn chế thấp nhất tiếng ồn, thứ bảy và chủ nhật phải trả lại sự yên tĩnh vốn có.

Khó thật, chén cơm manh áo của hơn chục người thợ bị ảnh hưởng. Tuần làm năm buổi bao tử sẽ lép. Vậy là họ rình rình làm trộm. Chàng Tây to như bò mộng, chắc thuộc hàng anh chị ở “bển”, không nhân nhượng. Y vác xẻng qua nói chuyện phải quấy, rút điện máy trộn bêton, đập bể máng vữa. Đoàn người áo vải cúp đuôi chạy trối chết.
Bên thầu gọi nhà chức trách can thiệp nhưng thủ tục hình sự có yếu tố nước ngoài khá rườm rà khiến họ hoang mang. Nhá nhem tối, thợ nề chơi du kích kiểu “đánh chó trong bị”. “Mãnh hổ nan địch quần hồ cắn lén”. Họ không thèm cảnh cáo như tôi lúc nãy. Họ say máu nện lưu manh Tây thừa sống thiếu chết, phải bán xới, bỏ lại mấy chiếc nanh trắng như răng chó ngao luộc.

3.
Tôi vẫn thường được ông bà chủ cho ngồi dưới sàn xe Jeep lên thăm trang trại của họ bên kia sông Đồng Nai. Bà chủ khó tính, thuộc dạng người vừa đi đường vừa chửi thầm thiên hạ, chửi nắng, chửi khói, chửi bụi, chửi hệ thống giao thông bất cập… Bà gọi ổ gà trên đường là “ổ chó”, gọi đám thanh niên nhuộm tóc lạng lách là “chó dái chạy rông”, gọi những người không tuân thủ luật đường bộ là nòi khố rách áo ôm coi mạng mình như “mạng chó”, gọi những chiếc xe xắn lủi vô tổ chức qua mũi xe bà là “mèo đàng chó điếm”. Nói chung bà xem đống người ngợm nhung nhúc quanh bà là quần thể “người dại quanh năm”, khác hẳn với chúng tôi là thứ “dại có mùa”. Ông chủ ít nói, lâu lâu chỉ đế một câu: “Sủa ma lắm vào, ma chó nhập!”.

Trang trại của ông bà chủ nằm giữa một vùng quê yên bình. Tôi hỏi bạn vện gần đó:
- “Ở đây thích nhỉ, con người chắc không xem nhau như chó”.

- “Còn khướt” – Y ranh mãnh – “Tấc đất tấc vàng hết rồi, anh em, làng xóm chí chóe suốt ngày. Chẳng nói đâu xa, dạo ông chủ bạn xây rào trang trại cũng nổ ra cuộc khẩu chiến nảy lửa. Vốn ranh hai thửa đất là bờ tầm vông. “Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”, bên này nhất quyết bảo đất của mình từ mép bụi tầm vông bên kia tính qua. Tre già măng mọc mấy năm, chủ bạn bị măng lấn đôi trăm thước vuông, căm lắm nhưng bảo đành thí cho khuyển”.

- “Không kiện được à?”

- “Chó ăn vụng bột” nhưng họ hàng ba đời người ta ở đây. Ra công đường yêu cầu chủ tịch xã bỏ tù ông nội hắn ư?

Tôi chẳng biết nói gì, đành thả hồn vào mây trời cây cỏ. Vện buồn miệng gợi chuyện:
- “Bạn dân thành phố ăn sung mặc sướng, lên xe xuống ngựa. Chẳng bù cho xứ này chó ăn đá gà ăn sỏi”.

- “Sướng gì, tôi còn khổ hơn nhà văn An Nam. Suốt ngày con người lôi mình ra chửi. Cái ông Nguyễn Vỹ vốn có câu thơ “Nhà văn An Nam khổ như chó” cũng chẳng thể hiểu thời thế bây giờ đã thành “Chó khổ như nhà văn An Nam”.

- “Đâu cũng rứa cả, chán như con dế chó” – Vện hài hước – “Lần sau bạn về chắc tôi đã chầu âm phủ. Đốm đầu để nuôi, đốm đuôi thì thịt mà”.

Thay vì an ủi vện mấy câu sáo rỗng và lãng nhách, tôi hích vai bạn vào vườn bạch đàn cho khuây khỏa. Lá mục khô giòn dưới chân. Hương đồng gió nội hiền hòa ru chúng tôi vào giấc mộng trưa thanh vắng.

Tỉnh lại thì vện và tôi đã nằm trong bao bố của bọn trộm chó. Sau đó là cuộc ngã giá giữa chúng và tay lái chó.

- “Hai con này bé, hai trăm”.
- “Hẻo vậy anh hai. Có phải chó ghẻ đâu”.
- “Ghẻ hay không thì cũng vào mồm thiên hạ tuốt. Hôm nay chó đã ngáp phải ruồi rồi”.

4.
Âm hồn của bạn vện và tôi còn quyến luyến với nhau, đến một bàn nhậu gần chợ Thị Nghè, dù thể xác đã bị băm vằm trong bát xáo măng dầy váng mỡ. Cồn công nghiệp pha nước màu ngâm chuối hột bốc mùi rất xốc. Bốn năm trự đang bàn chuyện thời cuộc. Tay bụng phệ mũi cà chua da mặt bóng nhẫy gân cổ đưa đẩy:

- “Hình như lão chính trị gia người Anh Lord Palmerston từng nói: “Không có cừu địch mãi mãi cũng như bằng hữu vĩnh cửu, chỉ có quyền lợi muôn đời mà thôi”.

- “Thì đấy, chó tính nằm ở đấy chứ đâu”.
- “Bè bạn muôn năm! Nào trăm phần trăm!”.

Không hẹn nhưng gần như vện và tôi cùng gào lên: “Chó tính thì sao? Chúng tôi là chó. Đừng ngộ nhận chó tính là phi nhân tính”. Bàn nhậu giật mình. Gió âm phủ thổi thốc miếng bạt nhựa che nắng mưa ngoài hiên quán. Trước khi dắt nhau đến kiếp sau, chúng tôi vẫn kịp để lại trên đùi non những tên “xực cẩu” vài vết bầm mang hình hàm răng ma chó.


Trương Thái Du
Triệu Viên Các,
Vĩnh Thanh – Nhơn Trạch – Đồng Nai
09.2007

Hansy
08-08-2014, 09:41 PM
4

Chuyện Thằng Bé Tỵ Nạn Bất Đắc Dĩ

ThaiNC

Tùng khẽ nhếch vai để cái túi đi học đeo sau lưng trở lại tư thế gọn gàng. Nó ngoái cổ ra sau kiểm tra lần cuối cẩn thận, và đẩy cửa, giữ vẻ thản nhiên bước vô nhà.
Nó kinh ngạc khi thấy "Dad" John của nó đăm chiêu đi qua đi lại trong phòng khách. "Ủa, sao hôm nay ổng về sớm vậy cà?" Tùng nghĩ thầm. Thấy Tùng đi vào, ông mừng rỡ chạy lại ôm nó.

-Ồ, con đã về! Con đi đâu làm ta lo quá!
-Con đi học về, Dad!
Đang hoan hỉ, ông John bỗng xịu xuống, trở nên nghiêm khắc. Ông buông Tùng ra, đứng lên lạnh lùng:
-Con nói dối. Hôm nay nhà trường điện thoại cho "Mom" nói con không đi học khiến ta phải bỏ làm về kiếm con cả ngày nay.
Thằng Tùng sợ đến rụng rời tay chân. Trời ơi, vậy là lộ tẩy rồi! Nó mới nghỉ học có một ngày, đã gọi về nhà? Cái trường chi quái ác. nó vẫn cố chống chế:
-Con đi học thiệt mà Dad.
-Đừng dối ta, đó là một thói xấu. Hãy cho ta biết chuyện gì xảy ra, và con đã làm gì vì ta đã gọi cảnh sát, tí nữa ta và mom phải báo cáo với họ.

Nghe hai chữ "cảnh sát", Tùng càng hoảng. Câu chuyện không nhỏ như nó nghĩ. Hồi còn ở quê nhà, thỉnh thoảng nó cũng trốn học mấy lần đi tắm sông với tụi bạn, có ai hay đâu. Qua đây mới lần đầu tiên đã bị bắt tại trận. Tùng cảm thấy vừa lo vừa ngượng ngùng vì lỡ nói dối bố mẹ nuôi nó. Nó đỏ mặt ngượng nghịu cúi đầu, không dám nhìn ông John.
Giữa lúc Tùng chưa biết trả lời như thế nào thì cánh cửa bật mở. Bà Linda, "Mom" của nó hớt hải đi vào, nói không ra hơi:
-Kiếm khắp nơi mà vẫn không...

Bà ta ngưng lại khi thấy Tùng đứng đó. Bà trợn xòe mắt như không tin ở chính mình, kêu lên, "Lạy chúa tôi!", quên hết cơn mệt chạy lại ôm choàng Tùng.
-Con đi đâu cả ngày?
Vừa nói, bà Linda vừa nhìn thằng bé từ đầu đến chân xem nó có bị xây xát trầy trụa chỗ nào không. Thái độ đầy quan tâm của "mom" làm Tùng thêm bối rối, cúi gầm mặt. Sau khi xem xét và thấy Tùng vẫn lành lặn, bà Linda yên tâm nắm tay nó kéo vào bếp.
-Tội nghiệp con tôi, chắc nó đói rồi, vào đây mẹ lấy pizza cho ăn.

Nhưng ông John đã cản lại:
-Khoan đã, tí nữa rồi ăn. Tùng phải nói chuyện gì khiến con nghỉ học không xin phép hôm nay. Lát nữa cảnh sát sẽ lại đây đó.
-Ông sao gấp quá, để cho con ăn xong rồi hỏi cũng được mà.
-Bà thương nó quá không được. Nên nhớ nó mới qua và chưa rành luật lệ. Tôi phải biết nó đã làm gì để trả lời với họ chứ.

Nghe ông John nói, bà Linda không biết làm sao hơn, cúi xuống dỗ Tùng:
-Cũng được. Tùng nói cho mom biết tại sao con không tới trường hôm nay đi. Nếu con chỉ đi chơi mà không làm gì bậy, mom sẽ tha. Lần sau đừng như vậy nữa.
-Con, con...
Thằng Tùng ấp úng, nó biết nói sao bây giờ? Đã đành nó trốn học và nói dối là hai lỗi lớn. Nhưng nào phải nó đi chơi hay làm gì bậy đâu.
-Con đi... shopping.
-Shopping ư? Con mua gì ở đó? Hai ông bà ngạc nhiên.

Tùng tháo cái túi đi học trên lưng xuống. Lúc này, ông bà John và Linda mới chú ý đến cái túi gồ ghề hơn mọi ngày trên lưng thằng bé. Nó cẩn thận lấy ra một gói giấy: cái xe lửa chạy bằng pin.
Ông John thảng thốt:
-Con lớn rồi sao còn chơi cái đồ này?
-Tiền đâu con mua nó? Bà Linda tiếp.
-Con đi bỏ báo mua cái này cho em con ở Việt Nam.

Thằng Tùng bỗng bật khóc. Nó như được cởi mở tấm lòng.
Hai ông bà John và Linda nhìn nhau. Họ linh cảm đứa con nuôi trước mặt đang mang một tâm sự chồng chất mà nó giấu kín. Nguyên nhân sự nghỉ học của nó hôm nay có lẽ bắt nguồn từ đó...

Tâm sự của thằng Tùng: Nó là một thuyền nhân bất đắc dĩ.

Nói ra thì có vẻ hi hữu, nhưng trên đời có nhiều chuyện xảy ra một cách kỳ cục không ai có thể liệu định được. Và một trong những cái “ kỳ cục” đó đã xảy ra với Tùng hơn một năm trước đây, khi nó vẫn còn mang giỏ mía ghim lang thang trên bến đò Kiên Lương mỗi buổi chiều kiếm thêm chút tiền giúp đỡ gia đình.

Đúng ra nhà thằng Tùng cũng không nghèo lắm. Trước ngày giải phóng, ba nó là Trung Úy Pháo binh đóng ở Cà Mau, má nó làm cô giáo tiẻu học. Nhưng tai họa đã giáng xuống gia đình Tùng sau ngày 30/4 năm đó. Ba nó phải đi học tập cải tạo. Tưởng chỉ có 10 ngày là xong, ai ngờ đến 6 năm sau, khi Tùng rời quê nhà vẫn chưa gặp lại ba. Má nó bị cho nghỉ dạy vì là "vợ sĩ quan Ngụy". Gia đình Tùng khốn đốn từ đó. Đã mất việc, lại thêm phải nuôi ba nó trong tù, má Tùng phải tất tả làm đủ mọi việc để nuôi bốn miệng ăn. Ban ngày bà ra chợ trời, buôn đi bán lại, tối về bà phải nhận may vá thêm cho anh em Tùng đủ điều kiện cắp sách đến trường.

Cuộc sống mỗi ngày mỗi khó khăn. Tính, em nó, còn nhỏ chưa biết gì nhiều, nhưng Tùng đã lớn, dù nó chỉ học lớp Sáu. Sự nghèo khổ và nhọc nhằn đã khiến Tùng khôn trước tuổi để thấy những sợi tóc bạc ngày càng rậm trên nét mặt khắc khổ của má. Những lần bà phải đôn đáo vay mượn trong mỗi dịp gửi đồ tiếp tế cho ba nó trong tù...đã đẩy Tùng ra ngoài xã hội.

Mỗi chiều sau khi đi học về, Tùng đi bán mía ở bến đò Kiên Lương. Nó vô vườn mua rẻ mấy cụm mía về lóc vỏ, và chặt thành từng khúc nhỏ khoảng bằng đốt ngón tay. Xong rồi nó đi kiếm tre, gọt thành những cây nhỏ, mỗi đầu cây tẻ thành sáu nhánh nhỏ khác, vót nhọn, và gắn mía vào, vậy là thành một ghim. Mía ghim.

Nó không bán ở chợ vì ở đó đã có nhiều thằng nhỏ khác bán. Ra nghề sau nên Tùng phải chịu khó lặn lội ra tận bến đò. Tại đây cũng tấp nập không kém chi ở chợ, nhất là vào buổi chiều. Ghe thuyền là một trong những phương tiện giao thông chính của xứ Rạch Giá đầy mương rạch này. Khách hàng của Tùng phần đông là mấy bác xích lô, hay xe ba gác, hoặc những người từ thôn xóm chung quanh khi tan chợ trở về. Ngồi trên ghe gió chiều hiu hiu, có ghim mía nhai đỡ buồn miệng, khỏi phải lóc vỏ, bỏ cùi, mà giá lại rẻ mạt: có 50 xu. Nhai xong nhổ bã xuống rạch là xong, thật tiện.

Công việc làm ăn của Tùng tiến hành suông sẻ. Mỗi ngày nó kiếm được ít tiền đưa cho má để dành mua quà nuôi ba nó. Cuộc đời bán mía ghim của Tùng không biết sẽ kéo dài bao lâu, nếu một ngày nọ...

Hôm đó Tùng ế hàng. Bán từ chiều đến gần tối mịt rồi mà rổ mía vẫn còn vơi nửa. Điệu này hôm nay nó huề vốn là may. Đáng lẽ Tùng về nhà, nhưng nó vẫn ráng kiên nhẫn ở lại. Biết đâu còn nhiều người về bến đò trễ cũng nên. Đang thơ thẩn tìm khách, nó nghe gọi:

-Mía.
Tùng mừng húm thấy một thanh niên từ chiếc ghe lớn nãy giờ đậu im lìm dưới chân cầu đi ra.
-Mía bao nhiêu một xâu?
-Dạ 50 xu.
-Mày còn mấy xâu?
-Để coi. 1,2,3... 32 xâu.
-Tao mua hết, vị chi là 16 đồng phải không?

Đang mừng nghe nói được mua hết, Tùng khựng lại khi thấy anh thanh niên đưa tờ 100 còn mới toanh. Tiền đâu mà thối? Nãy giờ nó mới bán được có hai mươi mấy đồng, thêm mười đồng tiền lẻ má nó đưa để thối lại, cộng chung cũng chưa đến bốn chục. Tùng lúng túng:
-Anh có tiền lẻ cho em xin, em không có đủ tiền thối.

Hơi ngần ngừ một chút, anh thanh niên nói:
-Thôi cho mày luôn đó nhỏ.
Tùng tưởng mình nghe lầm, nó trợn mắt nhìn anh thanh niên, ông khách rộng lượng nhất trong cuộc đời bán mía mà nó đã gặp. Bỗng nhiên nó nhận thấy cái anh này sao lạ quá, nhứt định không phải là dân ở đây. Nhất là ảnh ốm và trắng, không giống dân bản xứ ở đây ai cũng nở nang và đen sạm. Nó chợt nghĩ đến những tin đồn mà nó đã nghe, không dằn được, buột miệng hỏi:
-Có phải anh ở Sài gòn xuống đây vượt biên không?

Người thanh niên tái mặt, anh quăng hết mấy xâu mía xuống sông và chụp lấy thằng Tùng, bụm miệng nó lại. Diễn biến xảy ra quá đột ngột nên Tùng không kịp phản ứng, chống cự một cách vô vọng, và bị người thanh niên vác xuống thuyền.

Tùng cố vùng vẫy thật kịch liệt, chân nó đạp tùm lum làm văng luôn một chiếc dép xuống sông. "Trời ơi, cha này định làm gì đây? Vượt biên thì cứ vượt biên. Tui có đi báo công an đâu mà bắt tui?" Nhưng nó chỉ ú ớ không thành lời.

Đem Tùng xuống khoang tàu và đóng cửa lại, người thanh niên cầm một cây sắt dí trước mặt Tùng, "ngồi im, làm ồn tao đập chết thả xuống sông". Tùng hoảng sợ thôi vùng vẫy. Thanh niên đè nó xuống sàn, và thả tay ra. Bây giờ Tùng mới hơi hoàn hồn chút đỉnh và đưa mắt nhìn quanh. Trời đất ơi! Cái khoang thuyền bé xíu mà đầy những người là người, già trẻ lớn bé, đàn ông lẫn đàn bà, hầu hết đều lạ hoắc từ đâu tới.

Một người đàn bà ngồi gần cất giọng hỏi:
-Thằng nhỏ nào vậy? Sao tự nhiên bắt nó?
Hùng, người thanh nhiên phân trần:
-Tui định mua ít mía mang theo, ai ngờ thằng này biết mình sắp "đi" nên phải đem nó xuống đây đó chứ, lỡ nó đi la tùm lum là bể hết, tù rã đám.

Tùng mếu máo:
-Em đâu biết gì đâu, thả em về đi anh ơi, hu hu!
Đám người vượt biên ngơ ngác nhìn nhau. Hùng lại lên tiếng:
-Mày không biết thực không?
-Thiệt mà, cho em về đi.

Anh Hùng quay sang nói với mấy người trong ghe:
-Coi bộ thằng này chỉ tình cờ thôi, nhưng vì an toàn, khi nào mình khởi hành mới thả nó ra được.
-Hu hu! Em về trễ má em đi kiếm.
Một người đàn bà khác lại dỗ nó:
-Thôi em chịu khó ngồi đây chút xíu, tí nữa anh Hùng cho em về nhà...Đây chị cho em một trăm mang về cho má.

Bà nhét vào túi áo nó tờ giấy bạc. Nếu ngày thường, có lẽ Tùng đã la lên su
ng sướng, bữa nay nó phát tài rồi. Nhưng không hiểu sao nó chỉ cảm thấy lo lắng, linh cảm điều gì bất thường.
Điều bất thường đã đến. Đang im lặng bỗng có tiếng gấp rút gõ cửa.
-Ai đó? Hùng hỏi.
-Tui, Tư đây Hùng, mở cửa mau.

Một người đàn ông ló đầu vào thở hổn hển:
-Lộ rồi, đám kia bị bắt hết và tụi du kích sắp đến đây đó, nhổ neo dông liền đi.
Cả khoang thuyền rúng động nghe tin dữ. Từng khuôn mặt hốt hoảng. "Chết cha, làm sao bây giờ?". "Lên bờ trốn". "Khổ thân tôi"... Mỗi người một câu, không ai còn nhớ đến Tùng đang ngồi một góc. Nó cũng lo lắng không kém. Lỡ tụi du kích tới đây thấy nó cùng đám vượt biên này thì mười cái miệng nói cũng không xuôi. Nó mà đi tù thì chỉ khổ cho má nó.

Anh Hùng hồi nãy cũng la lên:
-Bà con bình tĩnh. Bây giờ ai mà lên bờ là bị chôp liền. Đằng nào ghe cũng chuẩn bị rồi, ta đi luôn.
Vài tiếng hô lên đồng ý.
-Anh Hùng nói đúng, mình đi luôn may ra kịp.
-Một liều ba bảy cũng liều.
-Nhưng thằng em tui chưa tới mà?
-Thân ông lo chưa xong, còn lo ai? Muốn đi tù chung cho vui hả?
-...
-Vậy thì mình đi, Hùng lên tiếng. Ai lên phụ tôi kéo cái neo sau, còn anh Tư chuẩn bị lái.

Mọi người đã đồng lòng, chia nhau công việc để ghe có thể rời bến.
Lúc này thằng Tùng muốn trốn lên cũng không ai buồn để ý. Nhưng, có lẽ số phận đã an bài, cái số của nó phải sống xa gia đình nên Tùng cứ nằm yên run rẩy, nó cũng sợ đám du kích sắp đến như mấy người trên ghe. Tùng cảm thấy vừa mệt vừa đói, đầu óc choáng váng. Nó cảm thấy cái ghe chuyển động, tiếng lâm râm cầu nguyện của những người đàn bà trong khoang...và thiếp đi lúc nào không biết.

Thế là chiều hôm đó, trên chuyến tàu vượt biên vội vàng đã mang theo một hành khách không mong đợi: thằng bán mía ghim ở bến đò Kiên Lương.
Tàu đi được bốn ngày thì được tàu Mỹ vớt đưa vào bờ Mã Lai, và đến Pulau Bidong sau đó. Mọi người trên đảo ai nghe câu chuyện của Tùng cũng đều gật gù cho là...số mệnh, không ai có thể vượt biển một cách kỳ cục như thằng Tùng.

Hôm đó sau khi tỉnh dậy, nó cảm thấy khát đến khô cả cổ, bèn mò dậy kiếm nước uống. Anh Hùng thấy nó trước tiên trên boong.
-Cha chả, thằng bán mía, sao mày còn ở đây?
-Cho em miếng nước.
Hùng đưa cho nó ly nước. Uống xong, Tùng bắt đầu tỉnh trí và nhớ lại mọi việc.
-Trời ơi, mấy anh cho em về nhà chớ đi đâu đây?

Nó hốt hoảng nhìn chung quanh. Trời đã tối lắm rồi, có lẽ tàu chạy xuôi xẻ cũng được mấy tiếng và đang tiến dần ra cửa biển.Bốn bề chỉ thấy nước mênh mông. Xa xa một vài ánh đèn chập chờn từ những tàu đánh cá hay một trạm gác nào đó, leo lét. Thỉnh thoảng lại thấy vài cụm sậy thấp thoáng trong bóng đêm dày đặc.

Ba bốn người từ dưới khoang đi lên, họ cũng chợt nhớ ra thằng Tùng. Một bà ái ngại hỏi anh Tư lái tàu:
-Mình đi xa chưa? Hay là tấp lại chỗ nào cho thằng nhỏ lên rồi đi tiếp?
-Trời đất, bộ giỡn sao chớ? Tối um vầy biết đâu mà vô. Rồi lại tụi du kích nghe tiếng ra túm hết cả tàu thì bà tính sao đây?
-Nhưng mà cũng phải cho thằng nhỏ về nhà chứ.
Tùng thút thít năn nỉ:
-Không sao đâu chú ơi, chú cho tàu chạy vào gần bờ rồi cháu nhảy xuống bơi vô được mà.

-Nói thiệt với mày nghe nhỏ, không phải tao ác hay là gì hết. Nhưng mày là dân ở đây thì cũng biết, đằng kia toàn là rừng sậy không hà, mày bơi chưa tới là đã lún sình ngủm củ tẻo rồi. Mà tao cho ghe vô gần hơn thì cũng lún luôn, chết cả đám. Thôi mày đi theo tụi tao luôn đi. Được đi Mỹ "chùa" không tốn một cắc mà còn than gì nữa? Tao sợ má mày hay tin mày đi rồi bả còn mừng nữa à.

Thằng Tùng thất vọng nhìn chung quanh. Nó biết chú Tư nói thiệt. Nó bơi như rái cũng khó qua nổi mấy vũng lầy trước khi vào đất liền. Tùng ngồi xuống ôm mặt tấm tức, tự xỉ vả mình ham tiền ở lại trễ tại bến đò làm chi cho bị... tai bay vạ gió như vầy...
Vậy mà trong ghe, Tùng lại được đi định cư sớm nhất. Nó ở đâu có 3,4 tháng thì được hội nhà thờ bảo lãnh sang làm con nuôi của ông bà John và Linda, một cặp vợ chồng Mỹ không con cái.

Mấy tuần đầu ở đảo, Tùng nhớ nhà, nhớ ba má, nhớ thằng Tính em nó và khóc hoài. Nó giận tất cả mọi người trong ghe đã ép uổng nó đi theo.

Chuyến ghe nó đi thật thuận buồm xuôi gió, không hải tặc, không đói khát. Mấy người lớn tuổi nói trong ghe có "quí nhân" đi theo nên được tai qua nạn khỏi. Và họ bảo nhau quí nhân đó chính là thằng Tùng. Đâu có ai vượt biên một cách bất ngờ như nó đâu. Hồi đó hải tặc lộng hành, ít có ghe tị nạn nào thoát khỏi, vậy mà ghe nó đi êm ru. Vì vậy ai cũng thương và tử tế với nó, họ chia nhau an ủi và nuôi nấng Tùng trong suốt thời gian ở trại vì nó không có ai thân nhân ở nước ngoài cả.

Đêm trước khi Tùng lên đường, mọi người mở tiệc tiễn "quí nhân". Mỗi người một lời khuyên nhủ làm Tùng cảm động quên hết giận hờn. họ nói riết, Tùng cũng tin là tại số phận của nó phải như vậy. Đây là ý của Trời Phật muốn giúp nó ra nước ngoài ăn học để một mai thành tài giúp đỡ cha mẹ lúc tuổi già. Cuộc sống bon chen lúc còn bán mía ở bến đò Kiên Lương và biến cố vừa qua đã làm cho trí óc Tùng tiến một bước dài.
Trước khi từ giã, anh Hùng, người đã bắt nó xuống tàu hôm nọ nắm tay nó xem bói. Anh vỗ tay xuống bàn, la lên:

-Trời ơi, bà con coi bàn tay thằng này nè. Cái đường xuất ngoại của nó dài và rõ như vầy thì đúng là số của nó phải đi du học rồi. Nói thiệt, nếu hôm dó tui không nắm cổ nó kéo xuống ghe thì cũng có người khác làm mờ.
°°°
Bốn tháng sau khi đến Mỹ, Tùng nhận được lá thư đầu tiên của má nó từ Việt nam gởi sang. Còn gì mừng hơn được nhìn lại nét chữ của người mẹ thân thương từ quê nhà. Nó ngấu nghiến đọc đến thuộc lòng cả lá thư mà vẫn cứ đọc. Lại có cả thư của thằng Tính nữa chứ, em nó viết: "Em là Tính em của anh nè anh Tùng, anh còn nhớ em hôn? “ Tùng đang khóc cũng suýt bật cười đọc dòng chữ ngây thơ trên. "...Ba có viết thơ về nói bị đau bao tử mà má không có tiền mua thuốc. Em muốn đi bán mía như anh nhưng má không cho, má sợ em cũng bị bắt đi Mỹ luôn má ở nhà một mình buồn. Anh ráng đi làm như anh con Hà rồi gởi thuốc về cho ba nghe. Mà anh cũng nhớ mua cho em cái xe lửa điện như của con Hà vậy nghe, em ở nhà một mình buồn quá. Nhớ nhe anh Tùng..."

Dòng chữ ngây thơ của em nó làm Tùng khắc khoải. Ba nó đang bệnh trong tù, mà thuốc Tây ở chợ trời thì Tùng dư biết là mắc lắm, làm sao mua nổi? Chưa kể má nó thiệt thà có khi còn mua nhầm thuốc giả nữa. Còn cái xe lửa điện. Tùng nhớ hồi ở Rạch giá mỗi lần nhìn chị em con Hà gần nhà chơi cái xe lửa điện của anh tụi nó từ ngoại quốc gởi về mà mơ ước cũng có một cái, nhất là thằng Tính, mê cái xe lửa kinh khủng. Tùng chìu em, vác cuốc đi đào đủ một lon sữa bò đầy giun để con Hà cho gà ăn thì nó mới cho chơi chung. Đến bây giờ em nó vẫn còn mơ ước cái xe lửa.

Tùng muốn xin tiền bố mẹ nuôi để nó mua đồ, nhưng lại không dám. Ông bà John và Linda thương nó như con ruột, chăm lo cho nó ăn học đầy đủ, nên nó không muốn xin thêm điều gì làm phiền ông bà. Tùng quyết định đi làm để tự mình kiếm tiền. Mà làm gì bây giờ nhỉ? Bán mía như ở Việt Nam ư? Mỹ họ đâu có ăn mía ghim. Mía họ đóng hộp để lạnh, khi nào ăn thì khui ra là xong. Tùng đâu thấy thằng Mỹ con nào bán mía ngoài đường.

May sao thằng Tâm bạn chung lớp chỉ nó gia nhập làng bán báo. Gì chứ bán báo ở Mỹ dễ ợt, người ta đặt mua hàng tháng, bọn nó chỉ đem bỏ từng nhà là xong. Và Tùng đi bỏ báo.

Hôm qua mới được lãnh lương nên sáng nay nó và thằng Tâm rủ nhau nghỉ học để mua đồ. Đã lỡ giấu bố mẹ nuôi từ đầu nên Tùng phải nhờ thằng Tâm chỉ dẫn. Thằng này qua đây đã lâu mà lại thường theo anh chị nó sắm đồ nên rất rành đường xá. Đầu tiên, hai thằng đến tiệm thuốc tây Việt Nam có bán loại thùng thuốc đóng sẵn. Tùng nhờ người bán hàng chỉ loại thùng có thuốc trị bao tử để gởi về. Xong xuôi cả hai lại đáp xe bus tới mấy tiệm bán đồ chơi để Tùng tìm mua cái xe lửa điện cho em nó. Lang thang mãi rồi Tùng cũng kiếm được cái vừa ý, và nhất là hợp với túi tiền nhỏ nhoi của nó.
Có điều thằng Tùng chưa rõ là nhà trường Mỹ không giống như ở Việt Nam. Trước kia nó có trốn học đi coi đá banh, hay tắm sông với bạn bè mấy ngày cũng không ai để ý. Nhưng ở Mỹ, con nít thường được chú ý, cho nên khi cô giáo buổi sáng thấy Tùng vắng mặt không xin phép đã gọi điện thoại về nhà. Câu chuyện đổ bể...

Ông John và bà Linda im lặng nhìn nhau. Họ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Đứa con nuôi của họ chỉ mười mấy tuổi đầu đã trải qua bao lận đận, và cuộc đời của nó thật hi hữu. Đây hẳn là ý Chúa. Chúa đã mang thằng nhỏ đầy tình nghĩa trong trái tim son trẻ kia về đặt trong sự thương yêu của hai người để giúp nó được lớn lên trong một xã hội tự do, bác ái, và để cho nó có cơ hội giúp đỡ cha mẹ nó tận bên kia Thái Bình Dương.

Bà Linda ôm Tùng trong lòng, bà cũng khóc tự hồi nào.
-Ôi, con yêu dấu của mẹ. Cha mẹ không trách con nữa. Con thật là một đứa con ngoan.


°°°

Lúc bà nội Tùng còn sống, nó thường nghe bà kể chuyện ông lão ăn mày nghèo khổ, một đêm trong miếu cổ nằm mộng thấy mình trở thành quan Tể tướng, giàu sang quyền quí, sống cuộc đời cực kỳ hạnh phúc. Giật mình tỉnh dậy trời chưa sáng, tất cả đều hết, ông lại là kẻ ăn mày nghèo khó giữa đêm tối âm u...

Tùng mong mình cũng như lão ăn mày nọ. Tất cả chỉ là một giấc mơ. Nó ước ao một sáng thức dậy, thấy mình vẫn còn nằm trên chiếc giường tre ở quê nhà, nghe tiếng gà gáy, tiếng lục đục của má nó sửa soạn ra chợ. Thấy chân thằng Tính gác trên bụng và hơi thở phì phò trên má... Cho đến khi cảm giác êm ái của chiếc giường nệm và cái lạnh cuối năm của xứ người đưa nó về thực tại. Có những đêm Tùng nằm mơ thấy mình trở về Rạch Giá, lang thang trên bến đò với rổ mía, gặp lại ba má, bạn bè, để rồi tỉnh dậy trong tiếc nuối ngẩn ngơ.

Đêm nay Tùng lại nằm mơ thấy mình về Việt Nam. Giấc mơ kỳ lạ. Nó thấy "Dad" John lái xe chở nó và "Mom" Linda chạy trên xa lộ Mỹ, vậy mà khi ổng quẹo vào exit là đã tới...Rạch Giá môt cách ngon lành. Tùng vào nhà gặp má nó, thằng Tính, và điều mừng rỡ nhất là có cả ba nó nữa. Ông hết ở tù rồi. Tùng khệ nệ khiêng thùng quà mà nó dành dụm từ mấy tháng nay vào cho má nó. Nào vải, nào thuốc... và dĩ nhiên có cả cái xe lửa điện cho thằng Tính nữa. Rồi trong khi má nó và "Mom" làm cá rô kho tiêu trong bếp, "Dad" John và ba nó ngồi nhậu thật tương đắc. Ngoài sân, thằng Tính lui cui chơi cái xe lửa, thỉnh thoảng khoái chí cười nắc nẻ.

Tùng cảm thấy mình thật hạnh phúc. Nó đã có ba má, rồi lại có cả "Dad" và "Mom" nữa, tất cả đều yêu thương nó. Ô hay, ai nói Việt Nam và Mỹ xa lắm cả một đại dương chứ với Tùng, nó thấy thật gần gũi, nhất là trong những giấc mơ như vầy.


ThaiNC

Hansy
09-08-2014, 08:00 PM
5

HỎI hay NGÃ

Bích Vân

Những ai trong chúng ta hiện đang đi trên đại lộ me mé bên cạnh hoàng hôn của cuộc đời, tức là gần cuối con đường số 5, nghĩa là đã sống hơn ½ cái kiếp người, chắc thế nào cũng còn nhớ kỷ niệm lần đầu tiên khăn gói lều chõng lên đường ứng thí kỳ thi mở màn cho sự nghiệp đèn sách của mình. Tôi muốn nhắc đến kỳ thi Tiểu Học, kỳ thi mà chúng ta thường gọi là “Ri-Me” (để tỏ ra là chúng ta cũng biết nói tiếng Tây, tuy chỉ là thứ tiếng Tây thuộc loại :

Tiếng Tây tôi để trong mo,
đến khi Tây hỏi, tôi mò không ra

Trong kỳ thi này có một bài Chính tả mà có người còn gọi là Ám tả, có lẽ vì bài viết này quá u ám đối với các sĩ tử tí hon như chúng ta thời đó chăng? Bài chính tả được chấm 10 điểm, nếu chúng ta không viết sai lỗi nào. Và cứ mỗi lỗi là bị trừ mất một điểm. Các lỗi HỎI và NGÃ vì không quan trọng nên chỉ bị trừ ½ điểm.

Tôi là dân Huế chính gốc 100% tức là dân Huế “chay”, Huế rất chi là Huế, Huế từ đầu đến chân, Huế từ trong ra ngoài nên phát âm các chữ có dấu HỎI-NGÃ rất tùy tiện, phóng túng, hoàn toàn không giống người dân ở miền Bắc của Cố Đô Thăng Long, mặc dù Huế của chúng tôi cũng là Cố Đô Ngàn Năm Văn Vật. Do đó dân Huế chúng tôi sợ nhất là những chữ có dấu HỎI-NGÃ lúc viết bài thi chính tả, dù đã học thật kỹ cuốn sách viết về luật HỎI, NGÃ của Thầy Lê Hiếu Kính.

Tôi thường nghĩ thầm là : HỎI hay NGÃ thì cũng “mắm sốt”. Đọc lên dù phát âm đúng hay sai, người dân Việt Nam vẫn hiểu được như thường, vậy thì hơi đâu mà phải bận tâm ...

Ví dụ như:
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi

Dù ta có viết chữ “hỡi” với dấu HỎI thì ai mà lại chẳng biết chữ “hởi” có nghĩa là “ơi” là “ới” là “này”. Thế thì chữ “hỡi” viết đúng hay sai cũng không có gì là quan trọng. Chẳng lẽ viết đúng thì có tính cách thân mật hơn, lịch sự hơn, âu yếm hơn, dễ thương hơn là viết sai hay sao? Cũng như chữ “đổ”, nếu có viết sai với dấu NGÃ thì cũng không ai lại nghĩ lầm là hạt «đậu» được.

Luận điệu này của tôi đã bị người yêu của tôi chê sát ván và bảo tôi là gàn bướng quá thể (?). Nàng răn đe, phụng phiụ :

- «Cái kho tàng chữ nghĩa tuyệt vời của tiếng Việt sẽ bị những người ngoan cố như anh làm thui chột mất thôi. Viết mà đúng thì thứ nhất, chẳng ai bắt bẻ gì được mình. Nêú không á hả, có khi lại còn bị người ta cười là mình dốt nữa đâý. Thứ nhì, mỗi chữ có cái nghĩa riêng của nó, xập xí xập ngâù thế nào được. Này nhé, em BỎ công ra (dâú HỎI đây nhé) lý luận, dẫn giải lung tung như thế này, mệt lử cò bợ chứ có phải đùa đâu, thế mà anh chẳng chịu hiểu cho, vẫn cứ khăng khăng cho là mình có lý. Thật là chả BÕ cái công (dâú NGÃ đây nhé) em nói ra rả bâý lâu. Vậy thì ... em BỎ anh (hứ!!). Anh í à, chẳng BÕ để .. em .. để em .. gì nhỉ ..? Đâý, anh thâý chưa, anh đã thâý tiếng Việt của mình phong phú, biến hóa tài tình như thế nào chưa? Thế mà anh nỡ lòng nào nói cùng một giọng, viết cùng một kiểu, thế thì hỏng bét !!! Giời ơi là giời !! Anh gàn lắm !! Anh cãi châỳ cãi cối !! Anh...bướng !! ...v..v... «.

Các bạn có biết những cái v(ân) v(ân) chấm chấm đó, hồi mới quen Nàng, tôi đã nhặt không kịp, tôi đã hẩy đi không kịp sau những lá thư tỏ tình với Nàng không?

Người tôi yêu là dân Bắc Kỳ rau muống, các bạn ạ, chính hiệu con nai vàng. Nàng rất chi ly khi viết tiếng Việt Nam, cũng chi ly như lúc ăn bún riêu nấu với cua đồng, mà dân Huế chúng tôi gọi là con «rạm». Cọng rau muống dù nhỏ bé đến đâu cũng bị Nàng chẻ ra làm tư. Vì thế mỗi lần viết thư cho Nàng, tôi phải dùng từ điển Việt-Pháp của cụ Đào đăng Vỹ để tra cứu các dấu HỎI-NGÃ, mà nếu có ai nhìn thấy tôi dùng từ điển Việt Pháp để viết thư chắc lại nghĩ là tôi đang viết thư cho một cô đầm nào đó, và chắc là phải phục tài ngoại ngữ của tôi ghê lắm. Kể ra thì đó cũng là một cái lợi khi bị hiểu lầm như thế. Nhưng lại là một nỗi khổ cho riêng tôi. Đã qua được kỳ thi “Ri-Me” đầu đời rồi mà vẫn phải học lại cách viết chính tả với dấu HỎI-NGÃ nhiêu khê phiền toái. Muốn tránh nỗi khổ này, tôi thường tránh né dùng những chữ có dấu HỎI-NGÃ và tìm những chữ đồng nghĩa thay thế vào.

Ví dụ, thay vì viết : «Anh nhớ Em kinh khủng» thì tôi viết «Anh nhớ Em ghê gớm».
Nàng có chê là tôi viết không văn chương chữ nghĩa thì tôi cũng đành chịu và Nàng cũng ráng chịu, cho bõ ghét cái thói chi ly ưa vạch lá tìm sâu, sửa chữa những lỗi lầm HỎI-NGÃ.

Thật ra thì tôi cũng phải cảm ơn Nàng, vì nhờ Nàng mà tôi biết viết đúng rất nhiều chữ có dấu HỎI-NGÃ (tuy là vẫn còn sai khá nhiều)... Nhưng nếu bây giờ mà cho tôi đi thi lại Ri-Me thì bài chính tả của tôi chắc chắn là xuýt nữa thì được 10 điểm, nhờ có người yêu là dân Bắc Kỳ đâý (biết rôi, khổ lắm, khoe mãi!). Lại nữa, nhờ chịu khó tìm kiếm những chữ đồng nghĩa không có dấu HỎI-NGÃ mà tôi đâm ra hoạt bát hẳn lên và rất giâù ngữ vựng.

Chẳng hạn như câu ca dao dẫn chứng trên kia tôi có thể viết như thế này:

Cô kia tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng quăng đi.

Hay là:

Này cô tát nước bên đàng
Răng cô múc ánh trăng vàng dzụt đi

Các bạn có thấy tôi biết dùng cả chữ Huế và chữ miền Nam không? Như thế này thì người yêu của tôi làm sao mà có thể chỉ trích tôi viết sai HỎI-NGÃ được nữa chứ, hử ?
Bây giờ nhé, các bạn thử xem tài biến chế của tôi để tránh dấu HỎI-NGÃ, khỏi phải sợ người yêu bắt bẻ. Thì đây, thay vì viết :

« Ngủ dậy nửa đêm, lặng lẽ, mò mẫm, mở tủ lạnh, kiếm hũ sữa bò, tìm một cái ly mủ, đổ vào lưng lửng ly, hỉ hả ngủm từng giọt nhỏ, không có gì khỏe bằng... « Các bạn có thấy cái câu này gồm không biết bao nhiêu là dấu HỎI-NGÃ làm điên đầu những người dân miền Trung và miền Nam không? Nếu không tin tôi, các bạn (tôi không thách đố dân Bắc kỳ như người yêu của tôi) thử viết mà không được dùng từ điển như tôi, xem thử các bạn viết đúng được bao nhiêu chữ. Nhưng đừng lo, dễ lắm! Hãy bắt chước tôi tránh né:

« Thức giấc lúc 12 giờ khuya, nhẹ nhàng, rờ mò cạy frigidaire, kiếm lon nước vắt từ vú con bò cái, tìm cái ly nhựa rót vào lưng chừng ly, cười một mình, uống từng ngụm in ít một, không có gì khoái chí bằng... «

Sao, các bạn có thâý tôi tránh né thần tình chưa? Đọc lên, nghe cũng xuôi tai lắm chứ bộ? Nhưng cũng chả xong với cái tính chi ly ưa bắt bẻ của người tôi yêu, các bạn ạ .
Mỗi chữ mà tôi viết sai, Nàng thâý liền tức khắc. «Nom ngứa mắt lắm!», Nàng nói rứa.
Thế là có ngay một màn giảng nghĩa a, dẫn chứng a, lôi các câu của những danh nhân kim cổ ra mà kể lể a, tranh luận a.... thôi thì đủ điêù, đủ kiểu. Nàng có cái esprit critique mà ly., tôi đã bảo. Mà không những thế, lại kiêm luôn cái esprit analytique nữa, giời ạ, thế thì có khổ cho cái thân tôi không cơ chứ !

Nàng thường thỏ thẻ (nguyên văn) :

- «Anh cứ thử tưởng tượng như thế này này, trước khi viết. Cứ thử tưởng tượng xem em sẽ nói cái chữ đó với cái giọng như thế nào, lên giọng hay xuống giọng, là anh biết sẽ phải viết với HỎI hay NGÃ ngay thôi. Ví dụ cụ thể đây nhé, cho mà thích mê tơi nhé, cho mà nhớ đời nhé, nghe đây này : anh cởi ..., xuống giọng (vì nằm xuống?) dâú HỎI, đã nhớ chưa? Và rồi thì ... em cỡi ..., lên giọng (vì leo lên?) dâú NGÃ, nhớ chưa nào? «

Gì chứ, ma bùn như tôi, cái ví dụ này là tôi khoái nhất, nhớ nhất, nhớ chết đi được, nhớ đời ! Giọng nói của Nàng, ôi sao mà nó ỏn thót đến thế không biết, du dương mê ly lắm cơ, nghe mà cứ chết lịm cả người đi mất thôi, đứ đừ đừ (Dạ Lan của đài Tiếng Nói Quân Đội ngày xưa mà lỡ có dại dột đòi so tài «rù rì, dú dí» với Nàng là thua bét tỹ ngay), thế thì bảo sao mà tôi không tăm tắp tuân theo lời dạy bảo của Nàng cho được ?

Và kỳ lạ chưa, sao dạo này tôi không thâý Nàng đả động gì tới hai cái dâú quái ác HỎI và NGÃ nữa thế nhỉ ??? Đã lâu lắm rồi nên tôi cũng quên mất cái cảm giác «ngẩn tò te» mỗi lần gửi thư cho Nàng xong, mong mong ngóng ngóng sốt cả ruột cú phone của Nàng, để chắc mẩm sẽ được nghe những lời lẽ cứ gọi là mềm nhũn ra vì vừa thấm đẫm những tình tự tôi trao. Nhưng không các bạn ạ, giời ạ, thay vào đó, tôi chỉ nghe những nào là :

- «Chết chửa, cái chữ «xxxx» này mỗi ngày nghe cả chục lần, nói cả trăm lần, đọc cả nghìn lần, thông thường như vậy mà anh cũng viết sai cho được thì ... phục anh thật cơ ! Lại còn chữ «yyyy» nữa, anh viết như thế này thì em hiểu thế nào bây giờ đây, hở giời ? Viết cái gì mà chữ nghĩa ý tứ lộn cứ tùng phèo hết cả, em chả hiểu gì sất !!! ...» Tôi ngẩn tò te là phải. Đực người ra là phải.

Nhưng may quá, đó là cái lúc ban đâù thôi, cái thuở ban đâù lưu luyến âý mà. Qua lâu rồi. Cái thuở mà tôi, vì ngẩn tò te nhiêù quá nên đâm ra tức khí, bèn lôi một lô mâý bộ từ điển (vẫn nằm mốc meo ở ngăn tít cao trên cùng của kệ sách) để tra tra cứu cứu mỗi khi gặp phải một chữ oái oăm nào đó. Nêú có tả oán cái nỗi khổ cực của tôi vì phải đánh vật với mâý quyển từ điển những lúc viết thư tình cho Nàng, chỉ nghe Nàng phì cười, khuyến khích :

- «Càng giỏi chứ sao. Người Việt mà không viết rành tiếng Việt, xâú hổ lắm, nhé «.
Có rất nhiêù lần, sau khi xem xong thư của tôi, Nàng gọi, chỉ để bảo:

-»Anh viết chữ «zzzz» này sai rồi nhé. Dâú HỎI (hay NGÃ) đâý, chứ không phải dâú NGÃ (hay HỎI) đâu. Nhé, anh nhé.»

Tôi cãi, hùng hồn cãi, vì chữ này thông thường quá mà, dễ ợt, nên tôi nhất định cho rằng tôi viết như thế là đúng rồi, đúng quá xá đúng rồi, phải là dâú NGÃ (hay HỎI) chứ, chắc chắn một triệu phần trăm. Nàng cười xòa, tự tin, rồi thách tôi tra hai cuốn từ điển khác nhau để kiểm chứng lại. Chục lần như một, chỉ vài phút sau, tiếng tôi dzọ dzẹ hẳn, âu yếm:

- Em là quyển từ điển vivant của anh. Anh viết nhầm thật. Phục thâỳ, «chịu» thâỳ..quá..a..á!

Tôi «thâý», bên kia đâù dây, Nàng cười tủm tỉm, mắt long lanh, sung sướng .... và hình như mát (lắm) cái ruột nữa thì phải ....

.... Gần đèn thì sáng, các bạn ạ. Nhờ quen với Nàng, nhờ sự chăn dắt của Nàng, tôi sắp có thể trở thành văn sĩ đến nơi. Một điêù tất nhiên thôi. Viết nhiêù, viết lắm như thế này, để ca tụng Nàng í mà, thì rồi một ngày đẹp trời nào đó cũng sẽ ... bất đắc dĩ trở thành văn sĩ nổi tiếng chứ chả chơi đâu, nhỉ ?

Thế đâý, cái mối tình văn chương chữ nghĩa của tôi với Nàng, kết chằng kết chịt bằng những dâú HỎI + NGÃ . Và rồi khó gỡ.

Nàng đã nhập hẳn vào tim, vào óc, vào ... người tôi. Nàng ám ảnh tôi cả ngày lẫn đêm.

Tôi đang dần dần biến thành Bắc kỳ giống Nàng. Chắc có lẽ giống y hệt rồi, giời ơi là giời, thế này thì có «sướng» cho cái thân tôi không cưa chứ !!!

Bà Già Trâù bắc kỳ nho nhỏ của tui ơi,

Rứa chừ em ở chỗ mô ?
Răng anh không thâý em mò vô meo ?
Nhớ em, héo úa eo xèo
Lỡ thương nên quyết đèo queo trọn đời

Tụi mình xa cách biển trời
Ngày mô cũng viết ít lời thăm nhau
Khi mô Trời khiến đụng đâù
Mời em xơi một miếng trâù cho vui

Bữa tê trời nắng ui ui
Nhớ em chi lạ, anh ngồi buồn xo
Thương nhau em cứ đắn đo
Bực mình em thiệt, em lo lo hoài

Nhiêù khi anh cũng muốn đoài
Hun em một miếng bên ngoài mà thôi
Giỡn chơi một tí đừng cười
Mà anh ốt dzột suốt đời em ơi !!!

Thương em, anh cứ câù Trời
Xin cho anh gặp được Người anh mê
Ngày dài tháng lụn lê thê
Biết chừng mô đó mình kề bên nhau

Mình ngồi hai đứa chụm đâù
Cầm lòng không đậu, hun đâù em thương ...


BÍCH VÂN
(để tặng những người khổ sở vì HỎI, NGÃ )

Hansy
09-08-2014, 08:46 PM
6

Chiếc điện thoại bị mất cấp

VanTienSinh

Có người nói "Tiền tài đã làm cho con người trở nên bé nhỏ..." có phải không?

Nơi Hiền ở gần với dãy nhà trọ chuyên cho người nghèo thuê. Khu này lúc nào cũng nhộn nhịp người đến thuê, chủ cũ vừa đi thì chủ mới lại đến. Mặc dù nhà trọ thì dơ dáy, bẩn thỉu, còn ở gần bờ kênh lúc nào cũng bốc lên mùi xú uế nồng nặc nhưng nhờ được cái giá rất mềm, cho nên hầu như lúc nào cũng kín phòng. Nơi đây tụ tập đủ các loại hạng người từ tứ xứ đổ về Thành phố lập nghiệp. Từ chị công nhân của xưởng may gần đó đến anh sinh viên của một trường Đại học, từ một bà gánh hàng rong cho tới một cô gái điếm mạt hạng...Tất cả đều hối hả hòa chung với nhịp sống hàng ngày, nhưng những khi mỗi chiều về hoặc vào những lúc rãnh rỗi, họ cũng đều nhiệt tình qua lại vui vẻ hỏi thăm lẫn nhau.

Vào một buổi chiều khi Hiền vừa mới đi làm về, có tiếng kêu cô vọng ra từ một phòng trọ. Hiền dừng xe nhìn vào thì thấy trong phòng lúc này đang có năm ba người đang túm tụm nói chuyện. Cô liền dựng xe ghé vào chơi. Phòng này là của một cô sinh viên mới về đây trọ. Cô có người yêu là một anh chàng làm quản lý cho một công ty lớn. Thỉnh thoảng anh này cũng hay ghé đây chơi và cũng có khi nghỉ đêm luôn tại phòng của cô này. Cô sinh viên đang khoe với mọi người về chiếc điện thoại, mà người yêu cô vừa mới tặng cho cô. Chiếc điện thoại mới liếc nhìn qua Hiền đã biết là thuộc loại đắt tiền. Cô sinh viên tươi cười nói với Hiền:

- Vào đây chơi đã chị. Hôm nay em nấu nồi chè "rửa" chiếc điện thoại, em mời chị ăn miếng chè rồi về.

Hiền cũng vui vẻ nhập bọn. Ngoài cô sinh viên và Hiền ra còn có ba người nữa. Một là bà gánh hàng rong chuyên bán xôi ăn sáng, một là cô gái điếm đã trang điểm chuẩn bị để đi làm và cuối cùng là anh sinh viên.

Mọi người chuyền tay nhau xem chiếc điện thoại, trầm trồ và xuýt xoa vẻ đẹp sang trọng của nó xong rồi trả lại cho chủ nhân. Một cách vô tình cô để chiếc điện thoại trên cái kệ gần cửa bước ra ngoài phòng, sau đó cô ra phía ngoài hè nơi nồi chè đang sôi thơm phức và múc chè vào từng chén. Sau khi đã ăn xong mọi người đều lần lượt ra về.

Hiền cũng về nhà. Cô đang thay đồ để chuẩn bị đi tắm, thì bỗng nghe tiếng lao xao ở phía phòng trọ. Cô tò mò vội chạy ra xem thì thấy mọi người bu quanh cô sinh viên đang khóc như mưa như gió. Hiền hỏi ra mới biết là chiếc điện thoại mới đó của cô đã không cánh mà bay. Hiền chột dạ vội nói:

- Số của em bao nhiêu để chị gọi thử.
Cô gái đọc nhanh số. Hiền lật đật chạy về lấy chiếc điện thoại của mình ra gọi. Điện thoại đã bị tắt nguồn.

Hiền đâm ra thật khó chịu, vì tự dưng vào ăn chén chè lại dính vào chuyện không đâu này. Mọi người đều đã có mặt đông đủ chỉ còn thiếu mỗi cô gái điếm đã đi làm. Hiền nhìn vẻ mặt mọi người, ai cũng xót xa dùm cho cô gái. Hiền nhớ lại, chiếc điện thoại sẽ rất dễ dàng cầm bỏ vào túi khi bước ra cửa, vì nó nằm trên kệ ngay gần sát cửa phòng. Người bước ra nếu có lòng tham muốn lấy thì có thể thuận tay cầm đi luôn nếu chủ nhà không để ý. Nhưng mà là ai vào đây mới được chứ, Hiền vội hỏi cô gái:
- Hồi nãy ai là người về sau cùng?
- Em. - Anh sinh viên nói ngay.

Hiền nhìn anh ta ánh mắt hơi nghi ngờ. Anh ta chợt như hiểu ý của Hiền nói nhanh:
- Em tuy nghèo thật nhưng chả thèm làm mấy chuyện đó đâu.
Hiền lúng túng khi ý nghĩ của mình bị người khác đọc ra. Hiền quay sang nói với cô gái:
- Em kiếm lại trong phòng thử xem, hay là em bỏ quên đâu đó.

Cô gái lắc đầu nói trong tiếng khóc:
- Em để ngay đó thôi mà, phòng bé tí xíu nhìn quanh là thấy liền.

Thật vậy, phòng chỉ có vài mét vuông đặt vừa đủ cái giường với cái bàn, nếu để đâu đó thì có thể nhìn thấy được ngay. Bà gánh hàng rong cũng lên tiếng:
- Thề có trời đất làm chứng, tôi mà lấy của cô ra đường cho xe cán tôi đi.

Cuối cùng chỉ còn cách là mời cảnh sát khu vực xuống giải quyết. Hiền cũng phải làm một bản tường trình, từ khi vào ăn chè cho đến lúc về nhà. Anh cảnh sát cũng đi quanh hỏi tới hỏi lui, cũng yêu cầu mọi người khác làm bản tường trình, riêng chỉ có cô gái điếm thì mãi đến ngày hôm sau anh cảnh sát mới gặp được.

Thời gian trôi nhanh, cuộc sống cũng lại trở về bình thường. Anh cảnh sát cũng chẳng phát hiện được gì thêm. Chuyện cô sinh viên mất điện thoại nhanh chóng dần đi vào quên lãng. Cô chẳng phải phiền não lâu vì cũng đã được người yêu cô tặng lại cho cái khác, chỉ có điều là lần này cô không "rửa" như lần trưóc.

Một bữa sơ ý Hiền làm rơi cái điện thoại vỡ mất cái vỏ ngoài. Trên đường đi làm thuận chân cô ghé qua một tiệm điện thoại để thay cái vỏ mới. Cô đang loay hoay thử cái vỏ thì phía sau lưng cô, nghe thấy một giọng nói quen quen:

- Chị xem dùm em cái điện thoại này, chị lấy được bao nhiêu?
- Cái này hả, nếu em bán thì chị lấy với giá... - Chị bán hàng trả lời.
- Cái này hàng xịn mới toanh mà chị, chưa có xài luôn đó. - Giọng nói đó cất lên.
- Thì hàng bán lại phải vậy mà, nếu em không bán thì thôi vậy. - Chị bán hàng nói.
- Thôi được, chị lấy đi. - Giọng nói đó lại vang lên vẻ tiếc rẻ.

Hiền chờ một lúc lâu mới quay lại nhìn bóng người đi ra. Trong lòng cô dâng lên một cảm giác khó tả. Chiều khi đi làm về ngang qua phòng cô sinh viên, thấy cô đang vui vẻ cầm điện thoại nói chuyện với người yêu. Hiền cười buồn, nhanh chóng dắt xe vô nhà...

Hansy
10-08-2014, 11:42 PM
7

Cái chết của vợ người phóng dao

Shiga Naoya
Người dịch: Đoàn Dự

Mọi người đều ngạc nhiên về việc nghệ sĩ xiếc trẻ tuổi người Nhật gốc Hoa tên Hán, chuyên biểu diễn phóng dao trên sân khấu, đã không may phóng trúng người vợ trong khi đang trình diễn, làm đứt động mạch cổ. Thiếu phụ trẻ đẹp gục xuống chết ngay tại chỗ. Lập tức Hán bị bắt.

Buổi trình diễn hôm ấy có sự hiện diện của ông giám đốc nhà hát; viên phụ tá vẫn làm việc chung với Hán, cũng người Nhật gốc Hoa; người xướng ngôn chương trình kiêm hoạt náo viên; một số nghệ sĩ trong hậu trường, và khoảng hơn ba trăm khán giả ngồi phía bên dưới. Cũng có một cảnh sát viên giữ gìn an ninh trật tự ở trong rạp. Mặc dầu đông đảo như vậy nhưng mọi người không hiểu Hán lỡ tay hay cố ý gây tai nạn.

Tiết mục biểu diễn của Hán thường như thế này: Người phụ nữ - vợ Hán - đứng trước tấm bảng gỗ hình chữ nhật, lưng dựa sát vào tấm bảng, mặt quay xuống phía khán giả. Hán đứng cách tấm bảng chừng bốn mét, lần lượt phóng những lưỡi dao lớn, nhọn và bén ngót về phía vợ, cắm sâu vào tấm bảng làm thành một vòng chung quanh và sát với thân hình nàng. Trước khi phóng mỗi mũi dao, chàng la lên một tiếng thật lớn để khán giả chú ý và làm tăng thêm cảm giác rùng rợn.

Cuộc thẩm vấn của ông Dự thẩm bắt đầu với viên giám đốc nhà hát.
- Ông nghĩ rằng biểu diễn phóng dao là một tiết mục rất khó?
- Không, thưa ngài Dự thẩm, nó không khó đối với một nghệ sĩ đã thạo nghề và giàu kinh nghiệm. Tuy nhiên, muốn biểu diễn được như thế, người ta phải có bộ óc thật vững và hết sức chú ý vào công việc.

- Tôi hiểu. Nhưng nếu nghĩ đây là chuyện rủi ro, nó phải là một việc rủi ro rất bất thường?
- Vâng, thưa ngài Dự thẩm, quả thật là rất bất thường. Bởi vì nếu nó không bất thường, luôn luôn xảy ra gây tai nạn chết người thì chắc chắn chúng tôi đã không cho phép biểu diễn tại rạp chúng tôi.

- Ông cho rằng đó là một tai nạn hay sự cố sát nhằm một mục đích nào đó?
- Thưa không, tôi không dám đề quyết như vậy. Theo tôi hiểu, với một khoảng cách gần bốn mét, nói chính xác ra là 3 mét 65 phân, người nghệ sĩ chẳng những phải có tài mà còn có trực giác nhạy bén. Tôi tin tưởng ở tài năng và trực giác của anh Hán nhưng cũng không loại trừ trường hợp lỡ tay gây tai nạn.

- Tôi muốn biết đây là trường hợp cố sát hay lỡ tay gây tai nạn?
- Thưa ngài Dự thẩm, điều đó quả thật ngoài sức phán đoán của tôi. Tôi không căn cứ vào đâu để kết luận được một việc quan trọng như vậy.

Ngài Dự thẩm khẽ thở dài:
- Thôi được, xin cám ơn ông giám đốc. Mời ông về nghỉ.
- Đa tạ ngài Dự thẩm.

Ông giám đốc cúi chào và đi ra. Còn lại một mình, ngài Dự thẩm rất khó nghĩ. Đây là trường hợp làm chết người nhưng cố sát hay tai nạn? Khó kết luận được. Nếu cố sát, kẻ sát nhân đã rất khôn khéo, biết cách che mắt cả công lý.

Tiếp theo, ông ra lệnh cho nhân viên cảnh sát tư pháp mời người phụ tá trình diễn vào. Theo hồ sơ, ông biết người này đã làm việc chung với Hán từ nhiều năm nay.
- Ông quen lâu với Hán, xin cho biết tư cách của anh ta thế nào?

- Rất mẫu mực, thưa ngài Dự thẩm. Anh ta không cờ bạc, rượu chè, nghĩa là không có các thói xấu thường tình. Ngoài ra, anh ta còn là một tín đồ Thiên chúa giáo ngoan đạo. Tôi thường thấy anh ta coi sách kinh Thánh và nghiên cứu những cuốn Phúc âm, đại loại như vậy. Lúc rảnh anh ta rất chịu khó học tiếng Anh.

- Còn vợ anh ta?
- Cũng rất nghiêm túc. Chắc ngài biết anh em nghệ sĩ quen sống nay đây mai đó như chúng tôi không phải là những người gương mẫu nhất. Chị Hán vừa trẻ vừa đẹp, lại được ái mộ, tất nhiên có nhiều người ve vãn nhưng chị ấy vẫn nghiêm trang, không để ý tới chuyện đó.

- Cách cư xử hàng ngày của họ đối với mọi người như thế nào?
- Rất lịch sự, không bao giờ làm phật lòng người khác. Tuy nhiên...
- Xin cứ nói tiếp!
- Tôi e rằng những chi tiết sau đây có thể bất lợi cho Hán, bạn tôi.

- Không, chúng ta chỉ muốn tìm ra sự thật. Tôi cũng như ông vậy thôi, có bổn phận tìm ra chân lý. Một người cầm cán cân công lý không có nghĩa là có ác cảm đối với người bị nghi ngờ. Làm như thế là sai. Cái lỗi muốn nhân danh pháp luật để khép tội người khác thì cũng nặng như tha lầm một kẻ có tội. Ông cũng như tôi, chúng ta làm theo lương tâm.

- Vâng, thưa ngài Dự thẩm, phải nói rằng giữa hai vợ chồng với nhau, họ quan hệ không được tốt đẹp. Nhiều khi tôi thấy họ gây lộn dữ dội, gần như thù hằn, căm ghét lẫn nhau.
- Tại sao vậy?
- Tôi không hiểu rõ nguyên nhân, thưa ngài.

Vị Dự thẩm nhíu mày suy nghĩ.
- Những cuộc gây lộn như vậy đã xảy ra từ lâu hay chỉ mới đây?
- Thưa từ lâu cũng có, mới đây cũng có. Cách đây khoảng chừng hai năm, chị Hán có thai, đứa trẻ sanh thiếu tháng, ba ngày sau thì chết. Từ đấy quan hệ vợ chồng của họ không được tốt đẹp. Họ thường hay gây lộn một cách khủng khiếp với những lý do hết sức lặt vặt. Những lúc như thế anh Hán có vẻ rất căm giận, mặt trắng bệch như tờ giấy. Rồi cứ đang cãi lộn tự nhiên anh ấy nín bặt, nhường nhịn không nói một tiếng nào nữa mặc dầu ánh mắt gần như tóe lửa. Một lần tâm sự với Hán, tôi hỏi tại sao đã căm ghét nhau như vậy hai người lại không ly dị? Anh Hán trả lời rằng tôn giáo của anh ấy không cho phép ly dị, hơn nữa cũng không có lý do chính đáng để xin ly dị.

- Thế còn chị Hán?
- Chị ấy là một phụ nữ rất đáng thương hại. Lấy chồng được ba năm nay, luôn luôn theo chồng đi trình diễn khắp nơi. Theo tôi hiểu, nếu ly dị chị Hán sẽ không biết sống vào đâu được nữa. Người theo đuổi thì nhiều nhưng không ai muốn hỏi cưới đàng hoàng một phụ nữ vừa mới ly dị và đã quen sống cuộc đời nghệ sĩ.

- Theo ông nhận xét, cái chết đó ra sao? Tai nạn hay cố ý?
- Thưa ngài Dự thẩm, việc đó tôi không dám chắc. Tôi nhìn theo cái nhìn chủ quan của tôi, có thể lầm lẫn. Tôi có nói chuyện với anh điều khiển chương trình thì chính anh ấy cũng không biết rõ.

- Tôi hiểu. Nhưng tôi muốn hỏi một điều như thế này: lúc ấy ông cũng có mặt ở đấy, ông đã nghĩ như thế nào ngay khi sự việc vừa xảy ra?
- Thưa ngài, ngay khi xảy ra sự việc, đầu óc tôi thoáng nghĩ - xin lỗi - tôi thoáng nghĩ: "Ồ, quả đúng như vậy, hắn đã ra tay giết nàng!"

- Nghĩa là ông nghĩ Hán đã mưu sát, có phải vậy không?
- Vâng, chính thế, nhưng anh bạn tôi lại nghĩ khác, anh ta cho rằng Hán lỡ tay gây tai nạn.

- Có thể do người bạn không biết rõ sự xích mích giữa hai vợ chồng Hán.
- Bởi vậy nên tôi nói rằng tôi có cái nhìn chủ quan, có thể sai lầm chứ không khách quan như cái nhìn của người bạn.

Ông Dự thẩm nhắm mắt, khe khẽ gật đầu tỏ ý hiểu.
- Vậy ngay sau khi xảy ra tai nạn, phản ứng của Hán thế nào?

- Anh ta kêu "Ối"! một tiếng thật lớn, tôi giật mình ngửng lên thì thấy lưỡi dao đã cắm phập bên cổ chị Hán sát với cuống họng. Máu phun có vòi. Một vài giây chị ấy còn đứng vững, cặp mắt thất thần. Sau, hai đầu gối chị ấy từ từ khuỵu xuống rồi thân hình ngã vật ra phía đằng trước, con dao văng xuống sàn. Tất cả chúng tôi đều như hóa đá, giương mắt trân trối nhìn người bị nạn. Tôi chợt hiểu đã có chuyện không hay xảy ra và đầu óc thoáng nghĩ: "Ồ, hắn đã; ra tay giết nàng!" Anh điều khiển chương trình nhanh trí cho hạ màn hay chính anh ấy hạ tôi cũng không biết nữa. Tôi liếc mắt nhìn Hán thì thấy mặt mũi anh ấy trắng bệch, hai mắt nhắm nghiền. Chúng tôi chạy tới nâng chị Hán dậy, chị ấy đã tắt thở. Anh Hán quỳ gục dưới chân chị Hán. Chúng tôi đem chị ấy đi, anh Hán vẫn quỳ như người cầu nguyện theo tính cách riêng của tôn giáo anh ấy.

- Chắc anh ta bị xúc động?
- Vâng, hết sức xúc động, thiểu não như người chết rồi.
- Tốt lắm. Nếu có gì cần tôi sẽ cho mời ông sau. Xin cám ơn ông.
- Vâng, không dám, xin cáo từ ngài Dự thẩm.

Người phụ tá ra xong, vị Dự thẩm quyết định cho gọi nhân vật chính.
Hán được hai nhân viên cảnh sát tư pháp dẫn vào. Nét mặt thông minh, sáng sủa của anh ta trông ủ rũ, xanh xao và rất kiệt quệ.
Vị Dự thẩm chỉ chiếc ghế trước mặt bảo anh ta ngồi. Hai viên cảnh sát đứng phía sau lưng bị cáo.

- Tôi đã hỏi những người khác, bây giờ tới lượt anh.
Hán cúi mặt, lễ phép nhưng nhanh nhẹn:
- Thưa vâng.
- Hãy cho tôi biết anh có yêu vợ anh không? Nên nhớ tất cả các lời khai của các bị cáo đều được Lục sự ghi vào biên bản.
- Vâng. Thưa từ lúc làm đám cưới đến khi sanh đứa con trai đầu lòng, tôi yêu vợ tôi còn hơn chính bản thân tôi nữa.

Vị Dự thẩm rất ngạc nhiên về câu trả lời khúc chiết của Hán. Nó chứng tỏ anh ta là một người có học.
- Tại sao sau khi sinh đứa con trai, quan hệ giữa hai người lại thay đổi?
- Thưa ngài Dự thẩm, bởi vì tôi biết chắc nó không phải là con của tôi.

Vị Dự thẩm nhíu mày:
- Vậy chắc anh biết rõ ai là cha nó?
- Vâng, rất rõ. Đó là người anh họ của vợ tôi.
- Anh quen biết với người này?
- Vâng, rất quen. Chính anh ta đã giới thiệu cho chúng tôi lấy nhau và luôn luôn thúc giục tôi cưới nàng.

- Nếu vậy, theo tôi hiểu, có lẽ họ đã liên hệ với nhau từ trước?
- Thưa vâng, chúng tôi lấy nhau được tám tháng thì vợ tôi sanh.
- Người ta nói vợ anh sanh non?
- Không, thưa ngài Dự thẩm, đó chính là điều tôi giải thích với mọi người. Tôi không muốn bạn bè biết rõ việc ô nhục trong gia đình tôi.

- Đứa trẻ chết rất gần sau khi sinh, có đúng vậy không?
- Thưa vâng.
- Chắc nó chết bệnh?
- Thưa không, do chính mẹ nó ấn vú vào mũi và vào miệng nó khiến nó chết ngạt.
- Tại sao nàng làm như vậy?
- Nàng giải thích với tôi đó là sự rủi ro, do nàng còn thiếu kinh nghiệm trong việc nuôi con.

Vị Dự thẩm nhíu mày suy nghĩ, cặp mắt theo dõi những biến chuyển trên nét mặt Hán. Trong khi đó dường như Hán không để ý, vẫn chờ đợi những câu hỏi tiếp.
- Vợ anh có thú nhận với anh về câu chuyện cũ hay không?
- Thưa không, nàng không thú nhận mà tôi cũng không muốn hỏi. Tôi tự an ủi rằng cái chết của đứa trẻ đã là một sự trừng phạt đối với nàng rồi. Bởi vậy tôi quyết định đối xử với nàng một cách bao dung. Thế nhưng ...

- Nhưng anh không thể tha thứ?
- Vâng, tôi không thể tha thứ bởi vì nàng vẫn tiếp tục lừa dối tôi. Hơn nữa tôi nghĩ rằng cái chết đó do nàng cố ý gây ra. Nó không phải là một sự trừng phạt khi nàng chủ mưu.
Tôi chán ghét nàng, căm hận nàng vì bị nàng lừa dối.
- Tại sao hai người không ly dị? Vì lý do tôn giáo?

- Thưa không, tôn giáo là linh hồn, cuộc sống là thể xác. Linh hồn và thể xác tôi bị đày đọa, tôi muốn xin ly dị nhưng nàng không chịu. Nàng nói nếu tôi bỏ nàng, nàng sẽ tự vẫn.
- Nàng còn yêu anh?
- Thưa không, tuyệt đối không, nàng không yêu tôi.
- Nếu vậy tại sao nàng không chấp nhận?

- Theo tôi hiểu, việc đó hoàn toàn tùy thuộc vấn đề kinh tế. Nàng mồ côi từ nhỏ, cả cha lẫn mẹ, gia sản còn lại đã bị người anh phá tán nên không còn nơi nương tựa. Nếu bị tôi bỏ, nàng sẽ không thể sống tự lập vì đã quen nhàn hạ, đôi chân quá nhỏ để đủ kiên nhẫn làm những công việc tầm thường.
- Xin lỗi, vợ chồng anh có hay liên hệ xác thịt với nhau không?

- Có, lúc mới lấy nhau. Còn sau này thị không bởi vì tôi biết nàng không yêu tôi, luôn luôn tỏ thái độ căm ghét và khinh bỉ tôi.
- Anh đã làm gì để nàng khinh bỉ?

- Thưa ngài, tôi là người chồng. Một phụ nữ khi đã yêu một người khác mà phải lấy một người khác, họ thường khinh bỉ dù người đó có lỗi hay không có lỗi. Cái khổ của cả hai chúng tôi là người nọ căm ghét người kia song vẫn phải chung sống với nhau, không thể làm khác hơn được.
- Đã có khi nào anh nghĩ tới chuyện giết nàng chưa?

Hán im lặng không trả lời khiến vị Dự thẩm phải hỏi tới lần thứ hai. Anh ta giật mình:
- Thưa có. Tôi thường mong cho nàng chết. Tôi tưởng tượng nếu nàng chết chắc chắn tôi sẽ sung sướng lắm, sẽ thoát khỏi cảnh đọa đầy.
- Mong cho nàng chết chưa phải là nghĩ đến giết. Có lẽ anh sợ pháp luật?

- Thưa không, tôi không nghĩ đến phương diện pháp luật. Gần hôm xảy ra sự việc, tôi bỗng nghĩ đến việc giết nàng.
- "Bỗng nghĩ" sau đó bỏ qua hay từ đó luôn luôn để ý tính toán kế hoạch?
- Thưa có lẽ tôi nghĩ đến nhưng không xếp đặt kế hoạch. Bởi vì tôi đã suy nghĩ rất lâu, gần trọn một ngày và một đêm.
- Chính xác là khi nào?

- Thưa, đêm hôm trước và cả ngày hôm sau, trước khi trình diễn.
- Chắc hai người lại gây lộn?
- Vâng.
- Nguyên nhân?

- Một việc hết sức lặt vặt rất không đáng nói. Lỗi cũng chẳng phải tại tôi hay tại nàng.
- Không, cứ cho tôi biết. Tôi sẵn sàng nghe.

- Thưa vâng, câu chuyện về việc ăn uống. Tôi có thói xấu là rất háu đói, hoặc nếu chưa đói giờ giấc ăn uống cũng phải nghiêm túc. Những người làm xiếc chúng tôi thường hay ăn nhẹ vào lúc buổi chiều để giữ cho đầu óc được tỉnh táo, rồi đến ban đêm, khi trình diễn xong, nghỉ ngơi, tắm rửa sau đó mới ăn bữa chính. Đêm hôm trước, khi trình diễn xong, vợ tôi bỏ đi đâu không chuẩn bị gì cả khiến tôi tức bực. Lúc nàng về, tôi hậm hực, rầy la nàng và nàng cãi lại, chỉ trích tôi bằng những lời lẽ thậm tệ. Tôi giận dữ gần như phát điên, cũng dùng lời lẽ độc ác để chửi lại rồi bỏ đi ngủ. Nhưng đầu óc tôi chán nản không sao ngủ nổi. Tôi nằm trằn trọc, tự nghĩ: "Chỉ trừ khi vợ ta chết! Chỉ trừ khi vợ ta chết"! Tôi ngạc nhiên tự hỏi tại sao lại không nghĩ đến việc giết nàng. Giết nàng quá dễ, chỉ cần phóng trật một lưỡi dao, chẳng ai bắt tội được tôi. Nhưng tôi lại không muốn thế, tôi mong nàng chết tự nhiên có lẽ do tính quen nhu nhược. Tôi biết rõ nếu phóng dao giết nàng, luật pháp không có bằng chứng bắt tội được tôi, nhưng tôi cũng biết rõ nếu làm như vậy, tâm hồn tôi không thoải mái, sẽ chỉ là chuyển từ trạng thái đau khổ này sang trạng thái đau khổ khác mà thôi.

- Rồi sao nữa?
- Cho đến sáng tôi vẫn không sao ngủ được, cứ hễ chợp mắt một lát tôi lại tỉnh và nằm thao thức, miên man nghĩ đến giải pháp này giải pháp nọ. Từ trong thâm tâm, tôi tự hiểu rằng con người tôi giằng co giữa hai thái cực, dù nghĩ đến mấy tôi cũng không thực hiện được. Ở giường phía góc, vợ tôi cũng đang trằn trọc, lâu lâu lại thở dài. Thì ra nàng cũng không ngủ nổi, sáng dậy nét mặt bơ phờ, buồn bực.

- Rồi hai người làm lành với nhau?
- Thưa không, chúng tôi không ai nói với ai một tiếng nào cả, vì có một cái hố ngăn cách chẳng ai muốn bước qua. Buổi sáng hôm ấy tôi lang thang tại những nơi vắng vẻ trong thành phố, không thiết đến ăn uống. Lỗi này tại ai? Chẳng tại ai cả, chung quy chỉ do sự không thông cảm, không thể hòa hợp với nhau. Tôi mệt mỏi, chán ngán, ý nghĩ giết vợ tan dần mà cũng chẳng thiết tới việc biểu diễn. Nghề của chúng tôi rất cần đầu óc minh mẫn, nếu nghỉ, gánh xiếc rất tôn trọng, sẽ thay thế tiết mục khác. Vậy mà không hiểu tại sao tôi không xin nghỉ, khi tiết mục tới lại xuất hiện trên sân khấu. Người tôi mụ mẫm, mệt mỏi rã rời. Suốt từ chiều hôm qua tới tối hôm nay tôi chưa ăn uống một miếng nào cả. Hình như nàng cũng vậy, nàng mặc bộ đồ bó sát thân hình, tươi cười làm những cử chỉ nhanh nhẹn, cúi đầu chào khán giả với tiếng vỗ tay vang dội, nhưng bên trong đó là một con người hoàn toàn khác hẳn, đau khổ, chịu đựng, vượt quá nỗi buồn của một con người.

Khi nhắm đích phóng lần đầu tiên, tôi chợt cảm thấy là rất nguy hiểm: đêm nay cơ thể tôi mệt mỏi, tinh thần bạc nhược không được bình thường như những lần trước. Thật là dại, lẽ ra tôi phải xin nghỉ hoặc đổi một tiết mục khác như thẩy các trái banh nhỏ chẳng hạn, đỡ nguy hiểm hơn.

Đã lỡ không thể rút lui được nữa, tôi phải nhắm kỹ tới lần thứ hai. Tôi biết rằng tay tôi hơi run, việc đó chưa hề bao giờ xảy ra. Vút, tôi la lớn, lưỡi dao phóng đi. Trật, cách xa đầu nàng tới hơn hai phân so với bình thường. Vợ tôi sửng sốt, thoáng chút ngạc nhiên. Nàng giang rộng hai cánh tay. Tôi phóng một mũi phía trên, một mũi phía dưới, lại trật. Người tôi toát mồ hôi lạnh, tay tôi không còn phải là của tôi nữa, tôi chỉ mong cho chóng xong để được nghỉ.

Trong khi đó vợ tôi nghiêng đầu. Tôi phải phóng mỗi bên một mũi sát với cổ nàng. Mũi dao vút di, vẫn thiếu chính xác. Tới mũi thứ hai, tôi vung tay, thật kỳ lạ, nàng hơi giật mình, ánh mắt dường như sợ hãi khủng khiếp, không phải nàng sợ tôi mà sợ sự vụng về thô kệch khác thường của tôi. Vậy là chết! Tôi khẽ kêu "Ôi!" một tiếng, đầu óc quay cuồng đảo lộn. Nếu nhanh trí tôi đã có thể hướng mũi dao ra được bên ngoài!...

- Người ta nói sau khi nàng chết, anh đã quỳ gục dưới chân nàng, âm thầm cầu nguyện?
Người đàn ông trẻ im lặng suy nghĩ, ánh mắt rất buồn, sau đó khe khẽ lắc đầu:
- Thưa không, tôi giả bộ như vậy chứ không phải tôi cầu nguyện. Tôi biết rằng làm bộ đau khổ mọi người sẽ thông cảm, coi đó là một tai nạn.

- Và anh tin rằng anh đã thành công trong việc tạo cho mọi người cảm giác tai nạn?
- Không, lúc đầu tôi nghĩ là cần phải tạo cho mọi người cảm giác rằng tôi rất đau đớn. Nhưng sau tôi không để ý đến nữa, bởi vì một câu hỏi lớn đến với tôi: quả thật ta đã giết nàng hay không giết nàng? Tôi băn khoăn, thắc mắc không hiểu mình chủ tâm mưu sát hay không mưu sát. Cuối cùng, một ý nghĩ chợt đến khiến tôi sung sướng muốn hét to lên như đã tìm ra chân lý, không còn bị đau khổ, dằn vặt nữa.
- Chắc anh tìm ra đó là ngộ sát?

- Thưa không, tôi nghĩ tốt nhất hãy trình bày tất cả sự thực trước công lý, không hề giấu diếm một chi tiết nào rồi tùy công lý phán xét. Nếu tôi có tội, pháp luật trừng trị cách nào tôi cũng chấp nhận kể cả việc bị tử hình, vì khi ấy tôi sẽ hoàn toàn thoải mái, không còn thắc mắc, cắn rứt trong lương tâm. Tôi biết nàng không có lỗi đến nỗi bị giết...

"Vị Dự thẩm im lặng một lát, sau đó khe khẽ gật đầu:
- Tôi tin những điều anh trình bày đều là sự thật.
Bây giờ tôi muốn hỏi anh một câu cuối cùng: sau khi người vợ chết, chắc anh buồn lắm?
- Thưa không, nói ra có vẻ bạc miệng nhưng sự thật ngay lúc đang quỳ làm bộ cầu nguyện, tôi cũng rất sung sướng, hoàn toàn thoải mái. Tôi thấy nhẹ nhõm như người vừa thoát khỏi một địa ngục. Mặc dầu ngoài mặt làm ra vẻ buồn rầu, đau khổ nhưng trong lòng tôi rất thơ thới, hân hoan. Tôi sẵn sàng nói đến cái chết của nàng một cách chi tiết.

- Thôi được, anh có thể ra ngoài. Mọi thủ tục sẽ tiến hành sau.

Hắn ngạc nhiên nhìn ông Dự thẩm. Sau đó, chợt hiểu, anh ta sung sướng cúi đầu thật thấp cảm tạ rồi theo hai người cảnh sát đi ra khỏi phòng.

Còn lại một mình, vị đại diện pháp luật ngồi im lặng suy nghĩ, cặp mắt nhìn trân trối vào bức tường trước mặt nhưng không để ý tới nó. Một lúc lâu sau, ngài với tay lấy cây bút, ghi hai chữ "Vô tội" vào lề tập hồ sơ đang thụ lý, rồi đề ngày tháng và ký tên người chịu trách nhiệm ở bên dưới.


Đoàn Dự dịch

Hansy
11-08-2014, 08:15 PM
8

Cái chết của con Mực

Nam Cao

Người ta định giết Mực đã lâu rồi. Mực là con già hơn trong hai con chó của nhà. Nhưng cũng là con nhiều nết xấu. Nó tục ăn: đó là thường. Nó nhiều vắt: cái ấy đủ khổ cho nó. Nó cắn càn ấy là cái khổ của bọn ăn mày. Nhưng nó lại sủa như một con gà gáy: cái này thì không thể nào tha thứ được. Thoạt tiên người ta định ngày chết cho nó vào dịp Thanh Minh. May cho nó hôm ấy bà chủ nhà bị ốm.

Rồi thì là Tết tháng năm. Bỗng nhiên đứa con út của bà ươn mình: bà phải kiêng để lấy sữa lành cho con bú. Sau cùng người ta nhất định thịt nó vào rằm tháng bảy ai ốm mặc. Nhưng lần nầy Mực vẫn còn thoát nạn là vì nhờ có Du. Người con cả xa xôi ấy vừa viết thư báo chẳng bao lâu sẽ về. Bà mẹ mừng như tìm được một vật quý bị rơi và bà nhất định lùi ngày xử con Mực lại.

Bây giờ thì Du về rồi. Chiều hôm qua con người phóng đãng ấy đã khệ nệ xách cái vali rất nặng bước vào sân, miệng mỉm cười và mặt đỏ. Cái nhà tranh, mấy cây cau hình như vừa đúng thẳng hơn lên để chào chàng. Rồi đến lũ em ầm ỹ đẩy mành chạy òa ra, và bà mẹ mừng quá cười và khóc. Nhưng kẻ lên tiếng trước nhất là con Mực. Con chó già nua ấy rít lên cái thứ tiếng gà gáy của nó và chạy lại Du. Bà mẹ thét lên và lũ em chửi những câu thô tục. Du bỡ ngỡ nhìn mọi người.

- Hình như mẹ không được khoẻ, ồ các em đã lớn cả rồi: Thanh, Tú, đứa nào đây? à, Thảo con chuột nhắt, trông Thảo xinh quá nhỉ? À! Con Mực, vẫn con chó ngày ấy đấy à?... trông nó già đi tệ!...

Con chó đã nhận ra người chủ cũ. Nó đứng lặng vẫy đuôi, đầu cúi xuống, hai mắt nhèm ương ướt nhìn đất như tủi phận. Du thương hại: đó là người bạn lặng lẽ thui thủi bên chàng những năm xưa khi đêm vắng, chàng ngồi nhìn trăng mà oơ mộng. Chàng muốn cúi xuống vuốt ve. Nhưng nó bẩn ghê gớm quá, lông rụng từng mảng, thịt trắng lộ ra có nơi sần mụn nữa. Dáng điệu thì già nua, có vẻ buồn và len lén như phòng bị một cách yếu ớt. Không còn những cái vẫy đuôi mạnh dạn những cái nhìn rất bạn bè và những cái hít chân vồ vập như khi một con chó đã vui và không ngờ vực. Du thấy lòng nằng nặng. Chàng đưa chân chạm khẽ vào con chó để tỏ tình thương. Con chó vẫy đuôi mạnh hơn nhưng len lén lánh ra: dáng điệu một kẻ sợ hãi cố cười với người nó sợ. Và tức khắc nó vặn vẹo mình và rít lên một tiếng ngắn và to; đứa em tưởng anh đá hụt trả thù cho anh bằng một cái đá mạnh vào sườn con vật. Nó lấm lét lảng dần cũng không dám chạy một cách thẳng thắn để đi trốn nữa. Du trách em:

- Sao Tú ác thế?
- Cần gì, đến mai giết thịt cho anh ăn đấy.

Du thấy cái vui đoàn tụ giảm hẳn đi một nửa. Hình ảnh con chó ghẻ với cái buồn mơ hồ cứ lảng vảng trong óc chàng mãi mãi. Sáng hôm sau lúc ăn cơm chàng thoáng thấy nó đi qua, đầu cúi mắt nhìn nghiêng như những người giả trá. Chàng muốn gọi nó vào kẹp nó vào giữa hai bàn chân và vừa ăn vừa vẩy cho nó miếng cơm chung một bát. Nhưng mà không thể được: dịu dàng quá là yếu tâm hòn, và ai hiểu được rằng mình lại có thể yêu thương một con chó bẩn ghê gớm như thế được?

Bữa ăn xong, con Hoa cầm bát cơm ra: một tay nó xách cái thúng như để rồi xếp bát. Thấy được ăn, tất cả thú tính của con Mực hoàn toàn nổi dậy. Nó nhảy tới vẫy đuôi hếch mõm nhìn và đợi. Cơm vừa đổ xuống nó vội vàng chúi mõm ăn ngay. Miếng chưa qua cổ thì cái thúng đã chụp quanh trên mình. Nó rít lên, vùng mạnh; nhưng Hoa đã tì cả người lên cái thúng rồi, và con Mực bị thu gọn ở trong vừa vặn đến nỗi không còn giẫy và kêu được. Lũ trẻ con réo ầm lên. Người ta lấy sẵn dao thớt và dây để trói. Phần mở thứng đã đành phải về Du: ông chủ đi vắng, cả nhà chỉ có chàng là đàn ông, mà không lẽ đi mượn hàng xóm trói giùm một con chó đã úp gọn gàng chỉ việc hơi hé cạp thúng lên, hễ chó thò đầu ra thì một đứa em đặt gậy lên cổ nó để chân chàng dận xuống. Nhưng tay chàng thấy run run. Và khi con chó vừa thò đầu ra thì nó quẫy luôn một cái mạnh, vùng ra được. Con Hoa tủm tỉm cười. Lũ em ngơ ngác nhìn theo con chó vừa ẳng ẳng vừa chạy ở ngoài vườn. Còn Du thì mặt đỏ như gấc chín. Chàng thấy mình yếu tay hơn cả con Hoa. Có lẽ nào chàng lại dịu lòng hơn cả một người con gái. Và tự nhiên chàng giận con Mực. Người ta còn lo con Mực sợ hãi mà đi mất. Quả nhiên suốt ngày hôm ấy nó không về. Nó vẩn vơ vườn hàng xóm, lẩn lút như một con chó trước khi hóa dại.

Người ta tưởng đã mất toi. Nhưng tối hôm ấy nó lần vào gầm giường rồi Du lại nghe thấy cái thứ tiếng gà gáy của nó rít lên ở phía ngõ.

Sáng hôm sau nó vẫn bỏ cơm. Trưa cũng thế. Và cứ thấy bóng người lại cúp đuôi chạy mất. Du thương hại sai người đem cơm đổ ra vườn. Một lúc sau Mực lại gần. Nó trông trước trông sau, đưa mõm rê trên những hạt cơm rồi vô cớ giật mình chạy thẳng. Có lẽ cái kỹ niệm khủng khiếp vừa lóe ra và đập mạnh vào thần kinh nó như luồng điện. Du thấy bồn chồn và vẩn vơ: thương, hối hận hay là thẹn.

Sau cùng thì chàng bực mình: chàng nhận ra rằng một con chó đã làm mất sực bình tĩnh của tâm hồn chàng. Và đột nhiên chàng muốn giết con Mực lắm. Chàng muốn có đủ can đảm để giết người. Phải dám giết mà không run tay khi cần phải giết. Còn làm được trò gì nữa nếu chỉ giết một con chó mà tim cũng đập?

Sự do dự đã hết rồi. Khi có một ý định thì ý định ấy chóng thành mạnh mẽ. Du thấy lòng cứng cỏi. Ðã có lúc chàng tưởng đến cái thú dí con dao vào súc thịt giẫy lên đành đạch để máu ấm phọt vào tay. Và chiều hôm ấy khi thấy con chó ở vườn thì chàng gần như mừng rỡ. Con vật khốn nạn đói và sợ đã mệt lử đi rồi. Nó hiện ngủ bên bờ giậu. Du cầm cái gậy to rón rén lại gần. Nhưng giơ gậy lên chàng bỗng thấy tim run một cái. Chàng tưởng như ngạt thở và ngừng lại một giây để nhìn con chó. Giấc ngủ của nó có lẽ đầy ác mộng vì thỉnh thoảng khắp mình nó lại giật lên. Du thấy lòng qủa quyết tiêu tán hết. Nhưng con chó bỗng giật mình. Du hoảng hốt thẳng cánh vụt mạnh trên mình nó, bụng nó thót hẳn vào rồi lại phình ra như một khối cao su. Nó rống lên gượng dậy loạng choạng mấy vòng rồi chui bừa qua giậu trong khi Du vụt cuống cuồng theo xuống đất... Ðêm đã khuya. Du lại nghe tiếng Mực rống lên. Chàng thấy toát mồ hôi và nhất định không giết con chó nữa.

Nhưng trời gần sáng chàng còn đương mơ mộng, thì đã nghe tiếng Hoa gọi cuống cuồng lên. Con vật khốn nạn không biết mỏi mệt thế nào mà ngủ quên đi ngay ở giữa san để đến nỗi bị Hoa úp được. Lần này thì người ta cẩn thận hơn. Hai ba người nắm vào hai đầu gậy tre ngáng sẵn bên cạnh thúng rồi Hoa mới hơi hé miệng thúng lên. Thấy sáng con Mực nhô ra ngoài cái mõm ướt phì phì. Hoa nhích lên tí nữa nhưng một cái gối đã tì sẵn trên thúng. Mực lách cả cái đầu ra. Cái gậy đè mạnh xuống. Con vật khốn nạn không còn kịp kêu.

- Ðè chặt, thật chặt, đừng buông nó ra nó cắn đấy!

Du kêu lên như thế nhưng tiếng chàng đã hơi run run. Con chó phì một cái nữa: hơi thở mới thoát ra một nửa bị tắc. Cái gậy đè sát đất, mắt nó trợn lên. Lòng đen ươn ướt cứ đờ dần rồi ngược lên lần một nửa vào mí trên. Lòng trắng đã hơi đục. Lúc Hoa trói xong cả chân trước, chân sau và buộc mõm rồ thì con chó đã mềm ra không còn cựa quậy nữa.
Du nghẹn ngào nén khóc...

Hansy
12-08-2014, 03:03 AM
9

Chiếm đoạt...

Tam Tang

Sáu năm trước đây nhân kỳ nghỉ hè, tôi cùng với mẹ về thăm ông bà ngoại tôi ở Ban Mê Thuột. Gia đình của ngoại tôi sống ở cây số 5 và gia đình cậu Ba tôi ở cách đó chừng 2 cây số. Vùng này có nhiều đồn điền cafe và cao su do người Pháp trồng từ mấy chục năm trước. Nhiều người sống ở vùng này là công nhân cho các đồn điền của những người Pháp này. Mẹ tôi lập gia đình và theo chồng về Nha Trang vì bố tôi làm việc ở đó. Tôi rất thích chạy nhảy dưới các tàng cây cao su được trồng thẳng tắp bát ngàn này. Mùa hè cũng là mùa cafe nở hoa, mùi thơm dịu dàng của hoa cafe cũng làm tôi sảng khoái lắm. Nhìn những chùm bông trắng mọc dày kịt trên các cành cafe làm ta liên tưởng đến các cành hoa anh đào ở xứ Nhật!

Tôi cũng thường tới nhà cậu Ba tôi chơi và ngủ lại ở đó. Vợ chồng cậu Ba rất dễ dãi và vui vẻ, họ chưa có con nên quý tôi lắm. Có một điều lúc đầu làm tôi hơi sợ là có nhiều sự kiện lạ xảy ra trong nhà cậu. Như có lúc cả nhà đang chơi đánh cờ cá ngựa với nhau thì tự dưng các con cờ bị hất đổ cả xuống sàn nhà. Tôi sợ xanh cả mặt nhưng cậu tôi chỉ cười rồi nói "Vui nhỉ, làm ơn xếp lại cho tôi nhờ". Thế là các con cờ lại như có cánh bay trở lại chổ cũ trên bàn. Cậu tôi trấn an tôi và mọi người lại tiếp tục chơi. Cũng có vài sự việc lạ khác xảy ra ở nhà cậu, nhưng tôi thấy mọi người tỉnh queo nên riết rồi tôi cũng coi những việc này là sự thường. Vợ cậu nói chuyện với mẹ tôi là cậu tuy là có Đạo (Thiên Chúa) nhưng hay giao du với những người Thượng làm trong cùng đồn điền và học cách giao tiếp với ma quỷ ở thế giới bên kia! Chỉ có vợ cậu và tôi tin là cậu có thể thông tin với thế giới bên kia vì chúng tôi đã chứng kiến những sự kiện lạ thường xảy ra trong nhà, còn những người khác thì chỉ mỉn cười chứ trong lòng họ không tin chuyện đó là có thật.

Một hôm Chủ Nhật mọi người rủ nhau đi chơi ở thác Trinh Nữ (sở dĩ thác này có tên là Trinh Nữ vì cứ mỗi năm đến dịp Noel và Tết Nguyên Đán, nam thanh nữ tú rủ nhau đến thác này chơi rất đông, và một điều đáng nói là hằng năm thường có một vài cô bị trượt chân và chết ở thác này, các cô này thường còn trẻ nên người ta đặt tên là thác Trinh Nữ). Khi mọi người đến thác thì cũng đã quá trưa nên cùng nhau trải bạt và dọn thức ăn ra để ăn trưa. Ở trên bờ sông có nhiều tảng đá rất to cao, trên có mọc các cây nhỏ và dây leo trông rất đẹp, có những tảng đá khổng lồ hợp với nhau thành một hang khá rộng mà người ta gọi là Hang Dơi, trong hang không khí ẩm thấp và hôi vì mùi dơi và phân của chúng. Nói chung thì cảnh vật rất hùng vĩ và đẹp. Thật ra thác Trinh Nữ nên được gọi là gềnh thì đúng hơn vì nó không đổ từ trên cao xuống như những thác ta thường thấy, nó chỉ là dòng nước xoáy xiết khi chảy ngang qua các tảng đá khổng lồ nằm chặn ngang qua giòng sông. Có rất nhiều tảng đá lớn nhỏ và người gan dạ có thể nhảy từ hòn này qua hòn nọ và băng qua sông. Trên các tảng đá này rêu mọc xanh dờn và rất trơn trợt. Cũng vì ham ra các tảng đá để nhìn ngắm dòng chảy mà đã có nhiều cô trợt chân té xuống giòng nước xiết và bị cuốn chìm kẹt trong các hốc đá mà chết.

Khi mọi người ăn xong và nằm nghỉ mát dưới các bóng cây, cậu tôi leo lên các tảng đá ở giữa giòng và kêu mọi người ra xem sự gan dạ của mình. Mặc cho ông bà Ngoại tôi và các người khác kêu réo cậu trở vào! Cậu vẫn nhảy thoăn thoắt từ tảng này qua tảng khác! Và rồi việc kinh hoàng đã xảy ra! Cậu tôi trượt chân té nhào xuống giòng nước đang cuồn cuộn chảy xiết trong những tiếng kêu thất thanh của mọi người. Không ai dám nhảy xuống để cứu vì có xuống cũng sẽ bị hút chìm theo giòng xoáy mà thôi. Ông tôi vội chạy đi kêu cứu và gần một tiếng sau trở lại với mấy người thợ lặn cát (những người này làm nghề lặn lấy cát ở dưới lòng sông lên bán). Họ lặn xuống kiếm cả gần hai tiếng mới tìm thấy xác cậu bị vướng dưới một khe đá cách thác chừng 100 mét. Ngày đi chơi hóa ra ngày đại nạn cho gia đình. Mọi người đều ủ rủ chở xác cậu về nhà để lo việc an táng. Bà ngoại và mợ tôi thì đã ngất xỉu và được chở về nhà từ trước rồi.

Ngày an táng đến và sự kiện lạ bắt đầu xảy ra ở nhà cậu Bạ Vợ cậu mặc đồ tang nhưng không biết nên chọn áo ngực màu gì, cái màu đen hay cái màu trắng, cuối cùng mợ chọn cái màu trắng mặc và rồi đi kiếm cái nhẩn đính hôn để đeo. Mợ không tìm thấy nó trong hộp nữ trang mà mợ đã cất giữ. Mợ chạy đến nhà ông bà ngoại và nói điều này, bà ngoại nói lấy cái nhẩn của bà đeo đỡ cũng được. Khi mợ mở cái hộp nữ trang của bà ngoại thì lạ thay cái nhẩn đính hôn của mợ nằm ở trong đó! Không ai biết làm sao cái nhẫn lại nằm trong đó được!

Trong khi cử hành nghi thức chôn cất ở nghĩa trang, tôi luôn cảm thấy như có ai đó nhìn tôi từ trên cành cây cao phía trên đầu tôi. Tôi cứ ngước mắt lên nhìn để xem có ai núp trên đó không! Tuyệt nhiên không có ai trên đó cả, nhưng cái cảm giác đó vẫn bám lấy tôi suốt buổi lễ. Khi ra về mẹ hỏi tôi làm gì mà cứ nhìn lên cành cây trên đầu vậy, tôi nói là có ai núp nhìn tôi từ trên cành cây đó. Mẹ tôi chỉ buông một câu "Mẹ biết!"

Sau khi mọi người ăn cơm xong ở nhà ông bà ngoại, mợ Ba xin cáo từ ra về. Khi về tới cửa nhà, mợ giật thót mình vì cái áo ngực màu đen nằm chình ình trước ngưởng cửa như muốn nói là "cái này mới chính là cái cô nên mặc". Mợ mỉm cười và nghĩ đó là do cậu Ba làm ra! Mợ vào nhà lục các thư mà cậu mợ viết cho nhau trước khi cưới đem đi đốt hết vì sợ thấy chúng càng làm mợ đau lòng thêm.

Một hai tuần trôi qua, những sự việc nhỏ xảy ra như các thư mà cậu Ba viết cho mợ khi xưa lại xuất hiện chổ này chổ khác trong nhà, mặc dù những thư này mợ đã đốt đi từ hôm chôn cất cậu rồi! Cửa nhà được gài khóa lại nếu mợ quên khóa nó khi đi ngủ. Mợ cho đó là do cậu làm để muốn bảo vệ cho mợ thôi. Rồi thì mợ bắt đầu đi chơi với bạn bè cho khuây khỏa, nhưng cũng từ đó sự kiện xảy ra trong nhà có khác biệt hơn, không còn những việc như có tính cách tình tứ hay chăm sóc bảo vệ nữa, mà thay vào đó là những đồ vật mợ cần thì bị mất một cách bí mật, cửa phòng mở ra đập vào giữa đêm khuya, chén dĩa bị rớt vỡ sổn sảng trong nhà bếp. Mợ không ngủ yên được trong đêm vì các tiếng động này, thêm vào đó mợ luôn nghe có tiếng chân bước quanh giường mợ trong đêm.

Bữa kia mợ đang trang điểm để đi ăn đầy tháng con của một người bạn thì phấn son đang ở trên bàn như bị ai hất bay cả xuống đất. Tức quá mợ thét lên "Có để chúng lại chổ cũ cho tôi không thì bảo!!" rồi mợ rời phòng. Khi quay trở vào thì các vật đã trở về chổ cũ. Rồi những sự việc bực mình như thế cứ xảy ra hàng ngày làm cho mợ từ bực mình đâm ra sợ hãi! Mợ nghĩ có thể hồn ma phá phách mợ không phải là câu Ba! Mợ đã đoán đúng điều này, hồn ma trong nhà không phải là cậu Ba...

Mợ Ba thật sự không tin là cái hồn ma trong nhà là cậu Ba, vì nếu là cậu thì làm thế nào mà cậu lại làm những điều có hại cho mợ được vì cậu rất thường yêu mợ mà! Mang ý nghĩ đó trong đầu, một hôm mợ quyết định tới gặp một thày phù thuỷ ở buôn ALê B. Khi mới bước vào nhà sàn của thày phù thuỷ, ông ta trợn mắt nói:

_ Trời ơi! Cô đang trải qua một thời kỳ hải hùng trong đời cô! Chồng cô vừa chết trong vòng 3 tháng trở lại đây có đúng không?
Mợ Ba hoảng kinh vì mợ còn chưa nói cho ông ta biết mợ là ai nữa vậy mà ông ta có vẻ nói trúng phóc những gì đang xảy ra cho mợ! Mợ trấn tỉnh rồi làm bộ hỏi lại:
_ Thày nói chuyện gì vậy?
_ Tôi thấy âm khí bao phủ đầy người cô đó! Nó quyện lẫn đầy sự thất vọng, buồn rầu, và sự ganh ghét! Cô có thể để tôi tới thăm nhà cô được không?

Mợ đồng ý để ông phù thuỷ tới thăm nhà, và mợ rồi trở về nhà mình. Khi mở cửa nhà thì một cảnh tượng xáo trộn chưa từng thấy ở trong nhà mợ! Bàn ghế bị lật đổ , bóng đèn bị đập vở, trên tường nhà đầy những vết cào xước! Mợ nghĩ ra ngay là con ma trong nhà không thích việc mợ đi gặp thày phù thuỷ! Nhưng là một người gan dạ, mợ không để việc này làm thay đổi điều mà mợ đã đồng ý cho thày phù thuỷ tới nhà!
Hôm sau ông phù thuỷ tới nhà và gỏ cửa. Một giọng đàn ông trầm trầm nói tiếng Pháp mời thày vào nhà. Thày vào trong nhà và cảm thấy có sự hiện diện lạnh lùng của một ai đó trong nhà! Thày ngồi đợi ở phòng khách và rồi mợ từ trong bếp bước ra. Mợ rất kinh ngạc vì thấy thày phù thuỷ đang ngồi trên ghế! Mợ hỏi:

_ Thày đến hồi nào vậy? Tôi đâu nghe tiếng gỏ cửa của thày đâu? Làm sao thày vào nhà được vậy?

Thày nói cho mợ biết các điều đã xảy ra và mợ cho thày biết là khi cậu Ba còn sống thỉnh thoảng cậu cũng có giao lưu với hồn của một người Pháp, người Pháp này chết từ năm 1945 khi Việt Minh nổi dậy đánh chiếm chính quyền ở đây. Mợ còn cho biết thêm là cái hồn này nhiều lần yêu cầu cậu Ba cho nó được giao lưu với mợ Mợ thường cảm thấy có ai đó nhìn và mơn trớn mợ mỗi khi mợ tắm hay thay quần áo! Nhưng mợ cho thày biết là cái hồn này lâu nay đã rời nhà khi mợ vô tình đốt một gói giấy gì đó của cậu, vì từ đó mợ không còn cảm thấy bị có ai nhìn lén nữa! Tuy thế mợ cho là cái hồn ma này cũng tử tế chứ không dữ dằn gì cả! Nghe xong câu chuyện, thày xin phép đi xem vòng vòng trong nhà, mợ gật đầu. Thày đi chậm chậm vòng vòng trong nhà chừng 10 phút rồi bổng đứng khựng lại. Thày quay lại phía mợ, mặt trắng bạch nói trong hơi thở:

_ Cô phải rời nhà này càng sớm càng tốt!
_ Có chuyện gì vậy thày? Làm ơn cho tôi biết đi?
_ Không thể chần chờ được! Mau đến nhà tôi ngay đi rồi tôi sẽ nói cho cô nghe! Chúng ta cần phải rời căn nhà này gấp!
Khi cả hai về đến nhà thày phù thuỷ, thày mới nói:

_ Cô đoán đúng! Cái hồn ma trong nhà không phải là chồng cô! Nó là một người Pháp, và cũng có thêm mấy hồn ma người Thượng khác, nhưng hồn ma Pháp là kẻ cầm đầu. Ngay cả khi chồng cô còn sống cái hồn này đã có ý thích cô rồi, cũng vì thế mà nó làm cho chồng cô bị trượt chân rớt xuống thác chết để độc quyền chiếm lấy cô đó! Nó phá cô vì nó ghen tuông đó mà!

Mợ Ba nhớ lại là thời gian đầu sau khi chồng chết thì con ma đối xử với mợ rất nhả nhặn, và có vẻ chăm sóc mợ lắm. Nhưng từ khi mợ bắt đầu đi chơi với bạn bè thì nó bắt đầu trở nên hung bạo! Có lẽ nó ghen với mợ thì phải! Mợ chợt nhớ ra điều gì vội hỏi:

_ Lúc ở nhà tôi có gì ghê gớm xảy ra sao tôi thấy mặt thày trắng bạch ra vậy?
_ Tôi cảm thấy một luồng khí lạnh bao trùm lấy tôi và một giọng ồm ồm bằng tiếng Pháp bảo tôi là hãy để cô yên vì cô là của hắn ta, hắn còn nói là nếu tôi mà không nghe lời hắn thì hắn sẽ thanh toán tôi! Rồi hắn đuổi tôi ra khỏi nhà ngay lập tức đó! Nhưng tôi thấy tội nghiệp cô nên tôi mới khuyên cô rời nhà đó! Cô hãy nghe tôi đừng trở lại ngôi nhà đó nữa nhe chưa!!!

Mợ đồng ý và đêm đó mợ ngủ lại nhà của bà ngoại. Nhưng mợ cần một số quần áo và vật dụng cá nhân cho nên chiều tối đó mợ nhờ một người bạn trai tên Tài (làm cùng sở với mợ) chở mợ về nhà để thu nhặt các thứ cần dùng. Khi cả hai vào trong nhà thì đồ đạc cũng lại bị lật tung lên, ngã đổ ngổn ngang! Chú Tài thấy cảnh tưởng như vậy mới hỏi lý do, mợ nói sơ sơ về hoàn cảnh của mợ! Chú ta không tin và cho là chắc có kẻ nào đó thích phá phách mợ thôi! Mợ nói đó là sự thật và nếu chú ấy muốn nghe thì mợ sẽ kể cho chú ấy nghe. Cả hai ngồi ở phòng khách và mợ bắt đầu kể đầu đuôi câu chuyện cho chú ấy nghe.

Trong khi kể thì chú Tài thường ngắt quảng và đưa ra các câu hỏi và những nhận xét của mình. Khi mợ chấm dứt câu chuyện thì đồng hồ cũng đổ 9 giờ đêm. Mợ vội vàng vơ vài thứ cần thiết và nói với chú Tài mau rời khỏi nhà. Cả hai vừa định bước ra phía cửa thì nghe có tiếng đập nhè nhẹ Ở cửa, cả hai lắng nghe và tiếng đập mỗi lúc một mạnh hơn. Rồi tiếng đập như là có ai đang đấm vào cửa vậy. Chú tài lấy hết can đảm bước tới phía cửa để mở! Khi chú ấy còn cách vài bước thì hai cánh cửa chợt như long bản lề bay về phía chú làm chú phải nhảy lùi lại để tránh! Nhưng cái cánh cửa không ngã xuống mà bay trở về vị trí cũ như không có gì xảy ra hết! Mặt mợ và chú Tài đều sợ dến trắng bạch cả ra, và chú ôm lấy hai tai rồi la lớn là phải rời khỏi nhà ngay lập tức.
Cả hai tông cửa chạy ra ngoài, chú Tài leo lên mở khoá và đạp cho chiếc Honda nổ máy! Nhưng không biết vì quá sợ hay vì lý do nào đó mà cái xe không chịu nổ !! Gió thổi vi vu lạnh buốt, không biết chú Tài thấy gì hay vì lạnh mà tay chú run lẩy bẩy, miệng chú đánh bò cạp! Chú ấy sợ muốn đái cả ra quần!! Cuối cùng chú ấy bật lên được một câu:

_ Tôi để cô ấy một mình! Hãy cho tôi đi!

Xe bổng nổ máy và chú ấy nhảy lên xe dọt mất! Mợ Ba sợ quá cắm đầu phóng ra đường và chạy một mạch về nhà ông bà ngoại tôi! Từ đó mợ Ba không bao giờ dám bước chân về căn nhà đó nữa. Ông bà ngoại tôi là người đứng ra bán căn nhà đó. Nghe nói người chủ sau có mời một vị Linh Mục tới làm phép trừ ma cho căn nhà và họ sống yên lành trong căn nhà đó.

Sau ngày đó mợ thỉnh thoảng muốn nói chuyện với chú Tài khi họ gặp nhau trong sở làm, nhưng chú ấy luôn lẫn tránh. Sau cùng chú ấy xin nghỉ và đi làm ở chổ khác để tránh việc chạm mặt mợ Ba !!

Cuối cùng mợ tái giá và theo chồng về Nha Trang. Tôi cũng thỉnh thoảng đến thăm mợ vì ở cùng một thành phố! Một hôm mợ có cho tôi coi một bức thư của chú Tài trong đó chú nói là xin lỗi mợ vì đã bỏ rơi mợ lại đêm đó và đã làm ngơ không chuyện trò với mợ từ đêm xảy ra sự cố ! Chú ấy nói là lúc cánh cửa long ra rồi ghép lại thì chú ấy nghe tiếng nói cùng khắp nhà vang lên. Chúng kêu lên là mợ là của chúng và nếu chú không rời mợ thì chúng sẽ giết chú hay làm chú trở nên điên khùng. Cũng vì sợ mà chú đã làm những điều không nên làm đối với mợ. Mợ cũng đã viết thơ trả lời và thông cảm với những điều mà chú ấy đã đối xử với mợ!

Từ khi bỏ nhà đi và sau đó căn nhà được vị Linh Mục trừ quỷ thì mợ Ba, chú Tài, và tất cả những người trong gia đình không còn bị quấy rầy bởi cái hồn ma Pháp và mấy tên đầy tớ Thượng nữa! Có lẽ Bề Trên đã đem chúng về chổ chúng phải được ở sau khi chết. Chúng đã lẩn trốn và lang thang trên trần thế cả mấy chục năm rồi!
__________________________________________________ ______________________
Chú thích:
Viết theo ý của một chuyện ma mà tôi được nghe kể bởi một người bạn trước sống ở Ban Mê Thuột nay sống ở Massachusetts.
Rất nhiều người Thượng (nhất là những người già) trên Cao Nguyên biết nói và đọc tiếng Pháp vì trong thời Pháp thuộc vùng này thuộc quyền cai trị của người Pháp chứ không phải dưới sự cai trị của vua quan nhà Nguyễn.

Hansy
12-08-2014, 03:36 PM
10

Bài văn tả Mẹ

HỒ DUYÊN

Giờ tập làm văn, tôi luôn được cô giáo khen bài viết của mình và thường lên đứng giữa lớp để đọc bài tập làm văn của mình cho cả lớp nghe. Bài viết của tôi bao giờ cũng đạt điểm 7, 8 - điểm cao nhất dành cho môn tập làm văn. Tôi luôn hãnh diện vì điều đó và dường như chưa một bạn nào trong lớp phá được “kỷ lục” của tôi.

Như mọi khi, tôi lại được cô giáo gọi lên đọc bài văn “Em hãy tả về người mẹ của mình”. Tôi ngước cao mặt, đĩnh đạc bước lên giữa lớp trong sự nể phục của các bạn và cất cao giọng đọc: “Mẹ em là người tuyệt vời nhất. Mẹ đẹp như cô tiên trong truỵên cổ tích. Mái tóc mẹ dài óng ả buông xõa ngang lưng. Mẹ gội đầu bằng trái bồ kết nên tóc mẹ vừa mượt vừa suôn. Mẹ bảo ”Lớn lên con gái đừng gội đầu bằng dầu gội mà nấu trái bồ kết gội cho tóc đẹp như của mẹ”. Mẹ có khuôn mặt đẹp như trăng rằm. Mỗi khi mẹ cười hai hàm răng mẹ trắng ngần trông đẹp lắm! Mẹ vừa dịu dàng lại vừa đảm đang. Đi làm về, mẹ vừa vào bếp nấu cơm cho cả gia đình, tối mẹ lại dạy em học bài, dọn dẹp nhà cửa rồi mới đi ngủ. Những đêm đông trời trở rét, nửa đêm mẹ lại thức giấc đắp lại tấm chăn cho em... Trong trái tim em, mẹ là tất cả, mẹ là cô tiên tuỵêt vời nhất trong cuộc đời em...”.

Đó là những lời văn mà tôi đã được chị gái dạy để tả về người mẹ của mình. Những bài văn của tôi luôn được điểm cao vì trước khi viết tôi luôn “tham khảo” ý kiến của chị rồi tưởng tượng thêm để diễn đạt cho hay. Có lẽ với trí tưởng tượng phong phú nên tôi sớm nổi tiếng là học sinh giỏi văn của trường.

Đọc xong bài văn tả mẹ của mình, tôi sướng lâng lâng trong người và đi về chỗ trong tiếng vỗ tay của các bạn. Đợi giây lát, cô tôi bảo: “Bài văn tả mẹ của bạn Duyên rất hay. Câu cú gãy gọn, diễn đạt trôi chảy. Các em nên học cách diễn đạt của bạn để viết văn cho hay và phải đọc thêm nhiều sách. Hôm nay, cô muốn các em nghe thêm một bài văn nữa. Cô mời bạn Hùng".

Tôi thoáng ngạc nhiên vì Hùng mồ côi mẹ từ năm 6 tuổi, nhà Hùng rất nghèo và Hùng chỉ học giỏi môn toán. Tôi thầm cười khi nghĩ “Chắc Hùng viết nhăng viết cuội nên bị cô phê bình đây”. Hùng cúi đầu cầm tập bước lên bảng và đọc: “ Em không còn mẹ. Mẹ mất đã lâu lắm rồi nên em không nhớ rõ khuôn mặt của mẹ. Mỗi lần nhớ mẹ, em chỉ nhìn lên tấm ảnh trên bàn thờ mẹ, nhớ mẹ, thương mẹ rồi chỉ biết khóc mà thôi! Mẹ mất khi em bé của em mới một tuổi. Lúc đó ba cực lắm vì phải vừa đi làm vừa nuôi em và em gái. Em gái cứ bệnh rồi khóc hoài. Sáng, ba dậy thật sớm để nấu cháo để lấy nước pha sữa cho em. Mùa mưa, nhà dột ướt không đủ chỗ ngủ, ba ru em và em gái ngủ xong rồi nằm xuống sàn nhà. Sáng thức dậy em đã thấy ba nấu sẵn nồi cháo và kèm theo tờ giấy dặn:”Con nhớ ăn sáng rồi mới đi học”.

Ba em là công nhân vệ sinh nên sáng phải dậy thật sớm làm sạch đường phố trước khi mọi người thức giấc. Em chuẩn bị đi học ba mới trở về lo cho em gái. Buổi chiều, em đi học về trông em cho ba đi làm tiếp. Ba em cực lắm nhưng lúc nào ba cũng dịu dàng như mẹ. Em ước ao mẹ mình còn sống để đỡ đần công việc cho ba. Em thèm được như các bạn có mẹ, được mẹ ôm vào lòng, được mẹ khâu áo khi bị rách, được nghe mẹ hát ru em bé ngủ như cô Tư ở sát nhà. Mỗi lần nghe cô Tư hát ru con, em lại nhớ mẹ và nước mắt trào ra. Ba bảo: “Mẹ bây giờ đã thành cô tiên ở tận trên trời cao, mẹ cũng nhớ và thương con lắm nên con phải học thật giỏi mẹ mới vui”. Em cũng thầm hứa với ba, sẽ học giỏi, học giỏi rồi mẹ sẽ sống lại với cha con mình, phải không ba?

Em càng lớn mái tóc ba càng bạc nhiều hơn. Nhìn ba tảo tần lo cho em và em gái ăn học, em thương ba lắm chỉ mong mình nhanh lớn để đi làm giúp ba, nuôi em gái. Em không còn mẹ nhưng ba chính là người mẹ vĩ đại trong cuộc đời em. Em yêu ba vô cùng...”.

Những dòng cuối cùng, Hùng đã đọc trong nước mắt, cả lớp đều khóc, cả cô giáo cũng khóc và không biết tự lúc nào, nước mắt của tôi cũng lăn dài trên khuôn mặt của mình...

Chiều nay, con gái tôi về nói với mẹ: “Mẹ dạy con bài văn tả về mẹ nha mẹ”. Tôi ôm con gái vào lòng và kể lại câu chuyện bài tập làm văn tả mẹ của Hùng cách đây hơn 20 năm...


Hồ Duyên

TRẦN THỊ THANH LIÊM
14-08-2014, 07:20 PM
Cảm ơn đệ về
Bài văn tả Mẹ
của HỒ DUYÊN
mà đệ H S giới thiệu rất ý nghĩa và rất cảm động đệ ạ!
Trân trọng!

TTTL

Hansy
15-08-2014, 01:23 AM
Cảm ơn đệ về
Bài văn tả Mẹ
của HỒ DUYÊN
mà đệ H S giới thiệu rất ý nghĩa và rất cảm động đệ ạ!
Trân trọng!

TTTL



Chào Tỷ
Cám ơn Tỷ đã đồng cảm và chia sẻ.
HANSY

Hansy
15-08-2014, 01:31 AM
11

Chuyến tàu hoang đường

Lê Minh Nhựt

- Sóng như vầy là còn ít, năm ngoái cũng vào mùa này đi không được đành nằm bến. Đói nhăn răng!

Khách ngồi trong tàu im lặng. Qua lớp kính màu, muôn vàn lớp sóng thi nhau nhảy múa. Nhìn ra phía trước có cảm giác một đội quân sóng trùng điệp đang hùng hổ kéo đến, rõ ràng là chúng đang “đói” lắm. Bình thản cầm vôlăng, anh chàng tài công khẽ lách trái lách phải, hết giảm rồi lại tăng ga nhảy sóng nhẹ nhàng. Thoáng chốc tàu đã qua khỏi vàm, nét mặt mọi người giãn ra, nghe đâu đó có tiếng thở nhẹ nhõm.

Cô gái ngồi bên cạnh tôi khẽ kéo cổ áo ấm lên phủ kín sau gáy. “Mấy giờ rồi anh?”. “Gần sáu giờ rưỡi”. Vừa nhìn đồng hồ trả lời tôi vừa đưa mắt lén nhìn cô gái đồng hành với mình từ lúc rời bến đến giờ. Vóc người nhỏ nhắn, lọt thỏm trong chiếc ghế lót nệm, hình như từ khi xuống tàu đến giờ cô chưa hề thay đổi tư thế ngồi. “Như vầy tới dưới chắc là tối mất” - cô gái lẩm nhẩm như vừa đủ để tôi nghe.

Đúng lúc qua đoạn cua gắt, chiếc tàu nghiêng hẳn một bên. Cô gái bất ngờ tựa hẳn vào vai tôi. “Xin lỗi” - mặt cô thoáng ửng hồng vì sự va chạm tình cờ. “Không hề chi” - tôi mỉm cười như thể bảo cô hãy tựa thêm chút nữa cũng chẳng sao, giá như tàu cứ nghiêng mãi như thế này thì hay biết mấy.

Không hiểu sao khi cô gái tựa vào, tôi bỗng có một cảm giác lành lạnh truyền qua mình, chắc là cửa trước tàu đóng không kín nên gió lùa vào. Tôi bỗng hối hận khi không nghe lời khuyên của cô bạn là nên đem theo áo khoác khi đi tàu cao tốc vào mùa mưa. Tàu đi vào kênh, khoảng cách hai bên bờ đủ rộng cho chiếc cao tốc phăng phăng lướt nước. Tuy vậy, sóng ở hai bên thân tàu vẫn bắn lên bờ rào rào.

Có lẽ sắp mưa nên trời đột nhiên sẫm lại hẳn, thêm lớp kính của tàu nên nhìn ra ngoài chỉ thấy một màu xám xịt của hai hàng đước cặp mé bờ giống như một hàng người chen chúc nhau đứng dạng chân kiên trì nhìn soi mói theo vật thể đang trốn chạy là chiếc tàu cao tốc. Phía trước loang loáng nước, chỗ đậm chỗ nhợt nhạt vừa đủ để anh tài công không bật đèn pha lên. Tôi trộm nghĩ: giá có bịt mắt anh ta lại thì chắc anh ta vẫn lái tàu đúng giữa lòng kênh bởi đoạn sông này anh ta còn thuộc hơn lòng bàn tay mình, vì thế đèn đuốc chi cho mất công. Hoặc giả anh chàng này là người ưa mạo hiểm chăng?

Trong tàu tối hẳn. Không có một bóng đèn nào được bật lên nhưng chẳng ai kêu ca phàn nàn, chắc là để dễ ngủ (?). Lác đác trong khoang chừng năm bảy người, trừ tôi và cô gái bên cạnh thì tất cả đều ngồi một mình; đủ tất cả các kiểu ngồi: tựa vào kính tàu, gục đầu ra trước, ngửa sau ghế... Có tiếng ngáy của một ông khách xấu tính ở đằng sau tôi cứ rồm rột cất đều. Đột nhiên hai mắt tôi ríu lại, cảm giác thèm ngủ khó tả ập đến không cưỡng lại được. “Anh cứ tự nhiên tựa vào em mà ngủ”.

Chẳng hiểu tại sao cô gái lại biết tôi buồn ngủ? Nực cười, người buồn ngủ nào mà khéo che đậy được khi đôi mi cứ dần dần sụp xuống và nặng trĩu như có ai cột dây mà kéo. Cầu trời cho mình đừng ngoác miệng ra ngáy như cái ông ở đằng sau... Tôi chỉ đủ thần trí nghĩ đến thế, cơn buồn ngủ ập đến quá nhanh. Nhưng không hiểu sao tôi vẫn nghe tiếng cô gái cứ vang lên đều đều và bàn tay lạnh tanh của cô ta khoác chiếc áo ấm lên người tôi rõ ràng. Một mùi nước biển rin rít xộc vào mũi...

- Ngủ đi anh, gần đến nơi rồi. Đang bão ở miền Trung đấy anh ạ. Lạ thật? Anh có nghe không? Biển ở đây cũng đang chuyển mình. Tiếng răng rắc của rừng. Tiếng ùng ục của nước. Tiếng gió xé mình qua miệng đáy. Chắc giờ này tàu đã vào bến cả rồi. Sóng ngoài khơi lớn, mấy ai can đảm ở lại để thưởng thức màn opera của biển cả. Anh biết không, em sợ sóng lắm, nhất là vào những lúc như thế này đây. À, anh tựa vào em chút nữa cho đỡ lạnh. Vâng, cứ như thế. Đừng nói gì cả, hãy để em thì thầm một mình.

Tôi muốn cởi trả chiếc áo mà cô gái vừa khoác cho mình nhưng thật quái quỉ, chân tay tôi không hề động đậy. Nó như chiếc chân vịt tàu bị cuốn chặt vào đống lưới đánh cá bùi nhùi xoắn lại nhiều vòng.

Giọng cô gái cứ rờn rợn:
- Hòn Khoai kìa! Ở đường chân trời ấy nhưng thời tiết xấu thế này đương nhiên không nhìn thấy được. Mưa rồi đó. Giống như có một người đang chơi dương cầm trên nóc tàu, nước mưa lăn dài xuống theo kính tàu. À không, chính là nước mắt của người ấy - một pianist đa cảm! Thời tiết tốt như mọi ngày, biển đẹp lắm. Em thích ngắm biển, thích ngồi trên mui tàu để đi ra biển. Sợ sóng thì sợ nhưng vẫn thích, say sóng rồi cũng quen.

Mẹ em nói: con gái mà thích đi đây đi đó là không hay, bay nhảy chỉ dành cho cánh đàn ông thôi. Nhưng em nghĩ khác: có gì là không tốt, du lịch đâu chỉ dành riêng cho cánh đàn ông! Nhất là được tắm dưới ánh nắng vừa đủ ấm trên biển rồi bập bềnh nhấp nhô theo từng lượn sóng, có cả phập phồng lo sợ nữa. Nhưng đi biển một mình thì buồn lắm, anh có muốn đi cùng em không, ngay lúc này đây...

Nói rồi vẫn bàn tay lạnh tanh ấy nắm lấy tay tôi và kéo cửa kính. Không còn sức lực để cưỡng lại, tôi ậm ừ và thấy mình bị nhấc bổng lên trôi tuột qua cửa. Đúng lúc ấy chợt tôi bị va mạnh vào thành tàu một cái đau điếng, nhờ cú va mạnh ấy mà tôi tỉnh hẳn. Anh chàng tài công bẻ mạnh vôlăng về bên trái. “Bộ đui hay sao mà không tránh cao tốc?”- đẩy cửa kính, anh ta nhoài đầu ra ngoài thét theo chiếc vỏ lãi bằng composite vừa lướt qua, vẳng lại là tiếng chửi thề đáp trả của người trên vỏ.

“Mấy thằng không có bằng lái chạy ẩu vậy đó bà con!”. Đóng cửa lại, anh ta như phân trần rằng mình không hề có lỗi trong chuyện này, rồi đèn bật sáng. Khách trong tàu đều choàng dậy. Người đàn ông sau lưng tôi ngáp một cái rõ to. Ghế bên cạnh tôi trống trơn, cửa kính vẫn mở. Cô gái đã biến đi đâu mất. Người phụ lái uể oải đứng dậy đi thu tiền - công việc đáng lẽ đã làm sớm hơn nhưng chắc anh ta lười vì thưa khách nên lúc này mới làm.

“Cô gái bên cạnh tôi lên bờ hồi nào?”. “Cô gái nào?” - người phụ lái ngạc nhiên hỏi lại tôi. “Chẳng có cô gái nào ư?”. “Vâng, thưa ông!” - anh ta nhún vai trả lời, một kiểu trả lời quá ư lịch sự chỉ có trong phim ảnh. “Thế thì lạ thật, rõ ràng là mới đây...” - tôi lẩm bẩm. Một chị đứng tuổi ngoái lại nhìn tôi bụm miệng cười bảo: “Chú em chắc ban ngày làm việc chung với rất nhiều cô gái nhưng có lẽ mần ăn chẳng được chút gì nên đi tàu cũng mơ?”.

Rồi chị ta lắc đầu ra vẻ ngán ngẩm: “Chạy như rùa bao giờ mới đến nơi hả bác tài?”. “Trời đất! Cao tốc mà còn bị chê là chậm như rùa. Chắc phải nói với mấy ông nhà nước đem máy bay đi rước bà quá” - ông khách đằng sau lưng tôi nãy giờ mới lên tiếng, tiếp theo đó là màn đấu khẩu loạn xạ diễn ra trên tàu.

Sực nhớ chiếc áo ấm mà cô gái đã khoác cho, tôi vội sờ lên người: cũng chẳng có cái áo nào ở đây cả! Duy chỉ có một sợi tóc dài vắt trên cổ áo đang phất phơ chạm vào má tôi nhồn nhột. Đương nhiên nó không phải là tóc của tôi. Đích thị là tóc của cô gái ban nãy rồi, nhưng cô ta đâu? Cả tàu đều khẳng định không hề có cô gái nào ngồi cạnh tôi, nhưng còn sợi tóc lấy gì để giải thích? “Thôi kệ, tóc của ai cũng được”- nghĩ thế, tôi bèn nhặt lấy sợi tóc và cho vào ví như một thú sưu tập kỳ cục.

“Tới bến rồi bà con ơi!”. Giọng anh chàng tài công vực tôi ra khỏi mớ bòng bong đang rịt chặt trong đầu. Rút điếu thuốc lá châm lửa rồi rít một hơi dài, anh ta ngửa đầu ra sau ghế như thỏa mãn khi cặp bến an toàn vào đúng thời tiết như thế này đây. Quay sang tôi, anh ta bỗng nghiêm mặt hỏi: “Hồi nãy anh thấy có một cô gái ngồi bên cạnh thật à?”.
Tôi gật đầu không dứt khoát vì sợ bị cười là nằm mơ nói chuyện nhảm nhí. “Trước đây, khúc sông này cũng có vài thây ma chết trôi từ biển vướng vào hàng đáy. Nghe đâu trong số đó có một cô gái còn rất trẻ!”. Nói xong, anh ta nhếch mép cười một cách bí hiểm. Tôi thoáng rùng mình, có cảm giác bàn tay lạnh tanh của cô ta bắt đầu vuốt dọc sống lưng tôi và mùi nước biển rin rít lại xộc vào mũi.

Mấy ngày sau tôi cứ nghĩ mãi về cô gái kỳ quặc hôm ấy, chợt nhớ đến sợi tóc mà mình đã nhặt được tôi bèn mở ví ra tìm. Quái lạ, chẳng thấy tóc tai nào hết mà chỉ là một sợi rong biển còn mới nguyên nằm trong đó.


Lê Minh Nhựt

Hansy
16-08-2014, 01:42 AM
12

Chuyện xảy ra ở quán Kraoke

Nguyễn Thế Duyên

Sau một buổi nhậu nhẹt lu bù , đã hơi muộn, chúng tôi kéo nhau vào một quán karaoke. Hưng-, một đại gia, chủ chi của cả nhóm, vẫy tay quản lí nhà hàng lại hất hàm hỏi
-Dạo này tiếp viên ở đây thế nào chú mày?

-Dạ , ngon hết ý. Các anh để em cho gọi các em ấy vào phục vụ các anh

Nói xong hắn vội chạy ra ngoài khép cửa lại. Chỉ một thoáng, năm sáu cô gái kéo vào. Cả bọn bắt đầu nhao nhao. Thằng Hưng ngăn lại.

-Khoan đã chúng mày.-Nó quay lại nhìn tôi rồi bảo cả bọn- Để thằng Duyên chọn trước.Duyên, mày thích em nào thì chọn đi. Mà sao mày lại ngồi chúi vào góc ấy? Ra đây! –vừa nói nó vừa lôi tôi ra ngồi chính giữa bộ Salon, ấn tôi ngồi xuống bên cạnh và nói tiếp- Tao là tao nể mày nhất đấy.

Tôi cười gượng gạo.Quả thật, tôi không quen với những cuộc tụ tập kiểu này. Chúng tôi ,tất đều học chung một lớp trong trường đại học. Sau hai mươi năm, mỗi đứa một phương, bây giờ gặp lại. Tôi là đứa kém nhất trong cả bọn

-Nể cái con khỉ! Tao có cái chó gì mà nể. Chúng mày cứ chọn đi. Tao thì cô nào cũng được

-Không được! – thằng Hưng xua tay- Chỉ riêng câu cô nào cũng được của mày đã đủ làm tao nể mày rồi. Mày chọn đi

Đúng là mạnh vì gạo, bạo vì tiền. Nó là thằng chủ chi nên cấm thằng nào dám cãi.Cực chẳng đã tôi đành kéo bừa một cô gái đứng gần tôi nhất ngồi xuống bên cạnh.

Cô gái mà tôi chọn có vẻ là cô gái lớn tuổi nhất trong đám tiếp viên và chắc chắn cô ta là người sành sỏi nhất. Cô ta liếc nhanh bộ quần áo tôi đang mặc và hình như đang cố nén một tiếng thở dài. Tôi biết nhưng lờ đi. Ngồi ngay phía bên phải tôi là Hạnh, nhà thơ như mọi người vẫn gọi. Nó hay làm thơ và thuộc loại người ăn thơ, ỉa thơ, đái cũng thơ. Lúc nào, gặp ai cũng ông ổng đọc thơ của mình. Trong cả bọn nó là thằng ngại tôi nhất vì nó biết tôi cũng hay làm thơ và nó cũng lờ mờ biết tôi có một vài bài thơ đăng báo. Chúng nó chỉ đoán già đoán non vậy thôi chứ chưa có một đứa nào được tôi cho đọc thơ của mình . Tôi vốn là người kín đáo và rất kém tự tin Thằng Hạnh nhìn tôi , ngần ngừ một thoáng rồi nói

-Mày hãy để tao sống với bản ngã của mình

Hai con người trong nó –Bản ngã và sĩ diện- Chắc đang đánh nhau kịch liệt và cuối cùng con người sĩ diện trong nó đã bị Knocout. Tôi cười
-Tự nhiên đi. Lòng vả cũng như lòng sung mà.

Chỉ đợi có thế, nó chồm lên người cô bé như một con thú dữ. Miệng ông ổng gào lên , “Hò dô ta nào kéo pháo ta vượt qua đùi” Cô bé co dúm người lại. Tôi không dám nhìn những hành động tiếp theo của nó bèn quay sang cô gái ngồi cạnh mình

-Em ăn cam đi, em tên là gì nhỉ?

Chắc điều tôi hỏi quá ngây ngô nên cô gái không trả lời mà hỏi lại tôi
-Hình như chưa bao giờ anh vào những chỗ này thì phải?

-Đúng đấy,-Tôi gật đầu công nhận- Đây là lần đầu tiên

Cô gái vừa nói đến đấy thì có tiếng kêu khe khẽ bên cạnh. Tôi liếc nhìn sang. Thằng Hạnh đang luồn tay dưới váy cô bé. Cô gái đang cố gắng đẩy tay của nó ra. Thấy tôi hơi cắn môi, cô gái của tôi nắm lấy tay tôi lắc nhẹ
-Kệ họ mà anh! Vào đây ai chả thế

-Hình như cô bé ấy vừa vào nghề phải không?

-Vâng, nó mới vào làm ở đây được bốn hôm. Số con bé khổ quá. Mẹ nó đang nằm ở bệnh viện Bạch Mai. Ngày vào bệnh viện trông mẹ, tối lại làm ở đây

Điều cô tiếp viên của tôi nói làm tôi chú ý đến cô bé. Tôi quay hẳn người lại,nhìn thẳng vào thằng Hạnh làm cho nó phải rụt tay lại.Tôi bảo nó
-Này Hạnh! Đổi cho tao cô bé ấy đi

Thằng Hạnh ngần ngừ định phản đối thì thằng Hưng can thiệp
-Hạnh, thằng Duyên thích thì mày đổi cho nó đi. Mai tao đền cho mày một chầu khác

Thế là mọi việc đều êm thấm. Cô bé chuyển sang ngồi cạnh tôi. Tôi chú ý quan sát cô gái. Một cô gái còn rất trẻ,xinh gái.Mặt cô gái còn trắng bệch vì sợ hãi. Cô ta ngồi xuống cạnh tôi , người hơi dúm lại đề phòng.Tôi trấn an cô bé

-Em cứ ngồi thoải mái đi . Anh chẳng làm gì em đâu.Chúng ta chỉ ngồi nói chuyện thôi. Được chứ?

Cô bé lí nhí vâng một tiếng và nhìn tôi bằng con mắt ngạc nhiên xen lẫn với một chút nghi ngờ.Tôi cố nén một tiếng thở dài.Con người thơ trong tôi trỗi dậy.Nếu không phải là gặp cô bé ở đây, chỗ Karaoke nhớp nhúa này thì chắc là tôi đã có một bài thơ tình tuyệt hay để dành tặng cho đời.Tôi bóc một trái quýt đưa cho cô bé rồi nhẹ nhàng hỏi

-Em tên gì?
-Dạ , em tên là Thủy-Cô bé lí nhí trả lời

-Anh nghe bạn em nói bà cụ nhà em đang nằm viện. Bây giờ đã muộn rồi sao em không về đi?
-Về làm sao được.Bao giờ các anh chơi xong, chúng em nhận được tiền bo thì mới về được

-Thế bây giờ anh cho em tiền bo luôn thì sao?
-Cũng không được anh ạ

Tôi vẫy tay quản lí lại gần hất hàm về phía cô gái hỏi nhỏ
-Này, bây giờ tớ muốn dẫn cô gái này đi được chứ?

Tay quản lí hơi ngần ngừ. Tôi nhìn sang thằng Hưng cầu cứu. Nó vốn là đứa sành sỏi trong những chuyện này. Thằng Hưng can thiệp ngay. Nó bảo tay quản lí
-Gọi chủ quán ra đây. Vớ vẩn !Bảo với bà chủ của chú mày là bạn của anh Hưng muốn đưa một cô đi xem bà chủ của chú mày nói gì nào

Tay quản lí vội vàng nói
-Không !Không ! Em có dám nói gì đâu.- Hắn quay sang tôi –Anh cứ đưa em ấy đi cũng được ạ. Anh ra cửa rẽ tay phải đi độ hai trăm mét là có nhà nghỉ đấy

Tôi kéo cô bé đứng dậy nhưng cô bé chống lại. Biết cô bé hiểu nhầm mình . tôi vội vàng nói nhỏ
-Đi đi! Anh chỉ đánh tháo em ra khỏi chỗ này để em có thể về chăm sóc bà già thôi mà

Chúng tôi đứng dậy đi ra ngoài. Thằng Hưng chạy theo dúi vào túi tôi một nắm tiền. Tôi im lặng
Đã khá muộn, đường phố vắng vẻ. Tôi lấy xe rồi đưa cô bé về bệnh viện Bạch Mai. Lúc cô bé xuống xe, tôi móc túi lấy nắm tiền mà thằng bạn vừa đút vào đưa cho cô gái
-Tiền bo của em đây

Cô gái nhận tiền, lí nhí cám ơn rồi chạy vội về phía cổng bệnh viện. Tôi đứng lặng nhìn theo cô gái , trong lòng dấy lên một nỗi thương sót khó tả. Bỗng cô gái đột ngột dừng lại. Một thoáng phân vân rồi quay lại chạy về phía tôi. Khi còn cách tôi năm sáu bước chân thì cô gái không chạy nữa mà đi từng bước một rất chậm như thể vừa đi vừa nghĩ một điều gì. Cô đến sát bên tôi, cúi mặt nói rất nhỏ, giọng nghèn nghẹn

-Anh hãy ôm em một lúc đi
Tôi bàng hoàng không tin vào đôi tai của mình. Tôi định hỏi lại thì cô bé nhắc lại
- Anh ôm em một lúc đi, từ tối đến giờ anh có được hưởng một chút gì đâu

Ôi! Cô bé của tôi . Trong con mắt em tôi khốn nạn đến thế sao? Cổ họng tôi nghẹn đắng. cô gái đột ngột ôm choàng lấy tôi. Cả người em rung lên. Em khóc. Và nói với tôi qua dòng nước mắt

-Anh! Từ trước đến nay em chưa hôn ai. Kể cả khi em đi làm nghề này, em cũng không để cho ai hôn mình. Anh hãy hôn em đi! Em xin anh

Tôi ôm lấy em, đặt lên môi em một nụ hôn cay đắng đầy nước mắt.


Nguyễn Thế Duyên

Hansy
17-08-2014, 01:37 AM
13

CÓ HẬU

Phan Trang Hy
Tôi kể chuyện này có thật ít nhất cũng được 51%. Có thể bạn hỏi sao không là 100% mà lại là 51. Thôi thì, tôi cũng xin thú thật chỉ có 51% là thật, còn 49% là giả. Giả chứ không phải dối! Giả chứ không phải gian! Và bạn có thể cho tôi chỉ biết hư cấu, hư cấu theo cái cách của bọn làm văn nghệ. Cũng được, nếu bạn nghĩ như thế.

Chuyện là thế này.
Mà tôi bắt đầu kể như thế nào đây khi tôi chứng kiến tại xóm tôi có hai người. Cứ gọi tên cả hai là ông Thật và ông Giả. Tôi xin chú ngoặc xin lỗi những ai có tên trùng với hai ông ấy. Thật lòng tôi chẳng biết đặt tên khác được.

Vì là hàng xóm láng giềng, nên tôi chơi thân cả hai người. Biết hai người không ưa gì nhau, nên tôi cũng tùy thời cơ tạo mối quan hệ gắn bó. Thế nhưng, tội cho thân tôi, tội cho những việc làm, những nghĩ suy của tôi hòng làm cho ông Thật và ông Giả thân thiện nhau. Nhiều lần, tôi chơi oách, làm tiệc mời, nhất là tất niên mời cả hai đến dự. Cả hai chẳng thèm đến. Chỉ có bà con láng giềng. Hoặc năm khi mười họa, lão Thật đến thì lão Giả xin khất hẹn, khi lão Giả có mặt thì lão Thật vắng bóng. Dù cả hai không thèm gặp mặt nhau, nhưng bà con trong xóm thấy tính tôi hiền, lại thật thà, có chi nói nấy, nên bà con tin tưởng, giao cho tôi nhiệm vụ hòa giải, tạo sự liên kết mối tình hàng xóm láng giềng cho hai lão. Tôi mặc lời cảnh báo của vợ tôi: “Ông mà rớ vô chuyện của hai ông ấy thì phiền lắm đấy!”...

Không thể một lúc gặp được cả hai người, tôi chỉ còn cách tìm từng người để trò chuyện. Thôi thì đủ chuyện, đủ lời qua tiếng lại giữa tôi và họ. Thường là những sáng chủ nhật, tôi hẹn gặp họ uống cà phê. Một hôm, tôi gọi điện mời họ. Cả hai đều hứa sẽ đến quán. Tôi đến trước ngồi đợi. Lão Thật đến trước. Lão Giả đến sau. Chẳng thèm chào tôi, lão Giả quay lưng một mạch ra khỏi quán. Tôi chỉ còn biết cười trừ. Cả buổi sáng hôm ấy, lão Thật tâm sự hết với tôi những điều chất chứa trong lòng. Và có khi có chút gì vui vui, tôi gọi mời hai lão. Lão Giả đến trước. Thế là tôi và lão cụng li, nói chuyện rề rà suốt buổi. Còn lão Thật, có thể lão đến, nhưng không thèm ngồi với tôi vì bên tôi đã có lão Giả.

Như cái nhà kho sau vườn của những ông chủ giàu có, tôi đang tích trữ những tâm sự, những nỗi lòng của hai lão. Tôi nghe đủ cả niềm vui, nỗi buồn, sự lo lắng, thương yêu, gắt gỏng của cả hai. Tôi đựng chứa đầy ắp những tiếng cười, những giọt nước mắt của cả hai. Tôi xếp chồng trong tôi một mớ hỗn độn, xen kẻ giữa những ý nghĩ, hành động, lời nói, giữa những quá khứ, hiện tại và tương lai của hai lão.

Có lúc tôi mệt nhoài vì lời qua tiếng lại của hai lão mà chỉ có một mình tôi nghe, nhận lấy. Tôi thường nói đi nói lại cái điệp khúc với hai lão khi chia tay (chỉ một trong hai lão thôi): “Thôi mà! Cũng là bà con hàng xóm láng giềng, thương nhau chín bỏ làm mười . Có thế bà con hàng xóm mới vui!”. Chắc các bạn cũng đoán được lời của cả hai lão!...
Tôi có lúc chán vì chuyện bao đồng. Ngẫm đi ngẫm lại lời vợ tôi cũng có chỗ đúng. Nhưng rồi tôi nghĩ, mình ở giữa hai người, như là số mệnh đi. Đã là hàng xóm, tôi không thể chọn một trong hai để chơi. Phải chọn cả hai mới hợp lẽ. Vì lẽ nhà tôi nằm lọt giữa hai nhà của họ. Bên trái nhà tôi là nhà lão Thật, bốn tầng. Bên phải nhà tôi là nhà lão Giả cũng bốn tầng. Còn nhà tôi là nhà cấp bốn. Lọt phỏm giữa hai nhà, tôi chỉ còn biết cam phận làm người hòa giải chứ biết làm gì bây giờ. Không ai gần hai lão bằng tôi, xét về phạm vi không gian lẫn thời gian. Tôi cười vu vơ cho ý nghĩ không đâu vào đâu của mình.

Đang lúc suy nghĩ mông lung, tôi nhận được tin nhắn. Tôi mở di động ra xem. Không phải một tin, mà là hai tin. Tin thứ nhất: Mời thầy uống cà phê ở quán Hương Sen. Đó là tin của lão Giả. Còn tin thứ hai là của lão Thật cũng nội dung như lão Giả nhắn. Tôi không muốn làm mất lòng của hai lão. Tôi chẳng biết nên trả lời như thế nào đây. Nếu không trả lời, thì sợ cả hai trách. Tôi đang phân vân thì có tiếng vợ tôi: “Anh chuẩn bị xong chưa? Sáng nay anh chở em may áo quần mà”. Tôi sực nhớ lại lời hứa với vợ. Tôi bèn điện lại báo cho cả hai biết là tôi không thể đến uống cà phê được vì lí do rất ư là chính đáng. Thật may cho tôi. Tôi thầm cảm ơn vợ tôi đã cứu tôi bàn thua với hai lão hàng xóm.

Tôi chở vợ đi vòng vòng khắp phố, thư giãn sau khi cô ta tốn khoảng 1 tiếng 55 phút cho việc chọn vải và đo ở tiệm may Làm Đẹp. Gọi là thư giãn cho nó có vẻ nhàn nhã, chứ thật ra tôi chở vợ ghé chợ, tiện thể cô ta mua ít thức ăn cho bữa trưa. Mất thêm cả tiếng nữa ở chợ. Cả buổi sáng hôm ấy, tôi thoát cảnh khó xử với lão Thật và lão Giả, nhưng lại mang cái vòng nặng nợ vợ nhà. Tôi tự an ủi chính mình là có lúc phải như thế mới hợp với những bức tranh thư pháp ghi một loạt chữ “nhẫn” được bày bán, được tô vẽ bởi gương mặt của những người treo nó. Khi chở vợ về, tôi cố nở bung xòe nụ tươi, nhưng tôi cảm thấy từng cánh mày, cánh mép của tôi đang cụp xuống. Tôi vẫn cố làm như chẳng có gì. Vợ tôi thấy tôi có vẻ lạ, bèn hỏi: “Hôm nay, anh làm sao thế?”. Tôi ấp úng: “Chẳng có chi…, chẳng có chi...”. May mà còn 15 phút nữa là đúng 12 giờ, nên vợ tôi hối: “Chở em về nhanh đi anh!”. Lần đầu tiên, kể từ khi hai đứa lấy nhau đến giờ, cô ấy mới hối tôi như thế.

Tôi muốn kể về vợ tôi, về chuyện của hai đứa tôi cho các bạn nghe. Kể nhằm để quên lão Thật và lão Giả. Nhưng như ở phần đầu, tôi ở giữa hai lão. Muốn tránh hai lão cũng chẳng được. Vả lại, tôi là thầy giáo, đang mưu sinh bằng nghề dạy. Tôi nói mưu sinh là vì ngoài đồng lương nhận từ tiền thuế của dân, tôi phải dạy kèm thêm những đứa trẻ hàng xóm, trong đó có con của lão Thật và lão Giả.

Các bạn biết không? Rất là lạ. Con của hai lão lại thân thiết với nhau. Rất là thân là khác. Ngược hai lão 180 độ. Tôi lấy làm mừng vì các con của hai lão có tình thân như vậy. Bọn chúng là học trò của tôi kia mà. Thực ra, tôi dạy ở trường Cao Thắng, trong khi chúng học tại Phan Bội Châu. Tôi chỉ dạy kèm chúng từ lớp 6 đến lớp 9, lại kèm bộ môn văn, cái môn tưởng dễ, nhưng khó gặm, nên cũng có tình cảm thầy trò với bọn chúng.

Lão Thật có hai đứa con: trai đầu, gái út. Lão Giả cũng vậy. Hai đứa con trai của hai lão đều sinh giống cả ngày, tháng, năm sinh. Hai đứa con gái của hai lão kém anh 4 năm 2 tháng 12 ngày 6 giờ 15 phút.

Còn tên của các con lão lại hiệp nghĩa với từng lão như bất cứ người làm cha làm mẹ nào cũng muốn tên con mình có ý nghĩa gắn kết với mình. Thằng Nam, con Nữ là con của lão Thật; thằng Trai, con Gái là con của lão Giả. Cứ cho là cũng thuận tai: Thật – Nam - Nữ; Giả - Trai – Gái.

Nhân ngày 20 – 11, ngày lễ dành cho những người dạy học như tôi, một chút buồn, một chút vui, một chút bâng khuâng cho nghề nghiệp. Tôi đang ngồi đọc những bài thơ trong tập san của Sở giáo dục viết về nghề giáo, thì có tiếng gọi:
- Thầy ơi! Chúng em đến thăm thầy đây.

Ra mở cổng, thì ra là Nam và Trai, con của lão Thật và lão Giả đến thăm tôi. Hai đứa ra bộ thân ghê lắm. Mới đó mà chúng đã 28 tuổi rồi. Cùng chung lớp, chung trường, chung cả thầy dạy, kể cả tôi, giờ chúng lại cùng nghề. Công việc của bọn chúng cũng khá – khá theo cái kiểu kiếm khá tiền ấy mà.

Qua chuyện trò, tôi biết thêm về hai gia đình của lão Thật và lão Giả. Biết qua lời kể của Nam và Trai. Thật là kì cho hai lão. Thằng Nam nháy mắt với Trai, rồi nói:
- Thưa thầy! Ba em lạ lắm. Thấy bác Giả có thứ gì là ba em phải sắm thứ ấy cho kì được. Tết vừa rồi, bác Giả sắm được chậu mai cảnh, thì ba em cũng tìm cách có chậu mai như bác Giả.

Tôi nghe Nam nói thế, bèn nhớ lại. Đúng rồi! Tết vừa rồi đi thăm hàng xóm, lão Giả đã tâm sự với tôi: “Thầy thấy đó, lão Thật hơn gì tôi. Thấy tôi mua chậu mai, lão nóng mặt nóng mũi thế nào cũng mua chậu mai cho hơn tôi. Nhưng nào có hơn được. Chậu mai tôi mua 4 triệu, còn chậu mai lão có 3 triệu 9. Hơn gì được tôi, phải không thầy?”.
Thằng Trai lại ngắt lời Nam:

- Ba em cũng lạ lắm thầy ạ. Thấy bác Thật mua chiếc xe máy đời mới là ba em hối em đăng báo bán chiếc xe cũ, và mua chiếc xe giống như xe của bác Thật. Chỉ tội cho tụi em phải chiều ý của ba mình.

Tôi cười nhớ lại cái lần lão Thật tâm sự cùng tôi khi uống cà phê: “Thầy thấy đó, lão Giả hơn gì tôi, thấy tôi có xe, lão cũng mua xe. Bắt chước tôi thì có, thầy ạ!”.

Trong tôi, một chuỗi các sự việc, sự kiện của hai lão hàng xóm, sát cạnh nhà tôi hiện lên trong trí nhớ của mình. Nhà lão Thật có gì, thì lão Giả cũng phải tìm thứ ấy, dù chẳng biết để làm gì. Dẫu không thích đọc sách, nhưng thấy lão Thật sắm một tủ sách để đọc, để nghiền ngẫm, lão Giả bèn tìm cách lôi kéo tôi: “Thầy thích đọc sách gì cứ qua nhà tôi lấy mà đọc. Chữ nghĩa trong sách nhà tôi thiếu thứ gì. Đâu phải chỉ có lão Thật mới có sách? Tôi mới sắm một tủ sách ngon lắm. Thầy qua lão Thật làm gì cho mất công”. Tôi ầm ừ trả lời: “Cảm ơn! Khi nào cần, tôi sẽ qua mượn”. Lão Giả cười vui: “Nhớ nghe thầy!”. Còn lão Thật, trong một lần bách bộ, tôi cùng lão vừa đi vừa nói chuyện, lão mời tôi: “Mời thầy qua nhà tôi hát karaoke. Tôi vừa sắm một dàn máy xịn lắm”. Chả là lão sắm để cho bằng lão Giả ấy mà! Và từ đó, mỗi lần nhà lão Giả vang lên tiếng nhạc, thì nhà lão Thật cũng tiếng nhạc vang lên. Nhà tôi ở giữa, dù không sắm dàn máy, vẫn được nghe nhạc miễn phí. Giống như cửa hàng, siêu thị khuyến mãi trong các đợt giảm giá những mặt hàng gần hết hạn sử dụng cùng các mặt hàng lỗi thời, các mặt hàng ế..., tôi cũng được hai lão hàng xóm khuyến mãi những dòng nhạc, bài hát thịnh hành của thời hiện đại.

Một hôm, tôi bị ốm. Sốt cao. Giọng đờ ra, tôi như người mất tiếng nói. Tôi nằm liệt giường. Sau này, tôi biết cả hai lão hàng xóm nhắn tin mời tôi uống cà phê buổi sáng. Không thấy tôi nhắn lại, cả hai đến thăm tôi. Tôi không nhớ lão Thật hay là lão Giả thăm tôi trước. Trong đầu tôi như đun nóng bởi cái nóng khủng khiếp như chưa từng có. Tôi như không biết gì...

... Bên tai tôi có tiếng thì thầm của vợ: “Nè anh! Lão Thật chết rồi. Bị trúng gió chết. Tội cho lão thật!”. Vừa lúc đó thằng con trai tôi ở ngoài chạy vào, báo tin: “Ba ơi! Bác Giả chết rồi! Bị nhồi máu cơ tim”. Tôi vội dậy, đến thăm hai lão. Tôi không biết phải thăm ai trước, ai sau. Nhưng rồi, thuận theo quy luật âm thanh, tôi đến thăm lão Thật trước. Tôi không ngờ mới cùng lão trò chuyện, uống cà phê, giờ lão đã từ trần. Dù gì đi nữa, lão cũng là hàng xóm, là bạn hàng xóm của tôi. Biết tôi có thể viết chữ tương đối rõ, đẹp, nên gia đình lão nhờ tôi đã ghi cáo phó giúp, để gọi là... Xong việc, tôi lại đến thăm lão Giả. Như lẽ tự nhiên dành cho người có chút chữ, bà con hàng xóm nhờ tôi viết cáo phó cho lão Giả. Tôi không thể tin được. Hai lão đến cái chết cũng trùng nhau: cả hai đều từ trần cùng thời điểm – cùng giờ cùng ngày; kể cả năm sinh cũng như nhau; chưa hết, giờ nhập quan, thành phục, lễ viếng, đưa linh, di quan, hạ huyệt cũng trùng nhau; chưa hết cả hai an táng cùng một nghĩa trang. Chỉ có cái tên, cái họ là khác thôi.

Cả xóm tôi được nổi tiếng khắp quận. Nổi tiếng vì tin đồn có hai đám tang cùng xảy ra một lúc, lại gần nhau, chung một tổ dân phố. Cả hai đêm, cả tổ phải nghe những điệu nhạc ai oán bởi những nghệ nhân dân gian trình tấu. Kèn trống nổi lên. Âm thanh tang chế vang lên như báo cho mọi người biết kiếp người đang hết. Giờ, tôi không còn được hai lão khuyến mãi dàn âm thanh hifi khi cả hai ra sức hát karaoke nữa. Giờ, tôi cũng không còn được hai lão khoe những quyển sách; cũng không còn ai rũ đi uống cà phê. Tôi đang được gia đình hai lão khuyến mãi điệu sầu bi.

Cả hai gia đình lão cùng thuê dịch vụ mai táng một chỗ. Việc mai táng tiến hành đồng thời. Trong khi đưa tang hơi lộn xộn một tí. Gọi là một tí vì không biết nên di quan tài của ai trước. Cuối cùng một sáng kiến cực vui trong tang lễ là làm cái lễ bốc thăm để có quyền di quan trước. Chứng kiến lễ bốc thăm, tôi sực nhớ tới những năm tháng khó khăn, có được mặt hàng phân phối nào là phải tiến hành bốc thăm để được nhận. Giờ, không thể không bốc thăm, vì hai gia đình ai cũng muốn xong việc di quan, an táng. Chỉ tiện cho hàng xóm khi đưa tang là lên bất cứ xe nào cũng được, vì tất cả các xe đưa tang đều cùng đến một chỗ. Chợt có tiếng ai đó như đang đùa khi xe chạy được một quãng: “Tất cả cùng về La Mã”.

Ngồi trên xe đưa tang, tôi chợt nhớ tới việc làm của hai lão. Cả hai, chẳng ai chịu thua ai. Khi lão Thật dành dụm tiền, sắm cho vợ cái vòng vàng, đeo ở cổ tay, thì lão Giả, chẳng biết nghe ai, cũng mua chiếc vòng giả vàng để đeo cho vợ. Lão Giả đã khoe với tôi: “Thầy biết đó, thời buổi này, làm đẹp, tội gì mua vàng thật. Lỡ bị cướp, bị trấn lột thì khổ! Thật quá hóa ngu mà thầy”. Nghe lão khoe, tôi chỉ cười trừ cho cái lí sự của lão. Chưa hết, lão còn lên lớp tôi: “Thầy thấy ở cuộc đời này, có bao nhiêu thứ thật thì có bấy nhiêu thứ giả. Có Phật thật, thì cũng có Phật giả; có tiền thật thì cũng có tiền giả; có bằng cấp thật thì bằng cấp giả thiếu gì; đạo đức thật có đó, thì cũng có đaọ đức giả thôi... Có bao nhiêu thứ thật thì có bấy nhiêu thứ giả ở trên đời... Nhiều khi, những thứ giả lại cần hơn những thứ thật kia mà!”. Nghe lão nói một hơi, tôi nghiệm ra lời lão cũng có điểm đúng. Cây mai giả lão mua, đã chưng 5 cái Tết rồi mà vẫn còn đẹp, luôn hợp thời; chớ mai thật như của lão Thật, có năm mai nở sớm, có năm mai nở muộn, thì chẳng có mai để chưng Tết. Hoặc như mấy thằng cha có bằng giả mà làm chức này chức nọ lại có quyền lợi hơn những người có bằng thật và sống thật. Hoặc đâu đó, có kẻ sử dụng âm vật giả, dương vật giả, đôi khi lại rung, bóp hơn cả thật, chớ chẳng chơi đâu... Tôi thở dài cho chuyện thật giả.

Rồi xe cũng đến nghĩa trang. Hai cái huyệt của hai lão nằm sát bên nhau. Khi cả hai quan tài nằm yên dưới ba tấc đất, người thân, bà con, bạn bè đã bỏ chút đất cho người dưới mộ. Tôi nắm đất hai tay, cùng bỏ một lượt xuống hai huyệt. Tôi thầm khấn: “Hai người giờ đã yên phận. Chắc cả hai không còn tranh hơn thua. Xin chúc hai người an lạc bên nhau!”.

... Tôi chợt tỉnh giấc. Đầu tôi vẫn còn nặng trịch.
Mấy ngày sau, tôi khỏe hẵn. Lại đến trường dạy. Chuẩn bị cho hội trại mừng ngày thành lập trường, học sinh lớp tôi chủ nhiệm đang tập văn nghệ. Chúng đã kéo tôi vào sự đam mê của chúng. Chúng nhờ tôi cho ý kiến về kịch bản, cách đóng... Đọc kịch bản, tôi thấy bọn nhỏ bây giờ khác thế hệ chúng tôi trong cách nghĩ. Chúng có cái hay, cái đúng của chúng. Cuộc sống tương lai đâu có dành cho những kẻ chớm lão như tôi. Cuộc sống của chúng thì để cho chúng quyết định. Thế hệ chúng tôi nào có quyết định được gì khi không còn hơi sức để làm việc.

Và rồi, tin lão Thật và lão Giả làm sui với nhau làm cho cả xóm tưng hửng. Trừ tôi! Thằng Nam thì lấy con Gái. Thằng Trai thì lấy con Nữ. Bọn chúng đã làm cho cha chúng vào cái thế chẳng đặng đừng. Dù hai lão không ưa nhau, nhưng con cái hai lão ưa nhau, thì chúng có quyền bắt hai lão phải chiều chúng. Chúng dọa, nếu chẳng sống được cùng nhau thì chúng chẳng thèm lấy ai, để cho gia đình hai lão tiệt nòi. Sợ tiệt, nên hai lão tìm đến tôi phân trần. Tôi đã thuyết phục hai lão nên vì con mà chấp nhận cho chúng lấy nhau. Chúng quyết định đời chúng, chứ những người thuộc thế hệ như hai lão, như tôi, thì có quyết định được gì cho cuộc sống sau này của chúng. Tôi đưa ra cái lí là bọn chúng lấy nhau không vi phạm đạo đức, không vi phạm luật pháp. Chẳng có điều gì khó xử ngoài chuyện niềm vui nhân theo cấp số nhân.

Hai lão đồng ý trở thành sui gia. Và ngày cưới của con các lão cũng trùng nhau. Cả hai đều thống nhất ngày rước dâu, đưa dâu. Thống nhất tổ chức hôn lễ tại nhà hàng lớn của thành phố. Hai lão nhờ tôi giúp ý kiến in thiệp cưới, thiệp mời như thế nào cho phải. Tôi cười:
- Hai bác lo gì chuyện ấy. Tôi nghĩ nên ghi cả tên vợ chồng các bác và tên thằng Nam - con Gái, thằng Trai – con Nữ vào cả.

Cả hai lão ôm tôi, ghì chặt lấy tôi. Người tôi có chút đau bởi vòng tay của hai lão. Tôi đau, nhưng hạnh phúc, hạnh phúc bởi hai lão là hàng xóm của tôi, không còn ganh ghét nhau nữa.

Tôi mường tượng trước mắt tôi, cháu của hai lão xúm xít bên nhau. Cháu nội của lão Thật là cháu ngoại của lão Giả; còn cháu nội của lão Giả là cháu ngoại của lão Thật. Bọn chúng vui hát bên nhau. Chúng hát rằng chúng có ông nội, ông ngoại tên là Thật, là Giả. Và bên tai tôi vẳng lên bài hát “Đám cưới đầu Xuân”.

Bạn có cùng tôi dự đám cưới con của hai lão không? Xin mời bạn đi coi cũng được!


Tháng 2 -2012
Phan Trang Hy

Hansy
18-08-2014, 01:15 AM
14

Cô học trò đặc biệt

Hoàng Trọng Muôn

Mưa bắt đầu rơi rả rích từ đêm hôm qua cùng với vài chiếc lá vàng lìa cành theo gió đu mình bên cửa sổ. Trời đã sang thu, hơi rét ngọt của những cơn gió heo may đã bắt đầu len nhẹ vào phòng ngủ của mọi người làm ai cũng có một cảm giác lâng lâng, dễ chịu trong chiếc chăn mỏng manh khi mỗi sớm mai thức dậy.

Nghĩa cựa mình tỉnh giấc, vươn vai hít thở thật sâu cái không khí trong lành, êm dịu của buổi sáng mùa thu. Anh nhìn quanh phòng một lượt, nhưng chưa có ý muốn rời khỏi giường mà chỉ hé mở cửa sổ cho một vài chiếc lá vàng còn giắt trên thành cửa, bay la đà xuống dưới. Mấy người bạn sinh viên cùng phòng cũng chưa ai dậy vì sáng nay là chủ nhật, không phải đi học. Sinh viên vẫn có thói quen ngủ vùi vào mỗi sáng chủ nhật mà, bởi chỉ có những ngày chủ nhật, họ mới thực sự được nghỉ ngơi, được ngủ thoả thuê cho lại sức. Anh cảm thấy lòng mình lâng lâng những cảm xúc êm ái, dịu dàng về những ngày chớm thu, về những cơn mưa ngâu rả rích, về những mái phố xao xác heo may và cả công việc của mấy bà dọn vệ sinh trong trường vì mỗi lần quét lá xong đằng trước, lá lại thi nhau bay về phía đằng sau như trêu chọc, như thách thức. Và anh chợt mỉm cười khi nghĩ đến một tà áo dài trước cổng trường bị gió quét những lớp bụi mỏng tang trên mặt đường, tung lên trước mặt, phải giơ tay che che phía trước.

Long mở cửa, gió lạnh ùa vào phòng làm Nghĩa rùng mình kéo vội tấm chăn mỏng chùm kín lên người. Hôm nay, không hiểu sao Long lại dậy sớm thế, chắc là chuẩn bị cho một buổi hẹn hò thú vị. Vắt chiếc khăn ướt lên dây, Long bảo với Nghĩa:

- Sáng nay trung tâm gia sư hẹn mày đến nhận địa chỉ, sao mày còn chưa dậy?
Nghĩa thò đầu ra khỏi chăn, mặt đăm chiêu:
- Tao không còn đủ tiền nhận địa chỉ. Mà có thừa tiền tao cũng chẳng nhận cái địa chỉ vớ vẩn ấy.

Nghĩa lại kéo chăn trùm kín đầu. Anh không còn cảm nhận được những cảm xúc ấm áp, lâng lâng như lúc nãy nữa mà bắt đầu tự vấn bản thân mình với những câu hỏi kỳ quặc và ngớ ngẩn. Hôm qua, khi đến trung tâm nhận địa chỉ, anh đã rất khó chịu và cảm giác khó chịu ấy lại bắt đầu trỗi dậy trong lòng anh, khi anh nghĩ đến nó. Bao nhiêu lần anh làm gia sư, bao nhiêu địa chỉ gia sư anh đã từng giảng dạy trong suốt những năm tháng sinh viên của mình, nhưng đây là lần đầu tiên và có lẽ cũng là lần duy nhất anh gặp phải một trường hợp lạ lùng và trớ trêu như vậy. Học trò mà anh được gọi đến để giảng dạy không phải là học sinh phổ thông bình thường như những địa chỉ gia sư khác, mà lại là một sinh viên năm cuối của trường Trung cấp Thương mại.

Đó là một học trò nữ, có lẽ chỉ ít hơn anh một hoặc hai tuổi gì đó, đang muốn thi tiếp vào trường Đại học ngoại ngữ nên yêu cầu trung tâm tìm giúp gia sư dạy văn. Có một điều lạ lùng là cô học trò này chỉ yêu cầu gia sư là một nam sinh viên sư phạm, học năm thứ ba hoặc năm cuối, có ngoại hình cân đối, đẹp trai, chưa có người yêu, có khả năng sư phạm, có khả năng giao tiếp tốt và phải đưa đón cô ấy đi học ngoại ngữ vào các buổi tối sau khi học xong môn Văn buổi chiều. Tất nhiên là tiền công gia sư rất cao. Có lẽ đó là một cô bé kiêu kỳ và tự phụ? Dù sao thì Nghĩa cũng không chịu đựng nổi khi học trò của mình coi mình chỉ là một đứa trẻ con đến làm trò để mua vui. Với lại, Nghĩa là sinh viên khoa Giáo dục chính trị chứ có phải là khoa Văn đâu, mà là do anh đăng ký dạy Văn ở tất cả các cấp nên mới bị tóm vào địa chỉ dạy Văn này.

Nghĩa rời khỏi giường sau khi ngủ thêm được một giấc khá dài. Ngoài trời vẫn còn mưa nhưng cả phòng có lẽ đã dậy từ khá lâu rồi và đang chuẩn bị lục tục xuống căng tin ăn cơm trưa. Nghĩa cảm thấy bụng mình đói cồn cào và anh tin rằng mình sẽ có một bữa ăn rất ngon miệng. Dù sao anh cũng không còn bận tâm và khó chịu về cái địa chỉ gia sư kia nữa. Có lẽ, buổi chiều anh phải đạp xe lòng vòng qua các trung tâm khác để hỏi địa chỉ. Anh rất cần có việc làm thêm.

Long chạy lên phòng bảo Nghĩa xuống nghe điện thoại nhưng Nghĩa đã đoán được là trung tâm gia sư gọi điện cho anh. Anh bảo Long nói giúp với dịch vụ điện thoại là anh không có nhà. Long ngạc nhiên, chần chừ định nói điều gì đó nhưng lại thôi, lặng lẽ bỏ đi.

Cả phòng kéo nhau đi ăn cơm nhưng Nghĩa bảo mình chưa muốn ăn. Anh muốn ngồi lại một mình trong phòng để nghĩ. Anh cũng không hiểu mình cứ phải nghĩ nhiều như thế để làm gì? Nhưng anh cũng đâu có thể gạt bỏ được khỏi suy nghĩ của mình một cách dễ dàng cái địa chỉ gia sư béo bở nhưng lại kỳ quặc kia. Nó cứ ám ảnh anh mà không tài nào dứt ra được. Không hiểu sao anh lại cứ phải khổ sở vì nó đến thế? Anh nghĩ, có lẽ là vì anh muốn kiếm thêm tiền để phụ thêm số tiền trợ cấp ít ỏi của gia đình bởi cuộc sống sinh viên có biết bao nhiêu thứ phải chi tiêu. Nhưng có lẽ cũng không đơn thuần là như vậy. Những năm đầu, anh đi gia sư có thể là vì tiền bởi cuộc sống sinh viên còn dài dằng dặc ở phía trước, nhưng bây giờ thì không. Anh sắp ra trường rồi, dù gì thì cũng sắp là một thầy giáo, một thầy giáo thực sự bắt đầu sống bằng nghề nghiệp của mình. Một thầy giáo trẻ còn chưa có gì, đang phải bắt đầu tự khẳng định mình thì không thể bán rẻ danh dự của mình được. Nghĩ thế và anh có phần thấy yên tâm hơn, tạm bằng lòng, cho rằng mình quyết định đúng.

Có tiếng gõ cửa nhè nhẹ, nhát gừng có vẻ khá rụt rè. Lại ông tướng nào muốn trêu mình đây. Anh không ngồi dậy, vẫn nằm dài trên giường tầng nói vọng ra cửa, giọng có vẻ bực bội: "Cửa mở đấy, cứ vào đi". Chỉ đến lúc anh giật mình nghe tiếng chào của một cô gái, Nghĩa mới ngồi bật dậy, xin lỗi và mời vào phòng. Ngay cái nhìn đầu tiên anh đã bị cuốn hút và rất ấn tượng trước một khuôn mặt trắng trẻo, xinh xắn, dịu dàng và một bộ đồ hết sức giản dị nhưng rất hợp và đẹp.

Cô gái nhỏ nhẹ hỏi:
- Anh là Nghĩa ạ?
Nghĩa hơi ngạc nhiên và nhìn cô dò xét. Có lẽ anh cũng lờ mờ hiểu ra cô gái này là ai.
Không đợi Nghĩa phải hỏi, cô gái tự giới thiệu một cách khá tự tin và cởi mở:
- Em ở trung tâm gia sư đến.

Nghĩa không hề ngạc nhiên bởi điều anh dự cảm đã hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, anh cũng hơi thắc mắc và cảm thấy vô cùng khó hiểu khi trung tâm gia sư lại cử người đến tận phòng của anh. Chưa bao giờ anh được nghe về một trung tâm gia sư nào lại tận tâm và nhiệt tình với gia sư như thế. Chẳng lẽ anh lại quan trọng đến thế sao? Quan trọng đến nỗi không ai khác có thể thay thế vào đó được? Hay vì số tiền phần trăm quá béo bở của địa chỉ kia mà trung tâm không muốn đánh mất, phải nhọc lòng vào tận đây? Nghĩ thế nên anh không thể kìm chế được sự bực bội của mình:

- Hôm qua, tôi đã nói rất rõ ràng là mình không có khả năng dạy Văn ôn thi đại học vì tôi có học ở khoa Văn đâu.
Cô gái nhìn thẳng vào mặt anh, nói rất thẳng thắn:

- Anh đã từng đăng ký với trung tâm rằng, anh là cựu học sinh chuyên văn, từng có mặt trong đội tuyển thi học sinh giỏi môn Văn quốc gia và có giải. Anh đã nói là anh có thể dạy được Văn ở mọi trình độ từ phổ thông đến ôn thi đại học. Chúng tôi rất tin là anh sẽ dạy được. Mà có nhiều gia sư, chỉ vì muốn có địa chỉ đi dạy nên đăng ký bừa cả những môn mình không có khả năng, cũng có sao đâu?

Nghĩa bực mình quát lên:
- Nhưng tôi khác họ. Tôi sắp là thầy giáo. Tôi không thể dễ dãi với chính mình được.
Cô gái biết là mình đã lỡ lời nên ngồi im, đôi mắt trong veo mở to nhìn Nghĩa một cách tội nghiệp. Anh cũng dịu xuống, khá bối rối về thái độ của mình vừa rồi:

- Mong bạn hiểu cho tôi, tôi không muốn biến mình thành một trò đùa cho những địa chỉ như thế. Trung tâm có thể bố trí địa chỉ khác cho tôi được không?

Cô gái mở to mắt nhìn anh, có vẻ như không hiểu những gì anh vừa nói. Lát sau, gương mặt cô gái dịu xuống, nở nụ cười tươi rất xinh làm Nghĩa chợt thấy xốn xang. Cô nhìn Nghĩa với ánh mắt khá tinh nghịch:

- Dù sao bây giờ cũng đã là mười hai giờ trưa rồi. Chẳng lẽ anh lại không thể mời khách xuống ăn một bữa cơm căng tin được hay sao?

Nghĩa mỉm cười, lúng túng gật đầu. Có lẽ chính anh đã cảm thấy mến cô gái xinh đẹp và tự tin này. Anh đã cố lục lọi trong trí nhớ xem mình đã gặp cô gái này ở trung tâm gia sư bao giờ chưa. Hình như là chưa bởi mấy thành viên của trung tâm anh còn lạ gì họ.

Cô gái tự tin kéo ghế ngồi chờ Nghĩa đi gọi thức ăn. Cô bảo với Nghĩa mọi ngày ăn như thế nào thì hôm nay cũng cho cô ăn như vậy. Nhìn dáng anh đi lại và vẻ mặt bối rối của anh thỉnh thoảng lại nhìn trộm về phía cô, cô cũng bối rối quay đi, mặt đỏ ửng lên.. Nghĩa bắt đầu thấy mình có cảm tình với cô gái và anh chợt bâng khuâng, chợt nghĩ vẩn vơ. Suốt bữa ăn, cả hai không nói gì với nhau, chỉ giục nhau ăn và bối rối nhìn nhau.

Ngoài trời, mưa đã tạnh. Ánh mặt trời buổi trưa le lói những tia nắng mỏng tang, yếu ớt không xiên qua được mấy tán lá của cây bàng còn non nớt trước cửa căng tin. Không hiểu sao hôm nay Nghĩa không muốn ăn. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời anh đi ăn cơm với một cô gái, mà cô gái đó lại không hề quen biết hay thân thích gì. Có lẽ vì thế mà anh không ăn được chăng? Có thể cô đã để lại trong anh nhiều ấn tượng mới lạ làm cho anh cứ phải trăn trở, cứ phải suy nghĩ mà không ăn được. Thỉnh thoảng, anh lại liếc nhìn trộm vị khách của mình đang ăn uống rất tự nhiên, thong thả và thỉnh thoảng còn cười với Nghĩa nữa. Bọn cùng phòng ăn cơm xong, đi qua chỗ Nghĩa vừa huýt sáo, vừa nhìn anh với ánh mắt dò xét, trêu chọc. Long hỏi mượn xe nhưng anh bảo chiều mình còn phải đi tìm địa chỉ gia sư ở những trung tâm khác nữa. Cô gái nhanh nhảu:

- Em có xe mà. Chiều em cũng không bận gì đâu.
Cả Long và Nghĩa đều rất bất ngờ trước câu nói rất vô tư, hồn nhiên của cô, như anh đã từng quen thân từ lâu. Hình như đoán được suy nghĩ của anh nhưng cô vẫn không hề biến đổi sắc mặt, tự tin nhìn thẳng vào anh chờ đợi. Nghĩa không từ chối Long được nữa nhưng anh bắt đầu có ý dè chừng với cô gái và cảm thấy có điều gì đó không ổn trong chuyện này. Long sung sướng cầm chìa khóa xe đạp của Nghĩa, nháy nháy mắt với anh rồi lẩn mất sau căng tin.


***

Nghĩa đèo cô gái chạy lòng vòng tới mấy trung tâm gia sư liền nhưng trung tâm nào cũng bảo anh phải chờ, bao giờ có địa chỉ, họ sẽ liên lạc với anh. Bao năm làm gia sư, những chuyện như thế này là điều anh đã biết trước nên cũng không hề ngạc nhiên, chẳng hề thất vọng. Chỉ có một điều anh cứ mãi băn khoăn là sao mỗi lần như thế, cô lại động viên anh, giục anh đi tìm tiếp ở những trung tâm gia sư khác mà anh đã đăng ký. Nghĩa cười thầm vì anh chợt nghĩ sao lại có trung tâm gia sư tốt đến thế không biết, đã cử người đi cùng anh tới các trung tâm khác, lại còn biết cách an ủi, động viên anh mỗi khi có trung tâm nào đó bảo anh phải chờ. Chẳng lẽ cô gái này bị tâm thần? Hay cô ta biết trước là các trung tâm khác cũng không có địa chỉ nên đi theo để tạo cơ hội cho anh quay lại nhận địa chỉ dạy văn kia mà trung tâm của cô ấy chưa tìm được ai? Nếu vậy thì cô gái thật thông minh và anh thật quan trọng. Chẳng lẽ cái địa chỉ dạy văn kia lại làm cho trung tâm phải khổ sở đến thế sao?

Nghĩa dừng xe trước cửa trung tâm gia sư cuối cùng mà anh đã đăng ký. Cô gái ngồi trông xe và đợi anh ở ngoài. Người ta tiếp anh thân mật, hồ hởi nhưng anh vẫn cảm thấy có điều gì đó giả dối, khiên cưỡng. Gã giám đốc trung tâm chưa đợi anh hỏi, đã nói ngay:
- Có vài địa chỉ dạy cấp II, trả lương rất cao, tuần 5 buổi, mỗi buổi 50 nghìn tiền công, tháng có thể kiếm ngon ơ một triệu đồng.

Gã giám đốc trẻ măng vừa nói xong, mặt đã vênh lên làm cao khiến anh tức nổ đom đóm mắt, chỉ muốn đấm cho gã một quả vào mặt. Cố gắng kiềm chế cảm xúc của mình, anh nài nỉ gã:
- Anh cho tôi nhận đi, tôi dạy được mà.

Gã giám đốc cũng trạc tuổi Nghĩa, có lẽ cũng đang là sinh viên của một trường đại học nào đó ở Hà Nội này, cười rất khó hiểu. Rồi gã thủng thẳng:
- Nhưng hơi bị xa đấy - Hắn ngập ngừng chốc lát rồi nói tiếp - Không phải ở trong nội thành Hà Nội này mà ở ngay... thành phố Hồ Chí Minh!

Nghĩa điên tiết lên nhìn hắn làm hắn hoảng hốt thực sự, co rúm người lại, mặt méo xệch đi, không dám nói thêm một câu nào nữa. Anh gạt mạnh cuốn sổ đăng ký gia sư của gã xuống đất rồi bỏ đi. Có lẽ anh cũng không thể hình dung được là sẽ có cả trò đùa dành cho con nít ở đây. Dù sao trung tâm này cũng làm cho anh hiểu rằng: nó đang sắp chết. Anh biết rằng, các trung tâm gia sư thường chỉ mọc lên nhiều vào mùa hè vì thời gian đó làm ăn được do học sinh có nhu cầu học thêm trong hè rất cao, rồi sau đó các trung tâm giải tán dần. Có lẽ chỉ có ai còn được gia chủ giữ lại sau dịp hè vừa rồi là bây giờ vẫn còn địa chỉ dạy ổn định, chứ mới đầu năm học như thế này, học sinh ít có nhu cầu tìm gia sư lắm, nhất là với môn văn thì càng hiếm hoi.

Thấy anh mang theo một bộ mặt cau có, bực dọc và mệt mỏi, cô gái chạy đến hỏi:
- Thế nào anh?
Anh chán nản lắc đầu:
- Cũng vậy thôi. Bây giờ tìm được địa chỉ đi dạy khó quá. Có lẽ tôi phải tìm việc khác để làm thêm.

Nghĩa quay sang cô gái:
- Cảm ơn bạn đã rong ruổi cùng tôi suốt buổi chiều hôm nay. Bây giờ tôi muốn đi lang thang một mình, bạn về trước đi.

Nghĩa lững thững đi bộ dọc hè phố, hai tay xỏ vào túi quần, thỉnh thoảng lại đưa lên vuốt ngược mái tóc ra đằng sau, mặc kệ cô gái lẽo đẽo dắt xe máy theo sau, lặng lẽ chẳng nói gì. Anh dừng lại bên Bờ Hồ, chọn một chiếc ghế đá rồi mệt mỏi thả mình xuống. Cô gái dựng xe trước mặt rồi rụt rè ngồi xuống bên cạnh anh. Cô nhìn anh trong giây lát rồi mới lên tiếng:

- Hay là anh nhận địa chỉ dạy văn mà hôm qua trung tâm giao cho anh đi. Em tin là người ta thuê gia sư rất nghiêm túc chứ không có ý đùa cợt gì đâu.

Nghĩa nhìn sâu vào mắt cô gái và anh nhận ra cô đang nói rất thật và nghiêm túc chứ không có vẻ gì là trêu chọc hay thăm dò. Anh lơ đãng nhìn ra xa, trầm ngâm suy nghĩ. Rồi anh quay lại, cũng rất thật như cô gái, anh cởi mở lòng mình:

- Nhưng người ta thuê dạy nhiều buổi trong tuần, tiền công lại trả rất cao, tôi đào đâu ra đủ tiền để nộp cho trung tâm 50% tháng lương đầu tiên ngay bây giờ?

Cô gái cười rất tươi, đi lại phía trước mặt Nghĩa, ngồi xuống ghế đối diện với anh:
- Anh không phải trả trung tâm một đồng nào cả.

Thấy anh có vẻ ngơ ngác, không hiểu, cô nháy mắt tinh nghịch:
- Vì em chính là người muốn tìm gia sư đây mà.

Nghĩa ngạc nhiên thực sự. Anh mở to mắt nhìn cô gái đang ngồi trước mặt mình nhưng anh lại nhận thấy cô ta nói thật. Anh đứng dậy, vẻ mặt hết sức đăm chiêu. Chưa bao giờ anh gặp phải một tình huống quái lạ như thế này. Nhưng rồi anh cũng hiểu ra tất cả. Sáng nay cô ta được gọi đến trung tâm gia sư để nhận gia sư xem có hợp theo ý muốn của mình không và ký hợp đồng. Chờ suốt cả buổi không thấy anh đến nên khi trung tâm mở sổ ra gọi điện cho anh thì cô đã xem trộm được địa chỉ và đến đây. Anh quá bất ngờ trước một tình huống mà đến nghĩ, anh cũng không thể nghĩ ra.

Cô gái nhìn theo diễn biến tâm trạng trên gương mặt của anh, thỉnh thoảng cúi xuống mỉm cười. Lúc sau, cô hỏi anh:
- Anh có nhận địa chỉ này không?

Nghĩa gật đầu làm cho cô gái sung sướng nắm lấy tay anh gọi to: "Thầy!" làm cả hai cùng bối rối. Vài người đi qua nhìn họ với con mắt hiếu kỳ. Nghĩa nhớ ra là anh chưa biết tên học trò, liền nghiêm sắc mặt:
- Nhưng thầy chưa biết tên em là gì?

Cô gái đứng nghiêm, khoanh tay trước ngực lễ phép:
- Thưa thầy, em tên là Hiền Anh!

Anh thấy mình thật hạnh phúc và cũng thật ngượng ngùng, xấu hổ khi thoáng qua những suy nghĩ về cô học trò này trong đầu. Chiều chủ nhật, mọi người dạo quanh Bờ Hồ thật đông, thật thong thả và thảnh thơi. Còn anh, theo đề nghị của cô học trò đặc biệt này, anh chầm chậm chở cô đi dạo phố và đi ăn kem. Ráng chiều ửng hồng thật đẹp.


Tháng 9 - 1999
Hoàng Trọng Muôn
(In trong tập Lặng lẽ tháng Mười - Tập truyện ngắn - NXB Thanh Niên, 2005)

Hansy
18-08-2014, 11:54 PM
15

Công Chúa Mỵ Nương Sang Mỹ

ThaiNC

- Em bé, dậy chị bảo.
Bé Việt nghe loáng thoáng tiếng ai đang gọi, nhưng nó giả vờ không hay, co rút người lại và kéo tấm chăn vốn đã trùm kín người.. kín thêm một chút nữa. Kỳ quá. Ngày mai là Thứ Bảy sao má lại kêu dậy sớm vậy cà !

-Ngoan nào, dậy chị nói cái này. Đừng làm bộ ngủ nữa.

Lần này thì bé Việt chẳng những cảm thấy có ai vỗ nhẹ vào mông, mà nghe rõ mồn một: không phải tiếng của má. Lại còn xưng “ chị" nữa chứ. Lạ quá. Chị nào?
Bé bỗng tỉnh cơn ngủ, kéo một góc mền vừa đủ một con mắt nhìn ra bên ngoài.
Nó ngạc nhiên quá. Sự thực rõ ràng chứ nào phải mơ. Nó thấy có một chị thiệt đẹp và còn trẻ lắm, trẻ hơn má nhiều đang mỉm cười vẩy tay chào. Ủa.

- Who are you? Bé ngôì dậy dụi mắt hỏi
- Ta là Công Chúa Mỵ Nương.
- Princess? But you're not SnowWhite…

- Chị là công chúa Việt Nam. Tên chị là Mỵ Nương.
- I don't know you- bé Việt vùng vằng.- I don't know Vietnam !

Công Chúa Mỵ Nương dịu dàng ngồi xuống giường
-Tội nghiệp em. Em sinh ra ở Mỹ, quốc tịch Mỹ, nhưng có phải người Mỹ đâu nà!
- How come? Bé Việt ngạc nhiên

Công chúa Mỵ Nương vuốt tóc bé nói
- Này nhé, ba má em đều là người Việt Nam, phải không? Và em cũng biết tiếng Việt mà. Em thử nói tiếng Việt chị nghe nào.
- Dạ được, nhưng I am American.

Bé Việt bỗng cảm thấy mến "chị" Công Chúa này quá nên bé ráng dịch lại câu nói của mình thành ra nửa Việt nửa Mỹ. Vậy là bé đã cố gắng lắm rồi. Thông thường nghe tiếng Việt thì bé hiểu, nhưng khi nào cũng buột miệng trả lời bằng tiếng Mỹ.
Công Chúa Mỵ Nương bật cười.

-Ô, không đâu. Em vẫn là người Việt Nam đó. Này nhé: ba má em đều là người Việt nè.
Em biết nói tiếng Việt nè, ngưòi Mỹ đâu biết, phải không? Tóc em đen nè, người Mỹ họ tóc vàng mà! Mắt em nâu nè, người Mỹ họ mắt xanh đó! Và… Công Chúa chỉ một ngón tay vô mũi bé Việt, cười- Cái mũi tẹt nè. Hi Hi Mỹ đâu có mũi tẹt như vầy..

Lần đầu tiên bé Việt thấy quả nhiên là mình khác người Mỹ, nhưng vẫn chưa chịu, nó cãi;
-Vậy là em giống …China hả chị?

Công chúa Mỵ Nương ngạc nhiên
-Sao em lại giống Tầu?, À quên, China. China có gì hay?
-China có MULAN . Mulan gỉỏi lắm đó chị.

- Mulan trong phim đó hả. Chị biết rồi. Mulan cũng giỏi, nhưng làm sao bằng được Trưng Trắc Trưng Nhị của Việt Nam?

Bé Việt kinh ngạc
-Trưng Trắc Trưng Nhị nào?

- À, để chị kể em nghe chuyện của Trưng Trắc Trưng nhị nhé: Từ xưa, lâu lắm rồi, China và Việtnam là hai nước ở kế nhau, nhưng China khi nào cũng ỷ mình nước lớn, ăn hiếp và cai trị Việtnam hoài. Trưng Trắc Trưng Nhị là hai chị em người Việt đã nổi lên đánh cho China phải chạy về…Tầu và làm vua nước Việt trong mấy năm. Đó, Mulan đâu được làm vua, phải không?

Bé Việt reo lên
-Wow! "chị" Trưng giỏi quá. Giỏi hơn Mulan.
Rồi bé quay lại hỏi
- Còn chị là ai? Có phải là "chị" Trưng không?

-Em bé mới đó đã quên. Chị là Mỵ Nương, không phải " chị" Trưng đâu
Bé Vìệt bỗng nhớ ra
-À chị là công chúa Việt Nam. Nhưng sao chị lại …ở đây vậy? Bé hỏi

Công chúa dịu dàng kể
- Chuyện của chị là như vầy: Chị là con của vua Việt Nam Hùng Vương thứ 18. Khi chị lớn lên và phải lấy chồng, có hai người đến cầu hôn. Một người tên Sơn Tinh, là thần núi, người kia là Thủy Tinh, thần sông. Vua cha ta hẹn hôm sau người nào mang lễ vật tới sớm hơn sẽ cưới được chị. Hôm sau Sơn Tinh mang lễ vật tới trước cưới chị về. Nhưng người kia là Thủy Tinh vốn xấu tính không chịu thua nên hằng năm cứ giận dữ làm nước dâng lên thành lụt lội thiên tai cho dân nước ta phải chịu khổ triền miên. Tuy không phải lỗi của chị, nhưng suy cho cùng thì cũng vì chị mà ra nông nỗi này. Vì thế vua cha ra lệnh cho chị hằng năm phải làm những công việc hữu ích khác để đền bù lại. Năm nay đăc biệt vua cha sai chị sang nước Mỹ tìm những em bé Việt Nam như em vậy nè để nhắc nhở mấy em về cội nguồn của mình…

Bé Việt bỗng thắc mắc
-Nhưng mà chị ơi, sau khi China thua chạy về Tầu rồi, tụi nó có qua "oánh" lại Việt Nam nữa không chị?
- Có chứ, qua "oánh" hoài hà. May mà Việt Nam ta có nhiều anh hùng như Trần Quốc Toản chẳng hạn nên kỳ nào cũng "oánh" cho China chạy…về Tầu.
-Trần Quốc Toản là ai hả chị?

- Ồ, chị quên nói cho em biết. Trần Quốc Toản còn trẻ lắm, chắc là còn nhỏ hơn Mulan nữa, nhưng mà giỏi hơn nhiều. Coi nào, hồi đó China còn được gọi là Mông Cổ sang xâm lấn Việt Nam. Trần Quốc Toản lúc đó còn nhỏ chưa được bàn chuyện chống trả với quân Mông. Anh ta đứng ngoài nghe chuyện quân Mông Cổ đang tàn phá nước ta tức giận quá đến nổi bóp nát trái cam trong tay hồi nào không biết. Sau đó cậu tập hợp những thiếu niên còn nhỏ như mình thành lập môt đạo quân may cờ đề sáu chữ " Phá cường địch - Báo hoàng ân", cùng với các tướng khác của nhà Trần ba lần phá tan quân Mông Cổ đó.

-A "anh" Trần Quốc Toản giỏi quá.. Bé Việt reo lên, - Chị ơi, vậy là Trần Quốc Toản "uýnh" Mulan chạy về Tầu hả chị?
Công chúa Mỵ Nương bật cười.
- Hi hi em bé này mau quên quá. Trần Quốc Toản "uýnh" quân Mông Cổ chứ hỏng "uýnh" Mulan.

Bỗng công chúa nhìn ra ngoài trời và nói
-Này em, chị phải đi rồi. Vậy bây giờ em muốn làm người Mỹ? Hay người China có Mulan? Hay là người Việt Nam có Trưng Trắc Trưng Nhị và Trần Quốc Toản?
- Em muốn làm người Việt Nam chị ơi. Nhưng sao chị không ở lại thêm chơi với em?

Công chúa hôn lên đầu bé Việt và nói
- Chị phải trở về Việt Nam chứ. Hiện nay Thủy Tinh đang làm lũ lụt khắp nơi. Có rất nhiều em bé khác đang bị đói lạnh cần chị giúp đỡ. Em ở lại đây ngoan ngoãn vâng lời ba mẹ và thầy cô. Sang năm chị sẽ trở lại thăm em.

Nói xong, công chúa Mỵ Nương biến thành một cánh bướm theo hướng cửa sổ bay ra ngoài. Bé Việt bỗng cảm thấy lưu luyến chị công chúa này quá. Nó ước chi chị ấy đừng đi, ở lại làm chị của nó hoài thì vui biết mấy…Bé vẩy tay chào lại và dần dần đi vào giấc ngủ lẩn nữa.


°°°

Sáng hôm sau khi tỉnh dậy, việc đầu tiên của bé Việt là vào tủ lạnh lấy trái cam ra hì hục bóp. Ba của bé thấy vậy nói
-Con muốn ăn cam hả? Để ba lấy dao cắt cho. Đâu có bóp được con.
-Vậy mà "anh" Trần Quốc Toản bóp nát được đó.

- Trần Quốc Toản …nào? Ông bỏ báo xuống ngạc nhiên.
-Trần Quốc Toản "uýnh" Mulan chạy về Tầu đó ba. (Hic! Bé lại lộn nữa rồi !)

Ông càng ngạc nhiên hơn.
-Ai kể cho con nghe chuyện Trần Quốc Toản?
- Công Chúa Mỵ Nương kể.

-Công chúa Mỵ Nương? À.. ông vừa chợt nhớ ra cái tên công chúa Mỵ Nương với câu chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh..
...Vậy bây giờ cô ấy đâu rồi? Ông cười hỏi.

Bé Việt chỉ ra ngoài trời nói
-Chị ấy về lạiViệt nam để giúp các em bé khác đang bị lụt ở Việt Nam rồi ba ơi.

Ba bé ngạc nhiên nhìn con. Ông không hiểu tại sao bé Việt lại biết đến những cái tên như Trần Quốc Toản, Công chúa Mỵ Nương... Và ông cũng chợt nhận ra con mình đang nói tiếng Việt ngon ơ như bất cứ đứa trẻ Việt nam nào khác. Ngày thường bé bao giờ cũng buột miệng nói bằng tiếng Mỹ. Nhắc nhở, dụ dỗ lắm thì thỉnh thoảng bé mới ngọng nghịu nói vài chữ tiếng Việt cho ba má vui , rồi đâu lại vào đó như cũ. Hôm nay bé nói chuyện với ông năm sáu câu rồi, hoàn toàn tiếng Việt không một chút ngọng nghịu, không một chữ tiếng Mỹ xen vô. Ông ngạc nhiên quá. Phép mầu nào đang xảy ra?

Hay là… Công Chúa Mỵ Nương đã sang Mỹ thiệt?


ThaiNC

Hansy
19-08-2014, 04:54 PM
16

Con Điên

Mầu Hoa Khế

Là khu ngoại ô thành phố vào những tháng năm 1963, nhà cửa cũng còn thưa thớt. Gia đình tôi dọn nhà về đó ở .Căn nhà Ba tôi mua cũng hơi bị kỳ cục. Kiến trúc kiểu gì mà bốn căn nhà quay mặt ngó vô nhau, để chính giữa một khoảng sân .Phía bên ngoài chỉ một lối vào duy nhất. Nên tất cả lấy cùng chung một địa chỉ, chỉ khác con số 1,2,3,4 để phân biệt .Căn nhà tôi thật may mắn , cái đuôi nhà đằng sau lại dài ra tới một con đường nhỏ, cở hai chiếc xe hơi đi lọt .Tôi thích phía đằng sau hơn , bởi trên con đường chỉ có một vài cái quán nhỏ , chỉ tụ tập vào buổi sáng buôn bán, tới trưa là đã dẹp hàng .Con đường dẫn vô trong là một cái xưởng làm đồ mộc .Cũng có lắm nhà dài như nhà tôi, những không hiểu sao họ không muốn trổ thêm cửa sau .

Mới dọn nhà về mệt nhọc nên ngủ rất ngon , tôi đánh một giấc tới sáng .Nhưng Ba mạ tôi thì người già khó ngủ , bảo nữa đêm như có tiếng gì tru lên nghe ớn lắm .Thế là đêm hôm sau tôi cùng cả nhà ngồi chờ để nghe lại tiếng kêu giữa đêm quái đản đó .Quả nhiên như lời Ba Mạ tôi nói , tiếng tru thật ai oán , nửa giống tiếng loài vật , nửa như tiếng con người .Sáng ra tôi mở cửa phía sau , lân la làm quen với những người buôn bán , để dò hỏi tin tức .Họ cho biết nơi đây có nhốt một con điên , cách chỗ tôi ở không xa .Căn nhà bị khuất lấp phía đằng sau một con hẻm nhỏ .Duy nhất một căn , căn nhà xây lên đã lâu , dễ chừng cả mấy chục năm .Căn nhà làm toàn bằng gổ màu đen loại quí , cho dầu đã trãi qua với thời gian quá lâu như thế , mà vẫn chưa đổ nát hoàn toàn .Vẫn còn có một vài chổ nguyên vẹn có thể ở .Nhưng nhìn vào thì đúng là căn nhà hoang .Nó nằm trơ trọi , chung quanh bao phủ những rặng tre già xơ xác , những đám cỏ lau vàng héo .Có thật nhiều cây ăn trái , như nhãn , vú sửa , ổi , mít ,cây cho trái quanh năm .Chỉ có những đứa bé nghịch ngợm giống như tôi mới mon men rủ nhau đi hái trộm .

Tôi ít khi thấy người nào ngoài con điên ở trong căn nhà hoang .Nói đúng ra là nó bị nhốt,bị giam cầm .Tôi nghỉ sao người nhà nó ác quá , hình như mỗi ngày họ có mang cơm cho nó ăn rồi bỏ đi .Tôi với bản tánh tò mò cố đi tìm hiểu về lai lịch của con điên .Mới được biết gia đình nó trước đây chính góc người Tàu .Câu chuyện nghe rất rùng rợn chẳng khác gì những cuốn phim kinh dị .

Khi căn nhà được xây cất lên thật đẹp, thật lớn .Một gia đình giàu có làm nghề thuốc bắc gia truyền dọn tới .Trong nhà rất đông con cái , họ sống quây quần bên nhau rất vui vẻ .Trong nhà có một người già nhất gọi là bà cố .Mỗi ngày ngồi nơi cửa sổ nhìn ra bên ngoài , thỉnh thoảng lại cười lên những tiếng cười thật man rợ . Có kẻ nhát gan thì lánh xa , còn có kẻ gan dạ thì tò mò tìm hiểu .Họ truyền miệng cho nhau là thấy bà già này chỉ toàn ăn thịt sống .Có lần họ còn thấy máu tưới dín đầy nơi mép miệng của bà ta .Rồi không biết có bị trùng hợp hay không , mà chó , mèo quanh đó bị mất tiêu một cách bí mật .Mọi người nói hồi xưa đâu ai dám đi qua căn nhà đó , chứ nói chi là bước vô mua thuốc bắc của họ bán.Người quanh vùng thấy lành lạnh làm sao , bởi những gương mặt của những người sống trong căn nhà .Họ giống như những gương mặt bằng sáp .Chẳng bao giờ thấy nụ cười trên môi họ .Đám người trong thật lạnh lùng , sống xa cách chẳng muốn thân thiện với ai cả .Họ sống cô lập , có vẻ bí mật không buồn biết tới thế giới bên ngoài .Họ cũng chẳng đụng chạm tới ai , nên mọi người dần dà rồi cũng quen đi và không còn dị nghị gì thêm nữa .

Cho tới một đêm trăng rằm thật lớn trên bầu trời .Tiếng gào thét từ căn nhà vọng ra .Mọi người hoang mang không biết chuyện gì ,nên phải gọi tới những người bảo vệ về an ninh đến nơi để tìm hiểu .Thì một quang cảnh hiện ra trước mắt thật kinh hoàng ,tất cả những người trong căn nhà đó bị giết chết một cách thảm thiết .Bị moi ngực lấy trái tim mang đi ,thủ phạm bôi xóa những bằng chứng , nên không còn dấu vết để tìm ra manh mối .Chỉ còn duy nhất bà cố của họ còn sống sót , ngồi im bất động trên môi mép vẫn còn ròng ròng máu chảy , hai con mắt như một màn sương trắng đục ngờ .Thì ra bà là một người đã bị mù .Tiếng thét hải hùng vang lên là của hai vợ chồng đứa nuôi con vừa về tới nhà ,làm kinh động cả cái xóm nhà ở đêm hôm đó.

Vụ án mạng , vẫn không sao tìm ra thủ phạm .Chính quyền qua một thời gian cũng bỏ vào quên lãng .Có người bàn vô, tán ra , bảo đây là một vụ báo thù .Bà cố đã quá già nên chết sau đó vài tháng .Còn lại cặp vợ chồng may mắn sống sót .Họ vẫn sống an nhiên trong căn nhà .Họ bắt đầu có cuộc sống rất bình thường không như trước đây , thỉnh thoảng cũng ra ngoài bắt chuyện làm quen hàng xóm .Nhưng kỳ thật,làm như ai cũng sợ tránh né, chẳng ai muốn quen biết thân thiện với họ .

Họ sống ở đó sanh ra con cái , nhưng họ không hề có con trai .Lạ lùng cứ con gái vào tuổi 16 là bị điên .Nhưng có những người con trai thấy họ giàu mờ mắt tham của , hay vì những đứa con gái điên đó quá đẹp nên bằng lòng lấy làm vợ .Và một điều khó hiểu , tại sao những cô gái điên đó cũng chỉ đẻ toàn con gái ,không hề có con trai để nối dòng nối giống .Thiên hạ lại bắt đầu bàn tán .Họ cho rằng cặp vợ chồng còn sống ,họ chỉ là con hoang của ai được lượm về nuôi . Là thủ phạm gây ra vụ thảm sát đó để tranh đoạt gia tài, nên giờ đây phải bị trả giá tội lỗi của mình .Và cứ thế , những đứa con gái điên cứ tiếp tục ra đời ,để chịu cái hành phạt của tổ tiên mình gây ra .Một sự trùng hợp hay đúng là một lời nguyền .Cứ đúng vào năm 16 tuổi trong đêm trăng rằm là đều bị nỗi điên giống như nhau.Rồi bắt đầu từ đó đêm đêm lại tru lên ,gào lên những tiếng kêu ai oán thống thiết vang vọng u uất kéo dài cho tới sáng .Người sống trong căn nhà đó , cứ lần hồi bỏ đi chẳng hiểu vì nguyên cớ gì .Chỉ thấy khi tôi dọn về thì còn duy nhất một người .Đó là con điên .

Mới dọn về đêm nghe tiếng rú cũng thấy sợ , nhưng mỗi đêm cứ nghe rồi cũng quen .Tôi thiệt là không biết sợ trời , sợ đất cả gan đến căn nhà hoang và đã nhìn thấy con điên sống nơi đó. Không biết nó là con cháu dòng thứ mấy trong gia tộc , để chịu phải lời nguyền và sự trừng phạt hết sức ác độc .

Nhìn tay chân nó bị khoá bằng cái xiềng xích to .Ăn uống cũng ở đó , đại tiện , tiểu tiện cũng ở đó .Mỗi ngày tôi thấy có một người được thuê mướn , đến tắm rửa cho nó , nói tắm chứ thực ra họ lấy cái vòi nước xịt vô người ,như xịt vô con heo , rồi xịt sạch luôn trên sàn nhà .Sau khi thấy người làm công bỏ đi ,tôi đến gần hơn để nhìn cho rỏ con điên . Nó bị khoá tay , khoá chân nên tôi cũng yên tâm .Trước mắt tôi , con điên đẹp đến làm tôi sửng sờ , vẻ đẹp hiền lành , dịu dàng của nó , đã đánh tan sự tưởng tượng dễ sợ của tôi bấy lâu nay .Nên tôi từ đó thỉnh thoảng vào thăm nó .Nó cũng như nhận ra tôi mỗi khi đến .

Đôi mắt dại của một người điên ,có hôm tôi nhìn thấy những giọt nước mắt long lanh ứa ra , miệng con điên lần đầu ú a ú ấ ,như muốn nói điều gì với tôi , vẫn không thốt ra được .Tuần lễ sau ngày tôi đi chơi xa về .Hay tin con điên chết .Chết cô đơn, trơ trọi như một con vật , nằm co quắp trên nền gạch nhà lạnh lẽo .Căn nhà của một dòng tộc quí phái ,giàu sang ngất ngưỡng một thời .Tôi thoáng buồn, nhưng rồi chợt nghĩ , con điên đã trả xong món nợ mà tổ tiên nó đã vay quá nặng nề .Chỉ tội nghiệp, tại sao những ngày cuối cùng nó lại biết khóc ? , tại sao nó lại muốn nói điều gì với tôi ? .Sao không để cho nó chết lặng lẽ như một giấc mơ .Sao nó phải tỉnh lại làm chi đôi ba giây phút .Để nhìn thấy cuộc đời đã hết sức vô cùng nghiệt ngã ,đối với thân phận của một kiếp người !!!...


Mầu Hoa Khế
mưaphốnúi, Dce03/09
(Chuyện chỉ nghe đồn miệng , hư thực ra sao không ai biết .)

Hansy
20-08-2014, 09:32 PM
17

Con gái nhà ăn mày

Trương Thị Kim Chi

Việc chị Phúc tự tử làm rúng động cả xóm.
Người ta tụm năm tụm bảy xì xào bàn tán. Người ta tò mò, thương xót, và hẳn có chút thú vị, dù không ác ý với cái tin giật gân nóng hổi đó.

Anh Hai tôi đã lên bệnh viện từ sớm. Không khí trong nhà rất căng thẳng. Riêng tôi, đang thở hồng hộc, mồ hôi mồ kê nhễ nhại vì liên tục chạy đi dò la tin tức, sực nhớ tội lỗi của mình, phóng về nhà, dọt vô buồng, chui tọt xuống gầm giường. Phen này chắc chắn đầu tôi sẽ ê ẩm với những cục u, bởi các khớp tay gập lại của anh Hai.

Sao tôi lại ngu dữ vậy. Giờ tôi chỉ cầu mong người ta cứu được chị Phúc. Đầu tôi dù bị sưng vù lên cũng được, miễn chị còn sống. Nếu chị chết, đời tôi sẽ khổ lắm, chắc tôi phải bỏ nhà đi hoang... Với lại, nếu chị chết, đêm đêm chị sẽ hiện về nhát tôi, đứng trên đầu giường, đưa bàn tay lạnh ngắt sờ má, kéo tóc tôi, hoặc đứng dưới đuôi giường kéo chân tôi...

Nước mắt tôi bắt đầu chảy. Tôi lâm râm khấn vái trong tiếng thút thít sụt sịt: Chị Phúc ơi, xin chị tha thứ cho em, chỉ tại cái miệng em dại dột, chứ em thương chị lắm. Em mong chị với anh Hai làm đám cưới, để em mặc đồ đẹp, ăn bánh kẹo...

Phải chi hôm qua tôi không bỏ học thì đâu có chuyện nhào vô chơi trò năm mười với tụi con Lùn. Ma xui quỷ khiến, tôi chui vào núp trong gian thờ nhà chị Phúc. Ngồi đã lâu, mấy đứa kia vẫn không kiếm ra, tôi mỏi chân ngứa tay, cục cựa, làm mảnh vải lụa đỏ trên bàn thờ rơi xuống... Và tôi giật bắn người, lạnh toát sống lưng. Thật kinh hãi: một cây gậy cũ kỹ đội cái nón lá rách mem đang đứng trên bàn thờ! Giống hệt con bù nhìn cắm ngoài đồng để dọa chim. Không còn hồn vía, bỏ ngang cuộc chơi, tôi ba chân bốn cẳng chạy về nhà, vừa thở hổn hển vừa méc với mẹ. Nghe chuyện, mặt mẹ tôi bỗng tái nhợt.

Tối, mẹ tôi thì thầm với ba. Ba mẹ lại thì thầm với anh Hai. Vẻ mặt mọi người cực kỳ nghiêm trọng, như thể trời sắp sụp vậy. Anh Hai dằn dỗi xách xe bỏ đi. Mẹ tôi qua nhà chị Phúc. Rồi sáng nay nghe tin chị Phúc tự tử. Còn tôi, kẻ gây ra tai họa, giờ đang trốn dưới gầm giường đầy mạng nhện và bụi bặm, cổ mỏi nhừ vì phải cúi gập, chân tê dại...

Xóm tôi đa số là dân tứ xứ, tha phương cầu thực nhưng ai nấy hiền queo. Mẹ tôi nói đây là điều may mắn, chắc chỗ đất này có thổ thần phù hộ. Nhà chị Phúc cách nhà tôi con hẻm nhỏ. Cha mẹ chị Phúc làm phụ hồ. Chị nghề may. Hầu như chị là thợ may của cả xóm. Tất cả quần áo của nhà tôi đều may ở bên chị. Chị may khéo, lợi vải, luôn đúng hẹn, giá lại rẻ.

Tôi rất mến chị. Rảnh là tôi tót qua nhà chị chơi, căn nhà nhỏ xíu thơm phức mùi vải mới và nồng nàn mùi sách cũ. Tôi mê tít cái thùng vải vụn của chị, tha hồ được chọn chơi những miếng vải thừa... Tôi mê mẩn những cuốn truyện cũ mèm tả tơi, giấy vàng khè, chữ li ti mờ nhạt nhưng mở ra cả một thế giới thần tiên diễm ảo, lung linh màu sắc, vô cùng hấp dẫn, mà chị vẫn giữ gìn cẩn thận.

Tôi thường ngắm miệng chị với hai khóe môi sâu hơi cong lên, trông lúc nào cũng như nhoẻn cười. Chị lại hay cười, nụ cười tươi tắn rạng rỡ làm khuôn mặt sáng bừng. Tôi say sưa nét chị nghiêng nghiêng vừa chăm chú đạp máy may vừa hát nho nhỏ. "Chị Phúc ơi, chị hát hay vậy sao không đi làm ca sĩ?". Chị ngưng hát, ngẩng lên nhìn tôi, cười: "Nhỏ định cho chị đi tàu bay giấy hả?". "Thiệt mà, chị hát hay thiệt mà. Anh Hai em nói vậy mà". Mắt chị long lanh, má chị đỏ lựng, vẻ bẽn lẽn. "Lớn lên em cũng làm thợ may như chị...". Tôi định nói thêm rằng, tôi cũng sẽ vừa may vừa hát như chị, nhưng chị đã vội can: "Thôi đi nhỏ, nghề may cực lắm, lại chẳng được ra khỏi nhà. Nhỏ làm cô giáo đi. Cô giáo đẹp hết sẩy, hằng ngày mặc áo dài đẹp, đánh son phấn, lại được người ta thưa chào, được học trò thương...". Tôi lắc đầu quầy quậy: "Không, em thích may, hễ muốn kiểu gì thì em may kiểu đó, cho ba mẹ, cho anh Hai nữa...". Chị tủm tỉm cười, không nói thêm, lại tiếp tục công việc, tiếp tục bài hát dang dở.

Đôi chân chị lại nhịp nhàng đạp máy. Tôi chăm chú ngó bàn chân trái thiếu ngón út của chị, nhiều lần muốn hỏi mà không dám. "Mai mốt chị dạy em may nghen?". "Ừa, nếu ba má em chịu, chị dạy cho. Sao hôm qua giờ hổng thấy anh Hai há?". "Ảnh đi công tác". "Vậy ha, chừng nào ảnh về?". "Em đâu biết!". "Út ơi, cưng giống anh Hai dễ sợ luôn. Nhất là cặp mắt, rất sáng, thông minh, mà lại hiền". Được khen, tôi khoái chí lắm nhưng làm bộ: "Em mà thông minh gì, toàn bị anh Hai chê dốt không à... Hôm qua, em bị bốn điểm môn toán, mẹ la, không lo học mai mốt có nước đi ăn mày. Anh Hai bênh em, nói mẹ mắng nó ăn mày, nghe nặng nề quá... Mà mẹ em cũng kỳ thiệt chị, hở là mắng em đồ ăn mày...". Chị Phúc bỗng cắt ngang: "Thôi, Út về nhà lo học bài đi, kẻo mẹ la".

Cứ vài bữa, anh Hai lại rỉ tai tôi: "Út đem cái này đưa chị Phúc dùm anh, anh thưởng gói xí muội".

Cứ vài bữa, chị Phúc lại vuốt tóc tôi: "Út đưa cái này cho anh Hai nghen, cho cưng cái kẹp tóc nè".

Từ ngày tôi được giao sứ mệnh cao quý đó, anh Hai cưng tôi ra mặt, khi dạy tôi làm toán, anh ít cốc đầu tôi. Chị Phúc vẫn rất tốt với tôi, càng chiều tôi hơn. Những lúc rảnh, chị may áo đầm, mũ búp bê cho tôi, kể chuyện đời xưa cho tôi nghe. Chị có vẻ rất thích chuyện Nguyệt lão xe duyên cho ông Vi Cố lấy con gái người ăn mày. Chị kể đi kể lại chuyện này không biết bao nhiêu lần.

Tôi đã nhận ra quyền uy ghê gớm của mình, ra sức mè nheo, làm mình làm mẩy, túi tôi lúc nào cũng rủng rỉnh tiền lẻ, quà vặt thì ê hề...

Đáng nhớ nhất là lần tôi làm lính gác cho hai người. Đó là một ngày chủ nhật. Ba mẹ chị Phúc đi làm xa. Cơ hội ngàn vàng, anh Hai hí hửng ra mặt. Ngay lập tức anh có mặt ở nhà chị. Ngay lập tức hai người xuống nhà sau, dặn tôi ở ngoài, hễ có ai tới thì ho lên ba tiếng. Anh Hai còn nói nhỏ: "Út ngồi ngoài này canh chừng, không được vào trong...".

Hôm đó họ hào phóng chưa từng thấy. Trước mặt tôi là cái mâm trên đó la liệt nào kẹo, bánh, cóc, ổi... tha hồ ăn. Tôi bốc nhai, bốc nhai liên tục... Khi bụng đã căng cứng, tôi lại buồn ngủ, cứ ngáp lên ngáp xuống muốn trẹo quai hàm. Mệt quá là mệt, tôi dạo tới dạo lui cho đỡ chán. Rồi nổi máu tò mò, tôi tới khe hở dòm vào trong. Trời ơi, mấy người lớn này chơi cái trò gì kỳ cục, sao cứ nhắm tịt mắt lại mà chùi miệng nhau miết vậy? Mắc cười quá. Dòm một chặp, thấy chẳng thú vị gì, tôi ra ngoài vọc thùng vải vụn chơi. Rồi tự nhiên cổ ngứa, tôi bắt ho. Hễ tôi càng nín, cổ càng ngứa. Vậy là tôi ho, ho cả tràng dài.

Hai người hốt hoảng chạy ra. Mặt họ xanh lè xanh lét, mắt họ láo liên láo liếc. Tôi không nhịn được, cứ bụm miệng mà cười. Có vẻ xấu hổ ngượng ngùng, anh Hai cốc tôi một cái đau điếng. Tôi mếu máo. Chị Phúc lườm anh rồi xoa đầu tôi, dịu dàng dỗ tôi, nín đi cưng, mai chị mua cho cái cặp mới.

Vậy đó. Mọi chuyện đang yên đang lành, tôi đang sung sướng như tiên, sao bỗng dưng xui xẻo vầy? Cũng chỉ tại cây gậy đội cái nón cời trên bàn thờ! Rầu thiệt!

Chị Phúc không chết. Tôi như trút được gánh nặng ngàn cân. Có điều, nghe kể, ai vô thăm, chị cũng chẳng nói tiếng nào.

Sau sự việc kinh thiên động địa đó, gia đình tôi chuyển vào Sài Gòn. Có lẽ ba mẹ tôi muốn cắt đứt chuyện anh Hai với chị Phúc.

Rồi anh Hai cưới vợ. Ngày cưới của anh, nhìn chú rể cô dâu tươi cười tựa đầu nhau, tôi ngậm ngùi nhớ thương chị Phúc. Tội nghiệp chị quá, chỉ vì là con gái nhà ăn mày mà chị suýt phải chết, rồi lại phải lìa xa anh Hai. Với thân phận đó, chị sẽ lấy người chồng thế nào?

Giờ tôi lớn rồi, không còn tự trách chuyện cây gậy và cái nón cời như ngày nhỏ, mà tôi lại tin vào số phận, duyên nợ. Không biết bây giờ chị ra sao? Chị đã lấy chồng? Bàn chân trái thiếu ngón út của chị vẫn cần mẫn trên bàn đạp? Chồng chị là công nhân hay phụ hồ? Hay nhà chị cũng phải dời đi sau sự cố đó? Dù đi hay ở, hẳn chị cũng đã tay bồng tay bế, quần áo lôi thôi, mặt mũi cau có, chẳng hơi đâu vừa cắt may vừa ca hát, chẳng hơi đâu đêm đêm dán mắt vào những trang sách cũ mèm...

Hôm đầu tiên bước vào lớp tiếng Pháp, tôi đã chú ý đến chị. Trông chị thật quý phái trong bộ váy màu kem, với mái tóc đen dày, uốn lọn chảy tràn xuống vai. Hình như tôi đã gặp chị đâu đó? Suốt buổi học, tôi không tập trung được, cứ nhìn sang chỗ chị nơi dãy bàn bên kia, cố lục lọi trí nhớ... Cái miệng với hai khóe môi sâu, hơi cong lên, lúc nào cũng như đang nhoẻn cười... Rồi tôi bắt gặp chị cũng đang nhìn tôi, với nụ cười rạng rỡ...

Tan học, tôi đang loay hoay lấy xe thì chị đến bên, hỏi nhỏ:
- Út phải không?
Tôi sững người nhìn chị.

Chị cười:
- Út quên chị rồi sao? Chị Phúc nè.
Tôi mừng rỡ, hét to lên:
- Chị Phúc!

Hai chị em ôm chầm lấy nhau. Mái đầu chị rung nhẹ trên vai tôi. "Anh Hai khỏe không Út? Anh sống ra sao? Được mấy cháu? Anh hạnh phúc không?...". Chị hỏi tới tấp, không sao kiềm chế được...

Những hình ảnh của thời thơ dại sống dậy trong ký ức tôi, mùi vải mới thơm phức và mùi sách cũ nồng nàn quanh tôi, khi chị Phúc đưa tôi về nhà chị chơi.
Đó là một ngôi biệt thự khang trang, nội thất sang trọng, thanh lịch, và cách bài trí rất Tây.
Chị bấm chuông. Cánh cửa hé mở, một gương mặt vui vẻ với bộ râu xồm vàng hoe hiện ra.

Chị giới thiệu:
- Paul, chồng chị.
- Đây là Út, em gái người tình xưa của em.

Với cung cách lịch sự, Paul, đôi mắt xanh lơ, nụ cười nồng hậu, gật đầu chào tôi, niềm nở bắt tay tôi, nói tiếng Việt lơ lớ:
- Rất hân hạnh.

Bưng nước mời hai chúng tôi xong, Paul rút vào trong. Chị Phúc và tôi tha hồ thủ thỉ.
- Út ơi, ngày đó chị khờ thiệt, may mà được cứu kịp...
Chị đưa tay chỉ tấm chân dung một thiếu nữ phóng to, treo trên vách.
- Con gái chị đó. Em nhìn kỹ coi giống ai?

Tôi đứng lên để xem cho rõ. Ánh mắt cô bé trong veo, sáng rực, thông minh và hiền lành... gợi lên trong tôi cảm giác thật thân thuộc, gần gũi.
- Con của anh Hai đó. Nó vừa đi cắm trại sáng nay...

Chị kể, sau khi nhà tôi chuyển đi, anh Hai vẫn nhiều lần quay về tìm chị nhưng chị luôn né tránh. Vì chị biết, không đời nào ba mẹ tôi chịu cưới con gái nhà ăn mày cho con trai mình, mà chị thì quá yêu anh, không muốn làm khổ anh...

Chị kể, phải mấy tháng sau ngày chị tự tử, chị mới biết mình có thai. Tất nhiên anh Hai cũng không hề biết. Gia đình chị chuyển vào đây sinh sống, để tiện cho việc sinh nở của chị. Họ đã vượt qua tất cả để một đứa trẻ được bước chân vào cuộc đời.

Tôi cố gắng nhớ lại mọi chuyện và không thể không thắc mắc: làm sao để anh Hai và chị có em bé? Vì tất cả những cuộc hẹn gặp của họ đều thông qua con chim xanh là tôi mà. Đáng kể nhất là lần tôi rình thấy họ, thì chỉ thấy họ ngồi ôm nhau, trong gian bếp bé tí xíu, lủ khủ nồi niêu soong chảo, chén bát, hỏa lò... Hay là, đã có những lần họ qua mặt tôi? Hay là để trái đất sinh hoa kết trái, tạo hóa đã phú cho con người khả năng thích ứng tài tình trong mọi tình huống?

Gần mười tám năm... Có thể đó chỉ như cái chớp mi, cũng có thể đó là chuỗi tháng năm dài dằng dặc, với bao nhiêu sự việc đã xảy ra... Bao ước mơ, mộng tưởng... Bao niềm vui nỗi buồn, hạnh phúc khổ đau... Hợp tan, tan hợp...

Trong lúc gia đình chị khó khăn nhất, có người đưa Paul đến hỏi chuyện bố mẹ chị, đưa chị đi thử ADN, và kết luận rằng mẹ ruột của chị đang sống bên Pháp.

Chuyện là, ngày ấy, mẹ ruột chị Phúc dạy kèm cho con một nhà giàu. Có lần, bà chủ và đứa con đi vắng, ông chủ đã làm mẹ chị mang thai. Mẹ chị vừa sinh chị hơn tháng, bà chủ cho người bắt cóc chị bỏ ngoài chợ. Đêm đó mưa to, chị khóc không ai hay, chuột đã cắn mất ngón chân út của chị. Kiến bu kín chị. May sao, bố mẹ nuôi chị ngủ trên sạp gần đó đã cứu và nuôi nấng chị. Khi chị lên bảy, bố mẹ nuôi của chị từ bỏ kiếp hát rong ăn xin, về sống cuộc đời bình thường.

Chị Phúc vào trong đem ra cuốn sổ cũ kỹ, có vẻ được cất giữ hết sức cẩn thận. Những trang pơ-luya đủ màu, chật kín những bài thơ chị chép. Một bài có ép đôi bướm và hình chị dán kề bên hình anh Hai: Lòng ta chôn một mối tình/Tình trong giây phút mà thành thiên thu...

Chị Phúc siết chặt tay tôi. Mắt chị rưng rưng. Giọng chị nghẹn lại:
- Út nè, vài tháng nữa mẹ con chị sẽ sang Pháp định cư. Cưng có thể giúp chị chuyện này không? Chị mong... ngày gia đình chị lên máy bay, anh Hai đến tiễn mẹ con chị. Để cha con gặp mặt nhau... Chị tin rằng anh cũng không bao giờ quên chị... Chị muốn được nhìn anh một lần, chỉ một lần thôi...

Tôi ôm chặt chị, mau mắn hứa với chị. Rồi sau một lúc ngập ngừng, tôi kể chị nghe chuyện tôi gây ra, về cây gậy và cái nón lá. Chị có vẻ rất ngạc nhiên. Trầm tư hồi lâu, chị dịu dàng vuốt tóc tôi, như thuở nào:

- Hồi đó cưng còn nhỏ mà. Với lại, trước sau gì bên nhà cũng biết. Bố mẹ chị tin dù đã bỏ nghề ăn xin, vẫn phải thờ cây gậy và cái nón rách, nếu không sẽ không ngóc đầu nổi... Thật ra, chị luôn cám ơn đời đã cho chị bao nhiêu ơn huệ... Nhớ hồi chị còn nhỏ, tay ôm ca nhựa, tay kia cầm cây gậy dắt cha mẹ đi xin, chị vẫn vui vẻ, thấy mình vẫn sung sướng hơn nhiều đứa trẻ xung quanh, bị người ta làm cho tật nguyền, bị bỏ đói... Chị đã được sống, được yêu, có được đứa con của người mình yêu... Chị hạnh phúc lắm... Nhưng Út ơi, không bao giờ chị quên chị từng là con gái nhà ăn mày!


Trương Thị Kim Chi

Hansy
21-08-2014, 01:25 AM
18

Con gái tên Dần tuổi Cọp

Trần Tùng Chinh

Má tôi tuổi Dần. Năm 23 tuổi má lấy chồng. Cũng năm Dần má đẻ ra tôi. Một con cọp con. Người ta nói hổ phụ sinh hổ tử. Hai má con tôi là hổ mẫu sinh hổ tử. Có sao đâu! Nhà có hai con cọp. Con cọp cái là má, mạnh mẽ, quyết đoán.

Con cọp con là tôi, "hậu sinh khả úy", ngang bướng và hung dữ - theo cách nói của em trai tôi. Thằng quỷ đó nó tuổi Thìn, nhỏ hơn tôi hai tuổi.

Nhà có hai chị em. Má tôi cũng không thoát khỏi câu "tuổi Dần cao số". Năm thằng em tôi lên bốn tuổi, tía đi lấy tiền bán cá về, dọc đường mấy thằng cha buôn lậu đường quốc lộ chạy xe nhanh như bị bà nội nó rượt đâm sầm vào xe đạp của tía tôi. Tía qua đời tức tưởi, đột ngột. Người ta đi đám ma, chửi mấy đứa buôn lậu chạy ẩu thì ít mà rủa má tôi tuổi Dần làm tía tôi yểu mạng thì nhiều! Thây kệ, má một nách hai đứa nuôi tụi tôi khôn lớn. Thật ra là một đứa con gái hơn sáu tuổi tóc tai ngắn cũn, hở ra một chút là chạy nhong nhong trong xóm, bỏ ở nhà một đứa con trai chưa đầy bốn tuổi khóc nhèo nhẹo trên võng, mũi dãi lòng thòng.

Mấy lúc đó má lăng xăng gánh bún trước nhà, gọi giựt ngược: "Con ôn dịch, về đưa em cho má. Tao mà kêu một tiếng nữa không về là tao oánh cho té đái bây giờ". Tất nhiên là tôi chạy về, ham chơi nhưng sợ má một phép. Người ta nói hổ dữ không ăn thịt con, chứ tôi thấy lúc đó mà không chạy về vừa đưa võng cho em, vừa lầm bầm chửi nó nhõng nhẽo thì thế nào má cũng ăn thịt tôi là cái chắc.

Là nói vậy thôi, chứ quậy phá ham chơi cách mấy hổng lẽ má tôi đem tôi hầm nhừ tử trong nồi nước súp của má ? Má dữ nhưng má đẹp lắm. Mới ngoài ba mươi nhưng hôm nào ở xóm có đám tiệc, xong việc bán buôn, bới lại mái tóc rối thức từ lúc hai, ba giờ sáng chưa chải kỹ, má mặc bộ đồ áo bà ba bông với cái quần xa-ten màu đen bóng, cắp cái giỏ đệm là má mướt rượt, nhìn còn bén ngót. Về cái khoản này tôi cũng giống má.

Càng lớn, ai cũng nói tôi đẹp y chang má hồi trẻ. Nhan sắc má cũng hút lũ ong bướm làng trên xóm dưới xáp vô. Nhưng hễ thằng cha nào bén mảng tới gần, má quắc mắt một cái, hỏi, cọp cái hai con nè, dám xớ rớ vuốt râu hùm thì nhào vô kiếm ăn! Chỉ có vậy thôi, đàn ông cỡ nào cũng chạy tám cây số là ít.

Sau này tôi mới biết má không đi bước nữa là tại sợ hai chị em tôi gặp cảnh cha ghẻ, con riêng. Hồi đó, thấy má dữ dằn như vậy tôi rất tự hào, đi học hay đi chơi, tôi và thằng nhóc em tôi ít khi nào bị ai ăn hiếp. Má mà bênh con thì phải biết, má chửi té tát không có đường mà đỡ. Nhưng về tới nhà, thế nào hai chị em cũng phải cúi xuống bộ ván ngựa, nhổm mông lên ăn đòn vài cây là ít. Vì vậy tụi tôi ra đường cũng ngó trước ngó sau, không lên mặt hay làm điều gì bậy bạ sợ má buồn. Hò hét, la rầy, dằn mâm xáng chén vậy chứ khi hai đứa lăn ra ngủ, tôi lén thấy má chắc lưỡi hít hà xoa mông xức dầu cho hai đứa, rồi buông mùng thở dài, ngồi đờ đẫn trong đêm.

Không biết má ngồi tới hồi nào vì chỉ một lát hai con mắt tôi ngủ trước nên tôi không còn dòm má để canh má ngồi tới mấy giờ. Giấc ngủ trong tiếng kêu của con tắc kè từng chập đã đưa tôi vào những giấc mơ, ở đó có má ngồi che chắn, y như con cọp cái bảo vệ lũ nhóc cọp con trong chuyện cổ tích Chú Cuội cung trăng vậy. Về cái khoản tình cảm này tôi thấy mình cũng giống má luôn. Hung dữ nhưng rất dễ động lòng...

Lụi hụi vậy tụi tôi lớn lên lúc nào không hay. Tôi, như đã nói, thừa hưởng cái gen di truyền của má. Mười bảy tuổi, bẻ gãy sừng trâu, mái tóc cũn cỡn ngày nào giờ dài đen nhánh, mắt to mà lông mi dài mướt rượt nhưng tính tình thì cứ ngang tàng chụp giựt, cứ bài hải hét ra lửa như một "bà chằn" theo cách gọi giễu cợt của tụi con trai cùng lớp. Thằng em thì dù có lí lắc cách mấy cũng có vẻ hiền lành điềm tĩnh hơn. Chắc nó giống tía tôi. Ký ức về tía không nhiều nhưng tôi vẫn nhớ những lời răn dạy nhẹ hều của tía, những cái xoa đầu bẹo má mềm xèo của tía mà tôi không tài nào bắt chước được.

Một bữa, thằng em thấy tôi vui vẻ bèn kiếm chuyện:
- Nè bà chị, bữa hổm đi với mấy đứa bạn rình anh Tám với chị Mận tâm sự ở bãi sậy cánh đồng hoang, em nghe anh Tám thủ thỉ vầy nè, em Mận ơi, con mèo nhỏ dễ thương của anh ơi!

Tôi vừa bĩu môi, vừa xì thành tiếng:
- Trời, nghe mà nổi ốc cùng mình. Sến như con hến! Rồi sao nữa?
Thằng nhóc cười hí hí:
- Em biết là chị tò mò mà. Mà nè chị, chắc chị Mận tuổi con mèo hé?

Tôi cộc lốc nhưng khờ khạo rơi nhẹ nhàng vô cái bẫy của nó:
- Ừ, mà tuổi con khỉ gió gì thì mắc mớ gì tới tao?
Ai dè nó xích ra một chút cảnh giác rồi tung "chưởng":
- Em nghi quá, mai mốt anh Hiệp của chị mỗi lần tâm sự chắc kêu là em Dần ơi, con cọp cái của lòng anh ơi, cưng cưng lắm nè!

Nói xong câu động trời đó tất nhiên là nó bỏ chạy với vận tốc ánh sáng, nhưng nụ cười khiêu khích vẫn còn rớt lại phía sau để chọc tức tôi.


oOo

Tôi nổi máu tam bành thật sự, Dần là tên cúng cơm của tôi, con cọp là cầm tinh của tôi... Và Hiệp là cái thằng, ủa, mà không... là cái "anh chàng" học cùng lớp tôi, lớn hơn tôi một tuổi nhưng má còn búng ra sữa. Hôm nọ dám nhờ thằng em quỷ quái nham nhở của tôi đưa giùm tấm thiệp xuân cho bà chị với lời đề tặng "táo bạo" mà lại làm cho tôi mất ngủ mấy bữa liền. Đó là một tấm thiệp xuân mà tôi dám chắc không có ở đâu bán vì nó được tự tay người tặng tỉ mẩn và kỳ công thực hiện. Trên cái nền màu đỏ thắm là một nhánh mai vàng rực được chăm chút từng cánh giấy.

Quả là Hiệp rất khéo tay khi cắt từng mẫu chữ bé xíu kiểu thư pháp dán lên mặt thiệp một cách tự nhiên nhưng cũng rất thẩm mỹ. Ấn tượng nhất là lời đề tặng bên trong, quê quê mà dễ thương ác: "Dù cho thiệp có phai màu, nhưng mà Hiệp vẫn không sao thay lòng. Dần ơi, Dần có biết không? Tim Dần có thấu tấm lòng Hiệp đây?". Tại sao một lời đề tặng rất "sến" như vậy mà lại làm cho con cọp "gái" hung dữ mồm hô miệng hét như tôi động lòng?

Không như tụi nhóc học cùng hay chọc ghẹo kêu tôi là bà chằn, và tôi cũng không hổ danh với thương hiệu giang hồ đã gán cho mình, Hiệp không bao giờ kêu tôi như vậy. Anh chàng có đôi mắt biết cười luôn nhìn về phía tôi một cách dịu dàng, và con mắt đó, bực mình một cái là nó như thôi miên để lần lượt nhổ hết móng vuốt, bẻ hết nanh nọc của tôi. Tức mình hơn là biết mình sẽ rất khác, sẽ rất bối rối khi đối diện với Hiệp, nhưng đôi khi tôi không cưỡng được mình cứ thích nhìn về phía Hiệp ngồi để phát hiện ra ánh mắt ấy như một mũi tên dịu dàng bay từ "sát thủ Đại Hiệp" xuyên qua trái tim con gái của mình, cắm phập và nằm yên đó, lì lợm và cứng đầu, bứng mãi không ra (mà hình như tôi có chịu bứng đâu).

Về việc này, tôi định khi nào có dịp thuận lợi sẽ hỏi má. Má hung dữ phùng mang trợn má y chang bà cọp cái như vậy nhưng có ai làm cho má trở nên hiền lành như con mèo chưa ? Hồi đó tía thương má thế nào? Má có trở nên dịu dàng một cách khó hiểu mỗi khi gặp tía hông? Phải chi tía còn sống, tôi hỏi tía coi bộ dễ hơn. Hai mẹ con đều nóng tính, gặp câu trước câu sau tôi đã bị má rầy do cái tính bộp chộp và ngang bướng của mình. Mà hỏi má chẳng khác nào thừa nhận cái tính dịu dàng tiềm ẩn của mình mà tôi còn chưa hiểu hết.

Nói vậy chứ cũng có lúc hiếm hoi ngồi chải tóc cho tôi, má tằng hắng nói:
- Nè, lớn bộn rồi đó nghen mậy, liệu đi đứng nói năng cho đàng hoàng ý tứ, con gái con đứa như mày con trai nó chạy mất dép.
Tôi cắc cớ:
- Ủa, con mà dịu dàng thùy mị vậy chắc con trai thích lắm, má hén?

Má hứ cái cốc:
- Đừng có mà tào lao, lo học hành ngon lành, lẹ lẹ có nghề có ngỗng với người ta kìa, tao nuôi hai đứa bây oải lắm rồi, đừng có mới nứt mắt ra là nập nợn!
- Hí hí, ai biểu má chê con chi! Mà "nập nợn" là gì vậy má?

- Tao cũng hỏng biết, hồi đó bà ngoại cũng hay rầy má vậy đó. Chắc là chửi má ham chơi, kết bầy kết bạn đó mà!

Kết bầy kết bạn? Chắc là bây giờ người ta hay gọi là "kết môđen" chứ gì? Như Hiệp với tôi vậy chắc? Má biết, chắc má chửi tắt bếp. Nghĩ tới Hiệp, vừa bực vừa nhớ, vừa thấy ghét vừa thấy thương thương thích thích. Nhưng nhớ tới Hiệp, tôi cũng nhớ tới thằng em quỷ sứ của mình. Hôm đưa thiệp cho tôi, chính nó đã xâm phạm đời tư, mở thư ra đọc trước. Đó là tội thứ nhất; để bụng chờ cơ hội để chọc ghẹo bà chị "hiền lành tội nghiệp" của nó là tội thứ hai. Hai cái tội này tôi sẽ quyết trừng trị cho bõ ghét.

Chưa kịp trị tội nó, chỉ hôm sau nó lại lân la tới cầu hòa và ỉ ôi năn nỉ:
- Nè, chị, em biết lỗi rồi, hôm nay cho em lập công chuộc tội nghen!?
Miệng xin lỗi nhưng mắt nó thì lém lỉnh. Tôi cảnh giác cao độ:
- Gì nữa đây? Mày mà lộn xộn tao méc má đó! Sao mày em mà mày cứ ăn hiếp chị mày là sao?

Mặt nó nhăn nhúm tỏ vẻ đau khổ:
- Chị méc má là chị hối hận trước đó, vì má đánh, em không chịu nổi thế nào cũng cung khai để má khoan hồng cho coi.

Tôi lại nổi nóng trợn mắt:
- Khai cái gì thằng quỷ dịch?
Nó ấp úng:
- Thì khai là... là... anh Hiệp lớp chị nhờ em đưa chị món quà này, chị mừng quá nhảy lưng tưng lên... đạp trúng em, hi hi!

Tôi bỗng nhiên mềm nhũn như con cọp bị bỏ đói trong sở thú, nhẹ giọng bất thường:
- Quà gì, đưa đây "chị”.
- Trời, xưng chị nghe ngọt ngào quá ta. - Thằng em cà rỡn chịu không nổi - Đúng là tình yêu thật là kỳ... cục. Có thể cảm hóa được cái ác. Cả "chằn tinh" cũng cải tà quy chánh!

Tôi chịu hết nổi:
- Tao đếm tới ba, đưa đây! Một...
- Má ơi, cứu con! - Thằng nhóc hăm dọa.

Tôi vội xuống nước:
- Muốn gì, nói!?
- Muốn chị thương em.

- Ừ, chị thương.
- Muốn chị ký giao kèo Tết này lì xì thật nhiều cho em!

- Tao... - Tôi bặm môi, nuốt cơn nóng giận một cái ực - Rồi, chị hứa!
- Hì hì, móc ngoéo, đứa nào nói láo, hứa cuội, bồ bỏ luôn nghen!

Tôi xùy ngón út ra ngoéo lấy tay nó. Tới lúc này thằng em quỷ quái mới chịu tung ra món quà cho tôi.

Quà của Hiệp. Món quà gói thật đẹp. Tôi hồi hộp mở ra, bên trong là một con cọp nhồi bông rất xinh. Lạ một điều là con cọp này có thắt một cái nơ màu hồng trên đầu, đích thị là cọp "gái" rồi. Một tờ giấy cũng màu hồng rơi ra, tôi nhặt lên và đọc: "Tết này Dần cho Hiệp đến thăm con cọp đáng yêu này ở nhà của Dần nhe? Hiệp muốn xông đất nhà Dần ngay mồng một đó!

Trời ạ, Hiệp có biết là nhà tôi có hai con cọp? "Hổ ma ma" và hổ tiểu thư, mà con cọp nào cũng "đáng yêu" hết trọi. Cọp má ơi, đây là "khắc tinh" của cọp con gái đó má.
Cầu trời cho ngày Hiệp "vào hang cọp" mọi chuyện đều "như ý cát tường"...


Trần Tùng Chinh
(An Giang)

Hansy
21-08-2014, 06:57 PM
19

Con Heo Ăn Thịt Người

Nguyễn Vi Túy

Hôm ấy tụi nhỏ trong xóm nhặt được con heo sinh non còn đỏ hon hỏn, của một nhà nào đó thấy khó nuôi nên vứt bỏ ở ngoài đồng. Chúng đem về nghịch, lấy que gẩy qua gẩy lại như chơi đánh khăng, khiến con vật tội nghiệp cứ phải co rúm lại như để tránh các vết thương ngang dọc mỗi lúc một nhiều hằn lên lớp da mỏng dính.

Bà Tám thấy bọn trẻ đang túm tụm hào hứng với trò chơi mới lạ, tò mò bước đến gần để xem. Thấy con vật quặt quẹo, dơ dáy, đang nằm run rẩy dưới đất, bà hét lên giận dữ:
-Tụi mày ác nhân thất đức vừa vừa chứ! Con chó con ấy có tội tình gì mà tụi mày hè nhau đánh chết nó vậy!?

Bọn nhóc bị người lớn la rầy nên im thim thít, nhưng có đứa vẫn khe khẽ lên tiếng:
-Con heo “cùi”, chứ không phải con chó đâu bà Tám ơi!

Bà Tám dang hai tay vạt bọn trẻ ra, cúi xuống nhặt con vật đang bị hành hạ lên xem, rồi xuýt xoa:
-Ủa, là con heo... sữa! Sao nhà nào không đem đi nấu cháo mà lại vứt bỏ ở đây vậy kìa?

Thằng Bỉnh, có biệt danh là “Bỉnh Heo” hỉnh hỉnh cái mũi rồi nói:
-Bà Tám không thấy nó “què” sao?

Bà Tám nhấc tai con heo lên xem, quả thật con heo mới sinh này trông rất lạ, nó có 2 chân sau, còn hai chân trước thụt đâu mất và chỉ ló dạng chút xíu như cái đầu móng tay. Thấy con heo còn nhúc nhích, bà Tám lấy tay kia âu yếm vỗ nhè nhẹ lên lưng nó, tỏ lòng thương hại:
-Tụi bây đi hết đi, để tao mang con heo này về xem có cứu được không!

Nói xong, bà Tám lột cái nón lá đang đội trên đầu ngửa ra rồi bỏ con heo con vào - rồi bước nhanh - như sợ lũ nhóc đòi lại con vật mà chúng đang bày trò đùa giỡn.

Bà Tám là bà mụ đỡ đẻ trong xóm, dù không học hành gì nhiều, nhưng khi trạm y tế của xã mở ra thì bà cũng được nhận ngay vào làm “nữ hộ sanh”. Tay nghề của bà khéo lắm, khéo đến độ có nhiều ca ở tận xã bên cũng đem xe tới rước, để mong được “mẹ tròn con vuông”. Bà Tám cũng là người có lòng nhân khác lạ, không bao giờ bà nhận phá thai cho bất cứ ai, dù người ấy có gặp hoàn cảnh éo le đến đâu, cũng như trả tiền công cao đến cỡ nào... bà cũng đều lắc đầu từ chối. Vì thế cho nên, khi gặp lũ trẻ đang đùa nghịch với con heo tật nguyền, bà liền dành đem về cứu chữa với hy vọng nó sẽ sống sót, còn nếu không thì bà sẽ đem chôn nó ở cuối vườn.

Quả thật bà Tám rất mát tay, chỉ vài ngày sau con heo bị vứt ở ngoài đống rác ấy đã cựa quậy loi choi trong cái thùng giấy lót chiếc quần đen cũ rách. Hàng ngày bà đều bơm thuốc vào miệng con heo và cho nó bú sữa bột pha loãng, tất cả các thứ này đều có từ nhà bảo sanh của xã, nơi bà làm việc, nên cũng chẳng tốn kém gì. Ðến khi con heo con biết kêu lên eng éc mỗi khi đói, bà Tám mới phát giác ra ngoài chuyện chỉ có 2 chân sau, con heo dị dạng này còn bị mù nữa! Chuyện con heo bị thương bà còn chữa được, chứ chuyện nó bị mù “bẩm sinh” thì bà chịu, dù trước đây bà đã từng kiên trì nhỏ thuốc và hút mủ cho một đứa bé bị bỏ rơi – vì mẹ nó là một cô gái giang hồ, thấy con không mở mắt vì bị mủ bít kín do bệnh tật của các tay chơi để lại. Bà Tám thấy tội nghiệp đem đứa bé gái ấy về nuôi, đặt tên là Hiếu và nay nó đã được 8 tuổi - và thật may mắn là nó không bị mù như mọi người nghĩ, và nay cô bé ấy là niềm vui to lớn của một người phụ nữ đã lớn tuổi mà không chồng không con như bà.

Khi con heo đã cứng cáp và khỏe mạnh, bà nói với bé Hiếu:
-Con đem nó ra sau bếp, nuôi ở gần cái đường mương, chứ để nó trong nhà hoài má chịu không nổi mùi phân đâu!

Bé Hiếu từ ngày có con heo mà má nuôi đem về, nó thích lắm và coi như người bạn. Nó thường xuyên tắm, cho heo ăn, rồi bồng bế nựng nịu y như người ta nuôi chó trong nhà. Mặc dù để con heo sau bếp rồi quây phên tre chung quanh, nhưng bé Hiếu vẫn thường xuyên lén má Tám để đưa lên nhà đùa giỡn. Con heo nhờ được bà Tám và bé Hiếu chăm sóc thường xuyên nên ngày càng bụ bẫm, và mới nhìn qua không ai có thể biết đó là một con heo tật nguyền - vì dù chỉ có hai chân sau, và bị mù nhưng nó vẫn biết chạy tới chạy lui mừng rỡ mỗi khi nghe thấy tiếng kêu “ụt ơi, ụt à” của bé Hiếu và bà Tám.

Con heo lớn nhanh như thổi, chỉ vài tháng sau nó đã không còn di chuyển được như lúc còn bé, bởi hai cái chân sau đã không thể nào nâng đỡ nổi cái thân xác nặng nề. Vì vậy, mỗi lần muốn xê dịch nó chỉ như lủi người về phía trước, hay nằm một chỗ quay vòng vòng chứ khó có thể tiến xa được! Tới lúc này, bé Hiếu không còn đưa con heo đi đâu chơi đùa như trước nữa, và chỉ còn biết phụ bà Tám bằng cách tạt các thau nước nhỏ vào chuồng mỗi khi ngửi thấy mùi hôi từ phân của con heo mù thải ra.

Không ai biết bà Tám nuôi con heo tật nguyền ấy bằng thứ thức ăn gì mà nó lớn và nặng cân nhanh khủng khiếp. Con heo ngày càng mập, thịt núng na núng nính cả tảng bệu ra từ đầu đến bụng, thậm chí đến cả hai chân sau của nó. Bé Hiếu vì còn nhỏ nên cũng chẳng thắc mắc về việc cho heo ăn gì, nhưng mỗi khi nó tạt nước tắm cho heo thì lại thấy những vũng máu đỏ tanh nồng trôi đi từ chỗ nằm của con vật, thậm chí nhiều lúc nó còn thấy cả dòng máu đỏ tươi trào ra từ mõm, nhất là khi con heo ăn no rồi quay ra nằm ngủ thở hồng hộc.

Có lần bé Hiếu thấy bà Tám vứt cả đống thịt bầy nhầy còn đẫm máu vào chuồng cho heo ăn. Con bé tò mò hỏi:
-Má cho heo ăn thịt gì vậy? Sao má không nấu trộn vào cám cho nó?

Bà Tám quay sang nói nhỏ:
-Má cho nó ăn thịt bò, loại “bầy hầy” ở chợ bán không ai mua, họ để rẻ cho má đem về cho heo. Con thấy không, nó ưa ăn loại thịt này lắm, cám với rau mà con trộn thêm để ở máng má thấy có lúc nào nó chịu ăn đâu?

Bé Hiếu công nhận điều má Tám nói là đúng, con heo mù này chỉ thích ăn loại “thịt bầy hầy” do má nuôi thỉnh thoảng đem về sau khi hết giờ làm việc ở phòng hộ sanh xã. Con heo ngày càng mập và đánh hơi hay kinh khủng, khi bé Hiếu xuống dội nước tắm thì nó nằm yên không cựa quậïy, nhưng khi má Tám đem bịch thịt chưa đi tới chuồng thì nó đã hích hích cái mũi đỏ ửng và rít lên những tràng dài “ư... ử” để chờ đón món ăn khoái khẩu mà bà Tám đã cho nó ăn quen từ hồi thôi bú sữa, hôm nào không có món này thì nó nằm ủ rũ như heo bịnh, trông đến phát rầu!

Năm ấy, bà Tám thấy con heo đã nặng gần cả tạ, liền nghĩ đến chuyện phải bán nó cho mấy ông hàng thịt ở chợ xã để có thêm tiền tiêu tết. Ðã có hai tay đến trả giá, nhưng chê con heo mù và què này mỡ nhiều và đòi giảm giá. Bà Tám không chịu, vì thực sự giá mỡ và giá thịt lúc này cũng ngang nhau, còn chuyện heo bị mù hay thiếu mất hai chân trước thì cũng chẳng ăn nhằm gì đến việc... xả thịt.

Gần đến tết, các tay săn lùng mua heo bò lại xuất hiện trong vùng nhiều hơn, bà Tám biết vậy nên chẳng dại gì mà phải bán ngay cho những tay trả giá rẻ. Chính vì thái độ không nôn nóng và tỏ ra chưa cần bán, nên giá cân ký con heo tật nguyền của bà ngày càng được nâng cao, và cho đến lúc bà muốn gọi người trả giá cao nhất đến cân thì lại xảy ra chuyện.

Bé Hiếu khi biết bà sắp bán con heo mù đi, thì nó làm mình làm mẩy, khóc bù lu bù loa, không chịu để cho bà Tám bán mất con vật mà nó đã bỏ ra nhiều giờ chăm sóc và coi như bạn để đùa giỡn mỗi khi đi học về. Bà Tám vỗ về đứa con gái nuôi mà bà thương yêu còn hơn là con ruột rằng, khi bán xong con heo mù thì sẽ mua về đến hai con heo con để nó nựng nịu, nuôi nấng - nhưng nó nhất định không chịu và nói con heo mù... sắp có em bé, thì phải để cho nó sanh “em bé” xong rồi thì mới được đem bán.

Nghe bé Hiếu nói thế, bà Tám muốn bật cười vì sự ngây thơ của nó, vì con heo mù mặc dù là con heo cái, nhưng nếu không cho “nhảy nọc” thì làm sao có heo con được! Nhưng nghĩ lại, bà thấy cách này cũng có thể thực hiện được, vì nếu gọi người đem heo nọc đến cho nó “đi tơ”, thì biết đâu nhà bà lại có cả đàn heo con mũm mĩm. Bà cũng suýt bật cười khi nghĩ đến lúc ông “lái lợn” chắc chắn mồ hôi sẽ vã ra như tắm, bởi phải tìm cách nâng cho con heo chỉ có hai chân sau đứng lên, rồi lại phải lùa con heo nọc sao cho vào đúng vị trí từ phía sau... Ðang khi suy tính đến chuyện bán con heo tật nguyền, hay chờ nó sinh xong lứa heo đầu rồi đem bán cũng chưa muộn, thì bà Tám gặp người hàng xóm có cái ao rau muống kế sát đằng sau nhà.

Bà Mậu nổi tiếng là người khó chịu và lắm chuyện ở xóm bên, vừa thấy bà Tám liền đưa tay vẫy gọi rối rít:
-Này bà Tám, bà lại đây tôi nói chuyện này cho bà nghe...

Bà Tám đang băng ngõ hẻm để ra đường đón xe lam, không muốn nói chuyện nhiều vì sợ lỡ chuyến xe nên khoát tay, mà chân vẫn rảo bước:
-Thôi có chuyện gì thì để đến chiều tôi đi làm về rồi ghé nhà bà nói chuyện sau nghe.

Bây giờ tôi phải đi gấp, kẻo bị la rầy vì đi trễ hoài kỳ lắm! Bà Mậu bước nhanh tới, rồi hối hả nói:
-Chuyện này có liên quan tới con heo của nhà bà!

Nghe tới chuyện con heo, bà Tám nghĩ chắc bà hàng xóm này phiền hà chuyện cống rãnh thoát phân chảy sang ruộng rau muống, nên lên giọng:
-Bà đừng lo gì hết á, tôi sắp bán con heo ấy rồi. Mấy ngày nay quân buôn trả giá hà rầm mà tôi chưa chịu, chắc ít bữa nữa là có người đến cân...

Bà Mậu đưa tay áo ra chùi nước cốt trầu đang nhễu ra ở hai bên mép rồi nói:
-Bà hiểu lầm ý của tôi rồi! Tôi muốn nói với bà chuyện khác kìa...
Bà Tám ngạc nghiên hỏi lại:
-Chuyện khác là chuyện gì?

Bà Mậu ra vẻ nghiêm trọng:
-Chả là nhiều tối tôi ngủ không được, ra sau bếp làm mấy việc vặt, thấy đã khuya rồi mà sao bên chuồng heo của nhà bà vẫn còn tiếng đùa giỡn của con Hiếu với con heo. Ðêm khuya thinh vắng nên tôi nghe rõ lắm, và chỉ lạ là tại sao bà không bắt nó đi ngủ sớm. Chuyện ấy xảy ra mấy đêm liền, nên tôi để ý nghe coi con Hiếu nói gì với con heo, ai dè toàn là tiếng o oe như là trẻ sơ sinh, và tiếng cười nắc nẻ cũng vậy là của trẻ nít chứ không phải là của con Hiếu. Tôi biết nhà bà chỉ có con Hiếu thôi chứ đâu có con nít mới sanh, nên tôi mới hỏi bà là...

Bà Tám ngắt ngang câu chuyện kể của bà Mậu, ra vẻ giận dỗi:
-Bà già rồi mà còn nói chuyện tầm phào! Ðêm nào con Hiếu cũng lên giường ngủ chung với tôi, khi buồn đi tiểu nó còn phải gọi tôi dậy thắp đèn đưa nó ra sau bếp, làm gì có chuyện đêm nào nó cũng xuống chơi giỡn với heo!

Bà Mậu phân trần:
-Tôi có nói với bà rồi, lúc đầu thì tôi tưởng là con Hiếu, nhưng sau nghe kỹ thì mới biết đó là tiếng cười giỡn của trẻ mới sinh. Giọng cười của nó vang lên khanh khách giữa đêm vắng, thì làm sao tôi lầm với giọng cười của con Hiếu được!

Bà Tám ra vẻ bực bội:
-Nhưng bà kể chuyện này với ý gì? Mặc dù tôi làm bà mụ đỡ đẻ, nhưng tôi chưa làm điều gì sai quấy, tôi còn mang cả con Hiếu về nuôi nữa, bà không thấy việc ấy sao?

Bà Mậu chống chế:
-Lòng dạ của bà trong xóm ai mà không biết, nhưng chuyện con heo nhà bà đùa giỡn với con nít lúc nửa đêm về sáng là chuyện có thật, tôi nghe sao thì kể cho bà biết như vậy, không có ý gì hết. Mấy bữa nay có người muốn mua con heo ấy, tôi nghĩ là bà nên bán ngay đi, đừng chắc lép gì nữa!

Bà Tám nghĩ là bà Mậu muốn bà bán quách con heo để khỏi bị ngửi mùi phân mỗi khi có luồng gió thổi xuôi chiều hay những ngày nóng bức khiến mùi phân xông lên nồng nặc - bởi phía sau bếp của nhà bà thì cũng là phía sau bếp của nhà bà Mậu! Nhưng nghĩ lại, bà Tám chợt lòng dạ phân vân, bởi cách đây mấy tuần ngoài các bịch “nhau” của đàn bà đẻ mà bà đem về, còn có một thai nhi sinh non đã đầy đủ hình hài mà bà lấy lầm đem về cho heo ăn!

Bà Tám nhớ lại, hôm ấy một phụ nữ lạ mặt, nước da trắng bóc, chứng tỏ không phải là người trong xã, được xe lôi chở vào nhà bảo sanh với những triệu chứng sắp sinh. Khi nhìn bụng của thai phụ, bà Tám biết ngay đây là một ca sinh non, và không có dấu hiệu gì chứng tỏ thai nhi còn sống! Mặc dù đã chích thuốc dục, và bọc nước ối đã vỡ nhưng người đàn bà mang bầu vẫn không thể nào thúc được đứa con ra khỏi bụng mẹ. Thai phụ mồ hôi vã ra như tắm, bờ môi nứt nẻ khô rang, sức khỏe cạn dần vì lo sợ và ráng sức làm theo các phương pháp rặn đẻ của bà Tám. Thấy nguy cơ có thể dẫn đến việc chết cả mẹ lẫn con, bà Tám cùng người y tá ở nhà bảo sanh đã tính đến chuyện kêu xe lam chở người đàn bà này lên phòng bảo sanh huyện, vì ở đó có bác sĩ để làm một ca mổ cứu vãn sinh mạng của thai phụ, nhưng nghĩ đến quãng đường xa diệu vợi, và chắc chắn người đàn bà này sẽ chết trên đường đi, nên bà Tám đánh nước liều, nói với cô y tá:
-Chị chích cho bà ấy mũi thuốc khỏe, để tôi cố lấy cái thai ra...

Nói rồi, bà Tám đẩy hai chân của thai phụ dang rộng thêm, lột bỏ đôi găng tay cao su rồi thọc bàn tay sâu vào trong âm đạo, bà luồn tay qua cổ dạ con, đụng đầu thai nhi và thấy nó vẫn nằm ngửa chưa chuyển sấp trước khi ra khỏi lòng mẹ như các vụ đỡ đẻ bình thường. Nhưng cũng để chắc ăn, bà đưa bàn tay trần lên sát mũi đứa nhỏ để xem lại lần nữa coi nó còn thở không, nhưng tất cả đều bất động. Bà mạnh dạn bấu năm ngón tay xuống cằm đứa nhỏ và lôi mạnh nó ra ngoài. Cái đầu ra khỏi cổ dạ con không khó, nhưng đến cái vai của nó bà lại phải lựa thế xoay ngang thì mới kéo được cả thân hình nó ra. Mặc dù đó là một đứa nhỏ sinh non mấy tháng và đã chết trước đó không lâu, nhưng khi lôi nó được ra ngoài và cắt rốn, bà Tám thấy đó là một bé gái xinh đẹp, nhưng lạ một điều là trên đầu nó lại có một hai vết thương trí mạng!

Dù đứa bé đã chết, và trong khi cô y tá lo cho người mẹ, bà Tám vẫn đem thai nhi đi tắm, để bớt mùi hôi tanh của máu mủ, cũng như phòng việc mẹ nó muốn nhìn mặt trước khi chôn cất. Lúc tắm cho nó, bà Tám để ý thấy ngoài vết thâm tím ở cổ do bà níu vào để lôi nó ra, trên đầu đứa trẻ còn bị mấy vết thương lõm vào khá sâu như có ai dùng vật lạ thúc mạnh vào đầu, làm mất cả một mảng tóc!

Khi bà mẹ tỉnh lại, đã hết lời cảm ơn sự cứu tử của bà và cô y tá, và không tỏ ý nuối tiếc hay muốn xem mặt đứa con đã chết! Bà Tám đem chuyện vết thương trên đầu đứa bé ra hỏi, người đàn bà tên Phượng lúc đầu chối quanh, nhưng sau mới thú thực là trước đó không lâu bà ta đã đến nhà một bà mụ để phá thai, bởi kết quả siêu âm trên thành phố cho biết đó là con gái. Vụ phá thai bất thành, bởi cái thai đã lớn, và bà mụ vườn không tài nào móc được đầu cái thai để kéo ra, Thấy máu ra nhiều sợ bị băng huyết nên Phượng được chở đến nhà một y tá tư để điều trị, và khi trên đường trở về Saigòn thì có dấu hiệu thai hư muốn tống ra ngoài, nên đã nhờ người quen chở vào nhà hộ sanh gần nhất!

Chiều hôm ấy, bà Tám vứt gói nhau như thường lệ vào chuồng heo, và không biết rằng trong đó là cái thai sinh non của người đàn bà tên Phượng. Bởi cô y tá đã gói cái bọc ấy đưa cho bà Phượng và bảo bà ta đem về nhà chôn cất, nhưng sau đó bà này chuồn thẳng, vì sợ rắc rối lôi thôi! Hôm sau đi làm, cô y tá đã nói cho bà biết vụ lấy lộn cái bao, vì bao nhau vẫn còn đó, còn cái bao đựng đứa nhỏ thì bà Tám đã lấy về cho heo ăn! Nghe xong, bà giật mình hối tiếc vì chiều hôm ấy đi làm về bà lại ra chợ mua thêm ít thức ăn nên khi về đến nhà trời đã nhá nhem, nên bà quẳng ngay gói nhau vào chuồng heo mà không mở ra, hay đứng xem heo ăn như mọi lần. Bây giờ cái thai nhi ấy đã nằm trong bụng con heo tật nguyền của bà, bà muốn moi ra cũng chẳng được, muốn chôn cất nó cũng không xong.

Trong lúc đầu óc rối bời khi nhớ lại sự việc, bà Tám không biết phải trả lời sao với bà Mậu, bà đành xuống giọng, nhưng vẫn nói cứng:
-Ừa thì chuyện là bà nói như vậy... Nhưng để tối nay tôi xuống chuồng heo xem coi có đúng như bà nói không...

Bà Mậu ngúng nguẩy ra vẻ giận dỗi:
-Tui nói bà không cảm ơn thì thôi, còn bày đặt tin với hổng tin! Tui mà nói láo, cho xe be 12 bánh cán tui nát như tương tàu đi...

Nói rồi bà Mậu quay ngoắt về, thì cũng là lúc chiếc xe lam trờ tới. Bà Tám leo lên xe mà trông như kẻ mất hồn, lòng dạ bà rối bời vì không biết phải đối phó ra sao với câu chuyện bà Mậu mới kể. Từ bao năm nay làm nghề đỡ đẻ, bà không bao giờ đụng đến xác những thai nhi xấu số không được cất tiếng khóc chào đời. Nhiều người mẹ còn nhẫn tâm vứt bỏ xác con lại, khiến bà phải đặt chúng vô hộp và đem chôn đàng hoàng ở mảnh đất cuối vườn của nhà bảo sanh. Việc bà Tám nghĩ ra chuyện cho heo ăn nhau, là vì bà thấy lũ chó quanh nhà bảo sanh thường lục lọi thùng rác, kéo những bịch nhau tanh tưởi thối nồng ra ăn, và con nào con nấy lại mập khỏe to lớn khác hẳn với những con chó khác nuôi ở nhà. Ðể tránh việc chó bươi móc thùng rác kiếm thức ăn, bà Tám mới nghĩ đến việc hôm nào có người đến sanh thì bà đem mớ nhau ấy về cho heo ăn, vừa đỡ tốn kém lại không còn phải lo dọn dẹp thùng rác mỗi khi bị bầy chó bới tung. Loại nhau mà bà Tám đem về là loại “nhau con rạ”, còn loại “nhau con so” của những người mạnh khỏe và sinh con lần đầu thì thường được dành cho mấy người quen trong vùng, đặt mua và dặn trước - bởi những người này tin ăn “nhau con so” chữa được nhiều thứ bệnh.

Lúc ấy cũng hơn nửa khuya, khi thấy con Hiếu đã ngủ say, bà Tám vạch mùng rón rén bước ra mở cửa sau. Muốn xuống tới chuồng heo sau bếp, bà phải băng qua một khoảng sân, tuy không rộng lắm, nhưng sao đêm nay bà thấy nó xa cách diệu vợi. Vầng trăng lại không mấy rạng, còn bị mấy đám mây đen che phủ, khiến cảnh vật chung quanh tối đen như mực. Khi bà rón rén bước ra sân được mấy bước thì nghe tiếng chó tru từ xa vọng lại, tiếng chó ngân dài hồi lâu rồi lại ư ử trong đêm khuya thanh vắng nghe thật dễ sợ như tiếng oan hồn não nùng ai oán, rồi lại y như đứa trẻ con bị bóp cổ không thể thoát ra tiếng khóc. Dân miền quê mỗi lần nghe thấy tiếng chó sủa vu vơ ấy thì lại rù rì nói với nhau đó là tiếng “chó sủa ma”, và những đứa trẻ khó ngủ thì thường bị cha mẹ đem tiếng chó sủa ban đêm ấy ra mà dọa nạt. Bà Tám dù không tin vào những chuyện kể ấy, nhưng sao lúc này bà cũng thấy sờ sợ và muốn chùn chân bước lại vào nhà. Nhưng đúng lúc ấy những bụi cây chung quanh nhà bà bỗng xào xạc như có ai luồn lách lướt đi trên lá để đến cái chuồng heo ở cuối bếp.
Bà Tám đứng sững nhìn theo, bà bỗng cảm thấy ớn lạnh khi nghe tiếng con heo tật nguyền trong chuồng kêu lên ồng ộc, rồi hi hí mừng rỡ y hệt như những khi bà mang về món nhau mà nó ưa thích! Những tiếng động ở dưới chuồng heo mỗi lúc mỗi nhiều, y như có người đùa giỡn với heo. Giữa những tiếng hụt hịt của heo, bà Tám còn nghe thấy tiếng cười khanh khách của trẻ con, y như có ai cù vào nách nó.

Như vậy những điều mà bà Mậu hàng xóm nói với bà Tám đều là sự thật, và không có gì thêm thắt hay bịa đặt! Bà Tám sợ điếng hồn, lòng dạ ngổn ngang, vì không biết phải làm gì để chấm dứt hiện tượng ma quái đang xảy ra trong nhà bếp có cái chuồng heo này! Bà biết là đứa trẻ chết linh, nó muốn sống mà mẹ nó bắt chết, nó muốn mồ yên mả đẹp mà bà lại đem vứt thân xác thiên thần của nó cho heo ăn. Không biết làm sao hơn, bà chắp tay run run khấn vái:
-Cháu bé chết oan ơi! Bà đâu muốn vậy đâu! Bà muốn cứu cháu lắm đấy chứ, nhưng mà họ làm cháu chết rồi. Thôi để sáng mai bà lên chùa xin lễ cầu siêu để cho cháu siêu thoát, để cho cháu sớm đi đầu thai...

Nói xong, bà Tám bước ngay vào nhà đóng sập cửa lại. Ánh đèn dầu leo lét để trên bàn đủ để soi sáng căn nhà nhỏ, bỗng phực sáng rồi chao qua chao lại như có luồng gió mạnh thổi qua. Bà Tám nhìn quanh nhà, thấy mọi cửa nẻo đều đóng kín, thế thì luồng gió lạ lùng ấy ở đâu ra? Ðang khi thắc mắc, tiếng con bé Hiếu chợt ú ớ vang lên trong mùng như đang nói chuyện với ai:
-Ðể mai chị mang đồ chơi xuống cho em nha... Chị không có thứ ấy... thôi để chị nói má chị mua cho em... chịu không...

Bé Hiếu còn nói nhiều câu nữa, nhưng dù có lắng nghe đến mấy bà Tám cũng không hiểu đứa con nuôi của bà đang nói gì, và nói với ai trong cơn mê ngủ. Bà tằng hắng rồi cất tiếng vu vơ để đánh tan nỗi sợ:
-Ủa con Hiếu còn thức hả? Khuya rồi sao chưa ngủ vậy con?

Bà dở mùng nhìn vào, bé Hiếu vẫn say giấc nhưng trên môi còn đang nhoẻn nụ cười. Bà Tám định bụng chờ đến sáng để hỏi xem con bé đã mơ thấy gì trong giấc ngủ, mà bà đinh ninh là nó có liên quan đến con heo tật nguyền ở cuối vườn. Cả đêm hôm ấy bà Tám trằn trọc lăn qua lộn lại mà cũng không tài nào ngủ được. Bà nghĩ tới nghĩ lui, than vắn thở dài, và lâm râm cầu nguyện để mong sao có được một hành động thỏa đáng để giải quyết việc “con heo ma” đang làm rộn tâm trí bà. Nhưng rồi cũng đến lúc vì quá mệt nên bà thiếp đi lúc nào không biết. Trong cơn ngủ nửa tỉnh nửa mê, bà thấy đứa bé gái bị chết trong bụng mẹ hiện về, mặt mày loang lổ những vết cắn xé, trông thật thảm hại.

Bà Tám hối hận quá, run run nói:
-Bà biết cháu muốn cất tiếng khóc, muốn mở mắt chào đời. Vì thế cháu đã cố trốn tránh bàn tay của mụ nạo thai tàn ác, nhưng cuối cùng cháu cũng không thể tránh khỏi! Số phận của cháu đã vậy, bà đâu biết làm sao hơn...

Hồn ma của đứa bé gái oặt ẹo, nhăn nhó, co dúm như đang bị đau đớn, rồi lại chuyển sang một đứa bé lành lặn xinh tươi hồng hào, miệng cười chúm chím. Bà Tám thấy đứa bé mũm mĩm dễ thương như một con búp bê, uốn éo thân hình rồi nhanh như chớp cuốn hút mất dạng vào phía chỗ nằm của bé Hiếu. Bà nhìn sang, thấy bé Hiếu bỗng ngồi bật dậy nói chuyện với bà mà cặp mắt lại nhắm nghiền như đang say ngủ.

Bé Hiếu nói với giọng rầu rầu:
-Má à! Con cảm ơn má đã cố gắng giúp con chào đời nhưng không được. Bây giờ con muốn đi đầu thai, vậy má hứa phải giúp con nhe.

Bà Tám bối rối:
-Nhưng má... ủa mà bà biết giúp con bằng cách nào?
-Má biết cách mà, má có cách mà...

Nói xong, hồn ma đứa bé bị chết oan như một luồng khói trắng thoắt nhẹ rời khỏi thân xác của bé Hiếu và tan loãng dần ở phía cuối nhà. Bà Tám đưa tay như muốn chận lại hồn ma của đứa bé để hỏi thêm đôi điều, nhưng đúng lúc ấy bà đã giật mình tỉnh giấc – và ngoài sân tiếng gà đã eo óc gáy chào đón bình minh.

Bà Tám biết mình vừa trải qua một cơn mơ, nhưng là những sự việc hoàn toàn có liên quan đến chuyện “con heo ăn thịt người” mà bà đang nuôi ở đằng sau bếp. Nghĩ tới nghĩ lui, vò đầu bứt tóc mãi mà bà Tám cũng không tài nào nghĩ ra cách để giúp đứa bé sơ sinh trong giấc mộng sớm được đầu thai, và nhà bà thoát khỏi cảnh giam giữ một linh hồn bé nhỏ!

Ðúng lúc ấy bé Hiếu thức giấc, nhìn thấy bà Tám ngồi bó gối ở đầu giường nó lên tiếng hỏi:
-Ủa sao má dậy sớm quá vậy? Hôm nay má có đi làm không?

Bà Tám nhớ lại chuyện bé Hiếu nói lảm nhảm trong giấc ngủ đêm qua, nên hỏi ngay: -Tối qua con nằm ngủ mơ thấy cái gì mà hứa này hứa nọ với ai vậy?
Bé Hiếu đưa tay dụi mắt xong, lại đưa tay lên gãi đầu ra vẻ bối rối:
-Con mơ... thôi ấy mà, không có chuyện gì đâu má.
-Không có chuyện gì mà sao má thấy con nói nhiều thứ lắm. Con muốn dấu má phải không?

Bé Hiếu xua tay liên tục:
-Con đâu dám dấu! Chả là vì con mơ thấy “em bé” ở dưới chuồng heo muốn có đồ chơi, nên con hứa đem xuống cho nó chơi. Rồi nó còn nói nó không có quần áo nên ở dưới đó lạnh lắm, con thấy nó phải chui nằm dưới bụng con heo để đỡ lạnh nữa. Con chỉ hứa cho nó đồ chơi, còn quần áo thì con nói là không được vì nhà mình nghèo lắm, đâu có quần áo dư mà cho nó...

Bà Hiếu chăm chú nghe rồi hỏi thêm:
-Con thấy đứa bé ấy là trai hay gái?
-Nó là con gái má ơi. Nó dễ thương lắm, mà sao con thấy nó cứ đưa hai tay lên bụm cái đầu. Con có hỏi mà nó không nói, nó bảo muốn biết thì hỏi má thì rõ. Con nghĩ là chuyện trong giấc mơ thì có gì mà má biết được, nên con không muốn nói là vậy.

Bà Tám quay sang ôm bé Hiếu vào lòng, vỗ về rồi nói:
-Chuyện con mơ là chuyện có thật đó con, con bé ấy chết oan nên hiện về muốn má con mình giúp nó sớm đầu thai...

Rồi bà Tám kể hết đầu đuôi câu chuyện cho bé Hiếu nghe. Nghe xong bé Hiếu nói: -Nếu vậy, chiều nay đi học về con sẽ đem đồ chơi xuống chuồng heo cho nó. Vậy má có bộ quần áo nào cũ của con để cho nó mặc không?

Bà Tám vui vẻ nói với đứa con nuôi:
-Nó còn bé lắm không mặc vừa đồ của con đâu. Ðể má lên nhà bảo sanh có bộ quần áo mới mà người ta bỏ lại quên đem về, má sẽ đem về đốt cho nó.
Bé Hiếu dẫy nảy:
-Tại sao lại đốt? Sao má không để nguyên vậy cho nó?

Bà Tám giải thích:
-Ðó là cách gửi nhanh nhất đó con. Bộ con không thấy người ta đốt vàng mã hay sao? Mình đốt thứ gì thì người chết sẽ nhận được thứ đó. Em bé mà con mơ cần quần áo thì con đốt quần áo, cần đồ chơi thì con đốt đồ chơi...

Ngay trưa hôm đó, bà Tám xin về nhà sớm hơn thường lệ. Bà muốn làm một việc nhưng không muốn bé Hiếu chứng kiến, vì giờ này nó vẫn còn ở trường học. Bà lặng lẽ đi thẳng xuống bếp, mở bọc nhau quẳng ngay vào máng, nhưng con heo “ma” hình như đoán được việc bà Tám sắp làm nên nó vẫn nằm im mà rên rỉ như van xin tha mạng, chứ không lộ vẻ vui mừng chộn rộn như những lần được ăn món khoái khẩu!

Bà Tám mở cái túi xách luôn mang theo bên mình, rút cái ống bơm đã có đầy thuốc rồi lắp kim chích vào. Ðây là liều thuốc độc cực mạnh mà bà đã tự pha chế, trong đó có cả thuốc chuột lẫn morphin là chất mà nhà thương thường dùng để giữ cho xác chết lâu phân hủy. Hai chất này trộn vào với nhau biến thành một thứ độc dược làm tê liệt hết các bộ phận có chức năng đem đến sự sống, khiến con vật bị chích sẽ ngưng thở chỉ trong vòng vài phút.

Bà Tám tiến đến gần con heo tật nguyền, rồi buồn bã chép miệng:
-Tao phải hóa kiếp mày để đứa bé chết oan được đi đầu thai. Chỗ này không phải là nơi để nó trú ẩn, nó phải đến một chỗ sạch sẽ và ấm êm khác...

Nói xong, bà Tám phóng ngập mũi kim to và dài đến 3 đốt ngón tay vào đùi con heo đang nằm bẹp dưới đất! Con vật chắc biết đã đến giờ hóa kiếp nên không có bất cứ cử chỉ nào kháng cự, ngoài việc các thớ thịt run lên bần bật khi độc dược bắt đầu có tác dụng, và há mõm thở hồng hộc như thiếu dưỡng khí. Bà Tám đứng nhìn cho đến khi con heo bất động, và toàn thân tím dần vì chất độc.

Khi bé Hiếu tan học, nó nhanh chân chạy về nhà để đem xuống chuồng heo mấy món đồ chơi mà nó vừa lấy lại từ mấy đứa bạn học chung lớp. Nhưng khi gần vào tới chuồng, nó rất ngạc nghiên vì không thấy con heo ủn ỉn lên tiếng reo mừng như thường lệ mà thay vào đó là một sự im lặng như tờ. Nhìn vào chuồng, nó thấy con heo nằm bẹp dí và da thịt đã đổi màu, nó hoảng hốt vứt tung mấy thứ đang cầm trên tay rồi chạy lên nhà kêu:
-Má ơi! Má à! Má ơi...

Bà Tám giả bộ như đang mệt nhọc:
-Ðể cho má nhắm mắt một chút... Có việc gì để chút nữa rồi hãy gọi má... Con Hiếu đưa cả hai tay rung mạnh một đầu võng, nơi bà Tám đang nằm đong đưa ở góc nhà, với giọng hối thúc:
-Má xuống bếp coi ngay đi, con heo nhà mình nó nằm im không cục cựa, chắc là nó chết rồi má ơi!

Bà Tám hé mắt ra nhìn bé Hiếu, bà thấy nó không có chút nghi ngờ gì về việc bà đã chích thuốc độc cho con heo, nên vội vàng choàng dậy, một tay níu lấy võng, còn hai chân xỏ nhanh vào đôi guốc để gần bên, rồi lên giọng đầy vẻ lo lắng: -Con có nói thiệt không con? Con heo đang mạnh mà? Con đi với má xuống coi sao? Hai mẹ con hối hả đi xuống chuồng heo. Tới nơi, bà Tám giả bộ lật đật cuống cuồng vì thấy con heo nằm rũ. Bà nhìn tới nhìn lui, lấy tay đập chan chát vào xác con heo rồi nói với bé Hiếu:
-Con heo nhà mình chết thật rồi! Không biết ai cho nó ăn gì, hay bị trúng gió khiến mình mẩy tím bầm như thế này! Nó chết chắc đã lâu rồi, làm sao mà còn bán cho ai được đâỷ!

Bé Hiếu đi nhặt lại mấy món đồ chơi vứt vương vãi gần chuồng heo, rồi rơm rớm nước mắt:
-Mấy thứ này bây giờ gửi cho ai đây má?

Bà Tám tiến đến gần con, vuốt tóc an ủi:
-Con đưa cho má, má đem chôn với con heo này thì “em bé” của con sẽ nhận được ngay chứ gì. Thôi con đừng buồn nữa, mai mốt má sẽ mua cho con hai con heo khác, lúc ấy con tha hồ mà chơi đùa với nó, chứ con heo này bự quá rồi, và nó lại chẳng có mắt để nhìn biết con là ai...

Sáng hôm sau bà Tám nhờ người quen đến đào một cái hố bên cạnh bếp, nói là để có chỗ thoát nước khi trời mưa, nhưng khi người hàng xóm vừa đi khỏi thì bà và bé Hiếu đã dùng hết sức lực để kéo con heo tật nguyền xuống lỗ. Trong khi bà Tám chuẩn bị lấp đấp chôn thì bé Hiếu đã quẳng vội xuống mấy món đồ chơi mà nó từng ưa thích, bà Tám cũng vứt xuống đó hai bộ quần áo mới tinh của trẻ sơ sinh mà bà đem về từ chỗ làm. Ðắp đất xong, bà Tám đốt mấy cây nhang, khấn vái lâm râm rồi đem cắm lên mô đất.

Bà nói với bé Hiếu:
-Má tin là “em bé” bị chết oan sẽ đi đầu thai, vì chỗ trú ngụ của nó nơi con heo tật nguyền này đã không còn nữa...

Cả đêm hôm ấy, dù thao thức đến sáng và không tài nào ngủ được, bà Tám để ý nghe cũng chẳng thấy có gì động tĩnh gì ở phía chuồng heo, còn đứa bé thai nhi cũng chẳng thấy hiện về.


Nguyễn Vi Túy
(Xuân Ðinh Hợi 2007)

Hansy
22-08-2014, 01:36 PM
20

Giấy rách chẳng còn muốn giữ lề

Nguyễn Thế Duyên

-Bạch Vân!
-Hồng vân!

Hai cô gái trẻ ôm chầm lấy nhau . Lâu quá rồi còn gì, đã hơn ba năm nay bây giờ họ mới gặp lại nhau. Hai người là hai chị em họ. Kể về vai vế thì Hồng vân là chị. Nhưng vì bằng tuổi nhau, lại học cùng một lớp từ hồi còn học cấp ba trường huyện nên họ coi nhau như bạn bè..

-Mày từ Mỹ về khi nào vậy? Quà của tao đâu?
Hồng vân hỏi khi hai người rời nhau ra. Bạch Vân cười.
-Tiền đâu mà mua quà. Em tha được thân về nước đã là may mắn lắm rồi. Suýt nữa thì không có cả tiền mua vé máy bay mà về ấy chứ.

Nghe Bạch vân nói, Hồng vân trợn tròn mắt ngạc nhiên.
-Mày được học bổng nhà nước đi du học cơ mà?
Bạch Vân thở dài đến thượt một cái.
-Thì đúng vậy! Nhưng cái học bổng chết đói của nhà nước mình thì làm sao sống nổi trên đất Mỹ. Bọn em ở bên ấy phải đi làm thêm bục mặt mới đủ tiền trang trải cho sinh hoạt của mình.

Hồng vân nhìn cô em họ cười.
-Tiền mua quà thì không có nhưng lại lôi về một đống sách có phải không?
-Sao chị biết? –Bạch Vân ngạc nhiên. –Ai nói với chị ?

-Việc gì phải ai bảo mới biết. Bọn trí thức dở hơi chúng mày đứa nào mà chẳng thế. Cái cần học thì không học cứ hùng hục học những thứ mà cả đời chẳng dùng đến bao giờ.
-Thế chị bảo cái gì là cần phải học?

Hồng Vân thở dài thương hại cho cô em họ của mình.
-Đến bây giờ mà mày vẫn chưa biết à! Thế mày đã xin được việc chưa? –Bạch Vân nín lặng không nói gì. Quả thật, về nước đã mấy tháng rồi nhưng cô vẫn chưa thể xin vào làm việc ở bất cứ một cơ quan nào. –Lẽ ra điều mày, một phụ nữ xinh đẹp, cần phải học là học cách làm sao để tà lưa được một thằng mẽo xịn để biến mình thành một “Việt kiều yêu nước”. Rõ chưa? Con ngốc!

Nói xong, Hồng Vân phá lên cười một cách thích thú.
Quả thật Bạch vân là một cô gái xinh đẹp. Hồi còn học bên Mỹ , có biết bao chàng trai Mỹ say cô như điếu đổ. Khi ấy, nếu muốn biến thành “Việt kiều yêu nước”, chắc chắn với cô chẳng khó khăn gì. Thế nhưng cô đã không làm điều đó mà lại vùi đầu vào đống sách cao ngất của thư viện nhà trường và đến thứ bảy, chủ nhật lại quần quật làm việc cho một cửa hàng ăn để lấy thêm tiền mua những cuốn sách đắt khét.

Hôm nay là ngày giỗ tổ của dòng họ. Ông trưởng họ từ trong nhà thờ họ bước ra, vừa nhìn thấy hai chị em , ông đã vội vàng chạy ngay lại. Từ xa ông lão đã sởi lởi.
-Cháu Vân đến lúc nào thế?
Bạch Vân lại cứ nghĩ ông trưởng họ hỏi mình. Cô lễ phép .
-Dạ cháu vừa đến.

Hồng vân tươi cười cũng nói.
-Dạ! cháu cũng vừa mới đến.
Ông trưởng họ đến nơi hai cô gái nắm lấy cánh tay của Hồng vân kéo vào trong nhà vừa đi ông lão vừa nói.
-Cháu vào đây để bác giới thiệu cháu với mọi người.

Hình như ông không nhìn thấy Bạch vân hay ông không biết cô là ai?
Bạch vân đỏ mặt sượng sùng. Cô chợt nhớ đến buổi liên hoan do dòng họ cô tổ chức để tiễn cô sang học bên Mỹ ba năm về trước. Hôm ấy cũng đông như hôm nay, ông trưởng họ cũng nắm lấy tay cô kéo cô đứng ở giữa nhà thờ họ. Nét mặt ông rạng ngời. hãnh diện.

-Tôi xin giới thiệu với mọi người đây là cháu Vân con ông Quỳnh. Cháu nó vừa đoạt được học bổng của nhà nước ta sang nghiên cứu sinh tiến sỹ tại Mỹ. –Giọng ông đột nhiên vút lên cao. Không phải là ông nói. Bạch vân có cảm giác như ông muốn hét to lên cho cả làng, cả xã này nghe tiếng. –Thế là cả cái xã này chỉ có duy nhất một tiến sỹ mà lại là người của dòng họ Nguyễn chúng ta. Tôi đề nghị mọi người cho một tràng pháo tay để chúc mừng.

Tiếng vỗ tay, tiếng reo hò tưởng làm sụp cả mái ngói của nhà thờ họ. Thế mà bây giờ!
Bach vân đi theo sau hai người. Cô tựa lưng vào cửa nhìn vào trong nhà thờ xem ông trưởng họ làm gì. Cô thấy cũng như ba năm về trước, ông lão dắt Hồng Vân ra đứng giữa nhà thờ họ trịnh trọng giới thiệu.

-Tôi xin giới thiệu với mọi người! Đây là cháu Vân con ông Thái.
Ông dừng lại một chút nhìn quanh rồi hỏi mọi người. –Ông Thái đâu rồi? mọi con mắt nhìn quanh, tìm kiếm. Một ai đó nói to
-Ông Thái đang ở ngoài sân.
-Đưa ông Thái vào đây!

Ông trưởng họ ra lệnh. Một người nắm tay ông Thái, gần như là phải lôi ông lão từ ngoài sân đi vào. Mọi người rẽ ra thành một lối nhường chỗ cho hai người. Tội nghiệp! Hình như ông lão không muốn chiềng mặt ra giữa đám đông này. Mặc! Mọi người lôi bằng được ông lão ra đứng bên cạnh cô con gái rượu của dòng họ. Ông trưởng họ dơ tay ra hiệu cho mội người im lặng. Khi không khí nhộn nhạo trong từ đường lặng xuống ông mới trịnh trọng nói tiếp.

-Cháu Vân đây chính là người đã cung tiến hơn ba trăm triệu đồng cho xã để đúc cái chuông của chùa ta . Không những thế! Cháu Vân còn nhân danh dòng họ Nguyễn chúng ta cung tiến hơn năm mươi triệu đồng để xây bậc tam cấp bằng đá của ngôi chùa. Chính vì vậy mà trên bậc tam cấp của chùa xã ta được đề hàng chữ “Dòng họ Nguyễn Bình Hồ cung tiến”.

Tiếng reo hò, vỗ tay lại nổi lên rầm trời. Ông trưởng họ im lặng đợi cho tiếng reo hò lặng đi rồi mới hỏi tiếp.
-Mọi người có hiểu ý nghĩa của việc ấy không?

Hỏi xong, ông lão nhìn quanh cả đám đông. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau. Không ai trả lời được câu hỏi của ông trưởng họ. Ông lão lúc ấy mới vuốt râu cười đắc chí hỏi thêm mọi người một câu nữa.
-Muốn vào chùa thì phải đi qua đâu?

Mọi người lúc ấy mới ồ lên một tiếng. Bạch vân bỗng bật cười. Trời ơi! Một nền văn hóa mới đang hình thành.
-Muốn vào được chùa thì phải đi qua bậc tam cấp. Đúng không? Mà bậc tam cấp ấy là của dòng họ Nguyễn Bình Hồ chúng ta cung tiến. Điều đó có khác gì chính dòng họ Nguyễn bình Hồ chúng ta đã dẫn dắt cả xã này đến những điều thiêng liêng, cao cả.
Giọng ông trưởng tộc sang sảng. Hình như ông giận rằng sao mình không thể nói được to hơn để cho cả làng này, cả xã này nghe thấy.

Bạch Vân thở dài, cô lặng lẽ rời đám giỗ tổ trở về nhà.


***

Bảy giờ sáng, vân gánh một đôi quang gánh theo mẹ ra đồng nhổ mạ. Trời rét ngọt, mưa phùn lất phất. Ngoài đồng vắng hoe chỉ lác đác có dăm ba nhà đang cắm cúi làm việc ngoài đồng. Vào thời điểm này mọi nhà đã cấy xong cả. Nhà Vân neo người, bố là thương binh chẳng giúp gì được cho việc đồng áng nên đến tận bây giờ mà ruộng nhà cô vẫn còn cấy chưa xong. Một mình mẹ cô bươn trải với mấy sào ruộng, nuôi một chồng quanh năm đau ốm và một cô con gái ăn học. Bà biết cách duy nhất giúp con gái mình thoát khỏi cảnh nghèo hèn ở vùng đồng chua nước mặn này là: Học! Vì vậy bà nhất quyết không cho Vân nghỉ học giúp mình. Bà bảo.

-Nhiệm vụ của con là học để thoát khỏi vùng quê nghèo này. Con là của để dành cuối cùng của bố mẹ.

Bà nói câu”Con là của để dành cuối cùng của bố mẹ “ Với một giọng sắt đanh, quyết liệt. Vân hiểu điều mẹ nói và cô lao đầu vào học.

Thật là may mắn! Trời ơi! Một sự may mắn ngược đời. Bố cô là thương binh nên hàng tháng nhà cũng còn có một chút tiền để cho cô ăn học. Cô không hiểu: Nếu như bố mình không phải là thương binh thì đời cô sẽ ra sao ?. Đôi lúc cô gái nghe bố mình than thở.

-Giá mà hồi ấy mình cụt thêm cả một cái chân nữa thì có phải vợ con mình đỡ khổ không!
Nghe bố than thở , cô chỉ muốn khóc.

Nghèo! Hèn! Tuổi thơ của Vân trôi đi trong sự lãng quên của dòng họ. Hình như dòng họ “Nguyễn Bình hồ” này trong gia phả không có tên của gia đình cô. Cho đến tận khi cô giật được, đúng là giật, theo đúng nghĩa đen của nó vì cô đã dồn hết sức lực, khát khao, với một trách nhiệm lớn lao đè nặng lên đôi vai bé nhỏ của mình “Của để giành cuối cùng” để đoạt được một suất học bổng du học bên Mỹ, dòng họ cô mới chợt bừng tỉnh. À! Gia phả của dòng họ Nguyễn này hình như vẫn còn sót mất một người. Ông trưởng họ cầm một cuốn sổ đến nhà Vân hỏi lại ngày sinh, tháng đẻ của cả gia đình.

Ông ta bảo.
-Cháu đã làm rạng danh dòng họ Nguyễn chúng ta.
Hai mẹ con cắm cúi bước. Ngang qua đám mấy bà đang cấy, một bà ngẩng lên nhìn hai mẹ con rồi buông thõng một câu.

-Tưởng sang Mỹ thì làm vương làm tướng gì hóa ra lại về nhà bám đít con trâu.
Vân nghiến răng, dừng lại. Mẹ cô vội vàng kéo vội tay cô.
-Mẹ xin con! Nhịn đi con ạ

Đến tối, Vân gói ghém đồ đạc của mình cho vào chiếc ba lô. Cô bảo với mẹ.
-Con phải lên Hà nội mẹ ạ. Chỉ có lên trên ấy con mới rửa được mối nhục ngày hôm nay.

Mẹ cô gật đầu.
-Ừ con cứ yên tâm mà đi! Đừng lo lắng gì ở nhà.

Vân ôm lấy mẹ. Cô khóc! Răng cô nghiến chặt vào môi để ngăn cho tiếng khóc khỏi bật lên thành tiếng. Chỉ có dòng nước mắt nóng hổi thấm uốt cả vai chiếc áo đã bạc màu mà mẹ cô đang mặc.


***

Việc đầu tiên Bạch Vân làm khi lên Hà nội là đến nhà cô chị họ. Cô phải đứng ngần ngừ mãi trước cổng tòa biệt thự sang trọng nằm ngay bên bờ hồ Tây lộng gió mới dám bấm chuông. Một người đàn ông tóc đã muối tiêu gần hết ra mở cổng
-Cô hỏi ai?

-Bác cho cháu hỏi đây có phải là nhà chị Hồng Vân không ạ
Bạch Vân lễ phép hỏi. Người đàn ông gật đầu.
-Đúng rồi! –Ông ta chăm chú quan sát cô từ đầu đến chân. –Mà cô là thế nào với nhà tôi?

Vân giật nẩy người. Cô chợt nhớ đến cái bộ dạng thiểu não của ông Thái bố của Hồng Vân khi bị kéo ra trước đám đông trong này giỗ họ. Ra vậy! Thảo nào, từ khi cưới đến giờ đã có con mà làng xóm chưa một ai biết mặt con rể nhà ông Thái.
-Dạ! Em là em họ của chị Hồng Vân
Rất nhanh, cô thay đổi cách xưng hô
-Thế à! Vào đây em.

Người đàn ông kêu lên vui mừng.T iếng “Em” của ông ta phát ra một cách rất tự nhiên và ngọt như mía lùi. Ông tránh sang một bên cho Vân bước vào, rồi cẩn thận khép cánh cổng sắt to đùng lại. Hai người đi vào phòng khách. Bạch Vân ngỡ ngàng ngắm nhìn cái phòng khách bề thế, sang trọng. Cô thốt lên.
-Chị Vân sướng thật đấy.

Vừa nói cô vừa ngồi xuồng ghế. Chồng Hồng Vân xăng xái chạy ra chỗ tủ rượu nhấc ra một chai rượu tây chưa mở nút. Nghe Bạch Vân nói, ông ta đưa mắt nhìn cô gái. Nhìn ánh mắt ấy, người Vân bỗng run lên.
- Ồ! Nếu muốn thì em có khi còn sướng hơn cả chị của em ấy chứ. –Nói xong ông cười như muốn khỏa lấp đi cái điều vừa nói.--Ta phải làm một ly chúc mừng cho cuộc hội ngộ này chứ nhỉ. Mà em tên là gì?

-Dạ! Em cũng tên là Vân! Bạch Vân ạ.
-Em cũng tên là Vân à! –Ông ta ngạc nhiên nhìn cô, trong ánh mắt lộ ra một vẻ vô cùng thích thú. –Hình như những cô gái tên là Vân cô nào cũng đẹp.

Vân đỏ mặt vì ngượng, cô lúng túng chẳng biết nói gì. Thật may cho cô, đúng lúc ấy thì cánh cổng mở ra và một chiếc Mercedes bóng lộn chạy vào. Chị họ của cô đã trở về. Cửa xe mở ra, Hồng Vân cùng một đứa bé trai chừng hai tuổi bước ra. Người lái xe đi theo sau, tay xách một lô những gói hàng. Thấy vợ về, ông chồng vội vàng cất chai rượu vào trong tủ chạy vội ra đón vợ.
-Em đã về rồi đấy à? Sao về sớm thế?

Thấy Bạch vân, người chị họ hơi sững người đi một chút. Vẻ lúng túng hiện rõ trên khuôn mặt, xong rất nhanh, cô ta lấy lại được ngay vẻ mặt bình thường.
-Mày đến lâu chưa? –Tuy miệng hỏi vậy nhưng hình như cô gái không đợi nghe câu trả lời của cô em mình mà quay sang chồng giới thiệu
- Đây là em họ em.

Ông chồng nhanh nhẩu.
-Anh biết rồi! Và cô ta cũng tên là Vân đúng không?
Hồng vân lườm chồng một cái . Cái lườm sắc, lạnh làm anh chồng tịt mít.
-Đã lân la tìm hiểu được nhiều thế rồi cơ à? . –Nói rồi Hồng vân quay sang bảo cô em mà không cần giữ ý . –Cả mày nữa! Cẩn thận đấy! Lão chẳng tha một ai đâu.

Bạch Vân cười nói đỡ cho anh chồng.
-Gớm! Làm gì mà chị giữ ông anh em ghê thế. Chị đừng lo. –Nói rồi cô quay sang đỡ thằng bé lên, vỗ vỗ vào lưng nó ngâm nga.
Cháu ơi cháu ngủ cho no
Của dì dì giữ ai bò mặc ai

Hồng Vân bật cười.
-Mày vẫn đáo để như ngày xưa. Tối nay mày ở lại đây. Tao lâu lắm rồi không có người để tâm sự. À! Mà mày đã xin được việc chưa?. –Bạch Vân thở dài lắc đầu. –Khốn nạn! –Mặt Hồng Vân cau lại vì bất bình. –Một Tiến sỹ của trường Havard mà không xin nổi được một công việc trong khi bọn con ông cháu cha vô học nhan nhản trong các cơ quan nhà nước.

Chồng Hồng Vân cười
-Tiến sỹ đã là cái gì! Có ông giáo sư người Việt của một trường đại học y của Mỹ về hưu, về nước xin làm từ thiện, nghĩa là không nhận lương, mà không có một bệnh viện nào nhận cả.
-Thật thế hả anh?

Bạch vân ngạc nhiên. Mấy năm qua cô chỉ lao đầu vào học để thoát khỏi vùng đồng chua nước mặn nên chẳng biết những gì đang xảy ra trong xã hội.
_-Sao không thật! Chuyện đang ầm ĩ trên báo suốt cả tuần nay. Việt nam không cần người giỏi mà chỉ cần bè cánh. Rõ chưa? Con ếch!

-Anh có thể xin giúp nó được không?
Hồng vân hỏi chồng. Anh chồng tươi tỉnh.
-Việc gì phải xin ai. Em cứ về tổng công ty của anh…

Chồng Hồng Vân định nói tiếp, nhưng cô vợ đã cắt ngang
-Thôi đi! Ông định mía ngọt đánh cả cụm chắc?
-Em lúc nào cũng đa nghi
Chồng Hồng Vân gượng gạo
-Đa nghi thế mà tôi vẫn còn sống dở chết dở với ông đây này

Giọng Hồng Vân đay nghiến. Nhìn bộ dạng anh chồng , Bạch Vân lờ mờ đoán được hình như họ đang có điều gì đó xảy ra.


***

-Anh chị có chuyện gì vậy?
Bạch Vân hỏi khi cánh cửa phòng khép lại. Hồng Vân khe khẽ đặt thằng bé đang ngủ say xuống giường rồi cẩn thẩn phủ lên trên mình nó một tấm chăn mỏng . Xong xuôi, cô quay lại cô em họ, ngồi xuống chiếc ghế . Tất cả vẻ mạnh mẽ, sắc sảo trên khuôn mặt cô gái biến mất, nhường chỗ cho một nỗi mệt mỏi, chán nản.

-Còn việc gì nữa! lão ta lại tòm tem với con thư kí và có thêm một đứa con nữa. May mà lại là con gái.

“Lại là con gái” cụm từ ấy làm Bạch Vân hiểu ra ngay vấn đề. Cô đi lại ngồi xuống im lặng cầm lấy tay người chị họ.
-Chị phải làm mọi cách mà giữ lấy chồng.

Bạch Vân nói sau một phút im lặng, giọng đầy thông cảm.
-Mày tưởng tao muốn giữ lão ấy à? Không! Tao chỉ muốn giữ lấy tiền của tao thôi!
Giọng Hồng Vân đanh lại. Trong cái đanh gằn giận dữ ấy, Bạch Vân vẫn cảm thấy một cái gì đó của sự hoang mang, lo lắng thậm chí là tuyệt vọng. Rồi hình như đã kiệt sức, Hồng Vân ôm choàng lấy cô em họ, gục vào vai cô, toàn thân run rẩy.

-Mày tưởng lấy lão tao sung sướng lắm sao? Mày tưởng tao yêu lão sao? Không! –Hồng vân lắc đầu thú nhận. –Tao chỉ yêu tiền của lão thôi!

Bạch Vân chăm chú nhìn chị họ mình. Cô cứ tưởng rằng khi nói với cô “Tao chỉ yêu tiền của lão thôi” Ít nhất chị cô cũng phải có cái gì đó thể hiện sự xấu hổ. Nhưng không! Trên khuôn mặt khả ái ấy ngoài sự hoang mang lo lắng ra không có chút gì của sự hối hận.
-Thế anh ấy có yêu chị không?

Bạch vân rụt rè hỏi. Môi ngươi chị họ nhếch lên một nụ cười cay đắng
-Mày bảo có tình yêu không giữa một lão già giàu có với một cô gái bao chỉ bằng tuổi con mình? Tất cả chỉ là một sự mua bán, đổi chác. Lão cho tao tiền còn tao cho lão tuổi trẻ và nhan sắc của mình.
-Nhưng lão vẫn cưới chị đấy thôi. Chị có đăng kí kết hôn đấy chứ?
Hồng Vân gật đàu.
-Có! Tao đã lừa được lão ! Và tao cũng gặp may nữa.

Bạch Vân ngơ ngác nhìn chị họ. Cô không hiểu.
-Lúc đầu tao chỉ là gái bao của lão. Chúng tao đã thỏa thuận không được có con. Nhưng lão lại không muốn dùng bao cao su khi quan hệ. Lão bảo: “Mất tiền thì phải chơi cho sướng” nên lão bắt tao phải uống thuốc tránh thai. Lão dọa “Em đừng nghĩ dùng cách có thai để trói buộc anh. Nếu em mà có thai là anh sẽ biến ngay và không bao giờ anh thừa nhận đấy là đứa con của mình”. Nghe lão nói tao cũng nản lắm. Mày tính, tuổi thanh xuân thì ngắn. Nếu không trói được lão để cho lão chơi mình dăm ba năm rồi lão chạy thì mình chết à. Thế là tao ngừng dùng thuốc tránh thai . Khi biết mình có thai, tao phải giữ kín cho đến tận khi xác định chính xác giới tính đứa bé tao mới cho lão biết. Nghe tao nói “Em có thai” lão nổi giận đùng đùng cầm ngay lấy cái va li của tao cùng với một tập tiền năm trăm nghìn ném ra ngoài cửa gầm lên.

-Cút!
Quát xong, có lẽ là vì quá tức giận lão phải dựa vào cửa thở hổn hển. Tao tỉnh như không, cúi xuống cầm lấy tập tiền quăng trả lại cho lão.
-Em không cần tiền của anh. Anh hãy giữ lấy tiền để sau này còn đi “ Xây nhà tình nghĩa”

-Sao lại đi “Xây nhà tình nghĩa”?
Bạc Vân hỏi chen vào. Hồng Vân nhìn cô em họ ngạc nhiên hỏi lại
-Mày không biết thật à? –Rồi không đợi cô em trả lời, cô chị nói tiếp. –Không có con trai , mang tiền đi xây nhà cho con rể nó ở thì đúng là “Xây nhà tình nghĩa”chứ còn gì nữa.

Bạch Vân cười.
-Cái lưỡi chị nhọn như kim ấy.
Cô chị cũng cười gật đầu.
-Ừ! Nghe tao nói mặt lão xám ngoét, người run bắn lên vì tức giận. Tao làm như không nhìn thấy điều ấy, cúi xuống xách va ly bước đi mấy bước rồi mới quay lại bảo lão. –Lúc nào chết anh nhớ bảo con gái anh báo cho em một tiếng, em sẽ cho thằng cu đến chịu tang.

Nghe tao nói, lão đờ người ra, một lúc sau mới lắp bắp hỏi lại.
-Cô…Cô baả..o s…ao?
Tao không trả lời vào câu hỏi của lão cứ thế đi thẳng ra ngoài cổng, vừa đi vừa nói.
-Giấy siêu âm thai nhi để trong ngăn kéo bàn trang điểm của em ấy.
Nói rồi tao xách va ly bước thẳng ra cổng. Lão vội vàng chạy theo giữ tao lại. Lão đổi giọng.

-Thôi mà! Anh xin lỗi. Thằng cu của anh được mấy tháng rồi?
Lão không có con trai điều đó làm cho lão cực kì cay cú. Giàu có như lão, địa vị xã hội cao như lão, nhưnng mỗi lần về quê, khi dòng họ có việc chẳng bao giờ lão được ngồi lên mâm trên dù cho lão đã bỏ không biết bao nhiêu tiền của cho dòng họ.
-“Anh hĩm” ngồi xuống dưới kia đi

Nhà lão lại là trưởng họ. Bố lão cũng cay cú lắm nhưng không thể thay đổi được tục lệ của làng xã.
Từ khi tao sinh được thằng bé , lão được thăng lên chức “Anh cu” và được chuyển lên ngồi mâm trên và tao với thằng bé trở thành báu vật của cả họ nhà lão.
-Chị cũng phải quản lý anh ấy cho chắc vào , Đừng để mất cái thế “Độc quyền” của mình.

-Đấy chính là điều đau đầu nhất của tao. Có giời quản lý được những người như lão. Vừa rồi lão lại tòi thêm ra một đứa với con thư kí may mà lại là con gái. À! –Như chợt nghĩ ra điều gì, cô chị à lên một tiếng .—Mày học bên Mĩ mày có biết bên ấy có loại thuốc nào diệt dục không? Tao nghe nói ở Hàn quốc người ta cho các phạm nhân mắc tội cưỡng hiếp uống thuốc diệt dục. Làm thế nào để mua được loại thuốc ấy nhỉ?
-Thế còn chị?

Bạch vân kinh ngạc hỏi. Hồng vân cười.
-Bây giờ trai gọi thiếu gì. Mà mày ngốc thật đấy.


***

Mà đúng Bạch Vân là một cô gái ngốc. Trẻ, tài năng, xinh đẹp, có bằng tiến sỹ tưởng rằng như thế là đủ cho một tương lai thênh thang trước mặt nhưng không phải. Phải nhờ vào sự giới thiệu của chồng Hồng Vân cô mới xin vào được một ngân hàng của nhà nước với mức lương sáu triệu tương đương với thu nhập của một anh chàng xe ôm ngoài đường phố.

Nhưng đấy không phải là điều làm cho cô bức xúc nhất. Ngày trước cô vùi đầu vào những chồng sách cao ngất trong thư viện của trường với một ý nghĩ ngây thơ và mãnh liệt rằng nó là một tài sản vô giá mà không phải ai cũng có để giúp cô vươn lên trong sự nghiệp của mình. NHưng cô đã nhầm. Chẳng một ai cần đến kiến thức của cô cả. Cái mà các xếp bự cần ở một người phụ nữ như cô là nhan sắc mà cái điều đó thì các giáo sư của cái trường đại học danh tiếng nhất nước Mỹ chẳng một ai biết để mà dạy cho cô và thế là một tiến sỹ với tấm bằng xuất sắc vẫn chỉ là một chân sai vặt.
Mà cũng chẳng ai dạy cho cô rằng : Đất nước này chẳng phải là của riêng ai nên cũng chẳng có ai gìn giữ ,vậy nên, ai có cơ hội thì cứ việc mang xẻng xúc bất cứ thứ gì có thể mang về nhà.

Một lần, cô theo một đoàn đi định giá tài sản thế chấp, cô đã kinh ngạc khi người ta đánh giá một ngôi biệt thự chỉ xấp xỉ ba mươi tỷ với cái giá trên trời: Mười trăm tám mươi tỷ. Cô đã buột mồm kêu lên.
-Làm gì đến cái giá ấy!

Mọi người trong đoàn định giá quay lại nhìn cô với ánh mắt vừa ngạc nhiên, vừa khó chịu. Đến khi kí vào văn bản, cô đã nhất định không chịu kí. Một cô gái rất trẻ mà cô biết đó là nhân tình của ông phó tổng giám đốc đã định sửng cồ lên với cô. Nhưng tổng giám đốc, trưởng đoàn, đã ngăn cô ta lại. Ông ta mở túi xách nhét tờ biên bản đánh giá giá trị tài sản vào trong , tươi cười bảo với mọi người.

-Không sao! việc này ngày mai mọi người lên phòng tôi họp rồi chúng ta sẽ quyết định. Bây giờ thì giải tán.
Mọi người ra xe quay về. Bạch Vân định leo lên chiếc ô tô chung của đoàn thì ông tổng giám đốc ngăn lại.
- Cô lên xe của tôi. Tôi có việc cần bàn.

Giọng ông ta rất mực nghiêm chỉnh. Khi ra đến xe, ông ta bảo với tay tài xế.
- Cậu ra xe về cùng với đoàn. Hôm nay tôi tự lái.
Nói rồi ông tự tay mở cửa xe cho Bạch Vân. Bảo cô với một giọng rất lịch sự và mực thước.
-Cô lên xe đi.

Ngồi trong xe, Bạch vân thoáng thấy hình như tay lái xe nhìn ông tổng giám đốc cười cười. Chiếc xe phóng đi và đỗ lại trước một cửa hàng sang trọng. Tổng giám đốc nhìn đồng hồ rồi bảo với cô.
-Muộn rồi. Ta vào đây ăn một chút gì đã.

Hai người bước vào nhà hàng, thấy ông tổng giám đốc, một cô lễ tân vội vàng chạy lại.
-Lâu lắm rồi mới lại thấy anh Tân.
Tiếng « Anh » trôi qua miệng cô gái trẻ trơn tuột không một chút vấp. Hình như ông ta là khách quen của cửa hàng này.
-Cho chúng tôi một phòng ăn riêng.

Giọng ông ta nghiêm nghị, lạnh lùng không hề có một chút gì cộng hưởng với tiếng « Anh » ngọt ngào của cô gái trẻ.
Khi hai người ngồi trong phòng ăn riêng đợi thức ăn mang ra, ông tổng giám đốc mở cái túi xách vẫn mang theo bên mình lấy ra một cái phong bì dày côp đặt trên mặt bàn và ẩn về phía cô. Nhìn thẳng vào cô thẳng thắn.
-Đây là một trăm triệu phần của cô.

Bạch Vân ngạc nhiên.
-Tiền gì ạ ?
-Tiền để mua chữ kí của cô vào bản định giá này.--Vừa nói, ông ta vừa rút tờ giấy biên bản ra đặt trên bàn, lấy tay gõ gõ vào tờ giấy. Vân cắn môi. Một chút yên lặng. –Cô tưởng mình cô là tiến sỹ à ? Trong đoàn này có tới ba tiến sỹ và tôi. –Ông lấy tay chỉ vào ngực mình. –Cũng là tiến sỹ. Họ không ngốc. Người ngốc duy nhất là cô. –Ông ngừng lại một lúc rồi nói với cô bằng một giọng tâm tình. --Họ là khách hàng quen lâu năm và rất có uy tín. Họ cần một số vốn là một trăm năm mươi tỷ cho một thương vụ vậy nên chúng ta phải tìm ra cách giúp họ .

-Ngộ nhỡ………
Cô mới nói đến đây thì ông ta đã dơ tay ngăn cô lại.
-Cô muốn nói là ngộ nhỡ họ thất bại thì sao đúng không ? –Ông ta im lặng một lát rồi nhìn thẳng vào cô thẳng thắn. –Thì ngân hàng sẽ mất tiền. Nhưng….Ông ta dừng lại một lát rất lâu rồi đột ngột hỏi. –Nhưng đấy là tiền của cô à mà cô giữ ?
Cái giọng lạnh lùng khi hỏi câu đó khiến Vân thoáng rùng mình.

-Thế nếu bị ra tòa ?
Ông ta cười.
-Thì sẽ không đến lượt cô. Người đầu tiên là tôi, sau đó là hai ông trưởng phòng. Cô chẳng có một chút chức danh gì để mà phải hầu tòa.

Vân đã thực sự ngạc nhiên. Cô cứ tưởng rằng cô có mặt trong một đoàn giám định là vì họ cần đến kiến thức của cô trong việc đinh giá một tài sản lớn đến vậy. Cô nhầm!
-Thế thì việc gì phải có em ở trong đoàn ạ?
-Chính tôi đã đưa cô vào danh sách. Còn tại sao thì cô phải tự tìm hiểu cô bé ạ.
-Thế nếu em không kí thì có làm sao không ?

Ông ta lắc đầu cười rất thoải mái.
-Không sao cả. Thực ra chúng tôi chỉ muốn giúp họ là chính chứ còn khoản tiền này. –Ông ta chỉ vào chiếc phong bì. --Với tôi không đáng kể. Chỉ có điều là cô đã giết chết một doanh nghiệp và đập đi nồi cơm của hai nghìn con người.

Nói rồi ông ta mở túi xách nhặt cái phong bì và tờ định giá nhét vào. Đúng lúc đó thì thức ăn được bưng lên. Vân không còn bụng dạ nào để ăn. Có bữa cơm nào là miễn phí. Hình như ông tổng giám đốc hiểu được cái tâm lý ấy của cô. Ông ta trấn an.
-Không có vấn đề gì đâu. Cô thoải mái đi để ăn cho ngon miệng.
Ăn xong, ông tổng giám đốc nhất định lái xe đưa cô về đến tận nhà mặc cho Bạch vân nhất mực từ chối.

Chỗ Bạch Vân ở là một ngôi nhà cấp bốn người ta vẫn xây cho sinh viên thuê. Bước vào trong nhà, ông tổng giám đốc lắc đầu kêu lên
-Chỗ như thế này mà sao cô vẫn ở được. Sao cô không thuê một căn hộ khang trang hơn ?
Vân cũng chẳng cần dấu diếm.
-Tại em không có tiền. Em còn phải gửi tiền về giúp đỡ gia đình. Bố em là thương binh cụ đau ốm suốt.

Ông tổng giám đốc cười.
-Thế mà cô từ chối một trăm triệu
-Vì bố em vẫn bảo « Giấy rách phải giữ lấy lề con ạ »
Tổng giám đốc không nói gì. Ngồi chơi một lúc , ông ta đứng dậy ra về. Lúc tiễn ông ta ra xe, trước khi đi ông ta mới bảo.
-Cơ quan có một khu nhà tập thể cũ đang hóa giá. Ngày mai đến cơ quan, cô làm một cái đơn mang lên phòng tôi, tôi sẽ kí bán cho cô một căn trừ vào tiền lương hàng tháng

-Không……
Mới thốt được tiếng không ấy thì Vân đã bị ông ta ngăn lại. Ông nhìn cô nghiêm nghị.
-Tôi chưa nói hết ! Và cô vẫn không cần phải kí vào tờ định giá. Như thế cô đã yên tâm chưa ?
Nói rồi ông ta nổ máy phóng xe đi ngay không để cho cô nói thêm một lời nào. Vân quay trở vào nhà. Ngồi chưa nóng chỗ thì cô bé hàng xóm, người cũng thuê nhà trong xóm cô chạy sang Mặt cô bé tươi rói.
-Bà chị ! Khao xóm đi chứ

-Khao vì cái gì ?
Vân ngạc nhiên.
-Còn gì nữa. Có ông bồ đại gia như thế phải khao bọn này một bữa ra trò vào không lần sau lão mà đến đây là bọn em đến phá đấy.
Vân bật cười.
-Bồ cái con khỉ. Xếp của tao đấy.
-Ai chẳng biết đấy là xếp to của chị. Con vịt này béo lắm đấy ! chị đừng có mà để sổng mất

-Ơ cái con này ! Tao đã bảo đấy không phải là bồ của tao. Ông ta là tổng giám đốc của Ngân hàng tao đang làm việc. Ông ta có vợ con rồi.
- Thì ai chẳng biết ông ta có vợ con rồi ! Thế vịt mới béo chứ.
Vân phát mạnh vào cái mông cô bé.
-Con nỡm ! Mày tưởng ai cũng như mày chắc

Đến lượt cô bé hàng xóm ngạc nhiên.
-Ơ ! Thế chị không bắt bồ với lão thật à ? Lão say nắng chị lắm mà.
-Sao mày biết là lão bị “Say nắng”? Tao có thấy gì đâu
-Chị ngốc thật đấy! Người ta mê mình mà cũng không biết. Hoài của! Hay là chị tìm cách bắn lão cho em đi. –Nói xong , cô bé đột nhiên thở dài một tiếng. –Mà thôi! Chắc là không được đâu. Những người như ông ta chẳng bao giờ bắt bồ với người như em đâu.

Nói xong câu đó mặt cô bé buồn rười rượi làm cho Vân vừa thấy thương cho cô bé vừa cảm thấy tò mò.
-Sao không được! Em trẻ hơn chị, xinh hơn chị. Nếu chị còn làm cho lão say nắng thì em còn làm cho lão ngã lăn đùng ra ấy chứ. Thế cái lão bồ của em đâu? Thôi nhau rồi à?
Cô bé buồn bã lắc đầu.

-Chưa thôi! Nhưng lão ấy có phải là bồ của em đâu.
-Thế thì là gì?
-Thì chỉ là cái hợp đồng chơi gái tháng thôi. Lúc nào lão chán hay hết tiền là chấm dứt hợp đồng.
-Thế thì em đi lại với lão làm gì. Em trẻ lại xinh đẹp sao không tìm một người yêu em thật lòng?

-Vì sao à? –Cô bé bật cười. –Vì tiền chứ còn gì nữa. Em nghe nói chị là tiến sỹ đi du học ở Mĩ về đúng không?
Vân gật đầu hỏi lại.
-Thế thì sao?
-Thế lương chị được bao nhiêu?
-Sáu triệu!
Cô bé trợn tròn mắt vì kinh ngạc . Cô không thể tin rằng một tiến sỹ học ở nước ngoài về mà lương được có sáu triệu bạc.
-Sáu triệu! Không đủ tiền để em mua si líp. –Cô bé không dùng từ quần lót mà lại dùng từ si líp một từ mà giới trí thức như Vân không bao giờ dùng đến khiến cho cô hơi khó chịu. --Thế thì chị đi học làm gì cho nó khổ ra. Một tháng em kiếm được không dưới hai mươi triệu.

“Hai mươi triệu” Ba tiếng ấy đã đập tan mọi lý lẽ Vân định dùng để trả lời cho câu hỏi “Chị đi học làm gì cho khổ ra” của cô bé. Ừ nhỉ! Đi học làm gì khi mà số tiền mình kiếm được chỉ bằng một phần ba số, thậm chí là một phần tư số tiền của một cô gái như cô bé này.?Nhưng…..Một tiếng nhưng khe khẽ thầm thì trong óc vân. Hình như cô bé cũng nghe được tiếng “Nhưng” ấy. Cô bé bảo.
-Chị đưa cho em một trăm nghìn nghìn.

Vân không nói gì, mở ví rút tiền đưa cho cô bé. Cô bé cũng lấy ra một tờ một trăm nghìn rồi gí hai tờ tiền vào mũi vân.
-Chị ngửi đi. Tờ tiền của em có thối hơn tờ tiền của chị không?. –Cô bé đưa trả vân tờ một

trăm nghìn rồi ngậm ngùi nói.--Chị hơn hẳn em là ngoài xinh đẹp ra chị còn là một trí thức mà đấy mới là cái lão vừa ra khỏi đây muốn. Lão ấy không cần một hợp đồng chơi gái tháng như cái lão của em vì nếu thích lão ấy có thể bỏ ra một nghìn đô để ném một cô gái mới mười tám tuổi xinh như hoa hậu lên giường. Cái lão muốn là một cuộc tình ngoài luồng, có yêu thương, có hờn giận, có thể san sẻ với lão những buồn vui, lo lắng và cuối cùng mới là đến cái giường.
-Thế lão của em không có những cái ấy à?

Vân tò mò hỏi. Cô bé buồn bã lắc đầu.
-Làm gì có!Lão của em là chủ một doanh nghiệp tư nhân chứ không phải là quan chức bự như lão của chị. Lúc nào nứng lên là lão mò đến em, lột hết quần áo và “Phập”!
Mặt Vân nhăn lại vì cách nói quá mạnh bạo của cô bé. Vân buột miệng hỏi.
-Thế em không nghĩ gì đến tương lai của mình à?

-Có chứ! –Cô bé vui vẻ nói. Vân có cảm giác, với cô bé này những việc cô ta đang làm, cô ta không cho là đó là việc xấu xa cần phải che dấu. –Chính vì vậy mà em mới thuê nhà ở xóm trọ này mà không chịu ở cái nhà lão vừa mua dấu vợ. Ở đây, những lúc lão đi vắng em có thể đi kiếm thêm ở ngoài.
-Lão mua nhà cho em?

-Làm gì có chuyện ấy. Nhà vẫn đứng tên lão. Lúc nào chán lão đuổi mình ra khỏi cửa ngay.
-Thế thì tương lai mờ mịt lắm em ạ.
-Chị nhầm đây. Mờ mịt là thế nào. Mỗi tháng em chỉ cho phép mình tiêu khoảng bốn triệu gửi về giúp bố mẹ hai triệu. Mỗi năm em phải để ra được khoảng hai trăm năm mươi triệu. Khi nào có một tỷ là em dừng ngay, chạy về quê lấy chồng. Với một tỷ tiền vốn ở quê em chẳng phải làm gì mà vẫn sống sung túc.
-NHưng chị thấy bọn em có đứa nào rút ra khỏi vũng bùn được đâu. Bước vào thì dễ rút chân ra khó lắm em ạ.

Vân lựa lời khuyên giải. Cô cứ nghĩ rằng con bé trẻ người non dạ không nhìn xa trông rộng bằng mình. Nhưng cô đã nhầm.
-Không khó đâu chị ạ. Vấn đề là phải biết lúc nào thì dừng lại.Mà muốn dừng lại thì lại phải biết quý đồng tiền. Chúng em kiếm tiền một cách dễ dàng nên hầu hết đều rất phung phí đồng tiền mình kiếm ra. Đến lúc biết là cần phải dừng lại thì trong túi lại chẳng còn đồng nào thế là lại đành phải tiếp tục nghề cũ cho đến lúc thân xác tàn tạ. Làm cái nghề này phải tỉnh, biết dừng lại đúng lúc.

-Thế lúc nào là lúc cần phải dừng lại?
-Phải biết dừng lại khi mình còn nhan sắc chị ạ. Những trí thức như chị cho rằng kiến thức là tài sản vô giá của người phụ nữ là rất sai lầm. Với người đàn bà như chị em mình tài sản quý giá nhất chính là nhan sắc vì nhan sắc là cái có thể kiếm tiền dễ nhất và nhanh nhất. Chị có thấy hoa hậu hay người mẫu nào nghèo không? Còn những thạc sỹ, tiến sỹ nghèo khổ thì đầy đường Mà chị chính là một ví dụ.

-Thiếu gì những cô hoa hậu và người mẫu sống trong nghèo khó
Vân phản đối.
-Đó là vì họ không tỉnh táo. Phải biết dung nhan sắc kiếm tiền khi nhan sắc rực rỡ nhất. Phải biết giữ tiền và phải biết giữ lại chút nhan sắc để kiếm lấy một tấm chồng và dùng số tiền đã dành dụm để kiếm tiền bằng một cách khác
Vân đã kinh ngạc trước sự tỉnh táo của con bé. Nó tính toán lạnh lùng hơn hẳn một tiến sỹ kinh tế như mình. Cô thầm nghĩ.

-Thế em không sợ dư luận xã hội à?
-Có chứ chị.—Cô bé thú nhận. –nên nếu định dùng nhan sắc để kiếm tiền thì đừng dùng ở nơi mà gia đình mình sinh sống. Như chị chẳng hạn chị cứ bắt bồ với lão vừa đi khỏi đây trong vài năm kiếm lấy vài tỷ rồi sau đó chị tếch vào sài gòn dùng cái bằng tiến sỹ của mình để kiếm tiền thì ai biết mà chê cười. Vả lại…. Con bé tặc lưỡi một cái. –“Cái ấy”nó cũng giống như cái ao bèo tấm ấy mà chị.

Những hình ảnh trong ngày giỗ tổ lại hiện lên trong đầu Vân . Cái câu của ông trưởng họ “Điều đó có khác gì chính dòng họ Nguyễn bình Hồ chúng ta đã dẫn dắt cả xã này đến những điều thiêng liêng cao cả.” lại vang lên trong đầu . Không đúng! Phải nói rằng Tiền của dòng họ Nguyễn Bình Hồ đã dẫn dắt cả cái xã ấy đến những điều thiêng cao cả. Cái giọng sang sảng của ông trưởng họ khi nói câu ấy đã át đi cái tiếng nói nhỏ nhẹ của bố “Giấy rách phải giữ lấy lề con ạ”. “ Sang Mĩ tưởng làm vương làm tướng gì hóa ra lại về bám đít con trâu.” Hóa ra thiên hạ chẳng coi cái bằng tiến sỹ là gì nếu như cô nghèo. “Giầu” mới chính là một cô gái đẹp và khi ấy cái bằng tiến sỹ lại biến thành một viên kim cương trang điểm cho cái “ Giầu” thêm lộng lẫy. Một nền văn hóa mới đang định hình.


*
* *

Sáng hôm sau, Vân đến cơ quan. Cô cảm nhận được ngay cái không khí thù địch đang vây lấy quanh mình. Khi đi ngang qua bàn cô gái nhân tình của ông phó tổng giám đốc, cô ta buông một câu lơ lửng .
-Đã nghèo lại còn ngu. Hết thuốc chữa.

Vân đứng lại, quay nhìn cô gái ấy chằm chằm. Cô ta bắt đầu xửng cồ.
-Chị muốn gì!

Vân mỉm cười nhẹ nhàng nói.
-Chị sẽ không kí vào tờ giấy ấy. Nhưng chị sẽ kí vào một tờ giấy khác để cho em biết rằng chị không ngu.

Nói rồi cô đi thẳng vào căn phòng có treo một tấm biển mạ vàng “Phòng tổng giám đốc”


Nguyễn Thế Duyên
Hà nội 6-7-2014

Hansy
23-08-2014, 01:52 PM
21

Con ma da

Nguyễn Quang Sáng


Khi tôi nhận được thiệp cưới của nó, thằng Danh bạn tôi, thì đã muộn rồi. Muộn đến những ba tháng.

- Mẹ! Nếu mầy gởi trước một ngày thì dù có lời hàng tỉ tao cũng bỏ - Tôi chửi thầm.
Và một bức thư vừa mới tới trước khi tôi về một vài ngày. Thư có đoạn viết:

... Tao nghĩ, thiếu ai chứ không thể thiếu mầy. Vậy mà mầy không về. Dù là ngày cưới (hạnh phúc, tất nhiên), vắng mầy tao vẫn thấy cô đơn... Sau đó, những ngày trăng mật, tao quên tất cả, quên cả mầy nữa. Đừng giận! Nay thấy nhớ bạn bè, nhớ mầy. Nhưng không trách vì biết mầy bận quá nhiều áp phe...

Mẹ, thương nó quá, lúc nào cũng thật. Quên thì nói quên! Chỉ có vậy mà tôi cảm động và nhớ nó cồn cào. Nhớ những ngày cùng ký túc xá trường đại học. Một thằng bạn mới nhìn tưởng là con nhà võ, mặt vuông mày đậm, mắt to, da thịt cuồn cuộn, trông dữ dội nhưng lại mơ mộng, thích văn chương, hay triết lý, viết nhật ký đều mỗi đêm và làm thơ khi bốc đồng. Bây giờ nó là hiệu trưởng trường cấp ba của tỉnh. Cuộc đời của người thầy giáo, nó sống khiêm tốn, mực thước và êm đềm. Không như tôi, người làm kinh tế, không tránh khỏi bước thăng trầm, thường mệt mỏi vì đồng tiền. Ba mươi nó có vợ. Ba mươi, tôi vẫn cô đơn. Đôi lúc tôi thèm cái cuộc đời của nó.

Hai đứa hẹn với nhau, hai đứa sẽ thay nhau làm phụ rể trong ngày cưới. Thế mà tôi vắng mặt! Nhưng "dù muộn vẫn phải nói với nhau...", tôi bỗng chợt nhớ đến cái giọng khẽ khàng của một cô gái thường rỉ rả vào tai tôi trong một quán bia. Một cô gái tuổi hai mươi có mái tóc xõa dài theo thân hình thon thả.

- Em tên Thu Hảo, tụi bạn ở đây gọi đùa là Thu Thảo. Anh muốn gọi em tên gì cũng được - Ngày đầu cô tự giới thiệu.
Cả hai tên của cô, tôi đều không gọi. Nữ chiêu đãi viên trong quán bia có mấy ai nói thật tên mình.

- Bữa nay em bắt số mấy?
- Bữa nay em hên lắm nghe - Giọng nhõng nhẽo - Đố anh số mấy?
- Số chín.
- Đúng. Đúng...
- Từ nay, anh gọi em là Chín được không?
- Hay, hay, cám ơn anh nhiều, từ nay em là Chín của anh...

Từ đó, mỗi lần có tiền và buồn, tôi đều đến với Chín, cùng nhau một cốc bia trong phòng lạnh đèn mờ. Tôi vừa vuốt mái tóc cô khi nghe cô kể chuyện đời, khi nghe cô hát. Cô kể, cô là con của một cán bộ quân đội, cấp tá. Ba cô chuyển ngành làm kinh tế cho uỷ ban tỉnh. Trong đợt bể tín dụng, ba cô bị kỷ luật, buộc phải về hưu với một số nợ phải trả. Tốt nghiệp lớp mười hai, cô không thi đại học, mà trở về đưa vai gánh vác việc nhà.

- Đời em như cô Kiều.
Tôi cười. Nữ chiêu đãi viên trong các quán bia không ai không có một cuộc đời bất hạnh. Thật giả làm sao biết được. Họ thêm thắt cuộc đời của họ tài hơn cả nhà văn. Nghĩ vậy nhưng cũng cảm động, thế mới kỳ.

Tôi không yêu, nhưng như nghiện, nghiện cái phòng lạnh đèn mờ, nghiện cái giọng hát khẽ khàng, nghiện mái tóc tỏa hương trầm... Rồi bỗng một hôm, cô biến mất. Nghe cô chuyển đi quán khác, là chuyện thường tình của các cô. Sài Gòn này bây giờ, bia ôm mọc lên như nấm, biết đâu mà tìm. Đọc thư của thằng bạn loay hoay thế nào mà nhớ đến cô gái bia ôm, quái thật!


°
° °

Tôi về thăm thằng Danh. Nhà Danh bên bờ sông Hậu. Nó đón tôi từ đường cái. Hai đứa vừa đi vừa trò chuyện, quanh co theo con hẻm nhỏ ngoằn ngoèo qua một xóm nhà lá lụp xụp, bỗng trước mắt tôi bừng lên một vòm trời mênh mông trên dòng sông cũng mênh mông, rạt rào tiếng sóng, và gió như vui với mái tóc tôi. Đám trẻ nhỏ đủ lứa tuổi đang nô đùa trên bến sông thật vui. Lòng cảm thấy thư thái lạ. Trong đám trẻ có một đứa nhỏ trần truồng, con chim như trái ớt, đập vào mắt tôi là cái vòng kiềng bằng sắt trong cái chân nhỏ lững chững của nó.

- Thằng nhỏ dễ thương quá. Sao nó đeo cái kiềng sắt nặng quá vậy Danh?
- Nhà nó có noi.
- Noi là sao?
- Mày không biết à?
- Không.
- Dân thành phố tụi mày quên nhiều điều quá.
- Thôi nói đi, noi là sao?

- Ngày xưa, ông bố của thằng nhỏ đeo kiềng sắt đó chết trôi trên dòng sông này. Người chết trôi thì biến thành con ma da. Con ma da thường hay rút chân người tắm sông. Con cháu của người chết trôi như có một cái vết, gọi là có huông cũng được, ở đây gọi là noi, rất dễ bị theo cái vết của ông bà, mầy hiểu chưa?

- Biết rồi, nhưng tại sao cây kiềng sắt?
- Con ma da không ai thấy, nhưng theo ông bà thì con da thân hình nó toàn là nhớt. Nó rút chân người ta bằng hai bàn tay nhớt của nó. Nhưng nhớt thì kỵ với sắt. Nhớt gặp sắt thì nhớt tan. Vì nó có noi nên nó phải đeo cây kiềng sắt là vậy. Hiểu chưa?

Qua câu chuyện của Danh, tôi như cảm nhận được biết bao điều bí ẩn đang cuồn cuộn dưới dòng sông.
Nhà của Danh, ngôi nhà sàn nhỏ dưới bóng cây xoài, mái lá vàng, cửa nhìn ra sông, thật thơ mộng.

Chưa kịp bước lên chiếc cầu thang lên nhà, Danh đã gọi:
- Hiền, em ơi!
- Da... ạ...
- Ra đây tiếp khách.

Hiền, vợ Danh, xuất hiện trên sàn nhà, sau lan can.
Tôi chết đứng. Và Hiền, vợ của Danh, cũng chết đứng như tôi. Mái tóc dài run rẩy trước ngọn gió từ những lượn sóng hất lên người nàng.
Hiền chính là Thu Hảo, là Chín của tôi trong quán bia.

- Chào chị Hiền - Tôi lấy lại bình tĩnh, lên tiếng trước.
- Dạ thưa anh, mời anh lên nhà!

Tôi theo Danh, gầm mặt bước lên cầu thang, bụng rối bời.
Khi tôi và Danh ngồi vào ghế thì Hiền bưng khay trà đặt lên bàn.

- Đây là thằng Mạnh, bạn anh.
- Em nghe nhà em nhắc anh hoài, nay mới gặp. Anh ở chơi chừng nào về?
- Ghé thăm anh chị một chút tôi về.
- Hả? - Thằng Danh như giật mình, nhổm lên - Về ngay à?
- Tối nay mình phải tiếp một phái đoàn kinh tế Xingapo.
- Nếu vậy thì có gì cho tụi anh lai rai đi em.
- Tiếc quá, anh không ở chơi lâu - Hiền nói, và chỉ một cái nhìn, chúng tôi biết chúng tôi phải làm gì: đóng kịch.

Hiền biến vào nhà sau. Hai chúng tôi vừa uống trà vừa ôn lại kỷ niệm. Sau một tuần trà, Hiền bưng ra chiếc mâm thau, trên mâm: một đĩa khô sình, một đĩa xoài tượng xắt lát mỏng, một chai rượu đế, hai cái ly.
- Hai anh lai rai trước, em đi bắc nồi cơm.

Hiền lại biến. Tôi biết Hiền muốn tránh mặt nhưng Danh thì lại muốn khoe vợ. Anh cứ giục Hiền nhanh tay, ra ngồi chơi. Rõ ràng là Danh muốn vợ mình cùng nghe câu chuyện của hai đứa. Đợi đến lúc Hiền rảnh tay, Danh mới rót rượu và gợi chuyện.
Nếu là trong quán bia thì Hiền cũng nâng ly, nhưng bây giờ thì:
- Mời hai anh!

Trước mắt tôi bây giờ, Hiền không đánh phấn, không thoa son, chân mày không vẽ hình cánh cung, mắt không đeo mi giả, cái vẻ đẹp sắc sảo giả tạo không còn nữa, trở nên đúng là một người vợ hiền của ông giáo.
- Lai rai đi. Sài Gòn có đủ cao lương mỹ vị, nhưng không có món này đâu.

Đúng như Danh nói, một miếng xoài tượng với một miếng khô sình bắt mình phải uống cạn cả một ly, và uống thật sâu.
- Ôi ! Đẹp quá! - Tôi reo lên và đưa tay chỉ một cánh buồm đỏ thắm đang căng gió lướt qua giữa dòng sông.

Danh vừa nhìn theo cánh buồm vừa nói:
- Nhiều lúc mình nghĩ, nếu con sông này chỉ có tàu, có máy đuôi tôm mà không có cánh buồm thì con sông này đối với mình chẳng còn gì là thơ mộng, thật là vô vị, và nàng thơ sẽ bỏ chạy. Theo tao, nàng thơ đang sống và đang căng đầy trong cánh buồm, nàng như nhắc nhở với mọi người, nàng vẫn còn, và ta vẫn còn thơ.

Tôi liếc nhìn Hiền. Hiền nhìn chồng như đắm đuối. Hớp cạn thêm một ly, Danh thao thao:
- Nhưng mầy nên nhớ, người căng buồm không phải vì nàng thơ, mà vì không đủ tiền sắm máy. Cho nên nhiều khi tao nghĩ, cái nghèo là đất sống của cái đẹp.

Tôi chỉ cười. Danh tiếp:
- Tao biết tao nghĩ vậy là lẩn thẩn, hoặc là tao chưa đủ lý, chưa đủ lời để diễn đạt ý nghĩ của tao.
- Hai anh lai rai đi, nói hoài - Hiền nhắc.

Không ngờ từ cái vẻ đẹp của cánh buồm loay hoay thế nào lại chuyển sang chủ đề về đạo đức.
- Gần đây đọc báo của thành phố, tao thấy buồn?
- Vì cái gì?

Cám ơn các nhà báo đã báo động về sự suy thoái của đạo đức, nhất là nạn mãi dâm, mãi dâm công khai và mãi dâm trá hình của các quán bia ôm, cà phê ôm, đủ thứ ôm, nghe đâu có cả thịt chó ôm nữa, hết nước.

Tôi chớp mắt nhìn Hiền. Hiền quay mặt nhìn ra sông.
- Thôi thì cũng tại cái nghèo.
- Không ! - Danh dằn ly rượu, cơn giận như bốc lên, mặt anh bừng đỏ - Tao không chấp nhận. Nếu nói vì nghèo mà ôm này ôm kia thì cả dân tộc này làm nghề "ôm" hết. Trong đời có bao nhiêu cách sống, sao chọn bia ôm? Nghèo thì mò cua bắt ốc!

Hiền bật đứng dậy:
- Em vô coi nồi cơm.
Tôi cầm ly rượu, nâng lên:
- Uống đi!
Hai đứa cùng cạn ly.


°
° °

Một tuần sau, tôi nhận được thư của Danh báo tin: Hiền đã chết.
Chiều hôm đó trời chạng vạng. Vợ tao ra sông tắm. Đâu có ngờ, Hiền không trở lên nữa. Cả xóm đổ xuống sông, mò lặn khắp nơi. Ba ngày sau, Hiền mới nổi lên. Vợ tao chết vì con ma da. Nếu tao biết cho vợ tao đeo cây kiềng sắt như đứa nhỏ có noi thì đâu đến nỗi...

Tôi gục đầu, đập tay xuống bàn, hét lên:
- Con ma da ấy là tao! Tao ! Tao!


Nguyễn Quang Sáng

Hansy
24-08-2014, 03:25 PM
22

Cưng Chồng

Thanh Mai

Không hiểu sao, đám bạn học ngày xưa của vợ chồng tôi tự nhiên dần dần bị thành…đơn chiếc hay thành góa phụ. Mấy ông chồng khi khổng khi không lần lượt rủ nhau đi chăn vịt trời hoặc đi bán muối ở cái tuổi ngũ thập tri thiên mệnh để lại mấy bà vợ sồn sồn phòng không đơn chiếc thấy tội và thương quá.

Bạn tôi vừa về Việt Nam chơi mấy tháng cho đỡ buồn vì chồng cũng thuộc giới đi chăn vịt trời kể:
- Ở bên này buồn quá, thấy đàn ông toàn “sượng sượng” ra sao đó. Về bển cho đỡ buồn, bạn bè giới thiệu cho mấy tay toàn là giới giám đốc này nọ. Gặp nhau lần đầu ở quán cà phê đều để mình trả tiền. Người được được thì chắc đã có vợ con giữ riệt, còn giới chẳng đâu ra đâu mới ra đường tìm bồ bịch cho đỡ tháng ngày mồ côi cô quạnh. Con bạn của mình bảo là mình già rồi mà còn chảnh. Cứ vớ đại một tên cặp cho qua ngày, miễn sao họ đừng mượn hay xin tiền là được rồi. Nghe thảm quá sức! Cỡ tuổi tụi mình thấy đâu đến nổi mà sao đốt đuốc tìm không ra một người xứng đôi vừa lứa.

Rồi nó còn phán dạy cho tôi:
- Bà ở đó mà lo cưng ông chồng của bà chứ mất đi như tui là phải đêm đêm khóc thầm đó.

Nghe nó nói mà tôi giật mình. Thì ra lứa tuổi của tôi đàn bà đang có nguy cơ ế độ vậy sao! Nhớ năm ngoái một tên bạn của tôi tuyên bố:
- Nói chị đừng buồn chứ theo em đàn bà trên 40 xấp coi như bỏ đi.

Hoặc khuyên:
- Chị lớn tuổi rồi, đi đứng phải cẩn thận chứ không mà té thì gãy xương khổ lắm.
Hóa ra mình thuộc loại già bỏ đi rồi? Trong mắt bọn trẻ chắc mình già lắm? Thật là oan ức! Sao đến giờ tôi thấy mình vẫn còn phong độ, còn vui vẻ, trẻ trung mặc dù tuổi thì chẳng còn nhỏ nữa. Ấm ức quá tôi về méc với ông xã thằng khỉ bạn trong hãng nó nói như vậy đó.

Chàng cười khà khà binh tôi:
- Anh thấy vợ anh vẫn còn ngon lành hết xảy. Bạn em không biết gì cả mà tuyên bố bậy bạ. Mai em nói với nó khi nào vợ nó trên 40 không xài nữa thì đem cho anh.

Ông xã nói vậy nhưng tôi nhớ lời khuyên của bạn phải cẩn thận, đừng ỷ y mà lo cưng và giữ chồng kẻo mất đi khó kiếm ra một người “hết xảy con cào cào” như thể để thay thế. Ông xã tôi ra đường ít nói, mặt mày nghiêm trang thiên hạ tưởng ông này khó tính hoặc bị bịnh...táo bón rặn không ra nụ cười. Nhưng ở chung mới lòi ra chàng ta chính là một tay quậy ngầm, tếu lâm, và chọc tôi cười hoài. Anh chàng không biết tán, không ga lăng, không biết mua quà vào những dịp lễ lộc, không dịu dàng chiều chuộng hoặc nâng niu vợ gì cả nhưng mặt khác biết lo cho gia đình, biết...dọn dẹp lau chùi nhà cửa, biết download phim Hồng Kông cho vợ coi, biết làm vài món ăn đặc biệt, thỉnh thoảng biết phụ vợ nấu ăn, biết làm vườn, biết đưa hết tiền lương cho vợ giữ và đặc biệt là không rượu chè trai gái. Thế thì tôi may phước quá còn gì!

Nghĩ đi nghĩ lại thấy lâu nay mình sống vô tư quá, coi sự hiện hữu của chồng như lẽ đương nhiên. Tôi chẳng bao giờ lo âu chàng sẽ chán mình hoặc sẽ bỏ đi. Tôi đang có của quí mà không biết...quí. May mà có lời cảnh báo của cô bạn nên mới cảnh tỉnh. Bây giờ lo sửa đổi tu dưỡng bản thân hy vọng chưa muộn.

Tính tôi lâu nay cà trớt ham vui, làm việc tùy hứng. Ông xã hay chọc:
- Đầu năm em dự tính đi Pháp, tháng sau đòi đi Hawai rồi kết quả lại đi …Campuchia.
- Vậy mà có người cứ nhắm mắt đi theo. Ai kỳ vậy ta!

Tôi tùy hứng vậy đó nhưng ông xã vẫn chiều theo đưa tôi đi đây đi đó. Không những đưa tôi đi chàng còn đưa cả bạn vợ và em vợ cùng đi mới tội. Bị cả ba bà hành mà vẫn chưa chết người trai chiến sĩ cũng may. Kỳ tới nếu có đi chơi nữa tôi phải biết quí chồng hơn, cho con em mình ở nhà và chỉ rủ nhỏ bạn này theo thôi vì tôi biết là chàng rất ao ước được nằm giữa hai bà. Cưng chồng như vậy chắc chàng cảm động lắm.

Đầu óc tôi thường ở trên mây. Tôi rất dở việc bếp núc, biếng dọn dẹp nhà cửa…, tùm lum thứ dở mà vẫn chưa bị chồng cho …de không biết là số tôi may hay chưa đến lúc mà thôi. Ngày xưa còn ở Việt Nam có cô em họ ở chung lo việc nấu nướng dùm nhưng qua đến Mỹ tôi phải đảm nhận công việc này mà lòng buồn vô hạn. Tôi vừa nấu ăn, vừa làm thơ, vừa để đầu óc bay bổng nên cháy nồi cháy chảo hoài. Một lần suýt đốt nhà và đốt cả ông chồng yêu dấu nữa chứ.

Số là sáng đó tôi bắt chảo dầu lên bếp tính chiên bánh phồng tôm. Nhưng thằng con út đòi dẫn ra sân chơi xích đu cầu tuột. Thế là tôi quên mất chảo dầu trên bếp lửa vô tư cùng thằng con ra sân chơi. Cũng may thằng lớn đang ngồi xem tivi nghe alarm kêu inh ỏi và khói bốc đen ngòm từ nhà bếp, nó bèn chạy lên lầu kêu ba nó đang ngủ say sưa chẳng nghe còi hú biết trời trăng gì cả. Anh chạy vội xuống bếp sẵn cái mền trùm luôn lên cái chảo rực lửa. Hú hồn!

Qua Mỹ đến nay được 20 năm tức là với 20 năm kinh nghiệm giang hồ trong xó bếp, tôi nấu ăn giỏi hơn xưa...gấp đôi. Cũng có nghĩa là tôi vẫn còn nấu ăn dở ẹc! Mỗi lần có tiệc tùng tôi sợ lắm, phải chuẩn bị trước đó cả mấy ngày vì tôi phải lên danh sách thực đơn rồi gọi đặt trước vài món. Tôi chỉ phải nấu 1 hoặc 2 món nữa mà thôi.

Ông xã tôi rất dễ ăn. Tôi nấu món gì chàng cũng khen ngon và ăn nhiệt tình. Chẳng phải chàng nịnh bà xã đâu mà vì có lẽ chàng ở với tôi ăn món dở cũng quen. Có lần tôi học được món Ragu từ cô bạn trong hãng. Về nhà nấu thử chàng khen không ngừng miệng. Hứng chí tôi làm một nồi Ragu to và mời mấy người bạn thân tới ăn. Mọi người nhìn nồi Ragu của tôi một cách ngạc nhiên và chẳng ai chịu nếm thử dù chỉ một muỗng. Quê độ quá sức nhưng tôi không buồn đâu nhé vì nhân vật chính của tôi là chàng ăn một lần 2 tô và ăn mỗi ngày cho tới sạch nồi không bỏ uổng phí.

Chàng còn nói:
- Kỳ há, anh ăn thấy ngon quá trời mà sao thiên hạ không chịu thử.
Tôi có bày cho chàng đổ bánh xèo, đúc bánh căn là một món ăn đặc biệt của người miền Trung, đổ bánh bèo, gói và nấu bánh tét. Thầy thì nấu dở mà chẳng hiểu sao trò lại nấu ngon hết sức. Bạn bè bà con được ăn mấy món này do chàng làm đều khen ngon nức nở và đều ngạc nhiên khi nghe nói tôi là sư phụ.

Chàng cười:
- Sư phụ in ra từ internet rồi chỉ tôi làm đó. Ha ha!
Dám chọc quê sư phụ. Tại lâu nay không muốn thôi chứ từ nay tôi sẽ ra tay nấu cho ông xã sáng mắt sáng lòng. Chỉ sợ là không dám ăn nhiều vì chứng béo phì và cao mỡ thôi.

Khi bạn bè khen vườn hoa đẹp và sân cỏ nhà tôi được tỉa tót chăm sóc công phu. Họ cứ nghĩ là công trình này do tôi, một con người có máu nghệ sĩ thích hoa lá cành làm. Nhưng họ cũng lại ngạc nhiên và cười quá trời khi nghe chàng tố:
- Bà xã tôi trồng bằng computer đó. Thanh ngồi vẽ ra một cái hình có mấy vòng tròn màu này màu nọ và chỉ ra hoa nào trồng ở vòng tròn nào. Rồi chạy ra tiệm mua một đống hoa bỏ đó cho tôi trồng. Đến khi trổ hoa cô nàng mới ra ngắm thôi.

Tôi đính chánh:
- Em cũng muốn ra giúp anh chứ bộ. Nhưng mỗi khi ra sân tưới cây là mấy con muỗi cứ bu lại em mà đốt nên đành bỏ việc chạy vào trong nhà thôi.

Nói vậy nhưng để cùng chồng chăm sóc vườn hoa, mùa hè này tôi sẽ mặc đồ mùa đông dày cui ra tưới cây cho muỗi khỏi đốt để chàng thấy tôi vì chàng mà hy sinh bất chấp tất cả.

Hai đứa tôi ít khi cãi nhau. Thường khi ông xã nổi nóng thì tôi ráng nín thinh để sau này ổng nguội tôi mới “thỏ thẻ đôi lời”. Nhiều lần anh chàng lái xe ẩu, tôi nhắc nhở là bị quạt ngay tức hết sức. Sang lane mà chỉ liếc nhìn kính chiếu hậu và 2 kính nhỏ hai bên, không chịu ngoáy đầu ra sau nhìn làm mấy lần bị xe sau bấm còi suýt gây ra tai nạn thì chỉ có người câm mới không lên tiếng. Đàn ông có tật vừa lái xe vừa nói và một tay thì quơ quơ diễn tả kỳ ghê. Lái một tay đâu có an toàn. Phụ nữ lên tiếng nhắc nhở thì chạm tự ái nói xỏ xiên “lái tài xế”, hoặc giận dỗi đòi đổi tài. Sau mấy lần tranh luận cãi nhau mà thấy chẳng ăn thua gì và thôi để chiều lòng ông xã, tôi quyết định khi lên xe chàng lái cứ việc nhắm mắt lại phó mặc sinh mạng mình cho trời và cho chàng. Mở mắt nhìn mất công thót tim và gây áp lực căng thẳng cùng sự bực mình cho tài xế mà thôi. Đàng nào cũng tới...La Mã mà!

Ông xã còn than phiền tôi cái tật thích control tức làm xếp lãnh đạo và sai chồng. Đa số mấy ông chồng đều than van bất mãn chuyện này. Thật ra đàn ông ít khi hỏi han và ít khi để tâm đến chuyện linh tinh trong gia đình nên đàn bà chúng tôi mới đề ra và nhờ mấy ông làm. Mấy ông làm 1 chuyện nhưng chúng tôi làm gấp đôi chứ phải ngồi không nhưng họ lại tự ái than van khó chịu và có cảm tưởng là họ bị chỉ đạo và nai lưng làm mọi việc. Không thích thì thôi, mình cứ để mặc kệ đừng nghĩ ngợi lo toan chi cho mệt. Họ không làm thì mình cũng không làm. Không làm cũng đâu chết ai. Để thì giờ hưởng thụ cuộc sống tràn đầy màu sắc này cho khỏe và khỏi mắc công làm người ta bất mãn.

Ngoài ra cứ lo hì hục làm hết việc nhà, mệt đứ đừ và lôi thôi lếch thếch bảo đảm mấy ông sẽ chán con gà mái dầu mà ra ngoài tìm gà móng đỏ. Hơn nữa ở xứ Mỹ này, mấy ông đi làm về không tụm ba tụm bảy đi nhậu như ở Việt Nam vì mai còn phải đi làm. Buồn hoặc rãnh quá mấy ông thường lên mạng xem tin tức, email hoặc “chit chat” với thiên hạ để giảm stress. Nhiều khi gặp nhằm mấy em lang thang tìm bạn bốn phương vướng vào tình ảo cũng nguy.

Cô bạn thân của tôi là một phụ nữ đảm đang cả việc công lẫn việc tư. Cô nàng nấu ăn rất ngon và là một trong số sư phụ nấu ăn của tôi. Anh chồng thì thuộc loại đàng hoàng và rất khéo tay làm mộc cùng sửa chữa nhà cửa. Phải nói đây là một cặp rất đẹp đôi và hạnh phúc. Chúng tôi ở cách xa nhau nhưng vẫn thường gặp nhau mỗi năm vài lần để tán dóc, nói chuyện về việc làm, đời sống, con cái và chia xẻ những kinh nghiệm hiểu biết trên xứ người. Mấy năm về sau cuộc họp mặt thưa dần vì cặp này rủ nhau tu thiền chỉ ăn chay. Anh bạn của chúng tôi càng ngày trông càng đắc đạo với gương mặt trông rất thanh thản và cặp mắt sáng ngời. Trong khi đó thì cô vợ vẫn đầy vẻ lo toan, tất bật. Rồi mới đầu năm nay mới bước vào tuổi 56 nghe nói anh về hưu sớm, bỏ việc, bỏ vợ con xuất gia vào thiền viện tu mất tiêu. Tôi hú hồn, may mà có mấy lần anh rủ chồng tôi thiền chung mà chàng của tôi không rảnh đó chứ.

Nghĩ tới đó tôi giật mình lạnh gáy, gọi phone hỏi chuyện với cô bạn:
- Chồng mi đi tu rồi mi có nhớ và buồn không hở?
- Buồn gì mà buồn. Ảnh đã đắc đạo thì còn mừng cho ảnh nữa chứ.

Tôi hỏi lại:
- Nhưng mấy chục năm nay ở chung với nhau bỗng dưng ảnh bỏ đi mất phải thấy thiếu vắng chứ?
- Thật ra đã mấy năm nay tụi ta coi nhau như đạo hữu, ở chung nhà nhưng không ở chung phòng. Ảnh đi thấy vắng vẻ một chút thôi nhưng cũng quen.
- Tại sao hai vợ chồng cùng tu chung nhưng ảnh thì đắc đạo mà mi trông còn “trần tục đầy hỉ nộ ái ố” vậy?

- Mọi việc trong nhà chỉ mình ta lo. Đến nổi cái check ảnh không biết viết nữa kìa. Ảnh đi làm về không cần làm gì cả, sống vô tư lắm nên mới đắc đạo. Còn ta mà vô tư như ảnh thì cái nhà này sụp luôn rồi có nước cả lũ thành homeless đi ăn mày. Ảnh nghỉ việc mà tất cả giấy tờ cũng mình ta lo cho, ảnh chỉ biết ký tên thôi.

- Ảnh đi bữa giờ có hay gọi về liên lạc với mi không?
- Trời ơi, ảnh giờ bận lắm chứ đâu rảnh mà thường gọi về. Chỉ khi nào cần giấy tờ gì đó mới gọi về nhắn ta làm và gởi cho ảnh thôi.
- Vậy chứ ảnh phải làm gì mà bận?
- Ảnh phải làm việc trong thiền viện và học đạo, học kỷ luật mới bận rộn lắm. Bộ mi tưởng tu dễ lắm hở?

Tôi kêu trời:
- Trời ơi, đang ở với vợ sướng bắt chết mà tự dưng đi tu chi cho khổ vậy?
- Nhưng ảnh đâu thấy khổ! Chỉ có ta khổ thôi vì còn mãi lo toan.
- Khi nào mi đi tu? Chờ con gái lấy chồng hở?
- 2 năm nữa nó ra trường thạc sĩ thì ta đi luôn. Lo cho ông chồng xong coi như trả được nợ cho ổng, giờ phải lo trả nợ cho con gái mới xong bổn phận.

- Sao mi nghĩ là mi nợ ông chồng mà không nghĩ là ông ấy nợ mi. Kỳ dzậy?
Cô nàng cười:
- Ta trả cho ảnh nợ đời để ảnh nợ ta thứ khác. Nợ về đạo thì trả khó lắm mi ơi.
- Con ni! Mi đi tu làm việc thiện thì đừng đòi hồi báo. Hèn chi tu hoài không xong. À, sau này mi đi tu có đem theo cell phone không để thỉnh thoảng ta gọi thăm tán dóc cho vui?

- Con khỉ! Đi tu là cắt đứt chuyện đời mà mi còn đòi ta đem theo điện thoại tán dóc.
- Vậy là hai đứa mi xem như chia tay nhau hở? Theo như mi nói thì vợ chồng mi sẽ cùng đi tu nhưng sẽ không gặp mặt, không liên lạc nói chuyện, không quan tâm tới nhau nữa. Coi chừng có người kiện đó nghe!

Cô nàng ngạc nhiên hỏi:
- Ai kiện?
Tôi cười phá:
- Thì luật sư kiện chứ ai. Ly dị mà không phải mất tiền!

Tôi tính lên kế hoạch cưng chồng mà nói chuyện với bạn xong, nghĩ đi nghĩ lại, thấy không cưng cũng mất mà cưng quá cũng mất vì đời này sao lắm cách mất chồng. Thôi thì cứ để tự nhiên, con người cũng như giày dép đều có số cả mà. Biết đâu kiếp trước ảnh nợ tôi nên kiếp này tôi đòi nợ. Duyên trời đã định thì chạy sao cho thoát!


Thanh Mai

Hansy
25-08-2014, 11:56 AM
23

Di Chúc

Khuê Việt Trường

Bà tên Miện. Trời nắng bỏng, nhưng bà Miện lại đi chân trần trên nền cát nóng với mái đầu trần tìm tới tôi. Bà đã trên 80 tuổi, cái tuổi chẳng màng gì đến danh lợi, chẳng ham muốn điều gì trong cuộc sống nữa. Đó là cái tuổi đã tạo cho đàn con của mình một chỗ đứng vững chắc trong xã hội để mình còn nương tựa. Bà tìm đến tôi trong cái nắng cong người kia bởi bà hy vọng tôi sẽ giúp cho bà một chút công lý mà bà mệt mỏi đi tìm vẫn không chạm được.

Một chồng hồ sơ, giấy tờ đã ngả vàng chứng tỏ nó đã chịu khá nhiều áp lực của thời gian. Trước khi tìm tôi, bà Miện đã gõ những cánh cửa lớn nhỏ, nhưng những cánh cửa đó đều lạnh lùng khép chặt. Bàn chân trần của bà đã bao lần giẫm lên những bãi cát nóng để tìm tới những cánh cửa. Lần này bà đang gõ một cánh cửa theo trí tưởng tượng của bà. Nhưng tôi chỉ là một nhà báo bình thường.

Tôi về. Tập hồ sơ có nhiều chỗ tôi đọc không được. Nhưng những giọt nước mắt của người đàn bà 80 tuổi vẫn hy vọng tìm được công lý khiến tôi không thể không cố đọc những gì bà viết ra.

Bà Miện là một người đàn bà cô đơn, bà chỉ học hết lớp một cho biết đủ mặt chữ, sau đó cả cuộc đời bà gắn liền với nương rẫy và đồng ruộng. Bà chắt chiu, dành dụm mới mua được một vườn xoài hơn 50 cây, rồi trông đợi những cây xoài trĩu trái, hái đem ra chợ bán kiếm miếng cơm. Bà đi làm thuê. Bà đi hái củi. Nói chung cuộc đời bà cực nhọc, chẳng bao giờ đôi tay thư thả. Cũng vì cái tình, cám cảnh một người đàn bà neo đơn như mình không có một miếng đất cày xới, bà Miện đã đem bà Linh về, dành cho một khoảnh đất nhỏ, chia cho 10 cây xoài gọi là có cái phụ thêm. Thời gian cứ thế trôi qua…

Rồi một con đường lớn băng qua nhà bà Miện trong quy hoạch chung của tình. Khu đất ngày xưa chẳng ai thèm ngó ngàng bỗng được quy ra vàng. Những người buôn đất không biết từ nơi nào tìm tới. Những mảnh đất hoang, những vườn xoài ngày nào thảnh thơi rụng trái giờ đây trở thành điểm nóng cho những cuộc tranh giành. Người phụ nữ ngày xưa bà Miện cưu mang cũng đem cọc, dây thép ra bao quanh nhà bà Miện. Bà chẳng hiểu chuyện gì đã xảy ra. Bà không biết rằng mình đang phải đối phó với những điên đảo, tráo trở của cuộc sống, trong khi bà quen sống với cái tình.

Đó là một buổi sáng. Khi bà còn đang thả từng hạt lúa cho bầy gà con theo mẹ trong vườn nhà thì người ta đổ xe tới đo đạc. Những người lạ đó hỏi bà: “Bà già, bà thuê nhà này lâu chưa?”. Bà ngạc nhiên: “Nhà này của tôi, tại sao lại phải thuê?”. Người đàn ông đeo kính đen trả lời bà rất lạnh lùng: “Chủ nhà ở đây là bà Nguyễn Thị Linh đã bán hết khu đất mặt tiền cho chúng tôi. Chỉ đợi bà trả đất lại là làm thủ tục. Bà không nghe bà Linh thông báo dời đi sao?”. Chuyện một người sống nhờ từ khi tóc xanh đến khi đầu bạc trên mảnh đất của mình, rồi một hôm bỗng dưng biến mình thành người ở nhờ thử hỏi có ai chịu được? Khi bà Linh đưa cho bà xem tờ giấy mà người ta vẫn gọi là sổ đỏ, bà thực hỡi ôi. Bà mua mảnh đất theo kiểu trao tay. Người ta lợi dụng chứng minh tấm giấy sở hữu trên theo phương diện pháp lý để đuổi bà ra khỏi mảnh đất của mình.


°°°

Hôm xã gọi bà Miện lên giao cho bà tờ giấy công nhận phần đất của bà, tôi không có mặt. Cuộc chiến giành công lý bốn năm ròng rã cộng với tuổi già khiến bà ngã bệnh. Hàng xóm thay phiên nhau tới thăm bà. Hết bên thương binh xã hội, tới hội người già, hội phụ nữ rồi cả các trường học cũng đều góp ít nhiều để cưu mang bà. Bà cô đơn và nghèo lắm. Bà nghèo cả đời sống gia đình, nghèo cả tiền bạc. Bà không có gì hết, trong khi người ta sẵn sàng trả cho bà cả trăm triệu đồng miễn bà đừng đi kiện đòi đất. Họ còn hứa cất cho bà một căn nhà nhỏ ngay trong mảnh vườn đó. Nhưng bà vẫn đi kiện. Bà nói rất rạch ròi trong phiên tòa: “Tôi không giành đất để bán, Tôi sống nhờ bà con xóm giềng bao nhiêu đó cũng đủ rồi. Nhưng tôi quyết đòi cho bằng được mảnh đất do chính tôi gầy dựng”. Chân lý của bà đơn giản: “Tôi lấy cái của tôi”. Bà tin vào công lý. Cuối cùng bà Miện đã có nhân chứng chính là con của người bán đất cho bà năm xưa, họ đem giấy tờ cho bà. Và, tấm sổ đỏ mà bà Linh đem ra là một trò lừa đảo do bà Linh và vài cán bộ địa chính tạo ra.

Tôi tới nhà bà Miện mấy lần. Nhà mái lá mục nát, trống trước trống sau chẳng có thứ gì quý giá. Bà Miện đã sống trong căn nhà đó và bà chịu đựng nỗi cô đơn một cách lạ lùng. Hôm được trả lại đất, bả tỉnh hẳn ra.


°°°

Người hàng xóm tốt bụng của bà Miện gọi điện cho tôi khi trời đã tròn bóng: “Bà già chết rồi ông nhà báo ơi”. Thế là tôi phóng xe đi.

Hàng xóm chung tay lo phần việc cuối cùng cho đời bà. Một cuộc đời quá buồn bã, một cuộc đời dường như chẳng được thảnh thơi. Bao nhiêu năm bà đi kiện để hy vọng lấy lại mảnh đất bà đã mua bằng chính những đồng tiền mình vất vả kiếm được. Nhưng chỉ một tháng sau khi giành lại được mảnh đất kia thì bà qua đời. Dòng người đi theo ra nghĩa trang toàn là những người hàng xóm, chẳng có ai là thân nhân.

Thật bất ngờ khi tôi sửa soạn lên xe về. Anh Hùng, tư pháp xã gọi: “Anh nhà báo ở lại một tí được không? Bà Miện có để lại di chúc”. Tôi ngạc nhiên, bà có tài sản gì đâu mà để lại di chúc? Và mảnh đất bà giành đây cũng chỉ là một mảnh đất. Biết đâu sẽ có những người vắng mặt nào đó, vì hám lợi sẽ xuất hiện tiếp tục cuộc tranh giành. Tôi cùng mọi người theo anh Hùng về trụ sở ủy ban xã nghe đọc di chúc.

Bà Miện đã để lại mảnh đất của mình cho xã xây trường mẫu giáo. Đó cũng là điều nhiều người vẫn thường làm khi không có con cháu. Nhưng tôi thật bất ngờ khi bà Miện đã để lại trong di chúc của mình một điều bí mật, điều bí mật đó nếu bà không nói ra thì nó sẽ được chôn kín theo bà dưới lòng đất. Trong mớ áo quần cũ bà để trên gác cao trong ngôi nhà tồi tàn của mình, có một gói nhỏ bằng giấy dầu. Trong đó có 20 lượng vàng bằng nhẫn, vàng trang sức. Gia tài cả đời của bà nhiều đến thế, nhưng bà không xài đến. Đó là số tiền bà tích cóp với nguyện ước sẽ được dùng để xây lên ngôi nhà trẻ. Trong di chúc, bà yêu cầu tôi và người hàng xóm tốt bụng quản lý việc thi công ngôi trường trong mơ của bà.

Trong đời làm báo của mình, tôi tự hào mình đã đi nhiều, gặp nhiều số phận khác nhau. Tôi tưởng mình đã hiểu hết khi nhìn cách sống của mọi người trong hoàn cảnh mà tôi gặp họ. Nhưng cả cuộc đời tôi chưa hề bắt gặp một bản di chúc lạ lùng đến thế.


Khuê Việt Trường

Hansy
26-08-2014, 02:17 AM
24

Dì Ghẻ

Hoàng Mộng Hoài

Ba mẹ Dạ Thảo chia tay nhau sau mấy lần lục đục, gấu ó nhau. Ngày đó nó mới mười tuổi. Mẹ nó lấy Việt kiều, còn nó ở với ba. Mà trước giờ nó cũng chỉ gần ba. Ba luôn quan tâm tới tất cả những niềm vui, nỗi buồn của nó. Trong nhà chỉ còn lại hai cha con, nên chi ba Dạ Thảo chiều nó lắm. Ba luôn làm tất cả những gì có thể cho nó, để nó không thua kém bạn bè. Năm học 12 ba mua cho nó chiếc Chaly để đi học. Nó cũng không đòi hỏi gì hơn. Nó thương ba nhiều, rất nhiều. Có một điều, ba Dạ Thảo không thể là một người mẹ. Nhưng mà nó không quan tâm đến điều đó, nó không cần. Nó chỉ cần ba, và cần một mình ba thôi. Có một lần, khi nó đi học thêm về, có một tên con trai cứ lẽo đẽo theo sau. Dạ Thảo về kể cho ba nghe.

Ông cười và nói:
- Con gái lớn có người để ý là chuyện bình thường. Nhưng con phải lo học; lúc này không nên nghĩ đến chuyện đó, chừng đậu đại học rồi hẳng hay.

Sau Tết năm 12, việc học cứ xoắn lấy nó. Sáng đi học ở trường, chiều đi học phụ đạo, chuẩn bị cho ba kỳ thi sắp tới: học kỳ II, tốt nghiệp và đại học. Nó phải làm cả công việc ở nhà, đi chợ và nấu ăn... nữa. Sáng, Dạ Thảo phải dậy thiệt sớm để dọn dẹp nhà cửa, chuẩn bị đồ ăn sáng cho hai cha con, rồi sau đó ba đi làm, nó đi học. Ba nhiều lần muốn giúp nó nhưng vì công việc ở công ty quá bề bộn, về nhà nhiều lúc chỉ phụ nó bê được nồi cơm đặt lên bàn.

Và rồi một buổi chiều đi học thêm về, vừa dắt xe vô nhà, Dạ Thảo nghe tiếng ba nó đang nói chuyện với một giọng đàn bà trong phòng khách. Nó bước tới cửa đứng yên nghe.

Lúc này là giọng của ba nó:
- Anh rất thương nó, nhưng chẳng thể làm gì nhiều để giúp nó. Công việc thì nhiều, mà nó sắp thi cử tới nơi. Vả lại... nó cũng cần tình cảm của người mẹ nữa, Nghiêm ạ!

Rồi giọng người đàn bà trầm trầm:
- Còn phải hỏi ý kiến Dạ Thảo nữa chứ anh!

Thì ra họ đang nói về nó. Họ đang thương hại nó. Nó sợ hãi, lúng túng đứng như trời trồng. Rồi nó quay lại chạy về phòng, nhưng hấp tấp thế nào, cánh cửa phòng khách đánh sập một tiếng “rầm”. Cả hai người nhìn ra.

Ba nó bước tới mở cửa:
- Thảo về rồi hả con? Vô đây, vô đây ba có chuyện muốn nói.
Rồi ba cầm tay dắt nó vô như dắt một đứa con nít lên năm tuổi. Dạ Thảo nhìn nhanh qua người đàn bà đang ngồi đối diện với ba nó.

Nó lí nhí:
- Cháu chào cô!

Rồi cúi xuống để tránh cái mỉm cười và ánh mắt dò xét của bà ta. Nó ghét.
Ba nó lại lên tiếng để phá tan cái không khí yên lặng đến lạnh lùng ấy:
- Ðây là cô Nghiêm. Con có thể gọi bằng dì. Dì Nghiêm sẽ đến ở với ba con mình. Nếu con cần gì, dì sẽ giúp con. Dì sẽ thay thế mẹ của con. Nó chuyện với dì đi, Dạ Thảo!

Dạ Thảo đứng sửng nhìn con người mà từ phút này nó sẽ gọi, sẽ phải gọi bằng dì. Nó cứ đứng nhìn như thế, rồi như sực tỉnh, nó gằn giọng:
- Chào dì!

Rồi nó quay đi, lầm lũi về phòng mình, đóng cửa lại. Nó khóc vùi. Có lẽ nó tủi thân. “Dì, dì ư? Nó phải gọi một người đàn bà có cái tên dữ dằn ấy là dì sao? Nó chẳng bao giờ mặc cảm vì thiếu mẹ. Ở trường nó là một nữ sinh ngoan, học khá. Còn với bạn bè nó luôn giúp đỡ hết mình. Ai cũng quí mến nó. Và nó còn có ba. Chừng đó đã đủ. Nó chưa bao giờ muốn người thứ ba xen vào cuộc sống êm đềm của ba và nó.

Ðêm đó, nó thức nghe nhạc và nghĩ về mọi thứ. Có lẽ ba không còn thương nó nữa? Nó buồn, và lại khóc. Nó khóc thiệt lâu, thiệt nhiều, rồi nó ngủ thiếp đi lúc nào chẳng biết.

Sáng hôm sau nó dậy trể hơn mọi ngày. Ba nó đã dậy từ lúc nào. Ông đang ngồi nhâm nhi ly cà phê buổi sáng. Trên bàn đã đặt sẳn hai tôi phở còn bốc khói. Ông đang nghĩ gì nên không để ý thấy nó đi xuống. Rửa mặt xong, Dạ Thảo thay quần áo rồi dắt xe ra cửa:
- Thưa ba con đi học!

Ba quay lại, vẫn giọng điềm tĩnh:
- Ba mua phở rồi, ăn rồi hẳn đi, Thảo!
- Còn phần của người ấy đâu ba? – Nó hỏi, giọng lạnh lùng.

Nhưng ba nó vẫn từ từ nói, như không hề biết nó đang nghĩ gì:
- Cô Nghiêm về từ chiều hôm qua rồi. Thôi, vô ăn đi con!

Lúc này nó mới thấy đói. Mà cũng phải thôi, chiều qua tới giờ nó đã ăn gì đâu? Tối hôm qua nó quên mất việc nấu cơm. Không biết ba ăn gì? Chắc cái dì Nghiêm ấy đã làm buổi tối cho ba. Nghĩ vậy nó cũng không hỏi thêm. Nó ngồi xuống ăn một mạch hết tô phở. Rồi nó tới trường.

Tiết học cuối cùng cũng đến lúc kết thúc. Buổi học hôm nay sao dài quá. Nó dắt xe ra cổng, lặng lẽ đi, không cười đùa như mọi ngày nữa. Nhỏ Ngọc Chinh, bạn thân nhất của nó hỏi:
- Hôm nay mày sao vậy Thảo? Bịnh hả?
- Chẳng sao hết. Tao muốn đi một mình.

Rồi nó lên xe nổ máy chạy đi. Về tới nhà, cửa vẫn khóa. Ba đi làm chưa về. Nó nghĩ vậy và mở cửa vô. Thay quần áo xong, nó chuẩn bị nấu cơm. Nó thấy là lạ. Nhà cửa sáng nay nó chưa kịp dọn, sao bây giờ lại gọn gàng thế. Lại có cả một mâm cơm ngon lành để sẳn trên bàn. Sao hôm nay ba về sớm vậy kìa? Nó thắc mắc. Ba đi đâu? Chắc bận việc đi rồi. Nó mở lồng bàn ra và ánh mắt dừng lại ở một mảnh giấy gấp tư. Nó mở ra và đọc. Những dòng chữ nhập nhòe trước mắt nó, như muốn trêu chọc nó:

“Dạ Thảo!
Cô rất hiểu tình cảm lúc này của cháu, một cô bé đầy nghị lực. Cô rất tôn trọng tính ích kỷ trong tình cảm của cháu đấy. Cô muốn giúp cháu một cái gì dù vô cùng nhỏ. Cô sẽ không làm phiền cháu nữa. Cô ở chỉ một mình, có kèm địa chỉ đây. Nếu muốn, cháu hãy đến tìm cô nhé! Chào cháu.
Cô Nghiêm”.

Dạ Thảo đứng yên một lúc lâu, như đang nghĩ một điều gì. Mà nó có nghĩ được gì đâu. Ðầu óc nó quay cuồng, rối tung lên những dự định, ý kiến chồng chất. Nó bỏ lên nhà.
Mùa thi đến, nó vùi đầu vào sách vở chuẩn bị thi học kỳ II, rồi tốt nghiệp. Những buổi đi học về, cơm canh đã làm sẳn, nhà cửa đã gọn gàng nhưng không còn mảnh giấy nào nữa. Nó chẳng nói gì với ba. Ba nó biết, nhưng cũng từ sau đó ba nó không nói gì với nó về chuyện ấy nữa. Nhiều lần trong bữa ăn, nó lén nhìn ba nó, để cố đoán xem ông đang nghĩ gì, nhưng vẻ mặt ông vẫn bình thản như không có chuyện gì để nghĩ, để lo. Lúc này nó thương ba quá. Hay là... nhưng nó lại lắc đầu, và ý nghĩ trong nó cũng lấp lững chỉ có thế.

Vậy mà đã qua hai tháng, lúc này là cuối tháng sáu, nó đã thi xong tốt nghiệp, đậu loại khá. Còn một kỳ thi nữa, một bước ngoặc của cuộc đời nó. Nếu được vào đại học, nó sẽ về Sài Gòn, ba sẽ ở một mình. Chiều nay mưa, và nó đã khóc. Lúc này nó cảm thấy cần tình thương yêu của một người mẹ, mà trước đây nó tưởng là không cần thiết. Ba sẽ già, sẽ yếu, nó còn cuộc sống riêng tư, lúc đó ai sẽ săn sóc cho ba? Nó chợt nghĩ đến người đàn bà tên Nghiêm ấy. Ba đi làm rồi. Nó quyết định mặc áo mưa và dắt xe ra đường.

Dạ Thảo tìm theo địa chỉ ấy, đến một căn nhà nhỏ khá khang trang nhưng yên tĩnh. Nó rụt rè bấm chuông và hồi hộp chờ đợi. Tiếng dép lẹp xẹp rõ dần, rõ dần và ngưng lại. Cánh cửa mở ra. Cô Nghiêm đứng sửng nhìn nó. Nó nhìn cô, mỉm cười...


Hoàng Mộng Hoài

Hansy
27-08-2014, 02:06 PM
25

Thơ ... chết người

VanTienSinh

Ông cha ta nói "Cứu một mạng người hơn xây bảy cái chùa". Bạn nghĩ sao?

Có một vị Đại gia ở tỉnh nhà, vị này gốc gác nguyên thủy vốn dĩ là nông dân, chữ nghĩa của ông thì hơi ít nhưng mà cái tài ma lanh biết chộp lấy thời cơ, sẵn sàng bằng mọi giá để cố đạt được mục đích thì quả thật là không ai bằng. Do đó nên trong thời buổi nhập nhoạng tranh tối tranh sáng, cộng với cái duyên may mắn của trời ban cho thì chẳng bao lâu sau quyền thế và tiền tài của ông đã nổi tiếng khắp cả một vùng.
Mà ở đời thì thói thường, khi con người ta đã có quyền và tiền thì lại hay thích mang danh là có tâm hồn nghệ sỹ, còn những người đã thừa thãi tâm hồn nghệ sỹ thì lại hay nằm mơ chiêm bao có thêm tý tiền và có chút quyền, đúng là ông trời thật là khéo trêu con người. Chính vì vậy mà ông lại rất hào phóng bỏ tiền tài trợ cho Hội văn nghệ của tỉnh ta. Hội ta vì để lấy lòng vị Mạnh Thường Quân này và cũng đồng thời tưởng nhớ đến công lao to lớn của ông đã góp phần vào việc thúc đẩy sự nghiệp phát triển thơ văn của Hội, cho nên một hôm đã có một bữa họp tới họp lui và cùng đồng nhất trí đến 80% phiếu bầu ông làm Hội viên danh dự của Hội. Tại sao là lại chỉ 80% mà không phải là 100%? Ông nhăn mặt hơi cau có thắc mắc hỏi ông chủ Hội.

Ông chủ Hội cười khì khì bảo ông rằng:
- Sao bác lại khờ thế nhỉ? Một trăm phần trăm để cho người ta có cớ tiếng ra tiếng vào à. Phải có một vài phiếu trắng, lại cũng phải có một vài phiếu chống để thể hiện rằng Hội ta thật sự đã học tập tinh thần dân chủ chứ.

Ông cười vang khoái chí vỗ vai ông chủ Hội đồm độp, nức nở khen ông chủ Hội thật là người túc trí đa mưu. Và từ đó đi đến đâu ông cũng tự giới thiệu mình là Hội viên Hội văn nghệ của tỉnh nhà, một cách thật vô tình ông ta bỏ đi hai chữ..."Danh dự".

Vì đã là Hội viên, cho nên hễ Hội ta có họp hành hay hội nghị chi chi đó thì ông cũng luôn được mời tham gia. Và cũng bởi vì vậy, lâu ngày nghe các vị trong Hội ngâm thơ và bình thơ ông đâm ra ghiền nặng và từ chỗ ghiền nặng thì ông ngẫm thấy để làm thơ cũng thật dễ chứ có khó quái gì đâu? Ông liền mời một nhà thơ của Hội chỉ bảo và tư vấn cho cách thức làm thơ. Nhà thơ nhiệt tình liền tư vấn cho ông hiểu là thơ thì cũng có dăm bảy loại, đại khái nào là Đường thơ, Lục bát thơ, Tự do thơ, hỗn hợp các loại đó...vân vân và vân vân...Nhưng đặc biệt hơn cả là nếu ông làm thơ mà người ta đọc lên chẳng hiểu gì hết hoặc mỗi người có thể hiểu theo mỗi cách thì đích thị là thần thơ lưu danh hậu thế.

Nhà thơ lấy ví dụ cụ thể:
- Tỷ như cụ Nguyễn Du chẳng hạn, có những câu thơ tuyệt tác như thế này:
Sè sè nắm đất bên đường
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.

Ông có hiểu cụ muốn nói cái gì không?
- Không? Nhưng mà nghe tới sè sè tôi nghĩ tới... - Ông cười một cách khả ố.
- Đó. Chính là ở chỗ đó. Thơ hay đọc lên là người ta phải không hiểu, hoặc có hiểu thì cũng không ra được cái thâm thúy bên trong. Thường thì loại người như thế nào thì sẽ hiểu câu thơ như thế đó... - Nhà thơ đang thao thao chợt đột ngột dừng lại nhìn ông ta, vì cảm thấy mình hơi bị lỡ lời. Ông thì không để ý đến những lời nói của nhà thơ mà lúc này miệng cứ lẩm nhẩm hai câu thơ trên.

Nhà thơ nhìn vẻ suy nghĩ của ông dè dặt nói tiếp:
- Có người khi bình hai câu trên đã nói thế này: "Chắc là ở chỗ đó vắng vẻ lại tiện cho chuyện...nên người ta hay vào và vì thế cỏ mới..." - Nhà thơ chưa nói hết ý liền bị ông ngắt lời.
- Đúng rồi. Tôi cũng nghĩ như vậy đó. - Ông ta cười ha hả khi thấy mình đã thấu hiểu hai câu thơ trên của Đại thi hào.
- ...
Sau khi đã nghe nhà thơ giảng giải một hồi về qui tắc làm thơ thì ông cũng hơi tàm tạm nắm được. Trong các loại thơ thì có vẻ là thơ Lục bát ông thấy xem ra có vẻ dễ làm và hợp với ông hơn. Thơ Đường luật ông nghe gì mà bằng bằng trắc trắc, cứ loạn cả lên như nổ súng liên thanh, rồi còn niêm luật quá khắt khe, đối chữ đối nghĩa tùm lum, nên chắc chắn là ông không thể làm được rồi. Thơ Tự do thì ông lại thấy không khoái lắm vì thấy nó y như viết văn, dài ngắn bất kỳ, vần gieo loạn xạ, hàng xuống ngẫu hứng, nên có khi làm xong rồi chắc còn chả nhớ được thơ của mình làm ra. Được nhà thơ tập huấn tận tình chỉ dẫn và lấy ví dụ về thơ Lục bát cho một buổi, rốt lại thì ông cũng đã phần nào nắm được cách thức làm thơ Lục bát.

Cảm thấy vui vẻ và thỏa mãn khi nghĩ tới thơ của mình, chỉ nay mai thôi sẽ được ngâm và được bình như mọi người làm cho ông cảm thấy vô cùng phấn khích. Ông bèn móc điện thoại trong túi ra điện cho bộ sậu của Hội và cùng với nhà thơ hướng dẫn ông, đi một bữa nhà hàng nhậu rôm rả. Khi mọi người cụng ly đầy khí thế với ông, ai ai cũng đều nồng nhiệt chúc mừng nhà thơ mới và mong ông hãy mau mau ra thơ để cho anh em trong Hội được mở mang thêm kiến thức.

Sau khi ông nhậu say đã đời về đến nhà, ông ngủ một giấc li bì cho tới tận chiều mới thức dậy thì ông cảm thấy cổ họng khô khốc khát nước. Vội vàng mở tủ lạnh để lấy nước uống, thì vô tình ông làm nước nhểu ra sàn nhà. Mãi ngửa cổ uống nước nên ông không để ý, vì thế một lát sau do bất cẩn ông lại dẫm vào bãi nước và trợt chân té xuống nền nhà một cái "Uỵch" thật là đau điếng. Vừa đau vừa bực cho nên khi ông đứng dậy mà tay chân ông vẫn run run chưa vững, ông nổi điên thuận miệng liền phát ra luôn một câu:
- Tức mà tay chân run rẩy.

Bỗng ông chợt giật mình hét to lên:
- Hay quá. Thơ đây rồi.
Sau một hồi vắt óc điều qua chỉnh lại thêm bớt cho đúng theo kiểu lục bát thì câu thơ bây giờ là:
- Tưng tức tay rẩy chân run.

Ông gật gù thầm đắc ý và cứ mãi lẩm nhẩm câu đó cho đến tối. Trời thì tối cũng đã lâu mà ông thì vẫn chưa nghĩ ra được câu thứ hai. Đến khi ra đến ngoài sân hít thở không khí trong lành, vì còn mãi nghĩ nên lúc con chó cưng cứ chạy mừng bám riết theo chân ông mà ông chẳng để ý và làm ông thình lình vấp vào nó, thiếu chút nữa thì nó làm cho ông ngã té nhào xuống đất. Tức cái mình ông sút luôn cho nó một đá. Con chó kêu lên ăng ẳng sợ hãi đau đớn vội chạy đi.

Ông chợt ồ lên thật mừng rỡ:
- Đá một phát sướng cả người. Chó kêu ăng ẳng...kêu ăng ẳng...

Sau một hồi suy nghĩ đắn đo điều chỉnh thì ông có thêm ba câu nữa như sau:
- Tưng tức tay rẩy chân run.
Đá chó một nhát ôi thật sướng run cả người
Chó la oăng oẳng rầm trời
Xả xong cái tức thì người...đã hết run...

Ông cười ha hả một cách đắc chí, liền trở vào nhà tự thưởng cho mình một lon bia. Ông bây giờ đang nghĩ trong đầu có lẻ chỉ vài bữa nữa thôi, ông sẽ cho đệ tử in thơ của mình biếu cho mấy vị trong Hội và những người quen biết và nhắm mắt tưởng tượng những ánh mắt đầy khâm phục, tán thưởng của các vị trong Hội văn nghệ của tỉnh nhà và người khác về một con người đa tài như ông. Thế là miết cho đến khi đi ngủ ông vẫn cứ ngâm đi ngâm lại mãi mấy câu trên mà ông đã làm ra. Cho đến lúc gần sáng, trong giấc mơ ông đang thấy mình ngâm thơ cho mọi người nghe và bất giác miệng của ông phát ra thành tiếng:

- Tưng tức tay rẩy chân run.
Đá chó một nhát ôi thật sướng run cả người
Chó la oăng oẳng rầm trời
Xả xong cái tức thì người...đã hết run...

"Bịch". Có một tiếng động chợt vang lên khe khẽ ở bên ngoài nhà ông. Sáng hôm sau ông vội thức dậy bởi tiếng la hốt hoảng ơi ới của người nhà:
- Có người chết...

Thì ra là có một tên ăn trộm, tối hôm đó hắn cố leo lên tới tầng hai nhà ông. Hắn còn đang rình mò ở ngoài ban công, khi hắn chuẩn bị leo vào thì đúng lúc đó ông đọc thơ. Hắn buồn cười quá đỗi nên vội lấy che tay lên miệng để nín cười sợ bị lộ, mà trong khi đó hắn lại vô tình...quên luôn rằng tay của nó còn đang bám vào thành ban công trên lầu để leo vô nhà. Hắn liền mất luôn điểm tựa nên hắn...té luôn xuống đất và...gãy cổ chết tươi.

Có một bữa khi ông đang ngồi ăn sầu riêng ở nhà, thì có một người bạn làm ăn đến thăm ông. Sau khi mời khách an tọa và cùng ăn sầu riêng với mình thì một chặp, ông chợt nổi hứng lên mời khách nghe sáng tác thơ mới của mình. Khách rất vui vẻ lịch sự mời ông đọc. Ông liền vội vàng đứng dậy vừa đọc vừa mô tả:
- Tưng tức tay rẩy chân run. - Chân tay ông cũng run rẩy theo vần thơ.
- Đá chó một nhát ôi thật sướng run cả người - Ông giơ chân đá lên một phát.
- ....
Hình như ông nghe có tiếng ặc ặc nổi lên, nhưng mãi vừa mô tả vừa đọc tiếp thơ nên ông không để ý lắm. Một lát sau ông quay đầu lại nhìn ông khách, thì thấy ông khách mặt mày đã tím tái ngã nằm trên ghế, một tay ông khách thì quơ quơ vào không khí, còn tay kia thì đang bóp cổ. Hết hồn ông vội nhào tới để xem sự tình thì ông khách lúc này đã xuôi tay tắt thở. Hóa ra là vì trong lúc đang ăn sầu riêng, ông khách thấy ông vừa diễn tả vừa đọc thơ buồn cười quá, nên vô ý để hột sầu riêng...lọt luôn vào cuống họng, gây ra...ngạt thở cho mình.

Sau đó đâu chừng nửa tháng, trong khu vực của ông có một cuộc họp của các vị bô lão mừng ngày lễ, họ nghe danh tiếng ông là Hội viên văn nghệ của tỉnh, nên rất hân hạnh mời ông tham dự đóng góp ý kiến. Khi cuộc họp đang đến hồi khí thế và các cụ đang hăng hái trao đổi thơ văn, thì ông cũng xin góp vui mấy câu thơ và nhũn nhặn xin các cụ gợi ý cho thêm mấy câu nữa để thành bài. Các cụ liền vỗ tay ầm ầm cổ vũ chờ nghe ông đọc thơ. Ông lấy giọng tằng hắng một cách trịnh trọng và bắt đầu đọc:

- Tưng tức tay rẩy chân run.
Đá chó một nhát ôi thật sướng run cả người
Chó la oăng oẳng rầm trời
Xả xong cái tức thì người...đã hết run...

Một cụ ông lúc này đang uống nước bỗng mắc cười quá, nên phun hết cả nước trong miệng vào người đối diện. Người này thì đang cầm cái cái ống điếu chuẩn bị làm một hơi thuốc lào, liền vội quay người né nhanh một cái vô tình quay cái ống điếu quất mạnh vào đầu một ông già đang ngồi gần đó trúng chỗ hiểm nên...ông kia lăn đùng ra...ngất xỉu, vào tới bệnh viện ít lâu thì...chết. Thế là từ đó mọi người ráp lại các sự kiện đã xảy ra với ông, nhỏ to lẫn nhau là hễ ông này mà đọc thơ thì chắc chắn...sẽ có người chết. Cả nhà và mọi người quen biết ông đều biết chuyện, nhưng vì họ sợ cái oai của ông và với lại tin đồn thì...luôn luôn vẫn chỉ là tin đồn, nên vì thế chẳng có ai dám hé miệng nói cho ông biết.

Và rồi khoảng một tháng sau, trong Hội lại có tổ chức một cuộc họp và lẽ tất nhiên là không thể thiếu được ông. Sau khi đã phát biểu dông dài xong xuôi, ông xin mọi người được đọc bài thơ của ông mà ròng rã cả tháng nay ông làm mãi mới xong. Chỉ có điều vừa nghe ông nói tới đọc thơ thì cả hội trường đột nhiên náo loạn, ghế bàn xô âm ầm, mạnh ông nào ông nấy vội đi nhanh như chạy ra khỏi hội trường. Chẳng mấy chốc thì nguyên cả cái hội trường vốn đông là thế chợt trở nên vắng ngắt, chỉ còn sót lại mỗi anh thợ chuyên lo về âm thanh vì đang lui cui phải chỉnh lại âm thanh cho rõ nên bất đắc dĩ phải ở lại cùng với ông.

Ông lấy làm lạ liền hỏi anh thợ, lý do là tại sao đương không mà mọi người bỏ đi ra ngoài hết trơn vậy? Anh thợ cứ ấp a ấp úng mãi, cho đến khi ông móc túi cho anh ta ít tiền và hứa là sẽ không để bụng, nếu như anh ta nói ra sự thật, thì anh ta mới kể cái quái sự...về thơ của ông mà người ta đã đồn ầm lên cho ông nghe...


***

Vài năm sau đó, trong tỉnh nhà xuất hiện một ngôi chùa lớn thật đẹp và hoành tráng. Khách thập phương đổ về đây tham quan, nghe mọi người kể là cái chùa này do chính ông xây dựng, nhằm để tích đức cho ông sau khi đã vô tình gây ra mấy cái chết oan. Cũng lại có người nói là sau cái vụ thơ thẩn ấy, hình như là việc làm ăn của ông có sự trục trặc không được thuận buồm xuôi gió cho nên nghe lời tư vấn của mấy thầy dùi, ông xây chùa mục đích để hành thiện. Cũng lại có người lấm la lấm lét, nhìn trước nhìn sau, thì thào vào tai cho khách nghe là...chẳng phải là thơ ông...làm chết người đâu? Có...chủ ý cả đấy? Vì ông ta cũng sợ báo oán nên xây chùa tự cứu lấy mình...

Nói chung thì tin đồn luôn luôn...vẫn chỉ là tin đồn...


VanTienSinh

Hansy
28-08-2014, 12:52 AM
26

Diễm Xưa...

Hoàng Diễm Diễm

Huế chiều thứ bảy. Tôi lang thang qua mọi nẻo đường. Những hạt mưa đầu xuân lất phất bay, nhưng làm hồn tôi nặng trĩu. Theo thói quen, tôi ghé lại quán cà phê Áo Trắng – nơi ngày xưa em và tôi thường hay ngồi. Những kỷ niệm xưa hiện về rơi rớt...

°
° °
Ngày ấy, tôi quen em trong một sự tình cờ. Em không đẹp nhưng dễ thương. Có đôi mắt trầm buồn và nụ cười dễ mến. Em học Sư phạm Văn, trong khi tôi dân Bách Khoa đã ra trường. Cùng với tấm bằng C Anh Văn trong tay, tôi quyết định thi vào đại học Nhật và hiện giờ cũng là một sinh viên hẳn hoi. Là đồng hương Quảng Nam với nhau – Tôi tình nguyện làm gia sư giúp em học ngoại ngữ. Lúc đầu, em không đồng ý, nhưng sau đó thấy tôi thật tình và nói chung, vốn ngoại ngữ em còn quá ít, cho nên em đã chấp nhận...

Giờ học đầu tiên, tôi cứ lúng ta lúng túng mãi. Em cũng thế. Cả hai đều rất ngượng ngập. Nhưng dần dần, cái gì rồi cũng trở nên quen thuộc. Em tỏ ra là một cô bé thông minh, hóm hỉnh và thường hay cho tôi là nghiêm khắc. Phần tôi, vẫn cứ thích gọi em là cô bé mặc dù em có tên hẳn hoi: Diễm – cái tên mà tôi vẫn thường hay gọi “Diễm xưa”. Những lúc như thế, em chỉ mỉm cười, đôi khi còn tỏ ra thích thú...

Thời gian cứ thế trôi đi. Nhiều lần tôi cảm thấy mình như trẻ lại trước sự hồn nhiên và quá đỗi vô tư của em. Nhưng cũng có lúc tôi rất bực mình bởi những cái hiểu ý rất chi là vô lý. Nhớ có một lần, người bạn nữ cùng lớp đến gặp tôi ngay trong giờ học. Em lại biện lý do đau đầu và xin phép nghỉ. Thế là mất tiêu một buổi. Hôm sau tôi hỏi, em chỉ mỉm cười và bảo: “Hiểu ý dễ sống” và còn nhại lại tôi: “Chị ấy cũng dễ mến chứ anh nhỉ?” Tôi làm ra vẻ giận dữ. Em vội vàng xin lỗi và im lặng...

Cái gì rồi cũng qua, tôi không thể nào giận em lâu được. Sự hiện diện của em là niềm vui, là cái để tôi quên đi nỗi buồn mà tôi gọi đó là nỗi bất hạnh. Bởi vì tôi không có bố mẹ. Mặ dù bây giời tôi đang sống trong một gia đình giàu sang, đầy đủ về vật chất nhưng đó chỉ là những người đùm bọc, nuôi dưỡng tôi. Họ đem tôi về từ một bệnh viện. Nuôi tôi lớn lên cho đến ngày hôm nay. Thế mà, tôi vẫn cứ hiển nhiên sống. Chẳng biết gì ngoài chuyện học hành. Nhiều lúc, tôi lại cho mình là người hạnh phúc nhất! Mãi cho đến khi vào đại học, bố mẹ nuôi mới kể hết đầu đuôi câu chuyện cho tôi nghe. Thì ra, bố mẹ ruột đã bỏ rơi tôi vào mùa xuân năm ấy để ra nước ngoài... Từ đó, tôi trở nên lầm lì, ít nói, vẻ mặt lúc nào cũng buồn, mặc dù bố mẹ nuôi dành cho tôi những tình cảm ít ai có được...

Và hôm nay, tôi lại đến lớp như mọi lần. Em vô tình hỏi tôi về ngày sinh nhật. Biết trả lời em như thế nào đây? Ngẫm nghĩ một hồi lâu, tôi đem hết mọi chuyện kể cho em nghe. Tôi bắt găp trong mắt em một nỗi buồn xa vời, sâu thẩm. Thế rồi, cả em và tôi đều quyết định: Lấy ngày sinh của em làm ngày sinh nhật cho cả hai. Ngày đó chính là 1/1. Cũng đúng vào khoảng thời gian mà tôi đã ra đời...

Kể từ hôm đó, chẳng khi nào em làm tôi giận. Ngược lại, em chỉ thích làm tôi vui. Một hôm, tôi bắt gặp trong cuốn vở Anh văn của em dòng chử “I love you” của người con trai nào đó. Tự dưng tôi cảm thấy buồn. Một nỗi buồn chẳng thể nào tả nổi. Như đọc được những gì tôi đang nghĩ. Em cố biện bạch, lý giải nhưng tôi có trách gì em đâu? Em vẫn là em - một cô bé hồn nhiên và rất đáng yêu. Còn tôi – cũng cứ vẫn là tôi - một con người lúc nào cũng buồn bã, trầm tư. Hai thái cực ấy tưởng chừng như đối lập, nhưng không , tôi vẫn cứ thích những con người như em. Tôi ước ao có được những nụ cười vô tư, những cái nhìn hóm hỉnh như thế - dù chỉ một lần, nhưng không được. Ðiều đó chỉ dành riêng cho em. Và, nếu không có một ngày...

Hôm ấy em nghỉ học mà không báo cho tôi biết. Chờ hoài một buổi. Tôi giận em vô cùng. Vì thế, tôi cũng chẳng đến gặp em để hỏi lý do. Hôm sau, lớp tôi có một chuyến thực hành đột xuất, không kịp báo cho em. Tôi để lại vài dòng, không biết nơi ấy em có nhận được?

Một tháng trôi qua nhanh chóng. Vì công việc nên tôi quên tất cả. Ngày về, tôi lại nhớ đến em nên vội vàng tìm đến với một món quà rất dễ thương, hy vọng em sẽ thích... Nhưng than ôi, đến nơi thì mới vỡ lẽ: Em đã nghỉ học cách ngày tôi đi một tuần. Cầm bức thư em trong tay. Tôi ngạc nhiên đến ngỡ ngàng:

Anh của bé!
Khi đọc được những dòng chữ này thì chắc có lẽ bé đã đi xa. Một ngày, hai ngày... bé đến lớp đợi anh hoài, sao anh chẳng đến? Bé biết, anh giận bé nhiều. Nhưng bé vẫn cứ đến để báo anh một tin buồn: Bé phải nghỉ học. Bố mẹ buộc như thế... Trước mắt anh, bé bao giờ cũng vô tư, hồn nhiên, tưởng chừng như con nít, nhưng không đâu anh ạ! Gia đìng bé chẳng bao giờ hạnh phúc. Vì thế, bé cố sống như vậy để quên đi, nhưng không được. Thà như anh, không có bố mẹ còn hơn. Phần bé, tuy có, nhưng sao họ cứ xích mích với nhau hoài. Ðã nhiều lần bé định kể cho anh nghe nhưng chỉ sợ anh buồn. Hôm nay, họ nhất định buộc bé phải nghỉ học. Biết nói với anh sao bây giờ? Anh giận bé nhiều, anh có hiểu cho bé không? Chỉ còn đúng một tháng nữa là đến sinh nhật của anh và bé rồi. Anh nhớ mua một đóa hồng, cắm lên chỗ bé và anh thường ngồi ấy. Hy vọng ở nơi xa này, có một người đang nhớ nhiều về anh..."

Ðến đây tôi không thể đọc được nữa. Dòng nước mắt ở đâu trào ra, mặc dù tôi cố tình kìm lại. Tôi yêu bé! Tôi có thể tự thú với lòng mình là như vậy. Và nói thật, tôi đã mang ý nghĩ này từ lâu, nhưng nhìn thấy bé vô tư, tôi chưa thể nào thố lộ được. Giờ đây, bé của tôi đâu?... Tôi bừng tỉnh. Quá vãng ngày xưa vẫn còn đó. Hình ảnh cô bé tôi yêu vẫn còn đây. Và kia nữa, tiếng nhạc từ trong quán cà phê vang lên bài hát “Diễm xưa” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau...”


Hoàng Diễm Diễm

Hansy
28-08-2014, 04:34 PM
27

Di sản của nội

Huỳnh Mẫn Chi

Khu vườn đang um tùm, xanh tốt. Anh hai của Liễu đốn phá sạch trơn từ đời nào. Khu vườn chỉ còn là miếng đất trơ trọi. Khi đó, xung quanh, vườn tược của người khác vẫn xum xuê cây trái. Liễu bận rộn ôn thi đại học ngoài thị trấn mấy tháng. Vừa đặt chân về nhà, Liễu đã bật khóc gia sản ông nội để lại có bấy nhiêu đó, anh hai đốn phá làm gì. Anh hai của Liễu lại nằng nặc, anh cho mình hành động như vậy là đúng, sáng suốt. Thế là bỏ lỡ mấy nhánh cam ngoài nắng chang chang, anh hai Liễu đứng sừng sộ với em gái:
- Thời buổi bây giờ, người ta trồng bưởi Ấn Độ, quýt Trung Quốc, xoài Thái Lan, cam Mỹ… Chứ những thứ này để làm gì?

Liễu nhìn anh hai mình khá lâu. Cô bất mãn nên bỏ vào nhà. Liễu không thể ngờ khu vườn của ông nội ngày trước giờ chỉ là một khoảng đất trống, lam nham. Phá phách như vậy, anh hai của Liễu lại cho là nâng cấp vườn tược. Nhìn mấy nhánh cam sành le phe, yếu ớt như sợ nắng, sợ gió, Liễu chán ngán đến khổ sở. Cô không hiểu anh hai mình có ý định làm giàu kiểu gì. Hàng măng cụt trước ngõ, anh chặt đến sát gốc. Mấy cây mít Tố Nữ mọc ven sông, anh cũng không chừa. Anh tưởng mình giỏi giang lắm sao. Xứ sở này là của xoài cát Hòa Lộc nhưng chưa chắc, vườn nhà ai trồng nhiều bằng khu vườn nhà mình. Anh hai quên rồi sao. Ông nội đã trồng trọt cách đây hàng mấy chục năm làm sao anh biết, mà nhớ. Lúc ấy, anh em Liễu chắc gì đã có trên đời này. Chẳng lẽ như vậy, anh hai Liễu tàn sát chúng sạch sẽ, không một chút nương tay sao. Đã vậy, miệng anh hai Liễu lại cứ oang oang với cô em gái:
- Mày đi học làm gì chứ? Thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng không biết.

Liễu im lặng. Cô bươn bả lao ra hàng cam Mỹ vừa trồng một vài ngày. Tức tối, giận dữ, Liễu đưa tay nhổ hết nhánh cam lên rồi quay sang nhổ nhánh khác. Anh hai Liễu không hề can ngăn cô em gái. Anh lại nhìn cô em gái mĩm cười nhợt nhạt.
- Mày cứ nhổ, tao trồng lại mặc tao.

Liễu dừng tay. Ngoái đầu lại nhìn anh hai, cô bật khóc nghẹn ngào. Anh hai Liễu không nói lời nào. Nhặt từng nhánh cam mà Liễu vừa nhổ lên, anh trồng xuống đất trở lại. Liễu đứng bất động. Giọng nghèn nghẹn không nên lời, nước mắt tuôn ướt đẫm đôi má.

Bà nội Liễu mất sớm. Cha mẹ Liễu lại đông con. Cho nên, Liễu và anh Hai về sinh sống cùng với ông nội. Lúc ấy, anh em Liễu còn nhỏ lắm. Liễu chưa được mười tuổi đầu. Anh anh Liễu khoảng mười hai hay mười ba gì đó. Vậy mà sống với ông nội, Liễu và anh hai lại thích hơn ở với cha mẹ mình. Bởi vì, cha mẹ Liễu sống ở tận ngoài đồng. Còn ông bà nội Liễu, họ lại sống trong khu vườn cây cối ươm bông kết trái quanh năm, bốn mùa.

Cho nên, anh em Liễu cứ la cà ngoài vườn suốt ngày. Nhà cha mẹ Liễu lại ở giữa cánh đồng chơi vơi. Ngày này tháng nọ, anh em Liễu bước đến đâu cũng gặp ruộng, cũng gặp đồng. Chưa kể những lúc đồng khô cỏ cháy, anh em Liễu đặt chân bước đến đâu, đất nẻ vây theo đến đó. Những lúc anh em Liễu hớ hênh, chân lọt thỏm xuống đất nẻ, hai đứa chì đứa kéo cả buổi, bàn chân vẫn còn nằm im dưới khe đất nẻ. Vào mùa mưa, chân cẳng anh em Liễu bước đến đâu, bùn xình dính chèn nhẹt đến đó. Liễu cũng không nghĩ sống ở miệt vườn là thiếu mưa, ít thấy nắng.

Trời đất ở đâu mà chẳng có nắng, có mưa. Nhưng sống ở miệt vườn, Liễu vẫn thấy dễ chịu hơn. Vườn tược như đã làm giảm cái nắng, cái mưa. Trong khi đó, sống ở đồng, ở ruộng lại chan chát quanh năm. Sống ở vườn, Liễu còn được ăn trái này quả kia suốt ngày. Không những vậy, anh em Liễu còn leo trèo, phá tán triền miên. Anh Liễu hay lùng sục ngày cũng như đêm, ngoài vườn có tổ ong nào, anh ta đốt phá tổ nấy. Chim chóc làm tổ, đẻ chưa kịp nở, anh hai Liễu đã cho vào nồi luộc. Ông nội biết được. Ông gọi anh em Liễu đến rầy la. Liễu ấm ức lắm. Cũng may mỗi chuyện ấy, chứ ông nội Liễu ít khi nào la mắng anh em Liễu.

Ngược lại, ông nội hay nhắc nhở chuyện học. Anh em Liễu sống với ông nội, chuyện gì cũng thích. Mỗi chuyện học, anh em Liễu ngao ngán. Bởi vì mỗi khi gặp ông nội, ngoài vườn, trong nhà, trên mâm cơm, ông đều nhắc đi nhắc lại một chuyện, anh em Liễu phải học hành cho đàng hoàng. Anh em Liễu cũng gục gặc cho qua chuyện. Nhưng anh em Liễu vẫn chưa một lần dễ dàng trốn thoát. Mỗi lần ông nội nhắc một tiếng, anh em Liễu vừa bày tập vở ra. Ông nội đã ngồi chờ canh cho hai anh em học. Không những vậy, ông còn kiểm tra bài vở anh em Liễu rất gắt gao. Liễu trả bài phải thuộc làu làu. Anh hai làm bài tập phải đúng hoàn toàn rồi mới được đi chơi. Còn không, dù có khuya lơ khuya lắc đến đâu, ông nội vẫn ngồi canh hai anh em Liễu học.

Ông nội Liễu là một thầy giáo. Xóm làng ai cũng cảm phục ông. Người ta không những kính nể ông nội Liễu về chữ nghĩa, theo cái kiểu "tôn sư trọng đạo" mà còn tôn trọng ông những điều gì hay, nơi ông. Ông trồng mấy giàn trầu xanh tốt. Họ khen ông có tay canh tác. Bà mất, ông vẫn sống vậy. Họ lại khen ông khéo làm gà trống nuôi con rồi đến nuôi cháu. Ông dạy học. Cả xóm lại tôn ông là sư già của làng.

Mỗi chuyện cũ rích, họ cứ nhắc mãi như thuộc về huyền thoại. Chuyện là trong thời kỳ giặc Pháp đô hộ. Ông nội Liễu đang là thầy giáo hẳn hoi, bỗng dưng, ông xí xô xí xào mấy tiếng với bọn lính Tây. Ngày hôm sau, đầu làng cuối xóm nhìn ông nội Liễu bằng ánh mắt ngưỡng mộ. Bởi hôm đó, ông đang trên đường ra ấp dạy. Vừa đến đầu ấp, bọn Tây năm bảy thằng, chúng đang đi lùng, khủng bố dân lành. Ông nội Liễu như đoán trước, ông giơ tay chào chúng. Chúng nhìn ông bất ngờ. Nói qua nói lại mấy câu, chúng kéo nhau về. Và kể từ hôm đó, ông nội Liễu trở thành thông dịch viên cho xóm làng một cách bất đắc dĩ. Không những vậy, làng này xóm kia, mỗi khi gặp ông nội Liễu, họ hay kêu réo ông dạy cho vài tiếng Tây. Ông nội Liễu không từ chối. Ông đọc trước, họ đọc theo sau. Vậy mà mỗi khi Tây xuất hiện, những người đó cứ ra đứng lấp ló. Một vài người nói tiếng Tây ba trầy ba trật mà vừa gặp Tây, họ vẫn nói rân trời tối đất. Nhiều thằng Tây tốt bụng, nó lắng nghe một lúc, nhíu mày nhăn nhó rồi dừng lại luyện giọng cho mấy người đó. Nhờ vậy, xóm làng ông nội Liễu sinh sống thời đó, ít người bị bọn Tây bắt bớ vô cớ.

Đêm hôm đó, mười phút nữa là đến giờ giao thừa. Thế nhưng, Liễu chẳng thấy gì gọi là không khí của ngày Tết. Mặc dù nhà nội Liễu, họ hàng lối xóm cứ ra vào rất đông. Lẽ ra những ngày cận Tết, nhà mình có người thăm viếng nhiều vậy. Liễu phải vui, vì đây là chuyện hiếm thấy. Nhưng Liễu lại có linh cảm không mấy tốt lành. Đã vậy, loài quỷ quái chim Cú ăn đêm cứ bay là đà ở nhà nội Liễu, kêu thất thanh. Mọi người trong nhà nội đang nhỏ to bàn tính chuyện gì đó. Họ nhìn nhau hốt hoảng. Người nào người nấy đều tỏ thái độ lo lắng. Liễu nhìn mọi người khó hiểu. Cô dỏng tai nghe tiếng chim, mỗi lúc một gần.

Bất ngờ, Liễu nghe tiếng kêu ấy xuất hiện ngay trên nóc nhà. Tiếng kêu Cú! Cú! Cú… vẳng ra rợn người. Mọi người trong nhà lặng thinh. Một vài tiếng thở dài, buồn bã. Ông nội Liễu nằm thở khó nhọc, mắt hướng về anh em Liễu, trông đợi. Anh em Liễu vội vã tiến đến cạnh ông nội. Nhìn ông, Liễu rưng rưng nước mắt. Ông gầy gò đi quá nhiều. Nằm sát chiếu sát giường, mắt sâu tròng, mặt mày hom hem hẳn đi. Liễu đang nhìn ông nội chăm chú. Bỗng dưng, mọi người vây lấy ông, sợ hãi. Ông vẫn nhìn anh em Liễu như muốn nói điều gì, nhưng rất khó khăn. Da dẻ ông nhạt dần, nhạt dần đến tím ngắt, mắt như đứng tròng, ông thều thào:
- Thằng Lợi cố mà gìn giữ mảnh vườn này để chút hoa lợi, lo chuyện học hành. Con Liễu thì cái rương sách của ông đó…

Ai nấy đều nghẹn ngào. Họ bảo ông nội Liễu đã ra đi lúc anh em Liễu đến ngồi bên cạnh. Thật ra, lời trăn trối ấy là của vong hồn, chứ thể xác đã chết từ lâu. Vì vậy, anh em Liễu phải nhớ lời của ông. Liễu bật khóc. Người ta kéo anh em Liễu sang một bên. Họ buộc hai ngón chân cái ông lại. Liễu chưa kịp nhìn mặt ông nội lần cuối, họ đã đắp kín mặt ông nội bằng chiếc mùi xoa trắng tinh, như bông.

Năm đó, Liễu mới bước sang lớp chín. Anh hai Liễu thì đã học đến lớp mười hai. Và từ hôm đó, anh em Liễu vẫn sinh sống trong căn nhà của nội. Cha mẹ Liễu thỉnh thoảng vẫn tới lui căn nhà ấy. Nhưng chỉ để nhắc nhở, sai bảo, mỗi khi cần đến anh em Liễu. Không phải không thương con, cha mẹ nào chẳng thương con mến cái. Có lẽ, cha mẹ Liễu ít gần gũi với con cái lâu ngày trở thành thói quen. Và cứ thế, mạnh ai nấy sống, chuyện ai nấy làm. Cha mẹ Liễu lo chuyện đồng áng. Anh em Liễu lo chuyện vườn tược, học hành. Dần dà về sau, anh em Liễu trưởng thành. Tình cảm đối với cha mẹ, anh em Liễu luôn luôn thấy là trống vắng.

Liễu học xong năm thứ ba đại học. Một hôm cô về thăm nhà, từ xa, Liễu thấy mọi người vây kín lấy căn nhà mình. Liễu vội vã chạy vào. Ngôi nhà cô từng sinh sống đã biến dạng. Mái ngói đã được xếp ngay hàng thẳng tắp ở lối ra vào nhà. Liễu đứng lớ ngớ. Cô nhìn căn nhà trống trơ, chỉ còn cái sườn trơ trọi dưới nắng, nước mắt chưa chan. Liễu loay hoay, dáo dác nhìn mọi người. Cô dõi mắt tìm kiếm anh Hai. Một tiếng ầm vang lên long trời lở đất. Liễu gần như muốn ngất cùng với căn nhà ngói ba gian đã sập mẹp nhúm, nằm ngổn ngang dưới đất. Vậy mà, tiếng vỗ tay, tiếng cười nói, tiếng vui mừng… lại vang lên rầm rộ. Liễu bật khóc. Cô khóc nức nở như chưa bao giờ được khóc. Con gái mười tám hai mươi tuổi đầu, Liễu khóc như trẻ con. Cô ngồi chèm bẹp xuống đất, giọng cứ gào cứ thét. Nội ơi! Nội hỡi! Anh hai Liễu đang lui cui dọn đống cây vụn, thấy vậy, liền bật dậy chạy đến bên Liễu, giọng hằn học:
- Tao xây nhà mới. Chưa gì, mày về đây tru tréo, định trù ẻo tao hả?

Liễu vẫn khóc. Không những khóc, cô còn gào to hơn nữa. Những người đang phụ anh hai Liễu giở nhà. Họ nhìn Liễu khó hiểu. Anh hai Liễu tức tối đến tím mặt bầm môi. Với sức khỏe như anh hai Liễu, cộng với cái bực tức này, chỉ một phát là Liễu tắt thở ngay. Chuyện xây nhà sửa cửa, đàn bà con gái giúp được gì mà về đây, la với lối. Nhưng anh hai Liễu còn kịp nghĩ, em mình là phận gái. Chứ mà vai u thịt bắp, anh ta đã hơn thua nó từ lâu rồi. Cho nên, anh hai Liễu cứ đi tới đi lui, bứt đầu bứt cổ. Cuối cùng, anh hai nhìn mọi người hô hoán lên:
- Cái rương! Cái rương của nó đâu…

Liễu đang khóc rỉ rả. Mọi người nhắc đến cái rương, cô giật mình đứng lên. Nét mặt hớt hãi, Liễu đi tìm cái rương. Bốn năm năm rồi, từ khi ông nội mất đến giờ, Liễu chưa một lần mở ra xem. Liễu muốn nhìn thấy vật gì trong đó. Những gì của ông nội để lại mong muốn mọi người phải giữ gìn. Chẳng mấy chốc, mọi người khiêng cái rương gỗ cũ kỹ đã bị mối mọt gặm đến đặt trước mặt Liễu. Anh anh Liễu tươi cười:
- Tao biết lắm mà! Vàng bạc châu báu gì đó, mày cứ cất đi.

Ngồi bên gia sản ông nội để lại, chiếc rương gỗ như đã mọc đầy nấm đầy mốc. Liễu không để ý đến anh hai. Cô muốn quên tất cả. Chuyện anh hai phá bỏ căn nhà mà ông nội từng gầy dựng, để xây nhà mới, Liễu cũng không muốn nghĩ ngợi nữa. Liễu chỉ bất ngờ khi mở rương ra. Chiếc rương này đối với Liễu, nó đã là vô giá. Nó giá trị hơn cả căn nhà mới, anh hai đang xây. Dù chiếc rương không chứa vàng bạc, nhưng nó lại chứa đầy sách vở. Quyển sách nào cũng dày cộm, to tướng. Bụi bặm bám đầy, sách lẫn vở, quyển nào quyển nấy vẫn còn mới tinh. Riêng những quyển sổ tay, những quyển tập ghi chép bằng bút mực, vẫn còn đậm nét. Liễu xem thoáng qua. Cô sắp xếp chúng lại, bỏ vào rương ngăn nắp, rồi khệ nệ mang đi.

Quay lại thành phố, vừa học, Liễu vừa đọc sách, đọc nhật ký của ông nội in trên từng trang giấy. Từng nét chữ của ông nội để lại, Liễu đọc đến đâu lòng dạ đau xé đến đó. Những ngày tháng sống với ông nội Liễu đã bắt gặp. Nó vẫn nằm trong những trang nhật ký của ông. Cô như được sống những ngày có ông nội bên cạnh.

Hình ảnh ông Hai hiên ngang hiện lên trên từng trang nhật ký của ông. Liễu say sưa đọc. Cô như đắm chìm vào những chiến công oanh liệt của ông Hai. Đọc đến đoạn ông Hai chỉ huy đánh thắng trận cây Bàng, Liễu thét lên vì mừng, vì sung sướng. Liễu thấy ông Hai sao mà hùng dũng, sừng sững và lồng lộng trước giặc ngoại xâm đến thế.

Ông Hai như thế nào, Liễu không hình dung được. Liễu chỉ biết ông Hai là anh ruột của ông nội. Bà cố sinh chỉ hai người con: ông Hai và ông nội. Ông Hai tham gia kháng chiến rất sớm. Ngay từ bé, ông Hai đã vào chiến khu với công việc của một cậu bé giao liên, rải truyền đơn… Khi trưởng thành, ông Hai đã tham gia chỉ huy đánh nhiều trận lớn ở xã. Tất nhiên, ông Hai chỉ huy trận nào là thắng trận nấy. Theo ông nội kể, ông Hai rất có tài. Ông Hai biết làm thơ, viết nhạc và hát rất hay… Nói chung, những năng khiếu ấy của ông Hai cũng đủ tác động và kêu gọi tinh thần yêu nước của người dân trong làng.

Đọc xong quyển nhật ký này, Liễu đọc đến quyển nhật ký khác. Quyển nào nhật ký của nội Liễu cũng thấy hình ảnh ông Hai trong đó. Ngay cả, khi đọc đến quyển tập học trò, Liễu mới thấy ông nội viết rất rõ, rất chi tiết về ông Hai. Liễu lại xúc động. Một quyển nhật ký mà trước đây, Liễu không muốn đọc, do nó đã nhàu nát. Khi đã đọc, mắt Liễu lại cay xé. Những giọt nước mắt long lanh, nó như đã làm lờ mờ câu chữ. Đọc đến đâu, Liễu đều có cảm giác ông nội cô đã hiện về. Ông kể cho Liễu nghe những câu chuyện của thời chiến tranh. Bởi vì, ông nội Liễu viết về ông Hai rất hay. Những câu chuyện dí dỏm đến ngộ nghĩnh, chất chứa bao tình cảm, bao nỗi buồn. Đặc biệt nỗi lòng của ông đối với ông Hai.

Ông kể về tuổi thơ của đời mình. Những tháng ngày cơ cực của một cậu học trò hiếu học. Thời ông nội Liễu đi học, làm gì có trường lớp ở xã ở huyện, may là một vài lớp dạy biết đọc chữ, biết viết chữ trong các ngôi đình của làng. Còn muốn học cao hơn nữa, thời đó trường của Tây ở tận ngoài tỉnh. Thế là vì mê học, ông Liễu ra tỉnh học cùng với con cháu của Tây. Trong khi đó, gia đình rất nghèo. Trường học lại xa xôi, cách nhà đến mười lăm mười bảy cây số đường đồng, lẫn đường rừng. Người giàu đi học bằng xe ngựa. Họ trò nghèo như ông nội Liễu phải đi bộ quanh năm, suốt tháng. Vậy mà, ông nội Liễu lại đi bộ rất khỏe. Bốn giờ sáng, ông đã khởi hành. Bảy giờ tối, ông mới về đến nhà. Một vài người trong xóm nhìn ông nội Liễu ngạc nhiên. Họ chặn đường ông nội Liễu lại, nói lằng nhằng.

Ông nội Liễu nghe xong, thản nhiên bỏ đi. Mặc kệ, ông nội Liễu là vậy, ai nói gì cứ nói. Ông nội Liễu vẫn đi học đều đều. Nhưng có ngày, ông nội Liễu đi học lại về rất sớm, chòm xóm nhìn ông lại thắc mắc. Ông nội Liễu không giải thích. Bởi vì những ngày đó, ông nội Liễu có đi bộ đâu mà về trễ. Xe ngựa của mấy người bạn chạy đằng trước.
Ông nội Liễu cắm đầu cắm cổ chạy đua theo ngựa đằng sau. Chạy mãi nên ghiền, ông thấy như đã thành thói quen. Cho nên, mỗi khi tan trường, ông nội Liễu thường xuyên chạy bộ về nhà nhiều hơn là đi bộ.

Thế nhưng cuộc sống, công việc, mọi thứ đâu như mình tưởng. Ông nội Liễu cũng vậy. Ngon trớn được một thời gian, ông cứ ngỡ mình chạy đua với ngựa suôn sẻ, năm này sang tháng nọ. Có ngờ đâu, một hôm ông đang cặm cụi chạy theo con ngựa cứ lao lộc cộc về phía trước. Bỗng nhiên, con ngựa nổi chứng. Nó dừng lại bất tử. Ông té nhào vào xe, mình mẩy trầy sướt, máu chảy ướt linh láng áo quần. Những lần té nặng, đám bạn chở ông vào nhà thương. Đôi lúc, ông phải nằm trong nhà thương điều trị mấy ngày vết thương mới lành. Nhưng chứng nào tật nấy, quắt quảy mấy ngày, ông nội Liễu lại chạy đua tiếp với ngựa. Dù gì có kinh nghiệm vẫn hơn, ông nội Liễu té đến độ lã hết hai đầu gối, còn gì phải sợ. Nhưng ông vẫn té, vẫn vào nhà thương chữa trị và vẫn chạy đua với ngựa. Cho đến một ngày, ông thành thầy giáo.

Đọc đến đoạn nhật ký này, Liễu đã nhìn nhận nguyên nhân vì sao ông nội mình có nghị lực như vậy, đó là khí phách từ ông Hai. Bởi vì, từ những dòng đầu tiên cho đến trang cuối cùng trong nhật ký, ông nội Liễu luôn nhắc đến ông Hai. Liễu có cảm giác là tính cách, số phận, con người của ông Hai như đã thấm sâu vào lòng ông nội, qua nỗi căm thù giặc. Vì không chỉ ghi chép lại những chiến công hào hùng, nghĩa khí gan dạ, bất khuất kiên trung của anh mình, ông nội Liễu còn ghi chép lại những vần thơ réo rắt tận tâm can người đọc của ông Hai. Liễu lầm bầm. Cô cố gắng thuộc ngay những bài của ông Hai. Liễu như tự trách mình, ông Hai có nhiều bài thơ hay như thế này. Vậy mà trước đây, cô không hề hay biết.

Liễu đem câu chuyện này kể cho anh hai nghe. Anh hai Liễu cứ dõi mắt nhìn vườn cam. Liễu hiểu anh hai cũng đang tâm trạng như mình. Cô cứ say sưa kể lể, rủ rỉ. Kể xong quyển nhật ký mà ông nội đã viết về ông Hai, Liễu quay sang anh hai:
- Anh hai thấy ông nội mình hay chưa? Viết nhật ký như viết truyện lịch sử vậy?

Anh hai Liễu, mắt vẫn không rời khỏi vườn cam, miệng tươi cười:
- Tao chính là con cháu nội của ông Hai và của ông nội. Khu vườn tạp ngày nào, tao đã biến thành khu vườn "công nghiệp" đầy giá trị rồi.

Liễu ngẩng mặt nhìn ra khu vườn, mỉm cười. Khu vườn cằn cỗi ngày nào, Liễu không ngờ, anh hai đã chăm chút và biến chúng trở thành nguồn kinh tế hàng tỉ bạc.

Từ đó, Liễu thường đem những câu chuyện trong nhật ký của nội kể anh hai nghe. Câu chuyện nào cũng gắn liền với hình ảnh ông Hai trong chiến tranh. Về sau, anh hai Liễu thường thấy cô em gái ngồi đâu, cặm cụi ghi chép đó. Tất cả nhật ký ông nội để lại trong rương, Liễu chép nắn nót đưa vào quyển nhật ký mới. Thỉnh thoảng, Liễu đem ra đọc. Liễu đọc tới đọc lui đến thuộc lòng. Cô đã nắm rõ từng câu văn, dấu chấm, dấu phẩy trong mỗi trang nhật ký của ông nội.

Giờ đây, Liễu đã trở thành một nhà văn, khá tên tuổi. Người đời hay khen Liễu giỏi giang, tài hoa. Độc giả thường xuyên gửi thư đến chia sẻ, cổ vũ. Bạn bè mỗi lúc một đông, một nhiều. Vậy mà, Liễu vẫn cứ ngậm ngùi mỗi khi nhớ đến ông nội. Liễu nghĩ. Những người đó, họ làm sao hiểu được. Truyện ngắn đầu tiên, tác phẩm đầu tay, danh tiếng hôm nay… Tất cả những thứ ấy, Liễu có được là nhờ từ trang nhật ký của ông nội.

Và bây giờ, Liễu đã hiểu. Ông nội mất đi. Tài sản ông để lại cho hai đứa cháu qua nhịp thở cuối cùng, như một lời trăn trối. Vì sao, anh hai Liễu được thừa hưởng mảnh vườn, cây trái đang xum xuê, trĩu nặng. Liễu lại là chiếc rương gỗ mục nát, nhưng trong đó lại chất chứa hàng ngàn dòng nhật ký về cha ông ta một thời đã giữ nước và bảo vệ đất nước…


Huỳnh Mẫn Chi

Hansy
30-08-2014, 12:27 AM
28

Dở Chứng

Nguyễn Thế Hoàng

Ông Cần đã góa vợ năm năm. Nay thì ông cũng đã thất thập cổ lai hy. Lứa tuổi xế bóng của ông nếu ở Việt Nam đã chống gậy nhìn cuộc đời sắp kết thúc trong chuỗi dài nuối tiếc quá khứ. Nhưng ở xứ này đời sống vật chất có dư thừa nên nom ông còn quắc thước lắm. Dáng ông dong dỏng cao, da dẻ có chút hồng hào, có điều dáng đi của ông mất vẻ khoan thai, đôi lúc bước chân như lún xuống khập khễnh bởi xương cốt trễ biếng mệt mỏi.

Ông Cần cố gắng tập thể dục sáng chiều, chịu khó sửa dáng đi cách đứng cố níu kéo lại chút nào như thời son trẻ. Hàm răng thưa thớt chiếc rụng chiếc long ra không được thẩm mỹ cho lắm, khổ sở cho việc nhai thức ăn trệu trạo. Ông Cần đến nha sĩ lắp ráp bộ răng xương đều đặn nõn nà. Nhờ bộ răng ngà ngọc khiến nụ cười tuổi già héo hắt có thêm chút duyên già, ăn uống ngon lành trơn tru. Lởm chởm vài chòm tóc mây lưa thưa mong manh trên da đầu bóng lưỡng , ông Cần thấy chướng mắt, lặn lội tìm thuốc mọc tóc rị mọ xoa xoa nắn nắn đêm ngày không nản chí.

Ông Cần tốn công tìm tòi, thăm dò tìm mua nhiều loại dược thảo ngâm rượu đầy ắp chục hũ xếp hàng trong tủ chè. Sáng chiều ông siêng năng uống, cùng với những viên dược thảo, sâm nhung, tam tinh hải cẩu bổ thận hoàn, lọc nhung tinh, mật gấu, thuốc sáng mắt, sáng tai, thuốc đen tóc...cho da dẻ hồng hào thêm, ăn ngon ngủ ngon, bồi bổ gân cốt, phục hồi sinh lực, cải lão hoàn đồng...Ðâu chừng thời gian ông Cần như đang trên đà hồi xuân. Mà thật, ông Cần cảm thấy mình như hồi xuân thật đãy !

Lúc nào tâm hồn ông cũng phơi phới, gặp ai ông cũng muốn gần gũi trò chuyện râm ran, yêu đời, yêu thiên nhiên cây cỏ, yêu cảnh vật quanh mình, yêu giấc ngủ nồng nàn đầy mộng đẹp...yêụ.và yêụ..để cuộc đời đâu còn xế bóng. Ông được mọi người khen tuổi già của ông đang "lột xác". Bạn bè đồng niên đồng tuế nhìn ông thèm muốn như ông. Những bà sồn sồn gặp ông ưa trêu chọc, cười duyên híp mắt, đấu hót vài câu bâng quơ. Cả lũ cháu ngoại của ông cứ xuýt xoa khi thấy ông, đứa nhỏ bá cổ bá vai, đứa lớn thì thầm khen ngoại lúc này đang độ hồi xuân trông đẹp lão lắm.

Từ ngày định cư ở xứ này, vợ ông, người đàn bà đảm đang tháo vát miệt mài cùng ông tạo nên cơ nghiệp. Ông bà tạo được ba ngôi nhà, trong đó hai ngôi đã trả dứt nợ, đang cho thuê. Một tiệm sách báo, băng nhạc, tranh ảnh, dụng cụ âm nhạc khá lớn, lợi tức hằng tháng vào cũng đậm. Hai ông bà sống đầy đủ thoải mái bằng lợi tức tiền cho thuê nhà, tiệm sách báo hằng tháng vẫn còn dư ra gởi vào ngân hàng cho đến nay cũng đã được đôi trăm ngàn.

Hai ông bà Cần sinh hạ ba người con. Hai cô con gái đem từ Việt Nam sang đã lập gia đình, có cơ sở làm ăn vững vàng với một lũ cháu ngoại hiền lành chăm học. Cháu ngoại lớn nhất cũng đã mười tám, nhỏ nhất cũng lên ba. Nay mai rồi ông cũng được lên chức Cố như bao nhiêu bạn bè cùng lứa. Thằng con trai duy nhất của ông nay đã hăm lăm, yên bề gia thất. Sau khi bà vợ qua đời, ông giao vợ chồng thằng con trai coi ngó tiệm sách báo dưới sự kiểm soát của ông hằng ngày. Tiền bạc mua vô bán ra ông Cần quản lý chặt chẽ. Ông trả lương tháng cho con trai con dâu theo qui chế công nhân. Ông lại còn giúp vợ chồng nó có nhà riêng đâu ra đó.

Hằng ngày rảnh rỗi ông lái xe loanh quanh trong thành phố. Ðôi lúc tạt qua tiệm sách báo coi trong ngó ngoài, kiểm tra công việc. Năm khi mười họa ông ghé vào hai ngôi nhà đang cho thuê xem xét, hỏi han người chủ thuê đôi câu xã giao lấy lệ. Còn lại thì giờ ông quanh quẩn với mấy bạn già xế bóng vô công rỗi nghề đàn đúm tán dóc ở mấy quán cà phê qua điếu thuốc lá phì phèo, lâng lâng nụ cưòi lão giả an chi, xem đời như giấc kê vàng đã chín.

Cuộc vui còn tiếp diễn bên ly rượu đĩa mồi tại nhà hàng tửu quán chiếm gần trọn thì giờ nhàn hạ của ông với nhiều người, già có, trẻ có. Chuyện trên ngàn dưới biển lia thia. Chuyện từ Ðông sang Tây không bỏ sót một mảy may nào. Nhưng lý thú và hấp dẫn nhất thường ngày là chuyện đàn ông con trai kể cả những vị tuổi hạc gần đất xa trời, da mồi tóc bạc, tay chân run rẩy, mắt mờ răng sún đã và đang về Việt Nam cưới vợ. Ông Cần nghe ngóng từ nhiều phía, bàn bạc, góp ý, hỏi han thật hấp dẫn, xôm tụ.

Chính là một vấn đề thời sự nóng bỏng, sôi động đã và đang xảy ra bao nhiêu năm nay ở cái cộng động người Việt da vàng mủi tẹt. Nghe nhiều từ mọi nơi, nhập tâm, đã đánh động lòng ham muốn thèm khát của ông Cần. Thử bước thêm bước nữa có chết chóc gì ai, chứ tội gì phải chịu cảnh cô đơn chiếc bóng trong ngôi nhà lạnh lẽo từng đêm. Chả có gì là khó khăn, nhiêu khê, có tiền thì mộng ắt thành. Ông còn đủ sức phiêu lưu mà, chứ không phải như mấy lão già cọm rọm khi nghe ông hạ quyết tâm hành sự lại cười biếm nhẻ ông cho là ông thuộc loại già dịch, già mất nết, già bất lực, già dệ..hết xí quách rồi mà còn ham.

Ông Cần oang oang trả đủa bốp chát :
- Ai giỏi cùng tôi đọ sức nè. Gừng này càng già càng cay quắn khói. Bảy mươi có của cũng vừa mười lăm mà lị. Mai mốt tôi mang về một thục nữ yểu điệu đào tơ thì mấy ông đừng có chép miệng thòm thèm đó nhen.

Một ông bạn già trong bọn cười ồ, chọc :
- Nè, già Cần, mấy mụ già trầu tèm hem đang chờ ông đưa võng lọng về rước...làm đám ma đó ông Cần, chứ gái tơ, sồn sồn thấy ông là thưa bác, thưa ông thì còn làm ăn cái nổi gì.

Ông Cần càng hênh hoang không kém :
- Ðây này... cái mác Việt kiều ! lá bùa hộ mệnh xanh xanh ! bao nhiêu cũng lọt được hết. Cần này sẽ rước sang đây một em nõn nường tuổi vừa đôi chín xinh xinh như mộng...bảo đảm trăm phần trăm ăn chắc.

Dứt lời, ông cười hì hì khoái chí thao thao thuyết giảng cho đám bạn già đang nghểnh cổ ngóng nghe :
- Từ ngày bà má bầy nhỏ mất, nghe được chuyện này, tôi cũng đã nghĩ kỹ rồi. Thà cưới một cô trẻ đẹp nõn nà ở Việt Nam qua, dễ dạy, dễ sai khiến, còn dễ bắt nạt ăn hiếp, dễ làm tình làm tội, nó còn chiều chuộng hầu hạ hết mình, lại gái tơ thơm phức, ngon lành. Còn đàn bà ở đây hả ? thì như mấy cụ cũng biết, quả là ăn hiếp bắt nạt lên mặt hà rầm với chồng ghê gớm. Ðâu có dễ gì khơi khơi cưới mấy bả được. Chằn ăn trăng quấn lắm các cụ ơi ! Phải có nhà nè, có xe xịn nè, tiền bạc đầy ắp trong ngân hàng họ mới chịu. Tôi hãi sợ tính kiêu kỳ hách dịch, vòi vĩnh, đua đòi, treo cao giá ngọc lên chín tầng mây của họ đó mấy ông ơi ! Thôi thì cho họ ế suốt đời nằm queo, rong rêu phủ kín là vừa. Ai biểu ?

Một ông bạn già mắt mủi hom hem lên tiếng phản đối :
- Già Cần nói tầm bậy. Người ta lấy nhau ào ào ông không thấy sao ? Nồi nào vung nấy. Tại cái vung của ông chụp không vừa, còn than thở cái nỗi gì. Ở đây chưa ai thấy cái nạn trai thiếu gái thừa. Trai thừa thì có. Nên mới xảy ra cái tệ nạn đàn ông con trai kể cả mấy lão tuổi hạc xế bóng hoàng hôn đang sắp hàng rồng rắn võng lọng nghênh ngang tiến mạnh về hướng Việt Nam rước nàng thục nữ về dinh hú hí. Thật là ngon ơ !

Nghe ông bạn già lẩm cẩm nào đó vừa mới nói chắc giọng, ông Cần như thấm ý quá chừng, miệng cười toe toét phô bộ răng xương vừa mới cấy cho bàng dân thiên hạ chiêm ngưỡng :
- Này này ông bạn già ơi, điều đó mới là thể hiện tấm lòng bác ái, xả thân cứu giúp. Bao nhiêu trăm ngàn đàn bà con gái Việt Nam mới tuổi mười bốn mười lăm trở lên bị bán đi làm đĩ, đi làm cô dâu nô lệ tình dục ở xứ người để cho bọn đàn ông xứ Ðài, xứ Hàn, xứ Ma, Hồng Kông, Căm Bốt...gì đó, dày xéo nhớp nhơ bao tấm thân ngọc ngà trinh tiết...thật uổng thiệt, ông lại không biết. Mình làm ơn làm phước cứu giúp được người nào hay người đó. Tôi cũng đang là một thành viên đây. Có ông bạn già nào nữa làm kẻ đồng hành không ?

Cả bọn ngồi ngóng mặt nghe vỗ tay rôm rốp, tán thưởng cho cái mắc dịch dở chứng của ông già Cần độ tuổi thất thập hiếm hoi. Họ nhao nhao giễu cợt ông là loại già mất nết sắp chui xuống lỗ mà còn ham. Ông Cần không giận còn vui miệng bảo rằng còn sống còn thở là còn yêu, yêu cho đến giây cuối cùng chun vô hòm mới goodbye my love. Có ai cấm mình yêu đâu. Già thì già chân tay, già mặt già mày nhưng quả tim thì vẫn phơi phới xuân tình mấy ông ạ.

Ông Cần nói sao có đó. Ông mất hai đêm bóp trán thảo lá thư dài mùi mẫn, kể rõ sự tình, nỗi cô đơn góa bụa để gởi cho một người bạn già đồng niên tuế thân thiết cùng đơn vị ngày xưa đang ở Việt Nam tìm giùm mối hàng. Thư gởi đi ít ngày, ông ra dịch vụ chuyển tiền một ngàn mỹ kim làm quà ông bạn, và hứa hậu tạ bạn hiền khi công việc kết thúc.

Ông chờ đợi từng ngày kết quả lá thư gởi đi và hơn tháng sau ông mới nhận được tin vui. Thư người bạn báo đã tìm được đóa hoa hàm tiếu nõn nà. Nàng tên Hoa, vừa tròn mười chín xuân xanh phơi phới, nhan sắc óng ả như ánh trăng rằm. Dân miệt vườn miền Tây Nam bộ. Nhà nghèo lắm nên mới chỉ học đến lớp chín, nàng phải ở nhà phụ giúp cha mẹ công việc trong nhà. Ăn không ngồi rồi trong lúc cha mẹ đầu tắt mặt tối kiếm cái ăn cái mặc, nàng nảy sinh muốn lấy chồng xứ Ðài cứu gia đình thoát cảnh nghèo đói và được cha mẹ chấp thuận ý định.

Người bạn già viết tiếp. Ông được người quen mách bảo ông tìm đến nhà Hoa, sau khi kể lể ý định cùng gia cảnh của bạn cho họ nghe, Hoa và cha mẹ nàng vui mừng chấp thuận ngay cuộc hôn nhân, miễn sao ông con rễ thương vợ và giúp đở gia đình thoát cảnh nghèo đói là được rồi. Ông già vợ tương lai hối thúc ông con rễ tiến hành việc cưới xin càng sớm càng tốt. Nếu chậm ông ta sẽ gả con gái mình cho Ðại Hàn cũng đang có người đến mai mối.

Thư viết tiếp báo cho ông Cần là còn rất nhiều mối ngon hấp dẫn vô cùng tuổi mới tròn trăng hơ hớ dậy thì. Ðề nghị ông có ai giới thiệu nhiều nhiều dẫn về Việt Nam cùng chuyến để rước các nàng về bên đãy mà hú hí tuổi già. Chậm chân là tụi Hàn, Ðài, Nhật, Hón Kón...chúng nó bợ hết uổng lắm.

Ông Cần đọc đi đọc lại lá thư nhiều lần lòng mừng khấp khởi. Thế là bao nhiêu thục nữ Việt Nam đang ngóng chờ lấy chồng ngoại được sung sướng cuộc đời. Lòng ông đang trẻ lại như tuổi xuân được yêu. Tim ông rộn ràng thúc giục phải nhanh tay nhanh chân. Ðời còn bao lăm mà chần chờ uổng phí, mau hưởng thụ, không thì chết đi lại tiếc hùi hụi. Ông Cần mơ mơ màng màng hình dung cô vợ trẻ đẹp tương lai của mình. Hoa ơi ! nàng ơi ! nàng kiều nữ xinh đẹp bé nhỏ của ta ơi ! Anh quyết sẽ rước em về ngự trị trong ngôi nhà hạnh phúc của chúng ta tràn ngập màu hồng.

Trong đám bạn già ông biết còn số các cụ cũng thèm của lạ, cũng thấp thỏm mơ về Việt Nam cưới vợ trẻ đẹp cùng giấc mơ như ông. Nếu ông vận động thì khối cụ tháp tùng cùng ông về cùng chuyến. Nhưng, thì giờ quá gấp, rũ rê bàn tính các cụ kéo sẽ dài thời gian lỡ mất cơ hội nghìn vàng. Ông Cần âm thầm đi một mình sau khi thu xếp công việc.

Về tới Saigon ông Cần tìm ngay đến người bạn mai mối ở tận ngã 4 Bình Hoà. Lâu ngày hai bạn già gặp nhau, ôm nhau mừng rỡ. Ông thúc bạn ông là ông Hàn ngày mai đi gặp cha mẹ vợ tương lai ngay, xem mặt cô vợ trẻ. Ðêm đến, hai lão già gân khề khà tâm đắc bên mâm rượu thịt, chuyện trò râm ran kéo đến quá khuya.

Sáng hôm sau ông Cần thuê xe 7 chỗ ngồi cùng vợ chồng ông Hàn trực chỉ Mỹ Tho đến Chợ Gạo, tiếp tục đi sâu vào vùng quê Thanh Bình. Gần trưa, xe ngừng trước ngôi nhà tôn vách đất. Thấy có khách lạ đi xe hơi đến, vợ chồng chủ nhà bỡ ngỡ, nhưng khi nhìn thấy vợ chồng ông Hàn họ đoán biết ngay sự việc. Mọi người chào nhau vài câu xã giao trong lúc ông Cần đang sửa lại áo quần cho tươm tất. Hôm nay ông lên bộ veston màu than tím, cà vạt thẳng nếp, đi giày bóng, tóc tai cũng đã mọc thêm lún phún vài sợi chải ép ra sau, nét mặt núng nính vui, cúi đầu chào vợ chồng chủ nhà trông ông rất đởm dáng.

Chủ khách vào nhà an tọa trên những chiếc ghế mộc tróc sơn, chiếc bàn gỗ trầy vết loang lổ. Ông Hàn lên tiếng giới thiệu :
- Chú thím tư Ngàn, đây là anh Cần, đại thương gia từ Mỹ vừa về hôm qua. Hôm nay đến ra mắt chú thím để bàn chuyện hôn nhân của anh Cần đây xin cưới cháu Hoa con gái chú thím như tôi đã có lời với chú thím tháng trước.

Lời giới thiệu của ông Hàn như rơi vào thinh không nào ai có chú ý vì cả ba người đang lung túng trong suy nghĩ về cách xưng hô. Ðối với chú thím tư Ngàn nay chỉ mới trên bốn lăm, còn vị khách trước mặt, chàng rễ tương lai của gia đình xấp xỉ bảy mươi tròn. Loay hoay vài giây, nhìn nhau ngượng nghịu không biết phải xưng hô sao đây. Ông Cần nghĩ có nên xưng con, hay tôi với cha mẹ Hoa.

Cuối cùng bởi con tim mù quáng thúc giục, ông thưa :
- Dạ...thưạ..thưạ..anh chị Tự..đường xá xa xôi vạn dậm, công ăn việc làm, lần về lần khó...cuộc sống bận rộn cu ky một mình. Hôm nay được anh chị Hàn giới thiệu... tôi đến xin cầu hôn với em Hoạ..làm vợ. Anh chị Tư chấp nhận và miễn thứ cho những sơ sót cũng như lễ lộc...cần gì, anh chị cứ nói để...tôi lo.

Ông Cần cố gắng chỉ nói được chừng ấy. Nói mà ngượng mồm thấy mồ. Mồ hôi rịn hai bên thái dương, trống ngực xập xình, quá ư là ngưọng ngùng, không còn tự nhiên trước mặt cha mẹ vợ chỉ bằng tuổị..con gái mình. Ông Cần đâu phải dân nhút nhát. Ông đã bao lần vào sinh ra tử trước bom đạn kẻ thù. Ông đã từng va chạm bao cú ''sốc'' trong cuộc sống. Ông đã từng là xui gia đàng trai, rồi đàng gái hênh hoang nói đạo lý, lễ nghi với mọi người. Vậy mà hà cớ gì hôm nay lại bấn loạn tinh thần trước mặt mấy người nhà quê chân chất.

Thím tư Ngàn và bà vợ lão Hàn bụm miệng cười khanh khách khi nghe lão chàng rễ tương lai mặt mày đỏ lưỡng, ngượng nghịu tỏ bày. Chú tư Ngàn nét mặt bình thản nghiêm nghị, đáp lời :
- Cám ơn ...ông... anh Cần. Tháng trước hai vợ chồng bác Hàn đến đây đánh tiếng trước xin con Hoa nhà tôi về làm vợ anh. Vợ chồng tôi chấp nhận. Mọi việc thì nên giản tiện thôi. Anh lo tổ chức Tiệc Ra Mắt họ hàng, dòng họ, bà con thân quen. Ðồng thời dẫn nhau ra Xã làm giấy kết hôn để anh mang về Mỹ lập hồ sơ bảo lãnh con Hoa về bên đó với anh. Vậy thôi.

- Mình làm gọn nhẹ như vậy là tốt phải không chú thím tư và ông bạn già của tôi ? Ông Hàn tiếp lời - Này anh Cần, dù gì anh cũng là con rễ cưng của chú thím tư rồi đó. Từ lúc này anh phải gọi chú thím tư là ba là má mới phải phép. Còn e lệ gì nữa. Muốn có vợ trẻ thì phải uốn lưỡị..uốn lưỡi cong thêm chút nữạ..có được không ? Ông không nghe tôi là...mất vợ đấy.

- Ðược rồi. Tôi nghe ông. Ông Cần vừa trả lời vừa quắc mắt trừng lão già Hàn xí xọn lắm chuyện.

Ông rút trong túi áo xấp đô la năm ngàn dày cộm đặt trên bàn trước mặt cha mẹ vợ, lúng túng thưa :
- Thưạ..ba,,má..! tôi có chút ít gởi... ba má. Còn Tiệc ra Mắt... tôi sẽ... chi trả.

Mọi người lại một phen cười nghiêng ngửa nhìn lão chàng rễ xế bóng ăn nói lập bập thấy mà thương hại. Ông Cần sượng chín người. Một lần trong đời con tim quái ác nó hành hạ ông khắc nghiệt quá. Ông nhìn qua lão Hàn như dọ hỏi là sao không thấy Hoa thì cũng vừa lúc Hoa từ sau nhà bước ra chào mọi người. Giây phút đầu tiên nhìn thấy mặt cô vợ tương lai son trẻ mà ông Cần đang mơ nghĩ đến. Ông sững sờ ngất ngây dáng sắc của Hoa. Ông nghĩ gái miệt vườn sao mà đẹp lồng lộng vậy kìa !

Tuy Hoa không son phấn, quần là áo lượt, chỉ quần vải áo thô sao trông quyến rũ lạ đời. Dáng nàng thon cao, đôi chân dài hấp dẫn ghê, nước da trắng như bông bưởi, cơ thể no tròn nở nang đầy đặn, suối tóc đen xõa dài quá thắt lưng, e ấp mấp mé khuôn mặt trái soan, đôi mắt to đen long lanh, đôi lông mày rậm đậm đà...ố là là ! đẹp ôi là đẹp..! ông Cần lâng lâng cảm giác thèm khát. Ðúng là lão Hàn đã nói Hoa là hoa khôi của trường những năm còn học lớp 9 trung học cơ sở MP thành phố Mỹ Tho. Ðiệu này khi về bên Mỹ mà chưng diện vào, vợ ta sẽ làm cho bao nhiêu lão già dịch ngẩn ngơ nhảy đổng, rồi ùn ùn sắp hàng một về Việt Nam cưới vợ hết không ai cản nổi cho mà xem.

Ông Cần đứng dậy thập thò trước mặt kiều nữ miền sông nước Tiền Giang, chúm chím đôi môi run run :
- Chàọ..em Hoa. Anh là Cần đến để xin ba má cưới em về Mỹ với anh.
- Dạ. Chào ông. Hoa cúi đầu lí nhí đáp. Ba má đã nói chuyện này.
- Em bằng lòng chứ Hoa ?

Cô gái mười chín xuân xanh mơn mỡn thơm như múi mít tố nữ chau mày lộ vẻ chẳng mấy thích thú trước lão già đáng tuổi ông ngoại, ông nội sẽ là chồng của mình trong suốt cuộc đời. Nàng hời hợt đáp :
- Chẳng biết nữa. Do ba má quyết định. Ông hỏi ba má.

Mọi người tiếp tục trò chuyện trong bầu không khí chẳng mấy tự nhiên. Ông Cần mời mọi người lên xe ra thành phố Mỹ Tho làm một chầu ăn tối giao hửu để cố tạo sự gần gũi thân mật. Ba ngày sau Tiệc Ra Mắt diễn ra với hơn ba trăm thực khách tại một nhà hàng sang trọng trong thành phố Mỹ Tho. Mọi người chúc tụng lão chàng rễ có duyên vớ được cô vợ quá trẻ quá đẹp, bên cạnh những lời dèm pha biếm nhẻ đôi đủa lệch chiếc vắn chiếc dài. Già mắc dịch, già dê xồm, già bất lực hết xí quách...Chồng già vợ trẻ là duyên. Mai kia ông chết của tiền về tôi... Mặc họ bình phẩm khen chê chẳng làm cho ông nhụt chí khí. Ông chỉ cần biết ông đã vớ được cô vợ trẻ nõn nà, và lâu đài hạnh phúc tràn đầy của ông ở cái tuổi xế bóng hoàng hôn. Có điều ông hết sức bực mình họ đã phung phí quá lố cho cái Tiệc Ra Mắt khiến ông đã phải trả hơn chục ngàn mỹ kim đau ơi là đau !

Làm giấy kết hôn xong, ông Cần xin ba má vợ đưa Hoa đi Saigon mua sắm nữ trang, quần áo, son phấn. Bà mẹ Hoa không muốn để con gái đi một mình, cứ bám sát Hoa làm lão Cần chẳng sơ múi gì được với cô vợ trẻ hơ hớ ngay cả cái nắm tay cũng chưa được, lại còn tốn thêm mớ tiền khá đậm sắm sửa cho bà mẹ vợ kỳ đà cản mủi.

Chỉ trong một tuần lễ ông Cần đã lo xong công việc cưới vợ. Ông trở lại Mỹ gấp lập hồ sơ gởi Sở Di Trú Hoa Kỳ bảo lãnh cô vợ trẻ. Ông cũng đã ủy thác lão Hàn lo giấy tờ dịch vụ cho Hoa tại Việt Nam, và hai người sẽ liên lạc khi cần thiết. Cũng phải chi mất một số tiền không nhỏ cho lão Hàn. Chưa chi ông Cần đã mất trọn ba mươi lăm ngàn mỹ kim mang theo. Ông ước tính cũng sẽ mất thêm một khoản tiền kha khá nữa và thời gian chờ đợi độ năm, vợ ông mới đến được với ông trên đất Mỹ.

Ông Cần thức giấc sau giấc ngủ chập chờn mệt mỏi. Khuya hôm qua ông phải thức suốt đón Hoa tại phi trường từ Việt Nam sang. Gặp lại Hoa, sự mệt mỏi và bệnh tật trong người ông tan biến. Ông vui mừng khôn xiết, nói cười huyên thuyên, vì từ đây Hoa đã thực sự ở trong vòng tay của ông. Nhưng khi nhìn dáng vẻ bơ phờ, đôi mắt nai tơ thờ thẫn vì say sóng ói mửa, vì mệt mỏi từng chặng đường, vì đã bị cảm thương hàn trước mấy ngày ra đi, ông lo lắng đưa vợ về nhà ngay, cạo gió, uống thuốc và nằm nghỉ ngơi trong phòng ngủ. Ông nằm bên cạnh trên giường với Hoa, vì bệnh hành ngất ngư, vừa mệt mỏi quá độ, ông lả người thiếp đi trong giấc ngủ.

Bây giờ thức dậy, Hoa vẫn còn ngủ mê trong chăn ấm. Ông Cần ra ngoài làm vệ sinh, đi bách bộ mươi phút, trở lại ngồi tại phòng khách uống ly sữa tươi. Ông suy nghĩ thân phận mình. Gần nửa năm nay sau khi ở Việt Nam về, ông bị bệnh tiểu đường hành hạ đến kiệt sức. Ông còn mắc thêm chứng đau bao tử mà bác sĩ bảo rằng ông uống quá nhiều các loại thuốc ngâm rượu, các loại thuốc viên bồi bổ sinh lực nên bao tử đã bị loát trầm trọng. Hai chứng bệnh mắc dịch này hành hạ ông Cần ngày đêm đau đến nỗi có lúc kêu trời không thấu.

Tuổi già sức yếu, tiết trời thường thay đổi, ông hay bị cảm cúm, nhức mỏi rũ liệt cơ thể, đôi lúc ông nằm liệt giường không còn thiết gì nữa. Ông Cần đau khổ không ngờ sức lực ông độ này giảm sút trầm trọng, da dẻ nhăn nheo, chân tay thường khi lập cập run rẩy, giảm sút năng lực ham muốn như năm vừa rồi. Những bất hạnh dồn dập xảy ra trong lúc vợ ông vừa Việt Nam qua, ông cảm thấy buồn buồn tức tối cho mình không còn cảm thấy hứng thú bên cạnh cô vợ tràn trề sinh lực. Lúc gặp nhau ở phi trường Hoa đã ngỡ ngàng hỏi sao lúc này trông anh ốm và già dễ sợ.

Nghĩ vơ nghĩ vẩn rồi tự an ủi dù sao mình cũng có được cô vợ trẻ đẹp bên cạnh trong cuộc sống chấp nối cuối đời. Có điều chuyện về Việt Nam cưới vợ ông Cần giữ kín, con cháu và người ngoài chưa hề hay biết. Bây giờ công việc ông đã làm và sự có mặt của Hoa trong nhà này ông phải nói sao với lũ con cháu. Ông suy đi tính lại rồi gật gù cho cái lý thân già góa bụa, cần một người đàn bà sớm hôm kề cận chăm sóc nhau vui cảnh xế chiều, con cháu chấp nhận hay không rồi cũng đâu vào đó cả. Tuổi tác có chênh lệch là chuyện thường. Tình yêu đâu phân tuổi tác. Hai kẻ yêu nhau có sự đồng cảm bằng lòng là đủ. Luật pháp Hoa Kỳ chẳng bắt bẻ chuyện này. Ông bước thêm bước nữa là quyền của ông, ai có quyền cấm cản. Con cháu thông cảm lại nỡ làm tình làm tội ông sao ?!

Hoa từ phòng ngủ đi ra dáng bơ phờ mệt nhọc ngồi xuống ghế đối diện. Ông Cần hăm hở bước đến vồn vã vuốt mái tóc vợ chảy dài xuống lưng đen mướt :
- Em có khỏe được chút nào không ? Anh đưa em đi bác sĩ. Ði đường xa, thay đổi khí hậu, lại đang cảm thương hàn...anh lo lắm.

Hoa lắc đầu :
- Em đem thuốc uống mỗi ngày đây. Em cần nghỉ ngơi vài ngày em khỏe lại hà.
Nói xong, Hoa vít đầu ông Cần hôn phớt trên gò má hóp của ông. Ông ôm ghì Hoa thật chặt vào lòng vuốt ve âu yếm. Cơn đau bao tử râm rang lại hành hạ khiến ông mất hứng thú lần đầu tiên trước cơ thể đầy đặn căng cứng, thơm phức của vợ đang thách thức cảm giác mời gọi. Mùi hương trinh nữ từ cô gái dậy thì thoang thoảng áp vào mặt mủi, khiến ông Cần đê mê chết cứng chịu không nổi.

Ông ráng cả sức lực trong người ghì Hoa thật chặt vào lòng vuốt ve, mân mê, nắn bóp bấn loạn cùng khắp cơ thể săn cứng của Hoa để cố tạo sinh lực ham muốn thể xác... Nhưng sức lực của ông chồng già chỉ đến chừng đó.... chừng đó...ngưng lại... rồi giảm dần như quả bóng xì hơi, đến không còn tiếp tục làm ăn được gì khác nữa. Ông xịu mặt tủi thân cho sức khỏe tàn tạ với hai căn bệnh trời ơi của mình đã trên đà bất lực. Hoa thì đã nhìn thấy rõ nỗi đau khổ chán chường của lão già hết xí quách này. Ðáng thương hại cho ông ta !

Mới chỉ một phút bên vợ mà ông đã muốn đứt hơi. Ông trở lại ghế ngồi thở hổn hển.
Hoa nheo mắt liếc tình ông, nhõng nhẽo :
- Chưa chi anh đã phờ người rồi. Ráng sức không chừng đứt gân máu, em sống với ai đây ? Có muốn gì thì cứ thủng thẳng...khỏe khoắn trong người.

Ông Cần phác tay :
- Ðâu có sao. Anh ráng chữa dứt bệnh, bồi bổ lại sức khỏe là em sẽ "mệt" với anh dài dài nghe chưa ?
Hoa bụm miệng cười sằn sặc :
- Ðược rồi. Em chờ anh. Coi ai mệt với ai cho biết.

Hoa rảo mắt nhìn quang cảnh nhà, buột miệng khen :
- Nhà anh đẹp quá, ở Việt Nam làm gì có được nhà như thế này.
Ông Cần phồng mủi :
- Nhà này là của em không phải một mà là ba ngôi nhà như vầy đều của em. Tiệm sách báo là của em. Tiền bạc trong ngân hàng là của em...và tất cả là của em. Tính ra cũng hơn triệu rưởi đô la đó cưng.

Nghe ông Cần đon hót, Hoa nghĩ thầm mai mốt ông chết của tiền về tôi, là cái chắc, khỏi cần ông phải giới thiệu. Cứ giữ cái giấy hôn thú cho kỹ là chắc ăn.
Hoa nói bâng quơ :
- Anh nói thế. Em biết thế. Còn lũ con của anh nữa, phải chia cho chúng chứ ?.

Ông Cần khoát tay ngoài ngoạy :
- Không. Không bao giờ. Ở Mỹ không có chuyện để của, chia của cho con cái. Ai làm nấy ăn, đâu như ở Việt Nam. Anh chết, anh viết di chúc giao toàn bộ tài sản này cho em. Anh muốn cho đứa nào tùy ý, không cho cũng được, không đứa nào có quyền tranh giành. Nếu em không nhận, anh giao cho Hội từ thiện.

Có tiếng xe hơi ầm ỉ trước nhà. Ông Cần nhìn ra hướng cửa sổ. Ba chiếc xe của ba gia đình ba đứa con đang đậu dọc trước nhà. Lũ chúng nó đủ mặt đang ào ạt xuống xe tiến vào nhà. Ông Cần sững sờ, mặt biến sắc... chợt nhớ rạ..chết rồị.! hôm nay sinh nhật của ông. Tuần trước chúng nó hẹn đưa ông đi biển, đãi ăn nhà hàng, mua quà tặng...mừng sinh nhật thứ 72 của ông. Cứ mãi lo cô vợ trẻ ông quên khuấy đi mất. Hai tay giựt giựt, đôi môi run run, ông lắp bắp tiếng được tiếng mất với Hoa :
- Lũ...lũ...con cháụ..nó đến đủ mặt. Hôm naỵ..sinh nhật của anh...chúng...chúng nó đến...dẫn anh đi mừng sinh nhật... luôn dịp anh...anh giới thiệu em...với tụi nó.

Lũ con cháu ùa vào đứng đầy phòng khách. Chúng thấy Hoa, nhìn trân trối. Hoa đang mặc bộ quần áo ngủ mỏng hở hang, nhầu nát, tóc tai lòa xòa. Chúng thi nhau hỏi cha :
- Ai vậy ba ? Ba đem cô này về làm gì vậy ? Bồ à, bồ của ba..?
- Cô nào đây hả ba ? Trông giống nhự..ở ngoài đường...
- Ba đem gái ăn sương về nhà đây.

Hai cô con gái lớn hỏi tới tấp. Lũ cháu ngoại chạy đến bá cổ ôm tay ông ngoại líu lo vòi vĩnh, hỏi han. Riêng Diễm, đứa cháu ngoại gái tuổi đã mười tám nhìn Hoa không chớp mắt, bĩu môi khinh khỉnh có lẽ nó nghĩ Hoa là gái điếm. Thằng con trai tên Mẫn và cô vợ cũng như hai chàng rễ cứ cười tủm tỉm nhìn Hoa rồi nhìn ông Cần với những ý nghĩ không mấy tốt.

Ông Cần lấy lại bình tĩnh, líu lưỡi :
- Ðây là...Hoạ..là má...má...của các con. Ba cưới ở Việt Nam vừa sang. Các con mừng cho ba.
Cả bọn đồng ồ lên thảng thốt, bĩu môi khinh bĩ :
- Má gì...mà trẻ măng ? Miệng còn hơi sữạ..vậy ba ?
- Má chỉ bằng tuổi con Diễm cháu ngoại ba.
- Con không chấp nhận. Con phản đốị..con phản đối.
- Già rồi ba lại dở chứng, không sợ thiên hạ cười.
- Còn cái cô này (Hoa) thèm đi Mỹ, dụ dỗ ông già hả ?

Cứ thế, đứa một câu ào ào như vỡ chợ. Hoa cảm thấy chóng mặt đến khiếp đảm những lời dèm pha chửi mắng và hỗn hào của lũ con cháu ông Cần, đôi mắt nai tơ thất thần nhìn ông Cần cầu cứu. Nàng bật khóc rấm rứt, rồi vụt chạy vào phòng. Mẫn dõi theo chân Hoa có ý để trấn an nhưng nàng đóng mạnh cửa phòng ngủ.

Thấy lũ con cháu phản ứng mạnh, ông Cần nạt :
- Tụi bay im đi, không chấp nhận thì thôi. Ði, đi về hết.
Lũ con cháu đâu cần nghe, chúng cứ lầy nhầy câu này câu kia với cha già, hăm he đòi đuổi Hoa ra khỏi nhà tức khắc. Không thì chúng xởn tóc, rạch mặt, trùm bao bố thả sông, chặn đường bêu xấu cho biết mặt.

Mẫn lần bước sát cửa phòng ngủ, nghe tiếng khóc rấm rứt bên trong. Mẫn nói vọng vào:
- Cô đừng khóc nữa. Chẳng có gì mà sợ.

Lũ con cháu ra rả một hồi chán chê, đồng kéo nhau ra xe. Kỷ niệm sinh nhật của ông Cần như hủy bỏ, chẳng ai nhắc đến vì tai ách dở chứng của cha già trái tai gai mắt. Ông bị cú sốc quá đậm, không còn nói được lời nào, ngồi chết trân trong lòng ghế như một pho tượng đá.
- Họ về hết rồi. Tiếng Mẫn giục. Mở cửa ra đi cô Hoa.

Hoa hé cửa nhìn ra ngoài rồi nhìn sững Mẫn cũng đang nhìn nàng. Hai ánh mắt chạm vào nhau như tia sáng phản hồi thoáng chút bâng khuâng ngỡ ngàng thẹn thùng. Mẫn đang bị cuốn hút trước nhan sắc rực lửa của cô gái xa lạ qua lớp áo mỏng dính sát, hở hang. Vừa lúc vợ Mẫn đến giục chồng đi về.

Bi hài kịch trình diễn được ông chồng thủ vai chính làm cho Hoa khốn đốn, mất ăn mất ngủ, khóc rấm rứt suốt ngày. Ông Cần đau đớn tột cùng thêm hai căn bệnh quái ác hành hạ liên miên, ông nằm liệt giường chẳng buồn ngồi dậy.

Ngày tháng đi qua, cứ đôi ba hôm lũ con ông thay phiên gọi điện thoại đến hăm he, nhiếc mắng cô vợ trẻ của ông, còn dọa ông không đuổi Hoa ra khỏi nhà là chúng sẽ từ ông, vì ông đã làm vẩn đục hưong linh người mẹ của chúng.

Ông Cần vẫn ngày ngày chữa bệnh, chăm chỉ bồi dưỡng sức khỏe hy vọng được tái phục hồi để một lúc nào đó đủ sức thỏa mãn nhu cầu với cô vợ trẻ hơ hớ. Cứ vài hôm ông lái xe đến bác sĩ khám, mua thuốc trị bao tử. Bác sĩ yêu cầu ông phải mổ, ông lại sợ không dám. Rồi ông đến đông y cắt thuốc trị tiểu đường. Cơ cực, càng uống thuốc, ông Cần vẫn cứ gầy rạc ra. Bệnh tiểu đường ngày thêm trầm trọng gần như tê liệt. Thời gian đó Mẫn vẫn thường canh chừng ông Cần lái xe ra khỏi nhà là ập vào tán tỉnh, hú hí với Hoa từng giờ.

Ông Cần cưng chiều Hoa rất mực. Ông đưa Hoa dạo phố, mua sắm, ăn uống, dự tiệc tùng, hội hè đoàn thể...Ông vênh vênh hãnh diện đi bên cạnh cô vợ trẻ đẹp duyên dáng. Những bạn già của ông Cần cứ trố mắt nhìn ông và cô vợ trẻ bàn tán, khen chê trước một pha thời sự quá "hot" đang xảy ra rất ư là hấp dẫn.

Ngày Hoa thi đậu bằng lái xe, ông Cần mua tặng vợ chiếc BMW láng cón gần năm chục xấp. Có xe Hoa lái một mình vào các chợ, mall, shop, nhà hàng để ăn uống mua sắm chưng diện theo ý thích, đồng thời có cơ hội tiếp xúc làm quen rất nhiều người. Nhờ thế, Hoa đang có được những cố vấn, những thầy đời bảo trợ tinh thần và tiếp nhận những hiểu biết mới trong cuộc sống. Hoa càng siêng năng học tiếng Anh lớp đêm, lớp ngày rút ngắn thời gian, tạo thế đứng tự lập không nhờ vã vào ai. Giờ thì Hoa đâu còn lo ngại lũ con cháu của lão Cần. Chúng mà hung hổn làm bậy là cứ gọi cảnh sát.

Một hôm ông Cần thấy vợ mình có sự khác thường, nhan sắc giảm sút, ói ọe, chê cơm chê cá. Ông sinh nghi vặn hỏi, Hoa trả lời là không biết tại sao nữa. Do kinh nghiệm, ông biết Hoa đang có thai. Ông bấn loạn xây xẩm khi nghĩ rằng từ ngày Hoa về với ông đến nay tròn năm chưa một lần ông "chăn gối" với vợ cũng chỉ vì sức khỏe sa sút, bất lực. Có chăng, ông chỉ ôm ấp, vuốt ve vợ bên ngoàị..làm sao vợ mang bầu. Ông Cần đau khổ tức tối.

Bụng Hoa ngày un cao rõ nét. Ông Cần càng điên tiết. Ông dấu kín sự thể đâu dám phân trần cùng ai. Ông ôm Hoa vào lòng, đôi tay run run xoa xoa bụng vợ âu yếm than vắn thở dài :
- Anh chưa một lần ăn nằm với em mà, sao em lại có thai, nghĩ cũng lạ.

Hoa lắc đầu không biết. Ông nhẫn nại :
- Em cứ nói thật cho anh nghe. Dù gì đi nữa, anh không làm tình làm tội em. Anh cưng chiều em hết mình. Anh lại đang lo cung cấp tiền bạc cho ba má ở Việt Nam, gởi tiền cho ổng bả cất nhà. Em là vợ của anh. Em thấy không ? Nói đi em.

Trầm ngâm một lúc, Hoa ứa nước mắt. Lòng cảm thấy tội nghiệp ông chồng già. Nàng không thể dấu được, đành nói :
- Thằng ...thằng con trai của anh...đó anh. Nó luôn đến đây tán tỉnh và hãm em nhiều lần em ngất ngư, em sợ muốn chết. Nó làm dữ quá...không như anh đâu.

Ông Cần choáng váng mặt mày gần muốn xỉu. Ông gầm lên :
- Trời ơi là trời ! Mẫn ơi là Mẫn ! Màỵ..mày là thằng trời đánh thánh đâm. Tao sẽ diệt mày. Thứ đồ loạn luân. Mày cả gan lấy vợ tao, cưỡng hiếp mẹ kế của mày....

Ông thả Hoa ra, ngồi ôm đầu bứt tóc,gầm thét tức tối thãm hại. Kiểu này thì đâu còn mặt mủi nào. Thiên hạ họ cười cho thúi đầu. Thôi thì hãy vục mặt xuống vũng bùn nhơ im hơi lặng tiếng chứ biết làm sao. Ðổ bể ra thì ôi thôi chịu sao cho nỗi búa rìu dư luận kể cả lũ con cháu quỷ quái kia. Ông đành ngậm hột vịt ăn tiền. Ông hận thằng con khốn kiếp phỏng tay trên. Ông chưa làm gì là nó đã làm rồi. Khốn nạn ! Nhiều lần ông muốn tống cổ nó khỏi tiệm sách báo của ông. Ông căn dặn Hoa chuyện lỡ làng, đừng cho ai biết. Xấu anh thì xấu em. Thôi thì, cứ coi là con của anh.

Ðến ngày sanh, ông Cần túc trực bên vợ mãi đến nửa đêm Hoa mới sanh một bé trai. Mặc dù trong người ê ẩm mệt mỏi, Hoa nhìn ông Cần chọc quê :
- Thằng nhỏ này là con trai của anh, hoặc cũng là cháu nội của anh đều đúng cả. Anh ráng mà nuôi nó để nối dõi.

Ông Cần cúi gầm mặt nhìn thằng bé đỏ hỏn thấy mà ghét, muốn bóp mủi cho nó chết phứt cho rồi. Nghĩ mà ông không dám làm.

Thằng bé ba tháng đã lật. Lúc này Hoa đẹp dữ dội, ai nhìn cũng trầm trồ mơ ước, đúng là gái một con trông mòn con mắt, đã thiệt. Hoa càng ăn mặc chưng diện, xài phí và thường lái xe đi rong nơi này nơi khác. Ông Cần thì chả còn ham muốn gì nữa vì bệnh già cùng hai chứng bệnh quái ác kia, đành chịu lép.

Một hôm Hoa tính nhẩm mình đã đến Hoa Kỳ tròn hai mươi sáu tháng rồi. Ðến lúc này đã là thời điểm "giã từ quán trọ". Hoa nhờ luật sư - cũng chính là người tình đở đầu của Hoa vừa quen được, đẹp trai, hào hoa, phong độ - đưa đơn ra Tòa án xin ly dị ông chồng già bất lực.

Ông Cần nhất quyết không ký đơn. Tòa phán quyết cuộc hôn nhân gượng ép, bất cân xứng, loạn luân, tác hại luân thường đạo lý cần giải tán. Tài sản chia hai. Ðứa nhỏ giao Hoa nuôi nấng. Ông Cần trách nhiệm cấp dưỡng đứa bé đến 18 tuổi tròn. Truy tố Mẫn tội loạn luân, cưỡng dâm mẹ kế.

Ðơn ly dị kết thúc. Hoa được nhận ngôi nhà ông Cần đang ở và Tiệm Sách Báo cùng với số tiền trong ngân hàng được chia đôi vào khoảng bốn mươi lăm ngàn mỹ kim.

Ông Cần vật vã mình mẩy, ngất xỉu chết đi sống lại. Ông dậm chân dậm cẳng, khóc lóc, nghiến răng, than thở, rên rỉ kêu Trời không thấu. Vợ với con, khốn kiếp ! Ðang sống thảnh thơi an nhàn trong tuổi già xế bóng, vật chất đầy đủ, con cháu thương yêụ..đâu còn thiếu thốn gì nữạ..hà cớ gì dở chứng thèm khát để đến nông nỗi này.

Ông bậm môi, đấm ngực, nghiến răng trèo trẹo hầm hè :
- Cũng tạị..cái thằng nhóc ó đâm nàỵ.mà ra cả! Thằng nhóc con rững mỡ này, có làm gì được đâu. Ðã bảo cứ ngủ yên cho thằng già này nhờ ! Mẹ kiếp ! Ðồ mắc dịch..!


Nguyễn Thế Hoàng

Hansy
30-08-2014, 11:30 PM
29

Đánh tráo

Thiên Sơn

Có một chuyện mà kể ra rất ít người tin. Nhưng tôi cam đoan với các bạn chuyện tôi kể đây là một sự thật. Một sự thật từng làm kinh động làng Hà. Tuy vậy lại không ai biết cho thật tường tận. Thì bây giờ nó đây, tôi đang hầu chuyện mọi người mà. Tôi sẽ cố gắng kể thật chi tiết và sau đó thì các vị tha hồ luận bàn về nó.

Ông Hiền là một trí thức lớn.
Trước hết ông là một nhà luân lý, một nhà đạo đức. Ông ăn uống kham khổ và tận tâm, tận lực với công việc suốt đời. Ngày còn trẻ ông công tác ở một trường đại học. Hàng ngày ông thường dành thời gian tiếp khách. Trong số đó chủ yếu là những người ngưỡng mộ ông, muốn học hỏi những điều hay, lẽ phải. Thỉnh thoảng ông lại dẫn sinh viên đi thực tập, khảo sát văn hóa dân gian. Ông sống gần gũi, giản dị như một người dân nhưng giọng nói dịu êm, phong thái điềm tĩnh, lịch thiệp, khả năng thấu hiểu những điều ẩn sâu trong tâm hồn con người khiến ông có sức thu hút một cách kỳ lạ với tất cả mọi người.

Ông cũng được coi là một nhà văn hóa học bởi hầu như suốt đời ông quan tâm đến những bình diện rộng lớn của một nền văn hóa từ triết học, lịch sử đến tư tưởng. Nói chung ông là một người uyên bác, một người thông hiểu kiến thức Đông, Tây, kim cổ.
Ấy vậy mà mấy năm trước một điều kỳ lạ đã xảy đến. Một hôm ông Hiền làm việc đến quá nửa đêm mới tắt đèn đi nằm. Ông tập trung tư tưởng vào một điểm nhỏ trên đỉnh đầu. Không hiểu sao ông lại nảy ra ý nghĩ tập xuất hồn theo cách của các đạo sĩ Ấn Độ truyền lại. Bỗng tai ông vang lên những tiếng u u kỳ lạ. “Xuất hồn để làm gì?”. Trong khoảng khắc ông tự hỏi và tự trả lời: “Nếu có được phép màu nhiệm này ta có thể đi đến bất kỳ đâu, am hiểu cả thế giới, cả vũ trụ... Nhưng hãy khoan tính chuyện xa xôi. Trời đêm nay đẹp, có rất nhiều sao sáng, nếu xuất được hồn ta sẽ chu du ở khắp các vì sao. Ta muốn nghiên cứu thêm cả thiên văn, có thể từ đây sẽ khởi đầu cho một hành trình mới tốt đẹp”. Với ý chí ấy ông dồn tất cả sức lực để mở rộng lối thoát trên đỉnh đầu. Trong một nháy mắt, ông Hiền cảm thấy lâng lâng, nhẹ bẫng và một luồng sáng từ đỉnh đầu ông phát ra, bay lên cao.

Ông Hiền từ trên cao nhìn xuống thấy thể xác mình nằm trên giường. Mái tóc lấm tấm bạc, gương mặt đôn hậu toát lên một vẻ thanh khiết lạ thường. Tỏ ý hài lòng, ông Hiền tự nhủ: “Có một thể xác đẹp, một linh hồn toàn thiện như ta thật là một ân huệ của tạo hóa”.

Thế rồi linh hồn ông vút lên cao nhìn thấu muôn vàn vì sao trong dãy ngân hà như những mảnh vàng li ti, lấp lánh và ánh trăng có màu sáng xanh dịu nhẹ. Ôi vũ trụ thật mênh mông! Ông bỗng cảm thấy tiếc nuối. Giá ta biết xuất hồn từ trước nhỉ? Ta đã có thể hiểu thêm biết bao nhiêu điều kỳ diệu của vũ trụ và thế gian này.

Cứ như vậy, ông dạo khắp các vùng trời rộng lớn, cả những nơi không có đêm ngày. Cuối cùng ông hạ thấp độ cao. Nhưng trên đường trở về ông bỗng nghĩ đến việc ghé qua châu Âu và quan sát người Âu xem cuộc sống của họ bây giờ có gì đáng học tập không? Mải miết với những điều mới mẻ, khi quay trở về ông mới nhận ra mình không thể nhớ được đường. Đường xa muôn vạn dặm, bao núi sông, mây mù, vạn vật chuyển động rối loạn làm cho ông định hướng rất khó khăn. Nhưng nhất định phải trở về. Ông cố gắng phát huy hết tinh lực của mình...

Gần đến sáng, rồi ông Hiền cũng đã tìm được đường về đến làng. Ông trở nên ngỡ ngàng. Hóa ra trước đây ông không để ý, chứ nơi mà ông thường sống cũng là một nơi không thua kém những chốn thần tiên trong vũ trụ là bao!

Ông vào nhà thấy vợ đang gào khóc thảm thiết bên thể xác của mình lúc ấy tái nhợt, mắt nhắm nghiền và chỉ thoi thóp thở. Ông hiểu ra rằng, nếu không có linh hồn thì thể xác chỉ là một khối vật chất vô nghĩa. Linh hồn ông bắt đầu tìm cách nhập vào cơ thể. Nhưng, lạ sao ông không thể nào thực hiện được. Thì ra trước đó ông chỉ chú ý nhiều đến việc xuất hồn mà không học cách nhập hồn. “Trời ơi! Thật là khủng khiếp! Biết làm thế nào bây giờ?”

Nhìn thấy vợ mình nức nở nên vô cùng xót xa, nhưng ông không thể nói, không thể làm bất cứ điều gì mà mình muốn. Thì ra không có thể xác, linh hồn cũng chỉ là một thực thể vô hình bất lực.

Trong giây lát ông nghĩ đến tổ tiên. Có lẽ vậy, ông phải hỏi cho được cách nhập hồn trở lại. Nhưng khi ông gặp được thì tất cả các vị tiền bối trong dòng họ đều nghiêm nét mặt. Không ai biết cái điều mà ông Hiền cần giải đáp vì đó là chuyện chưa từng xảy ra đối với họ hồi đang sống.

Sốt ruột, ông Hiền bay đi khắp nơi. Gặp bất kỳ linh hồn nào ông cũng hỏi. Nhưng, tất cả linh hồn đều là của người đã chết. Họ không thể nào hiểu nổi ông. Đối với họ, cái thể xác kia đã hư hỏng từ lâu rồi. Họ còn nói: “Thế gian đau buồn thế, trở lại với nó làm gì?”.

Nhưng không thể nào nghe theo họ được. Nhất định ông Hiền phải tìm cách hỏi cho được cách nhập hồn. Trong muôn triệu linh hồn kia, chẳng lẽ không có ai đã gặp cảnh tương tự với ông Hiền. Ông Hiền hỏi mãi, hỏi mãi hết người này sang người khác và khi trời chập choạng tối ông đành thất vọng quay về nhà. Vợ ông vẫn khóc. Nhiều người thân từ các làng bên cũng đến. Con gái ông đi dạy học, lấy chồng cách ba mươi cây số cũng đã về. Mọi người chuẩn bị cho tang lễ... Ông Hiền nhìn xuống, cái xác của ông gầy tóp, xám ngoét và thở từng cơn chậm chạp. Một bác sĩ nói với người em ruột của ông: “Chắc khó qua được đêm nay”. Ông muốn hét lên, muốn làm cho mọi người hiểu ra rằng ông không chết, không muốn chết... Nhưng sự thực thì vô cùng nghiệt ngã. Ông không có cách gì để làm được điều mong muốn của mình.

Bỗng trong nháy mắt ông thấy một linh hồn lạ từ phía cửa bay vào, sà sát xuống thể xác của ông. Hình như có một ý đồ xấu xa. Ông cũng sà sát xuống, cố tìm cách bịt kín ở phía trên đỉnh đầu đề phòng một âm mưu cướp xác. Nhưng mọi điều diễn ra nhanh chóng đến không thể tưởng tượng được. Linh hồn lạ, mà ông đoán là của một tên quỷ sứ hay kẻ bất lương từ cõi xa xôi nào đó đã chui thẳng vào thể xác ông qua một lỗ nhỏ ở bụng.

Ông nhìn thấy rõ ràng cái thể xác xám ngoét của mình hồng dần lên và mi mắt động đậy. Sau đó là một hơi thở mạnh và hắn từ từ ngồi dậy. Khắp trong nhà ngoài ngõ dậy lên tiếng reo vui, tiếng nói, tiếng cười, tiếng trầm trồ bàn tán. Một số người bạn của ông, toàn những người uyên bác, thấu triệt kiến thức cổ kim cũng lấy làm kinh ngạc vì một chuyện chưa từng thấy bao giờ. Có người còn nói:
- Vì tổ tiên thấy ông ấy còn làm dở dang mấy công trình nên chiếu cố cho sống lại cũng nên.

- Không phải! - Ông thốt lên như thế nhưng không ai nghe thấy cả - Thật là oan. Đấy không phải là tôi. Một sự đánh tráo ghê tởm. Mọi người đừng tin những gì hắn nói...
Ông thấy gã đánh tráo linh hồn nói bằng một giọng mỏi mệt, lơ lớ:
- Tôi phải đi rửa mặt đây!

Hắn rửa mặt. Và việc tiếp theo là đi thẳng vào bàn thờ đứng nghiêm trang ở phía trước. Người con gái của ông thắp ba cây hương đưa cho hắn. Vợ ông đứng bên cạnh và người nhà, bạn bè đứng hết cả phía sau. Hắn vái lạy rất đúng cách nói:
- Nhờ ơn tổ tiên mà tôi còn được tiếp tục sống...

- Không phải đâu! Không phải đâu! Đồ xảo trá... - Ông Hiền vô cùng phẫn nộ và đau khổ vì chưa bao giờ ông thấy có một điều bỉ ổi đến thế - Hắn dám mạo nhận cả tổ tiên để phỉnh nịnh, lừa dối mọi người. Một tội ác ghê rợn mà lịch sử loài người có lẽ chưa từng xảy ra. Mà có lẽ hầu như nhân loại chưa có mấy người hiểu được. Chính cái điều ấy bây giờ đang diễn ra trước mắt ông, và chính ông là nạn nhân của nó.

Thắp hương xong, hắn quay lại bàn ăn cháo và nói chuyện với mọi người:
- Chắc hai mẹ con lo lắng lắm ấy nhỉ? - Rồi hắn tiếp - Tôi làm sao mà chết ngay được, chết là có số mệnh cả.

Hắn cười. Cố tỏ ra nhu mì nhưng vẫn có vẻ gì giả dối, trịch thượng. Con gái ông rỉ vào tai mẹ:
- Bố có nét gì hơi khác. Mà bố hình như không nhớ tên con nữa...
- Mẹ cũng nhận thấy thế... Ông ấy không giống như vậy... Đêm qua mẹ nằm mơ thấy ông nội của con về bảo: “Đó không phải là chồng con đâu. Hãy cảnh giác”. Mẹ cũng không hiểu mọi chuyện là ra làm sao nữa...

Ông Hiền sung sướng vì vợ con ông đã nhận ra và bố của ông đã giúp. Nhưng liền đó vợ ông quay vào nói với hắn:
- Bây giờ ông thấy trong người thế nào? Khiếp, mấy hôm vừa rồi ông làm mẹ con tôi lo quá!
- Tốt rồi bà ạ... - Hắn nói và tỏ ra vẻ thân mật với bà làm ông Hiền điên tiết lên.

Suốt mấy ngày liền ông Hiền bay lơ lửng khắp nơi trong nhà, bám theo từng bước chân bà. Ông nhận ra bà buồn và khóc khi ở nhà một mình. Suốt mấy chục năm trời yêu nhau, sống bên nhau bà thuộc hết từng cử chỉ, lời nói và thấu hiểu đến từng ý nghĩ của ông. Sao bây giờ ông lại có thể đổi thay ghê gớm đến như vậy...

Càng ngày trên thân thể ông Hiền đã dần dần xuất hiện những đổi thay rõ nét. Đôi mắt bỗng ngả dần sang màu xanh lá cây, bộ râu quai nón mọc rậm từ hai bên tai ôm lấy cằm. Cái mũi nhô cao và giọng nói lơ lớ rất khó chịu. Ông Hiền nghĩ, kẻ đánh cắp thể xác của ta đang từng bước thay đổi nó, xóa đi hình ảnh thực của ta trước mắt mọi người, giết chết tình yêu của vợ con ta, gây khó hiểu cho làng xóm, bạn bè.

Một ngày nọ. Đó là một ngày sầu thảm khi vợ ông phát hiện ra những tập bản thảo của chồng mình chưa kịp in cũng bị hắn lôi ra đốt. Bà xông vào giằng từ tay hắn và thét:
- Ông điên rồi sao? Trời ơi... Tôi không thể ngờ được đến bây giờ ông lại trở thành người như thế này. Không! Ông không còn là chồng tôi nữa. Chồng tôi không bao giờ lại hành động như ông...

Bà khóc nấc lên. Ông Hiền vô cùng phẫn uất nhưng đành chịu. Ông thương vợ mình vô hạn. Tại sao cuộc đời lại sinh ra những điều đau buồn đến thế. Ông tự hỏi và tự dằn vặt, xỉ vả mình. Nhưng điều ấy cũng nào có ý nghĩa gì. Không thể cam lòng như thế mãi.

Ông lại quyết định đi hỏi tổ tiên:
- Thưa tổ tiên, các ngài phải làm sao để cứu con. Kẻ đánh cắp thể xác đang bôi xấu hình ảnh con trước dân làng và tất cả người thân. Hắn còn thiêu hủy cả những gì con đã lao động gian khổ mấy chục năm mới có được... Một tội ác đến nhường ấy, các ngài phải mau mau giúp con, ngăn chặn lại càng sớm càng tốt.

Các vị tiền bối nhìn ông Hiền lo lắng. Một vị nói:
- Thì chúng ta cũng đang nghĩ cách đây. Khó lắm. Kẻ núp trong thể xác của con để làm điều ác, thật vô cùng gian xảo. Con có biết hắn đã từng rình rập tại nhà con bao nhiêu năm, theo dõi từng bước đi, giọng nói của con chỉ để đợi có dịp ám hại con. Thế mà con thì không bao giờ để ý đến. Nhiều lần ta đã đoán được âm mưu của hắn định báo cho con, nhưng con nào có chú ý để hiểu điều ta định nói.

Một vị khác nói bằng giọng trầm tĩnh hơn:
- Chúng ta cũng đã họp bàn cách giúp con, nhưng tình thế này, cả con và chúng ta đều phải đợi đã...

Hiểu được tình thế khó khăn, ông Hiền dặn lòng phải thật kiên nhẫn. Phải hiểu hắn từ đâu đến, hắn thực sự muốn làm gì với thể xác của ông? Thế là từ đó ngày tháng cứ nặng nề trôi đi. Bao nhiêu ngày ông Hiền bám theo hắn từng bước chân nhưng hắn dấu gốc tích của mình rất kín. Công việc hàng ngày của hắn thật khó hiểu...

Một hôm, vợ ông có việc phải ra khỏi nhà. Hắn liền đóng kín cửa lại. Hắn lục tìm chìa khóa mở tủ và lục lọi rồi lấy ra một cuốn sổ bìa cứng ghi chi chít bằng chữ nho và chữ quốc ngữ, thỉnh thoảng có thêm các trang phụ lục vẽ sơ đồ một cách rất công phu. Hắn liếc nhanh và cười lớn, tiếng cười xỉa vào không khí những tia sắc nhọn như tiếng sói:
- Hừ, phả hệ hả? - Ta sẽ đốt! Đốt... Ta sẽ làm cho cả dòng họ này mất gốc. Hiểu chưa... Ta phải thắng...! Rồi ta sẽ viết lại lai lịch... Làm lại... Con cháu đời sau của dòng họ này sẽ chỉ là một lũ nô lệ, ngu sy tôn xưng ta là một vị anh hùng. Chúng sẽ phải quỳ gối, vái lạy cầu xin ân phúc từ những kẻ mà tổ tiên chúng coi là kẻ thù.

Ông Hiền nhìn thấy tất cả. Ông thét lên và bật khóc nức nở. Nhưng không ai có thể hiểu được ông. Ngọn lửa bùng lên bén vào căn nhà. Nhưng cũng chính lúc ấy trời bắt đầu đổ một cơn giông.

Cho đến tận giờ sự thật về tấn bi kịch của ông Hiền hầu như vẫn chưa có mấy ai được biết.


Hà Nội, 29-4-2000
Thiên Sơn

Hansy
31-08-2014, 06:07 PM
30

Lòng Dạ Đàn Bà

Thanh Mai

Ông Bảy về hưu đã hai năm nay. Vợ ông khuất bóng từ lâu. Đứa con trai đã có gia đình mà tính ông lại chẳng thích làm gánh nặng cho con cháu nên ông sống một mình một cái chòi tranh cho khỏe. Có cháo ăn cháo, có rau ăn rau, có ba cộc ba đồng tiền hưu cũng đủ cho ông sống qua ngày.

Ông dễ ăn dễ ngủ lắm. Chỉ cần mỗi ngày có cho ông một xị rượu đế, vài trái chùm ruột, trái xoài xanh hoặc con cá khô là đủ. Ông hay ngâm nga:

Chữ tình cùng với chữ duyên,
Cho thêm chữ nhậu mới bền duyên ta.

Ông Bảy là một nhà thơ con cóc không tên nhưng có tuổi. Tướng ông cao khều, khô đét và đen thui như cây củi khô, vậy mà cũng có mấy bà góa để ý đến, có lẽ nhờ ông có duyên ăn nói, hay khôi hài. Bữa bà này đem đến cho ông bát cháo, bữa bà kia dúi cho ông con mực khô, lại có bà tặng ông cái …bô đi tiểu. Làm như ông chuyên đi đái bậy vậy. Ông đối với bà nào cũng vừa ân cần vừa lấp lửng, bí mật. Chẳng biết ông thương ai thích ai nữa. Lâu lâu nổi hứng sáng tác được một bài thơ con cóc ông chép ra mấy bản và tặng cho mỗi bà. Bà nào cũng gối đầu giường nâng niu cất kỹ, có dám hé ra cho ai coi đâu sợ con cháu nó cười cho thúi mũi.

Cái chòi của ông làm bằng tre, lợp mái tranh, được dựng trên một cái ao nhỏ xíu, cạn queo. Ông ăn đó, rửa tay đó, và thậm chí tiểu xuống đó luôn. Ông cười ha hả khoe với bạn bè, con cháu:
-Tối ngủ khi nào mắc tè tao chỉ cần nằm úp sấp lại. Khỏi phải đứng dậy đi tiểu, khỏe re!

Mà khỏe thật! Già rồi ai chẳng mắc cái bệnh tiểu đêm. Cứ phải thức dậy lọm khọm đi tiểu vài lần mỗi đêm nhiều khi không ngủ lại được cực lắm chứ. Sướng cái nữa là khỏi phải treo mùng vì không có muỗi. Gió biển lồng lộng thổi tới từ xa nên mặc dù từ cái chòi không thấy biển đâu cũng ăn nhờ được cái quạt thiên nhiên này, chẳng có con muỗi chết tiệt nào xuất hiện để xin ông tí huyết cả.

Mà chúng có xin ông cũng không có huyết mà cho. Có lần ông bị cái cánh quạt máy trần nhà thằng Tửng phang trúng cổ tay cắt đứt một khúc lòi cả mỡ trắng hếu. Vậy mà chẳng có một giọt máu nào nhỏ ra. Nói là mỡ trắng chứ chắc là lòi xương trắng đấy thôi vì tướng ông khô đét như củi khô thì làm sao có thịt mà còn nói đến mỡ. Và cái sướng thứ ba là nhà chòi của ông không có cửa, không có tường vách nên chẳng có thằng ăn trộm nào để mắt xanh tới. Ăn trộm là chuyên bẻ khóa, trèo tường, khoét vách mà chòi của ông chẳng có thứ nào thì làm sao chúng có thể hành nghề.

Thằng ăn trộm nào lỡ có đi lạc vào chòi của ông chắc nó cũng khùng luôn vì chẳng có thứ nào ra hồn cho chúng thó. Cái nồi đất đen thủi đen thui để nấu cơm bị mẻ một miếng thật to ngay miệng nồi; cái nồi nhỏ để kho cá cũng gãy quai; cái ấm trà và ngay cả tách trà cũng mẻ; cái áo cái quần cũng rách, và ngay cả đôi dép nhựa cũng chiếc đực chiếc cái. Đôi dép vợ thằng Tèo mua tặng cha chồng hôm Tết, mới mang được hơn tháng khi đi ăn giỗ ở nhà hàng xóm ông mang lộn dép người ta về. Qua hôm sau thức dậy trời sáng mới thấy hai chiếc không giống nhau. Mặc kệ! Không giống nhau cũng đâu có sao, miễn không phải cùng một bên là được rồi. Ông Bảy bất cần đời, mang hai chiếc dép đực cái này cũng gần năm. Ai cười ông cũng tỉnh bơ.

Vậy mà cũng có người giống tính ông Bảy, đó là người bị ông mang lộn dép. Năm sau đi ăn giỗ ông gặp lại một người mang y chang đôi dép cũng đực cái giống mình. Hai người tới nhà bà Sáu cùng lúc, cùng khám phá ra sự giống nhau của hai đôi dép quái chiêu, và cùng nhau đổi lại cho đúng đôi đực với đực, cái với cái. Hai người cùng hỉ hả vui mừng hết sức không phải vì tìm ra chiếc dép mà vì cho thiên hạ thấy rằng họ sai. Có còn bảo họ “không giống ai” nữa không.

Ông Bảy hân hoan mang đúng đôi dép của mình về nhà. Tuần sau ông được mời tới nhà thằng Tửng nhậu mừng tân gia. Ai cũng bỏ giép bỏ giày ngoài cửa. Lần này cẩn thận hơn, khi ra về ông cầm đôi dép lên nhìn kỹ và đắc chí nói:
-Ha ha! giống nhau. Đừng có cười tao lẩm cẩm nghe.

Nhờ nhìn kỹ vậy nên lần này ông Bảy quá tài không lộn chiếc dép đực dép cái nữa. Chơi ngon hơn là ông lộn cả đôi! Đôi dép này mới hơn và hẹp hơn! Vậy mà ông cũng xỏ chân được và chẳng mảy may nhận ra.

Mới lộn được một đêm ông chưa kịp khám phá thì sáng sớm hôm sau thằng Tửng chủ nhân của đôi dép tới ngay trước chòi réo:
-Bác Bảy ơi bác Bảy, bác mang lộn dép của con rồi.
Ông Bảy lê đôi dép chạy ra cãi:
-Tao mang 2 chiếc giống nhau mà. Đây nè coi đi.

Thằng Tửng lột đôi dép mốc thếch đang mang dưới chân ra nói:
-Tối hôm qua lúc mọi người về con thấy mất đôi dép của mình mà lại dư ra một đôi không ai nhận là nghi bác Bảy lại mang lộn nữa rồi. Bác mang đôi dép của con chật ém mà không nhận ra hả?

Thằng Tửng tế nhị không dám nói là đôi dép của nó còn mới sợ ông già nhột dạ. Ông Bảy nhận ra sự sai lầm của mình, lột đôi dép đổi lại cho thằng Tửng và giã lã:
-Trời ơi! Tao không nhận mình đãng trí không được. Mà mày đừng nghĩ là tao tham đôi dép mới của mày nghe con.

Thằng Tửng đâu dám nghĩ xấu ông Bảy mà lỡ có nghĩ bậy cũng sức mấy dám nói ra vì ông Bảy là người có ơn cứu mạng nó. Năm ngoái thằng Tửng bị thất tình uống thuốc chuột tự tử. Nó xùi bọt mép nằm trợn mắt gần chết thì ông Bảy có chuyện vào nhà kiếm...má nó. Thấy thằng nhỏ ngoặt ngoẹo như vậy ông Bảy chạy bay ra ngõ kêu xe lam để chở nó vào nhà thương. Ngẳng cái xe lam này từ đời tám hoánh ông cố nội của thằng Tửng, tới trước nhà thằng nhỏ thì tắt máy không nổ nữa. Ông Bảy cong đít đẩy hoài mà xe lam cứ khẹt khẹt được vài tiếng như ho gà rồi tắt tịt chứ không chịu nổ. Thằng Tửng gần chết chứ đầu óc còn nhận biết được. Nó thấy tướng ròm của ông Bảy đẩy yếu quá nên ...tức mình còn chút tàn hơi gượng dậy, lảo đảo chạy ra đẩy phụ chiếc xe. Có lẽ lúc đó ý tưởng cầu sinh của nó nổi lên. Nó đẩy xe toát cả mồ hôi, vãi cả nước đái, thấy mấy chục ông trời ông trăng mà xe vẫn không nổ. Đến khi hai ông cháu gần muốn bỏ cuộc, thu hết tàn hơi đẩy ra và hét lên một tiếng thì chiếc xe thổ tả gầm gừ và...nổ dòn. Cả ông Bảy và thằng Tửng cùng mừng rú và ngã lăn vào thùng xe thở dốc, mặt mày xanh rờn, rồi xỉu luôn tại chỗ.

Xe chạy tới nhà thương, người ta phải đem cả hai vào phòng cấp cứu. Thằng Tửng may mắn được cứu mạng thoát chết. Người ta đoán có lẽ nhờ nó đẩy xe toát mồ hôi, vãi nước đái, tiết được phần nào chất độc ra ngoài nên nó mới sống được. Từ đấy nó coi ông Bảy như người có ơn lớn với nó, như cha mẹ tái sinh. Còn ai hỏi chọc nó sao hổng chịu yên phận chết mà còn chạy ra đẩy xe làm gì? Nó chỉ cười hí hí nói lúc đó nhìn thấy tướng ông Bảy vừa xấu vừa già mà còn có đàn bà con gái chịu đèn. Còn nó đẹp trai trẻ trung mắc mớ gì vì một đứa con gái mà bỏ mạng uổng quá xá. Hơn nữa chết đi chắc má nó buồn lắm vì chỉ có mình nó là con nên ráng sức phụ ông Bảy mà cứu mạng mình.
Má thằng Tửng biết ơn ông Bảy cứu con mình lắm. Ba thằng Tửng đi bán muối từ khuya. Má nó cứ vài ba ngày nấu miếng canh, kho miếng cá bắt thằng Tửng bưng qua nhà cho ông Bảy. Bà có qua thì ông có lại. Ông Bảy có trồng vài luống rau, luống cà nên cũng gởi thằng Tửng đem về cho má nó.

Bữa nọ thằng Tửng nói với ông Bảy:
-Má con hỏi sao cà chua bác Bảy trồng có bí quyết gì không mà tròn to và chín đỏ đẹp quá vậy? Má con cũng có trồng cà chua mà trái không lớn được như vầy và khi lớn lại bị nứt chẳng đẹp tí nào.

Ông Bảy tửng tửng nói:
-Thì tối nào tao cũng tưới nó bằng nước tiểu mới ra lò nên tụi nó mắc cở phổng lên và đỏ mặt đẹp như vậy đấy.
Vài ngày sau má thằng Tửng gởi qua tặng ông Bảy mấy trái dưa leo to tướng. Nó chuyển lời má mình:
-Má con bắt chước cách của bác Bảy mà cà chua cũng vẫn đẹt và xấu. Chỉ có tụi dưa leo không cần tưới mà lại vọt to lên thôi.

Biết gặp địch thủ chịu chơi, ông Bảy khoái chí lắm. Má thằng Tửng so ra nhỏ hơn ông cả chục tuổi, tướng tá có hơi mát da mát thịt nhưng cũng bắt mắt. Ông Bảy tuy tướng tá còm nhom muỗi chích không có máu nhưng chắc chắn cắt đầu gối cũng còn máu nên chịu đèn má nó rồi. Một bữa trả cái cà men cho thằng Tửng mang về, ông Bảy nhét vào đó miếng giấy nhỏ có đề vài câu ca dao ông chế thêm:

Ơn trời mưa nắng phải thì,
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu.
Thương em để bụng bấy lâu
Anh xây nhà lầu anh sẽ cưới em...
Vài bữa sau trong ơ cơm có mãnh giấy trả lời:
Trời mưa nước chảy tèm lem
Chờ ông đi cưới chắc em khô rồi.
Đến chừng nước ngập cả đồi
Biển Đông khô cạn nhà lầu mới xây?

Ông Bảy không ngờ má thằng Tửng cũng đáo để đớp chát như vậy. Trả lời kiểu này có vẻ coi thường mình thuộc loại lè phè không thể nào vớ tới bả. Vài bữa sau nhân trời trở lạnh ông thả thêm một mẫu giấy vào bao cà pháo biếu má thằng Tửng:

Cá sầu ai, cá chẳng quạt đuôi,
Mền da tôi mượn dăm đôi ba ngày .
Kẻo không lạnh lẽo thế này ,
Tôi bị ...sưng phổi ai người lo cho???

Thằng Tửng không ngờ nó là con chim xanh đưa thơ cho má nó và ông Bảy. Ngay hôm đó Má nó nhờ nó đem cho ông Bảy hộp thuốc Avil trị cảm và ho trong có câu trả lời :

Ví dầu tình bậu muốn...ho
Bậu nên uống thuốc đừng lo...mượn mền...
Mền ai nấy đắp chớ nên
Cho mượn mà đắp chẳng bền được lâu.

Má thằng Tửng gởi cho ông Bảy hộp thuốc ho xong xù luôn, không cơm không cháo cho ông gì nữa cả. Chắc bả chỉ có ơn chứ không có tình. Mà thật ra má thằng Tửng phòng không gối chiếc lâu nay cũng cô đơn lắm lắm, không chịu ông Bảy cũng có lý do. Ba thằng Tửng ngày xưa tính khó đàng trời, lại thêm tính ghen nên má nó cũng khổ lên khổ xuống với chồng, hở tí là bị đánh đập, nhiếc mắng. Giờ một thân một mình, của nả chồng để lại không phải lam lũ, muốn ăn muốn chơi gì tùy ý, sướng như tiên. Thấy hoàn cảnh ông Bảy cũng tội nghiệp, có điều ổng đã lớn tuổi rước về rồi phải lo thang thuốc hầu hạ khác gì rước khổ vào thân. Thôi thì lơ đẹp cho xong, để lâu sinh tình thì khổ.
Ông Bảy chỉ bị cảm lạnh sơ sơ, bây giờ nghe má thằng Tửng trả lời như vậy rồi lặng luôn, ông đổi qua thất tình cảm thương nàng ho sù sụ trông thảm thiết lắm. Nhưng trên đời này thiếu gì người có lòng! Bà sui của ông Bảy là một trong những người đó. Bà sui cũng góa chồng được mấy năm nay nên về ở chung nhà với vợ chồng thằng Tèo để hủ hỉ và nhân thể trông dùm mấy đứa cháu ngoại. Nghe tin anh sui bị bịnh nằm chèo queo, bả động lòng thương nấu cháo tự tay bưng qua chòi cho ông Bảy. Bà sui nhỏ nhẻ hỏi thăm :

Anh sui bị cảm lạnh không?
Ăn tô cháo nóng ấm lòng nhen anh.
Cháo này tui bỏ nhiều hành,
Ăn xong anh sẽ khỏe nhanh tức thì.

Ông Bảy bị người đẹp bỏ nằm chèo queo mấy hôm nay. Đang buồn tình hết sức thì lại được một người đẹp khác qua hỏi thăm lại tận tay bưng cháo tới mời tận miệng. Ông Bảy tủi thân mủi lòng muốn khóc. Bà sui dù gì cũng là... « fan » mê thơ của ông một thời. Hồi đó nghe xấp nhỏ nói bà sui khen thơ con cóc của ông nên ông cũng có tặng cho bả vài bài và mỗi dịp gặp nhau hai bên chuyện trò rôm rả hợp ý tâm đầu lắm.

Nhưng một hôm tình cờ ông nghe bà sui khoe với bạn :
-Tui sống hơn 20 năm với chồng không bao giờ cãi với ổng một tiếng. Ổng có la có ăn hiếp tui cũng im ru không cãi lại.
Người bạn tấm tắc khen và hỏi:
-Trời ! Sao chị nhịn hay vậy?

Bà sui khoe :
-Tui không thèm cãi mà bỏ vào chùi cầu tiêu coi như trả đũa ổng.
Người bạn ngạc nhiên:
-Sao lại đi chùi cầu tiêu mà là trả đũa?
Bà sui đắc chí :
-Tui lấy bàn chải đánh răng của ổng mà chùi bồn cầu. Coi như trét phân vô miệng ổng! Cần chi cãi cọ khô nước miếng phải không?

Ông Bảy nghe bà sui nói chuyện với bạn mà hết hồn hết vía! Chu choa ơi, bà này tàn độc thâm hiểm quá sức. Nghĩ lại bà xã của mình hồi còn sống chắc không chơi cái màn này vì bả đâu có chịu nhịn mà cãi lại ùm trời. Mới hay nhìn sự vật thấy vậy mà thực chất thì thường lại khác đi. Tốt nước sơn chắc gì bên trong là gỗ tốt? Ông kể lại và dặn dò thằng con trai của mình coi chừng con vợ được má nó truyền nghề chùi cầu tiêu thì nguy.

Thằng Tèo cười hì hì :
-Có cách ! Mỗi lần chửi nó xong con sắm cái bàn chải đánh răng khác khỏi lo nó chơi màn chùi cầu tiêu! Ba đừng lo!

Ông Bảy yên tâm cho thằng con trai nhưng từ đó ông mất hứng không còn tặng thơ cho bà sui nữa và nếu có gặp cũng lơ là bãi buôi dăm câu chuyện rồi tìm cách dông mất.
Nhưng nay bà sui có lòng đem cháo qua trong lúc tối lửa tắt đèn như thế này, tâm hồn con người đang lúc chùng xuống, áo não thê lương thì làm sao không cảm động đậy được.

Ông Bảy vừa húp cháo vừa thầm thì cho tự mình nghe :
Cháo hành này chẳng gì bì,
Ăn vào lỡ...bị chùi...gì...cũng cam.

Mới thấy đàn ông dù nhiều tuổi, nhiều kinh nghiệm cũng vẫn dễ bị dụ như thường. Chỉ cần chút mật ngọt, chút dịu dàng là...tiêu đời dễ như chơi.

Tình ông sui bà sui chưa kịp tiến triển thì bà sui chắc bị lây bịnh ông sui, nằm liệt. Bà sui không ăn được, không ngủ được, không nói được, và ngay cả không đi... qua chòi ông sui được. Ông Bảy qua thăm mà bà sui không thể mở mắt nhìn và không chào chàng được một tiếng. Bịnh thật là nặng, không khéo đi điện kỳ này! Vợ chồng thằng Tèo phải mời bác sĩ tới nhà coi bịnh cho bà ngoại xấp nhỏ. Bác sĩ cho chuyền một chai nước biển và một chai chất đạm dây nhợ lòng thòng coi tội hết sức.

Bác sĩ thật hay! Mới chuyền được 1 tiếng đồng hồ thì bà sui mở mắt ra được. Việc đầu tiên là bả ngoắt tay kêu con gái tới, thì thào nói :
-Nhớ để dành 2 chai nước biển bán ve chai nghen con!

Trời ơi! Không ngờ bà sui có tật hà tiện. Cũng chẳng sao, bả hà tiện cũng là chắt bóp lo cho gia đình, có sao đâu. Nhưng đến cái màn sau này thì ông Bảy hết còn biện hộ cho bà sui được nữa. Số là sau khi lành bệnh, thỉnh thoảng mỗi năm bảy bữa, vào lúc trời chiều sâm sẩm bà sui lại thân chinh đem qua tặng ông Bảy trái mãn cầu, trái vú sữa, hoặc trái ổi xá lị chín rục thơm nức mũi. Bà sui còn ân cần tận tay lột hoặc cắt trái cây mời ông ăn, vừa ăn vừa tán chuyện tào lao trên trời dưới đất. Ông khà hớp rượu, rồi kể chuyện tiếu lâm, bà cười nắc nẻ. Có khi vui quá bà một tay ôm bụng rũ ra cười, còn tay kia thì thì cầm miếng trái cây đút vô miệng ông ra chiều muốn trám cái miệng tiếu lâm không cho nói tếu nữa. Thật là vừa vui vừa...tình !

Một bữa sáng nọ bà sui sai thằng cháu nội bưng qua cho ông Bảy hủ dưa cải trông ngon đáo để. Ông Bảy nhắn với thằng cháu :
-Con về nói với bà Ngoại ông Nội cảm ơn nhiều nhen. Dưa cải ngon lắm, ông Nội thích lắm, để tối nay ông Nội nhắm với rượu.

Thằng cháu nội mới lên tư thật tình méc :
-Con thấy có con gián nằm trong dưa cải. Bà Ngoại vớt con gián ra quăng cho gà ăn. Rồi Ngoại cầm hủ dưa lên nhìn tới nhìn lui và nói dưa cải bỏ uổng quá, thôi đem tặng cho « thằng chả ». Rồi Ngoại kêu con biểu đưa hủ dưa cải này qua cho ông Nội. « Thằng chả » là tên của ông Nội hở ?

Ông Bảy nghe thằng cháu Nội ngây thơ nói mà mặt mày méo xẹo và lòng buồn rười rượi. Hóa ra bả coi mình như thùng nước cơm chứa đồ ăn bỏ đi. Sao bả không lấy dưa cải này nấu cháo heo mà lại đem tặng mình. Rồi ông rùng mình nghĩ đến mấy thứ trái cây bà sui đem qua tặng hôm giờ. Tại sao lại đem qua vào lúc trời chập choạng không mấy sáng ? Tại sao lại cứ dục mình ăn ngay mà không để đến hôm sau ?

Ông Bảy dò hỏi thằng cháu nhỏ :
-Bà Ngoại có hay mua trái cây không vậy ?
-Dạ có ! Bà Ngoại mua để trên bàn thờ ông Ngoại.
-Bà Ngoại có cho con ăn trái cây cúng không ?
Thằng cháu vừa chằn môi ra điều ghê sợ vừa lắc đầu ngoay ngoảy :
-Trái cây bà Ngoại cúng trên bàn thờ lâu thật lâu, mềm èo có nhiều con giòi ngo ngoe gớm lắm con không ăn đâu.

Ông Bảy lạnh mình, người mọc gai ốc. Không biết bà sui có phải chỉ là hà tiện hay là chơi ông như chơi lão chồng ngày nào. Lão chồng hồi còn sống bị trét phân vào miệng. Còn ông thì bị cho ăn giòi!

Ông Bảy vẫn không biết rằng, ông đã có tội lớn tày đình với bà sui vì ngày nào đã dám lơ đẹp bả mà “thân” với má thằng Tửng. Ông cũng không biết rằng bà sui đã thì thầm nhiều lần với ông chồng đang ngồi ngậm tăm trên bàn thờ:

“Thằng chả” tưởng mình ngon lắm hả?


Thanh Mai

Hansy
01-09-2014, 03:16 PM
31


ĐỆ NHẤT KIẾM SĨ

ThaiNC

Trời gần về chiều, nhưng cơn nắng gay gắt vẫn bao trùm vạn vật. Dưới sức cuồng nộ của thần Mặt Trời, ngọn Hồng Lĩnh nằm yên chịu đựng. Thoai thoải ven sườn núi đến con đường mòn tận đằng xa, cả rừng cây rậm rạp bị ngự trị và khuất phục trước uy vũ thiên nhiên lặng yên không di động; ngoại trừ một bóng trắng đang di chuyển an nhiên trên con đường.

Khách bộ hành là một người đàn ông đứng tuổi. Chiếc áo choàng màu trắng dình đầy bụi đường vì quãng đường dài trước khi đến đây.Vầng trán rộng dưới chiếc nón rộng vành lấm tấm hài hạt mồ hôi, nhưng đôi mắt sáng không tỏ vẻ gì nhọc mệt, chân vẫn nhịp bước tiến về phía trước.

Khi đã đến chân núi, khách dừng lại quan sát địa thế. Có hai con đường đi lên núi. Một ở phía đông, và một ở phía tây.Tây lộ thẳng tắp và đầy dốc đá hiểm trở. Đông lộ thoai thoải và ngoằn ngoèo như con rắn uốn mình lên núi. Cả hai đường đều rất hẹp chỉ đủ một người lách qua. Khách dợm mình định lên tây lộ để rút ngắn quãng đường. Bỗng ông chú ý thấy bên đông lộ một quyện khói bốc lên. Phía dưới thấp thoáng một mái tranh ẩn mình trong lùm cây sum xuê. Té ra ở ngọn núi trơ trọi giữa một vùng hoang vu này cũng có người cư ngụ. Có lẽ gia đình của tiều phu hay thợ săn chi đây. Khách chợt cảm thấy một niềm vui nho nhỏ loé lên trong lòng. Nhìn về phía mặt trời nhẩm tính thời gian vẫn còn rộng rãi, ông quyết định đi con đường phía đông.

Nguời áo trắng khoan thai tiến lên. Càng về phía trên, ông nhận thấy những cụm hoa rừng thành từng hàng thẳng thớm. Đi thêm đoạn nữa, quả nhiên căn nhà tranh gọn ghẽ xuất hiện trong tầm mắt. Ông tiến đến đưa tay gõ cửa.

Đợi một chút, quả nhiên cánh cửa bật mở. Một người đàn ông sừng sững bên trong.
Người áo trắng chắp tay nói:
-Ông anh, tôi có việc lên đỉnh núi đi ngang đây, có thể xin ông chén nước?
Người đàn ông ngần ngừ trong giây lát, rồi né sang một bên nhường lối:
-Được, mời ông vào nhà nghỉ mệt.

Khách theo gia chủ bước vào trong. Đây là một căn nhà nhỏ ba gian. Phòng ngòai có chiếc bàn gỗ và bốn cái ghế đẩu để tiếp khách, mặc dù ở chốn hoang dã này khách của gia chủ chắc cũng rất hiếm hoi. Chung quanh phòng thật đơn sơ, vài bộ da thú và đôi sừng hươu khá lớn tại góc phòng. Phía bên kia tường treo một chiếc cung sắt và ống tre chứa đầy tên. Sự bày biện trong nhà khiến khách đóan chừng gia chủ sinh sống bằng nghề săn bắn. Không biết ông ta sống một mình hay có gia đình?

Khách đang suy nghĩ, gia chủ đã trở ra kéo ghế ngồi đối diện.
-Mời ông đợi trong giây lát. Tiện nội đang châm trà.
Té ra ông ta còn có vợ ở đây
-Không dám làm phiền nhiều. Xin ông anh chén nước mưa là đủ rồi.

Chủ mỉm cười thân mật -Chúng tôi ở đây chẳng mấy khi được tiếp khách. Nhưng dù sao cũng cho phải phép, Chẳng hay…đại hiệp có việc gì phải lên núi? Từ đây lên đến ngọn còn khá xa, đừng đi rất hiểm trở.

Chủ nhà tinh ý đóan được khách phải là một bậc kiếm khách giang hồ qua dáng cách khoan thai, thái độ trầm hùng, và nhất là thanh kiếm gác bên cạnh.
Khách trả lời
-Tôi có hẹn cùng người bạn trên đỉnh núi đêm nay.

Chủ nhà khá ngạc nhiên khi nghe khách nói. Kể cũng kỳ lạ. Thiên hạ thiếu chi chổ ấm cúng thoải mái, lại cùng nhau hò hẹn lên ngọn núi trơ trọi. Nhưng nghĩ lại khách giang hồ thường có nhũng hành động người thường không thể hiẻu được nên cũng không hỏi gì thêm.

Giữa lúc đó, người vợ của gia chủ đã mang trà lên, rót đầy hai chén.
-Mời đại hiệp dùng trà.
- Cám ơn đại tẩu. Khách đáp lễ.
Chủ và khách cùng bưng chén nhắp vài ngụm nhỏ. Khách bắt chuyện
-Thật không ngờ giữa chốn núi non hoang dã như vầy lại có gia đình ông anh cư ngụ.

Cảnh trí thật hùng vĩ. Đúng là một nơi lý tưởng.
-Đại hiệp nhận xét đúng đó. Chỉ có điều hơi bất tiện là mỗi lần xuống làng giao dịch đổi chác phải nửa ngày đường. Nhưng rồi cũng quen…
-Ông anh làm nghề săn bắn ở đây?

Chủ gật đầu
-Đúng vậy. Gia đình tôi mấy đời đều lấy nghề săn bắn làm kế sinh nhai. Đó là lý do chúng tôi phải làm nhà ở đây, cách biệt với xóm làng chung quanh.
-Vậy chẳng hay ông anh đã có cháu để nối nghiệp?

Nghe hỏi, gia chủ lộ vẻ phiền muộn, trả lời
-Không dấu gì đại hiệp. Tôi cùng nhà tôi chung sống đã lâu nhưng chỉ có môt mụn con trai. Năm nay nó mười tuổi.

Kể cũng là hiếm muộn, nhưng nghĩ lại thì dù sao có được đứa con nối dõi tông đường thì cũng mãn nguyện rồi. Vậy mà…
Chủ nói tới đây bỗng dừng lại, lặng lẽ lắc đầu
-Chuyện gì xảy ra cho cháu? Khách hỏi
Chủ buồn bã:
-Tôi cũng không rõ lắm. Cách đây mấy bữa, tôi dẫn nó vào rừng tập bắn, về nhà bỗng lâm ra bệnh nặng.

- Bệnh gì? Chắc là ông anh đã mời thầy thuốc?
- Dĩ nhiên. Chỉ một đúa con thôi nên chúng tôi lo lắm. Tôi đã mời hai thầy lang nổi tiếng nhất của hai làng gần đây về chẩn mạch. Vậy mà cả hai đều không rõ bệnh gì. Họ có cho toa hốt thuốc, nhưng vẫn không thấy hiệu nghiệm gì cả. Hà…
Khách lộ vẻ ngạc nhiên.
-Bệnh cháu làm sao?

Chủ rầu rĩ nói:
-Căn bệnh rất lạ đời. Như tôi nói hôm vào rừng tập bắn cung xong về nhà, nó bỗng than lạnh. Đại hiệp thấy lạ lùng không chứ? Giữa trời đang nóng bức như vầy…Càng lúc cơn lạnh càng tăng, hành hạ nó đến chết giấc dù tôi đã đắp chăn ấm và đốt lò sưởi chung quanh cách mấy cũng không giảm.Tội nghiệp, cũng có lúc tỉnh dậy muốn nói gì đó mà không thành lời.Khi tỉnh khi mê . Có lẽ…không qua khỏi. Hà….

Chủ nhà dứt câu, thở dài ảo não làm khách aí ngại. Quả là một điều bất hạnh. Hai vợ chồng đều đứng tuổi, chỉ có một mụn con an ủi lúc về già và để nối dõi. Vậy mà đứa con đó đang bị tử thần đe dọa bằng căn bệnh kỳ lạ..

Một ý nghĩ thoáng qua, khách nói
-Tôi tuy không phải là thầy thuốc, nhưng cũng biết chút ít về y lý. Ông anh có thể để tôi xem qua cháu được không?

Chủ nhìn khách nghi ngờ. Bệnh tình của con ông đến thầy lang nổi tiếng còn đành bó tay, huống chi…Nhưng càng nhìn khách, thấy đôi mắt sáng cương nghị, dáng cách ung dung, gia chủ bỗng thấy một niềm hy vọng lóe sáng. Nói cho cùng, gia đình ông đang lúc tuyệt vọng. Đâu còn gì có thể tệ hơn nữa?
Ông phấn khởi
-Thật là may mắn. Nếu đại hiệp chữa được cho cháu. Ơn này chúng tôi không bao giờ dám quên. Mời đại hiệp.

Nói xong, gia chủ đứng dậy dẫn lối cho khách vô phòng bên trong.
Vừa bước vào, khách đã thấy luồng hơi nóng hừng hực từ hai lò sưởi đang đỏ chói than hồng. Trên giường, một thằng bé đang thiu thiu ngủ dưới tấm chăn dày cộm trùm kín từ cổ tới chân, chỉ chừa khuôn mặt trắng bệt. Bên cạnh giường, mẹ đứa bé ngồi yên lặng nhìn con buồn bã. Thấy khách buớc vào, bà đứng dậy lùi lại phía sau nhường lối.

Khách áo trắng ngồi xuống. Ông luồn tay dưới chăn nắm lấy cổ tay thằng bé để xem mạch. Trong khi đó, hai vợ chồng người thợ săn tựa cửa nhìn vào dáng diệu hồi hộp. Họ đang tuyệt vọng nên hễ có cơ may nào cứu vãn tình thế đều cố nắm lấy, dù tia hy vọng đó có mong manh.

Cả bốn người, kể cả đứa bé mắc bệnh mê man trên giường đều bất động. Độ chừng tàn nửa nén nhang, khách buông tay chậm chạp đứng dậy. Chủ nhà tiến đến run run hỏi:
-Đại hiệp thấy thế nào?

Khách trầm ngâm chưa trả lời, vợ gia chủ đã quỳ xuống khóc thút thít
-Đại hiệp, xin cứu độ. Chúng tôi nhớ ơn suốt đời.
Khách ngưng luồng tư tưởng đang tranh đấu dữ dội trong đầu, cúi xuống nâng người mẹ đau khổ lên
-Đại tẩu, đừng làm vậy. Tôi sẽ cố gắng.Tôi đang suy nghĩ về bệnh tình của cháu đây mà.

Người chồng dù sao cũng còn bình tĩnh hơn, nắm áo vợ kéo ra ngoài “Để cho đại hiệp suy nghĩ” Ông thì thầm.

Còn lại một mình khách áo trắng trong phòng. Ông chắp tay sau lưng, trán nhăn tít nhìn đứa bé. Nó thật đáng hương.Giữa trời mùa hạ, lại thêm hai lò sưởi chung quanh, vậy mà thỉnh thoảng răng nó đánh vào nhau nghe cồm cộp.
Mình có nên chữa cho nó không?

Thì ra khách đã rõ nguyên nhân gây ra căn bệnh, và biết mình có thể cứu đứa bé thoát khỏi vòng tay tử thần. Điều làm ông suy nghĩ là có nên ra tay chữa trị đứa bé lúc này hay không mà thôi.
Tại sao ?
Khách vốn là một bậc đại hiệp nức tiếng võ lâm, luôn cứu khổn phò nguy. Vậy hôm nay vì cớ gì ngần ngại với đứa bế tội ngiệp này. Muốn biết rõ nguyên nhân, chúng ta phải ngược giòng thời gian khoảng mười năm.


***

Mười năm trước, chốn giang hồ bỗng xuất hiện hai tay đại cao thủ. Một người hành hiệp ở phương Bắc, người kia ở phương Nam. Cả hai cùng khá trẻ trên dưới ba mươi, và võ công của họ thật cao cường không ai chống nổi. Lấy con sông Trường Giang làm ranh giới, mọi người gọi họ là Nam Kiếm và Bắc Kiếm, vì cả hai đều lấy kiếm làm binh khí.. Tất cả mọi phái võ thời bấy giờ đều công nhận hai người có võ công cao nhất. Nhưng ai là người giỏi hơn trong hai người là một câu hỏi không thể trả lời. Cả Nam lẫn Bắc kiếm đều thuộc giới hiệp nghĩa, chung mục đích trừ gian diệt bạo, nên họ chưa bao giờ giao chiến cùng nhau. Thâm chí cũng chưa có kẻ nào được dịp giao đấu với cả hai người để mà bình phẩm, ngoại trừ vài tên đại đạo, nhưng chúng đều đã ra…người thiên cổ. Vì vậy, ngôi vị đệ nhất kiếm vỏ lâm hơn mươi năm qua vẫn còn để trống.

Đó là những điều giang hồ đồn đãi. Một sự thực mà chỉ có hai người biết rõ, đó là họ đã bí mật thử tài nhau hai lần, và không ai thắng được ai. Mỗi lần thủ huề như vậy, họ đã hẹn thời hạn năm năm cùng nhau tái đấu để quyết định ngôi vị tay kiếm đệ nhất.
Hôm nay là ngày hẹn lần đấu thứ ba của họ. Nơi định là đỉnh núi Hồng Lĩnh hoang vu không ai qua lại này. Và khách áo trắng chính là Nam Kiếm trên đường đến nơi quyết đấu.

Chính vì tầm quan trọng của cuộc so tài đêm nay đã làm khách áo trắng suy nghĩ mãnh liệt. Lúc bắt mạch đứa bé xong, ông biết nó bị gió ma xâm nhập. Gío Ma chỉ là tiếng gọi của dân gian chứ thật ra chỉ là một luồng gío chướng cực hàn thỉnh thoảng thổi qua những vùng núi hoang vu và dễ dàng giết hại những ai chẳng may bị nó thổi qua. Vì nguồn gốc hiếm hoi của nó mà những đại phu thường tình của dân gian ít ai rõ căn nguyên, nguồn gốc, và do đó không thể chữa trị bằng những phương thuốc thông thường được. Tuy nhiên đây không phải là căn bệnh bất trị. Những đại phu giỏi và hiểu căn nguyên có thể đặc chế những toa thuốc cực nhiệt và từ từ có thể chữa được. Nhưng ở nơi hoang vu này làm sao có được đại phu giỏi? Hơn nữa bệnh tình thằng bé này đã đến hồi nguy kịch, không còn thì giờ nữa. Ông thấy là nó đã không thể cầm cự được nữa rồi.

Thật là khó nghĩ. Khách áo trắng biết rằng phương pháp duy nhứt ngay bây giờ để cứu sống đứa bé là ông phải dùng công lực bản thân của ông biến thành nhiệt khí thay thế cho thuốc truyền vào đứa bé thì mới có thể hóa giải làn gío ma trong người nó.. Dĩ nhiên cứu chữa xong, ông sẽ bị tổn hao công lực nghiêm trọng cần tịnh dưỡng một thời gian dài để phục hồi.

Nếu là ngày khác, ông nào có sá chi, và sẽ không ngần ngại ra tay ngay. Nhưng hôm nay lại khác. Trước đối thủ đồng sức đồng tài, ông cần bảo tồn hoàn toàn chân lực để chiến đấu. Điều khó khăn là không thể để đến ngày mai. Mạch của thằng bé quá yếu ớt. Khó lòng qua khỏi đêm nay. Ông cũng không thể dời lại cuộc chiến. Quân tử nhất ngôn. Một lời hứa nặng tựa Thái Sơn.

Ông phải quyết định. Danh dự hay lương tâm? Hơn mười năm ngang dọc, khách áo trắng chưa bao giờ phải đứng trước tình thế nan giải.

“ Cạcch…Cạccchhh..”
Đứa bé đang lên cơn lạnh, răng đánh vào nhau làm tim ông đau nhói. Ông bỗng nhớ lại lúc mẹ nó quỳ xuống van nài. Đôi mắt bà đầy vể thiết tha cầu khẩn. Ôi lòng mẹ thương con vô bờ bến. Ông cũng nhớ ánh mắt người cha rực niềm hy vọng khi đưa ông vào chẩn mạch. Ngày xưa ông chỉ là đứa con mồ côi được thầy nuôi nấng dậy dỗ từ thuở ấu thơ, chưa một lần được hưởng tình mẫu tử thiêng liêng. Khi trưởng thành xuống núi, ông là kiếm sĩ cô đơn sống với tha nhân, không có gia đình để được hân hạnh làm cha…

“Cạacchhh…cạacch..”
Cơn lạnh đang hành hạ đứa bé mãnh liệt. Ông thấy từ khóe mắt nó hai giọt nước mắt chảy xuống gò má. Hình như nó đang tỉnh, muốn kêu cha kêu mẹ mà không thành tiếng. Hơi thở của nó trở nên mạnh hơn và khò khè dồn dập. Nó đang hấp hối.

Khách áo trắng tuốt kiếm ra khỏi vỏ nâng ngang mày. Mười năm qua thanh kiêm này chưa bao giờ thua. Tuy hai lần nó không thể chiến thắng trước Bắc Kiếm, nhưng cũng chưa thua.

Kiếm trong tay, kiếm sĩ quay lại nhìn đứa bé. Ông cảm thấy như người nằm kia không phải là thằng bé con ông thợ săn nữa. Ông thấy rõ ràng là người thầy năm xưa của ông đang hấp hối trên giường bệnh, nói với ông câu sau cùng “Kiếm để cứu, không phải để thắng. Kiếm có thể giết, nhưng là giết một để cứu mười.” Mười năm qua ông đã luôn luôn vâng lời thầy dạy. Tay kiếm của ông cứu khổn phò nguy. Kiếm của ông đã từng nhúng máu không biết bao nhiêu cường hào, giặc cướp… trừ hại cho nhân gian. Thầy của ông chưa bao giờ dạy ông trở thành đệ nhất kiếm sĩ. Chưa bao giờ.

Ông bừng tỉnh. Là đệ nhất, hay đệ nhị kiếm, hay thậm chí đệ thập kiếm thì ông vẫn là ông, vẫn là một kiếm sĩ trừ gian diệt bạo theo đúng lời thầy dạy. Nhưng nếu bây giờ ông quay lưng thì mạng sống thằng bé chắc chắn sẽ bị tử thần cướp đi, và cuộc đời còn lại của vợ chồng người thợ săn tốt bụng này sẽ là những ngày dài cô quạnh.

Không suy nghĩ gì thêm, khách nhảy phóc lên giường. Một tay đỡ đứa bé dậy, tay kia ấn vào lưng, tập trung tất cả tinh thần và công lực bắt đầu cuộc chữa trị…

Hai vợ chồng thợ săn kiên nhẫn đợi bên ngoài. Không biết thời gian là bao lâu, cửa phòng bật mở. Khách áo trắng chậm chạp bước ra, dáng điệu mệt mỏi.

Người chồng đưa tay đỡ khách, run giọng hỏi
-Đại hiệp, ông…không sao chứ?

Người vợ vùng chạy vào bên trong.
Trên giường, đứa con của bà đang thiêm thiếp. Khuôn mặt trắng bệt lúc nãy nay đã ửng hiện vài nét hồng hào. Rõ ràng nhất là nhịp thở. Nhịp thở đều đặn và thông suốt. Trên người nó chỉ còn tấm chăn nhẹ đắp đến ngực. Hai lò sưởi đã tắt tự hồi nào. Làn sinh khí mồn một trên nét mặt đứa bé cho bà biết rằng, nó đã qua cơn bão dữ. Bà muốn chạy lại ôm con nhưng cố dằn, vội chạy ra ngoài hướng về khách áo trắng quỳ lạy liên hồi. Bà muốn nói muôn ngàn tiếng cám ơn nhưng không thể thốt nên lời, chỉ để hai giòng nước mắt tuôn tầm tã. Người chồng tuy chưa vào thăm con, nhưng thấy hành động của vợ cũng đủ hiểu. Bất giác, ông cũng quỳ xuống bên vợ…

Khách áo trắng ngồi xếp bàn yên lặng, không hề biết đến những gì trước mặt mình. Ông đang đi tới cảnh giới vô ngã để phục hồi chân lực đã thất thoát.
Một lúc khá lâu, khách mở bừng mắt. Bên ngoài trời đã tối, chỉ còn ánh nến leo lét duy nhất trong căn nhà. Người chồng mừng rỡ.
- Đại hiệp đã tỉnh.
Khách nhìn ra bên ngoài hỏi:
- Bây giờ là canh mấy?

Người chồng trả lời
-Độ chừng tàn canh một, sắp sang canh hai.
Khách lẩm nhẩm gật đầu, hỏi tiếp
-Cháu đã tỉnh chưa?
- Nó vẫn còn ngủ. Để tôi kêu nó dậy tạ ơn đại hiệp.

Khách xua tay đứng dậy
-Đừng. Cứ để cho cháu ngủ càng nhiều càng tốt. Khí lạnh không còn nữa, nhưng nó vẫn còn yếu. Khi nào cháu dậy, ông anh cứ cho nó ăn cháo loãng, đợi ngày mai vào làng bổ vài thang thuốc bổ. Tịnh dưỡng khoảng nửa tháng là không còn lo gì nữa.Tôi phải đi ngay bây giờ để kịp giờ hẹn cùng người bạn.

Người vợ chủ nhà mới từ phòng con bước ra bỗng lên tiếng,
-Trời đã tối, đường lên núi hiểm trở, đại hiệp lại không quen lối. Hay để ông nhà tôi lên núi mời bạn đại hiệp xuống đây hội ngộ có nên chăng?

Khách mỉm cười
-Cám ơn hai vị. Người bạn tôi tính tình kỳ quái. Ngoài tôi ra không chịu gặp ai đâu.
Nói xong ông cương quyết đi về chiếc bàn nhỏ, cầm thanh cổ kiếm đeo lên lưng. Hai vợ chồng chủ nhà thấy khách đã quyết, không dám ngăn trở, cùng nhau vái vị ân nhân
- Đại hiệp nhất định phải đi, chúng tôi không dám cản. Ơn cứu mạng cháu chưa có gì đền đáp. Khi xong việc, mời đại hiệp ghé lại đây lần nữa để cháu có dịp bái tạ.
- Xin vâng. Khi trở về tôi sẽ ghé lại thăm cháu và hai vị.

Đoạn khách chậm rãi bước ra khỏi nhà, tiếp tục trên con đường ngoằn ngoèo dẫn lên đỉnh núi. Hai vợ chồng thợ săn cùng nhìn theo ân nhân cho đến khi bóng ông khuất hẳn trong tầm mắt.

Khách áo trắng lầm lũi tiến lên ngọn Hồng Lĩnh. Giờ hẹn với tay kiếm phương Bắc là canh ba. Có lẽ y đã đến và đang chờ. Đêm nay trăng sáng ngời đỉnh núi. Không khí ban đêm mát dịu và tĩnh lặng. Khách áo trắng bước đều trong một tâm hồn thanh thản. Ông nhớ lại lúc dùng dằng chưa dứt khoát chịu cứu trị cho đứa bé. Chỉ chậm trễ chút nữa, ông có thể ân hận suốt đời. Lương tâm đã bình yên, ông trở lại là một kiếm sĩ. Danh dự không cho phép ông hủy bỏ cuộc tranh tài đêm nay dù biết phen này nắm chắc phần thua. Ông sẽ ra tay quyết đấu. Dù đây chỉ là ấn chứng võ học, không phải hận thù quyết tử, nhưng ông cũng hiểu rằng khi đã đến chỗ quyết định tối hậu làm sao tránh khỏi sơ xẩy, mà đao kiếm thì vô tình… Nếu ông có gục ngã, xuống suối vàng cũng không hổ thẹn gặp lại thầy, vì ông đã sống và chết như một kiếm sĩ chân chính.


***

Chân vẫn nhịp bước chẳng mấy chốc đã lên tới đỉnh. Dưới ánh trăng, một bóng người đứng chờ sẵn. Bắc Kiếm. Áo choàng đen phất phới. Chòm râu quai nón trên gương mặt phong trần, oai vĩ. Người áo đen đứng đó trầm hùng, vững chãi như ngọn Hồng Lĩnh, tựa hồ như không có gió bão nào, không có sức mạnh nào có thể lay chuyển được. Đằng kia, khách áo trắng điềm tĩnh tiến lên. Bước chân ông siêu thoát như mây trôi,như nước chảy, tưởng chừng không gì trên đời có thể cản được bước tiến của ông. Hai tay kiếm chưa đối mặt mà khí thế đấu chiến của họ đã bao trùm không gian.

Cuối cùng họ đã đối diện nhau, kính cẩn chào. Người áo đen lên tiếng trước
-Năm năm cách biệt, bạn vẫn như xưa
-Bạn cũng vậy. Khách áo trắng cười nhẹ.
-Hai lần trước, chúng ta đều không phân thắng bại. Năm năm trôi qua, sức thành tựu của mỗi người không thể bằng nhau mãi. Đêm nay tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ quyết định được. Nếu còn huề nữa, lời hẹn năm năm xin hủy bỏ, vì ta sẽ vĩnh viễn không thắng được bạn.

Khách áo trắng mỉm cười một mình. Chính ông cũng có ý định như trên trước khi đến đây. Nhưng bây giờ mọi sự đã thay đổi.
-Bạn yên tâm. Đêm nay chúng ta nhứt định sẽ phân thắng bại.
Người áo đen ngạc nhiên

- Bạn tin tưởng sẽ thắng ta như vậy ư?
Khách áo trắng cười lớn
- Không phải. Ta nói sẽ phân thắng bại, nhưng không có nghĩa là ta sẽ thắng và bạn sẽ bại.
- Hay lắm, vậy chúng ta bắt đầu là vừa.

- Được. Lần trước tôi ra chiêu trước. Lần này mời bạn.
Người áo đen cười sảng khoái
- Được lắm. Ta ra tay đây

Câu nói vừa dứt, thanh thiết kiếm đã nằm trong tay. Người và kiếm từ từ tiến lại. Khách áo trắng cũng đã hoành thanh cổ kiếm mầu bạc chờ đợi. Khi khoảng cách giữa hai người vừa thu ngắn một nửa, người áo đen dừng lại cất tiếng.
-Khoan. Ta có điều muốn hỏi.
-Điều gì?

-Bạn đã lên núi bằng con đường phía Đông hay con đường phía Tây?
-Con đường phía…Tây. Sao?
Người áo đen lắc đầu.
-Bạn đi bằng đường phía Tây thì ta không có điều gì phải nói nữa. Chú ý. Ta ra chiêu đây.
-Sẵn sàng.

Sau một tiếng quát dài, người áo đen và kiếm đã nhập thành một khối, bắn về phía trước. Cùng lúc, vầng sáng bạc trong tay người áo trắng cũng trỗi dậy thành một vòng cầu đón tiếp khối kiếm đen.

Tiếng binh khí bắt đầu chạm nhau thật dữ dội trong đêm trường. Hai thanh kiếm một trắng một đen xoắn tít lấy nhau. Kiếm khí mịt mù bao phủ cả một góc núi.

Đây là lần giao chiến thứ ba. Họ đã biết tài nhau từ muời năm trước. Mỗi chiêu kiếm đưa ra là một tuyệt học được khổ luyện công phu. Hai đấu thủ lúc thì quấn lấy nhau như nhập thành một, lúc thì cùng bị tay kiếm người kia đẩy lùi phía sau, có khi di chuyển nhịp nhàng duới đất, có khi lại phi hành qua các tàng cây…hai thanh kiếm luôn chĩa thẳng vào nhau.

Đang giao đấu kịch liệt, người áo đen Bắc Kiếm bỗng thét to
-Ngừng tay. Và tháo lui.
-Chuyện gì? Người áo trắng hỏi
-Bạn có bệnh gì trong người không?
-Không. Khách áo trắng cười dài.
- Hay là bạn đã cùng tay cao thủ nào giao chiến trước khi lên đây?
- Cũng không nốt. Tại sao bạn hỏi?

Người áo đen trả lời
-Chưa đến một trăm hiệp mà ta thấy tay kiếm của bạn không còn vững vàng nữa.
-Bạn chỉ tưởng tượng. Ta nhớ nãy giờ bạn chưa thắng ta một chiêu nào cả.
-Đúng vậy. Nhưng tiếp tục thêm một trăm hiệp nữa, có lẽ bạn sẽ thua đó.
- Chưa chắc đâu. Tiếp tục đi. Bạn đừng nhiều lời nữa.

Khách áo trắng nói xong vung kiếm tấn công liền tức khắc không để cho người áo đen suy nghĩ gì thêm. Cuộc chiến lại tiếp tục. Hai thanh trường kiếm vun vút dưới ánh trăng như hai con mãng xà quyện vào nhau kêu thét giữa không trung.

Bỗng cả hai cùng thét lớn và dừng tay lại. Kiếm khí tắt hẳn. Hai đối thủ đứng đối diện nhau bất động. Thanh kiếm đen chỉa thẳng vào cổ khách áo trắng, và thanh kiếm bạc cũng chỉa vào người áo đen, cùng vị trí.
Người áo đen nói trước
- Đây là chiêu thứ mấy?
-Chiêu thứ 199
- Đúng vậy. Năm năm trước đây, ta với bạn cũng dừng lại ở đây. Ta nhớ là đã quá 200 hiệp.
- 208 hiệp. Khách áo trắng tiếp lời- Ta và bạn cùng cách một ly , nên lấy đó làm hòa.
-Bây giờ thì sao? Người áo đen hỏi

Hai thanh kiếm vẫn bất động nguyên vị trí khi nó dừng lại. Nhìn kỹ thì thanh kiếm màu đen cách người áo trắng nửa ly. Thanh kiếm bạc cách xa người áo đen…một ly rưỡi.
Khách áo trắng chậm rãi thu kiếm về
- Ta thua rồi. Từ nay bạn là Đệ nhất kiếm.
Người áo đen cũng thu kiếm lại bật tràng cười dài
-Đệ nhất kiếm…ha ha ha. Ta là đệ nhất kiếm rồi sao?

Sau tràng cười sảng khoái, người áo đen bỗng ngưng bặt, mắt loang loáng nhìn khách áo trắng-
-Kỳ lạ. Thật là kỳ lạ. Năm năm trôi qua , kiếm của bạn không tiến lên mà hình như sút giảm? Tại sao? Bạn có gì dấu ta chăng?
-Không có gì cả. Ta vẫn vậy. Chỉ vì bạn tiến bộ vượt bực mà thôi.

Người áo đen lắc đầu
- Bạn đừng dấu ta nữa. Tài nghệ của bạn ta đã rõ. Bạn yếu đi so với năm năm trước nên ta mới có thể thắng một cách dễ dàng như vậy.
Người áo đen nói xong lộ vẻ đăm chiêu suy nghĩ trong thoáng chốc, bỗng mắt ngời sáng
- À ! Ta biết rồi! Ta biết rồi…
- Bạn biết gì?
-Thực ra bạn không lên đây bằng con đường phía Tây. Bạn đã lên bằng con đường phía Đông.

- Có gì khác biệt đâu.
Người áo đen nói
- Khác chứ. Trên con đường phía Đông có gian nhà tranh của gã thợ săn. Lúc ta đi ngang qua đó sáng nay đã biết đứa nhỏ con của họ trúng phải hàn phong cực âm, bệnh tình trầm trọng. Ta đã định ra tay cứu chữa…

Ông dừng lại, thanh âm trầm xuống-…Nhưng nếu chữa cho nó, công lực sẽ bị hao tổn. Ta nghĩ đến cuộc chiến đấu cùng bạn tối nay nên dùng dằng không định. Cuộc đấu này quyết định danh dự đệ nhất kiếm. Ôi cái danh hiệu này đối với ta quan trọng quá, nên cuối cùng ta quyết định bảo tồn chân lực để chiến đấu trước. Ta định sau trận đấu ta sẽ trở lại cứu trị cho nó sau, mặc dù ta biết mạng nó mong manh chưa chắc đã qua khỏi khi ta trở lại.

Bạn cũng lên đây bằng con đường đó, đã gặp đứa bé và đã chữa trị cho nó. Ta biết chắc như vậy vì tay kiếm của bạn không nhanh như xưa nữa. Người luyện võ chúng ta nếu không tiến thì cũng không thể lùi. Thần sắc của bạn an nhiên như vậy chắc không bệnh tật gì. Vừng này hoang vu nghèo nàn, không có đại đạo cao thủ nào cho bạn phải tổn sức. Vậy thì chuyện gì khiến bạn phải hao tổn công lực cho tay kiếm phải chậm đi? Chỉ có thằng bé bị âm hàn cần cứu chữa mà thôi. Bạn đã chữa trị cho nó dù bạn biết rằng như vậy là sẽ thất bại dưới tay ta.

Ta cũng là kiếm sĩ. Ta cũng hiểu rằng kiếm pháp hay thanh danh chỉ là ngoại thân. Cái “TÂM KIẾM” kia mới là cốt tủy của một chân kiếm sĩ. Bạn lấy CỨU làm trọng, lấy THẮNG làm khinh, là kiếm thuật chân chính. Ta lấy CỨU làm khinh lấy THẮNG làm trọng, chẳng mấy chốc sẽ đi vào con đường tà kiếm. Hỡi ơi, trận chiến này thật ra không cần phải đấu. Bạn đã thắng ta tại căn nhà đó rồi. Cái vinh dự Thiên hạ đệ nhất kiếm này ngoài bạn ra không còn ai xứng đáng hơn. Ta thành thật bái phục…và giã biệt.

Khách áo trắng im lặng. Ông không thể nói gì hơn, ngay cả vài lời khiêm tốn cũng là thừa thãi khi mà người đối diện đang cởi mở tấm lòng. Ông hỏi:
-Sao không chờ đến sáng mà bạn phải vội vã đi.?
Người áo đen tiến về con đường mé Đông chậm rãi xuống núi,

-Ta xuống nhà ông thợ săn giúp cho thăng bé chóng phục hồi. Âu cũng là duyên. Bạn đã cứu nó, bây giờ tới phiên ta phải đền bồi. Đợi nó lành bệnh ta sẽ xin cha mẹ nó thu làm đồ đệ. Mười năm sau nó sẽ thay ta hành hiệp giang hồ. Nó sẽ dùng kiếm của ta, và cái tâm của bạn. Nó sẽ là một kiếm sĩ chân chính…Hahaha!

Người áo đen bỗng trở nên sảng khoái trở lại. Ông đã tìm lại được chân lý, và hài lòng với giải pháp của mình.

Tiếng cười nhỏ dần về phía dưới để lại khách áo trắng một mình trên ngọn Hồng Lĩnh. Vầng Thái dương lấp ló từ đằng xa báo hiệu một ngày mới. Vài cơn gió nhẹ ban mai thổi tung chiếc áo choàng trắng phất phơ. Ông nói nhỏ một mình “Ông bạn. Với tôi thì bạn cũng là một kiếm sĩ chân chính. Đệ nhất kiếm sĩ”


ThaiNC

Hansy
02-09-2014, 12:10 AM
32

Địa chỉ thần tình yêu

Hàng Ưng

Dưới mắt đáy của hộp trang điểm có địa chỉ của anh ấy.

Bây giờ, anh ấy lại là người đàn ông sống độc thân. Khách sạn mà anh ấy được gọi là Làng thần ái tình. Cứ nghĩ đến cái tên gọi ấy, chị lại thấy náo nức trong lòng, tai chị cứ nóng bừng lên, con tim trong lồng ngực cứ nảy lên như đang nhảy một vũ điệu bốc lửa.
Hôm qua, anh ấy và chị tình cờ gặp nhau trên đường. Hai người cùng nhau vào một tiệm cà phê. Họ ngồi với nhau rất lâu...

Hai mươi năm trước, họ đã đến với nhau và dành cho nhau mối tình đầu trinh trắng, nồng nàn. Tình yêu ban đầu ấy đã để lại trong trái tim mỗi người những kỷ niệm mà cả đời không dễ quên. Họ nói với nhau những chuyện vui buồn trong thời gian xa cách. Hai trái tim bồi hồi thổn thức. Cốc cà phê được khuấy lên, những giọt cà phê đọng lại trên đầu lưỡi vừa ngọt vừa đắng...

Đêm ấy, chị không sao ngủ được. Chị nằm im không dám làm kinh động tới giấc ngủ của chồng. Hán Thông, chồng chị, đang ngủ rất ngon giấc. Xung quanh yên tĩnh không hề có một tiếng động dù là rất nhỏ. Chị không dám trở mình. Dưới ánh trăng nhấp nhoáng, mắt chị không sao khép lại được.

Dưới mặt đáy của hộp trang điểm có địa chỉ của anh ấy.

Hôm nay, chị trang điểm rất cẩn thận. Nhìn trong gương, chị thấy mình vẫn rất xinh đẹp và quyến rũ đến mê người. Đúng, trang điểm là điều tối trọng yếu đối với người phụ nữ tuổi trung niên. Đã lâu chị biếng trang điểm vì thực ra khi đã có chồng thì người đầu tiên thưởng thức vẻ đẹp của người phụ nữ là người chồng nhưng chồng chị chỉ suốt ngày đi làm ở cơ quan, khi về nhà, còn bao nhiêu thời gian, anh lại chúi mũi vào đọc sách không hề để ý gì đến điều đó. Cuộc sống cứ nhạt nhẽo trôi đi một cách vô vị...
Dưới đáy hộp trang điểm có địa chỉ anh ấy.

Số phòng anh ấy ở trong khách sạn, chị đã nhớ như tạc vào óc. Chị hiểu rất rõ khi mình đến đó với anh ấy thì chuyện gì sẽ xảy ra. Chị dự cảm được rằng khi chị đến với anh ấy thì nhất định anh ấy sẽ không thể kìm nén được tình cảm đã nung nấu trong lòng anh suốt hai mươi năm qua và chắc rằng chị cũng sẽ không phòng giữ được. Nhưng tiếng gọi của những kỷ niệm của mối tình đầu cứ thiết tha trong lòng và thúc giục chị đến với anh. Chị biết rằng đối với tình yêu cần phải nghiêm túc không được vượt quá giới hạn nhất là bây giờ mình đã có chồng. Vì vậy, trong chị bỗng nảy sinh một ý nghĩ: “Mình không thể cùng một lúc sống với hai người đàn ông. Mình không thể lừa dối hai người đàn ông mà chị đều yêu quý và chị cũng không thể lừa dối chính bản thân mình. Nhất thiết chỉ được phép chọn một trong hai người”. Nghĩ đến đây, chị bỗng giật mình tự hỏi: “Sao mình lại có thể có ý nghĩ như vậy được?...”.

Chị lại nói với chính mình: “Mình không nên đi! Hán Thông là một người chồng tốt. Mình rất yêu anh ấy. Anh ấy còn có đều gì không như ý mình nhỉ?”. Nhưng cũng không hiểu tại sao chị vẫn với lấy cái lược và đứng trước gương chải đầu, trang điểm, rồi chị mặc bộ váy áo rất đẹp. Chị thay cả bộ quần áo lót. Lúc này trông chị rực rỡ như một cô dâu mới...

Chị đứng đối diện với cái gương, xoay người sang bên phải, xoay người sang bên trái tự ngắm mình. Chị vuốt má, cổ và xoa xoa bộ ngực của mình. Chị thấy mình còn xuân và đẹp lắm. Giá như chị đeo thêm một sợi dây chuyền thì cổ và ngực chị lại càng được tôn thêm vẻ ưu nhã. Chị đang ước ao như thế thì bỗng nghe tiếng bước chân đến gần chị. Hán Thông cười và nói:
- Em thật đẹp! Em đeo thêm sợi dây chuyền này vào cổ thì vẻ đẹp lại càng được tôn lên thêm nhiều lần!

Chị giật mình nghĩ: “Hán Thông từ trước đến nay rất ít khi về nhà buổi trưa cơ mà. Sao hôm nay anh ấy lại về?...”.
Hán Thông nói xong, anh lấy từ trong hộp ra một sợi dây chuyền hạt trân châu rất đắt tiền đeo vào cổ cho vợ. Chị ngạc nhiên hỏi:
- Sao anh lại biết em thích sợi dây chuyền này?

Hán Thông nói:
- Có hai lần, sau khi tan tầm, trên đường về, anh thấy em đứng trước quầy hàng có bán sợi dây chuyền này. Anh thấy em có vẻ thích nó nên anh mua tặng em.
Hán Thông nói tiếp:
- Có việc gì mà em có thể giấu được anh?

Nghe Hán Thông nói, chị suy nghĩ rất nhiều về ẩn ý của câu nói đó. Chị liếc mắt nhìn trộm chồng và đọc được trong ánh mắt của chồng như ẩn chứa điều gì nhưng ánh mắt ấy lại tỏ ra bình thản như nước. Anh cúi xuống nhìn vào đế gương nơi để cái hộp trang điểm. Chị giật mình nghĩ: “Trời ơi, dưới mặt đáy của hộp trang điểm có địa chỉ của anh ấy”.
Nhưng cảm ơn trời đất, anh ấy không hỏi một điều gì. Anh lại đi vào trong phòng đọc sách.

Chị hít một hơi thật sâu cố trấn tĩnh lại nhưng cũng vẫn không có dũng khí để đối mặt với chồng. Chị chỉ nói:
- Em đi đây!
Hán Thông từ trong phòng đọc sách trả lời:
- Chúc em và các bạn học cũ có một cuộc gặp mặt vui vẻ!

Bạn học cũ hẹn gặp mặt nhau là cái lý do chị bịa ra để nói dối anh. Chị cầm lấy cái túi rồi vội vàng, luống cuống đi ra khỏi cửa như một tên trộm gặp may thoát nạn.
- Này em...
Nghe tiếng chồng gọi, chị lo sợ, hai chân như muốn khuỵu xuống. Chị quay lại nhìn chồng nở nụ cười gượng gạo như kẻ phạm tội.
Hán Thông nói:
- Em để quên cái hộp trang điểm này!
Hán Thông cầm ra đưa cho vợ và giục:
- Em đi nhanh đi kẻo muộn!...

Trong lòng chị càng thêm luống cuống, chị sợ anh nhìn thấy thần thái của chị mà phát hiện ra vấn đề. Anh ấy là người thông minh và nhạy cảm. Nhưng Hán Thông không nói gì. Anh cầm cái hộp đưa tận tay cho chị. Chị không dám nhìn anh. Chị cố trấn an để anh không phát hiện ra điều gì trên gương mặt chị. Bởi vì dưới đáy hộp trang điểm có địa chỉ của anh ấy.

Thực ra, chị không cần mang theo địa chỉ bởi lẽ chị đã thuộc nó như thuộc lòng bàn tay của mình. Chị lúng túng nói:
- Em cảm ơn!...

Đi được mấy bước, chị quay lại nhìn thăm dò thái độ của chồng. Hán Thông vẫn đứng trong nhà nhìn theo. Điều đó như là một sợi dây vô hình níu kéo chị lại. Anh đứng nhìn chị mỉm cười. Ánh mắt và nụ cười rất hồn hậu, ấm áp.

Chị đi theo con đường nhỏ quanh co ra đường cái lớn. Bất giác, quay đầu lại, chị thấy anh đang bước những bước rất chậm rãi đi theo chị, trên mặt toát ra vẻ buồn thương cứ như là anh đi tiễn chị một đi không trở lại. Trong chị day dứt một suy nghĩ: “Nếu chồng chị đã phát giác ra chuyện của chị thì làm sao buổi trưa anh ấy lại mua dây chuyền đem về cho chị? Rồi khi biết chị để quên địa chỉ thì anh ấy lại chạy theo đưa cho chị nhỉ? Giả như anh ấy hoàn toàn chưa biết gì thì tại sao khi tiễn chị, anh ấy lại lặng lẽ, đau buồn như rơi vào cảnh sinh ly tử biệt?...”.

Chị ngồi vào trong xe taxi và bảo lái xe cho xe chạy. Nhưng lái xe không hiểu sao xe đến nơi rồi mà khách lại bảo cho xe quay trở lại nơi xuất phát. Rồi xe lại quay đầu chạy đến nơi cần đến nhưng chị không xuống xe. Ngồi trên xe, chị nắm chặt sợi dây chuyền hạt trân châu trong tay và thấy nó nóng như hòn than. Sợi dây chuyền như mũi kim đâm, làm đau đớn trái tim chị. Chị ngồi trong xe. Xe chạy đi, chạy lại không biết bao nhiêu lần. Cuối cùng, chị xuống xe ở nơi chị xuất phát.

Chị vào đến cửa, móc túi lấy chìa khóa mở cửa. Nhưng kìa cửa nhà đã mở. Chị bước vào nhà, lòng chị ấm áp trở lại. Chị thấy mình giống như con chim nhỏ bay được về tổ ấm. Chị cảm thấy lòng mình rất yếu đuối. Tất cả đều im lặng. Chồng chị biết tất cả nhưng anh để cho chị tự do lựa chọn. Chị nhớ có một lần anh ấy cùng chị đi xem một bộ phim kinh điển về tình yêu của nước ngoài. Trên đường về nhà, Hán Thông nói: “Tình yêu là thứ tình cảm mà không thể cưỡng ép được...”.

“Gia đình, lẽ nào không thể là địa chỉ của thần tình yêu sao?”. Chị ngửa mặt lên, nhắm mắt lại và tự hỏi mình như thế.
Bỗng nhiên, chị cảm thấy có những giọt nước nóng hổi từng giọt, từng giọt rơi xuống trán mình.

Lúc ấy, trời không mưa.


Hàng Ưng

Hansy
02-09-2014, 11:22 PM
33

ĐIÊN

Khái Hưng
Tôi đổi về Thái Bình đã hơn hai năm, mà chưa có dịp nào trở lại thăm nơi làm việc cũ.
Lễ Phục sinh mới rồi, nhân được nghỉ bắc cầu thêm một ngày, tôi lên chơi Hà Nội, tình cờ gặp anh Thanh, người bạn trước cùng làm buồng giấy với tôi ở Vĩnh Yên. Anh em mừng ôn lại chuyện cũ, những cuộc chơi xưa.

Hỏi thăm những người quen biết, khi tôi nhắc đến tên anh Mã, anh tham Mã, thì bạn thở dài bảo tôi:
- Tội nghiệp! Nó điên đã sáu tháng nay.
Tôi kinh ngạc:
- Điên? Anh Mã điên?

Bạn tôi vẫn điềm tĩnh, nói tiếp:
- Từ ngày người bạn thân của anh ấy chết đi và anh ấy định tự tử chết theo không được là bệnh điên phát ra liền. Hình như vì trông thấy máu chảy, nên anh ấy bị một định kiến ám ảnh: anh ấy mơ màng thấy mình đã giết bạn, gặp ai cũng kể việc ám sát tưởng tượng một cách rất có thứ tự, nghe như thực vậy. May mà người ta biết anh ấy điên, nếu không có lẽ anh ấy ngồi tù.

Tôi sửng sốt hỏi:
- Lạ nhỉ? Nhưng người chết là ai thế?
- Anh Hùng. Anh Hùng chủ đồn điền mà chúng mình đã cùng anh Mã về chơi mấy lần, anh có nhớ không?

- Tôi nhớ lắm, tôi nhớ cái tính tình hào phóng của anh Hùng; nhớ cả người vợ rất đẹp của anh, một thiếu phụ trẻ tuổi, có học vấn, có nền giáo dục thức thời.
Nghe bạn nhắc đến tên Hùng; thốt nhiên tôi thấy hiện ngay ra hình ảnh tươi cười và dáng điệu nhanh nhẹn của người đàn bà ấy. Tôi hỏi:
- Anh Hùng, người khỏe mạnh, sung sướng như thế mà chết. Chết về bệnh gì?

- Tự tử.
- Tự tử! Vô lý!
- Chẳng một mình anh cho là vô lý, mà ông thầy thuốc khám tử thi cũng nói như vậy. Cho đến cả các báo cũng nhao lên về cái chết khả nghi ấy. Nhưng may mà anh ấy tự tử thật, chứng cớ hiển nhiên còn đó...

Rồi anh Thanh lại đem kể cho tôi nghe đầu đuôi câu chuyện:
- Cách đây sáu tháng, một hôm vào buổi giữa trưa, bỗng nghe có tiếng súng nổ ở nhà Hùng. Người ta chạy đến coi thấy anh Hùng nằm trên giường ngủ, áo lót mình và khăn giải nệm hơi vấy máu, bên cạnh có một cây súng bắn chim. Bên giường, vợ Hùng gục đầu xuống khóc. Ngồi ở một cái ghế gần đấy, Mã, người bạn rất thân của Hùng, hai bàn tay ôm đầu có vẻ buồn rầu đau đớn.

Tài xế của Hùng lên ngay tỉnh lỵ báo tin và gọi điện thoại cho thân phụ người chết.
Hai giờ sau ông thầy thuốc cùng ông án sát ở tỉnh về khám xét tử thi. Thì lạ quá, cứ theo đường đi của viên đạn, người chết bị giết chớ không phải tự tử; không phải tự tay người chết bóp cò được, phát súng phải ở tay người khác bắn và đứng cách xa một quãng ít ra là vài thước. Ông án tạm xướng lên cái thuyết: người chết để súng nằm trên bụng và dùng ngón chân cái ấn cò, rồi tiếng nổ giựt mạnh quá văng súng ra một bên.
Hỏi người vợ xem có lấy cây súng ở trên thây người chết ra không, thì nàng nói nghe tiếng nổ, mới hoảng hốt ở buồng bên chạy sang, và vẫn thấy các vật y nguyên như thế.
Còn Mã, người bạn chí thân của Hùng, chàng chỉ ngồi khóc và ấp úng trả lời viên thẩm phán rằng chẳng biết vì lẽ gì Hùng lại tự tử.

Hình như chàng buồn quá nên quẫn cả trí nghĩ. Đến lượt người tài xế và người bếp, họ đều khai như nhau rằng khi tới buồng chủ, thấy chủ ngắc ngoải sắp chết, đương thì thầm dặn dò bà Hùng và ông Mã những gì mà họ không nghe rõ.

Người vợ có nhận là đúng, và khai thêm rằng người sắp chết xin lỗi họ, và một mảnh giấy người chết cầm trong tay trái cũng chứng thực điều đó. Mảnh giấy có mấy hàng ngòng ngoèo sau đây:

"Tôi xin cha tôi, vợ tôi và bạn tôi thân nhất trên đời của tôi tha lỗi cho tôi. Vì mắc bệnh đau tim, tôi đã hèn nhát trốn nợ đời"
Hùng

Chữ viết chính là chữ Hùng, tuy lệch lạc, dòng lên dòng xuống như chữ người ốm nặng. Nhưng có thể cho rằng người ta lúc sắp tự tử, cảm động quá không có can đảm để trấn tĩnh mà viết được như thường. Chữ tên ký thì thực là nét chữ Hùng. Các nhà giám định đã thẩm tra kỹ lưỡng và đều công nhận như thế.

Chiều hôm ấy, thân phụ người chết ở Hà Nội đi ô tô lên. Bấy giờ ông án và ông thầy thuốc sắp sửa mổ tử thi khám nghiệm, nhưng ông cụ không muốn người ta phạm đến xác thịt con mình, cố nài xin thôi để khâm liệm, mai táng. Ông nói cứ tin ở bức thư tuyệt mệnh của người chết cũng đủ.

Thế rồi sáng hôm sau cất đám. Trong bọn đi đưa, người ta lưu ý nhất đến Mã. Chàng khóc lóc thảm thiết. Không ai ngờ tình bằng hữu lại thân mật được đến như thế.
Khi chôn xong, Mã thì thầm khấn khứa rất lâu rồi vì thương quá, ngất đi ở trên mộ. Người nhà Hùng phải khiêng về ấp. Thế là Mã lên cơn sốt, bất tỉnh nhân sự. Ba hôm sau bệnh Mã lui thì bỗng người ta lại nghe có tiếng súng nổ. Tiếng súng thứ hai này cách tiếng súng trước đúng bốn ngày. Có lẽ Mã lên cơn sốt làm mê mẩn, nên đã vớ lấy súng bắn chim tự chĩa vào ngực bóp cò. May mà tay người ốm còn yếu, cầm súng không được vững, nên viên đạn đi lệch, chỉ sượt trái tim.
Từ đó, Mã mắc bệnh điên.

+
+ +
Tôi nghe câu chuyện, đăm đăm ngẫm nghĩ, trong lòng nẩy mối ngờ vực vẩn vơ. Tôi hỏi:
- Thế bây giờ anh Mã ở đâu?
- Tôi vừa đến thăm. Anh ấy xin phép sáu tháng ăn nửa lương về nghỉ tại Hà Nội. Nhà ở phố B... Số tám.

Tính tò mò của tôi đã lên tới cực điểm. Tôi giơ tay bắt tay Thanh rồi vội vã lại phố B... thăm bạn cũ.

Tôi tuy làm cùng sở với Mã trong mấy năm, chúng tôi lại hợp tính nhau lắm, nhưng tôi vẫn không biết gia thế anh ấy ra sao, mãi khi đến nhà, tôi mới rõ anh ấy là con nhà giầu có và hình như được cha mẹ chiều chuộng lắm thì phải.

Lúc bấy giờ, ông thân Mã đi chơi vắng. Tôi chỉ gặp có một mình bà mẹ. Bà cụ ôn tồn mời tôi ngồi chơi rồi buồn rầu bảo tôi:
- Đã năm, sáu hôm nay, em nó không hé răng nói một lời, suốt ngày chỉ ngồi nhìn qua cửa sổ như mơ mộng điều gì. Rõ khổ quá! Nhà tôi xưa nay có ai mắc bệnh điên như thế bao giờ đâu?

Sau khi thuật lại một cách rất tường tận bệnh trạng của con trong mấy tháng, bà cụ lại tiếp:
- Người ta mách tôi rằng ông lục sự Thanh Oai có bài thuốc chuyên môn chữa bệnh điên. Tôi đã mời đến chữa cho em; ông ta bảo điên mà hay nói thì rất nhẹ, chỉ sợ ngồi lì cả ngày không nói câu nào mà thôi. Vì thế, ít bữa nay tôi thấy em nó bỗng như câm bặt, không chuyện trò lảm nhảm nữa mà tôi lo.

Tôi xin phép đến buồng bệnh nhân. Bà cụ bảo người nhà đưa tôi lên một gian phòng ở trên gác.
Mã đang ngồi xem quyển tiểu thuyết chữ Pháp, thấy tôi bước vào ngước mắt đăm nhìn.
Tôi đứng dừng lại, không vội tiến. Mã hất hàm như để hỏi tôi việc gì. Tôi ngả đầu chào và xưng tên. Anh liền mỉm cười, đứng dậy ra bắt tay tôi, rồi kéo tôi ngồi xuống ghế mà bảo tôi rằng:
- Được tiếp một người bạn ở Vĩnh Yên về chơi, tôi lấy làm sung sướng quá.

Tôi đương ngờ vực câu ấy có vẻ điên vì thấy Mã quên rằng tôi đã đổi về Thái Bình từ lâu rồi, thì anh lại tiếp luôn:
- ở đây, thấy mọi người họ đều cho tôi là điên, tôi nói gì họ cũng không tin, nên tức mình tôi giả câm, đã năm sáu hôm nay. Rồi anh sẽ rõ tôi điên hay lành.
Dứt lời, Mã dõng dạc cất tiếng gọi người nhà bảo pha nước, dáng điệu khoan thai, giọng nói của một người không mất trí khôn.

Tôi đưa mắt ngắm quanh cái buồng có cửa sổ rào chấn song sắt và so sánh với một phòng nhốt người điên ở nhà thương Phủ Doãn. Khi ta đã có định kiến ấy, nó gợi ra trong trí ta biết bao ý tưởng giống loại với nó. Đến nỗi quyển tiểu thuyết bạn tôi đương cầm ở tay, tôi cũng cho là phải điên rồ mới thích đọc được.

Tôi còn mải mơ màng với những ý nghĩ viển vông thì một câu hỏi của Mã làm tôi giật mình như người tỉnh ngủ:
- Anh còn nhớ anh Hùng không?
Tôi vờ:
- Anh Hùng nào?

- Anh Hùng chết năm, sáu tháng trước ấy mà!... Anh không xem nhật trình hay sao mà không biết chuyện anh Hùng tự tử ở một cái đồn điền thuộc tỉnh Vĩnh Yên? Thực ra anh ấy không tự tử đâu. Chính anh ấy bị ám sát mà kẻ ám sát chính là tôi.
- Không, đâu phải.
- Cả anh nữa, anh cũng không tin tôi nốt! Nhưng được, dù anh tin hay không tin tôi cũng xin anh hãy lắng tai nghe những lời tôi kể sau đây.

Rồi hình như vì thuật đi thuật lại nhiều lần, nên đã thuộc lòng câu chuyện, Mã nói trơn tru, lời văn gọn gàng và bóng bẩy (có lẽ đó là triệu chứng của bệnh điên chăng?):
"- Tôi là một người trọng danh dự như thế nào, anh và các anh em bạn tôi đã biết, nhất khi danh dự lại có dính líu đến một người đàn bà. Mà các anh cũng chẳng lạ rằng đối với bằng hữu tôi là một người rất tốt, rất trung thành, tận tâm tận lực. Anh đừng vội cười mà cho là tôi khoe khoang, muốn phô những nết tốt của mình ra. Không cần gì tôi phải khoe khoang, và tôi cũng không còn được phép khoe khoang nữa kia mà, vì tôi là một kẻ sát nhân.

"Vâng, tôi không khoe khoang. Tôi phô những đức tính kia ra nếu đó có thể gọi được là đức tính (Mã điểm một nụ cười chua chát) là chỉ cốt để tỏ cho anh hay rằng một người như thế mà khi mê muội, khi bị ái tình nhục thể huyền hoặc, mờ ám, cũng trở nên được một tên giết người tầm thường, đê tiện, hèn mạt.

"Trời ơi! Có thể như thế được không? Có thể yêu vợ bạn rồi giết chết bạn được không? Đó là ái tình ư? Không, đó là một tính cách cầm thú của bản năng con vật ẩn núp, lẩn quất trong linh hồn con người... Khốn nạn! Đồ khốn nạn! Sao không nhốt nó vào nhà pha! Mau! Tống cổ nó vào ngục thất mau!".

Mã lớn tiếng thét rồi hình như mất hết nghị lực, đưa hai bàn tay lên bưng mặt khóc rưng rức, lẩm bẩm nói những gì, tôi không rõ. Tôi đứng dậy, khép cái cửa ra cầu thang gác, sợ ở nhà ngoài, bà mẹ nghe tiếng kêu gào mà lên, thì tôi sẽ không được nghe chuyện.
Tiếng giầy đi trên ván khiến Mã ngửng mặt lên, có lẽ tưởng tôi bỏ ra đi. Anh vội vàng chạy theo níu tôi ngồi xuống ghế, và mỉm cười - cái cười đầy nước mắt - bảo tôi:
- Anh phải nghe hết câu chuyện đã.
- Nhưng anh đừng hét nữa kia. Anh hét thế tôi sợ lắm, không dám ngồi gần anh đâu.

Mã lại mỉm cười:
- Oan khổ, anh coi tôi như một thằng bé con lên ba, lên bốn. Hoặc giả anh cho tôi là thằng điên thực. Nếu tôi điên sao không nhốt tôi vào nhà điên, lại để tôi tự do sống như một thằng lừa dối, một thằng phản bạn, một thằng giết người sống cái đời tự do, yên lặng của nó? Anh ạ, có lần tôi đã có làm cho điên thực, để họ nhốt vào nhà điên vì họ không muốn bỏ tù tôi, họ không muốn làm tội. Không những họ không tố giác tôi, họ lại còn không để tôi tự tố cáo tôi nữa. Đã mấy lần tôi định đến sở cẩm, đến tòa án, tự đưa tay vào xích, tự lăn mình vào lưới pháp luật, nhưng lần nào cũng bị người ta tóm được. Rồi người ta nhốt tôi vào cái buồng kín mít này nó cũng chẳng kém gì cái nhà tù. Họ còn dọa hễ tôi phá phách quá lắm để tìm lối trốn thoát, thì họ sẽ bỏ tôi vào cái cũi sắt nữa kia. ấy vì thế ít khi thả lỏng tôi thế này và cho tôi được phép tiếp bạn bè trong chốc lát. Rồi anh coi, họ sắp lên đuổi anh ra ngay bây giờ.

Tôi lo lắng nhìn cái cửa ra thang gác, nóng ruột muốn biết câu chuyện giết người của Mã, câu chuyện có lẽ chỉ những người ngu ngốc, đần độn, hay điên cuồng mới không tin là có thực.

"- Anh đã làm việc ở Vĩnh Yên, chắc anh cũng có biết anh Hùng. Một người hào hiệp, thẳng thắn như anh Hùng, ai mà không quen, ai mà không muốn gần gũi chơi bời.
"Tôi thì khác. Tôi thương mến anh Hùng ngay từ khi còn cùng nhau theo học lớp ba trường Hàng Vôi. Tình bằng hữu một ngày một thêm khăng khít. Rồi hai người cùng thi đậu bằng thành chung. Anh Hùng kế nghiệp cha, ra làm đồn điền, còn tôi theo đuổi việc học tại trường Pháp Chính. Chúng tôi mến nhau chẳng khác anh em ruột thịt. Hơn nữa, chúng tôi yêu nhau như một cặp tình nhân vậy.

"Nhưng khổ cho chúng tôi, không may cho tình bằng hữu thiêng liêng (anh ngừng lại một giây và gạch hai chữ thiêng liêng bằng một cái nhếch mép độc địa, cái nhếch mép nửa giống như cười, nửa giống như mếu), không may cho tình bằng hữu thiêng liêng của chúng tôi, anh Hùng lấy vợ. Không may nữa, vợ anh là người... bậy bạ... lẳng lơ...
"- Trời ơi! Con thiếu phụ! Con ác phụ! Sao tôi không giết nó? Sao tôi lại giết bạn tôi?".

Tôi nhìn ra cửa ngắt lời:
- Nếu anh còn gào thét thì tôi xin về.

Mã dịu lời:
- "Nhiều lần đến thăm anh Hùng, tôi đã nhận thấy cặp mắt đa tình, cặp môi đa dục của nó. Tôi đoán chừng đối với anh Hùng, anh em đến chơi đông, một phần vì anh có lòng mến khách thực, nhưng một phần cũng vì con mụ đàn bà kia. Cái dung nhan rực rỡ, cái cười tình đằm thắm của nó, cái thân thể nở nang, uốn éo của nó đã quyến rũ người ta, đã thôi miên người ta, đã mê hoặc người ta.

"Anh Hùng vẫn chẳng biết gì hết. Anh yêu thương vợ anh. Anh mê mẩn vợ anh đến nỗi chẳng nhìn thấy gì hết.
"Nhưng tôi nhìn thấy. Tôi chỉ là bạn chồng nó chứ không phải là chồng nó. Tôi không nỡ để một người tốt như bạn tôi bị lừa dối. Tìm cách mở mắt cho người mù vì ái tình vẫn là một việc khó, khó hơn lấy lại ánh sáng cho một người mù thực, nhưng khó, tôi cũng không từ, không lui.

"Năm ngoái, nhân một dịp nghỉ lễ, tôi về chơi đồn điền anh Hùng. Cố nhiên tôi gặp một lũ bạn giả dối, và trong số đó có thằng tình nhân khốn nạn của con đàn bà khốn nạn.
"Trời ơi! Sao tôi không bắn chết hai đứa thất phu, thất phụ ngay hôm chúng nó tư tình với nhau ở sau một đống rạ sau đồng? Sao tôi lại để cho chúng nó thoát? Trời ơi! Nhưng tôi cũng chỉ là một thằng khốn nạn".

Lần thứ hai, tôi ngắt lời bạn:
- Kìa! Anh lại thét. Thôi tôi không nghe nữa.
- "Xin lỗi anh, nhưng tôi khốn nạn lắm kia, Con dâm phụ thấy tôi biết chuyện bậy bạ của nó, thấy tôi rình mò, do thám nó, thì nó nghĩ ngay ra một quỷ kế, một kế mỹ nhân.
"Nó than, nó khóc, nó kể lể, nó phàn nàn nhiều điều về anh Hùng, nào anh ác nghiệt, cay độc, tình phụ nó, ruồng rẫy nó, hàng tháng, hàng năm không yêu thương nó, mà nó thì nó rất thèm khát sự yêu thương...

"Rồi không biết nó nói thực hay nói dối - còn ai hiểu được bụng nó - nó bảo ở trên này nó chỉ yêu có một người, nhưng nó không dám, nó không thể nói cho người ấy biết được. Nó đành chôn sâu trong trái tim, trong linh hồn khối tình tuyệt vọng.
"Thế là bắt đầu sự đê hèn của tôi! Vì tôi đã hơi tin nó. Trời ơi! Anh Hùng ơi! Sao tôi còn vác được cái mặt dầy mà sống ở đời?"

Mã bưng mặt khóc, khóc nức nở...
Tôi chờ Mã, không thấy anh kể nốt, liền nhắc:
- Câu chuyện chỉ có thế?
Anh Mã vội vàng ngửng đầu lên, lau nước mắt trả lời:
- Nếu chỉ có thế thì còn nói gì? Nhưng nào chỉ có thế.

"Ngày tôi bắt đầu thương hại vợ bạn là ngày tôi sa chân xuống địa ngục. Vì từ thương hại cho tới thương yêu chỉ có một bước...
"Mà bước ấy, tôi đã... qua. Anh Hùng ơi! Sao tôi khổ sở thế này?...
"Trời ơi! Cái sắc đẹp! Cái sắc đẹp giết người!"

Tôi chau mày bảo Mã:
- Nếu anh không tĩnh tâm mà kể thì tôi hiểu sao được?
"- Phải. Tôi mê man trong ái tình, trong dục tình.
"Chiều thứ bẩy nào tôi cũng phải mò về đồn điền bạn để tình tự với vợ bạn. Chúng tôi yêu nhau điên cuồng đến nỗi dám định cùng nhau đi trốn. Mà bạn tôi vẫn thẳng thắn, vẫn không ngờ vực mảy may.

"Thế rồi một buổi trưa chủ nhật..."
Mã như nghẹn lời không nói được nữa. Hai hàng nước mắt chảy ròng. Tôi rùng mình ghê sợ, toan bỏ ra về nhưng không sao đứng dậy được. Còn Mã thì ngồi đấy không hề ngó thẳng mắt tôi nữa, buồn rầu cúi gầm xuống mà kể tiếp:
"Một buổi trưa chủ nhật, ăn cơm sáng xong, Hùng rủ tôi đi săn. Tôi vờ nhức đầu ở lại nhà. Anh tất cũng hiểu tôi ở nhà để làm gì...

"Bỗng một nửa giờ sau, bạn tôi hình như bỏ quên vật gì, trở về vào buồng giữa lúc bọn gian phu dâm phụ sắp phạm tội nhục thể...
"Trời ơi! Tôi làm thế nào mà xóa bỏ trong trí nhớ cái cảnh tượng xấu xa, nhơ nhuốc ấy?
"Bạn tôi, xưa nay tính vẫn nóng nẩy, chĩa súng về phía vợ ngồi, định bắn. Tôi nhẩy phắt ngăn lại giật lấy súng; Hùng liền vớ ngay hai con dao treo bài trí trên tường, sấn lại chém vợ. Người vợ hình như mất hết cả can đảm, ngồi im để chờ chết. Hai lưỡi dao sáng loáng sắp bổ xuống đầu người thiếu phụ, thì đứng trước mặt, tôi chẳng kịp nghĩ ngợi, giương súng... bóp cò... Bạn lăn ra đất.

"Nhưng độ mấy giây sau, bạn tôi lại ngồi dậy. Tôi tưởng anh không việc gì, vì thấy anh men lại giường, rồi bước lên nằm duỗi thẳng cẳng trên nệm. Tôi nhìn cái áo lót của anh có vết máu ở ngực. Anh sẽ gật, ra hiệu bảo tôi ghé lại gần. Lúc bấy giờ tôi, một người không hồn, làm theo những lời sai khiến của bạn như cái máy theo người vặn. Anh Hùng thì thầm:
- Lấy mảnh giấy và cái bút chì mau!

"Rồi đặt lên trên một quyển sách có bìa cứng, anh viết mấy dòng sau này:
Tôi xin cha tôi, vợ tôi và bạn thân nhất trên đời tôi (Mã đọc đến đây, nấc lên một tiếng, và phải ngừng lại mấy giây) tha lỗi cho tôi, vì mắc bệnh đau tim, tôi đã hèn nhát trốn nợ đời...
"Nằm nghĩ ngợi một lát, anh lại bảo tôi nhặt hai con dao rơi ở mặt đất treo bên giường ngay bên cạnh mình.

"Người vợ, con đàn bà khốn nạn, từ nãy vẫn gục quỳ ngay bên cạnh và luôn luôn van lạy xin lỗi. Lúc đó có người nhà chạy lên, nhưng tôi chẳng hề để ý tới ai hết.
"Bạn tôi hiểu rằng mình còn sống trong giây phút, cố hết sức tàn se sẽ bảo tôi.
"Thế rồi bạn tôi tắt nghỉ...".

Có lẽ Mã đã ghi hết nghị lực để lấy giọng bình tĩnh kể đoạn chuyện sau cùng, vừa dứt lời, anh rú lên, văng từ ghế xuống gác, kêu rầm một tiếng. Bà mẹ ở dưới nhà tất tả chạy lên, hoảng hốt khóc lóc mếu máo:
- Khổ quá! Con tôi đã lên cơn điên rồi!

Tôi cùng một người đầy tớ khiêng Mã lên giường rồi cáo từ bà cụ ra về, trong trí còn phảng phất lời nói mỉa mai của Mã:
"Chỉ những người ngu dốt, đần độn hay điên cuồng mới không tin là câu chuyện có thực".


Khái Hưng
Rút từ tập truyện ngắn Dọc đường gió bụi.
Nxb Đời nay, Hà Nội, 1936

Hansy
04-09-2014, 12:19 AM
34.

ĐIỆN THOẠI

Phạm Thái Lê
Giám đốc Nguyễn Sĩ Toại giật mình thức giấc vì tiếng chuông điện thoại. Ông dụi mắt rồi bật điện, bình tĩnh nhìn đồng hồ. Đã hơn một giờ sáng. Ông vẫn chưa nhấc máy vội.
Từ ngày trung tâm giáo dục thường xuyên tách ra khỏi phòng giáo dục huyện, trực thuộc trung tâm giáo dục thường xuyên của tỉnh, quản lý theo ngành dọc, ông trở thành giám đốc. Cũng từ đó, ông có thêm phẩm chất kiên nhẫn này. Khác hẳn với hồi còn là hiệu trưởng của trường bổ túc văn hóa, mỗi lần chuông điện thoại reo là ông nhấc lên ngay.

Nếu đang làm gì ở xa thì ông lao vội tới. Cũng bởi vì hồi ấy điện thoại hiếm lắm. Nó là sự hiện đại và xa xỉ. Cần việc gì với người ở thành phố, nhấc máy lên, bấm mấy cái, thế là nghe được nhau nói, nói được cho nhau nghe. Có khi chả phải vì cần việc gì cũng nhấc máy lên, hỏi han cho đỡ nhàn tẻ. Với lại là để khai thác hết cái hiện đại này.
Hồi ấy, ông cứ có ý nghĩ điện thoại không đổ chuông, không gọi đi là điện thoại chết. Một ngày nó chết đến mấy chục tiếng đồng hồ. Lãng phí thật! Bởi vậy, nếu không gọi cho ai thì ông lại mong ai đó gọi tới cho mình. Thế mà có khi hai ba ngày ông chẳng gọi được cho ai và cũng chẳng ai gọi tới cho ông cả. Những lúc ấy, ông an ủi rằng: Nó - cái điện thoại, là vật trang trí đầy kiêu hãnh trong căn phòng nhỏ lộn xộn những sách báo giấy tờ này. Như vậy, điện thoại đúng là sự hiện đại và xa xỉ. Và cũng vì vậy mà giáo viên trong trường không được phép gọi, chỉ được nghe. Đó là quy định của hiệu trưởng. Nhưng vì nó hiện đại và xa xỉ mà bạn bè anh em họ không mấy ai có nên rất ít người gọi đến

Cái điện thoại của nhà trường gần như nghiễm nhiên thuộc về riêng ông. Và ông thú vị lắm. Ông thưởng thức nó bằng cách lúc ngồi nghe điện, ông cho phép mình gác chân lên ghế. Đây là điều tuyệt đối cấm kỵ. Giáo viên không được gác chân lên ghế. Tất nhiên rồi. Bởi thế không mô phạm, là mất tư cách. Còn học sinh thì lại càng không. Em nào trong giờ học gác một chân lên ghế sẽ bị phạt một nghìn đồng. Quy định này được áp dụng triệt để từ ngày ông làm hiệu trưởng. Bởi vậy, khi cho phép mình vi phạm, ông cũng phải đảo mắt một vòng quanh sân trường. Đang là giờ học. Vắng tanh. Cẩn thận đến thế mà cũng có lần ông bị cô văn thư bắt gặp. Lần ấy, ông đang tiếp thu ý kiến của sở giáo dục. Nói chuyện với phó giám đốc phải vâng dạ rối rít mà vẫn gác được chân lên ghế. Thế mới sướng! Vì sướng quá nên ông mất cảnh giác. Khi thấy cô ta hiện ra đột ngột ở cửa, ông vội vàng lấy tay gãi sồn sột vào chân. Ngứa thì phải gãi. Ngứa ở chân thì phải cúi xuống mà gãi. Nhưng đang ngồi nghe điện thoại thì không thể cúi. Bởi vậy chỉ còn cách là nhấc chân lên. Thật chí lý!

Ông còn thưởng thức cái điện thoại của nhà trường bằng một kiểu khác. Kiểu này thú vị hơn: ông đùa cợt này nọ qua điện thoại với một cô cùng học lớp đại học tại chức ngày trước. Cô ta trắng nhất lớp. Không xinh nhưng trông đầy đặn. Hồi ấy, ông mê cô nhưng cô thì chẳng để ý gì. Nói mê là mê thế thôi chứ ông không dám thổ lộ. Bởi ông có vợ rồi. Bây giờ ấy à, kể cả việc con sắp vào đại học, ông cũng chẳng việc gì phải sợ vì nói qua điện thoại. Ông còn dám nói với cô ấy rằng: "Người như em, khối thằng đàn ông muốn chết... Anh ấy à, anh chết em từ lâu rồi... Chết vì cái trứng gà bóc ấy". Một nhà sư phạm mà ăn nói bỗ bã thế là không được. Ông biết điều đó rõ lắm vì ông vẫn nhắc nhở đồng nghiệp luôn luôn. Thế nhưng bấy giờ ông nói được là nhờ cái điện thoại.

Ấy thế mà mấy năm nay, ông không cợt nhả với cô ấy nữa. Mình bấy giờ đường đường là một giám đốc. Cô ta là gì? Mũm mĩm à? Trắng trẻo à? Cũng chỉ là giáo viên thường thôi nhé. Thế nhưng ông lại thấy thiêu thiếu một cái gì đó. Và thế là ông nảy ra sáng kiến khi sắp xếp phòng giám đốc. Ngay sát cửa ra vào ông cho kê một bộ salon nệm mút, giữa phòng là bàn làm việc. Trên bàn, sách vở giấy tờ được sắp xếp gọn ghẽ cạnh cái điện thoại. Sau cái ghế ông ngồi là tấm ri-đô. Tấm ri-đô được đặt may ở cửa hàng rèm vải cao cấp Hằng Huệ - hiệu may lớn nhất thị trấn. Điều đáng nói ở cái ri-đô là sự đặc biệt này. Nó được mắc từ trần nhà phủ xuống sát nền gạch, che kín toàn bộ phần còn lại của căn phòng. Đứng ngoài nhìn vào chỉ thấy toàn hoa nhưng đứng trong nhìn ra thì thấy hết mọi sự.

Sau tấm ri-đô, ông cho kê một chiếc giường, không phải giường một, cũng chẳng phải giường đôi. Cái giường một người nằm thì rộng, hai người nằm thì vừa khít. Từ khi có cái giường, ông càng giàu trí tưởng tượng. Ông hình dung ra những cảnh vụng trộm đằng sau bức rèm đặc biệt này. Lúc thì cô áo hoa. Lúc thì cô tóc ngắn. Có lúc lại là cô mặc quần bò dù rằng ông rất ghét con gái mặc quần bò. Bởi vậy ông cấm tiệt giáo viên nữ mặc quần bò đến trường. Mặc thế còn ra thể thống gì nữa. Có lần ông còn bắt cô Hà nghỉ tiết dạy về nhà thay quần bò rồi mới được lên lớp. Các cô giáo trẻ mới ra trường là lắm vi phạm, phải rèn cho đến đầu đến đũa. Ai đời hồ sơ giáo án mà không kẻ lề ngang mục bằng mực đỏ. Thế thì đẹp làm sao được. Xếp loại trung bình để học kỳ sau rút kinh nghiệm.

Chuông điện thoại vẫn réo một cách kiên nhẫn và giục giã vào một rưỡi sáng. Ông Toại bình tĩnh nhấc máy. Bình tĩnh cũng là phẩm chất cần có của một giám đốc. Ông đã từng im lặng một cách bình tĩnh khi nghe cô học viên lớp đại học tại chức của trung tâm trình bày lý do nghỉ hai buổi học hôm chủ nhật vì bố mất. Bố mất là một việc. Đi học lại là việc khác. Một tuần học có ba buổi, nghỉ mất hai thì còn gì. Học trình ấy lại có hai lăm tiết. Nghỉ hai buổi mất mười tiết. Làm sao đủ điều kiện mà thi. Không cho thi là đúng, việc gì phải khóc lóc. Đàn bà con gái là chúa đưa nước mắt ra để xin xỏ. Ông là ông ghét nhất thói ấy.

Gọi điện vào giờ này chắc là nhờ cấp trên gây áp lực cho mình đây. Ông không lên tiếng vội. Bao giờ nghe điện thoại ông cũng không lên tiếng trước. Đó là một nghệ thuật. Nghệ thuật này có được phải trải qua một quá trình lâu dài chứ hồi mới có điện thoại ông còn nhầm lẫn chào "Anh về nhá", có khi cúp máy rồi còn nói vói theo. Bây giờ thì khác xa rồi. Sau khi nhận ra đầu dây đằng kia là đối tượng nào, ông mới có ngữ điệu phù hợp. Nhận định đối tượng qua điện thoại là một kỹ năng đòi hỏi sự tinh tường và nhạy cảm. Ông tự hào về điều đó. Thế mà cũng có lần ông nhầm. Giám đốc mới của trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh có giọng kim như giọng đàn bà khiến ông nhầm là học viên xin nghỉ học. May mà ông mới rắn giọng nói: " Phải, tôi là Toại, giám đốc đây" chứ chưa nói gì thêm. Thật hú vía!

Rút kinh nghiệm, nếu người ta đã lên tiếng mà vẫn chưa phân loại được đối tượng thì ông làm tiếp động tác đằng hắng. Đằng hắng là tín hiệu dọn giọng để sẵn sàng thoại. Các học viên truyền cho nhau kinh nghiệm nếu điện cho giám đốc Toại mà nghe ông đằng hắng là phải cẩn thận, ăn nói cho nhún nhường, lễ độ kẻo ông nổi nóng. Ông mà đã nổi nóng thì thôi nhé, miễn trình bày. Lơ mơ ông cúp máy cái rụp là hết cơ hội. Vậy mà lần này nhấc máy lên, chờ một lúc vẫn không thấy bên kia lên tiếng. Ông hơi ngạc nhiên rồi đằng hắng. Vẫn im lặng. Ông chờ đợi và suy đoán. Ai nhỉ? Chắc chắn không phải là học viên, cấp dưới rồi. Vậy cấp trên có việc gì? Không phải việc chung. Việc chung phải gọi vào giờ khác. Vậy việc riêng gì đây? Hay là... Ông thấy thích thú khi chợt nghĩ cô nàng lâu lâu không thấy mình nay chủ động điện thoại cho với mình rồi làm trò thế này đây. Ông kiên nhẫn chờ đợi. Mấy phút im lặng trôi qua. Ông bắt đầu hết bình tĩnh thì nghe một tiếng "cộp". Tiếp theo đó là những tiếng tút tút của điện thoại. A, nó đã cúp máy. Cú điện thoại làm ông Toại không thể ngủ tiếp được. Ai đã gọi điện cho ông vào giờ này. Lại không nói gì cả. Im lặng một cách hỗn xược. Im lặng một cách đe dọa và khủng bố.

Ai nhỉ? Mục đích gì vậy? Hay là thằng Sơn? Phải rồi. Thằng Sơn vừa mới bỏ học. Hắn bỏ vì tức ông không cho hắn thi. Ông có gì sai đâu. Hắn nghỉ học nhiều tiết, không đủ điều kiện dự thi. Quy định ấy là của Bộ Giáo dục chứ có phải của ông đâu. Đã đi học là phải chấp hành. Học tại chức thì càng phải nghiêm túc. Lâu nay, xã hội đã xem cái bằng tại chức không ra gì rồi. "Dốt như chuyên tu, ngu như tại chức". Ông phải làm nghiêm túc để mọi người hiểu được rằng cái sự học là vinh quang và gian khổ. Rằng học tại chức mà nghiêm túc thì không kém gì học chính quy. Với lại là giáo viên đi học càng phải nghiêm túc. Giáo viên mà không nghiêm túc thì nói học sinh làm sao được. Thằng Sơn là nó coi thường chuyện học tại chức. Nghe đâu hắn từng tuyên bố dưới lớp là hắn học thế thôi chứ có thêm được kiến thức đâu. Đành rằng hắn là giáo viên giỏi cấp tỉnh, hắn có chuyên môn tốt, nhưng hắn mới chỉ có bằng cao đẳng. Nếu chỉ có bằng cao đẳng thì khó mà lên hiệu trưởng được dù hắn là hiệu phó có năng lực. Không bằng cấp, không thẻ Đảng thì đừng có mơ làm lãnh đạo.

Cùng dạy với nhau một trường ở miền núi cao, ông quá hiểu nó: tự cao tự đại. Nhưng cái mà ông khó chịu về nó nhất là đêm ngủ ngáy rất to, lại còn hay gác. Khi ông không cho thi, nó lên chửi ông một trận rồi đem chuyện hồi ở chung ra để rêu rao. Bạn thì bạn. Hiệu phó thì hiệu phó. Nó chỉ là học viên trong trung tâm của ông thôi. Nó sai, nó chịu. Chắc là nó đố kỵ với ông, lại hậm hực vì tiếc hai triệu học phí nên bày trò quấy rối ông đây.

Nhưng... ông chợt chững lại. Nhà thằng Sơn không có điện thoại. Không phải thằng Sơn. Vậy thì ai? Ông thấy mình thật căng thẳng. Ai mà bí hiểm đến vậy? Gọi vì mục đích gì? Xưa nay ông có thù oán gì với ai đâu. Chỉ có lũ học viên thấy ông làm nghiêm túc thì không thích. Nhưng ông cũng chẳng sai bao giờ. Ông làm theo quy định của nhà nước cả đấy chứ. Đến giờ, ông cho bảo vệ khóa cổng. Đi chậm thì phải đứng ngoài, giáo viên cũng như học sinh. Có thế mới nền nếp được. Học không đủ tiết thì không được thi. Đến trường ăn mặc nói năng phải nghiêm chỉnh. Thầy ra thầy, trò ra trò. Làm gì có cái kiểu học viên cứ xông vào phòng nghỉ của giáo viên. Có hôm còn ngủ trưa với cô giáo dạy tại chức. Lỗi là cả của cô giáo đấy. Rồi còn cười to nữa chứ. Nhất là mấy cô tiểu học ở lớp tại chức. Ăn mặc thì luộm thuộm. Lương bây giờ mỗi tháng gần hai chỉ vàng mà không chịu ăn mặc cho tử tế. Có cô đến trường còn sặc mùi nến đất và bồ kết. Đã học thì thôi đừng có đẻ. Phải như cô Hoa ở lớp đại học Toán ấy. Bỏ trầu rồi vẫn trả trầu để người ta khỏi giục cưới. Cưới thì dễ đẻ lắm. Đẻ lại lôi thôi cho cái sự học. Người ta phải biết hy sinh như thế chứ đằng nào cũng muốn được thì có mà.

Học viên của trung tâm mời đi dự đám cưới đố có bao giờ ông đi. Mình đi ăn cỗ nhà nó, đến khi nó đẻ, nó xin nghỉ học, mình nói nó làm sao được. Ông hậm hực rót cho mình chén nước. Nước nguội ngắt. Lạnh xuống đến tận bụng. Cái lạnh ấy làm ông thấy dịu dần. Tắt điện rồi chui vào màn, ông nằm lơ mơ bảo mình không nghĩ gì nữa để ngủ. Thế nhưng bảo không nghĩ mà ông vẫn cứ nghĩ. Ông chợt nhớ tới bà vợ nái nẩm của ông ở quê. Kể ra bà ấy cũng khổ. Hồi mới lấy nhau về ông đã thấy chán ngắt. Rồi ông đi dạy đi học ở xa. Một mình bà ở nhà lợn gà ruộng vườn con cái. Mọi công việc nhà chồng cũng một tay bà lo liệu.

Nhiều lúc ông tính kiếm cho bà ấy cái việc gì đỡ chân lấm tay bùn nhưng trông bà ấy xồ xề và quê mùa quá. Ăn nói thì cục mịch thô thiển. Bởi vậy, ông phải giấu tiệt mọi người, giấu như mèo giấu cứt. Người ta mà biết ông giám đốc có bà vợ như thế thì người ta cười cho thối mũi ra. Nhiều lúc, nhìn vợ con người ta, nhất là mấy cô giáo trong trường, cứ trơn mườn mượt, son phấn hồng hào, ông lại chạnh lòng buồn bực cho số phận hẩm hiu của mình. Nhưng thôi, bù lại là bà ấy lo hết mọi việc ở nhà, ông không bận tâm tí gì, rảnh rang mà lo sự nghiệp. Với lại bà ấy sợ ông một phép. Ông nói gì là răm rắp nghe theo. Vợ là phải như thế. Được thế là tốt chứ cứ như mấy cô xinh đẹp kia về nhà cãi chồng lôm lổm. Lại còn xem bóng đá rồi vỗ đùi đen đét. Chồng ngồi uống nước cũng ngồi ngang hàng, cũng húp soàn soạt. Thật chả ra làm sao. Vợ con ngữ ấy phải rèn dạy nhiều vào mới nên người được. Ngẫm nghĩ, ông thấy vợ mình lại hay. Và ông hài lòng rồi thiếp ngủ.

Đang bắt đầu chìm vào giấc, ông Toại giật bắn mình vì tiếng chuông điện thoại. Đêm yên tĩnh thế mà nghe chuông điện thoại thì thật là khó chịu.

Càng khó chịu hơn khi ông vừa chợp mắt. Lại càng khó chịu hơn nữa khi ông nghĩ tới cú điện thoại vừa rồi. Ông thấy căng thẳng trở lại. Mớ bòng bong suy diễn và phán đoán lúc nãy ùa về. Nhưng ông vẫn bình tĩnh chưa nhấc máy vội. Ai đang gọi cho ông đây? Có phải kẻ lúc nãy? Gọi nhằm mục đích gì mà không lên tiếng? Hay là ông Hùng. Ông Hùng, giám đốc trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh, có cô cháu gái học lớp đại học Văn - Sử. Cô ấy chửa sắp đẻ. Nhìn học viên chửa ông rất ghét. Đến trường mà bụng cứ vác ngược ra, đi lại khệnh khạng dọc hành lang như là ở khoa sản bệnh viện. Đã thế lại hay về sớm. Giải lao là đã lẩn về. Ông bèn đổi cách điểm danh. Hôm thì ông điểm danh cuối giờ giải lao. Có hôm gần hết giờ ông mới lên kiểm tra. Có thế mới bắt được quả tang ai trốn học. Hôm nào không có ai nghỉ, ông cảm giác như là mình thất bại. Hôm thứ bảy, cô này nghỉ mất nửa buổi. Sáng chủ nhật lại đi chậm. Khi xe của sở về kiểm tra thì lẻn theo vào. Nhưng làm sao mà qua được mắt ông. Ông đã lên tận lớp để đề nghị cô ấy ra khỏi phòng học. Phải biết sai mà ra chứ đằng này lại còn dài dòng lý do lý trấu. Đã thế ông đuổi thẳng cổ. Hôm kia, ông Hùng gọi điện cho ông, nói xa nói gần về việc cô ta. Nhưng ông mà cho cô ta học là ông sai. Cấp trên mà biết thì ông phải chịu trách nhiệm. Trung tâm của ông vừa được sở khen tặng về nền nếp, làm thế đâu được. Làm giám đốc cũng có cái khổ thế đấy. Nhưng ông quyết không vi phạm. Gì chứ cái thói nhờ cấp trên gây áp lực là ông chúa ghét. Nhưng có phải ông Hùng làm cái trò này không?

Ông nhấc máy. Vẫn lặp lại kịch bản cũ. Im lặng một cách nặng nề. Im lặng một cách đe dọa. Ông bắt đầu nổi nóng song vẫn cố kìm nén. "Alô". Vẫn im lặng. Ông bực mình lắm nhưng không dám cáu. Nhỡ đầu dây kia là cấp trên thì khốn. Bởi vậy, ông kiên nhẫn chờ đợi. Ai mà độc ác quá. Thần kinh ông căng ra như dây đàn. Hai mắt thì cay và nhức. Ông đằng hắng một tiếng thật to thì bên kia cũng đằng hắng lại. Rồi im lặng. Thật hỗn xược. Một lúc sau, không thể chịu đựng được nữa, ông định cất tiếng hỏi thì "Cộp". Nó đã cúp máy. Quái quỷ thật. Đã ba giờ sáng. Ông đứng dậy mở cửa sổ. Trăng cuối tháng sáng nhờ nhờ, bàng bạc. Một ngọn gió nhẹ len vào phòng. Cái ri-đô động đậy. Những bông hoa loang lổ, uốn éo. Cái ri-đô ban ngày trông sạch đẹp là thế sao bây giờ lại xộc xệch và bẩn thỉu đến vậy. Cứ như là cái áo của thầy dạy văn học Trung Quốc.

Thôi chết rồi, đúng rồi. Đích thị là thầy Huy văn học Trung Quốc khủng bố ông rồi. Cách đây độ bốn tháng, thầy Huy về dạy ở lớp đại học Văn - Sử. Cô Hồng trong lớp là con của bạn thầy Huy có đem đến cho thầy can rượu bố gửi. Ai dè ra chơi, thầy Huy lại gọi mấy học viên có tuổi trong lớp ra làm mỗi người một chén. May mà ông bắt gặp kịp thời chứ không thì cuộc rượu hôm ấy chưa biết đi đến đâu. Ông cho lập biên bản rồi đình chỉ buổi học. Nếu thầy Huy có nhân cách, biết đúng sai, biết cư xử thì đã khác. Đằng này thầy lại cãi ông. Thầy Huy dạy rất lơ mơ. Lên lớp không bao giờ có giáo án sách vở gì. Dạy học thì toàn kể chuyện. Lại hay đứng ở cửa. Viết lên bảng thì ít. Có hôm lại để cho học viên tranh cãi ầm ĩ.

Ông biết rõ về thầy Huy không chỉ vì thường xuyên theo dõi mà từ cái hồi ông học tại chức, thầy có dạy một học trình. Thầy dạy rất khó hiểu. Một số người trong lớp cũng thấy thế chứ không phải chỉ mình ông. Bằng chứng là không chỉ mình ông thiếu điểm môn thầy. Đành rằng cũng là thầy giáo cũ của ông đấy. Nhưng xa rồi. Bây giờ ông là giám đốc, thầy về dạy thì phải chịu sự kiểm tra quản lý của ông. Thầy vi phạm ông có quyền xử lý. Nghe đâu ở trường đại học, thầy Huy còn hay chống chủ nhiệm khoa. Thầy giáo đại học gì mà thiếu tư cách. Ăn mặc luộm thuộm, hút thuốc lào, lại uống nhiều rượu. Thầy giáo thế thì phải đuổi. Ông thảo ngay một công văn gửi về trường đại học báo cáo sự việc. Lớp Văn - Sử họp lên họp xuống kiểm điểm. Hai tháng sau, thầy Huy mới được về dạy nốt phần văn học Trung Quốc. Dân đọc nhiều, học nhiều văn học Trung Quốc là thâm nho lắm. Cái trò khủng bố tâm lý kiểu này chỉ có tầm cỡ như ông Huy Trung Quốc mới nghĩ ra thôi. Khốn nạn thật! Ông không thâm thù gì với ông Huy cả. Xong việc là thôi, ông có để bụng bao giờ. Thế mà không ngờ... Sự đời cũng lắm đảo điên. Ác thật! Cái điện thoại vốn là niềm tự hào, khâm phục của ông về sự văn minh và hiện đại lại chơi ông một vố thế này.

Ừ, cái gì rơi vào tay kẻ xấu mà chẳng xấu. Ông thấy đầu đau như búa bổ. Không thể nằm lại được nữa, ông mở cửa đi ra ngoài. Sân trường vắng lặng trong giấc ngủ rạng đông. Trong xóm đã có người dậy. Con đường trước cổng trung tâm chạy về chợ huyện lác đác bóng người đi trong trăng, toàn tiếng đàn bà. Mà... biết đâu đấy. Biết đâu thủ phạm những cú điện thoại vừa nãy lại là của một nữ tặc nào đây. Ở lớp tiểu học có một cô ghê lắm. Ngày còn dạy vùng biên giới, nghe nói cô ta đánh nhau cả với phỉ. Đàn bà dễ có mấy tay... Nhưng cô này mới bị ông quát có một lần. Lần ấy cô ta sai sờ sờ. Cô ta không thể thù hằn cá nhân kiểu ấy với ông được. Vừa đi dọc hành lang lớp học, ông vừa ngẫm nghĩ. Người ông rã rời vì mất ngủ và căng thẳng. Một luồng gió sớm thổi tới khiến ông ớn lạnh. Ông khẽ rùng mình rồi quay về. Người cứ nôn nao như say sóng. Đầu ông váng vất những khuôn mặt - cái tròn, cái méo, cái cười nhăn nhở, cái trợn mắt lên...

Những khuôn mặt các học viên từng "đụng độ" với ông. Đến gần phòng, ông chợt giật mình vì tiếng chuông điện thoại. Réo rắt và giục giã. Ông thấy sợ tiếng chuông điện thoại lắm rồi. Lao vội vào phòng, nhấc máy, ông định quát cho kẻ khốn nạn ở đầu dây một trận. Chưa kịp lên tiếng, ông đã nghe trong máy giọng đàn ông không ra đàn ông, đàn bà không ra đàn bà. Một câu chửi hết sức tục tĩu. Ông Toại hự lên một tiếng rồi ngã vật. Đầu đập vào cạnh bàn. Cái điện thoại rơi thõng xuống, bung beng.

Nửa tiếng sau, bác bảo vệ lên mở cửa văn phòng thì phát hiện ra ông giám đốc nằm ngất lịm trên nền nhà. Bác hốt hoảng gọi người đưa đi cấp cứu. Hai tháng sau, ông Toại mới được biết thủ phạm của vụ khủng bố tâm lý qua kết quả điều tra của công an huyện. Thì ra đó là con trai của một tiệm vàng trong thị trấn. Hắn nghiện rượu và ma túy. Hắn khai là hôm đó hắn uống rượu về không ngủ được, bấm gọi ngẫu nhiên một số máy để đùa. Hắn không biết đó là số máy của ông giám đốc trung tâm giáo dục thường xuyên huyện. Hắn cũng không biết ông giám đốc phải vào viện mất gần một tháng. Bấy giờ hắn thấy ân hận lắm. Hắn đã từ bỏ ma túy rồi. Công an đừng bắt hắn đi cai nghiện. Hắn hứa sẽ không bao giờ lặp lại chuyện ấy nữa. Thật thế mà.


Phạm Thái Lê

Hansy
06-09-2014, 12:11 AM
35.

HỦ NHO

Nguyễn Thế Duyên

Lão đi lại phía cô lễ tân đang ngồi trực tại sảnh ngoài tòa soạn .
-Tôi vào gặp anh Nhân tổng biên tâp.
Lão nói với một giọng bình thản. Cô lễ tân nhìn hắn với ánh mắt đầy nghi ngại.
-Dạ! Thưa bác bác vào gặp bác Nhân có việc gì ạ?
Lão ngạc nhiên nhìn cô gái hỏi lại.
-Cô không biết tôi là ai à?

Cái giọng đầy tự tin của lão khiễn cho cô gái sợ đến tái cả mặt. Nhìn cái mặt tái mét vì hoảng sợ của cô gái lão cảm thấy thích thú. Có thế chứ! Mình vẫn còn là người “Nói có kẻ nghe, đe có kẻ sợ”
-Tôi là Chu Văn giáo sư, tiến sỹ.—Lão nhấn mạnh vào bốn từ “giáo sư, tiến sỹ”.—Trường đại học tổng hợp .

Nghe lão xưng danh, cô gái thở phào nhẹ nhõm. Cô liếc nhanh xuống cuốn sổ để trên mặt bàn rồi nói với lão giọng rất lễ độ.
-Dạ ! cháu xin lỗi. Hôm nay bác tổng biên tập có cuộc họp đột xuất trên ban tư tưởng văn hóa trung ương. Có việc gì xin bác cứ nói, cháu sẽ thưa lại với bác tổng biên tập.
Mặt lão cau lại vì bực bội
-Tôi đã gọi điện hẹn trước với anh Nhân rồi cơ mà!

Cô gái tươi tỉnh.
-Vâng ! cháu biết. Bác Nhân có bảo cháu xin lỗi bác. Hay là bác vào làm việc với anh Thắng thư kí tòa soạn?
Lão ngần ngừ. Tầm cỡ như lão chẳng lẽ lại phải làm việc với thằng cha thư kí tòa soạn vô danh tiểu tốt sao? Lão hỏi lại cô lễ tân
-Thế bao giờ thì anh Nhân về?

Cô bé lễ tân lắc đầu.
-Dạ cháu cũng không biết . Họp ở tận Đà Lạt cháu chắc là cũng phải vài ngày.
-Thôi vậy! để tôi vào làm việc với cậu thư kí tòa soạn.
Nói rồi lão xách cái cặp nhỏ đi thẳng vào bên trong . Đợi lão đi khuất cô bé lễ tân nhấc vội điện thoại gọi lên tầng trên.

-Dạ thưa bác ,ông Chu Văn đang vào làm việc với anh Thắng rồi ạ.
Tiếng nói từ ống nghe vọng ra rất rõ.
-Kệ lão! Thế sáng nay cô có nhớ bảo với anh Thắng những điều tôi dặn chưa?
-Dạ ! cháu đã bảo với anh Thắng rồi.


**

Lão tiến thẳng đến chỗ cái bàn có cái biển mi ca đề một dòng chữ “Nguyễn Thắng thư kí tòa soạn”
Một người trung niên đang cắm mặt vào chồng bản thảo ngước lên nhìn lão.
-Chào bác! Bác có việc gì đấy ạ?
Một vẻ mặt lãnh đạm, với một câu hỏi lãnh đạm. Lão cảm thấy bực bội. Con bé lễ tân không biết lão đã đành vì nó còn trẻ, có khi chưa học đại học. Còn thằng này còn trẻ gì nữa đâu mà sao cũng không biết đến mình?
Lão xưng danh.
-Tôi là Chu Văn!
-Dạ vâng! Thì sao ạ?

Lão lộn ruột! Không thể kìm nén được lão hất hàm hỏi lại tay thư kí tòa soạn
-Hồi học đại học cậu học ở trường nào?
-Dạ em học khoa ngữ văn trường Tổng Hợp.
-Thế không nghe cái tên giáo sư tiến sỹ Chu Văn à?
Lão lại nhấn mạnh vào bốn từ “Giáo sư tiến sỹ”. Tay thư kí tòa soạn nhìn lên trời, lấy tay vỗ vỗ vào đầu cố nhớ nhưng không ra. Gã lắc đầu.
-Chưa từng nghe qua!

Hành động , lời nói của gã làm lão tức nghẹn cổ. “Đúng là đồ vô học” lão thầm nghĩ . Những nhà báo không đọc như mày làm gì mà báo chí chẳng trở thành lá cải . Lão nuốt khan một cái cố gắng nuốt cục tức xuống bụng nhưng không hết nó lại buột ra mồm.
-Chắc chẳng bao giờ cậu đọc sách nhỉ?
Tay thư kí tỉnh như không.
-ỐI giời! thời gian đâu mà đọc những thứ vô bổ của mấy tay giáo sư dởm ấy hả bác. Mà bác đến đây có việc gì đấy ạ?

Lão cắn môi. Phải làm việc với những người như gã thư kí tòa soạn này lão cảm thấy như mình bị sỉ nhục. Nhưng biết làm sao! Tận vài ngày nữa tay tổng biên tập mới về. Lão đành mở chiếc cặp nhỏ vẫn cầm ở tay rút ra một tập bản thảo.
-Tôi có một bài viết muốn gửi đăng trên báo nhà.
Tay thư kí tòa soạn liếc nhanh vào cái tiêu đề bài viết “ Bàn về sự tiếp nối chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong văn học đương đại”. Gã bật cười nhưng rồi sực nhớ ra, anh ta vội vàng nín bặt, lễ độ đưa hai tay ra cầm lấy tập bản thảo.

-Vâng! Bác cứ để đây chúng tôi sẽ nghiên cứu.
-Không phải nghiên cứu! –Lão gằn giọng. –Tôi muốn bài báo được đăng trong số sớm nhất. Tôi đã làm việc với anh Nhân về vấn đề này.
-Vâng ạ. Tôi sẽ gọi điện xin ý kiến của tổng biên tập.
Đợi cho lão đi khuất, tay thư kí tòa soạn cầm lấy tập bản thảo của lão ném tọt ngay vào thùng rác rồi nhấc điện thoại gọi lên tầng trên.

-Anh Nhân ạ! Lão ta đi rồi.
Một lúc sau, ông tổng biên tập từ tầng trên đi xuống hỏi tay thứ kí.
-Bài viết của lão ấy viết gì?
Tay thư kí tòa soạn cười.
-Em có thèm đọc đâu. Hình như là chủ nghĩa anh hùng cách mạng gì đấy.
Ông tổng biên tập mặt nhăn tít lại như khỉ dính phải mắm tôm.

-Mẹ kiếp! Bây giờ là thời buổi nào rồi mà vẫn còn “Anh hùng cách mạng”.
-Thế có đăng không anh?
Tay thư kí tòa soạn hỏi. Ông tổng biên tập trầm ngâm nghĩ một lúc rồi thở dài đến thượt một cái.
-Thôi! Thí cho lão ấy năm trăm nghìn. Cho đăng ở trang cuối của tờ báo.
-Thì mình cứ lờ đi không đăng có sao đâu. Đỡ mất mấy trăm.

-Không được! –Ông tổng biên tập xua tay. –Những thằng như lão này thù dai lắm. Nhỡ sau này báo mình có điều gì sơ xẩy bọn khốn ấy xúm vào đánh hội đồng thì mình chết..
Hôm sau bài viết của lão được đăng. Lão cầm tờ báo về đưa cho vợ. Vợ lão cầm lấy tờ báo rồi ném toẹt ngay xuống gầm bàn thậm chí còn chẳng thèm liếc xem bài viết của chồng mình đăng ở trang nào.

-Ơ !
Lão ơ một tiếng rồi im bặt. Vợ lão nhìn lão một thoáng rồi thủng thẳng.
-Có gì mà đọc. Chắc nếu chẳng chủ nghĩa anh hùng cách mạng thì cũng là tính đảng trong văn chương chứ gì.
Lão thấy cổ mình nghèn nghẹn.

Thời xa xưa, Thời lão còn là sinh viên văn khoa lão đã từng mơ ước trở thành một nhà văn. Một trăm thằng sinh viên ngữ văn thì một trăm linh một thằng đều nghĩ mình sẽ là một nhà thơ hay nhà văn nổi tiếng. Lão cũng không ngoài cái lệ ấy. Thời ấy, Lão đã từng viết dăm ba cái truyện ngắn gửi đi để rồi hộp hộp từng ngày chờ cái truyện ngắn của mình xuất hiện trên mặt báo. Từng ngày mòn mỏi chờ đợi nhưng cái truyện ngắn của lão thì cứ chìm nghỉm chẳng thấy tăm đâu. Là một người tỉnh táo, lão nhận ra ngay cái điều mà không phải kẻ nào cũng dám đối mặt với nó. Lão không có khả năng viết! Và thế là lão xoay ngay sang mảng lý luận phê bình.

Lão nghĩ : Viết văn thì khó. Nó cần những năng khiếu bẩm sinh chứ lý luận phê bình, một ngành tầm chương , trích cú thì chỉ cần chăm chỉ và thế là trong lúc các bạn lão tâm hồn lơ ngơ trên tận mây xanh với những tứ thơ thì lão cúi mặt vào học. Lão có biết đâu rằng cả một thời thơ mới có hàng trăm nhà thơ nhưng chỉ có một Hoài Thanh của phê bình văn học. Nhưng cần gì! Cái bóng của Hoài Thanh quá lớn . Lão chẳng dám mơ đến. Mà dẫu “Thi nhân việt nam” hay thì hay thật nhưng chẳng phải tác giả của nó đã phải tự cầm cuốn sách của mình vả vào miệng mình đôm đốp đó sao? Sáng tạo! hay ăn theo nói leo? Cái óc thực dụng còn hơn cả người Mĩ đã chỉ cho lão một con đường mới. Và,Trời cũng không phụ công lão . Lão được giữ lại ở trường làm cán bộ giảng dạy.

Con đường “Khoa học” của lão cứ thế mà thẳng tiến. Lão trở thành một vị giáo sư, tiến sỹ hàng đầu tên tuổi nổi như sóng cồn trong lúc bạn bè hắn cũng có một vài người thành đạt trong văn chương nhưng vẫn xơ xác vì nghèo còn tất cả đều chìm nghỉm. Thế mới biết! Vấn đề không phải ở tài năng. Vấn đề là ở phương pháp. Cái phương pháp ăn theo, nói leo của lão thật là “Number one”.

Lão cúi xuống gầm bàn nhặt tờ báo mà vợ vừa ném xuống, dở bài viết của mình đăng trên báo ngồi đọc. Lão có thói quen ngồi nhâm nhi lại những dòng chữ của chính mình. Vừa đọc lão vừa gật gù tự tán thưởng. Đọc xong bài mình viết, lão lật sang trang đầu tiên của tờ báo. Vợ lão thấy cái bộ mặt vừa tươi tỉnh đầy thỏa mãn của chồng mình bỗng nhiên cau lại. Lão chìa tờ báo sang cho vợ.
-Bà xem này! Con mụ Bình vừa được phong giáo sư.
-Đâu ! Đưa tôi xem nào.

Vợ lão giật ngay lấy tờ báo. Một tấm hình chụp một đám sinh viên đang xúm quanh một cô giáo với nụ cười tươi rói. Một cánh tay cô ôm đầy những bó hoa, còn tay kia đang choàng ôm một cô bé sinh viên. Dòng chữ trên tấm phông hiện lên rất rõ “Lễ đón nhận danh hiệu giáo sư khoa học trường đại học sư phạm hà nội”. Bà gọi với lên trên gác.
-Hòa ơi xuống mà xem! Cô giáo mày vừa được phong giáo sư đây này

Có một tiếng reo của con gái lão. Cô gái lao ngay từ trên gác xuống, giật phăng lấy tờ báo trong tay mẹ rồi nghiêng đầu ngắm nghía mãi bức ảnh.
-Con biết ngay mà! Thế nào cô con cũng trở thành giáo sư.
Những lời vô tình của cô con gái như một mũi kim trích vào lòng lão khiến mặt lão sầm lại. Bà mẹ tinh ý khẽ bấm váo tay cô con gái. Cô gái sực nhớ ra , cô liếc nhanh về phía bố mình rồi thè lưỡi cười cùng mẹ.

Con gái lão là thạc sỹ ngữ văn. Hồi cô viết luận văn thạc sỹ thì lão đang làm trưởng khoa ngữ văn trường đại học tổng hợp. Lão bảo con gái.
-Mày về trường bố mà làm luận án.
-Có đề tài gì mới hả bố?
Cô con gái háo hức hỏi.
-Thiếu gì!
-Như?

Cô gái hỏi rồi nhìn chằm chằm vào bố đợi câu trả lời. Lão phải suy nghĩ một lúc rồi mới từ từ bảo
Như “ Từ Chí phèo đến đôi mắt ! Khát vọng tự do của những người nghèo khổ”
Lại Nam cao
Con gái lão thất vọng kêu lên.
Thế rồi con gái lão không chịu về trường tổng hợp làm luận văn . Cô sang trường sư phạm đề nghị cô giáo Bình của nó huống dẫn. Và đề tài con gái lão chọn đã làm lão sửng sốt

“Sự vô nghĩa của chiến tranh, khát vọng hòa bình trong chuông nguyện hồn ai của hê minh way và nỗi buồn của chiến tranh của bảo ninh phải chăng chính là nguồn cảm hứng cho ý tưởng bất bạo động hiện nay trên thế giới?”.
-Ai gợi ý cho mày đề tài này?
Đọc xong cái tiêu đề của luận văn, lão đã hỏi con gái.
-Cô Bình!
Con gái lão trả lời với đôi mắt sáng rực.

-Đồ ngu! –Lão gầm lên! – Làm gì có chiến tranh vô nghĩa. Chỉ có chiến tranh chính nghĩa và chiến tranh phi nghĩa thôi.
-Không đúng! – Con gái lão mạnh mẽ bác lại. -- Chính nghĩa hay phi nghĩa chỉ dành cho những người lãnh đạo. Còn với những người dân, những người buộc phải cầm súng, thì dù ở phía bên nào chiến tranh cũng đều là vô nghĩa.
- Mày không biết câu” chỉ có thể giành chính quyền bằng bạo lực cách mạng” à?
-Có! Con biết đấy là câu của Các Mác. Nhưng con còn biết đến Găng Đi của Ấn Độ.
Lão thở dài lắc đầu ngán ngẩm.

-Tao báo cho mày biết! Nếu mày cứ theo đuổi đề tài này chắc chắn là mày sẽ bị đánh trượt.
-Trượt thì thôi! Con chả cần. Thà trượt mà kiến thức của mình được nâng lên một bậc còn hơn cầm một mảnh bằng cao hơn nhưng kiến thức của mình lại tụt đi mất vài bậc thì cầm mảnh bằng làm gì?
Nghe con nói, Lão lặng đi một lúc rồi đột nhiên lão hỏi
-Mày biết kiến thức đo bằng gì không?. -- . Con lão lắc đầu –Bằng tiền con ạ.

Con gái lão bị đánh trượt thật. Và từ đấy lão ghét cay ghét đắng cô giáo của con gái lão còn con gái lão thì lại luôn nhắc đến cô Bình của nó như một thần tượng.
-Này ông! –Vợ lão khéo léo chuyển đề tài để làm giảm sự căng thẳng giữa hai bố con. –Sắp tới ngày giỗ của Nam cao rồi đấy. Năm nay ông có định về Lý Nhân Nam Hà không?
-Có chứ! –Lão vội vàng nói. –Tôi đã hẹn với bọn học sinh rồi.
Nhắc đến Nam Cao , lão hồ hởi hẳn lên. Vợ lão hơi mỉm cườ đưa mắt nhìn cô con gái. Con gái lão cũng lắc đầu cười.

-Mà bà có nhớ lão Tiến làm luận văn năm kia không nhỉ?
Lão hỏi vợ, bà vợ ngẫm nghĩ một lúc rồi lắc đầu.
-Tiến nào nhỉ?
-Cái tay mà bà bảo “Sắp về hưu rồi còn làm luận văn tiến sỹ làm cái gì” ấy
-À! –Vợ lão à lên một tiếng. –Tôi nhớ ra rồi. –Cái tay trưởng phòng giáo dục tỉnh H ấy phải không?
Lão gật đầu.

-Đúng rồi. Năm nay tay ấy lên phó chủ tịch tỉnh. –Lão nhìn con gái đắc ý. –Đấy là nhờ và cái luận văn tiến sỹ của bố đấy. Năm nay tay ấy bao toàn bộ chuyến đi.

Hôm 30 tháng 10, ngày giỗ của Nam Cao, một đoàn ô tô con đen bóng đỗ thành dẫy trước cửa nhà lão khiến cả xóm lắc hết cả mắt. Một đoàn mười ông tiến sỹ về Nam cao, người trẻ nhất cái đầu cũng đã muối tiêu gần hết trịnh trọng đưa lão lên chiếc xe Mẹc đỗ ở đầu đoàn xe . Lão đi, đầu ngẩng cao, cố tạo ra cái vẻ oai vệ, đĩnh đạc . Mắt lão liếc nhìn những người hiếu kì tụ tập thành đám bên đường. Một người đi xe máy ngang qua, thấy lạ dừng xe lại hỏi một người trong đám đông đang tụ tập.

-Ai đấy?
-Không biết à? Đấy là giáo sư Chu Văn
Môi lão nở một nụ cười mãn nguyện.
Đoàn xe đi rồi, chỉ còn lại hai mẹ con ở nhà, cô con gái mới thỏ thẻ cùng mẹ.
--Mẹ ạ! Phòng khách nhà mình phải mua thêm một bể cá cảnh.Nó vừa làm phòng khách thêm sang trọng lại vừa hợp với phong thủy của nhà mình nhưng chẳng biết đặt nó ở đâu.

-Đặt nó ở chỗ cái kệ sách để luận văn của bố mày ấy.
-Thế chồng luận văn ấy thì để vào đâu?
-Cho ra đồng nát. Để chỉ tổ chật nhà.

Nói rồi vợ lão đi ra cửa vẫy cô đồng nát vẫn ngồi bên kia đường. Cô đồng nát gánh đôi thúng tòng ten đi vào. Từ sáng đến giờ cô chưa mua được cái gì. Vợ lão chỉ vào chồng luận văn trên cái kệ gỗ.
-Chị cân thử xem chồng luận văn kia được bao nhiêu tiền
Cô đồng nát ôm chồng luận văn đặt lên bàn cân.
-Được hai chục nghìn bà ạ.

-Sao rẻ thế?—Vợ lão ngạc nhiên hỏi lại . Những mười tập luận văn tiến sỹ của tôi đấy. Chẳng lẽ mỗi luận văn chỉ mua được một mớ rau muống thôi sao?

Cô hàng đồng nát cười.
Thế là được giá lắm rồi đấy bà ạ. Bây giờ tiến sỹ nhiều như lợn con. Ông xã trưởng xã con hiện nay đang ở Hà Nội. Nghe đâu ông ấy cũng đang làm luận văn tiến sỹ



Nguyễn Thế Duyên
Hà Nội 10. –8 .—2013

Hansy
07-09-2014, 12:46 AM
36.

ĐIỆN THOẠI LÚC NỬA ĐÊM

Phong Điệp

Cô thường về rất muộn. Khi chung cư bắt đầu thưa thớt những tiếng thì thầm khe khẽ và những con chó nằm dài trên bậc thềm, thao láo cắn đêm đợi trời sáng. Sự rón rén của cô dần dần thành một thói quen: rón rén tra chìa khóa vào cái ổ khóa kềnh càng, loảng xoảng với những vòng xích nặng nề; rón rén đưa đẩy từng nhịp cổng cho nó khỏi vô cớ rít lên ken két; rón rén dắt xe qua dãy nhà bảy phòng, mái tôn lợp - Giống như những hộp đồ chơi chật chội và ít màu sắc - Để dừng lại ở phòng số 8 - Vẫn còn le lói ánh đèn bàn ngái ngủ.

Lũ chó hồng hộc chạy theo và liếm vết bánh xe. Khi thấy không thể kiếm chác được gì, chúng mới chưng hửng bỏ đi.

Mệt mỏi và cơn buồn ngủ khiến cô bải hoải. Đứa bạn cùng phòng đã ngủ say với chiếc gối ôm ngả màu bạc phếch. Gian nhà chín mét vuông gây gây mùi dầu hỏa và mùi xà phòng ngâm trong chậu quần áo xốp xộm nước, đẩy sát chân giường.

Nước lạnh đẫm trong khăn mặt khiến cô tỉnh táo hơn. Nhẩn nha ngồi vào bàn chiếc bánh mì vẫn còn ấm nóng mua từ ngoài phố, cô rút trong ngăn bàn lá thư viết dở ngày hôm qua. Đó là lá thư gửi cho mẹ và các em dưới quê. Tìm mãi không được cái bút cùng màu, cô đành viết sang đoạn hai với màu mực khác.

“Con đang chuẩn bị làm đồ án tốt nghiệp. Thầy giáo hướng dẫn rất tận tình. Con vẫn đi làm thêm, đủ tiền chi tiêu trên này, mẹ không phải gửi thêm nữa đâu! Việc tìm lớp học thêm cho em Toàn cũng đã xong. mẹ chuẩn bị cho em lên nhập học vào tháng tới. Có gì gấp mẹ cứ gọi điện cho con theo số..”

Cô rũ xuống trong cơn ngáp ngủ dài lê thê. Chỉ kịp tắt điện và chui vào cạnh cô bạn đang thở nhịp đều đặn..

Những âm thanh thất thường - Dường như một cuộc cãi vã vào hồi gay gắt khiến cô choàng tỉnh.
- A, cô cũng biết đường mà dậy rồi hả?

Người đàn bà ở phòng số 2 xốc xốc đứa con nhỏ gầy xanh như một con ngái bén, vẫn còn đang tấm tức khóc gắt ngủ, sấn sổ lao đến bên cô.
- Cô xem ở cả khu này, có ai đi đêm về hôm như cô không? Ờ, thế tôi lại hỏi cô: 11-12 giờ đêm còn cơ quan xí nghiệp nào làm? Đi chơi đi bời thì cũng phải liệu đường về sớm chứ! Nữa đêm rồi còn lạch cạch cổng ngõ, cứ như phường khoét vách, đào ngạch. Đấy! Tối qua đã về muộn lại còn quên khóa cổng. Quá bằng mời lũ trộm cắp vào. Đấy, phòng đầu tiên mất tiêu cái xe đạp rồi đấy. May mà nó chưa kịp sờ đến nhà tôi thì đã bị phát hiện, chứ không thì cô không có yên với tôi đâu!

Những âm thanh chói gắt thi nhau quay cuồng quanh đầu cô. Cô bắt đầu hiểu ra sự việc một cách khá tường tận.

Các phòng khác đều đã cọt kẹt trở dậy. Khoảng sân hẹp với ngổn ngang của mọi thể loại áo quần trở nên chật chội. Mỗi người góp một câu rồi lại tất bật xô chậu cho các thủ tục cách rách của buổi sáng.

“Em xin lỗi”. Cô ấp úng phân trần với anh chàng đầu dãy vừa bị mất chiếc xe đạp. “Em cũng chẳng nhớ mình đã khóa cổng hay chưa. Dù sao em cũng xin lỗi”.

“Khóa hay không lại còn không nhớ nữa!” - Phòng số 5 lên tiếng giễu cợt - “Đãng trí thế là hỏng cả đời đấy em thân yêu ạ!”.
“Anh xem lại xem nhà mình có mất gì không?” - Cặp vợ chồng trẻ phòng số 3 tất bật trở lại phòng mình xem xét.
“Không sao đâu em ạ!”- Anh chàng phòng số 1 lên tiếng an ủi - “ Anh đang định đổi xe mới mà chưa tìm được lý do”.

Chuông điện thoại nhà cô đổ dồn dập. Người bạn gái cùng phòng - Giờ mới lồm cồm bò dậy, gọi vọng tên cô bằng cái giọng khê nồng.

Buổi sáng hối hả kết thúc bằng một bể nước cạn gần đáy.Vòi nước ri rỉ chảy như một gã ti tiện thích trêu tức mọi người. Cô cuống cuồng gò lưng trên chiếc xe đạp long xóc, bỏ lại sau lưng dãy nhà trọ 10 phòng rồng rắn như những toa tàu chờ chuyến.

“Thực ra là cháu đang làm cái gì vậy? Tại sao tối nào cũng về khuya thế?” Bà chủ nhà kín đáo kéo cô vào phòng riêng để hỏi han.
“Bác thấy mọi người trong khu nhà kêu về cháu nhiều quá. Chứ không phải là cháu làm cái việc đấy chứ?”.
Cô thảng thốt:
“Bác vẫn nghĩ là cháu... cháu...?”

“À không!” - Người đàn bà phúc hậu cố gắng xoa dịu câu chuyện - “Một vài kẻ độc mồm độc miệng nói thế thôi. Chứ bác thì bác chẳng tin!”
Cô ngồi ệp vào thành ghế - Giống hệt như một con mèo ốm.
“Tại sao mọi người lại nghĩ tệ về cháu đến thế?”

“Chẳng phải nhà cháu đang rất khó khăn sao? Thực ra cũng có thể giải thích được. Nhưng không đúng thế không? Thế thì tốt quá! Bác nhìn mày bác biết chứ!”.
Cô thiểu não đứng dậy và uể oải đi về phòng. Vài ba cặp mắt nhấp nhỏm sau khe cửa. Những tiếng lào thào khó hiểu. Vòi nước ngoài bể bỗng xoe xóe như người đi xe máy lên ga quá đà. Cô bạn cùng phòng bươn bả bê chậu quần áo bẩn đi giặt, véo von chửi đổng thay cho bạn:
“Cái quân rỗi việc, ngồi lê đôi mách, chỉ chực hại người. Rồi cũng bị trời đày thôi!”.

Cô bật cười trước vẻ nanh rọc rất trẻ con của người bạn gái.
Điện thoại xòng xọc kêu lên như một bà già bẳn tính. Cô vội vã thay quần áo và phóng xe đi.
“Cái gì hả ?” - Người đàn ông có khuôn mặt bều bệu trắng, cất giọng đay đả - “Cô muốn về sớm hả. nửa lương nhé! Được không? Mẹ kiếp, làm ít đòi nhiều. Đừng tưởng bán hàng đông khách thì hạch sách nhé! 10 - 11 giờ khách mới tới ăn đông. Cô đòi về từ 9 - 10 giờ thì có mà bán cho chó à?”.

Cô cố ghìm mình, nài nỉ thêm:
“Cháu sẽ đi làm sớm hơn, được không chú?”.
“Đến sớm để mà quẩn chân người khác à? Mẹ kiếp, ngày trước xếp cho làm ca chiều thì kêu ca: “Cháu bận học, cháu bận nọ bận kia, cho cháu làm tối thôi!”. Chập chập keng keng nó vừa vừa thôi. Mỗi bán quầy rượu đã rủng rỉnh tháng bảy - tám trăm ngàn đồng, chưa kể tiền “boa”. Mày tưởng tao mù à? Muốn khấm khá cũng phải chịu “vất” một tí chứ! Thôi ra làm đi. Không lôi thôi nữa. Thích thì cứ nghỉ việc. Tao không cần!”.

Cô căng thẳng trở về gian phòng hun hút khói thuốc và nồng nặc mùi rượu mạnh. Nụ cười kéo ra hai phía gì má hốc hác vô hồn như một cái mặt nạ.
“ Hay cậu nghĩ làm ở đấy đi” - Cô bạn gái xót xa - “Ban ngày lo cày đề tài tốt nghiệp, tối đứng chôn chân ở quán rượu, làm sao mà cậu chịu nổi? Nhưng mà cũng khó thật cơ…”.
Lại nằm thượt xuống giường, ngao ngán. Chốc đã thấy tiếng khò khè đều đặn.

Tự dưng điện thoại đổ chuộng giữa đêm. Cô hoảng hốt ngỡ là nhà đã ra chuyện gì.
“Mẹ à? Mẹ có phải không?” - Cô áp chặt ống nghe vào tai - “ Có chuyện gì vậy mẹ?”.
Cô biết từ khi bố qua đời, mẹ nghĩ việc ở nhà máy, tâm tư của bà rất bất ổn.

“ Có chuyện gì thế” - Cô cuống quít hỏi lại, như sợ đầu dây bên kia nghe rõ tiếng mình.
Nhưng vẫn là sự im lặng khó hiểu. cô nín thở chờ đợi khá lâu. Đến khi định buông máy xuống thì cũng là lúc đầu dây bên kia đã đáp lại:
“Em đi nghỉ đi! Khuya rối đấy!”

Giọng một người con trai, nghe rất lạ. Và máy điện thoại ngắt. Cô chưa kịp hiểu điều gì đã xảy ra. Nhưng rồi cũng nằm xuống và nhắm mắt lại, chờ đợi giấc ngủ sẽ đến - Thật thanh thản.


Phong Điệp

Hansy
08-09-2014, 12:04 AM
37.

ĐIỆP KHÚC MÌ TÔM

Cấn Vân Khánh

Mỗi buổi sáng thức dậy, có ai ngờ, điều kinh hãi nhất, ám ảnh nhất đối với em lại là một bát mì tôm. Chẳng ai bắt em phải ăn nó . Em có thể nhịn, em có thể chỉ uống một ly nước lọc rồi bỏ qua khâu tập thể dục và xuống bể nước với bàn chân nhón khẽ để đỡ tiêu hao năng lượng. Nhưng, cuối cùng, thì em, vẫn phải ăn mì.

Vì em không có tiền để ăn món ăn khác. Và vì em gầy quá.

Hồi mới nhập trường, em còn có thể được gọi là mảnh mai, còn có thể vênh mặt mà kiêu hãnh khi đi qua hoặc đứng cạnh những cô nàng béo tốt mà cánh sinh viên nam vẫn gọi họ là xe lu ấy. Nhưng bây giờ thay vì mảnh mai, em trở thành cây sậy, bộ xương khô…hay gì gì đó. Em đọc được sự xót xa trong đôi mắt những người đối diện mình.

Thủa ban đầu em cực kỳ hãi sợ, nhưng về sau em cũng chai đi. Có ai hiểu, chỉ một mình Hân - đứa bạn cùng phòng hiểu và có thể còn một nhân vật nữa…

Những sợi mì dài loằng ngoằng, xoăn tít , váng mỡ nổi lềnh bềnh những cọng hành khô. Ti vi quảng cáo rầm trời mì tôm thơm ngon bổ dưỡng, nhưng sao em thấy mình vô cảm khi nuốt nó. ẩm thực là một cái thú khi người ta ăn bất kỳ một món ăn gì, người ta cảm thấy vô cùng hạnh phúc ngay từ khi đầu lưỡi mới chạm vào. Còn em thì ngược lại, em liên tưởng đến những con bò khi nhai rơm, chắc nó cũng như em , nhai, nuốt, chứ không phải là ăn. Người ta gọi là gì nhỉ? Ăn cho đỡ đói.

Ngày còn ở nhà, mẹ vẫn hay luộc khoai cho em ăn. Mẹ bảo: ”Ăn cho đỡ đói “. Nhưng mà sao em thấy nó ngọt ngào đến thế. Những củ khoai căng mẩy tứa mật ngoài lớp vỏ, cắn một miếng khoai mềm và thơm nức, thấy ấm cả lòng. Mà thôi nhỉ, nghĩ đến khoai rồi thì sẽ lại nghĩ đến bún ốc, bún chả, miến ngan, xôi thịt , bánh mì patê… người Hà Nội ăn ngon lắm. Trước đây, em cũng tập làm người Hà Nội, chính xác hơn là người ấy rất hay dắt em đi sục sạo khắp hang cùng ngõ hẻm để thưởng thức những món ăn ngon mà một con bé nhà quê như em chưa bao giờ được biết. Cho đến khi, em đã gần như có cảm giác thèm thuồng thì người ấy lại thôi. Vì sinh viên xa nhà, chỉ có thể là bạn đồng hành với túng thiếu, nỡ nần. Em thì chỉ túng thiếu, chứ không nợ nần. Còn người ấy thì em không thể nào biết được. Bởi vì…

Em không thể không nhớ như in ngày ấy, một ngày chớm đông se lạnh, em mặc áo len hồng qua phòng người ấy. Em muốn đi chơi vườn bách thú. Mỗi lần em than em nhớ con mèo nhà em quá thì người ấy lại bảo với em rằng: “Mèo chỉ là tiểu hổ, rồi anh sẽ dắt em đi xem hổ thực sự”. “ Nhưng em đâu thể bế hổ được, vuốt ve hổ được”. Em cong môi cãi. Người ấy cười nhăn nhở khoe mấy chiếc răng sún đến là duyên.

Rồi em cũng toại nguyện và no con mắt. Chúng em ăn kem, dạo bước trên thảm cỏ xanh mướt. Xung quanh em, trên đầu em, toàn lá là lá thôi, lãng mạn không tả xiết. Em thích thú ngắm nhìn tất cả những con vật nằm ngồi trong cũi. Dĩ nhiên ấn tượng nhất là con hổ. Đường về em hát líu lo vì ngây ngất. Người ấy hăng hái đạp xe chở em , huýt sáo vang trời. Người ta vẫn hỏi nhau hạnh phúc là gì, hạnh phúc của em chính là như thế này đây. Chứ không phải điều gì cao sa cả.

Về đến ký túc xá, người ấy và em đứng bên nhau ngoài hành lang tầng ba. Trời sẩm tối nhưng đã thấp thoáng những vì sao xanh lung linh hiện lên giữa màn trời nhung sâu thăm thẳm. ”Anh ơi, anh có thấy giống một bức tranh thủy mặc không?”. Em chỉ tay về phía trước thốt lên . Người ấy ừ hử. Em hân hoan , tay trong tay với người con trai em vô cùng yêu mến. Trái tim em rung lên nhịp đập bồi hồi của luồng xúc cảm ngây thơ non trẻ nhưng đầy ắp khát khao .

“Minh này.”. Người ấy ngập ngừng. Em vẫn mải mê với trời đất trăng sao nên không để ý lắm lời người ấy đang thầm thì bên tai. Đến khi người ấy giằng tay em ra, bực bội:” Em có nghe anh nói không? Hay là anh đi về cho em thoải mái một mình ngắm trăng sao?”thì em mới giật mình hãi sợ: “ Có, em có nghe !”. Người ấy rất ít khi cáu với em. Tình hình trở nên nghiêm trọng mất rồi. Nhưng rất may là người ấy đã dịu dàng trở lại: ”Em à, anh không biết phải nói sao, tháng này mẹ anh chưa kịp gửi tiền, mà anh thì đang cần mua một số tài liệu…”.” Anh cần tiền à?”. Em vào đề luôn. Em không phải là người thích vòng vo. “à, ừ”. Tiền ư? Từ bé đến lớn em chưa biết cho ai tiền bao giờ, trừ phi thi thoảng đi chợ thừa mấy trăm đồng em dành cho những người hành khất . Có lẽ trông gương mặt em khi ấy có vẻ đăm chiêu lắm nên người ấy đưa tay lên miệng em, suỵt: ”Anh tâm sự với em vậy thôi, còn em giúp được anh hay không, điều đó không quan trọng, cái chính là tình cảm của chúng mình”. “Vâng”. Em đưa tay vào túi, rút ví ra, cái ví hồng thêu những bông mai vàng yểu điệu :”Đây, mẹ mới gửi cho em, anh cầm một nửa mà mua sách”. ”Cảm ơn em, em thật tốt! Nhất định khi bố gửi lên anh sẽ hoàn trả lại cho em”.

Em sung sướng khi người ấy hạnh phúc, em soi mình trong đáy mắt long lanh của người ấy. Chúng em âu yếm nhìn nhau . Khoảnh khắc này, người ấy có muốn cả trời, cả đất em cũng dâng tặng, sá chi mấy trăm nghìn.

Em vẫn sống khá yên ổn trong hai tuần kế tiếp. Em không có nhu cầu may sắm nhiều, mỗi tháng mẹ cho em một số dư nhỏ ngoài tiền ăn để em có thể mua những vật dụng cần thiết cho sinh hoạt hàng ngày. Với em, thế là toại nguyện. Nhưng đến tuần thứ ba, em đã bắt đầu cảm thấy sợ. Một nỗi sợ mơ hồ.

Em gần như đã hết tiền. Nếu tính toán một cách kỹ lưỡng thì em chỉ còn sống được năm ngày nữa. Em âm thầm chịu đựng, không nói với ai, kể cả người ấy. Hân bắt đầu dò xét, khi có nhiều trưa em ngủ luôn , không ăn cơm. Nó đi ra đi vào, nhìn em :”Mày làm sao thế, định thành con mắm đấy à? Hay là tao phải cõng mày xuống căng tin?”. Sự quan tâm của Hân khiến em chột dạ, em nhắm nghiền mắt . Mặc kệ. Đến khi nó hậm hực đóng sầm cánh cửa phòng vì phải đi ăn một mình, em mới lồm cồm bò dậy tu nước lọc. Nước lọc cũng làm cho õng bụng, cũng làm em no .Một cái no giả tạo. Nhưng có hôm, huyết áp tụt, hoa mắt, chóng mặt gần như muốn xỉu , em đã nghĩ đến chuyện đi vay tiền, nhưng nếu có vay được tiền thì em biết lấy đâu ra mà trả lại? Hơn nữa, điều làm em hãi nhất đó là mấy đứa bạn cùng quê mỗi lần có dịp gặp em lại than nghèo than khổ, trong khi những lời than ấy lại tỉ lệ nghịch với bộ quần áo trên người chúng. ở thành phố rộng lớn này, sẽ chẳng có ai đâu, giúp được em. Chỉ có người ấy là thân thiết nhất, nhưng người ấy cũng đang gặp khó khăn. Tối thứ bảy hàng tuần , chúng em ngồi uống trà đá bên quán nước ven đường khoảng mười lăm phút rồi sau đó lên tầng ba hành lang ký túc xá hóng gió đếm sao trời. Tình yêu sinh viên lãng mạn vô cùng. Sự lãng mạn ấy khiến em quên đi bao toan tính đời thường, để trở về đúng với con người thật của mình, một cô gái quê ngây thơ và trong sáng.

Cuối cùng thì em cũng vượt qua được hai tuần thiếu thốn ấy, cho đến khi nhận được tiền mẹ gửi cho tháng sau. Thôi thế giã từ những ngày nhịn ăn nhé. Em kêu người ấy chở em ra bưu điện lĩnh tiền. Chúng em đi ăn miến ngan, người ấy đi cùng em nhưng mặt buồn rười rượi. Là người nhạy cảm nên em nhận ra ngay. Em gặng hỏi nhưng người ấy không nói, đến khi về đến cổng kí túc , người ấy nắm lấy tay em, dịu dàng:” Ngày mai, anh về quê, ông ngoại anh bệnh nặng …Ông là người quý và thương anh nhất, lỡ ông có mệnh hệ gì anh làm sao sống được”. “ Vậy sao?”. Em thảng thốt kêu lên. Người ấy đang gặp chuyện buồn, và người ấy đang cần sự sẻ chia .” Vậy anh về quê ngay đi!”. “ Nhưng…”. “ Nhưng sao anh?”.” Anh hết tiền rồi…”.” Trời ơi!” Em kêu lên, nhưng em không thắc mắc . Em hiểu người ấy đang cần gì, yêu nhau là phải hiểu nhau. Ai đó đã nói thế. Em không biết mình đang làm gì , nhưng em thấy tay mình lại đang đút sâu vào túi , những ngón tay lần khẽ vào xấp tiền mỏng em vừa lĩnh mà chưa kịp cất vào ví .” Đây, anh cầm lấy mai mà về quê…”. Người ấy nhìn em, mắt rưng rưng vì quá xúc động. Có lẽ thế. Chúng em chia tay nhau sớm hơn dự tính vì người ấy phải về sửa soạn đồ đạc. Em cảm thấy mệt, vừa về đến phòng em đã ngã ra giường. “Mình không tiếc đấy chứ?”. Em tự vấn mình. Như thế thì nhỏ mọn và hẹp hòi quá. Mình yêu anh thực sự , và mình sẵn sàng hy sinh vì tình yêu ấy”. Em hạ quyết tâm, cố gắng xóa đi cái ám ảnh đói khát đang chờ trực ở phía trước.

Hân đi siêu thị, em nhờ nó mua cho em ba chục gói mì tôm. Nó trợn mắt nhìn em . Em làm ra vẻ bình thản:” Tao lười đi lắm, ăn mì cho thuận tiện”. Hân kéo tay em lôi sềnh sệch ra khỏi phòng:” Mày không bị điên đấy chứ?”” Không”. Em quay đi tránh ánh mắt sắc lém của Hân khi nhìn thẳng vào mắt em:” Mày nói đi, sự thật là thế nào? Trước đây mày không như thế này…”. Em nhìn Hân bủn rủn. Và em đã không thể giấu nó. Em kể hết. Hân vừa nghe vừa nghiến răng kèn kẹt. Nhưng nó không phản ứng gì hơn. Một lúc sau, nó đi ra ngoài, lúc về nó bảo em: ” Chàng của mày hôm nay về quê à?”.”ừ”.” Sao tao thấy hắn đang ngồi dưới căng tin với lũ bạn hắn”.” Mày có nhìn nhầm không?”. “Không tin xuống đó mà xem”. Giọng Hân tưng tửng. Không lẽ người ấy dối em? Em chạy xuống căng tin, sửng sốt khi nhìn thấy người ấy đang ngồi giữa đám đông , bên cạnh những người bạn của người ấy. Họ đang ăn sáng và nói cười vui vẻ. Người ấy không nhìn thấy em . Mà em cũng không muốn điều đó xảy ra. Sẽ chẳng làm gì cả.
Em lủi thủi về phòng.

Hân liếc bộ mặt buồn như đưa đám của em và không bình luận gì. Có lẽ , nó muốn khơi dậy sự tự ý thức trong em. Em muốn ngủ. Em nằm nghiêng, mắt nhìn lên bức tường xanh , em nhìn lên những vết nứt. Không hiểu tình yêu của em và người ấy có những vết nứt như thế hay không? Em không giận hờn, trách cứ, tuyệt nhiên không có chút gì cảm giác đó. Mà em chỉ thấy mình đang đau khổ.

Những chuỗi ngày tiếp theo em bắt cái dạ dày tội nghiệp của em chiến đấu với mì tôm. Quen đi chứ, cái gì lặp đi lặp lại nhiều lần mà chả trở thành thói quen. Bữa sáng. Mì tôm. Bữa trưa. Mì tôm. Bữa tối. Em mới được ăn cơm. Tối thứ bảy, người ấy cử một anh bạn vàng sang phòng em thẽ thọt:” Quân nó nhờ anh nhắn với em là nó đang bận ôn thi, không qua em được”. “ Vâng ạ”. Em cúi đầu. Xong nhiệm vụ, người bạn thân của người ấy hỏi dăm ba câu nhạt thếch rồi lủi nhanh sau cánh cửa gỗ màu xanh. Em những muốn lao đầu theo, nhưng chân em tê cứng lại. Em ngồi chênh vênh, ngơ ngác không biết mình đang nghĩ gì.

“Mày xem thế nào đi chứ? Thật xấu hổ khi tao lại có đứa bạn hèn hạ và đáng thương như mày”.” Hân dường như quá bức xúc, bắt đầu sỉ vả em . “Thế tao phải làm gì?”. Em chống chế: “Tao không biết giận ai cả”.” Tao không cần mày giận, nhưng phải làm một cái gì đó. Mày không thể nhịn ăn như thế mãi được”.” Vậy tao phải làm thế nào đây?”.”Mày phải qua gặp hắn, nói với hắn là mày hết tiền, hắn cần phải lo cho mày”.” Tao không làm thế được”. Em gần như hét lên. ” Tại sao lại không khi hắn làm được điều đó với mày”.

Ừ nhỉ! Người ấy nói được, tại sao em lại không thể nói ra , rằng em cần tiền lắm, em không thể sống khổ sống sở mãi thế này được. Trong một giây phút hăng máu, em thay đồ qua khu kí túc xá nam.

Đây là một căn phòng bé nhỏ và quen thuộc. Em vẫn lui đi lui lại nhiều lần. Vẫn cánh cửa gỗ nâu sờn mỗi lần cơn gió thốc ngang qua là va đập liên hồi tạo nên những thanh âm hoảng hốt. Chưa bao giờ, căn phòng này lại gây cho em một cảm giác hoang mang hãi sợ thế này.

“ Minh uống nước đi…”. “ Cảm ơn anh”. Em đón cốc nước lọc từ tay người ấy. Hôm nay người ấy mặc quần tây áo sơ mi trắng là thẳng nếp, có lẽ người ấy vừa đi đâu chơi về .” Em biết đấy, dạo này anh bận bịu quá.”. ”Dạ”.” Em dạo này thế nào”.” Em bình thường. ” Tốt” . Mấy anh chàng ở chung phòng người ấy nhấm nháy nhau cười rồi leo tót lên giường trùm chăn kín mít. Em uống hết ly nước lọc , xoay xoay miệng cốc. Người ấy với tay lấy tập giáo trình , lật đi lật lại từng trang.

Tất cả diễn biến đều không theo ý em, không một chút nào. Đáng lẽ, khi người ấy hỏi em sống ra sao thì em phải nói là em thiếu thốn và mỏi mệt đến nỗi sức khỏe em sa sút lắm rồi, nhưng em lại nói là em bình thường. Trời ơi. Thế mà là bình thường hay sao?
“ Em đợi anh một chút!”. Người ấy đi ra khỏi phòng. Em ngước lên tường . Đồng hồ chỉ mười giờ đêm. Giờ này, chắc Hân đã đi ngủ. Em và Hân nếu không phải kỳ thi thì thường đi ngủ vào giờ này. Nhưng em lại ngồi đây, chơ vơ, như một vị khách bất đắc dĩ. Dường như em đọc được sự miễn cưỡng trong đáy mắt của người ấy khi tiếp em. Nhưng chỉ là dường như thôi, vì cho dù có nhạy cảm đến đâu em cũng không dám tin đó lại là sự thật.

“ Ngoài trời lạnh quá!”. Người ấy bước vào xuýt xoa, trên người chỉ còn độc một chiếc quần đùi. Người ấy vắt chiếc khăn mặt lên vai. Em vừa tính rủ người ấy ra hành lang đứng thì xem ra, người ấy đã không hề muốn . Tình thế, đã đến lúc không thể xoay chuyển nữa rồi.

“Lâu rồi em có gọi điện về cho bố mẹ không?”. Em im lặng, so vai, ủ rũ. Có lẽ nhìn em lúc này chẳng khác gì một con mèo hen tội nghiệp. Nhưng người ấy không nhìn em mà hướng cặp mắt đẹp lên tường, đến lượt người ấy xem đồng hồ. Tự nhiên, em thèm nghe lại cái câu nói đáng ghét mà ngày mới quen người ấy mỗi lần bên em vẫn nói:” Sao em gầy thế?”.

Nhưng người ấy không nói gì cả. Em cũng không còn gì để nói. Chiếc cốc thủy tinh trên tay suýt vỡ vì em bóp chặt. May mà người ấy đã đón lấy và rót thêm nước cho em. Em bao quát xung quanh để xem có thể hướng ánh mắt của mình vào một điểm nào đó cho đỡ chênh vênh hay không? Nhưng chẳng có gì, ngoài bức tranh vẽ một đôi trai gái đang hôn nhau. Em cảm thấy xấu hổ.

“ Minh uống nước đi!”. Nước. Ngày nào chả uống nước. ôi, tự nhiên em chán quá, chán đến mềm người. Em dằn cốc nước xuống bàn. Tiếng động khẽ vang lên làm cho mấy cái đầu bù rù trên giường thò ra khỏi chăn. “ấy chết!”. Người ấy kêu lên , cúi đầu nhặt chiếc giẻ lau đi lau lại những giọt nước bắn tung ra mặt bàn. Em nhìn bàn tay người ấy, những ngón tay trắng trẻo và mềm mại như tay con gái . Những ngón tay ấy đã từng nắm tay em, từng lùa vào tóc em. Xúc cảm trong em tự nhiên lại dâng tràn. Dù em vừa qua cơn giận dữ . Đã bao lần em không thể kiểm soát được chính mình? Như ngày hôm nay …Đã bao lần rồi nhỉ? Đầu óc em quay mòng mòng những suy tư hỗn độn. ” Mày phải qua gặp hắn, nói với hắn là mày hết tiền, hắn cần phải lo cho mày”. Lời Hân nói bất chợt vang lên rồi tan biến, tan biến và chìm nghỉm như bọt biển.

“ Anh biết không?”. “ Gì hả em?”. Người ấy bắt đầu ngáp vặt.” Không có gì đâu ạ?”. “ à , ừ…”.Em thở dài , thất vọng với chính mình kinh khủng.Vì em cảm thấy mình vô duyên. Khi em không thể tạo ra được một tình huống khả dĩ nào. Và thế là em chỉ còn cách là đứng dậy.

Người ấy líu ríu theo em. Người ấy không mặc thêm đồ, điều đó có nghĩa là người ấy không tiễn em về. “ Thi xong , anh sẽ qua em ngay”. Người ấy chạm khẽ vào vai em. Em đếm những bước chân của mình trên từng bậc cầu thang hẹp. Thực sự là em đã muốn nói một cách không hề băn khoăn rằng:” Anh biết không? Em nhớ anh nhiều lắm”. Nhưng ngay cả câu nói này, em cũng không thể . Rốt cuộc em không thể làm được gì cả, ngoài tình yêu mà em đã có.

Tự nhiên, em muốn khóc.Vì sương mùa đông giăng kín thấm đẫm cô đơn làm cho em lạnh quá. Vì em nhận ra cuộc sống không chỉ đẹp và đơn giản như những giấc mơ. Chứ không phải vì sáng mai, sáng ngày kia và những ngày kế tiếp, em phải ăn mì tôm. Dù nó đã ăn sâu vào tâm trí em như một nỗi ám ảnh khôn nguôi và không bao giờ dứt.


Cấn Vân Khánh

Hansy
09-09-2014, 03:10 AM
38.

ĐIỀU BÍ MẬT CUỐI CÙNG

Nguyễn Tấn Huy


Đất đai bỗng nở rộ mùa tiền. Ông Hai Lấn bỗng chốc trở thành “đại gia”. Năm nay ông đã xấp xỉ ngũ tuần, con cái đều trưởng thành. Có đứa đã lập gia đình, những đứa khác công việc làm ăn ổn định. Nhưng bất kể lớn bé, ông chia cho mỗi đứa vài chục lượng vàng gọi là chia phần phước lộc của gia tộc.

Riêng ông, một căn nhà 5 tầng cao ngất ngưởng, sân vườn trồng toàn cây cảnh đắt giá, hòn non bộ có con suối giả nước chảy róc rách, thả tép kiểng đủ loại. Ông nói với bà Hai, vợ ông:
- Ở nhà lụp sụp chán rồi ! Trồng rẫy trồng khoai, nuôi cá tra cá vồ cơ cực hơn nửa đời người, bây giờ ngắm “bon sai khủng”, nuôi tép “rét nô sờ, bờ lu bi” cho nó sướng.

Bà Hai cự nự:
- Nhưng ông xây làm chi căn nhà bự xự quá đỗi, ở sao hết. Tụi nhỏ đã ra riêng trọi trơn, chỉ còn thằng Út Éc. Nhiều khi đêm hôm, thấy phòng ốc thênh thang, tui bắt sợ!
- Sợ gì?”.
- Thì sợ ma chứ sợ gì!”.

Ông Hai Lấn cười ngất:
- Hồi xưa đất rộng nhà thưa, nửa khuya bà xách đèn thùng đi thăm câu thăm lợp còn chưa có con ma nào dám nhát. Bây giờ nhà cửa mọc san sát, đường nhựa dọc ngang như bàn cờ, đèn điện sáng choang còn con ma nào dám ở đây mà bà sợ !

Bà Hai nhìn chồng. Dạo này trông ông trẻ ra hàng chục tuổi nhất là từ khi “tân trang” lại bộ răng, nụ cười của ông trở nên trong sáng, vô tư hẳn. Đúng ra răng ông còn tốt lắm, chỉ mới bể một cái răng cấm ở hàm trên và hai cái ở hàm dưới, ông nhai mía cây rào rào như voi và khoái nhậu món gân bò. Nhưng vì lười đánh răng và hút thuốc rê quá nhiều nên vàng đen cả mặt răng trong lẫn ngoài, do vậy thời gian trước đây ông già trước tuổi. Bộ răng “trẻ” này, ông Hai tốn hàng trăm triệu đồng. Vì thế ông hay cười để khoe đẹp, khoe sang. Nhưng bà Hai lại không ưa bộ răng “lên đời” của ông Hai. Bà nói: “Tui thấy nó giống… quỷ!”. Ông lại cười nhe răng: “Quỷ mà có răng đẹp vậy sao?” Bà quay mặt đi: “Giống như lấy răng của ai đắp vô bộ mặt ông, chứ hổng phải là ông”. Bà nghĩ, giá như lúc này mà ông… hôn bà, chắc bà ớn lạnh mà xỉu mất.

Đã thế, ông Hai còn “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”, đầu tóc xịt keo bóng lưỡng. Ông không còn uống cà phê quán cóc, nhậu rượu đế cây nhà lá vườn nữa mà xách chiếc xe máy tay ga đi mãi tận đâu đâu. Có người nói ông uống cà phê “đèn mờ đèn tối”, có người mách ông nhậu “bia bóp bia ôm”. Bà Hai chẳng quan tâm, không phải không ghen mà thật lòng bà đã hơi bị dị ứng với cái hình tướng nửa trẻ nửa già, nửa quê nửa tỉnh của ông. Hơn một năm rồi, từ dạo ông “lên đời”, bà cảm thấy ông lạ lẫm như… người dưng. Sinh hoạt gia đình dường như chỉ là… tình hàng xóm.

Thỉnh thoảng con trai, con gái, dâu, rể kéo về ầm ầm tiếng xe máy nổ. Chúng thách nhau mua bia lon, rượu tây, thách nhau uống rồi ngà ngà bàn toàn chuyện làm ăn lớn, chuyện các loại xe đời mới, chuyện những show diễn thời trang, chuyện cho con cháu sang nước ngoài du học, rồi bắt qua chuyện kinh tế chính trị thế giới. Bà ngán ngẩm bỏ vào phòng nằm một mình cho yên thân, chúng cũng quên luôn sự vắng mặt của bà trên bàn tiệc. Thỉnh thoảng có đứa nào đó đi “toa-let” xả bia chợt nhớ ra, ghé vào phòng thăm hỏi vội vã: “Má mệt hả má?”- “Ừ !”- “Bữa nào con mua cho má một mớ trà sâm Hàn Quốc chính gốc, uống vô khoẻ liền !” Nói xong, nó quay ra phòng khách nhậu tiếp.

Bà thèm có một người nói chuyện với bà về ruộng nương mùa màng, về những đoá hoa mướp, hoa bí rợ vàng óng có những con ong bầu to đen như hạt nhãn vo ve vờn lượn rập rờn. Chuyện nửa đêm thức giấc thả câu, ngan ngát mùi cỏ ẩm sương trên bờ ruộng, lách chách tiếng cá đớp mồi trên mặt nước lấp xấp nửa thân cây lúa… Nhưng tình yêu thiên nhiên của bà Hai không thể mãi tồn tại trước sự cuốn rút, thúc đẩy của đời sống đương đại. Cũng giống như hình ảnh của những cánh đồng trên các vùng ven đô không thể tồn tại trước sự bành trướng của nhu cầu nhà ở, của mức sinh hoạt thiên về khoa học kỹ thuật hiện đại.

Ông Hai thì trách vợ:
- Bà không chịu đổi mới tư duy, sẽ bị bánh xe… thời đại nghiền nát. Đó, bây giờ bà thử dắt bò đi “chơi” hoặc đào ao nuôi cá kiểu “trên ra dưới vô” coi có bị người ta kiện bà về tội làm ô nhiễm môi trường không? Nửa khuya bà thử xách đèn thùng đi “thăm câu” coi, bà sẽ được “mời” vô bệnh viện tâm thần nghiên cứu lại bộ não ngay ! Trong xóm này mọi người thay đổi, nhà ta phải thay đổi. Trong nhà này, tui thay đổi thì bà cũng phải thay đổi. Bà đã hiểu chưa?

Thấy chồng giận dữ, bà Hai ngồi xuống ghế, dịu giọng:
- Ông muốn tui thay đổi làm sao?
- Bà năm nay mới xấp xỉ tuổi năm mươi, đâu phải là già. Người ta còn biểu diễn thời trang tuổi bốn mươi trên ti vi kia kìa. Thứ nhất bà phải dẹp cái “cục bướu” trên đầu bà đi, nghĩa là phải cắt ngắn hoặc để dài cũng được nhưng phải đúng mốt và tuyệt đối không bới tóc nữa. Thứ hai, ra đường phải mặc quần “din”, quần “sót”, áo “bun”, váy ngắn, váy dài, giày cao gót cho “mô đen”, ở nhà hoặc trong xóm phải diện đồ bộ đúng kiểu cách, tối phải mặc áo ngủ cho… lịch sự cái giấc ngủ. Thứ ba, điều này phải làm ngay, bà ghi danh học thể dục thẩm mỹ để “tút” lại cái ngoại hình. Làm được không?

Bà Hai ngần ngừ:
- Riêng về cái chuyện thể dục thẩm mỹ, tui mắc cỡ lắm !
Ông Hai quát lên:
- Mắc cỡ là thế nào? Nói cho bà biết, ngay sáng ngày mai tui đi tập quần vợt. Buổi tối học nhảy đầm. Sống là phải lạc quan và trẻ trung. Nếu bà không… trẻ kịp với tui thì… đừng trách !

Vốn dĩ là một người vợ ngoan. Bà không để chồng phải phiền trách nhiều lần. Thoạt đầu bà ngượng lắm về sự thay đổi tóc tai quần áo, nhưng rồi cũng dần quen, bà thấy mình đẹp và muốn được trẻ đẹp hơn nữa. Thói quen của con người thật kỳ lạ, nó làm cho người ta dễ sống hơn mà cũng dễ làm cho người ta khó sống. Bà đâm “nghiện” vào những nơi cắt tóc sang trọng và mua sắm thời trang, mỹ phẩm. Từ thể dục thẩm mỹ, bà chuyển qua học khiêu vũ và rồi nghiện những buổi dạ hội, vũ trường với không khí màu sắc, hương thơm, tiếng nhạc, bước nhảy và… vòng tay đàn ông. Nhưng điều đặc biệt là bà vẫn chưa bị người đàn ông nào trong thế giới ăn chơi này lôi cuốn. Có lẽ thói quen thôn dã năm nào còn chút tồn đọng trong lòng, bà chỉ thích một con người bình dị chất phác trong cách nhìn tình cảm của bà. Cho đến ngày nọ…

Ông Hai Lấn quyết định mua ô tô. Bà Hai hỏi kháy:
- Ông lái chắc? Xe hơi hổng dễ như xe bò đâu nghen?!
Không hề giận, ngược lại ông còn rộng mở hàm răng “trăm triệu bạc”:
- Khà khà ! Bộ bà tưởng mấy thằng tài xế đó nó đánh xe bò được như tui sao? Không biết thì học, dễ ẹc. Nhưng có tiền mua xe hơi mà lại ngồi lái thì coi giống tài xế quá, đâu có ra dáng ông chủ. Tui sẽ mướn tài xế.
Bà Hai lắc đầu:
- Mắc cười, khi không lại nuôi tài xế !

Ông Hai giải thích:
- Tui tính hết trọi trơn rồi ! Không phải mua một mà là ba chiếc. Một chiếc 12 chỗ ngồi, một chiếc 4 chỗ sàng sàng, riêng một chiếc đời mới thứ thiệt. Mình mở dịch vụ cho thuê xe du lịch. Vừa làm ăn mà cũng vừa có xe hơi đi cho nó oách. Lúc này bạn bè của bà, của tui tới chơi hà rầm, thấy nhà của mình bự xự như vầy mà thiếu cái xe hơi, giống như tui mở gói ba số ra mà trong đó trống bốc chỉ có mỗi một điếu, thấy nó dỏm lắm !
Nói là làm, ông Hai mua ngay ba chiếc ô tô, thuê hai tài xế. Nhưng oách thì có oách, còn chuyện dịch vụ du lịch thì lột hết cuốn lịch cũng chưa có ma nào tới thuê xe du lịch du hí gì cả. Điều đó chuyện nhỏ. Chuyện lớn là chiếc đời mới cứ vun vút chở ông đi du hí hết tụ điểm này tới nhà hàng kia, có khi trực chỉ Vũng Tàu, hứng chí thì vút tận Đà Lạt, Nha Trang cho phỉ chí tang bồng hồ thỉ. Trên xe ngoài ông và tài xế, còn có những ai? Đó là chuyện bí mật của ông Hai.

Còn phần bà Hai thì sao? Chiếc bốn chỗ ngồi loại sàng sàng và… ông tài xế cũng thuộc tuýp người tàng tàng - tuổi xấp xỉ năm mươi, quê ở Cần Thơ lên thành phố tìm việc làm, tính tình chất phát, bình dị, nói năng chân chất quê mùa- là thuộc về bà Hai. Nhưng lạ ở chỗ, từ khi có ô tô, bà Hai dần hồi hờ hững với các buổi tiệc đêm với bạn bè, xa lánh các nhà hàng khiêu vũ. Bà mất dần thói quen cũ, bắt đầu một thói quen mới hơn: đi về những vùng quê, nơi có đồng cỏ xanh rì, có lúa vàng bát ngát, có những con cá, có những cần câu và có… ông tài xế tàng tàng!


* * *
Chuyện “tình ngoại” này đã xảy ra từ khoảng hơn 6 tháng trước đây. Đến nay tất cả mọi người trong gia đình ông Hai Lấn vẫn chưa ai phát hiện ra, và có lẽ sẽ chẳng bao giờ phát hiện được khi mỗi người còn mãi đắm chìm trong đời sống hưởng thụ vị kỷ riêng mình, khi bộ răng trăm triệu của ông Hai Lấn vẫn còn toe toét chào đón những thú vui cao sang ngộ nhận, khi tình nghĩa của người chồng còn bận đi chơi xa chưa quay về để tìm lại vợ mình, khi những đứa con còn khư khư trong lòng giấc mộng “tiền đẻ ra tiền” mà quên đi ai là người đã đẻ ra họ, khi họ vẫn còn trông mong tờ di chúc chia phần thừa kế, khi chữ hiếu vẫn còn bị đè bẹp bởi căn nhà lầu năm tấm và mớ tài sản chất chứa bên trong!

Bí mật của bà Hai và ông tài xế còn lâu lắm mọi người trong nhà mới biết, trừ tôi. Tôi là ai và tại sao tôi biết? Xin thưa, tôi là thằng Út Éc của gia đình tôi. Một đêm khuya khó ngủ, tôi loanh quanh khắp nhà và phát hiện mẹ tôi ngủ với ông tài xế trong một căn phòng trống –một trong hai mươi căn phòng bỏ không- trong căn nhà cao năm tầng, rộng tám trăm mét vuông của cha mẹ tôi. Tôi biết họ thường đi những đâu, quan hệ với nhau thế nào. Tuy nhiên tôi sẽ không bao giờ tiết lộ điều bí mật này, bởi vì tôi thương mẹ hơn tất cả những gì thuộc về vật chất trong ngôi nhà này. Tôi hiểu đây là bí mật, là niềm vui gượng gạo cuối cùng của mẹ tôi. Chắc chắn mẹ tôi sẽ ray rức vì sự phản bội của mình, nhưng thà vậy, bà không khô héo chết dần vì sự phản bội của cha tôi, không đơn độc trong ngôi nhà của chính mình, không sống mỏi mòn trong sự hững hờ của những người ruột thịt thân thương nhất.


Nguyễn Tấn Huy

Hansy
10-09-2014, 12:04 AM
39.

ĐIỀU KỲ DIỆU

Đinh Lê Vũ

1.
Dung nói, bằng một dáng vẻ vui mừng thái quá, khác hẳn với thói quen e dè thường ngày : "Em vừa chích ngừa xong, thứ hai đến là lấy vé máy bay. Anh mừng cho em đi !". Tôi nghe bằng một cảm giác nhạt nhẽo, không buồn không vui, trong đầu đang có một tiếng nói rã rời : thế là hết, hết thật rồi, tự hỏi : việc gì mà Dung phải tỏ ra vui mừng thái quá như vậy, tôi và Dung hiểu nhau quá rồi mà ! Con đường dẫn đến công viên bờ sông buổi chiều nay sao vắng vẻ quá, lặng lẽ quá. Tôi muốn la hét hay làm một điều điên khùng nào đó vì những ý nghĩ không nói ra được, nhưng rồi lại gật gù : "Anh chúc mừng Dung !". Chợt thấy đau lòng : bây giờ Dung, cả tôi nữa, cũng khác trước lắm rồi, hình như đã bắt đầu sống không thật lòng với nhau như những người xa lạ rồi thì phải...

Mùa hè, trời oi bức, ở chiếc ghế đá nhìn ra sông không có một ngọn gió. Chúng tôi đến đây, chỗ hẹn cũ, bằng hai chiếc xe máy đời mới bóng loáng, sao có chút gì lạt lẽo, không hề giống như cái thời tôi đèo Dung đi khắp nơi bằng chiếc xe đạp cà tàng của tôi. Cũng chiếc ghế đá này, ngày xưa chúng tôi đã háo hức gặp nhau đến bao nhiêu, lúc này đang là chứng nhân của một cuộc chia tay, dù lòng chẳng muốn, một cuộc chia tay mà Dung đã chuẩn bị hàng năm trời, với một quyết tâm tưởng như không có gì lay chuyển nổi. Trời nóng quá, hình như Dung hơi căng thẳng thì phải. Trên trán Dung lấm tấm mồ hôi, tôi những muốn đưa tay lên lau trán Dung, chợt nghĩ : mình bây giờ có còn được phép nữa đâu, lại thôi. Tôi định nói một câu thật cay độc với Dung, có gì mà em vui vẻ thế, nhưng rồi lại buông một câu hiền lành : "Sang bên đó nhớ viết thư về cho anh.". Có lẽ suốt đời, tôi là một thằng chẳng làm được điều mình muốn, luôn luôn để tuột khỏi vòng tay những cái tưởng đã của mình vì cái tính lần khần, thiếu quyết đoán ở những lúc cần thiết...

2.
Dung gởi cho tôi tờ lịch ngày Dung lên máy bay, như một lời từ giã, không kèm theo một dòng nào, chữ ký cũng không, khác hẳn thói quen thường lệ của Dung. Tôi cầm tờ lịch săm se, cũng giống như bao tờ lịch khác, in hình một cánh hoa chìm, màu sắc loang lổ nhòe nhọet, tôi không nhận ra là loại hoa gì, trên nền cánh hoa là con số 23 to tướng, 23 tháng 6, ngày Dung đi. Chợt nghĩ : suy cho cùng, cũng là một tờ lịch vô tri thôi, bỗng dưng trở thành kỷ vật, thành đồ quý giá. Trên tờ lịch có in một câu danh ngôn, như muôn ngàn câu danh ngôn khác được in trên lịch kèm với những từ "lập xuân", "tiểu thử" dự báo thời tiết : "Sớm hay muộn, người ta đều phải trả giá cho những điều đã làm.". Có một lần Dung hỏi tôi : "Anh tính sao chuyện của tụi mình ?", tôi đã cười bâng quơ như thể chuyện đùa. Ngày đó tôi ngây ngô quá, chưa quyết định được những sự kiện lớn lao của cuộc đời mình nên đã khỏa lấp cho qua, đâu biết bây giờ tôi phải trả giá đây, tôi hối hận lắm rồi đây. Dung như một cánh chim chỉ đậu xuống một lần thôi, rồi đi, không hề quay trở lại dù sau này tôi có nhiều lần nói chuyện nghiêm chỉnh với Dung. Câu cửa miệng của Dung là : "Mọi chuyện lỡ hết rồi !", sao tôi thấy sao Dung tỏ ra cố chấp quá mức, sao yêu thương nhau mà người ta cứ luôn thích làm khổ nhau...

3.
Dung viết thư về cho tôi, thăm hỏi ân cần, cuối thư khuyên bằng một giọng khá chân thành : "Anh lo cưới vợ đi, đừng lông bông nữa ! Anh cũng lớn rồi, không chần chừ được, rồi thì ai cũng thế cả.". Một kiểu khuyên bảo của người lớn dành cho trẻ con, không phải là câu nói của một người yêu dành cho người yêu. Vậy thì thứ tình cảm lâu nay giữa tôi và Dung, cái quan hệ mà lâu nay tôi vẫn luôn gìn giữ đó là gì ? Dung vẫn biết mà, tôi đâu có yêu thương ai ngoài Dung. Hay hớm thật ! Bất chợt tôi nhận ra chuyện của mình bây giờ cũng gần na ná như mấy chuyện tình vớ vẩn trong phim Hồng Kông mà ngày xưa mình ghét cay ghét đắng. Tương tự mấy câu hát rẻ tiền vẫn hay hát trêu nhau : "Về đi, kẻo người ta chờ, kẻo người ta mong. Kìa một chiếc xe hoa đang chờ em đó...". Mới thấy đâu phải lúc nào mọi chuyện cũng rõ ràng như một cộng với một bằng hai được...

Dung bây giờ xa xôi quá, thư từ thì chậm như rùa bò, lương của một nhân viên văn phòng mèn như tôi đâu cho phép một cú điện thoại sang Mỹ nói toạt với Dung mọi chuyện. Tôi vẫn thường nghĩ tình yêu không phải là một thứ để cầu xin, cục tự ái trong tôi luôn luôn cao như cái núi, vậy mà bây giờ lại có cảm giác sau này, mình chẳng thể nào gặp ai được như Dung, bây giờ không làm cho Dung hiểu mình được thì sau này chẳng còn lúc nào nữa. Tôi tự tin lắm, bao nhiêu cô sẵn sàng chờ tôi nói một câu đấy thôi, sao trong chuyện này vẫn thấy mong manh quá. Tôi đâu nghĩ mình sẽ cầu xin Dung, mà chỉ thấy mình phải làm một điều gì đó để giữ tình yêu lại, bàng hoàng nhận ra đã khá lâu, hình như không còn là của mình, cho mình. Lần đầu tiên tôi có được cảm giác của một người đang chạy đua trên chặng đường dài, mệt mỏi, cạn kiệt, thấy đích đó mà không sao vươn tới được...

4.
Tôi đã từng mơ mộng nhiều về một cuộc hôn nhân vì tình khá lý tưởng, vợ chồng yêu nhau, cho dù có gặp bất kỳ khó khăn trở ngại nào thì vẫn yêu nhau. Đoàn cười : "Mầy sống trên mây vừa vừa, có chết già cũng không tìm đâu ra được vợ.". Tôi không tin Đoàn, không bao giờ tin lời Đoàn nói, khi ngày ngày, tôi vẫn chứng kiến bao nhiêu cặp yêu nhau đến thế. Lại băn khoăn, liệu với tình cảnh như hiện tại, sau này cưới nhau, tôi và Dung có tìm được hạnh phúc... Dường như trong tôi luôn có những ước muốn trái ngược nhau, nửa thế này, nửa thế kia, chẳng thể nào rạch ròi được, muốn được cả mà không dám dấn thân. Như trong bóng đá, tôi chỉ luôn luôn có thể là khán giả, ngồi trong khán đài hò hét, thèm muốn, nhưng lại không dám nhận lãnh chiếc áo cầu thủ bước ra sân.

Phải chăng, tôi là người không có khả năng mang lại hạnh phúc cho ai khác ?
Tôi vẫn đi về trên những nẻo kiếm tìm hạnh phúc cho riêng mình, không còn Dung ở gần bên, cuộc sống tưởng khác đi nhiều mà thực ra chẳng khác trước là mấy. Thảng hoặc, không rõ ràng lắm, trong tôi vẫn vấn vít cái cảm giác hình như tôi đã tự huyễn hoặc về những điều Dung mang lại cho đời sống của mình. Ngày có Dung, cảm giác cô đơn trong tôi đôi lúc vẫn tràn ngập, chỉ có khác đi, ngày đó, tôi còn có được viễn cảnh hạnh phúc cùng Dung chờn vờn trước mắt. Bây giờ thì cái viễn cảnh ấy cũng không còn, nỗi trống vắng trong tôi ngày càng dày thêm. Tôi kiêu ngạo lắm, luôn giấu kín nỗi trống vắng cho riêng mình. Để thấy ngày mình càng già cỗi đi, chấp nhặt và cầu toàn hơn mà chính mình cũng đâu phải là khối hoàn hảo...

5.
Ngày đầu năm, Dung điện thoại về chúc Tết, lần đầu tiên Dung điện thoại về, tiếng cười trên phone vễn thế, trong vắt và ngọt ngào : "Em nhớ Đà Nẵng lắm, nhớ bạn bè lắm.". Có một nỗi gì đó thật ngọt ngào len lỏi trong tim tôi. Còn anh thì sao ? Đây có phải là điềm báo tốt lành trong ngày đầu năm ? "Em ở bên này buồn lắm, lạc lõng lắm. Ra đi, mới thấy mình mất nhiều thứ quá !". Thì anh vẫn còn đây, nguyên vẹn như ngày xưa, đang nghe em nói ! "Sao anh chẳng kể gì về anh cho em nghe cả ? Anh có còn giữ tờ lịch em tặng anh ?". Vẫn còn y nguyên, vẫn nhớ y nguyên : Sớm hay muộn, người ta đều phải trả giá cho những điều đã làm. Dung cúp máy rồi, tôi vẫn không nói được với Dung một lời cho ra hồn. Rồi không dưng thấy mắt mình cay cay, đừng mà, hôm nay là ngày đầu năm, có Dung phone về chúc Tết !

Tôi ngồi lần hồi giở từng kỷ vật của Dung ngày xưa, nâng niu trong bàn tay. Đây là chiếc ví da Dung tặng trong dịp sinh nhật, kia là mảnh giấy nhỏ Dung viết hồi mới quen nhau : "Anh nhớ rửa rau sống bằng thuốc tím trước khi ăn", đây nữa, cuốn nhạc Phú Quang nhân lần Dung đi Hà Nội chơi và gần nhất là tờ lịch ngày Dung đi, không một dòng, không chữ ký, ngày cuối cùng Dung còn ở Việt Nam, mà bây giờ tôi mới hiểu. Chợt thấy chùng lòng, có một thời, tôi nghiễm nhiên đón nhận những săn sóc của Dung như một bổn phận phải có, lâu lắm rồi, cuộc sống tôi dường như không còn những điều nhỏ nhặt nhưng quý giá như thế này. Mới thấy, nếu không biết nâng niu, rồi mọi điều quý giá cũng sẽ bỏ ta mà đi. Tôi lần giở từng trang cuốn nhạc Phú Quang, bắt gặp bài hát ngày xưa Dung thích, cứ bắt tôi tập để hát cho Dung nghe : "Người yêu ơi, dù mai này cách xa. Mãi mãi diệu kỳ là tình yêu chúng ta...", cố nén một nhịp tim đang run lên nhè nhẹ. Em có còn điều kỳ diệu nào dành cho anh không Dung ? Bây giờ đang là mùa xuân, sáng nay, hiên nhà anh nắng vàng lắm, rực rỡ lắm. Anh ngồi đây, mơ về một nơi xa lắc, và nắng, nắng sẽ làm cho băng giá trong tim em tan đi ?


Đinh Lê Vũ

Hansy
10-09-2014, 10:19 PM
40.

HELLO

NT Mỹ Liên

Tiếng chuông điện thoại reo vang khi cô đang thu xếp đồ đạc vào xách tay chuẩn bị về nhà sau hơn 10 giờ làm việc của một ngày. Cô bực bội nhìn nó, cô không thích điện thoại, nó chỉ đem lại cho cô cảm giác gò bó, bực bội; nó là sợi dây trói cô vào cuộc sống đầy trách nhiệm, vào nhịp sống vội vàng chụp giựt của đời sống công nghiệp hiên đại này. Nhưng vì là cuộc sống hiện đại, nên không thể thiếu nó; thử vứt nó đi, sẽ có người đăng báo, lên đài truyền hình tìm cô ngay…!

Cô miễn cưỡng cầm nó lên, có lẻ chồng cô gọi để hỏi sao cô về muộn, cũng có thể một cô bạn nào đó hẹn nhau đi shopping; cô bật máy:
- Hello!
Một quảng lặng….
- Hello!
Cô lập lại, thêm phần bực bội!
- Chào em,có nhận ra nhau không?

Một quảng lặng,lần này từ phía cô…
Giọng nói rất rõ, vì thế cô nhận ra nó từ nơi xa lắm, nó từ một nửa trái đất vọng tới, từ mười lăm năm trước vọng về. Tim cô đập dồn…
- Em còn đó không?
- Dạ còn…

Cô ngắt ngứ, chẳng biết nói gì. Cái giọng nói cho cô cảm giác gần gũi và thân thương mà từ rất lâu cô không cảm thấy, nó kéo 15 năm quay ngược về…
- Anh khoẻ không?

Cô ấp úng hỏi. Một tràng cười vui vẻ , giọng cười cũng sảng khoái và quen thuộc. - Trời ơi! Có vẻ Mỹ hoá quá hả? Câu đầu tiên phải là hỏi thăm sức khoẻ. Anh không khoẻ, gọi để mời em dự lễ tang của anh đây.
- Không giỡn kiểu đó nha!
- Không phải sao? Em chôn anh mười lăm năm nay, không kèn không trống gì hết, anh phải nhờ thám tử truy tìm em, để nói với em là em có muốn chôn anh, thì cũng phải làm cho anh cái lễ tang chứ!

Giọng anh vẫn vui, nhưng cô biết anh trách khéo cô, và từ tim mình cô cảm thấy nhói đau. Phải! cô đã chôn anh, chôn sống anh 15 năm nay! Và giờ đây anh hiện về…
Như vừa đi qua cánh cửa thời gian, đứng giữa quá khứ,cô bở ngỡ .
- Sao anh có số phone của em?
- Tại em lấp đất không kín, nên anh ngoai lên được. Kể cũng lạ em nhỉ, giữa thời hiện đại này mà tìm một người mất hết 15 năm!

Mười lăm năm, một khoảng thời gian để cô có thể chia cắt quá khứ và hiện tại, mười lăm năm đã quên hay mười lăm năm để quên?!

Cô đã sống cho hiện tại, không còn hồi tưởng, không còn nhớ nhung. Tránh xa quá khứ để sống; đâu còn thời gian để gặm nhấm những nỗi đau, những mất mát trong đời. Chưa một lần dám trở lại, dù trong ý nghĩ. Có bao nhiêu người đã trở về, về thăm quê hương, gia đình, bạn bè. Và trong sâu thẳm tâm can mình, ai cũng biết về với kỷ niệm và con người của kỷ niệm. Cô không muốn và không nghĩ đến điều đó; Cô đã gạt bỏ nó, đã đánh đổi nó, và cô phải đối diện với sự thật đó.

Có sự chọn lựa nào không? Đừng dành cho quá khứ lòng vị tha, để quên đi điều lầm lỡ, những sai trái của chính mình và của mọi người, hòng biến quá khứ thành vàng son kỷ niệm. Cô không thể quay ngược lại thời gian, và dù có quay ngược trở lại, cô có thay đổi gì được không?

Có sự chọn lựa nào không cho một người phụ nữ hai con có hồ sơ xuất cảnh đi Mỹ do chồng bảo lãnh, đang bị gia đình và dư luận lên án vì tình yêu tội lỗi dành cho anh chàng sinh viên trẻ tuổi hơn mình?

Cô đành chôn đi tình yêu đó, cô không muốn một lần trở lại, đối diện với nó hay với những khắc khe lên án nó. Cô không muốn nuôi dưỡng nó dù trong tâm tưởng, để luôn mang mặc cảm có lỗi với chồng. Thật lòng thì ít ra cũng có bia mộ của anh trong tim cô. Và giờ đây, tiếng nói của anh ấm áp bên tai cô, và từ trong tấm bia mộ đó anh hiện rõ nguyên hình.

- Anh mập hay ốm?
- Hơn ngày xưa 15 ký
- Chắc gặp anh nhận không ra đâu há?
- Anh sẽ nhận ra em , dù chỉ cho anh nhìn đôi mắt hay một ngón tay.

Tim cô lại nhói lên đau đớn đến lặng người.
- Em cũng thay đổi nhiều, mập ra, xấu đi.
- Thời gian có tha cho ai đâu, ai cũng phải thay đổi chứ, nhưng có những thứ không thay đổi và nhờ thế người ta nhận ra nhau. Phải vậy không em?

Nhận ra nhau?! Để làm gì? Cô chưa bao giờ nghĩ đến một lần trở lại cũng chỉ để trốn tránh chuyện gặp lại anh. Lẽ nào cô về VN mà không gặp lại anh, việc đó quá tàn nhẫn đối với cô, và với anh…Còn gặp lại nhau?! Cô quá mệt mõi để đối phó với những điều tiếng của dư luận, những lên án, chỉ trích của gia đình, họ hàng, những ghen tuông của chồng. Cô chưa bao giờ cho mình một cơ hội tìm những niềm vui, hạnh phúc riêng…
Cô đã chấp nhận sống cầu an, chỉ mong ngày tháng trôi qua bình lặng. Việc đối phó với những thay đổi mà xã hội hiện đại này mang đến đã làm hao mòn nghị lực của cô rồi. Cô đã phải kiếm sống hằng ngày, lo sợ thất nghiệp, lo không trả nỗi những hoá đơn trả góp, sẽ mất nhà, mất xe. Lo con hư hỏng, lo chuyển nhà mỗi khi chồng cô hay cô bị nghỉ việc, đi xin việc làm mới khi tuổi đời ngày càng tăng…

Cô không có một khoảng thời gian, tiền bạc, tình cảm và cả nghị lực dành cho ngày trở về, làm sao anh có thể hiểu được điều đó?!
- Sao em cứ im lặng hoài vậy? em không muốn nói chuyện với anh hả? Hay không có chuyện gì để nói?
- Anh hạnh phúc không?
- Ừ! Câu này nghe được hơn câu anh khoẻ không? Anh sống được.
- Anh chờ em một chút nhé, em ra lấy xe, đường về nhà mình nói chuyện tiếp.

Lại một khoảng lặng dài, nhưng từ ống nghe, anh nghe tiếng giày gõ lóc cóc trên đường, tiếng sột soạt của túi xách khi cô tìm chìa khoá, tiếng đóng cửa xe, tiếng máy và cả tiếng tít tít của đèn xin đường. Cô như hiện rõ trước mắt anh…

Cô đã ở trong tim anh từ ngày ấy, từ ngày đầu anh gặp cô. Tình yêu đến có ai ngờ, nếu được chọn cho mình một tình yêu, anh đâu chọn con đường gian nan, đau khổ đến vậy. Cô bé mà anh gặp ngày đó, địu đàng, nhí nhảnh, xinh tươi, duyên dáng ấy, lại đã làm vợ và làm mẹ của hai thằng nhóc lên năm, lên bảy. Nếu có thể bảo với tình yêu : Xin đừng đến, anh đã có thể tránh xa cô. Ngày ấy anh còn quá trẻ để biết được những va chạm của hai khái niệm, một hết sức trừu tượng là tình yêu và một hết sức cụ thể là vật chất, lại có thể làm người ta đau đớn đến vậy! Cô không biết anh đã cảm thấy lòng tự trọng của mình bị nghiền nát nó đau đớn đến mức anh muốn tự huỷ diệt mình khi nghe cách người ta bình phẩm về tình yêu của anh dành cho cô, theo kiểu nhìn thực dụng: Chàng sinh viên nghèo đi dụ dỗ người đàn bà có con đang sống xa hoa bằng tiền chu cấp của chồng bên Mỹ!

Nhưng anh hiểu rõ những điều cô phải trả giá cho tình yêu dành cho anh : Những lời đàm tiếu, dị nghị bên gia đình chồng, những lời chê trách, lên án trong gia đình, và cuộc sống mà cô phải chịu đựng khi gia đình đoàn tụ.

Anh là người có tội, anh đã gây ra cho cô tất cả những điều bất hạnh! Vì thế anh đã phải tuân thủ những qui luật của cuộc sống này, chịu sự trừng phạt: Họ đã cách ly anh ra khỏi cô suốt mười lăm năm trời. Không một dòng thư, không một hình ảnh,t in tức. Anh đã ngoan ngoãn chấp nhận hình phạt đó! Mười lăm năm! Một quãng thời gian khá dài trong một đời người, đủ cho một thế hệ lớn lên, như con cô đã lớn. Rồi đến một ngày anh bỗng nhận ra anh không thể chờ đợi ở lòng vị tha của con người, anh phải tự xá tội cho mình, anh không chấp nhận án chung thân! Và giờ đây tiếng nói của cô ấm áp bên tai anh, và anh nhìn thấy cô qua những âm thanh vọng lại…

- Rồi,anh nói chuyện đi.
- Em chỉ có thể nói chuyện với anh trong khi lái xe thôi hả?
- Hình như vậy!
- Từ chỗ em làm về nhà mất bao lâu?
- Khoảng mười lăm phút

- Em có thể tấp vô quán café nào đó không?
- Không giống ở VN đâu, chẳng có quán café nào cả, và em phải về làm bữa tối, nếu về trễ, mọi người lại gọi điện tìm, mà điện thoại lại đang bận...
- Anh hiểu rồi! vậy em lái chậm thôi nhé.
- Em đang chạy trên làn xe chạy chậm đây.

Anh cảm thấy cô thật gần, cô cũng cảm thấy anh thật gần, khoảng cách 15 năm biến mất, và những trắc trở của ngày xưa cũng hiện về như cũ: trách nhiệm, bổn phận, đạo đức, lý trí, những lời mỉa mai, chê trách…Cô bỗng nhớ đến những điều anh viết: Nếu em có cả cuộc đời của tôi, em sẽ làm gì với nó? Không có chỗ dành cho nó, phải không em? Vậy mà điều duy nhất, tôi có thể dành cho em. Là cuộc đời tôi đó! Cô nói thành tiếng:
- Thật ra em không có gì thay đổi đâu, mọi thứ hình như vẫn như xưa.
Anh như đọc được ý nghỉ của cô:
- Có nghĩa là em vẫn không có thời gian dành cho anh, không có chỗ dành cho anh?

Bỗng nhiên cô muốn khóc, cô không có gì thuộc về mình để dành cho anh, dù cô yêu anh. Anh không biết rằng với cô anh là người yêu đầu tiên, và duy nhất. Khi cô biết anh, cô đã là bà mẹ trẻ : vừa xong trung học đã lấy chồng, người chồng do ba mẹ chọn, cô chẳng phản đối, chồng cô là một chàng sĩ quan bảnh bao, con nhà đạo dòng ,tính tình cũng dễ thương . Lấy chồng lính xa nhà. Sau giải phóng chồng cô lại đi cải tạo . Vừa được về nhà anh vượt biên sang Mỹ. Những ngày vợ chồng hiếm hoi cũng đủ để cho cô trách nhiệm làm mẹ hai đứa trẻ. Chính những ngày dài chờ đợi đoàn tụ gia đình, cô đã gặp anh! Cô còn gì của riêng mình dành cho anh? Không thể ngăn trái tim mình, không thể bảo tình yêu ơi! Xin đừng đến, cô đã trả giá cho nó quá đắt, trả đến tận bây giờ! Nếu chồng cô biết cuộc gọi này, liệu bữa cơm tối có nuốt trôi?

- Vậy em qua Mỹ làm gì? Anh tưởng người ta sang đó để tìm hai thứ: tiền bạc và tự do? Em có được thứ gì?

Lần này thì cô khóc thật, anh thừa biết cô ra đi vì bổn phận. Anh cắn răng chấp nhận việc cô ra đi vì anh là chàng sinh viên giàu sĩ diện, nhiều tự trọng, nhưng nghèo tiền bạc. Không đủ tự tin để gánh trên vai mình vợ và con kẻ khác. Tiền bạc và tự do, anh đã có đủ mà không cần phải tha phương cầu thực, điều đó cho anh lòng tự tin để tha thứ cho những sai lầm mình đã phạm phải và cả những sai lầm của kẻ khác. Đất nước mình có nhiều đổi thay, và anh cũng có cơ hội để thành đạt; còn đất nước này, từ ngày cô sang đây, nó vẫn thế, chưa kể những suy thoái kinh tế mà tác động trực tiếp của nó vào đời sống của gia đình cô ngày càng nặng nề hơn; như việc hãng đóng cửa vì phá sản, dẫn đến chuyện chồng cô mất việc làm sau mười mấy năm làm việc mà chẳng được hưởng gì ngoài trợ cấp thất nghiệp! Anh đã thay đổi, chứ không phải cô, anh muốn cô tìm thứ tự do nào ở đây? Tự do đi tìm một khách sạn và ngủ với tình nhân ư? Người đàn bà Á Đông trong cô vẫn không tìm được loại tự do như thế. Tiền bạc ư? Cô có thể dũa móng chân cho thiên hạ để làm giàu ư? Cô nghĩ là cô đã cố gắng hết sức để nuôi con và giữ lấy mái nhà để che mưa,che nắng.

Cô cố giữ để giọng nói mình không thay đổi, dù nước mắt vẫn lăn dài, cô không muốn anh xót xa thương hại cô, cô thù ghét lòng thương hại.
- Anh có cả hai thứ đó hả?
Giọng anh ương bướng:
- Ừ
- Anh có vợ chưa?
- Có
- Anh yêu cô ấy chứ?
- Có yêu
- Vì cái gì?
- Vì cô ấy yêu anh, yêu cả quá khứ của anh, chấp nhận nó vì nó là một phần của anh.
- Trong quá khứ của anh có gì mà anh xem như một điều kiện vậy?
- Có em!

Cô lặng người! Tình yêu này là gì? Nó đắng cay và ngang trái quá, thế sao nó cứ sống mãi để ám ảnh đời nhau thế này? Cô nghĩ về người đàn bà là vợ anh : Cô ấy chắc là một người khá toàn diện, và phải sâu sắc để có thể sống với một người như anh và làm anh yêu. Cô ấy đã chấp nhận cả sự có mặt của cô trong quá khứ của anh, nhưng chỉ là quá khứ, chứ không phải là trong hiện tại…

- Có vợ mà vẫn có tự do hả?
- Tại sao không? phải tôn trọng đời riêng của nhau chứ.
- Thế vợ anh có yêu người nào trước khi gặp anh không?
- Anh không biết
- Tại sao anh không biết?
- Anh tôn trọng đời riêng của cô ấy, anh không hỏi, nhưng anh nghỉ rằng có. Tại sao em lại hỏi những chuyện như thế?

- Em chỉ muốn biết anh có hạnh phúc không?
- Anh muốn gặp lại em biết bao!
- Để làm gì?
- Để được nhìn thấy em.
- Và làm gì cho em?
- Làm tất cả những gì em muốn.
- Em không muốn gì cả, hãy nói những gì anh muốn.
- Anh muốn trãi hoa hồng trên lối em đi.
- Cả hành lang và cầu thang khách sạn?

- Tất cả lối em đi.
- Lãng mạn quá chàng ơi! Em đến nhà rồi, em phải vào nhà đây
- Khoan, em sẽ về chứ?
- Em về với thực tại đây. Em sẽ về nếu anh trãi hoa hồng trong căn phòng khách sạn nơi vợ anh gặp lại người yêu cũ.
- Anh không thích em nói kiểu đó.

Hãy nghĩ về điều đó, vì mình già hơn xưa, thì cũng phải thay đổi cách nghĩ đi chứ. Anh đang kéo quá khứ về với hiện tại. Cô ấy có thể chấp nhận em ở thì quá khứ. Nhưng không chấp nhận em ở thì hiện tại đâu, tỉnh lại đi, anh không có nhiều tự do như anh nghỉ đâu. Em vào nhà đây. bye.bye.
- Khi nào anh gặp lại em?
- Khi nào anh gọi.

Cô cắt máy, và nức nở khóc với ý nghĩ sẽ phải đổi số điện thoại. Tại sao, tại sao cô cứ phải làm những việc đau lòng là lìa bỏ anh? Tìm mọi cách tránh xa anh? Cuộc sống của cô coi như bỏ đi vì sự có mặt của anh trong đời, cô không muốn cuộc sống của anh bị cô huỷ hoại. Cô sẽ chôn anh, chôn cô, chôn mối tình này vĩnh viễn vào quá khứ. Bản thân mình có hạnh phúc đâu mà còn lôi kéo người khác vào nỗi khổ.

Anh nhận ra tiếng nấc của cô trước khi đường dây bị cắt! Anh lạnh người khi nghĩ đến anh sẽ chẳng bao giờ gọi được cô nửa. Anh rùng mình như bị tuyên án chung thân!
Vừa mới đây thôi, giọng cô thì thầm bên tai anh, vẫn cách nói như ngày nào. Anh nhìn vào chiếc điện thoại, cũng từ nó, tiếng nấc của cô? Cô đưa tang anh thật rồi, cô chôn anh thật rồi!

Những cuộc gọi vẫn đều đặn được anh thực hiện, với hy vọng mong manh sẽ có tiếng Hello ! khiến anh lặng người


NT Mỹ Liên

Hansy
12-09-2014, 03:45 AM
41.

ĐỊNH MỆNH

Ái Khanh

Cả xóm xôn xao khi nghe tin sáu giờ chiều nay cậu Bạch từ Mỹ về. Bạch là con của ông bà Thành buôn bán thực phẩm tại chợ Phước Bình. Tiệm tạp hóa của ông bà Thành hôm nay nhộn nhịp hẳn lên, mọi người ra vào mua lặt vặt để hỏi thăm về cậu Bạch, nhất là những người con gái đến tuổi cập kê vì từ lâu họ nghe phong thanh cậu Bạch sẽ về quê kiếm vợ. Bà Thành là người khôn ngoan, đoán được tâm lý của đám dân nghèo trong xóm, vả lại bà cũng muốn nhân dịp này để kén chọn một nàng dâu để đi cưới cho con mình...

Bà Thành thắc mắc vì người con gái bà muốn chọn hôm nay lại không thấy ngang qua, cốt ý mở tiệm trong ngày này cũng vì lý do đó, toàn thấy những người con gái ăn mặc diêm dúa, son phấn lòe loẹt và mấy bà mẹ ngồi lê đôi mách xí phần ra trước để kể lể về công dung ngôn hạnh của con gái.

Bà Giáp bước vào hàng hỏi mua một gói tôm khô rồi hỏi:
- Sao, tôi tưởng bữa nay bà đóng cửa để đi đón cậu Bạch chứ?
- Dạ! Thì cũng phải đóng cửa sớm để đi. Sáu giờ máy bay mới tới. Cỡ mười một giờ là ông nhà tui mướn một chiếc xe về rồi đi thẳng ra phi trường Tân Sơn Nhất.
- Bây giờ mới chín giờ rưỡi mà! À, mà Bà đã chọn được mối nào cho cậu Bạch chưa?
- Ôi, chuyện vợ chồng là duyên số cả chị ơi! Chờ nó về nó ưng ai thì tui xin cưới nấy chứ biết ai đâu mà chọn?

- Chỗ chị với tôi thân tình tôi mách nhỏ cho chị biết con Ngà con ông bà Tâm cũng ngấm nghé định bàn với chị để...
Bà Thành ngắt lời:
- Có, có tui có nghe nói sơ nhưng tôi đã nói với chị vợ chồng là duyên số...
- Khoan, chị nghe tôi nói hết cái đã, con Ngà hư lắm, nay đi với thằng này, mai đi với thằng khác nếu chị không nói cho con chị biết trước rủi về nó chọn là mệt chị đa!
- Cám ơn chị, tui sẽ lưu ý. Thôi xin lỗi có khách khi khác nói chuyện nghe!

Bà Giáp chào bước ra có vẻ hả dạ vì đã... hạ bớt một địch thủ cho con gái mình...
Rồi những người khách khác vô cũng mua một thứ hàng hóa nào đó rồi kể lể chuyện này chuyện kia về việc giới thiệu người này ngoan, hiền, hiếu thảo, nên tránh người kia vì thế này, thế nọ... Bà Thành ngao ngán cứ nghe người này người kia nói toàn là những người mà bà không lưu tâm tới. Lòng thầm cầu mong một người nào đó nói về Diệu Ái con của bà Hương góa phụ ở cuối xóm để bà có dịp cậy nhờ mai mối.

Chờ đến trưa khi chồng cho con gái út ra báo xe đã về bà mới uể oải đóng cửa tiệm để về. Mẹ con bà đi đến đâu cũng thấy họ xì xầm bàn tán, chỉ trỏ vào bà nói thầm nói vụng. Bà tới nhà thấy chiếc xe hơi đậu trước cửa, xóm giềng bu quanh cửa nhà bà. Bà thở dài sườn sượt bước vào nhà...

Đến hai giờ chiều ông Thành tuyên bố ai muốn đi phi trường đón con ông thì tụ tập đúng ba giờ. Cả xóm rần rần báo động.

Mới hai giờ rưỡi con nít ăn mặc đàng hoàng đã đứng chật nhà ông bà Thành. Ông cười bảo: "Nội số con nít này hai xe chở cũng không đủ. Thôi chỉ có người lớn đi thôi..." Rồi để an ủi đám con nít, ông vào trong lôi ra một bịch bánh kẹo phân phát rồi bảo tụi nhỏ giải tán. Đám trẻ nhỏ tự dưng được quà nên hỉ hả về nhà thay quần áo không một tiếng phàn nàn.

Rồi số người lớn trong xóm cũng đến đông đủ. Nội bà con của ông bà Thành cũng chiếm hơn một nửa chỗ ngồi trên xe, cuối cùng cũng thu xếp cho số người đến cùng đi, họ đồng ý ngồi đâu cũng được nên ai ai cũng vui vẻ nhường nhau chỗ ngồi... một số an phận ngồi bệt xuống sàn xe miễn sao có mặt đi đón cậu Bạch là được.

Đêm ấy xóm Phước Bình nhộn hẳn lên, nhà ông bà Thành nhạc xập xình. Bánh kẹo, thức ăn, trà, nước ngọt đãi đằng cả xóm. Các cô gái ăn mặc đúng thời trang đến thăm cậu Bạch. Cậu Bạch người ốm dong dỏng cao mắt đeo kính cận trông có vẻ trí thức khiến cô Tư, cô Năm cứ ngồi lì không chịu về, cô nào cũng hy vọng cậu Bạch để ý đến mình, nhưng cậu Bạch mệt mỏi quá, chỉ trả lời những câu hỏi khi có ai hỏi đến. Khuya lắc khuya lơ thấy bà con trong xóm cứ hết tốp này đến tốp khác đến thăm, bà Thành phải lên tiếng xin lỗi mọi người để cho cậu Bạch vào nghỉ lúc đó họ mới lục tục kéo về.
Đóng cửa xong bà Thành mới đến ngồi bên con thủ thỉ:

- Sao thấy trong hình con mập mạp mà ở ngoài con ốm quá vậy?
- Má à, tại mấy tháng nay con nôn nóng quá không ngủ ngáy ăn uống gì nên sụt mất 7, 8 pounds đó?
- Cái gì? Sụt mấy "bao" là sụt làm sao?
- Dạ, "pound" là đơn vị đo lường bên Mỹ giống như ký lô đó mà!
- Ờ, vậy mà làm má hết hồn. Nè, con ở bển đã bồ bịch gì chưa?
- Chưa má à! Vì con gái ở bển họ trèo cao lắm, con đi làm hãng xưởng lương tiền đâu có bao lắm mà dám mơ tới!

Ông Thành chen vào:
- Bộ con gái bên đó có giá thiệt vậy sao? Hèn nào tao nghe họ nói mà không tin.
Bà Thành xua tay bảo chồng:
- Ông để tui nói chuyện với nó cái đã.
Rồi bà quay sang Bạch:
- Con có còn có ý định về lấy vợ thiệt không để má liệu?
- Thì con cũng định đó chớ má nhưng nãy giờ để ý con thấy mấy cô đến chơi lúc nãy chẳng có người nào hợp nhãn con cả.

Ông Thành lại lên tiếng:
- Từ từ chứ con! Tụi nó đến mới có mấy đứa, còn nhiều đứa không có mặt ở đây coi cũng được lắm!
Bà Thành cười bảo:
- Con nói đúng đó! Mấy con nhỏ tối nay má cũng không vừa ý đứa nào cả ăn mặc lố lăng, phấn thì dày cả tấc!
Rồi bà hạ giọng:
- Má có nhắm một chỗ để rồi má liệu.

Bạch ngáp đài:
- Thôi, từ từ má à! Con định nếu gặp thì tốt, không thì thôi. Má đừng có lo lắng quá!
Ông Thành bảo con:
- Vô nghỉ đi, chiều giờ cứ ngáp hoài chắc mệt lắm?
Bà Thành như sực nhớ ra điều đó vội vàng đứng dậy:
- Ờ, con đi ngủ một tí đi. Ngày mai còn ra đăng ký với phường khóm nữa!
Nghe chữ "đăng ký" Bạch ngao ngán vì ở Mỹ chàng theo dõi báo chí cũng như một số người về trước ai cũng nói điều đó. Gặp địa phương hắc ám đôi lúc phải hối lộ nữa.

Chàng nói xuôi:
- Dạ, để mai rồi con đi.
Rồi chàng thở dài:
- Mấy bữa nay mệt quá! Về đây nóng kiểu này không biết con ở được mấy bữa!

Buổi sáng Bạch vừa bừng mắt ra là đã nghe tiếng xôn xao ở phòng ngoài, chàng lắng tai nghe, tiếng mẹ chàng sang sảng: "Dà... cám ơn chị. Nó còn ngủ... Dà, hôm nay tui đóng cửa hàng một bữa, bị đêm qua thức khuya quá..." Rồi cứ nghe tiếng "Dà dà dạ dạ" của mẹ chàng nhiều hơn ai hết. Chàng ôm chiếc gối vào lòng muốn ngủ thêm một tí nữa nhưng vừa nóng chiếc gối là chàng muốn tung người dậy vì cảm thấy nóng nảy, bứt rứt vì khí hậu một mặt nghe tiếng được tiếng mất ở phòng ngoài khi mẹ và hàng xóm đang bàn tán về chàng.

Chàng bật dậy chui ra khỏi mùng. Vừa bước khỏi giường đã thấy con Vân đứng nhìn nhoẻn miệng cười, chàng xoa đầu em:
- Sao không ngủ thêm đi dậy chi sớm vậy?
- Em dậy lâu rồi, anh về nên nôn nóng quá đâu có ai ngủ được, anh ra ngoài xem kìa họ tới thăm mừng anh về đầy nhà!
Chàng vừa bực bội nhưng cũng có chút kiêu hãnh khi được xóm giềng chào đón ân cần mặc dù bao năm nay ở Mỹ chưa hề biết hàng xóm của gia đình chàng là ai. Chàng ra bếp đánh răng rửa mặt xong, vào thay quần áo mới ra phòng ngoài. Bà Thành lên tiếng:
- Đó, thằng Bạch đó. Con, mấy bác ở đây cũng là người quen trong xóm cả đó!

Bạch gật đầu chào. Bà Thành mời mọc:
- Mấy chị ở chơi ăn tô cháo vịt, tui ngủ không được dậy hồi năm giờ sáng nấu một nồi tổ chảng cả xóm ăn không hết!
Mấy bà hàng xóm êm ru không thấy ai phản đối hay nhận lời. Bà Thành xoay người vào phía trong gọi vọng vào:
- Vân! Coi dọn cháo vịt ra nghe con!
Rồi bà đứng dậy:
- Mấy chị ngồi chơi tui vô phụ với nó.

Hai, ba bà cũng đứng dậy theo vào.
Ông Thành và Bạch ngồi chịu trận những câu hỏi nhạt nhẽo của mấy bà hàng xóm cũng gần cả nửa tiếng mới nghe mẹ bảo:
- Thôi, bố con ông mời mấy bác tới dùng miếng cháo cho ấm bụng!
Bạch nhủ thầm:
- Ấm bụng? Nóng bỏ xừ mà ăn cháo... Thôi thì ráng nuốt trọng một chén cho bà già vui.
Bạch húp vội chén cháo rồi buông xuống hỏi ông Thành:
- Ba, bữa nay con mượn xe Ba được không?

Ông Thành nhanh nhẩu:
- Được chứ sao không? Mầy đi đâu cả ngày cũng được ba để cho mầy tự do.
Bà Thành chen vào:
- Con lo ra xã làm giấy tờ cho xong rồi đi đâu thì đi.
- Xã ở đâu vậy má?
Con Vân nói hớt:
- Ăn xong em dẫn anh đi!

Thủ tục khai báo xong, Bạch về nhà chào cha mẹ rồi mượn xe đi tuốt lên Saigon ghé kiếm bạn bè. Sự có mặt của Bạch bạn bè vui mừng, đêm đến họ rủ Bạch vào phòng trà nghe nhạc uống rượu. Nhìn những người từ ngoại quốc về vui chơi phè phỡn bên đống vỏ bia, Bạch ngao ngán và cảm thấy lạc loài. Những người bạn theo chàng hôm nay lấy làm lạ và họ cũng thấy vui hơn khi tìm thấy ở Bạch một tâm hồn chân thật giản dị như thủa còn đi học. Hoàng đề nghị về nhà đấu láo cả bọn đồng ý...

Họ kéo nhau về. Một cuộc họp bạn được loan báo nhanh chóng bằng cách tẽ riêng từng người đến tận nơi đón một số bạn bè thân thuộc.

Cuộc hàn huyên kéo đến nửa đêm và họ hẹn lại đêm mai vì Bạch mới đến Việt Nam một ngày nếu không về e gia đình lo lắng. Bạn bè luyến tiếc chia tay, Bạch cảm động và không cảm thấy hối tiếc vì chuyến về thăm gia đình lần này.

Trên đường lái xe về nhà chàng suy nghĩ miên man. Nhớ đến hoàn cảnh Nhật hiện vợ đang bệnh nặng chưa có tiền chạy chữa. Đến Thục có đứa con gái gia đình đang nhờ cậy qua những ngày buôn bán tảo tần vừa bị bắt vì ghép vào tội buôn bán trái phép không có tiền chạy chọt... và... còn vài người bạn nữa hoàn cảnh nào cũng bi đát. Chàng mừng thầm khi biết gia đình chàng nhờ tiền chàng gửi về nên tiệm tạp hóa đầy đủ mặt hàng và có tiền đóng thuế đều đặn nên cuộc sống cũng sung túc phần nào. Chàng định thầm đêm mai sẽ đổi ra một số ngoại tệ để giúp đỡ bạn bè... với ý nghĩ đó chàng thấy vui vui rồ thêm ga, lách qua lách lại một cách nghịch ngợm.

Đến gần nhà, đường tối bỗng nhiên chàng húc vào một người đi đường lọt tõm xuống mương. Trong cơn thảng thốt chàng la lên: "Trời ơi!" và ngừng xe lại. Dựng xe sát lề đường chàng nhanh nhẩu xuống đỡ nạn nhân lên. Tối trời chàng chỉ biết đó là người đàn bà. Chàng ân cần:
- Xin lỗi bà, bà có sao không?
Một giọng trong trẻo cất lên:
- Ông chạy xe kiểu này có ngày giết người như không!
Chàng ân hận:
- Xin lỗi bà tôi ở xa mới về đêm nay lần đầu đi trên con đường này vì trời tối quá nên tôi chưa quen.

Im lặng bao trùm. Chàng lại hỏi:
- Bà có sao không? Nhà bà ở đâu tôi đưa bà về!
- Thôi cám ơn tôi đi bộ được, nhà tôi cũng gần đây thôi!
Bạch bì bõm dưới mương đỡ người phụ nữ lên. Thấy tay nàng tay xách hai túi ướt sũng, Bạch dành xách phụ. Lên bờ, Bạch mở máy xe và bật đèn xe. Ngạc nhiên khi thấy người con gái còn quá trẻ, chàng nài nỉ:
- Cho phép tôi đưa bà về, nếu bà không chịu tôi rất ân hận vì đã để xảy ra chuyện đêm nay.

Im lặng. Chàng bồi thêm:
- Có lẽ bà ngại tôi là đàn ông đưa về sợ ông nhà hiểu lầm chăng?
Người con gái lúc này mới lên tiếng:
- Tôi còn độc thân! Còn ông, ông về đi kẻo gia đình mong. Tôi biết ông ở bên Mỹ mới về hôm qua, nếu giờ này ông còn lang thang ở đây có lẽ gia đình ông lo lắm đấy?
Bạch mở rộng tầm mắt ra để nhìn xem cô gái này đêm qua có mặt ở nhà chàng không mà hiểu rõ về chàng đến thế. Nhưng tuyệt nhiên đây là một cô gái thùy mị, đơn giản trong bộ quần áo thô sơ. Chàng nói như reo vui:
- Xin lỗi, sao cô biết về tôi vậy?

Cô gái hóm hỉnh:
- Cậu Bạch con ông bà Thành bán tạp hóa về Việt Nam... kiếm vợ ai mà không biết!
Bạch đưa tay gãi đầu:
- Thì ra...
Chàng bỏ lửng câu nói. Nài nỉ mấy cô gái cũng không chịu để chàng chở về, hỏi tên nàng cũng không chịu nói. Tự ái nổi lên chàng đành chia tay, nhìn nàng hai tay hai túi xách nặng nề chàng ái ngại, định vọt luôn vì... người gì đâu mà khó quá chàng nhủ thầm. Nhưng bỗng "Ối!" người con gái khuỵu xuống. Chàng lại hoảng hốt buông xe, phóng xuống đỡ nàng lên, nàng rên rỉ:
- Ôi chao! Sao chân tôi đau quá!

Chàng buông nàng ra quay lại dựng xe vừa ngã nằm dưới đất chiếu thẳng đèn vào người con gái. Chàng sửng sốt khi thấy mắt cá nàng sưng vù lên. Chàng bảo:
- Có lẽ trặc gân rồi!

Cuối cùng nàng đành để cho Bạch đưa về nhà. Cả xóm đã chìm trong giấc ngủ. Qua vài câu ngắn gọn của mẹ nàng chàng biết nàng tên Diệu Ái, qua sự trao đổi giữa hai người chàng biết bà bị bệnh cụp xương sống không đi làm được, Diệu Ái buôn bán thuốc lá ngoài chợ Thủ Đức, bình thường nàng về sớm nhưng rủi ro hôm nay chiếc xe lam từ chợ Thủ Đức vô Phước Bình bị liệt máy giữa đường. Suốt cả ngày ế ẩm nên nàng tính toán không dám đi xe thồ, vì đi như vậy coi như cả ngày nàng... chẳng bán gì được cả. Cũng vì cố lê lết cho đến nhà mới xảy ra chuyện đêm nay. Bạch nghe chuyện, nhìn nàng thương cảm. Vừa hối hận vừa xao xuyến trong lòng Bạch cứ hết đứng lại ngồi lúng túng.

Bà Hương, mẹ nàng thương hại:
- Thôi, chuyện lỡ rồi, cậu về đi, mai tui sẽ kêu thầy tới để nắn chân cho nó! Tôi cũng vừa nghe nó nói cậu là con ông bà Thành ở Mỹ mới về, thôi coi như đây là rủi ro của nó!
Chàng chào ra về, luyến tiếc, thương xót vì mình mà người con gái này mới ra nông nỗi. Chàng hứa mai sẽ trở lại. Bịn rịn nhưng chàng vẫn cố hỏi Diệu Ái một câu cuối cùng:
- Tại sao cô biết tôi là Bạch?

Diệu Ái cười buồn:
- Cả xóm này chỉ có ba người có xe cúp riêng chiếc xe của bác Thành màu đỏ, anh lại bảo ở xa mới về thì... ai mà không biết!
Chàng hứa hẹn:
- Tại khuya quá rồi, chắc ba má tôi mong lắm. Mai sớm tôi xin mời thầy thuốc đến chăm sóc cô ngay!
Vừa dừng xe trước hiên nhà, bà Thành tuôn ra xỉ vả:
- Đi đâu giờ này mới về? Con mới về có một ngày mà đã làm cho ba má muốn điên lên rồi!

Ông Thành bồi thêm:
- Bạn bè thì cũng có giờ có giấc thôi chứ!
Chàng dẫn xe vào nhà không trả lời thẳng cha mẹ lại hỏi:
- Mẹ, mẹ có biết cô Diệu Ái ở cuối đường nhà mình không?
Ông bà Thành trố mắt nhìn chàng, thấy ba mẹ nhìn mình không chớp mắt chàng bảo:
- Chuyện này có gì đâu mà ba mẹ nhìn con dữ vậy?
- Tại sao con mới về mà con biết con Diệu Ái?
- Tại con lái xe đụng cổ!

- Hả? Có sao không?
- Con làm người ta trặc gân, chân sưng vù lên. Cũng vì chuyện này mà con về trễ!
- Mà sao con lại đụng nó không đụng ai khác?
- Trời, bà hỏi nó vậy thì tui cũng chịu thua nói gì nó! Đã bảo rủi ro mà còn đi "kiếm người để đụng" thì chết rồi!
Chợt bà xuống giọng:
- Nhưng mà không sao trặc gân chỉ là chuyện nhỏ vài hôm xoa dầu là xẹp liền hà!
Bạch thở dài:
- Nhưng tội nghiệp nhà nghèo nhờ vả vào cổ mà cổ lại bị vậy họ làm sao sống?

- Thì mình phải lo cho cổ chứ sao?
- Má nói nghe dễ quá, cổ khó tính lắm con sợ không giúp được?
Bà cười hiền hòa:
- Con để đó má liệu chọ Bạch à, con có biết mấy bữa nay má tính nhờ người mai mối nó cho con đó!
Bạch sửng sốt:
- Thiệt không má? Nhưng cổ... có ai chưa?
Ông Thành góp ý:
- Có lẽ đây là duyên trời định đó con à!

Bạch ngồi ngây người một lúc rồi lại hỏi mẹ:
- Cổ có ai chưa má?
- Có ai thì làm sao má biết nhưng theo má tìm hiểu cổ chưa ưng ai hết vì bao nhiêu tiền kiếm ra lo cho mẹ hết, cổ thì lại hiếu thảo nên...
Bạch hy vọng:
- Vậy ngày mai con kiếm thầy lo cho cổ rồi... má tìm cách nói vô giùm con nha!
- Ừ! Thôi đi tắm rửa rồi đi ngủ đi con!

Bạch sực nhớ đến Vân và hỏi:
- Con Vân đâu rồi má?
- Nó chờ con lâu quá, mai phải đi học sớm nên nó ngủ rồi!
Tự dưng Bạch nghe lòng vui vẻ, chàng huýt sáo bước vào phòng tắm...
oOo
Buổi sáng tiếng gà eo óc nổi lên. Bạch tung mình dậy sớm, vội vàng tắm rửa, thay quần áo, ra thấy ba mẹ đã ngồi sẵn bên mâm cháo đậu xanh với cá bống kho tiêu. Ông Thành hỏi:
- Bữa nay con có cần xe không?

- Dạ không ba à! Ba đi đi, con đi bộ tới nhà bà Hương lo cho Diệu Ái được rồi! Chiều sáu giờ con mới cần xe đi Saigon.
Rồi quay qua mẹ:
- Bữa nay má mở tiệm hay nghỉ?
- Nghỉ hôm qua rồi nay phải ra mở lại. Để lâu mất khách hết!
Chàng tươi cười:
- Con phải tìm thầy thuốc cho cô Diệu Ái xong con ra phụ với má nha!
Bà Thành vui thích:
- Ừ, lát con ra với má!...

Thành nghe lòng thương mẹ rạt rào, đến vòng tay qua bụng nhấc bổng mẹ lên.
- Má, con thương má quá!
Ông Thành cười hỉ hả, bà Thành giẫy nẩy:
- Cái thằng này!!!
Rồi cả nhà vui vẻ ăn sáng.
oOo
Tin Bạch "hất" cô Diệu Ái xuống mương loan ra trong xóm nhanh chóng. Số người tò mò vờ vĩnh đến thăm Diệu Ái bị nạn nhưng thật ra để nhìn và đoán mù đoán mò về tình cảm của câu Bạch và cô Diệu Ái thế nào...

Diệu Ái được ông thầy thuốc băng một lớp thuốc mỏng với lá cây, 2 chân gác cao lên gối... và cho biết khoảng hai, ba ngày sẽ đi đứng lại bình thường.
Bạch bắt chiếc ghế ngồi bên cạnh giường nói chuyện cùng Diệu Ái, còn bà Hương tuy lưng còng xuống cũng lui cui nấu nước pha trà cho người thanh niên lỡ làm con mình bị nạn nhưng rất biết điều và nhất lại là... Việt kiều về nước nữa!

Qua những dọ hỏi khôn khéo Bạch tin chắc Diệu Ái chưa... có ai nên mạnh dạn hơn khi nói chuyện. Khi hỏi về vấn đề tại sao trẻ đẹp như nàng mà đến giờ vẫn còn cô đơn. Diệu Ái buồn bã:
- Thú thật, đôi lúc em cũng buồn, muốn có đôi bạn lắm. Nhưng thanh niên thời buổi này kiếm một người cho đúng nghĩa tri kỷ đâu có dễ anh! Trước kia có một người em rất yêu thương nhưng gần gũi lâu thấy bản chất họ ích kỷ chỉ biết cá nhân mình, không có sự yêu thương đối với nhân loại. Tụi em cãi cọ vài lần rồi xa luôn! Giờ em cũng chán ngán không muốn quen ai. Hơn nữa mẹ em anh thấy đó cứ đau nhức kiểu này biết họ có rộng lượng để mình lo cho mẹ mình không?

Câu nói của Diệu Ái nhắc nhở đến điều hứa hẹn với đám bạn đêm qua, tự nhiên chàng thấy gần gũi Diệu Ái hơn. Qua tâm sự, chàng càng quý mến Diệu Ái và tự dặn lòng nhất quyết bằng mọi giá phải chinh phục cô gái này bằng cách xin cha mẹ đến nói chuyện thẳng với mẹ nàng để minh chứng lòng thành của mình...

Từ giã Diệu Ái chàng đi thẳng ra chợ gặp mẹ, thấy chàng đến những người ở trong tiệm cười chào vui vẻ. Chàng phụ mẹ một lúc khách vắng vẻ chàng kể thật với mẹ ý muốn của mình. Bà Thành cười hỉ hả vì đúng như ý muốn bà, theo con dọn tiệm về sớm vì Thành cần có xe củ a cha để đi Saigon gặp bạn như đã hứạ Bà Thành sẽ theo ông Thành qua thăm Diệu Ái với ý thăm dò bà Hương. Ông bà cũng mừng vì đây là lý do chính đáng nhất để họ đến nhà bà Hương mà không cảm thấy ngượng ngùng.

Bạch đến nhà Hoàng ở đường Nguyễn Thiện Thuật, bạn bè đã đông đủ. Chàng sau những phút chào hỏi, tay bắt mặt mừng, đưa cho Hoàng một ngàn Mỹ kim và tuyên bố ý muốn giúp đỡ những người bạn đang bị nạn mà không có tiền để xoay xở. Nhờ Hoàng đứng ra đổi thành tiền Việt rồi tùy theo hoàn cảnh mỗi người để giúp đỡ. Chàng vắn tắt tai nạn đêm qua để cáo lỗi về sớm. Thấy chàng nhiệt tình và giàu lòng nhân bạn bè tiễn ra cửa với tất cả mến thương, lưu luyến.

Khi chàng trở về nhà thì chỉ gặp Vân, Vân bảo:
- Ba, má qua nhà chị Diệu Ái rồi, dặn nếu anh về sớm qua liền bên bển!
Chàng dẫn xe vào nhà rồi rủ em gái đóng cửa theo chàng đi chơi. Vân tung tăng theo anh với lòng hân hoan, hãnh diện...
Đến nơi, chào bà Hương và ba mẹ, cả ba đang ngồi quay quần ở cái bàn phòng khách. Chưa đợi chàng hỏi bà Hương đã lên tiếng:
- Nằm suốt ngày nên chân nó xẹp xuống nhiều rồi cậu đừng lo!

Bạch xin phép vào trong thăm Diệu Ái....
Thấy chàng bước vào, Diệu Ái bẽn lẽn quay nhìn phía khác. Chàng hồi hộp đánh liều hỏi:
- Ba má anh đã nói gì với má em chưa?
Ái vẫn nhìn lơ nhưng đầu gục gục hai, ba lần. Chàng mạnh dạn:
- Em! Còn em... thấy thế nào?

Nàng lơ đi không trả lời. Bỗng bà Hương bước vào nói:
- Ba má cháu đã nói chuyện với bác rồi. Bác thì đương nhiên rất vui mừng cuộc hôn nhân này vì bác đau yếu bệnh tật biết chẳng còn sống bao lâu. Nếu được cháu thật lòng thương yêu đùm bọc nó thì bác rất vui mừng. Nhưng đó là ý bác còn con Diệu Ái nó thế nào là... do ở cháu mà thôi!
Bạch nghe qua lòng như mở hội. Chờ bà Hương khuất ra ngoài, Khải đánh liều nắm tay nàng tha thiết:
- Diệu Ái, đây là tất cả lòng thành thật của anh... Em... Em có đồng ý không cho anh biết!

Diệu Ái rụt tay lại nhìn Bạch đăm đăm:
- Anh thật sự không ân hận?
Bạch hấp tấp:
- Không! Không bao giờ. Vì em biết không ba má anh cũng định đi hỏi cưới em cho anh trước khi anh về đây kìa!
Diệu Ái bật cao đầu dậy:
- Có chuyện đó nữa sao?

Bạch mạnh dạn cầm tay Diệu Ái bày tỏ:
- Anh biết nói như thế nào để em tin anh đây? Nếu không tin em cứ ra ngoài hỏi ba má anh đi! Anh thấy khi anh lỡ tông vào em đó cũng là định mệnh em ạ!
Diệu Ái để yên tay mình trong tay Bạch, nhìn chàng ánh mắt trìu mến hơn:
- Anh cho em vài hôm suy nghĩ lại vì em cảm thấy bất ngờ quá. Hơn nữa bao nhiêu chàng trai ở Mỹ về đây cưới vợ hầu như họ bỏ ra một số tiền để mua vui vài tháng rồi... đi thẳng!

Bạch kiên nhẫn:
- Nhưng anh khác, ba má anh ở gần nhà em, em cũng đã nói với anh lúc xảy ra tai nạn ngoài mương là anh về... kiếm vợ tức là anh có mục đích hẳn hòi, em à, muốn anh nói thế nào cho em hiểu đây?
Diệu Ái mỉm cười:
- Thôi, nói chừng đó đủ chưa?
Bạch vui vẻ:
- Em tin anh chứ?
Diệu Ái chợt đăm chiêu:
- Nhưng rồi... sau đó rồi sao? Cưới xong anh trở lại Mỹ, em vò võ đợi chờ. Biết anh có thủy chung không hay...

Bạch đưa tay bịt miệng Diệu Ái:
- Em, cưới em xong anh sẽ lo ngay thủ tục bảo lãnh dù gì ba má anh cũng biết má em và em không thấy họ đang bàn chuyện cưới hỏi mình ngoài kia sao? Em, em đừng nghĩ này nghĩ kia... tội nghiệp anh mà!
Diệu Ái mỉm cười quay nhìn hướng khác lòng nhủ thầm:
- Coi bộ cũng... thiệt thà!
Bạch cố gắng tấn công:
- Nếu em có gì không tin ngày mai anh sẽ đem giấy chứng nhận anh còn độc thân ở Mỹ cho em xem!

Điều này báo chí vẫn thường đăng tải nên Diệu Ái tin tưởng ở Bạch ngay thẳng, nhưng nàng vẫn bảo:
- Anh cho em suy nghĩ lại vài hôm sẽ trả lời.
Bạch sung sướng:
- Dĩ nhiên, hôn nhân là việc quan trọng em cần phải suy nghĩ lại nhưng có điều... xin em đừng đổi ý tội nghiệp anh!
Diệu Ái phì cười trước sự lém lỉnh của Bạch. Nàng bảo:
- Thôi được, mai anh sang chơi em sẽ trả lời dứt khoát...

Bạch nhảy cỡn lên như trẻ thợ Diệu Ái lại cười và nàng nghĩ thầm:
- Coi bộ... định mệnh thật rồi sao ta?
Gia đình Bạch ra về trong vui vẻ. Đến nhà, tụm lại bàn tán ngày hỏi, cưới. Ông bà Thành hỉ hả vì đã đạt được điều mong muốn, ông Thành vừa cởi giày vừa ngâm lên khe khẽ:
Cố ý trồng hoa, hoa chẳng mọc,
Vô tình nhóm liễu, liễu xanh um!
Bà Thành nhìn chồng cười thỏa mãn và bảo:
- Cưới Diệu Ái cho thằng Bạch xong mình nên lo rước bà Hương về đây cho có người săn sóc bả?

Ông Thành cất tiếng:
- Phải đó! Để bà ấy một mình bịnh tật không nên.
Vân cũng phụ họa:
- Con sẽ thay anh Bạch chăm sóc cho bác Hương để cho ảnh yên lòng. Thôi khuya rồi con đi ngủ để mai còn đi học nữa!

Nói xong Vân chào ba, mẹ và Bạch vào phòng ngủ. Ông bà Thành vẫn còn loay hoay đi tới đi lui như đang nghĩ đến những gì nên làm...
Riêng Bạch chàng nghe lòng xôn xao khó tả. Ngả đầu lên ghế, hai tay khoanh hờ trước ngực, nhắm nghiền mắt lại lẩm bẩm:

- Diệu Ái! Tên em đẹp quá, em cũng đẹp quá và bàn tay em nữa êm ái quá, mềm mại quá... anh mong mau sáng để gặp em lại vì... nhớ em rồi đó!


Ái Khanh

Hansy
13-09-2014, 12:31 AM
42.

ĐỊNH MỆNH hay LÒNG NGƯỜI

Thương Hà

Bệnh viện Grall, một tối Chúa Nhật buồn....

Lam Hồng yêu của mẹ,
Nằm bệnh viện đã ba tuần rồi, nhưng sao đêm nay mẹ cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết con ạ ! Mẹ muốn gọi điện thoại cho Lam, để được nghe Lam nói chuyện với mẹ , nhưng mẹ biết, sau khi nói chuyện với con xong, giọng nói của con trong điện thoại , những lời nói ngây thơ của con, làm mẹ buồn trên quãng đường trở về giường bệnh, và suốt đêm hôm đó...

Con ạ ! nếu không có Lam và Hồng thì mẹ không có gì đắn đo, khổ tâm, như hiện tại. Mẹ muốn ra đi, làm cánh chim trời , tung bay bốn phương, để thoả ước những gì mà mẹ mong mỏi, nhưng bây giờ, mẹ không còn được quyền nghĩ cho mẹ thôi, vì mẹ thương con, Lam của mẹ, Hồng của mẹ, các con là lẻ sống , là lý do sống của mẹ, mẹ không có quyền chết, mẹ không có quyền đi tìm hạnh phúc riêng cho mẹ.

Nhiều khi, mẹ nghĩ, con người sinh ra, nếu được may mắn, thì sung sướng mà hưởng, còn nếu bất hạnh, như mẹ chẳng hạn, thì cũng phải tự ngoi lên trong cái đau khổ, kéo lê kiếp sống, chứ bạn bè, cha mẹ, anh chị em, tất cả, tất cả sẽ không có nghĩa lý gì , không thể chia sẻ, không thể làm tan biến được chút nào, nổi đau đớn trong tâm hồn của cái kẻ sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu, như mẹ...

Lam ơi ! đêm qua, trong điện thoại, con nói với mẹ là mười ngày nữa con đi học, mẹ mong con chóng hiểu biết, để những đêm buồn như đêm nay, mẹ sẽ viết cho con những gì mẹ nghĩ. Đời mẹ bây giờ như kẻ lạc đường, đang đứng trước muôn ngàn lối rẽ, về đâu ? Mẹ không biết phải về đâu ! Mẹ bây giờ đã mất cả niềm tin ở cuộc đời nầy rồi con ạ ! Nhìn đâu, mẹ cũng chỉ thấy toàn phản bội, giả dối, lừa bịp, phũ phàng ...

" Lòng con người như dòng sông muôn ngã,
Không làm sao biết được nước sông trôi " .
Bây giờ, mẹ không còn mơ đến một mối tình êm đẹp nào nữa. Đã hết rồi những gì mà mẹ xây trong tâm tưởng, giờ đây, chỉ còn chăng, một trái tim rạn nứt, một nét mặt ưu tư, và, chỉ còn chăng, là những buổi chiều lầm lũi bước trên hè phố, để tìm lại những gì tươi đẹp đã qua....

Bây giờ mẹ chỉ sống bằng ảo tưởng, bằng mộng thôi ! Vì dòng đời có bao giờ trôi theo ước nguyện của mình đâu con !

Những ngày nằm trên giường bệnh viện, mẹ đã suy nghĩ nhiều cho những ngày sắp tới của mẹ, của các con, Lam của mẹ, Hồng của mẹ. Mẹ buồn lắm con ạ ! Vì mẹ chưa tìm ra được một lối thoát nào êm đẹp cả !

Những buổi chiều, mưa giăng xóa mờ cả khoảng không gian trước mặt, mẹ ngồi nhỏm dậy, khoác chiếc áo lạnh, bước vội ra hành lang bệnh viện, để nhìn mưa bay, để nghe buồn len lỏi đi lần vào tâm hồn mẹ. Mẹ nhớ hai con của mẹ....

Những buổi tối buồn ray rứt, mẹ thường đi âm thầm dưới hai hàng me, dọc theo những con đường trong bệnh viện, để cảm cho trọn vẹn cái nổi khổ của một người đàn bà bạc phước, và cũng để ôn lại cái quá khứ thương đau của những năm tháng vừa qua....
Năm năm về trước, một buổi tối mùng hai Tết, mẹ gặp một người, trong một buổi cơm khách. Người đó không có gì để lại giấc ngủ đầu tiên của mẹ, sau lần gặp gỡ ban đầu . Nhưng sau một thời gian hò hẹn, những lời nói đầy khả ái : " anh không có thì giờ cho đàn bà, anh chỉ thích nghe nhạc, đọc sách, thích làm việc ích nước, lợi dân ... "

Người đó lại kể rằng, họ có ngỏ ý với cha mẹ của họ để xin cưới mẹ, nhưng cha mẹ của họ không bằng lòng, vì gia đình mẹ nghèo, không môn đăng hậu đối với gia đình họ, phần thì, sau một thời gian dài du học, họ đã tốt nghiệp các bằng kỷ sư bách khoa, kỷ sư cầu đường ở Pháp, và tiến sỉ kinh toán học, tại đại học Harward của Mỷ. Vừa về nước, gia đình đã làm lể chạm ngỏ cho họ với một người con gái nhà giàu nào đó rồi ... .
Họ đề nghị với mẹ rằng:

- Đối với anh, nơi em đã có 80% được rồi, chỉ còn 20% nữa thôi, nhưng chính 20% nầy mới quan trọng, vì nó quyết định cho việc anh chấp nhận cưới em, đó là vấn đề xác thịt, có hợp với nhau mới lấy nhau được !

- Nếu hợp, chúng ta tự do kết hôn, mình tổ chức một tiệc trà đơn giản, để mời bạn bè thân thuộc tới dự, chia vui với mình, chừng nào có con rồi, mà gia đình anh vẫn không chịu nhìn nhận cuộc hôn nhân của chúng ta, thì nhân chuyến đi công tác sang Pháp, anh sẽ ở lại tìm việc làm, rồi rước mẹ con em qua với anh ... "

Gia đình mẹ rất nghèo, từ lâu, mẹ thường nhận được sự giúp đỡ của một vị giáo sư đại học đứng tuổi, mà mẹ coi như người cha thứ hai, vợ của ông cũng là cô giáo của mẹ . Ông hứa sẽ cho mẹ đi du học, sau khi đỗ Tú tài.

Mùa thi đến.... mẹ không đỗ !
Hỏng thi, mất học bổng, buồn quá, ông ngoại con lại đánh đập, chưởi mắng, xua đuổi, càng buồn. Đã thế, lúc ấy, mẹ lại bị nhiều luồng dư luận tàn nhẫn đỗ lên đầu : người ta đồn rằng mẹ rất " bay bướm ".....

Thật ra, theo lời khen của mọi người, thì thời đó, mẹ là một trong những cô nữ sinh đẹp của một trường nữ trung học lớn nhất nước. Có lẽ vì vậy mà bọn con gái ganh tị, bọn con trai theo đuổi không được nên nói xấu.

Nhưng, điều quan trọng khiến mẹ quyết định tự do kết hôn với người ấy, là lời tiên tri của ông thầy bói, do vị giáo sư, cha nuôi của mẹ giới thiệu, ông nói rằng, mẹ có duyên nợ với một người đàn ông lớn hơn mẹ ba mươi sáu tuổi, ý ông ta muốn ám chỉ, người đàn ông đó là ông cha nuôi của mẹ, những lời nói ấy ám ảnh nặng nề, sâu đậm, trong đầu mẹ, mẹ cảm thấy đau buồn, thất vọng, sợ hảI vô cùng, nếu định mệnh khắc khe như vậy....

Tất cả.... đã đưa mẹ đến quyết định, như để chạy trốn một định mệnh !
Mẹ quyết định tự do kết hôn với người ấy .
Mẹ có thai ngay tháng đầu tiên khi lấy quyết định đó.

Mẹ âm thầm đặt in một số thiệp báo hỷ để gửi bạn bè, hàng xóm, nhân ngày giổ ông nội của mẹ, vì ngày đó có đông đủ bà con trong đại gia đình, mẹ mời thêm vài người bạn thân học cùng lớp, và mời cả người ấy đến dự, coi như để ra mắt gia đình của mẹ.
Nhưng rồi, hôm đó, tiệc đã tàn, chờ mãi tới mười giờ đêm, vẫn không thấy người ấy đến như đã hứa. Sáng hôm sau mẹ đến sở làm tìm họ, người ấy bảo rằng, gia đình họ hay tin, do một cô bạn cùng trường của mẹ nói ra, kèm theo với nhiều lời kể lể của cô ta có tính cách phỉ báng mẹ , phát xuất từ lòng ganh tị của cô ta, sau khi cô nầy nhận được thiệp báo hỷ mẹ trao, nên gia đình họ phản đối, ngăn cản, bắt buộc người ấy phải chấm dứt với mẹ, nếu họ không muốn gia đình từ bỏ.

- Vì vậy, không thể tiếp tục !!
Người ấy nói với mẹ như thế, còn thêm rằng :
- Anh cũng đang tự hỏi rằng, em có phải là con nhà đàng hoàng không, vì con gái nhà lành không ai cho trai ngủ trước khi cưới !
Thật không ngờ ! Thì ra, những lời đề nghị, hứa hẹn trước đây, chỉ là một cách phỉnh dụ, lừa dối ?

Nhưng vài hôm sau, người ấy lại đi tìm mẹ .
Mẹ bắt đầu ngán cơm, ói mửa, nên ông bà ngoại biết được, mẹ hơi ngạc nhiên là, ông không đánh đập mẹ như những lần phạm lỗi nhẹ trước đây, mà chỉ nằm vắt tay trên trán, im lặng, buồn....

Ngày sinh nhật thứ hai mươi hai của mẹ, ông ngoại con bắt buộc mẹ phải mang bụng chửa hoang, cuốn gói đi khỏi nhà " cho khuất mắt " ông và hàng xóm !

Mẹ viết vội mấy hàng chữ, nhờ cậu em mang đến nhà người ấy, nói rằng , hôm nay sinh nhật của mẹ, mẹ muốn người ấy mang xe tới đón mẹ đi một vòng dạo mát .
9 giờ tối người ấy tới đậu xe ở đầu ngõ chờ mẹ như thường lệ.

Từ ngày mới quen cho đến giờ, dù mẹ mời, người ấy cũng không bao giờ chịu vào nhà để chào hỏi ông bà ngoại con, không biết, vì người ấy ngượng ngùng, hay vì gia đình mình nghèo nên coi thường, không cần giữ lề lối, phải trái gì cả .

Mẹ đi ra ngoài cổng gặp người ấy, và nói :
- Ba em vừa đuổi em đi chiều nay, ông ấy đã biết em có thai rồi, vậy anh vào nhà chào ba má em, rồi xách vali quần áo của em giùm, để ba má em biết là em đi theo anh, như vậy, ba má em sẽ yên lòng, sau đó, anh chở em đến nhà Phương, ở đường Nguyễn Thiện Thuật, rồi anh về , em không dám làm phiền anh nhiều hơn nữa ".

Người ấy tỏ vẻ bực mình, đáp :
- Tôi không phải là taxi, bà muốn đi thì kêu taxi mà đi !
Sụp buồn ! Nghẹn ngào ! Như có ngàn mây xám đang trôi dạt giữa buồng tim, mẹ nghe một sự đỗ vỡ ghê gớm ở trong lòng, trước mặt mẹ, cả một không gian đen tối, một tương lai buồn như nghĩa địa về chiều....

Những người con gái khác có hơn gì mẹ , sao họ đi lấy chồng có xe hoa rượu cưới, có bạn bè làng xóm, có họ hàng tiển đưa, chờ đón, còn mẹ, ra đi, theo một người đàn ông mà mình ngỡ là diễm phúc trời cho, lại buồn như một đám ma ăn mày, không kèn, không trống, không người đi đưa, bẽ bàng hơn nữa, chính người con trai đó, người "mộng" của mẹ đó, lại thốt ra câu:
- Tôi không phải là taxi, bà muốn đi thì gọi taxi mà đi !

Người ấy lại nói tiếp :
- Tại sao bà nói bửa nay sinh nhật bà, đến đón bà đi dạo, bây giờ tôi đến, bà lại nói là ba bà đuổi bà đi, bà biểu tôi chở bà và va li quần áo cuả bà đi, tại sao bà gạt tôi ?
Mẹ đáp :
- Em xin lỗi anh, em không dám nói thật, sợ anh không đến, em muốn anh đến để đón em đi cho ba má em trông thấy, ít nhất, ba má em cũng được yên lòng .
Người ấy im lặng, không chịu vào nhà chào ông bà ngoại con, dù đó là lần đầu, và cũng là lần cuối, dù chỉ một lần thôi !

Mẹ nói tiếp :
- Thôi anh lái xe tới trước cửa nhà em, vì va li nặng quá, lại còn sách vỡ của em nữa, em mang ra đầu ngõ không nỗi .
Người ấy vẫn bất động, mẹ năn nỉ tiếp:
- Anh lái xe đến trứơc cửa nhà em, em để va li và sách vỡ vào, rồi anh chở em ra khỏi ngõ, vừa khuất ngõ, em xuống ngay, em sẽ gọi taxi đi tiếp đến nhà Phương.
Người ấy vẫn im lặng, với gương mặt giận dữ, biết là không thể thuyết phục được, mẹ quay vào nhà, nhờ chị của mẹ và cậu em mang giùm va li và sách vỡ ra xe, tất cả mọi người, ông bà ngoại, cậu dì của các con, mẹ, và người ấy, đều im lặng, tầt cả như đang diển một màn phim câm !

Một va li đựng vài bộ quần áo cũ, mấy cuốn tự điển Việt, Pháp, Anh, một bào thai trong bụng, mẹ ra đi, bỏ lại gia đình, bỏ lại phía sau lưng cha mẹ, chị em, để đi con đường trước mặt, vô định.... với hai bàn tay trắng !
Trong vẻ mặt bất mản, người ấy mở máy xe, vừa chạy qua khỏi ngõ, mẹ yêu cầu người ấy để mẹ xuống, để mẹ lấy taxi đến nhà Phương, như đã hứa lúc nảy, người ấy lặng lẽ lái xe chạy tiếp, không trả lời một tiếng nào.
Đến nhà Phương, mẹ mang đồ đạc vào nhà, xin Phương cho ở tạm vài hôm, rồi tính tiếp.

Phương vừa mới lấy chồng được một tháng, tình yêu còn nồng cháy, nhà lại chỉ có một gian, mẹ mượn Phương chiếc chiếu nhỏ, trải dưới chân giường của hai vợ chồng Phương để nằm ngủ.

Hai hôm sau, người ấy trở lại tìm mẹ, biểu mẹ kiếm nhà để thuê, và đưa mẹ một ít tiền, đủ để trả tiền thuê nhà, và mua sắm vài vật dụng cần thiết trong nhà.
Đúng một tuần, Phương không chịu nổi sự có mặt của mẹ ở chân giường Phương, nên Phương ngỏ ý muốn mẹ dọn đi. Cũng may, mẹ vừa thuê được một căn nhà.
Tối hôm nhận chìa khoá nhà thuê, mẹ đến nhà người ấy tìm họ, để nhờ chở mớ đồ đạc đã mang theo, và vật dụng cần thiết mới mua thêm.
Đứng trước cổng nhà, vừa bấm chuông, một người đàn bà ngoài năm mươi tuổi đi ra, mẹ cuối đầu chào, và lễ phép hỏi :
- Cháu muốn tìm Thế !

Bà trả lời bằng một giọng gay gắt :
- Mầy kiếm con tao có chuyện gì ? Cha mẹ mầy nghèo, cho mầy làm đĩ, bửa nay tới tháng, mầy tới đây để đòi tiền hả ?
Mẹ lễ phép đáp :
- Thưa bà, cha mẹ con nghèo thật, nhưng cha mẹ con cũng ráng làm lụng vất vả, để nuôi con ăn học nên người, vì một phút lỡ lầm, ngu dại, con bị Thế dụ dỗ, nên con làm hư hỏng đời con thôi, chứ con chưa hề làm đĩ bao giờ, nếu quá nghèo, thì thà cạp đất ăn, chứ không thèm làm đĩ đâu, thưa bà !
Bà nói to tiếng :
- Mầy đi không, đồ đĩ ! Mầy còn đứng xớ rớ ở đây, tao kêu đầy tớ của tao đem chổi chà quét cầu tiêu ra quét mầy bây giờ !

Mẹ đáp :
- Bà cứ gọi đầy tớ của bà ra quét con đi !
Nhưng rồi, mẹ chào bà, lặng lẽ quay về .
Mênh mong là buồn !
Đêm đó, người ấy đi vắng, sáng hôm sau, mẹ đến tìm người ấy ở sở làm, để cho hay là đã thuê được nhà rồi, đồng thời, nhờ chở đồ đạc về nhà mới giùm.
Bằng một giọng gắt gỏng, người ấy đáp :
- Bà kêu xích lô chở đi !
Mẹ lại lặng lẽ ra về, nhờ xích lô dọn giùm vali, sách vỡ, mền mùng, chiếu gối, về nhà vừa mướn .
Mệt mỏi, cả tinh thần lẫn thể xác, mẹ bị đau suốt một tuần lễ .

Thời gian cứ trôi....
Mẹ vẫn sống âm thầm với bóng tối. Mỗi chiều, khi mặt trời khuất bóng, là bắt đầu những giờ phút chờ đợi mỏi mòn của mẹ . Từng tiếng động nhẹ ngoài ngõ, từng ánh sáng đèn xe ửng qua song cửa nhà, là mỗi lần tim mẹ đập vội vàng, mẹ chợt sung sướng, nghĩ rằng, người ta đến thăm, và, khi tiếng động, khi ánh sáng vô tình kia vụt tắt, lại thêm một lần, mẹ thất vọng, rồi, tiếp tục, tiếp tục, chờ.... chờ cho đến khi nào đồng hồ hàng xóm buông mười hai tiếng thì .... nước mắt mẹ bỗng tuôn dầm : đêm nay người ta không đến thăm !

Nhưng đêm dài như vậy trôi qua biết bao lần, người ta vẫn vô tình ! Vài hôm, khi nào rảnh, người ta mới ghé thăm mẹ giây lát . Hạnh phúc của mẹ chỉ như tia sáng của một vì sao rơi cuối trời . Chừng đó, mẹ mới mơ hồ nghĩ rằng, mình phải dứt khoát, vì mẹ linh cảm, mình sẽ khổ .

Thế rồi , đứa con đầu lòng ra đời. Vừa sanh xong được một tháng, mẹ mang va li bỏ trốn, với đứa con còn đỏ sửa, người ấy lại đi tìm, năn nỉ, hứa hẹn :
- Anh thương em nhiều ghê lắm, làm sao anh bỏ mẹ con em được, chuyện đã lỡ rồi, em ráng chờ, đến khi nào ba má anh bằng lòng, mình sẽ chung sống với nhau, còn nếu như ba má anh vẫn khăng khăng không chịu nhìn nhận mẹ con em, thì anh sẽ đi Pháp tìm việc làm, rồi rước mẹ con em sang; em bỏ đi như vậy tức là em đã làm khổ cả ba người.....

Với bề ngoài giản dị, tư cách đàng hoàng, mẫu mực, mẹ thì như kẻ đắm tầu:
" Thử liều nhắm mắt đưa chân,
Để xem con tạo xoay vần tới đâu ."
Mẹ lại bắt đầu có thai, khi đứa con đầu lòng mới được hai, ba tháng tuổi.
Một hôm, theo lời đề nghị của người ấy, mẹ bồng con đến gặp mẹ của họ, để xin được nhìn nhận. Mẹ vừa mới mở lời xin lỗi bà, nói chưa hết ý thì bà vội chặn lời:
- Con tôi đi năm non bảy nước mà không mắc, về đây lại mắc cái lỗ chân trâu !

Bà tiếp:
- Con tôi là con nhà danh giá, đâu có thể rước cái thứ ở cầu tiêu như cô về đây được !
Mẹ bật khóc nức nở, mang cái bụng chửa, tay bế đứa con còn thơ dại, quay lưng đi.
Vừa ra đến cổng nhà, người bếp già chạy vội theo, bảo mẹ quay trở lại, vì bà ấy đã đổi ý rồi .
Chưa kịp mừng về sự tiếp nhận của mẹ người ấy, thì bà cho hay là, từ lâu nay, người ấy vẫn liên lạc thường xuyên với một phụ nữ khác , hiện tại, nhiều đêm, người ấy thường đưa cô đó lén về nhà họ để ....

Mẹ như người bị vỡ mộng ! Đau khổ ngút ngàn ! Biết làm sao bây giờ ?
Sanh xong đứa con thứ hai, người ấy mang mẹ và hai con về sống chung với mẹ họ.
Ngày tháng trôi qua, mẹ vẫn nghi ngờ, theo dỏi, tìm hiểu sự thật ....
Ba tháng, sau lần thi trượt Tú Tài toàn phần, mẹ đã thi đỗ ở khóa hai, rồi tiếp tục ghi danh ở đại học văn khoa và luật, mỗi năm, vừa sanh con, vừa học , rất vất vả, có những đêm, chân đưa võng cho con ngủ, tay cầm sách học, đến gần sáng mới đi ngủ, vừa chợp mắt, con đã thức dậy đòi sửa, vì vậy , mẹ càng ngày càng gầy ốm .... nhưng mẹ phải cố gắng, vì mẹ linh cãm rằng, đời mình, rồi sẽ hiu quạnh như một sân ga vắng bóng con tầu...

Mỗi ngày như mọi ngày, phải đến trường học, rồi vội vả trở về, đi chợ, phụ với bà bếp lo cơm nước cho cả nhà, quần quật ngày nầy qua ngày khác, vậy mà mẹ của người ấy không hiểu cho, còn nói xấu mẹ với người ấy :
- Mỗi ngày, mầy vừa ra cửa đi làm, là nó xách xe đi mất, chừng mầy sắp về, nó mới mò về !
Bà còn nói với người bếp:
- Tao làm cho con nầy văng tao mới nghe !
Bà thường hay dấu chén muỗng, rồi phao du cho mẹ làm mất, hoặc có ngày, người bếp vắng mặt, bà khóa cửa rào, không cho mẹ vào để kịp lo cơm nước cho gia đình .

" Bởi số ? Chạy sao cho khỏi số !
Lụy người, nên nổi phải chìu người "
Rồi một ngày gần cuối năm, mẹ được biết một cách chính xác là người ta đã có con riêng ....
Buồn quá con nhỉ ? !
Mẹ đang mang tác phẩm thứ ba, giây phút bất thần đó mẹ không còn đủ sáng suốt, mẹ đi phá bỏ cái bào thai đang mang, oằn oại vì hậu quả của một cơn điên rồ, giờ giao thừa đến, tiếng pháo nổ đánh thức mẹ dậy, sau hai ngày nằm mê man trên giường bệnh.
Những ngày đầu năm buồn lê thê ở bệnh viện, " những mình nào biết có xuân là gì ! "

" Tôi có chờ đâu, có đợi đâu,
Ai đem xuân đến gợi thêm sầu
Với tôi, tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau "
Rồi một tuần, sau ngày ra bệnh viện, mẹ được biết, " họ " đang bắt đầu với một phụ nữ khác, mẹ đành mang hai con ra đi . Họ lại đi tìm, và nói với mẹ rằng:
- Anh "đi" là để tự tìm hiểu lòng anh, nhưng sau khi "đi" rồi, anh mới cảm thấy là anh thương em nhiều nhất. Em ráng chờ anh dứt khoác với người đàn bà đó ...

Nhưng, ngày người ta lên một địa vị cao sang, người phụ nữ có diễm phúc về tư dinh để sống với họ, không phải là mẹ, mà là người yêu mới của họ ....
Thế là, " tình không biên giới ! Anh ở cao sang, còn em, phải đa mang số kiếp phong trần ", sống lần lựa theo ngày tháng đầy cô đơn, nhục nhả, với hai đứa con còn thơ dại ...
Lam Hồng yêu của mẹ, chắc Lam và Hồng đã biết người ta đó là ai rồi, phải không các con ? !
Con ạ, có đáng buồn cho duyên số của mẹ không, hở con ?
Mẹ nghĩ rằng, danh dự của người phụ nữ là đời sống tình cảm, vì vậy, dù bị ray rứt, dày vò, mẹ vẫn cố gắng chờ đợi, mẹ không muốn có nhiều chồng, với một lũ con hoang. Thuở còn con gái, mẹ hằng mang một hoài bão về sự nghiệp, nhưng, vì lỡ " yêu một phút mà để sầu trọn kiếp " .

Một buổi chiều, vừa nhớ thương, vừa bực tức, mẹ đánh liều, mò đến tư thất cha con, người lính gác cửa không cho mẹ vào, còn nói:
- Bà lớn ở nhà nầy khó tính lắm, ai vào bà phải đồng ý mới được, nhưng ông nhà dặn chúng tôi đừng cho cái cô đi xe Honda đỏ vào !
Mẹ cố năn nỉ, nhưng họ vẫn không vô thưa, bực mình quá, mẹ tông cửa, chạy vào đến hàng ba nhà, cha con ra, đuổi mẹ về, và nói :
- Giữa tôi với bà hết rồi ! bà đừng hy vọng nữa ....
Cha con lập đi lập lại nhiều lần câu nói đó.
Mẹ nín lặng, mắt mở to hơn, đầu óc cứ trống trơn....

" Văn chương , chữ nghĩa, chỉ là những dòng chữ chết, nó không thể nói lên hết được những gì lòng người muốn nói "
Thời gian... chờ đợi .... để rồi.... " như dã tràng xe cát lấp biển đông ! "
Tình vài năm, chỉ còn lại hai con thơ ....
Yêu đến mấy, để mang buồn nguyên kiếp !
Bây giờ, trước mặt mẹ, cả một quãng đường dài, cả một quãng đường rộng thênh thang, vắng vẽ, cô đơn, mà mẹ là kẻ độc hành ... , không ! còn có cả hai tâm hồn thơ dại, vô tội, các con của mẹ, mà đứa lớn thì bị tê liệt một chân, sau cơn nóng sốt bình thường, vì trước đó, sắp đến kỳ thi, bận học quá nên mẹ chưa kịp mang đi chích ngừa, còn đứa nhỏ, sau khi chích ngừa tê liệt, lại bị bệnh kinh phong, không biết rồi tương lai của nó sẽ ra sao !

Các con yêu của mẹ, bằng ấy nổi khổ, làm sao mẹ có đủ can đãm dấn bước nốt đoạn đường còn lại, con nhỉ ?
Đến đây, có lẽ các con tưởng rằng, đã chấm dứt những gì cay đắng trong dĩ vãng của mẹ rồi ? Không đâu con ạ !
Một buổi tối, cha con quay về nhà cũ, nơi mẹ con mình, và bà nội của các con đang ở, với vẽ mặt hằn học, với lối nói cộc cằn, như tát nước vào tai mẹ :
- Tôi cho bà một trăm ngàn đồng, bà muốn làm gì thì làm, nhưng với điều kiện là bà phải viết tờ cam đoan để yên cho tôi sống với ai tuỳ ý !

Rồi suốt một tuần lễ, chiều nào cha con cũng trở về, lặp lại nhiều lần câu nói thúc giục mẹ làm tờ cam kết đó. Ban đầu, mẹ cứ ngỡ là cha con nghe ai nói thêm bớt điều gì, khiến cha con giận, nhưng đến buổi tối cuối cùng, khoảng mười giờ hơn, cha con lại gọi điện thoại về . Thoạt nghe tiếng chuông reo, mẹ đang ngồi với một niềm chua xót dày vò trong lòng, mặc dù trong thâm tâm mẹ, mẹ vẫn còn một chút hy vọng, là cha con chỉ nói suông trong lúc bực mình thôi, cho nên, khi nghe cha con gọi giây nói về, mẹ hơi mừng, tưởng là cha con đã hối hận về ý nghĩ tàn nhẩn đó nên.... nhưng giọng nói của cha con trong điện thoại cất lên thật êm ái:
- Châu đó à ? Anh thấy không thể tiếp tục được nữa, Châu làm giấy để hai đứa nhỏ lại rồi đi. Không phải anh muốn vậy, nhưng...

Tim mẹ như ngừng đập, mẹ có cảm giác như vậy. Trong khoảnh khắc đó, mẹ muốn lăn đùng ra chết một cách bất đắc kỳ tử ! Không có một thứ văn chương chữ nghĩa nào có thể diển tả lên được cái nổi đau đớn dày xéo trong tâm tư của mẹ lúc ấy con ạ !
Buồn làm sao là buồn ! Tại sao cha con có thể tàn nhẫn đến như vậy ? !
Mẹ ném điện thoại, ngã vật ra, khóc thảm thiết, như người ta vừa hay tin người yêu của mình chết !

Hết rồi ! Cả một toà lâu đài lại xây nhằm trên bải cát ! Mấy năm dài đăng đẳng, bao nhiêu đau khổ tủi nhục, mẹ vẫn cố gắng, cố gắng, để mong có một ngày đẹp trời nào đó, người ta, cha của con, người yêu của mẹ, hiểu được tình của mẹ, tâm hồn của mẹ, mà cho mẹ cái diễm phúc được mang tên... bà Lê Thế ! Chao ơi ! Chỉ bốn lời nói đó mà mẹ đã phải đỗ ở đấy quá nhiều đau khổ và nước mắt .... Mà thôi, nói làm gì .....
" Dò sông, dò biển, dễ dò

Nào ai lấy thước mà đo lòng người ! "
Mẹ bổng nín lặng, và đi lấy giấy mực ra để viết tờ cam đoan:
Tờ cam đoan
Tôi ký tên dưới đây là NGUYỄN Thị Hàn Châu, 26 tuổi, sinh viên ban cao học kinh tế và triết học, thẻ căn cước số 321.427 cấp tại quận V Sài-gòn ngày 14/11/1964 , hiện ngụ tại số 02 đường Hải Hưng, quận 3, Sài-gòn,
Có nhận của ông Lê Thế tấm chi phiếu một trăm ngàn đồng, mang số LT/4750 , về khoảng tiền mua bán câu chuyện tình giữa tôi và ông Lê Thế đã xãy ra 5 năm qua.
Sau khi câu chuyện tình nầy được mua bán sòng phẳng, tôi cam đoan để yên cho ông Lê Thế mặc lòng ăn ở, giao du thân mật với bất cứ người đàn bà nào khác tuỳ ý, tôi không được khuấy phá hay làm khó dễ.
Ngoài ra, tôi còn phải giao hai đứa con chung của tôi với ông Lê Thế, mang tên:
- Lê Như Lam, 4 tuổi
- Lê Như Hồng, 3 tuổi

để ông Lê Thế nuôi dưỡng. Việc giao hai đứa con nầy chỉ xãy ra sau khi ông Lê Thế cấp một vé máy bay khứ hồi, cho tôi xuất ngoại . Mọi việc, nếu sau nầy xãy ra không đúng với những lời cam kết của tôi trên đây, thì ông Lê Thế có toàn quyền nhờ pháp luật can thiệp, tôi xin chịu mọi hậu quả .
Tôi làm tờ cam đoan nầy theo lời yêu cầu của ông Lê Thế
Sài-gòn, ngày 17/06/1968
Ký tên
NGUYỄN Thị Hàn Châu

Mưa tầm tả, mẹ chạy Honda đến trước tư dinh của cha con, người mà mẹ yêu và đã đặt trọn cã hy vọng, tương lai, và tâm hồn của mẹ ở đấy. Người lính gác hé cửa ra nhìn, thấy mẹ, vội khép kín cửa lại, và nói với ra:
- Xin bà thông cảm, ông dặn chúng tôi là không cho bà vào, mong bà ...
Mẹ im lặng, trao qua khe cửa phong thư trong đó có đựng tờ cam đoan cho người lính, rồi quay xe đi .
Mưa vẫn tầm tả đỗ.... Mẹ cứ cho xe chạy thật mau, hết tốc lực, từ con đường nầy sang con đường khác, với những suy tư âm thầm, pha lẫn những ký ức hổn loạn:
- Thế ơi ! mưa lạnh quá !
- Thế ơi ! sao anh dã man với em đến như vậy ?
- Trời ơi ! con có làm gì nên tội ? !
- Thôi là hết ! Xin vĩnh biệt tình yêu nầy !

- " Người ta không nói tạm biệt với tình yêu bao giờ, mà vĩnh biệt ! Xin vĩnh biệt tình yêu nầy ! Kể từ đêm nay, mái tóc anh sẽ mãi mãi không còn đặt trên bờ vai em...
Tờ lịch hôm nay sẽ là tờ lịch cuối cùng của tình yêu em dành cho anh. Ngày mai, khi trời sáng, khi ngày dựng lên, những dấu chân anh, và cả dấu chân em nữa, sẽ mãi mãi đặt lên những con đường khác nhau....

- Người ta thường cầu xin, khi tình yêu đang đi vào tuyệt vọng, đang đi vào trong giây phút khổ đau tận cùng, người ta thường cầu xin cho tất cả cũng sụp đỗ hết trong một đêm, mọi hiện hữu, xin được xoá bỏ hết, tình yêu đã tan vỡ thì xin hết thẩy cũng biến thành hư không, kể cả những kỹ niệm, những vòng tay ôm, những nụ hôn, những quấn quít cuả hai thể xác, những giấc mơ, những mộng tưởng, những buồn vui, những tiếng cười, những giọt lệ một đời .... Đó là những xâu chuổi kỹ niệm óng ánh, mà đôi khi, người ta muốn lưu giữ trong đáy cùng trí nhớ, như một rừng hoa thơm ngát, trong một góc vườn kín khuất của tâm hồn, nhưng, trong một phút đau khổ ngút ngàn, người ta lại muốn chôn vùi tất cả .... "

- Anh là gì ? Mà sao... hôm anh đến, muôn vì sao đua mọc, mặt trời lên ươm nắng giữa đêm thâu ! Anh là gì ? Mà sao... buổi anh đi, ngàn mây xanh bổng xám, em nghe hồn rơi xuống vực thương đau !
- Xa anh rồi... lạnh môi, cười tê giá ! Bão táp về tàn phá trái tim khô .....Em hỏi lòng, không biết đến bao giờ ? Mới tìm lại chút yên bình thuở trước...
- " Không làm sao định nghĩa được tình yêu, đó là hạnh phúc, là những ước mơ, là những thương nhớ triền miên, là mật ngọt, là mộng ước, là tiếng cười, là xót xa, cay đắng, là tức tưởi, nghẹn ngào, là khổ đau dằn vặt .....
Nhưng rồi , người ta vẫn sống, vẫn yêu, dù qua bao lần đắng cay, tan vỡ ....
Như bầu trời, dù qua nhiều cơn giông tố, vẫn xanh ..... "

Trở về nhà thì đã quá giới nghiêm, mẹ cứ đứng thẩn thờ, không biết phải làm gì, bỗng nghe tiếng kèn xe cha con ngoài ngõ, cha con về ! Mẹ sung sướng ! Tội nghiệp cho lòng dạ đàn bà ! Nhất là thứ đàn bà nhẹ dạ, dễ tin, và hay sống lưng chừng trong tháp ngà lý tưởng, như mẹ !
Đêm đó, không ai nói với ai nửa lời, dù vậy , mẹ vẫn cố gắng đóng trọn cái vai trò của mẹ. Mẹ lại tưởng rằng cha con đã thay đổi. Nhưng, chiều hôm sau, cha con mang về trao cho mẹ tấm chi phiếu 100.000 đồng !
Mẹ không còn khóc được nữa. Ngồi im thật lâu, mẹ mới mở miệng, với một giọng rất là êm ái, êm ái như cái giọng nói của cha con tối nào:

- Cho đến bây giờ em mới hiểu đàn ông là như thế nào thì, đã hết rồi ! Lớn lên, em mang cái tư tưởng bi quan, hiểu mọi người qua tâm hồn mình, cái tâm hồn quân tử tàu, lúc nào cũng ráng hướng mình đến những ý tưởng cao thượng. Em cứ tưởng, ai cũng vậy, đàn ông hay đàn bà, khi yêu ai rồi thì chỉ biết có mỗi mình người mình yêu thôi, và một lúc, không thể yêu hay lấy nhiều người, vì em nghĩ, có yêu thương tha thiết mới ăn ngủ với nhau được . Anh đâu biết , em là một phụ nữ rất đa cãm. Ngày xưa, em nghĩ, em sẽ không yêu thương như thường tình con người. Trời sinh em ra với một tâm hồn khác lạ hơn mọi phụ nữ chung quanh, em không thích đóng cái vai trò của một người đàn bà đầu tắt mặt tối, suốt ngày chỉ quanh quẩn trong xó bếp, lo cho chồng cho con, mà em muốn làm một cái gì .... cho những kẻ bất hạnh, những đứa trẻ mồ côi, những kẻ khốn cùng, đang bị bỏ quên ở một góc trời nào đó, trong cái xã hội loài người văn minh, tiến bộ, giàu sang nầy, để họ có thể sống một cách xứng đáng là một con người, và là một con người hữu ích cho xã hội mai sau !

Gặp anh, những gì anh đã nói làm em sung sướng, tưởng rằng mình đã gặp được một thần tượng lý tưởng rồi , cho nên, em đã đến với anh với tất cả, tất cả những tình cãm chân thành, tha thiết, mà em có. Chính vì quá yêu, mà mỗi khi hay tin anh đi với một phụ nữ khác, em đã điên cuồng, có những hành vi làm anh phiền, như bỏ nhà nhiều lần, mang con về với mẹ mình, rồi đi lang thang ngoài phố, tránh gặp anh khi anh đi tìm .... Nhưng những hành vi đó chỉ xảy ra ngay cái giây phút quá thất vọng thôi, còn thì, em vẫn luôn luôn xử sự một cách quân tử. Chắc anh còn nhớ hôm ở Cấp ? Sau một năm hơn, em cố gắng đối xử đẹp với Hoa, khuyên cô ấy, và nhờ mẹ cô ta khuyên nhủ, nhưng, cho đến ngày em bắt gặp hai người cùng nằm ngủ với nhau trên một cái giường đặt ở ngoài sân nhà người quen của anh, em quá tức nên mắng cô ấy mấy câu, cô ta ngồi khóc, em lại ngồi dỗ cô ta nín, rồi xin lỗi đã làm phiền hai người, và ra về. Thử hỏi, trên thực tế, có người đàn bà nào hành động đẹp hơn nữa không ?

Chắc anh còn nhớ đêm anh đưa em và con đến tư thất của anh ? lần đầu tiên, từ ngày anh lên địa vị cao sang, sau hơn một năm, anh mới ban cho mẹ con em cái ân huệ được đến nhà anh ăn cơm chiều ở đó. Nhưng vừa đặt chân vào phòng khách, em đã bắt gặp ngay tấm tranh chân dung của Hoa treo trên tường giữa nhà, rồi, khi vào phòng ngủ của anh, thư anh viết gửi cho Hoa, khi Hoa đang đi du lịch bên Mỷ, bằng những lời lẽ nồng nàn, khiến cho em tối mặt, trong một phút quá đau khổ, em úp mặt xuống giường khóc nức nở, anh đã nói gì chắc anh chưa quên ? :
- Bà đừng khóc nữa, bà càng khóc làm tôi càng ân hận đã lấy bà !

- Giữa tôi với bà đã hết rồi ! Bà đừng hy vọng nữa ! Nếu bà còn chút tự trọng thì tự lo lấy thân !
- Tôi có danh dự của tôi, bà có ra gì không mà đòi hỏi ?
Em đã im lặng nhìn anh sửng sốt, và nói:
- Vâng ! Em chỉ là cô sinh viên nghèo ! Nhưng, thiết nghĩ, nếu anh đi ngủ với đĩ, chắc anh cũng có thể âu yếm ngọt ngào được, huống hồ chi em, người đàn bà đã mang cả cuộc đời đầy triển vọng giao phó cho anh, chỉ được anh đáp lại toàn bằng phũ phàng chua chát ! Nếu anh không thể nói lên được một lời an ủi em trong lúc đau khổ như vầy, thì ít nhất, anh cũng đừng nói ra những câu dã man như vậy !

- Hoa có gì hơn em ? Nó lớn hơn em mấy tuổi, nhan sắc thua em, học vấn ít hơn em, nó chỉ là cô thư ký thông dịch viên , làm việc ở một cơ quan của Mỷ thôi !
- à ! có lẽ vì nó nói ngoại ngử giỏi hơn em, nên anh hảnh diện khi đi bên cạnh nó ?
Anh nhìn em, rồi đưa tay kéo em đứng lên, bảo về đi, tài xế sẽ đưa về ! Mặc dù đã nửa đêm rồi. Em năn nỉ anh cho phép em được ở lại với anh, để em được khóc với anh đêm nay, rồi không bao giờ em khóc với anh nữa, nhưng anh vẫn nhất quyết đuổi em về. Em đành bồng con, đứa dắt, đứa mang, thất thểu lên xe cho tài xế của anh đưa về !
Phải chăng ? việc anh mang mẹ con em đến nhà anh đêm đó là một âm mưu anh dàn cảnh thay lời, để cho em hoàn toàn không còn ảo tưởng nữa ?

Mà thôi, bây giờ em đã thật sự không còn chút ảo tưởng nào nữa. Từ đây, dù em phải sống qua từng giây phút bị đau khổ dày vò một cách nặng nề, em vẫn cố gắng hết sức để yên cho anh hưởng hạnh phúc của anh....
Mọi kỹ niệm em sẽ giữ mãi cho đến giờ nhắm mắt ! Chắc rồi, một ngày nào đó, em cũng sẽ phải làm lại cuộc đời dang dở của em....
Hiện tại, em không có một đồng trong người, nhưng em cũng không bán cuộc đời em với bất cứ giá nào ...
Rồi mẹ xé bỏ tờ chi phiếu trước mặt cha con....

Tháng ngày trôi qua một cách nặng nề, mẹ đã sống trong sự hoảng hốt, mất tin tưởng hoàn toàn ở cuộc đời, mẹ sợ bóng tối vô cùng ....
Biết bao đêm dài thức trắng, nằm giữa hai đứa con thơ dại, một tay mân mê phần chân tê liệt của đứa con lớn, một tay vuốt những sợi tóc non mềm của đứa con nhỏ, nước mắt của mẹ cứ tuôn đầm đìa .
Hằng đêm, mẹ niệm cả trăm lần những lời van xin các đấng thiêng liêng hãy ban cho mẹ một giấc ngủ yên lành ! Thực tế đã tái tê, cố tìm quên trong giấc ngủ, nhưng đến khi vào cơn mơ, chỉ thấy toàn kinh hoàng, chua xót, thôi, thà thức giấc để chấp nhận những sự thật phũ phàng !

Con yêu của mẹ, người ta có thể chạy trốn nợ, người ta có thể chạy trốn tù đày sau một lần phạm trọng tội .... nhưng, có lẽ ? người ta không thể chạy trốn được định mệnh của mình con ạ !
Sức người có hạn, cuối cùng, mẹ phải vào bệnh viện .
Hết cả rồi phải không con ? Bây giờ, mẹ không còn ảo tưởng nữa, mẹ đã hiểu định mệnh của mình rồi .....
Năm năm dài trôi qua một cách nặng nề, đầy đau thương.
Mùa xuân thứ nhất mẹ gặp cha con khi đời mẹ còn tràn đầy hy vọng.
Mùa xuân thứ hai, mang thai đứa con đầu đời, nằm cô đơn trong một căn nhà vắng vẻ, xa gia đình, xa tất cả những người thân yêu, cha con thì viện cớ là sợ bà nội con phiền nên không đến với mẹ được. Mẹ chỉ biết nằm xoa bụng thở dài, mơ đến ngày con ra chào đời, và mẹ con mình sẽ được sum hợp với cha con trong một mái nhà êm ấm .... Rồi, mùa xuân thứ ba lại đến trong buồn tủi, Lam thì còn thơ dại, Hồng thì còn nằm trong bụng mẹ, theo những dòng nước mắt tuôn dài, mẹ vẫn còn mơ ước....

Đến mùa xuân thứ tư, tiếng pháo giao thừa đánh thức mẹ dậy sau hai ngày đêm nằm mê man trên giường bệnh viện, oằn oại vì một phút nông nổi, hờn giận cha con, mẹ xin phá thai ở một bà lang băm nào đó, do cô bạn Phương của mẹ hướng dẫn.
Mùa xuân thứ năm, mùa xuân cuối cùng ! cha con đã sống hẳn với người yêu mới, chiều cuối năm, cha con trở về thăm bà nội con, sắp giao thừa, cha con quay về với người yêu, mẹ xin cha con ở lại với các con đêm nầy, để có được một mùa xuân đoàn tụ, rồi mẹ con mình sẽ vĩnh viển chia ly với cha con, nhưng cha con nhất quyết không chịu, mẹ cản lại, và cha con đã đánh mẹ ba cái tát tai để làm quà xuân cho mẹ, mừng giao thừa !
Những ngày đầu năm mẹ đã chui trốn ở nhà một cô bạn với gương mặt sưng bầm !
Mẹ bây giờ không còn mơ ước đến một mùa xuân nào nữa con ạ ! Vì mẹ đã cãm thấy cái thân phận của một con cá chìa vôi mà tạo hóa đã dành cho mẹ rồi !

Sáu năm trường mới có một lần thi, thế mà, con cá chìa vôi bạc phúc nầy vẫn không nhảy qua được bức tường ngăn cách để thành rồng !
" Đường về nơi ấy không ngàn lý
Mà chẳng làm sao được vẹn nguyền ! "
Lam Hồng yêu của mẹ,
" Con tim nức nở, tê dại, bơ vơ, cuối cùng, mẹ lại phải trở về với bóng đêm, với những mộng tưởng hão huyền.
Những ngày mới lớn, cái buồn như một món ăn, buồn như một giải trí, buồn như một bài thơ, buồn như một bông hoa ....
Bây giờ, buồn như một cuộc đời, như một định mệnh ...

Có những lúc mẹ muốn dứt bỏ đi mọi suy tư, mọi ray rứt, mọi phi lý của cuộc sống, để chỉ làm những hành động có nghĩa, rồi thôi, rồi tìm lại sự thanh bình cho tâm hồn, để chỉ nói những lời nhẹ như thơ, êm như gió thoảng, vì nó từ rung động thật của tâm hồn .
Mẹ muốn sống thực con người, con người nguyên thủy, từ bỏ đi con người giả tạo mà cuộc đời đã dựng ra cho ta phải sống .... "
Có những đêm không ngủ được, thật buồn, như người nghiện nhớ điếu cần sa, mẹ cũng cãm thấy thèm một chút hơi ấm, một vòng tay ôm, cho lòng mình dịu lại, để có thể đi vào giấc ngủ một cách bình thường, và có thật nhiều giấc mơ đẹp.....nhưng, nghĩ đến ngày phải tiếp nhận một thất vọng khác, mẹ sợ mà không dám bắt đầu.
" Chim bị tên một lần thì sợ cành cong ! "

Đời đã buồn nhiều rồi, mẹ không còn tha thiết với bất cứ mối tình nào nữa, không phải vì mẹ còn " hoài vọng " , mà vốn dĩ trời sinh mẹ ra với một tâm hồn khao khát tự do và những chân trời cao rộng, lúc nào mẹ cũng mang cái tâm trạng của một cánh chim trời, muốn vùng vẫy ....
Rồi, " sau những ngày bay nhảy, sẽ đậu xuống một nơi chốn cố định, và đám mây sẽ thôi bay đi, ngọn gió thôi thổi tới, dòng sông chảy ra đại dương, đời mình, mong muốn trở lại một dòng sông bé nhỏ của đồng nội mênh mông ...."

Ước mơ của mẹ bây giờ không phải là một giấc mộng vàng son hoa gấm, mà làm sao, làm sao có thể quên được cái quá khứ đau thương, đầy nước mắt của mẹ, với những kỷ niệm buồn ray rứt ....
Lạy Thượng đế, xin người hãy ban cho con thêm nhiều nghị lực hơn, để con có đủ can đảm đi nốt quãng đường còn lại .....


Thương Hà
Tháng giêng năm 2006

Hansy
14-09-2014, 07:16 AM
43.

ĐỖ RỒI GÓP LẠI CÒN CHI

Ấu Tím

Khi tất cả đã trở về yên ắng, những tờ hóa đơn từ văn phòng luật sư không còn gởi về nữa, những giằng xé chia chác đã xong, căn nhà còn lại không gian trống rỗng, là lúc nghĩ lại, là lúc hiểu chả ra sao cả, chẳng là gì cả. Ý nghĩa về sự chia tay cũng không có, cạn tàu ráo máng cũng chẳng phải, chỉ là cho bõ ghét, cho biết tay.

Để chẳng còn gì, chẳng còn gì.
Chiều đang xuống, bóng hoàng hôn ngả dần, màu của mây hồng phơn phớt pha vài dải trắng đục, xanh, đen, trộn tất cả lại thành màu tím thẫm, màu cẩm, màu thênh thênh buồn, cái buồn lạnh lẽo tẻ nhạt. Cánh cổng im ỉm đóng, thớ gỗ cũ đậm màu xỉn mốc, không có lớp sơn nào bao bọc, để chống chọi với thời gian. Chiếc chuông đồng không còn óng ánh mượt mà, chả còn ai nghĩ đến chuyện đánh bóng cái chuông đó nữa, nó chỉ làm một việc bật lên tiếng leng keng khi có ai bên ngoài, nắm vào cái khuyên, cũng được làm bằng đồng mà kéo. Cái khuyên vừa đủ cho một bàn tay nắm, để giật sợi dây, nối với chiếc chuông nằm giấu bên trong cánh cổng.

Người đàn bà ngồi dõi mắt nhìn đám mây thênh thênh buồn ấy. Nếu không có những sự việc chồng chéo đã xảy ra, giờ này bà không ngồi nhìn mông lung như thế, cái bếp đang lao xao lửa, nồi cơm điện đã chín, bữa cơm đã xong. Món xào, món mặn, món canh, ba món bắt buộc không thể thiếu trên bàn ăn, dù nhiều hôm chỉ là một tô mì gói, đổ đẫm nước sôi, trang điểm thêm vài nhánh rau xanh làm dáng.

Câu chuyện không đầu đuôi theo buổi chiều đang tan, lúng liếng nhảy múa trong cái bóng của chiếc phong linh làm bằng kim loại, rọi lên bức tường trước mặt. Căn nhà nhỏ khuất trong góc một khu cư xá xinh xắn, chiếc cổng kề với bức tường xây, ngăn tiếng động xe cộ ồn ào giờ đi làm và giờ tan sở, còn lại là sự im ắng vô tình.

Tình đầu hay tình cuối bây giờ chẳng còn gì để phải thắc mắc, một thuở tóc thả thề hứa đã tan, bây giờ tóc phai lời hứa thề cũng mãn. Chẳng còn thần thánh nào níu kéo lại được linh hồn héo rữa, chẳng còn thiên đàng địa ngục nào, khiến phải thèm muốn hay sợ hãi để lánh xa. Địa ngục đã ngay trước mặt, trong cõi cô đơn bóng tối không cùng.
Ngạc đã ra đi, căn phòng màu vàng nhạt, úa rũ mùi ẩm mốc lạnh tanh. Chiếc bàn viết bằng gỗ bồ đào màu đỏ có vân đen bóng, chiếc ghế dựa thờ ơ quay mặt ra cửa sổ, khung cửa là một tác phẩm nghệ thuật bằng kim loại, những thanh sắt mỏng được uốn thành hình vầng trăng khuyết, lơ lửng treo trên nhánh lá trúc, cũng được làm bằng sắt. Khung cửa sơn đen, chiếc màn voan mỏng tanh màu khói hương bay nhẹ khi gió lùa vào. Ngạc yêu nghệ thuật, yêu những chi tiết chi ly hài hòa, cũng như Ngạc yêu đàn bà, những mùi phấn hương khác biệt luôn kích thích nơi anh sự tìm kiếm.

Hai mươi tám năm, sau ngày ký hôn thú trong tòa án quận hạt, tờ giấy xác nhận hai người đã trưởng thành tự nguyện sống chung với nhau, chia thịnh vượng cùng gian nan không điều kiện, cũng đã được hủy bỏ tại tòa án quận hạt.

Hai mươi tám năm trước, Ngạc lúng túng trả lời “I do” trước mặt ông tòa người ngoại quốc to lớn vạm vỡ, bộ râu quai nón che bờ môi mỏng, lúng túng lồng chiếc nhẫn vào ngón tay Ý. Lần này văn phòng luật sư hoàn tất thủ tục ly hôn, đương đơn và bị đơn chẳng cần làm gì cả, giấy tờ có đóng dấu ký tên. Xong.
Xong một đoạn đời.

- Ý ạ, không có em anh sẽ không sống được, trời mây có nhau, cỏ cây có nhau anh phải có em.
- Tại sao là em?
- Em hiểu anh.
- Hiểu điều gì?
- Hiểu điều anh muốn em hiểu.
- Thí dụ!
- Anh cần em.

Và rồi, ‘anh chẳng cần em’ những đi về bất chợt, những mùi thơm dị thường, sợi tóc lạ vương vất, màu son môi bất kỳ. Chỉ một điều không thay đổi là sự ngọt ngào âu yếm, tay choàng vai gối khi ngả lưng nhắm mắt, mùi mồ hôi hăng hăng, lẫn mùi dầu điệu đàng sau khi tắm, mùi của thông.

Tình yêu xác thịt hay tình yêu của trái tim, Ý không là người của nghiên cứu, cũng không thích phân tích tâm lý, chẳng là thượng đế để biết xác thịt trước hay trái tim trước, hai điều lẳng nhẳng lằng nhằng, ghen tương bóng bẩy, rồi lại hai nên một sau vài câu cãi cọ nhẹ nhàng.

- Mùi chanel. 5 không phải của em. Ai?
- Chẳng ai cả, con bé bưng cà phê tẩm nước hoa, hương của em hữu xạ.
Anh nhẹ nhàng ôm Ý vào lòng, cụng nhẹ vào trán, hai đầu mũi xoa nhẹ nhau, nói tiếp:
- Anh yêu em từ mùi hương của sả, hương của cỏ, hương của lá rau mùi, thèm hương em cuối ngọn gió, mê hương em đêm thần thánh thâm sâu.
Lời nói không mất tiền mua, để con tim thua thân xác, để người đàn bà thành con giun dại dột dưới sáu tấc đất đào bới hang hốc tình yêu chia năm xẻ bẩy, xem cái hốc nào là phần của mình.

Người đàn bà tên Ý là thế, tôn trọng nghĩa vợ tình chồng, ‘đàn ông thê thiếp bảy ba, đàn bà gom cả thế gian thờ chồng’ giống mẹ, người vợ lẽ thứ ba của ông thầu khoán có sáu bà vợ. Vợ cả mang trầu cau xin cưới vợ lẽ cho chồng, các bà sống cạnh nhau trong khu phố riêng biệt, có tường cao, cổng kín, gồm tám căn nhà hai tầng do ông xây dựng, những căn nhà không có bếp. Căn bếp chung thật to có lối đi lát gạch tàu ngang gần hai thước, dài hơn năm thước, băng ngang qua chiếc sân rộng, có lợp mái che tạo thành hình chữ U nối vào căn nhà cuối dẫy hướng tây, được ông cụ dùng làm phòng ăn cho cả gia đình, khi có ông hiện diện. Không có ông, các con ăn cơm với mẹ ruột trong gian nhà riêng của mình. Cái bể gạch chứa nước mưa cao ba mét, bề rộng hai mét, bề ngang nhỉnh hơn bề cao cả thước, sừng sững một góc sân hướng đông, khuất sau nó là chiếc sàn nước to, tráng xi-măng là nơi giặt giũ phơi phóng. Thuở vừa lớn, hình ảnh những chiếc tã vải màu trắng, hình tam giác bay phất phới, bên những chiếc chiếu hoa cạp điều đập vào trí óc non nớt của Ý hình ảnh sự sinh sản của cỏ gà, nơi nào chúng cũng mọc lên được, cái đầu mạnh mẽ của cỏ là đồ chơi thú vị cho Ý và các anh trai, sau này nó truyền xuống các em. Chiếc sân chơi đầy cỏ gà len lỏi vào các luống rau, chậu hoa, Ý hái cả nắm rồi chia phe, quất ngọn cỏ gà qua lại, cho đến khi cái đầu gà bị rụng. Phe bị thua uất ức khóc, chạy đi mách mẹ, lúc ấy cái sàn nước thành nơi xử phạt, các bà mẹ bênh con sẽ nói chuyện với nhau. Lũ trẻ khóc xong lại hòa, cái sân rộng lại vang vang tiếng đùa vui thân thiết giữa những đứa trẻ cùng cha khác mẹ.

Trong cơ ngơi bề thế ấy, khi có mặt của chồng, của bố, nhà bếp là nơi xôn xao nhất. Lên mười tuổi, Ý đã được các bà mẹ cho phép dọn cơm. Cảm giác vừa lo lắng, vừa thích thú vì mình quan trọng hẳn lên với tô thức ăn còn bốc khói trên tay, đi từ tốn ngang qua bức tường hoa thiên lý mẹ nàng trồng, phân chia sân chơi và lối đi, trong khi các em phải ngồi im thẳng thắn hai bên chiếc bàn hình chữ nhật với bố. Lần đầu dọn bàn ăn, bố khen: “Con gái có khác.” Con trai không ai đươc bén mảng vào bếp, ngoại trừ chạy vào xin thêm thức ăn mình thích, ngay cả bố cũng thế.

Buổi chiều sau bữa ăn, ông bố thường ra ngồi trước hiên hóng gió, mẹ Cả ngồi bên cạnh, Mẹ của Ý ngồi kề bên, Mợ Hai ít chuyện thường ở trong nhà đan lát, Mợ Tư lăng xăng nấu chè, làm bánh, cho chồng uống trà, cho lũ trẻ ăn vặt, nên thường trụ trong bếp nói vọng ra. Vắng mặt Mợ nào thì lý do ở cữ là thường nhất.

Ngôi nhà riêng của ông bố, căn thứ ba từ hướng mặt trời mọc đếm qua, là nơi Ý hay mon men lẻn vào, ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế mây tròn hàng giờ để đọc sách. Ông cụ thích sách, những quyển sách tiếng Tây, đến sách tiếng Nôm đóng gáy da chữ mạ vàng chất trong chiếc kệ cao gần đụng trần nhà, cả bộ truyện cuả nhóm “Tự Lực Văn Đoàn” Khái Hưng - Nhất Linh - Thạch Lam không thiếu. Sách hình, màu sắc tuyệt đẹp ông xếp dưới tầng thấp nhất cho các con vào đọc. Dáng ông cao to, giọng nói sang sảng. Ông chẳng hề thắc mắc chuyện sáu bà vợ có ghen tương, có thù vặt nhau chăng, mọi việc đã có Mẹ Cả lo, từ tiền hàng tháng, đến chuyện nấu nướng chợ búa. Mẹ Cả hiền lành không bao giờ to tiếng, mà năm bà sau răm rắp nghe lời. Ý nhớ Mẹ Cả nói đã lâu lắm, ngày Ý vừa lớn, khi mợ Năm, mợ Sáu gấu ó nhau:
- Hai em ạ, ganh tị nhau được ích gì, đàn ông như cây gậy ăn mày, đụng đâu xâm đấy.

Đàn bà mình nương nhau mà sống, đã chấp nhận ông ấy, thì phải chấp nhận cái gậy quơ quào đủ nơi, chị thương các em, mang các em cùng về hưởng cái lộc ông ấy có, cho các con nó biết gốc rễ từ đâu, khỏe như ông ấy con vãi muôn nơi, không gom lại sợ mai hậu anh em cùng máu mủ lấy nhau không biết.

Thầu khoán thuở ấy giầu có muôn vạn, tiền bạc đếm không hết. Mợ Sáu trẻ hơn Ý vài tuổi, người miền Nam, ông cụ thầu công trình xây dựng trường tiểu học, gặp cô giáo trẻ, không biết ông có ma lực gì mà cô dâng cho ông đời con gái không tiếc. Mẹ Cả nghe cô có thai, cùng mẹ của Ý xuống tận nơi xin cưới. Trước ngày đón mợ Sáu về, Mẹ Cả dọn sang căn nhà đầu khu phố phía đông, nơi có bàn thờ tổ tiên ở tầng trên, không ở sát vách nhà với ông cụ nữa, Mẹ Cả lấy lý do mợ Sáu còn trẻ chăm sóc ông cụ dễ hơn bà.

Càng lớn Ý càng hiểu ra con người có nhiều sự chọn lựa, trong các mức độ khác nhau, kẻ ham danh vọng, người thèm ăn uống, kẻ mê man sắc, người khao khát tiền, sự trao đổi qua lại giữa những ham muốn này mà thành ‘khu phố tám gian’ tên người ta đặt cho khu nhà của gia đình Ý.

Ý không đọc được gì sau năm khuôn mặt phụ nữ nàng phải đối xử như đối xử với Mẹ ruột của nàng. Nhưng nàng đọc được từ Mẹ người mang nặng đẻ đau ra mình, một đời nhẫn nhịn, một đời câm nín, một dạ thèm thuồng chiếm đoạt cho riêng mình người đàn ông của chung. Nàng nghe tiếng thở dài, nghe câu thở than đau bụng ngày có tháng, cảm nhận hơi nóng cánh tay của mẹ choàng ôm ngang bụng đêm mưa lạnh, sau ngày đón mợ Sáu về, ắt hẳn bà đang đọc thầm tứ thơ “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung, kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng.” (1) Trước đó, mẹ chẳng thể nào giấu nàng ánh mắt như cười của bà, khi nàng từ trên gác bước xuống, bắt gặp cha mẹ cùng ngồi ăn sáng.
Ý đã từng ước ao vượt qua khỏi ‘bức tường tám gian’ khi nàng thành niên, đi thật xa để tránh người cha to lớn, to lớn đến nỗi thành sự sợ hãi, ngăn các con đến gần. Nàng không biết ông có nhớ hết tên các con ông đã đặt hay không, dù ông cố tình sắp xếp bằng một bài thơ cổ:

Lương Phong Khởi Thiên mạt,
Quân tử Ý Như Hà.
Hồng nhan Kỷ Thời đáo,
Giang hồ Thu Thủy đa.
Văn Chương tăng mệnh Đạt,
lị Vị hỉ Nhân qua.
Ưng cộng oan hồn Ngữ,
đầu Thi tặng Mịch La. (2)

Năm anh trai lớn cuả nàng Lương – Phong – Khởi – Thiên – Quân sàn sàn tuổi nhau, mẹ cuả Ý bảo: “Ông ấy không kiêng khem cho ai được cả!” Kiêng khem là một trăm ngày sau khi sanh nở, người đàn ông thương vợ không được phép đụng vào sản phụ. Thuở ấy người ta sợ băng huyết, sợ hư tử cung, không tốt cho lần sinh nở kế tiếp, đây là lý do chính khiến Mẹ Cả phải cưới thêm các Mợ cho ông.

Ý là con gái đầu trong gia đình, nên được bố cưng, nhất là sau khi thi đậu tú tài một, ông bắt đầu nói chuyện với nàng nhiều hơn, đọc cho nàng nghe những bài thơ tình phóng khoáng ông dịch từ thơ Pháp, cùng luận bàn về những bài cổ thi. Trong tim ông có lẽ tình yêu không thể định nghĩa được, nó bắt nguồn không từ đâu, chỉ lúc châu thân rạo rực là khi tim ông cất lên tiếng đập nhiệt cuồng của nó. Ý không dám hỏi bố, tại sao trong tim ông cụ, có thể chất chứa nhiều đàn bà cùng một lúc như thế? Có khi nào ông nghĩ đến những người con gái của ông Ý – Như – Hà – Hồng – Thu - Thủy cuả mình, phải chia sẻ một người đàn ông với những người đàn bà khác hay không?

Không hỏi, chẳng có câu trả lời, cho đến ngày người đàn bà tên Ý phải trông ngóng vòi või một mình trong bóng đêm tĩnh mịch, cách “khu phố tám gian” nửa vòng trái đất. Nghe tiếng chuông leng keng, bật mình chạy vội ra mừng đón, mùi đêm ẩm ướt mây vờn mãi trên cao. Chỉ là con mèo khát tình, chân bị vướng toòng teeng trên chiếc khuyên đồng. Những đêm ấy, chẳng cần lục lọi, mà những tờ giấy thảo trên chiếc bàn gỗ bồ đào của Ngạc lên tiếng trêu chọc:

Ôm như mây lạ ôm đồi
Khi trăng ngủ muộn ôm vùi bờ cau
Tựa vai ôm gối thêu nhàu
Ôm ngầy ngật giấc chiêm bao biếng lười
Trùm cơn ngủ lại, ôm môi
Nửa đêm vằng vặc, ôm cười rỉnh rang
Nắng trưa ôm trắng chiều vàng
Ôm mềm mại giấc bình an tháng ngày
Nằm ôm tóc nhớ đời dài
Ôm tay lo sợ nhỡ mai chẳng còn
Vội vàng ôm nụ hôn thơm
Rồi sau đi, ở? Ôm buồn vậy thôi.(3)
Hương như da thơm trong đêm vắng
Huyền như tóc rối dưới nắng mai
Em như đất trời muôn trùng gợi
Ta như ngày tháng cuống quýt trôi
Nằm ôm miệt mài sao vẫn nhớ
Ngồi hôn chất ngất cũng còn xa
Em biếc những tình ca lồng lộng
Từ xưa bát ngát một đời ta. (4)

Những bài thơ đề tặng tên tuổi một người đàn bà nào đó không phải là Ý, và Ý cũng chẳng hề quen biết. Thưở chưa cưới Ý đã được tặng những bài thơ ngồn ngộn đam mê ấy, bây giờ vần đắm đuối điệu si mê, đang lòn lách ra khỏi kẽ vợ, khe chồng sang cho người khác.

Lỗi chẳng từ ai, có lẽ từ sự lạnh lùng thân xác bắt buộc theo thời gian phải xẩy đến cho Ý chăng? Nguyệt đã tận, chẳng còn trăng lên trăng xuống, chẳng còn nước đục nước trong, chẳng còn khi tròn khi khuyết, tất cả trở thành đường thẳng im lìm trên biểu đồ da thịt mỏi mòn. Nỗi đau đớn ngày mảnh xuân thì rách toang thế nào, thì nỗi đớn đau ngày xuân mãn, bị rạn nứt khô cằn cũng đau y như thế. Ý bắt đầu né tránh những vồ vập sau chuyến công tác dài trở về của Ngạc, nói cho chồng nghe điều riêng tư đang đến, những đau buốt châu thân, Ngạc chẳng màng lý đến, chỉ áp đặt kết tội tình yêu đã hết, chán chường dâng cao từ Ý. Thịnh vượng chưa kịp chia, gian nan đời người tội lệ gì mà Ngạc phải chịu, câu chuyện nhạt dần Ý chẳng buồn cất tiếng.

Không biết là may mắn hay bất hạnh, bao lần trái không kết, ngại đối diện sự thật cả hai đều né tránh bác sĩ chuyên khoa. Bây giờ nguyệt đã tàn, tình có tận cũng chẳng đáng chau mày.

Chẳng ai nói ra mà trong không gian đã giăng màn chia cắt, Ngạc xa nhà nhiều hơn, Ý khép kín nhiều hơn, chiếc bóng quen dần với mảng tường màu vàng nhạt, chiếc ghế da êm ái như vòng ôm nhiều lần Ý ngả đầu ngủ thiếp, tấm màn voan mỏng loay hoay với làn gió đêm, đôi khi làm Ý suýt chết ngất vì sợ, nỗi sợ cô độc.

Ý đã viết cho Ngạc tờ thơ, kèm trong chiếc phong bì di chúc, ngoài anh ra ai là người thụ hưởng trực tiếp của Ý nữa đâu!

“Ngạc ạ,
Em chẳng cần gì nơi anh, ngoài một sự chở che ân cần. Anh đã không hề biết gì về gia đình em, “khu phố tám gian” một ông Bố và sáu bà vợ, mẹ em là người thứ ba. Từ thuở biết suy nghĩ về mình, về con người và tình ái, em ước ao mình không phải giống mẹ, tự mình phải đè nén, ngay cả giết hẳn đi cá tính thượng đế đã đặt để cho đàn bà là ghen. Cơn ghen không được phép phô bày giống như những con men làm bánh mì, qua một đêm nổi phồng bật tung cả nắp, giết nó đi những con men ấy biến thành rượu giấm chua.

Theo thời gian, chất cường toan ấy, đốt cháy ăn mòn con người mang nó, tràn qua khoé mắt không là dòng lệ, mà là nỗi nghiệt oan tiền kiếp. Người cha có hơn hai mươi người con, không để lại cho đứa con gái đầu lòng một trái trứng nào, có thể thụ tinh thành nguồn vui thủ thỉ. Người mẹ giết chết cơn ghen, để lại cho con gái đầy chất cường toan ngập ngụa cả lòng. Lý do tại sao miệng em không thể bật lên thanh âm ghen tức, em không thể cương quyết nắm níu giành giật anh, người đàn ông của mình, chỉ nghẹn ngào trong bóng đêm chấp nhận hẩm hiu.

Ngạc ơi! Đi đi anh, thế giới tràn đầy những bông hoa người chờ đón, em đến gần cuối đời mới dám đổ hết chất cường toan trong mình ra, bằng cách chấp nhận mất anh, để chẳng là gì, chẳng ra sao, chỉ cho thỏa cho thoát cái bóng trùm “khu phố tám gian” quá khứ . Sau cánh cổng sắt sơn màu xanh thiên lý, là sáu trái tim cạn máu ghen hờn, cung phụng người đàn ông, em phải cung kính gọi là Cha, người cho em hình hài, nhưng không cho em phần tinh túy bên trong. Đàn bà không biết ghen không là đàn bà, sự thụ động là nét đẹp không hương. Định mệnh nào khiến em gặp anh, người đàn ông tìm kiếm tình yêu giống cha của em, có thể yêu cùng lúc hơn một người đàn bà!

Chất cường toan “không ghen” ấy, tưởng như dễ đổ đi mà không dễ đâu Ngạc! Nó đã kết thành ung bướu trong em, khối ung lấp kín khoang bụng nơi đáng lẽ được cưu mang mầm sống mới.

Em sẽ chết thôi, vì đã ký giấy không chữa trị chi hết, sau khi ký giấy ly dị. Thuốc giảm đau sẽ ngày một tăng cao liều lượng, xương sẽ mục, máu sẽ cạn, điều này Ngạc chẳng thể chia chác với em, ngay cả những buổi chiều ngồi ngắm bóng chiếc phong linh lúng liếng.

Khi ghen người đàn bà thích làm khổ người đàn ông cuả mình.
Ngạc ơi! Cho dù dửng dưng, anh hãy giả vờ khổ tâm, giả vờ than khóc cho em vui lòng nơi chín suối Ngạc nhé. Khi viết thư này, em hiểu ra lý do em nằng nặc đòi ly dị anh, người đàn ông em thờ phụng cho bằng được.

Em hả dạ biết bao, cơn ghen cuối cùng đã được tuôn ra, trả uất ức cho cả Mẹ em bằng khuôn mặt đẫm nước mắt của anh, khi biết tin em chết."


Ấu Tím
Cuối Hạ 2008
...........................
Chú thích:
(1) Hồ Xuân Hương
(2) Dịch nghĩa: Thiên Mạt Hoài Lý Bạch-đỗ phủ - Nhớ Lý Bạch Ở Nơi Cuối Trời Trong lúc gió mát nổi lên ở nơi cuối trời, bạn có ý nghĩ ra sao? Biết bao giờ chim hồng nhạn mới tới đây? Sông hồ có nhiều nước thu. Văn chương thường ghét hạnh vận hanh thông, yêu quái vui mừng khi thấy có người đi qua. Lúc này chắc bạn đang trò chuyện với hồn oan của Khuất Nguyên, và ném thơ xuống tặng ở sông Mịch La.
Ghi chú :
Mịch La: tên con sông nhánh của sông Tương, nơi Khuất Nguyên tự trầm.
Ðỗ Phủ làm bài này trong mùa thu năm 759 , tại Tần Châu , trong khi Lý Bạch đang trên đường bị đi đày đến Dạ lang, qua sông Trường Giang và hồ Ðình Ðộng.
(3) Ôm Thơ Nguyên Nhân
(4) Chất Ngất Thơ Nguyên Nhân

Hansy
15-09-2014, 12:44 AM
44.

ĐOẠN KẾT MỘT BỘ PHIM

Phan Thị Thu Loan

Năm giờ sáng, Quyên nhận được cú điện thoại của người vợ: Ông đang hấp hối! Giờ này, cô không thể báo với cơ quan xin máy và người quay phim... Quyên nhìn chiếc camera bán chuyên dụng ở góc phòng. Cô đã mượn nó để ghi lại buổi lễ kỷ niệm ba mươi năm ngày cưới của bố mẹ. Cô quyết định sẽ tự mình quay những thước phim cuối cùng đó.

Quyên gặp thần tượng văn chương của mình khi ông đã ngoại lục tuần. Cô là một sinh viên năm cuối khoa đạo diễn truyền hình, còn ông đã là một nhà văn nổi tiếng. Khi còn là học sinh trung học, cô đã đọc tác phẩm của ông với lòng thán phục. Gần chục năm trôi qua nhưng nhiều chi tiết trong những cuốn tiểu thuyết của ông, cô vẫn còn nhớ như in.

Cuối đợt thực tập tốt nghiệp, được phân công thực hiện bộ phim tài liệu về nhà văn mình yêu quý, Quyên tràn đầy hứng khởi. Cô hồi hộp tìm đến nhà ông. Căn nhà xinh xắn nằm lọt giữa những bụi hoa tigôn đỏ thắm. Vợ ông - một phụ nữ duyên dáng, lịch thiệp ra đón cô. Và ông hiện lên trong khuôn cửa, bằng xương bằng thịt. Người đàn ông đã viết những chuyện tình sắt son và lãng mạn, từng làm xúc động trái tim bao chàng trai, cô gái - nay là một ông già gầy guộc, ốm yếu. Cô nén lòng thương cảm chợt dâng lên, rồi nhanh chóng bắt tay vào công việc.

Qua cuộc trò chuyện với vợ chồng ông, cô có thêm nhiều tư liệu mới cho bộ phim của mình. Khi kịch bản phân cảnh đã hoàn thành, cô cùng người quay phim ngày ngày dốc sức, chăm chút từng khuôn hình của bộ phim. Những cảnh ghi hình ông làm việc, sinh hoạt với gia đình, gặp gỡ bè bạn, Quyên đều không bỏ sót. Họ còn quay được khá nhiều kỷ vật thời trai trẻ mà ông vẫn cẩn trọng giữ gìn. Ông hài lòng với sự tận tình của cô mà không biết rằng cô làm việc với cả lòng ngưỡng mộ một tài năng, chứ không đơn thuần chỉ là lương tâm nghề nghiệp.

Vài tuần trôi qua, những cuốn băng tư liệu về ông vẫn nằm trong tủ, chưa được dựng thành phim. Quyên còn mải miết lần theo dấu vết những nguyên mẫu nhân vật của ông ở ngoài đời. Cô muốn tìm ra ngọn nguồn cảm xúc mà họ đã khơi gợi lên trong tâm khảm và tác phẩm của ông. Trở về thành phố, Quyên nghe tin ông ốm nặng, phải nhập viện.

Theo kế hoạch được duyệt, cô cùng người đồng nghiệp vào bệnh viện, quay thêm một buổi nữa. Ông gượng ngồi dậy, để người quay phim ghi hình ông cùng vợ ngồi trò chuyện, cảnh bà đọc sách cho ông nghe và săn sóc ông. Đôi chân run rẩy, ông đi lại khó khăn. Khuôn mặt khắc khổ của ông lại hằn thêm những nếp nhăn mới do đớn đau và bệnh tật. Khi Quyên và đồng nghiệp về rồi, ông bảo với vợ: “Không biết tôi còn sống để mà xem bộ phim về mình nữa không?”. Ông không hề biết rằng, Quyên đã được giao nhiệm vụ quay những giờ phút cuối cùng của đời ông để làm đoạn kết cho bộ phim...
Và ngày đó đã đến. Năm giờ sáng, Quyên nhận được cú điện thoại của người vợ: Ông đang hấp hối! Giờ này, cô không thể báo với cơ quan xin máy và người quay phim... Quyên nhìn chiếc camera bán chuyên dụng ở góc phòng. Cô đã mượn nó để ghi lại buổi lễ kỷ niệm ba mươi năm ngày cưới của bố mẹ. Cô quyết định sẽ tự mình quay những thước phim cuối cùng đó.

Quyên đến nhà ông. Hai tay và đôi vai cô trĩu nặng những máy quay, chân máy, hộp pin, đèn chiếu... Cô được đưa vào phòng khách. Ông nằm đó, gầy sọp đi, khuôn mặt gần như bị lấp kín dưới chiếc mặt nạ ôxy. Chỉ còn đôi mắt tinh anh ngày nào là vẫn còn chút sinh khí, chứng tỏ ông còn sống. Ngực ông khẽ phập phồng theo nhịp co bóp của chiếc máy thở. Khi các bạn văn đến gần, thì thầm bên tai ông lời giã biệt, từ trong đôi mắt đã mờ đục của ông lại ứa ra những giọt nước mắt...

Cầm chiếc máy quay trong tay, Quyên nén xúc động, cố nín thở cho khuôn hình khỏi rung. Cô thận trọng ghi lại từng cảnh đặc tả khuôn mặt, đôi mắt của ông. Trong đời mình, cô chưa hề chứng kiến một người đang hấp hối nhưng cô không thấy sợ hãi, bởi đã để hết tâm trí vào công việc. Người đàn ông bé nhỏ trong bộ quần áo màu trắng này là thần tượng của cả thế hệ sinh viên trạc tuổi Quyên. Trước ngưỡng cửa cõi vĩnh hằng, ông không hề gây cho cô nỗi ghê rợn về cái chết. Trái lại, cô ý thức được rằng, mình đang làm phận sự thiêng liêng của một nhà báo tương lai. Ông tắt thở trong tiếng thổn thức của vợ con và bè bạn. Quyên nhìn đồng hồ, cố ghi nhớ khoảnh khắc này.
Minh họa của Ngô Xuân Khôi.

Buông chiếc máy quay xuống, Quyên thấy mệt mỏi rã rời. Cô đã làm việc liên tục ba tiếng đồng hồ. Khi người quay phim đến, cô vội vã bàn giao công việc cho anh. Quyên phóng về nhà, thảy hết đồ lề xuống, ngồi ngay vào bàn, viết kịch bản phân cảnh cho đoạn kết của bộ phim. Cảm xúc dâng trào, cô kết thúc công việc chóng vánh. Lên cơ quan nộp văn bản để chờ lãnh đạo duyệt, rồi cô trở về nhà, định bụng sẽ nghỉ ngơi đôi chút.

Vừa mở cửa dắt xe vào, Quyên bỗng thấy đầu óc choáng váng. Cô nằm vật xuống giường. “Mình đang đói, lại quá căng thẳng vì công việc, nghỉ một lúc là đỡ ngay thôi...”. Nhưng bất ngờ cô lên cơn sốt cao, người nóng ran như lửa. Cô nằm liệt hai ngày đêm không dậy nổi. Trong cơn mê sảng, cô lại nhìn thấy khuôn mặt của ông với những giọt nước mắt ứa ra bên khóe. Hẳn ông đau đớn lắm! Mọi người cố kéo dài sự sống cho ông, để thân nhân và đồng nghiệp được quây quần bên ông đông đủ. Có mấy ai nghĩ rằng, để sống thêm vài tiếng đồng hồ trên trần thế, đã bao nhiêu lần ông gồng mình lên vì nghẹt thở, và lại cảm nhận nỗi đau thể xác chẳng lúc nào buông tha bởi căn bệnh ung thư ác tính?

Có giây phút nào trong hơn ba giờ đồng hồ khổ ải đó, ông oán giận cô vì cứ soi mãi chiếc ống kính máy quay vào mình, ghi lại hình ảnh thống khổ nhất của một con người trong phút giây sắp xa rời cõi thế? Những cơn co giật của ông dưới bàn tay lạnh như băng của thần chết bị phơi bày ra dưới ánh đèn sáng rực. Có lẽ ông muốn gạt chiếc máy quay ra, muốn hất đổ ngọn đèn đáng ghét ấy, nhưng tay chân ông tê liệt, chỉ có nỗi đau câm lặng vò xé lòng ông?!...

Hai ngày sau Quyên hết sốt, cũng đột ngột như khi cơn bệnh khởi đầu. Cô cặm cụi dựng bộ phim về nhà văn yêu quý. Đến đoạn phim Quyên đã quay trong buổi sáng hôm ấy, cô chợt nhớ đến những gì đã trải nghiệm trong cơn sốt mê man. Nhìn kỹ từng khuôn hình, lòng cô quặn thắt. Những giọt nước mắt của ông không chỉ ứa ra khi nhìn thấy người quen. Đôi mắt đẫm lệ của ông ánh lên dưới ngọn đèn, hướng về phía ống kính như một lời trách cứ. Linh cảm của Quyên đã đúng! Ông đau lòng... Rất đau lòng khi cô chỉ để tâm chọn từng góc máy, từng bố cục của khuôn hình mà không nhận ra nỗi thống khổ của ông, sự bất lực của ông - một con người vô cùng đa cảm! Từ đáy mắt ông như bật lên tiếng kêu: “Hãy tôn trọng nỗi đau riêng của con người! Tôi không muốn hậu thế nhìn thấy mình trong sự tàn tạ và khổ não. Hãy để tôi hoá thân vào các nhân vật. Tôi sẽ sống trong lòng người đọc như họ vẫn thường nghĩ về tôi!”.

Quyên nhớ lại một bức ảnh rất ấn tượng cô từng xem trong tạp chí Kiến thức. Bức ảnh chụp một con cá sấu to đang ngoác cái miệng khổng lồ đớp ngang mình một cô bé khoảng năm, sáu tuổi. Cô bé quằn quại, cố gắng thoát khỏi những hàm răng khủng khiếp, nhưng vô hiệu! Nước bắn tung tóe quanh mình cô và con cá dữ...

Quyên càng kinh hãi hơn khi đọc lời chú thích: Người chụp bức ảnh đó là một nhà báo nước ngoài - cha ruột của cô bé!

Làm sao ông ta có thể bình tâm giơ máy lên chụp bức ảnh rất chuẩn về khuôn hình, độ nét và bố cục như thế khi con gái ông đang giơ hai tay cầu cứu một cách tuyệt vọng? Nỗi khiếp sợ vô hạn còn đọng lại trong đôi mắt mở to của nạn nhân làm Quyên chợt rùng mình.

Ông ta đã không làm gì để cứu con mình mà còn nhẫn tâm ghi lại hình ảnh ấy rồi trao cho một tờ báo nổi tiếng, đổi lấy hai triệu đôla. Dư luận kết án sự vô liêm sỉ của ông ta và luật pháp đã vào cuộc. Ông ta bị bắt giam và xét xử với tội danh: “Không giúp người bị nạn! Lợi dụng cái chết của người khác để mưu cầu danh lợi!”.

Trước tòa án ông ta tự bào chữa rằng: Ông hành động theo thói quen nghề nghiệp. Ông giơ máy lên rồi chụp, không kịp điều chỉnh gì. Khuôn hình mẫu mực của bức ảnh chỉ chứng tỏ tay nghề vững vàng của ông! Ông không thể giúp được gì cho con gái vì đã quá muộn rồi... Nhưng khi tòa hỏi vì sao lại bán tấm ảnh ấy để lấy tiền thì ông ta không sao giải thích nổi!

Hỡi ôi! Từ bao giờ người ta trở nên những cái máy - tàn nhẫn, vô lương ngay cả với nhúm ruột của mình? Từ khi xem bức ảnh ấy, Quyên luôn bị ám ảnh về sự độc ác của con người khi bị đồng tiền và danh vọng chi phối.

Thế mà hôm nay, trước cái chết của một nhà văn mà Quyên kính trọng, cô vẫn vô tâm đến mức không hề nhận ra nỗi đau xót của ông. May là cô chỉ quá say sưa với công việc chứ chưa bị lợi danh lôi cuốn! Mọi việc xảy ra mỗi mình Quyên hay biết, nhưng cô vẫn bị lương tâm giày vò. Quyên cảm thấy vô cùng ân hận...

Trong lúc dựng phim, Quyên lược bỏ nhiều cảnh quay đặc tả mà theo các bạn học là khá thành công. Cô giữ lại cuốn băng tư liệu ấy để ghi nhớ bài học đầu đời: “Đừng nhân danh công việc mà trở nên vô cảm trước nỗi đau của đồng loại!”.

Bốn mươi chín ngày từ khi ông mất, Quyên gặp lại người vợ. Nghe xong câu chuyện của Quyên, bà bảo: “Cô sẽ thắp nhang, cầu an lành cho cháu!”. Qua làn khói hương nhạt nhòa, cô ngước nhìn lên tấm ảnh nhà văn mình hằng ngưỡng mộ. Trong ánh mắt chân thành của ông, Quyên cảm nhận được lời tha thứ...[/IMG]


Phan Thị Thu Loan

Hansy
16-09-2014, 12:20 AM
45.

ĐỪNG YÊU NGƯỜI LÀM THƠ

Nguyễn Thị Thanh Dương

Đợi cho Quang ra khỏi nhà là mẹ tôi nói ngay:
- Anh Quang này trông đứng đắn đàng hoàng đấy, vậy con liệu mà bảo nó tính đến chuyện hỏi cưới đi.
Tôi đáp với lòng hãnh diện:
- Sớm muộn gì anh ấy cũng phải lên tiếng thôi, con việc gì phải bảo người ta cho nó mất giá trị !
- Mẹ thấy mấy đám trước cũng tử tế như thế này, cứ kéo dài hò hẹn, tìm hiểu mãi rồi ai cũng rút lui, chẳng hiểu họ chê con vì điểm gì? nên lần này con phải chủ động giục cưới cho chắc ăn, kẻo lại thêm một mối tình lỡ.
- Mẹ yên tâm, đây sẽ là mối tình cuối cùng của đời con.

Mẹ tôi cũng không quá lo xa đâu, có nhiều mối tình đến với tôi, nồng nàn tha thiết bao nhiêu nhưng vẫn không đi đến kết quả tốt đẹp. Mẹ tôi bảo tại tôi lãng mạn quá, trái tim dễ rung động quá, nên yêu nhiều mà chẳng được bao nhiêu, yêu chưa đúng người.
Tôi đã biết yêu từ năm 12 tuổi, hồi đó ở Việt Nam vẫn còn là tuổi của ngây thơ khờ dại. Tôi rất thích ăn mì của cái tiệm ở đầu đường nhà tôi do một người Hoa làm chủ, đứng nấu mì là một anh ba Tàu trẻ, thường thì mẹ dẫn tôi đi hay có khi tôi thèm thì xin tiền mẹ chạy đến tiệm ăn một mình. Dù đi với mẹ hay không, tôi đều thích đứng cạnh xe mì để nhìn ngắm anh Tàu trổ tài nấu mì, anh để một vắt mì vào thùng nước sôi và nhanh chóng vớt lên bằng một cái vợt lưới, bàn tay anh thao tác nhuần nhuyễn, hất tung vắt mì lên vài lần cho ráo nước và sau cùng hất vào tô, bao giờ cũng chính xác, không rớt ra ngoài. Xong anh bày lên những miếng thịt heo nạc thái mỏng còn viền màu đỏ vì đã được ướp xá xíu, một thìa tóp mỡ thái hột lựu, và một thìa củ cải mặn cũng thái hột lựu, rồi mới đến những cọng hẹ cắt khúc ngắn. Anh mở nắp vung thùng nước lèo, cả một mùi thơm bát ngát theo hơi khói bay ra, thuở đó trong mắt tôi thùng nước lèo to, sâu thẳm ấy là một công trình vĩ đại và kỳ bí như trò ảo thuật, vì chẳng biết anh Tàu nấu bằng xương thịt gì, bí quyết gì mà nước lèo thơm ngon thế ? Có bao giờ tôi ăn tô mì mà chẳng húp hết nước sạch sẽ đâu!

Khi thì anh Tàu bê tô mì ra bàn cho tôi, khi anh bận thì tôi tự làm lấy vui vẻ. Tôi thích ăn mì và yêu cả anh Tàu nấu mì, không biết vì anh trẻ đẹp trai vui tính hay vì anh là người đã nấu cho tôi những tô mì ngon ?
Tôi đến tiệm mì thường xuyên đến nỗi anh Tàu nhớ mặt tôi, có lần anh vừa vung vẩy biểu diễn hất vắt mì vào tô vừa cười cười với tôi : “ Hày, con nhỏ này là khách quen của bổn tiệm mà, để tao cho mày thêm vài miếng thịt”.

Hôm ấy tôi ăn tô mì đặc biệt nhiều thịt, vừa sung sướng vì anh nhớ đến tôi, vừa buồn buồn vì anh gọi tôi bằng “mày” và xưng “tao”. Anh Tàu chẳng biết rằng con bé ranh này đang yêu anh, hôm nào không có tiền ăn mì, đi học về qua tiệm tôi đi chậm lại một chút để nhìn thấy anh rồi mới chịu đi nhanh về nhà, tương tư anh nên tôi đã nói với mẹ: “Lớn lên con sẽ lấy anh Tàu bán mì“.

Mối tình đơn phương đầu đời có liên quan đến vấn đề ăn uống ấy chỉ tồn tại được một hai năm, không phải vì có vài lần tôi thấy vợ anh đứng nấu mì thay cho anh, là một chị mập ú, luôn luôn mặc áo sát nách để hở hai cánh tay béo mỡ, vừa nấu mì vừa xổ một tràng tiếng Tàu với hai đứa con nhỏ đang luẩn quẩn bên cạnh, mà vì càng lớn tôi càng có nhiều sở thích khác ngoài ăn mì. Tôi thích đọc sách báo, thơ truyện, tôi biết tưởng tượng đến một người yêu thanh tao gấp mấy chục lần anh Tàu của tôi thuở tôi 12 tuổi.
Năm tôi học lớp 11, đã có vài bài thơ đăng báo nên cả lớp “nể mặt” và đồng loạt bầu tôi làm Trưởng ban báo chí của lớp, sau khi tôi đi họp để bầu Trưởng ban báo chí của toàn trường, tôi phải đứng trước lớp báo cáo lại kết quả buổi họp đó. Tôi đâu có tài ăn nói trước đám đông, trong khi bao nhiêu con mắt đang đổ dồn vào tôi, làm tôi bối rối thì ít mà thằng lớp trưởng đứng bên cạnh làm tôi bối rối thì nhiều, vì tôi yêu và nể nó, tính tình nó hiền lành, ăn nói lưu loát và có tài lãnh đạo. Tôi lí nhí kể lại buổi họp cho thằng lớp trưởng, khi một người ngồi dưới hỏi chị trưởng ban báo chí lớp ơi ! đã bầu xong trưởng ban báo chí toàn trường chưa? Thì thằng trưởng lớp dõng dạc trả lời giùm tôi “Chị cho biết là chưa có bầu”. Cả lớp cười ồ lên còn tôi thì đỏ mặt. Lớp trưởng vội vàng sửa lại, nói đầy đủ hơn: “Chị cho biết là chưa có… bầu trưởng ban báo chí toàn trường”.
Tình yêu là một trò chơi quanh quẩn, trong khi tôi yêu thầm thằng lớp trưởng, nó chẳng thèm để ý đến tôi, (bụt nhà không thiêng?) thì một thằng bên lớp 12 lại trồng cây si tôi mê mệt, luôn luôn tôi thấy có cặp mắt nào đó đang nhìn mình, những lúc tôi đang ăn chè đá đậu hay chấm mút trái cóc chua ngọt với muối ớt trước cổng trường đều bị nó bám sát không rời, làm tôi phải nhịn thèm các món đó luôn vì mắc cở, cho đến cuối năm đó nó rời khỏi trường tôi mới được tự do ăn uống trở lại. Lá thư tỏ tình nó gởi tôi do một đứa bạn cùng lớp đưa lại chẳng bao giờ tôi trả lời vì tôi không yêu nó. Sau 1975 nó đi vượt biên với vợ con và mất tích ngoài biển khơi.

Tôi nghĩ đời tôi có hai cái may, nếu mối tình với anh ba Tàu mà thành sự thật thì bây giờ tôi đã là chị ba Tàu, chắc cũng mặc áo sát nách đứng nấu mì thay cho chồng và quát tháo lũ con om sòm bằng tiếng Tàu rồi ! hoặc nếu tôi lấy anh chàng lớp 12 si tình kia thì giờ này tôi cũng mất tiêu trên biển với nó rồi !

Cho đến năm tôi 20 tuổi, trước khi đi định cư ở Mỹ thì trong tâm hồn tôi đã có một đống những người tình lý tưởng lấy ra từ trong tiểu thuyết và phim ảnh, Rhett Butler của “Gone With The Wind”, Zhivago của “Dr. Zhivago”, hay ông linh mục Ralph của “The Thorn Birds” hay “chú” Sách tử tế và bao dung yêu vợ trong “Tình nghĩa vợ chồng” của Leon Tolstoi do Bảo Sơn dịch v.v… Tôi từng bị tiếng sét ái tình với người trong phim truyện, thì với người đời bằng xương bằng thịt là lẽ đương nhiên, nhưng dù sét đánh dữ dội thế nào tôi cũng không bao giờ chết, yêu nhanh và quên cũng nhanh. Mẹ tôi bảo tính tôi lãng mạn, mê làm thơ, mê đọc thơ nhiều quá rồi nó vận vào người, toàn là những mộng mơ ảo tưởng ! Đã hơn 30 tuổi rồi mà vẫn chưa “tỉnh” người ra để kiếm một tấm chồng, để sinh con đẻ cái như người ta. Tôi chống chế, thời buổi này người ta lập gia đình trễ sau khi đã có công danh sự nghiệp. Mẹ tôi lẩm bẩm, nhưng con không bận học hành, không làm ăn buôn bán, chỉ đi làm hãng xưởng thì sự nghiệp gì mà chờ đợi cho nó già cả người hở con?

Ba mươi mấy tuổi ! chưa già, nhưng cũng không còn trẻ ! Tôi không “nhìn lên trời” để tìm Rhett Butler hay Dr. Zhivago nữa, mà đã hạ tiêu chuẩn, tìm nhũng người thường xung quanh tôi, lần này tôi sẽ không để mất Quang vì tôi yêu anh và anh cũng yêu tôi như thế.

Đã mấy tuần trôi qua, chẳng hiểu sao Quang không liên lạc với tôi, cell phone và e-mail đều im lặng. Lạ quá ! những tín hiệu tôi gởi đi nhưng anh vẫn không hồi đáp.
Một người bạn thân của tôi báo cho tôi một tin không thể tin nổi là Quang đang quen với một người con gái khác, tôi cười khỉnh vào mặt bạn tôi rằng, đó là tin đồn thất thiệt, mày phải nhớ là Quang yêu tao như thế nào! chiều chuộng từng sở thích của tao như thế nào ! và nhất là Quang yêu thơ của tao nũa ! Anh tìm đâu ra một người yêu vừa lãng mạn vừa biết làm thơ ? người nào mà lấy tao thì cuộc đời sẽ đẹp như thơ.
Tôi bỗng nhận được lá thư của Quang gởi từ bưu điện. Chẳng hiểu sao E-mail tiện lợi, anh không dùng, hay anh muốn cứu giúp ngành bưu điện đang ế ẩm, để các mailman có việc làm ?

Thái độ im lặng thật lâu đã lạ, cách liên lạc của anh càng lạ hơn làm tôi hồi hộp khi bóc thư ra, nhưng tôi vẫn tin rằng đó là một lá thư dài tràn đầy lời thương nhớ và tới tấp xin lỗi em yêu ! Tôi trải tờ thư phẳng phiu ra và khoan khoái đọc:

Thương gởi em ! (biết ngay mà, tôi nghĩ )
Suốt mấy tuần qua, anh đã suy nghĩ rất nhiều trước khi viết lá thư này. Anh phải viết bằng thư tay để em đọc xong và suy ngẫm, chứ gởi qua e-mail coi chừng em delete mất!

Em ơi, chúng mình đã yêu nhau hơn một năm trời, đã bao lần hò hẹn, gặp gỡ tìm hiểu nhau, đủ để đi đến một quyết định… (đọc đến đây tôi nhắm mắt lại, thở phào một cái sung sướng trước khi đọc tiếp lời cầu hôn năn nỉ của anh ta)…

Anh nhận thấy một điều rất rõ ràng là : Anh không thể lấy em ! Có nghĩa là chúng mình sẽ chia tay từ đây ! Vì em lãng mạn quá, em như sống ở trên mây, anh đã cố gắng chiều chuộng em, nhưng thà chiều chuộng một đứa trẻ, khi nó lớn lên một chút là thôi, còn chiều chuộng những đứa làm thơ như em thì phải cả đời.

Em đâu có biết, anh đã mệt mỏi căng thẳng biết bao để chiều lòng em ! Nừa đêm anh đang ngủ ngon để mai đi làm sớm thì em gọi cell phone đánh thức anh dậy để… khoe một câu thơ vừa hiện ra trong đầu, em đọc cho anh nghe, anh mắt nhắm mắt mở chỉ thèm ngủ chứ đâu có thèm nghe thơ, dù hay cỡ nào cũng không thành vấn đề đối với anh trong lúc này. Vậy mà anh phải khen hay, nhưng em không tin, còn bắt anh phân tích hay ở chỗ nào? Anh đành làm nhà phê bình văn học thơ em cho tới sáng, cho tới giờ đi làm. Anh không lạng quạng lái xe đụng người ta trên highway đầy nghẹt xe là may phước cho nhà anh rồi.

Những lúc hai đứa mình đi chơi, anh đang lái xe đến một địa điểm nào đó đã định trước, thì em chỉ huy anh phải quẹo hết con đường này đến con đường khác, mặc dù em không biết nó về nơi đâu ! Nhưng đó là những con đường có hàng cây đẹp làm em mơ mộng, nổi máu muốn làm thơ.

Cái hôm mình đi ăn đám cưới một người bạn, em còn nhớ không? Chỉ vì anh đi theo những con đường thơ mộng đó theo bất chợt cảm hứng của em, mà đến trễ 3 tiếng đồng hồ, vượt hẳn kỷ lục đi trễ của người Việt Nam mình khá xa !

Yêu em nên anh ráng hy sinh, nhưng chuyện chiều chuộng em cuối cùng vừa rồi thì anh chịu hết nổi, và em có còn nhớ không? Đó là một buổi chiều Chủ Nhật, ngày vui của Weekend đã tàn, ai cũng cần nghỉ ngơi để thứ Hai đi làm, trời lại đang gió mưa, thật ấm cúng khi được ngồi ở nhà ăn bữa cơm chiều, hay xem tivi, đọc báo… thì em phone cho anh, đến gặp em gấp. Anh vội vàng thay đồ đến nhà em, tưởng em đang gặp chuyện gì khó khăn, cần có anh giúp một tay. Thì ra em rủ anh đi dạo phố chiều mưa với em cho …. vui, cho romantic. Em ơi, lúc đó mẹ anh mà bị bệnh, kêu anh ra chợ mua cho bà hộp thuốc, chưa chắc gì anh muốn đi, nhưng vì yêu em, thấy em phấn khởi , thích thú quá, anh đành chiều.

Trời mưa rả rích, gió lạnh từng cơn, trên con đường lá rụng ướt đẫm nước mưa, anh cầm dù che cho em là chính, còn anh hứng toàn bộ cơn mưa, ngày xưa còn bé, anh khoái tắm mưa, còn hôm đó anh tắm mưa bất đắc dĩ, mưa ướt anh từ đầu đến chân, người anh run lên vì lạnh, nhưng anh không dám kêu ca, để tôn trọng tâm hồn thi sĩ của em, để cho em hoàn tất được ý thơ cho bài “Hai đứa đi trong chiều mưa gió”.

Khi bài thơ ấy được đăng báo, may ra có một vài người cảm động vì thơ em, nhưng anh phải đánh đổi với cái giá rất đắt, suýt nữa bằng cả một sinh mạng ! Anh về nhà, tối hôm đó bị cảm lạnh, lên cơn sốt cao hừng hực, mẹ anh biết chuyện vừa xót xa thương con vừa tức giận, mắng anh là thằng ngu ! Nó đã dở hơi mà mày cũng dở hơi theo nó đi trong mưa như thế à ? Tao nói cho mày biết nhé, dù con dở hơi ấy có giàu, có đẹp đến đâu cũng không bao giờ tao muốn nó về làm dâu nhà này (Anh xin thề đây là nguyên văn lời của mẹ anh, chứ anh không nỡ gọi em là “con dở hơi”, cho dù anh thấy điều ấy cũng… không sai).

Hôm sau anh phải nghỉ làm, đi Bác sĩ và nằm nhà suốt tuần.
Em, một người làm thơ, có tâm hồn nhạy cảm vô song, một chút nắng đổi màu, một cơn gió xao xác chuyển mùa, hoa lá kia đang nở hay héo tàn… em biết ngay, em sản suất ra thơ ngay. Nhưng anh nằm ốm bệnh lu bù ở nhà thì em không biết, em chẳng đoán ra, chỉ gởi những lời nhắn khơi khơi trên e-mail hay cell phone là “Gọi lại cho em gấp ! Đến nhà em gấp !”

Em không hề thắc mắc là vì sao anh vắng mặt, vì sao anh im lặng, mà chỉ ra lệnh cho anh đến với em.

Sau trận ốm suýt chết oan đó, đọc thấy lời nhắn của em, anh sợ quá, sợ em lại rủ anh đi trong một cơn mưa gió cho một bài thơ khác sắp hiện ra trong đầu em, hay bắt anh chở đi lòng vòng khắp các nẻo phố phường có hàng cây lá đẹp, đến chóng cả mặt, và tốn cả xăng, thời buổi kinh tế khó khăn, giá dầu thô lên 82 đồng một thùng, em biết chưa ?

Nhờ trận ốm đó, anh đã tìm ra một chân lý là “Đừng yêu người làm thơ”, những đứa làm thơ như em, chỉ làm thiệt hại đến người khác, chỉ nương tựa vào người khác. Anh đến nhà em, lần nào cũng thấy mẹ em đang nấu cơm, chưa bao giờ anh thấy em đứng trong bếp, dù chỉ để cắt một cọng hành ! Anh dám chắc là trong đời em chưa bao giờ biết luộc rau muống, chứ đừng nói tới các món cầu kỳ khác ! Thế mà đã mấy lần em mời anh đến nhà ăn cơm chiều, em tự hào khoe, mẹ em kho cá, mẹ em nướng thịt ngon lắm, hay bất cứ món gì khác, mẹ em đều nấu ngon hết.

Em ơi, nếu anh lấy em, ai sẽ nấu cơm cho anh ăn? Nên anh đã tưởng tượng ra thảm cảnh tương lai, anh sẽ phải làm bếp và nếu có con anh sẽ kiêm luôn phần trông con, giặt giũ, quét dọn nhà cửa, để cho em rảnh tay làm thơ. Vì thế, anh quyết định chia tay em để quen với người khác, một con người thực tế 100 % , không biết làm thơ gì cả ! Chẳng sao, anh mở báo, mở net ra, có cả đống nhà thơ cho anh đọc, cần gì phải cưới một nhà thơ về để phải chiều nó cho mệt cuộc đời? Còn người vợ thực tế của anh sẽ biết đi chợ, sẽ biết lo cho anh miếng ăn, giấc ngủ.

Anh may mắn thoát khỏi tay em, nhưng anh chưa yên tâm đâu, sau này anh sẽ để di chúc truyền đời cho các con, các cháu anh để cho chúng biết mà tránh xa “Đừng yêu người làm thơ”.
Hôn em lần cuối.

Tái bút : Dù sao anh cũng luôn cầu mong em sớm kiếm được một người khác để thay anh dìu em đi trong mưa cho những bài thơ sắp tới của em. (anh tin rằng cuộc đời này lúc nào cũng có sẵn những thằng ngu như anh).

Đọc xong lá thư tôi vừa tức vừa đau khổ, yêu tôi được lãng mạn thế, anh không happy thì thôi, mà còn kết tội tôi và chấm dứt mối tình đang tha thiết. Tôi vùi đầu trong chăn, trong gối, để mặc cho nước mắt tuôn rơi và cõi lòng tan nát.

Nhưng tôi chợt vùng dậy, chạy ra lấy giấy bút ghi vội một đề tài, một câu thơ vừa xuất hiện trong đầu, vì trong đau khổ hồn thơ bỗng lai láng, nên dù buồn đứt ruột vẫn có xen lẫn một chút vui thú vì câu thơ vừa ý. Nay mai tôi sẽ có bài thơ đăng báo là “Hai đứa chia tay trong chiều mưa gió” Và nếu đúng như lời Quang đã nói trong thư, tôi lại chờ đợi một anh chàng ngu ngơ, lù khù nào đó sẽ đi vào đời tôi, để tha hồ mộng mơ tiếp, và hi vọng lần này sẽ… kiếm được một tấm chồng đồng điệu, biết yêu người làm thơ.


Nguyễn Thị Thanh Dương

Hansy
16-09-2014, 11:39 PM
46.

ĐOẠN KẾT MỘT MỐI TÌNH

Nguyễn Một

Người ta đồn “Tuyết yêu tôi”. Họ còn khẳng định chính miệng em nói ra điều ấy. Ngay cả chính tôi, tôi cũng không biết rõ được là Tuyết có yêu tôi hay không.

Có lần mấy người đã nhìn thấy tôi ôm bờ vai nhỏ nhắn gầy guộc của Tuyết để vỗ về sau lần em bị gã chồng vũ phu tìm vào tận đây để hành hung.

Buổi chiều đầu tiên, khi Tuyết đến đây dắt theo đứa con trai nhỏ, đôi mắt buồn bã ngơ ngác, đã làm cho em nhanh chóng nhận được sự thương cảm của mọi người.

Hai ngày sau, xóm tôi bị náo loạn bởi gã đàn ông thô lỗ và tục tằn. Hắn đến, chửi toáng ngay từ đầu ngõ, bằng nhiều thứ ngôn ngữ mà ở đây rất ít được nghe. Chửi thỏa thích, hắn xông vào đánh Tuyết. Lúc hàng xóm gỡ được hắn ra khỏi người Tuyết, hắn vẫn cố cắn vào vành tai của Tuyết như con chó dại và nhổ đánh toẹt xuống nền nhà một bãi máu tươi, kèm theo câu nguyền rủa :
- Mày mà bỏ tao chỉ có nước làm đĩ mà sống, nhưng bỏ tao không dễ đâu.

Lúc tôi về, chồng Tuyết đã đi, mang theo tất cả áo quần của hai mẹ con. Câu chuyện ấy qua miệng mấy bà hàng xóm làm tôi nổi gai ốc cùng mình. Tôi tiếc không có ở nhà để bảo vệ em. Ngoài tôi ra em còn biết trông cậy vào ai nơi đất khách quê người.

Khi chia tay Tuyết, rời quê hương để tìm kế sinh nhai, tôi được chị Lệ, chị của Tuyết giúp đỡ tận tình, từ công việc làm ăn đến nơi ăn chốn ở. Ngoài tôi ra, chị Lệ còn cưu mang một gã họa sĩ lang thang thất nghiệp. Không biết chị lôi anh ta từ đâu về với đống đồ nghề lỉnh kỉnh. Căn hộ của họ trở thành xưởng vẽ bề bộn với nhiều bức tranh lộn xộn những ngựa, những người không ra hình thù gì cả. Vậy mà chị Lệ cứ tấm tắc khen đẹp.
Tôi không quan tâm lắm đến quan hệ của họ. Nhưng theo lời của những người đàn bà trong xóm thì hình như chị quen gã từ hồi gã còn là sinh viên. Bây giờ họ sống với nhau theo kiểu “già nhân ngãi non vợ chồng”. Gã họa sĩ thường ít ra khỏi nhà. Sau giờ làm việc của chị Lệ, họ thường đóng chặt cửa lại, sống tự nhiên chẳng màng sự dị nghị của mọi người. Tôi nghe mấy bà hàng xóm xì xào :
- Gớm ! Con Lệ ở truồng dồng dỗng trên giường cho thằng ấy vẽ, rõ là cái đồ dở hơi !

Đàn bà như thế mà không biết xấu hổ, đi ra ngoài cái mặt cứ câng câng, thấy mà ghét!
Mặc ai muốn gì thì nói, tôi vẫn cứ phục cách sống của hai người. Họ “sống ra sống” chứ cứ như tôi cái gì cũng sợ thì suốt đời chỉ là thằng công chức quèn. “Yêu không dám nói, ghét không dám chê” người ta cũng khinh.

Cả năm trời tôi mới có dịp nói chuyện với gã họa sĩ được một lần. Đấy là vào cái dịp sinh nhật lần thứ ba mươi sáu của chị Lệ, cũng bánh kem, cũng nến hồng, nhưng chẳng vui vẻ gì. Gã nhìn tôi không mấy thiện cảm. Buổi sinh nhật chỉ có ba người. Chị Lệ lăng xăng cố làm cho chúng tôi thân nhau :

- Này anh ! Long nó hiền lắm đấy, người đồng hương của em.
- Ừ!
- Hồi ở quê khi nó còn nhỏ, nó chơi thân với con Tuyết lắm. Hai đứa thật đẹp đôi, nhưng… ai dè…
- Ừ!
- Nó vào đây làm ăn, em xin việc cho nó làm, bây giờ được cấp nhà rồi.
- Ừ!

Thấy không thể cạy miệng được người yêu, chị Lệ chuyển đề tài :
- Nó cũng biết vẽ nữa. Hồi ở quê nó đập cục pin vẽ hình má em giống y hệt.

Tôi tính nói “Thôi chị ạ…” nhưng thấy gã nhếch mép cười, tôi điên tiết muốn tống vào mồm gã một quả và hét vào mặt gã: “Đồ thối thây, tao biết mày coi khinh mấy thằng vẽ chân dung, nhưng dù sao thì nó cũng kiếm được vài chục ngàn, chứ không bám váy đàn bà để mà vẽ ba cái thứ đùi chẳng ra đùi, mông chẳng ra mông như mày”. Mặc cho tôi lồng lộn trong lòng, sau nụ cười khinh mạn ấy, gã uống rượu tì tì. Gần cuối bữa tiệc gã mới mở miệng bảo tôi theo kiểu đàn anh:
- Này cậu ạ! Thà chấp nhận sống cho người ta ghét, chứ đừng để người ta khinh vì sự hèn nhát của mình!

Tôi co rúm người lại, hình như gã đọc được ý nghĩ của tôi. Câu nói ấy đã làm rạn nứt vĩnh viễn mối quan hệ giữa tôi với gã mà chị Lệ đã cố công bồi đắp. Gã nói đúng! Nhưng thói thường người đời rất ghét những ai chọc mũi dao vào yếu huyệt của họ. Tôi không phải là trường hợp ngoại lệ. Lần đầu tiên trong đời tôi uống rượu nhiều đến như vậy. Tôi gục xuống trước ánh mắt thương hại của gã. Chị Lệ dìu tôi về phòng, đắp khăn nóng cho tôi, hình như chị có an ủi tôi:
- Em đừng giận anh ấy, nghệ sĩ thường hay gàn như vậy nhưng họ là những con người chân chính.

Tôi không còn biết gì nữa, đầu óc mụ mị. Bàn tay dịu dàng của chị đã đưa tôi về với quê hương bên dòng sông Giao Thủy êm đềm xanh thẳm, đưa tôi về với Tuyết của tôi.
Quê tôi nghèo, nhưng có một dòng sông. Dòng sông là tài sản lớn nhất của tuổi thơ tôi. Trường làng tôi là ngôi đình lớn nằm dưới gốc đa cổ thụ. Cả ba lớp nhất, nhì, ba đều do thầy Hồng đảm trách. Tôi và Tuyết cùng học lớp nhì. Trong số những đứa trẻ cùng trường chỉ có chị em Tuyết là có tên văn hoa nhất. Nhà Tuyết khá hơn những gia đình trong xóm. Ba Tuyết làm lính Quân tiếp vụ ở Đà Nẵng. Mỗi chủ nhật ông mang về cả thùng đồ hộp để phát cho lũ trẻ chúng tôi.

Mẹ Tuyết không phải “chân lấm tay bùn” như mẹ tôi, nhưng hai bà lại rất thân với nhau. Nhiều lần bà kể cho mẹ tôi nghe “ba của Tuyết muốn dời gia đình ra Đà Nẵng, nhưng bà không muốn xa quê hương xóm giềng”. Tôi cũng cầu mong như vậy. Tôi và Tuyết thân nhau từ bé. Mỗi lần tan học, chúng tôi rủ nhau ra sông để chơi đùa trên cát, khi đã chán chê, tôi dẫn Tuyết lùng sục trong các bụi cây bên sông để tìm hoa dủ dẻ. Tôi không thích hoa, tôi chỉ thích trái, bất kể sim, mua, duối hay dủ dẻ…

Nói chung bất cứ thứ gì ăn được là tôi thích. Tuyết thường mang hoa dủ dẻ về ủ trong tập cho thơm. Nhìn bàn tay nhỏ nhắn của Tuyết nâng chùm hoa tôi cũng đâm mê. Nhất là cặp mắt đen láy, tròn xoe khép lại nhẹ nhàng mỗi khi tôi dúi những cánh hoa màu vàng lợt vào tay em. Đôi mắt đã làm tôi ngơ ngẩn cả người. Mỗi lần trốn học tìm hoa cho Tuyết, tôi bị thầy Hồng đánh sưng cả mông. Biết chuyện, mẹ tôi mắng:
- Thằng này lớn lên rồi đến khổ vì gái.

Ngày ấy, còn quá nhỏ nên tôi không chú ý lắm đến câu nói của mẹ. Chỉ chờ mẹ xoa đầu xong, tôi tót ra sông vùng vẫy thỏa thích. Dòng nước mát vuốt ve thân hình đen trũi của tôi và nụ cười trong trẻo của em sau mỗi cú bông nhông là tôi quên béng những trận đòn của thầy Hồng.

Dạo ấy, chiến tranh xảy ra liên miên trên quê hương tôi. Nhưng đó là nỗi lo của người lớn. Còn với tuổi thơ chẳng có chuyện gì đáng quan tâm vì thường xuyên được nghỉ học và ít bị đòn hơn. Chúng tôi cứ thế lớn lên như cây cỏ đồng bằng.
Một hôm Tuyết vén áo lên cho tôi xem và bảo:
- Anh Long! Ở ngực em nổi lên cái cục gì cưng cứng như ngón tay cái vậy?
Tôi đưa tay sờ thử. Về nhà, đánh bạo hỏi mẹ. Mẹ tôi nạt:
- Đồ con nít ranh.

Người lớn thật khó hiểu.
Sáng ra, mẹ Tuyết qua nhà tôi. Không biết hai bà xì xầm chuyện gì có vẻ bí mật lắm. Hai hôm sau gặp tôi mặt Tuyết đỏ bừng, quay đi… Mấy ngày xa nhau, tôi cứ vơ vẩn như người mất hồn. Cả tháng sau chúng tôi mới chơi lại với nhau. Nhưng tôi không còn dám tắm truồng và hai đứa không còn ôm nhau lăn tròn trên cát như ngày xưa.

Ba Tuyết tử trận trong ngày Đà Nẵng được giải phóng. Chị Lệ vào miền Nam làm ăn. Tuyết nghỉ học sớm ở nhà phụ mẹ. Tôi thi đậu vào Cao đẳng Sư phạm nhưng không đủ tiền ăn học. Tôi buồn đời quyết định vào Nam làm ăn.

Ngày chia tay bên bờ sông, chúng tôi nắm tay nhau, tôi không dám mở miệng, chỉ sợ mình bật khóc trước mặt con gái. Khi lên tàu tôi mới sực nhớ tôi chưa hề thổ lộ tình yêu của tôi đối với em. Tôi vào miền Nam tìm đến địa chỉ của chị Lệ nhờ chị giúp đỡ tôi trở thành công chức mẫn cán với hy vọng sẽ dành dụm được ít tiền để về quê cưới vợ.
Tôi luôn có niềm tin chắc chắn là Tuyết sẽ chờ tôi. Hai năm sau, tôi nhận được thiệp hồng của Tuyết với dòng chữ dửng dưng: “Em lập gia đình, anh gắng về dự đám cưới của em”. Tôi đổ gục như một cây chuối bị chặt ngang hông. Tôi không dám về lại quê hương. Tôi không đủ can đảm đặt chân lên bờ sông đầy ắp những kỷ niệm của hai đứa, đầy ắp mùi hương ngọt ngào của hoa dủ dẻ trong ký ức tuổi thơ. “Cầu cho em được một người tình như tôi đã yêu em”. Tôi lẩm bẩm nhiều lần câu thơ của Puskin như một người điên.

Chị Lệ đi đám cưới về mang theo chùm hoa dủ dẻ khô Tuyết gửi vào tặng tôi. Chị an ủi:
- Cậu đừng trách nó. Mẹ chị bệnh, mình nó lo không nổi, mang ơn người ta, với lại cậu đã nói gì với nó đâu mà bắt nó chờ.

Tôi mỉm cười cay đắng.
Khi Tuyết dắt con vào đây, chị Lệ đã bỏ đi gần ba tháng. Gã họa sĩ đã “quất ngựa truy phong” lúc chị đang mang bầu. Cắn răng chịu đựng “lời ong tiếng ve” của xóm giềng để nuôi đứa bé cứng cáp rồi chị ẵm con đi. Chị nói với tôi:
- Chị đi nơi khác làm ăn và chị sẽ trả thù lũ đàn ông bội bạc.

Tội nghiệp bé Bầu. Ngày ra đi, nó ôm cổ mân mê đùa nghịch chòm râu cằm lởm chởm của tôi. Cầm lòng không đậu, tôi hôn nó ràn rụa nước mắt. Chị Lệ nhờ tôi trông hộ căn nhà. Tuyết đến, tôi giao chìa khóa lại cho em. Qua Tuyết tôi biết mẹ em đã mất. Còn quê nhà cũng không khá hơn ngày tôi ra đi được mấy vì bão lụt triền miên. Chồng của Tuyết là một gã lái buôn cây. Hắn yêu Tuyết điên cuồng như con thú, nhưng lại rất chi li đê tiện. Sau cái ngày hắn vào tận miền Nam hành hung, Tuyết đã khóc và nói với tôi :
- Nghèo là rất nhục. Nghèo là mất hết tất cả. Phải cần có tiền anh biết không?

Tôi nghĩ chắc em xúc động quá mới nói như vậy thôi, chứ ngày xưa chúng tôi đâu cần tiền mà cũng hạnh phúc vậy. Tôi san sẻ cùng em món tiền ít ỏi kiếm được từ đồng lương công chức. Tôi hy vọng khi nỗi buồn qua đi tôi sẽ nhắc lại với Tuyết những kỷ niệm thời thơ ấu. Chắc là Tuyết sẽ hiểu được lòng tôi.

Chúng tôi dường như không có duyên nợ với nhau. Tôi chưa kịp nói với Tuyết dự định của tôi thì chị Lệ trở về. Đi với chị là người đàn ông mâp mạp trên chiếc xe hơi đời mới bóng lộn. Hai chị em ôm chầm lấy nhau mừng rỡ :
- Chị về quê tìm em mới hay em vào đây. Biết chuyện, chị đã lo thủ tục ly hôn cho em.
- Cảm ơn chị.
- À quên! - Chị Lệ quay qua tôi - Chị em lâu ngày gặp nhau mừng quá, quên giới thiệu với cậu Long, đây là anh Đường, ông xã của chị, Giám đốc Khách sạn Hoa Biển ở Vũng Tàu. Còn đây là cậu Long cùng cơ quan cũ với em.

Ông Đường hờ hững đưa tay về phía tôi. Tôi nắm bàn tay mềm nhũn đầy đặn của ông. Tôi có cảm giác như đụng phải con sùng đất. Chị Lệ vốn đã đẹp nay càng rực rỡ hơn trong bộ trang phục đắt tiền. Chẳng trách sao chị mê họăc được người đàn ông tóc đã hoa râm.

Đầu óc tôi choáng váng khi nghe chị Lệ giục Tuyết:
- Bỏ hết, xuống dưới đó rồi sắm lại. Ba cái đồ này xuống Vũng Tàu ai mà xài.
“Ba cái đồ” tôi nhịn ăn, nhịn mặc để sắm cho Tuyết ! Thêm một lần nữa, tôi để vuột mất hạnh phúc trong tầm tay.
Cảm thấy mình thừa thãi, tôi cúi xuống ôm thằng bé con của Tuyết vào lòng:
- Cháu ngoan của chú, đi rồi có nhớ chú không?
- Nhớ chú nhiều.
- Có thương chú không?
- Thương chú nhất sau mẹ Tuyết.

Tôi nghe nghẹn nơi cổ. Tôi bỗng nhớ bé Bầu con chị Lệ, chẳng thấy cháu đâu. Tôi muốn hỏi chị nhưng không dám. Nhìn chiếc xe hơi bóng loáng vút đi mang theo hai mẹ con Tuyết, tôi cố nuốt miếng nước bọt qua cổ họng khô khốc của mình.

Chuyện xảy ra đã lâu rồi mà tôi vẫn không thể tin được là con người có thể thay đổi nhanh chóng đến như vậy. Tôi không muốn kể thêm đoạn này. Nó cứ rờn rợn làm sao ấy. Nhưng thật sự không thể giấu được dù nó tàn nhẫn như mũi dao xuyên qua trái tim ngu muội của tôi.

Tuyết đi được nửa năm nhưng chẳng có lấy một lá thư. Tôi nhớ quay quắt, tìm xuống Vũng Tàu. Đứng trước biệt thự đồ sộ của ông chủ khách sạn, tôi không dám bấm chuông. Đón xe trở về Long Khánh, tôi ôm đầu nguyền rủa sự nhút nhát của mình.
Một năm sau Tuyết về thăm tôi trên chiếc Dream II màu nho. Tôi sững sờ không còn nhận ra cô thôn nữ ngày nào.

Tuyết bảo tôi:
- Chị Lệ biểu em về nói với anh là chị Lệ cho anh căn nhà của chị, anh bán kiếm ít tiền phòng thân. Chứ người khờ như anh có ngày chết đói. Còn em, em đã có nhà riêng, có xe. Khi nào về Vũng Tàu ghé lại nhà em, em sẽ tiếp đãi anh như vua. “Ông xã” của em lâu lâu mới qua Việt Nam ghé ở vài bữa rồi chạy qua bên đó với bà vợ già của lão, anh đừng ngại…

Tuyết nheo mắt nhìn tôi cười, nói giọng tỉnh queo. Còn tôi ngồi trơ trên ghế mồm há hốc như trời trồng, đầu óc mụ mẫm, mọi thứ xung quanh như quay cuồng chao đảo.
Tuyết đi đã lâu rồi tôi mới sực tỉnh.

Tôi gục xuống bàn.
Tuyết ơi! Tuổi thơ của tôi ơi! Tôi muốn nghĩ ra một đoạn kết thật tuyệt vời cho mối tình của chúng ta, nhưng đã muộn mất rồi!


Nguyễn Một

Hansy
18-09-2014, 12:35 AM
47.

ĐỘC THÂN

Khánh Thảo

Chủ nhật. Nàng dậy muộn. 9h. Nhưng thành phố vẫn êm ái. Không cần vội vã ăn sáng, trang điểm, nàng đi chân trần ra ban công, xoè tay một hồi lâu mới thấy ướt mát. Mưa phù du. Nhưng chân thì lạnh tan. Ngoài ban công không trải thảm. Nền gạch đá hoa nhức buốt toả lên, ngón chân có vẽ hình hoa hồng của nàng, nếu không có lớp sơn diệu vợi kia, thì đã nhìn rõ chúng tím xanh lại.

Lâu lắm rồi miền Bắc mới có mùa đông lạnh như thế. Những ngày giáp Tết, nhiệt độ chẳng khi nào lên được đến 8. Nàng không diện được chiếc vest trắng có nơ đăngten và đầm satin hồng may cho dịp Tết, lúc nào cũng áo măngtô đen thẳm đến ngang bắp chân, khăn dạ màu đỏ chói kéo cao gần đến miệng, và bốt da lên tận gối. Thì cứ nghĩ như Tết năm trước, nắng vàng ươm, trời ấm nóng.

Sau Tết, vẫn còn những ngày lạnh, nhưng không buốt nhiều nữa. Nàng vẫn cố thủ trong măngtô đen. Thân hình cò vạc của nàng không chịu nổi thời tiết khắc nghiệt. Tú vẫn bảo nàng là dáng tiểu thư. Mà nàng thì không thấy thế. Làm việc không ít hơn 10 tiếng một ngày, ăn uống qua loa, không hấp thụ được cá, nói dễ hiểu là nàng ghét những món ăn có liên quan đến từ cá. Mà nào thì cá nhiều đạm nhưng không béo, cá tăng trí thông minh, nàng thì không thích. Hồi bé cũng có ăn, hiện tượng này xuất hiện khi nàng 16 tuổi, sau một cuộc thương nhớ lơ ngơ với một anh chàng mê cá, nàng đâm ra không ăn nổi chúng. Cứ nhìn thấy cá, là nàng tưởng tượng như mình đang đối diện với gương mặt baby mà lòng dạ già cấc của chàng kia, thế là cứ muốn ói ra. Ói cho đến khi cái mùi tanh ám ảnh kia tạm thời lắng mất.

Tú cũng bảo, không chỉ là dáng tiểu thư, nàng còn số tiểu thư. Ba mẹ nàng xuất thân bình thường, làm công chức nhà nước, cuộc sống vừa phải. Nàng cũng học đại học chính quy bằng khá, xin việc ở một công ty chuyên về dự án môi trường, thế là từ đấy vắt kiệt vào lao động trí óc. Không giàu, nhưng cũng thừa tiêu và có được những thứ vừa vặn với cuộc sống độc thân chưa chồng. Chắc Tú nói thế vì cái sự xanh rớt của nàng. Tẩm bổ thế nào cũng không béo, trong khi đó, Tú chỉ là tư vấn viên sức khoẻ cho nàng thì ngày một đầy đặn. Thân hình căng tròn của Tú mang đến cảm giác mạnh mẽ nhưng không khô cứng, đám đàn ông con trai cứ bị hút vào đó.

Nàng mình cò vạc, và không vì thế mà kém người theo đuổi. Gương mặt lanh lợi, tóc nhuộm màu hạt dẻ, tôn lên cặp mắt tròn to sáng long lanh. Miệng rộng sang cảnh, thêm cả khéo trang điểm và ăn mặc, nàng hay Tú đều ưa nhìn như nhau. Có người ngày xưa đã thích cả hai, tán tỉnh cả hai, và bị cả hai cho rớt. Sao mà đánh đổi tình bạn thân vì một gã như thế được?

Ấy vậy mà sáng nay nàng chỉ vận váy ngủ, đi chân trần đứng ngoài ban công hứng mưa. Cơn mưa như từ một góc xa xôi nào đó làm sống lại những xúc cảm khó tả. Bâng khuâng? Xao xuyến? Hay vài từ tương tự. Nàng không biết. Có lẽ là do đêm qua nàng đã quá tâm trạng, vượt qua hết cả những động tính từ kia. Đêm qua là một đêm hoang hoải. Nàng đã giật mình sợ hãi. Nỗi cô độc ập đến, vây hãm nàng, nham hiểm và độc đoán. Cơn say không làm nàng vơi. Nàng như đứng giữa hàng ngàn bóng ma, nhưng không có một đồng loại nào đứng về phía nàng. Không một ai. Kể cả bóng ma của chàng.

Từ lúc nào đó, dường như nàng đã quên chàng. Chàng đi qua cuộc đời nàng, chỉ như một giấc ngủ trưa. Nhưng giấc ngủ ấy gieo vào lòng nàng một men thuốc bất tận, lúc nào hình ảnh chàng cũng lấp loá màu nắng xanh, màu của cái ngày mùa hè chói chang ngồi uống cà phê dưới tán cây trên đường Lý Thường Kiệt. Chàng cao, đẹp như người mẫu, miệng cười quyến rũ. Chàng mặc sơ mi kẻ hồng điệu đà, nhưng manly khó tả. Chàng làm nàng mê mẩn ngay từ phút giây đầu tiên. Tú cười nham nhở trước khuôn mặt thẫn thờ của nàng.

- Nè, anh ta tên Lâm, làm cùng tao đấy!
- Thật hả? Có người như này mà sao chưa từng nghe mày nói đến?
- Thì có dịp gì mà nói, mê rồi phải không? Con gái chỗ tao xôn xao hết cả!
- Ủa, cả mày nữa hả?
- Không, không hiểu sao đó không phải tuýp người của tao.
Chàng ngẩng mặt lên, hướng mắt nhìn về phía nàng và Tú. Tú đưa tay ra hiệu chào, nụ cười của chàng lại nở lần nữa, chàng nói gì đó với mấy người bạn rồi tiến về phía hai người. Tim nàng đập xôn xao.

Đó là lần đầu tiên gặp gỡ. Lần đầu tiên cho mối tình của nàng và chàng. Nhanh. Và ngắn. Chàng và nàng như sinh ra là để cho nhau, đã chờ đợi ngần ấy thời gian để được gặp nhau, để được lao vào vòng tay nhau không so đo tính toán. Mỗi ngày trôi qua đều mang theo một sắc màu dễ chịu. Mỗi ngày, với chàng, là niềm vui bất tận, là hạnh phúc ngập tràn. Chỉ một từ đơn giản nhất, nhưng nhiều ý nghĩa nhất để diễn tả cho vô số sắc thái trong nàng: Tình Yêu. Chàng là người nồng nàn, dịu dàng mà mãnh liệt, chàng làm trỗi dậy, làm xuất hiện trong nàng đam mê, khao khát. Nàng uyển chuyển. Nàng nhịp nhàng kết hợp với chàng. Mỗi đêm bên nhau là mỗi đêm thăng hoa, nàng được thở dốc trong sung sướng, được cười rạng rỡ ghì đầu chàng vào ngực mà thì thào “Em yêu anh”. Chàng vòng đôi tay rắn chắc xiết lấy nàng, đôi khi còn nhấc bổng nàng lên, nàng quá nhỏ bé. Nàng mong manh và chênh vênh trong tay chàng, nhưng tất cả đọng lại chỉ là cảm giác bồng bềnh, rập rờn như sóng biển, như nến thơm, như hoa hồng, như những bản ballad tôn vinh giây phút tuyệt vời của hai người.

Nàng tần ngần rùng mình. Mưa có vẻ khó dứt. Hạt mưa xanh xao. Hơi mưa mơn man. Nàng thèm đến tê dại thứ hơi ấm quen thuộc vẫn như còn váng vất ở gáy, ở tai. Sau một chuỗi ngày dài, hôm nay nàng mới lại dành thời gian để nhớ chàng đến thế. Nàng nhớ những ngày sau Tết năm ngoái, nàng vẫn còn kiêu hãnh ngồi sau xe chàng, khăn choàng trắng mỏng bay lơ đễnh trên phố, giữa dòng người ồn ào, giữa cây lá đơm mầm tí tách hồi xuân. Ai cũng giục hai người kết hôn. Chàng bảo, để cuối năm, vì chàng sẽ có nhà mới, sẽ đón nàng về làm bà hoàng của tổ ấm xinh đẹp đó. Lẽ ra giờ này, nàng đang làm vợ, đang tiếp tục được hưởng tháng ngày thiên đàng cùng chàng. Lẽ ra giờ này, nàng đã làm mẹ. Nàng sẽ ẵm thiên thần bé bỏng của hai người, âu yếm, vuốt ve, và ngắm nhìn không chán cái mũi xinh xinh giống chàng, cặp mắt to long lanh của nàng. Lẽ ra giờ này, nàng phải là người đàn bà hạnh phúc nhất thế gian. Lẽ ra….

Nếu như không có chuyến đi quỷ quái ấy!
Nếu như không có Lệ.
Lệ rủ chàng đi cùng chuyến công tác ấy. Vì Lệ là nhân viên mới, mà chàng lại là người trực tiếp kèm cặp từ hồi Lệ còn là cô sinh viên kinh tế xin vào công ty thực tập. Nàng chưa bao giờ ghen, và quả thực là cũng chẳng có gì để ghen. Vì nàng biết chàng yêu nàng. Chàng và Lệ chỉ như anh em. Mà Lệ có lỗi hay không, khi nài nỉ chàng đi cùng, chỉ nghe phong thanh sau này Tú nói rằng Lệ muốn có cơ hội. Một tuần vắng chàng, hàng trăm tin nhắn không thể làm nguôi vơi nỗi nhớ mong cháy bỏng. Trong tuần đó, nàng có thấy hơi khó ở, định chờ chàng về đưa đi khám bệnh. Nàng muốn tự hào là mình có người yêu biết quan tâm, luôn ở bên nàng, luôn cùng nàng dù ở bất cứ đâu. Thứ 6. Chàng gọi điện là sẽ về đến nơi khoảng 7h tối. Nàng phấp phỏng y như ngày còn bé, mỗi lần chờ một tập truyện tranh mới. Nàng đã chuẩn bị cho một buổi tối lãng mạn. Nàng nghĩ nàng sẽ không thể kìm lòng mà ôm chầm lấy chàng…

- “Em à, anh vừa xuống tới sân bay, chắc một tiếng nữa anh sẽ về đến chỗ em. Anh nhớ em quá chừng….”
- “Anh có qua phòng vé không? Hay em chờ anh ở đó nhé?”
- “Thôi, anh bắt taxi đi cùng Lệ, nhà cô ấy cũng trên đường đến chỗ em, cho cô ấy quá giang luôn”.
- “Thế cũng được. Nhanh lên anh nhé! Yêu anh.”
Từ phút ấy, nàng bồn chồn đi lại và chờ một tiếng chuông cửa. Điện thoại di động chợt reo.
- “Alô, chị có phải người nhà của số điện thoại đang gọi đến này không?”
- “Vâng, ai thế ạ? Anh Lâm đâu ạ?”
- “Anh ấy bị tai nạn, đang ở bênh viện X….”

Nàng không nhớ nàng đã làm gì vào lúc ấy, chỉ biết khi trông thấy gương mặt chàng, nó thật sự đáng sợ. Nó méo mó và dị hợm. Nó làm nàng không muốn nhận đó là người yêu nàng, là người mà nàng vẫn muốn ấp ôm, yêu thương, vẫn muốn làm chồng và làm bố của những đứa con sau này; làm nàng đến tận giờ vẫn không tin rằng, người đã chết ấy là chàng.

Bác sĩ thông báo rằng nàng có thai được gần một tháng. Điều đó không còn là nỗi vui mừng, mà trở thành nỗi hoang mang lo lắng cho nàng. Đó là giọt máu của chàng, nó chắc hẳn sẽ là một đứa bé khôi ngô và thông minh, nó sẽ làm nàng không bao giờ được phép quên chàng. Nhưng nếu nó ra đời, nó sẽ không có bố. Và nàng không dám chắc là mình chịu được áp lực nếu giữ nó lại vào thời điểm này. Đó là một điều ngông cuồng, mà nàng thì chưa đủ can đảm để tạo ra một tiểu thuyết.

Chỉ thế thôi. Mà sau đám tang chàng, nàng lặng lẽ và đau đớn một mình đi phá bỏ sinh linh chưa rõ cả hình hài kia. Một mình. Để rồi không đủ sức đi về nhà. Để rồi nằm đến gần tối trong bệnh viện phụ sản, và phải gọi Tú đến. Nàng xin nghỉ làm cả tuần, những cơn vật vã khóc lóc làm nàng trông như một hình nhân tiều tụy đã bị lũ chim đồng mổ cho tơi bời. Nàng thật sự kiệt sức.

Lạnh làm nàng lao đao. Mưa ngấm vào trong tim nàng. Nhận ra cả thân hình đang lẩy bẩy. Nàng quay người đi vào. Trượt ngã. Đâu đó bóng ma đêm qua của chàng lướt qua nàng rất khẽ…


Khánh Thảo

Hansy
18-09-2014, 10:55 PM
48.

ĐỘC THOẠI

Hương Ngọc

1.
Đám cưới Phiên, tôi rủ Minh cùng đi, cũng gọi là hình thức ra mắt với lũ bạn. Đám bạn của tôi bao giờ cũng cho ý kiến nhận xét vô tư lắm. Hãnh diện đi bên anh, cảm giác mình như một đứa bé gái được mẹ sắm cho một bộ quần áo mới, tôi hồi hộp nhìn lũ bạn, chờ xem bọn chúng chấm điểm. Lũ con gái kháo nhau:
- Đẹp trai nhỉ.
Bọn con trai lại bảo:
- Thế là bọn mình đã mất Thuyên rồi.

Không phải bọn nó thương tiếc gì đâu, mà chỉ vì nếu tôi có người yêu thì tụi nó không còn biết rủ ai đi cà phê khi có chuyện buồn. Tôi cứ như cái thùng rác của bọn nó. Hễ có chuyện gì hay mới đi công tác về là bọn nó lại đến nhà, lôi tôi ra và thả tôi ở một xó nào đó trong quán cà phê. Tôi uống cà phê, bọn nó uống rượu và vứt vào thùng rác những chuyện lăng nhăng lùng nhùng. Còn bây giờ, có lẽ thời gian cho bọn nó chắc cũng bị cắt xén không nhiều thì ít. Ai cũng nhìn tôi bằng cái nhìn hơi khác, chẳng phải vì hôm nay tôi đẹp hơn ngày thường. Chỉ có thằng Cường là bộc trực hơn cả:
- Có thật là Thuyên đang yêu không đấy ?

Thì sao nhỉ? Có lẽ là nó không ngờ một cục gạch như tôi mà cũng có bồ. Mới quen nhau một tuần mà lời ong tiếng bướm đã vo ve. Điều đó khiến tôi bỗng thấy ngại mỗi khi có việc phải đi ngang con đường vào nhà anh, vậy mà mắt vẫn không thể không lấm la lấm lét nhìn vào căn nhà có giàn hoa giấy vàng vàng trắng trắng ấy. Những lúc như vậy tôi có cảm giác phạm tội ăn cắp của ngôi nhà ấy một cái gì đó giá trị lắm.

Mà cũng phải thôi, ai cũng cho rằng tôi không xứng với Minh. Này nhé: cao một mét bảy tám, việc làm ổn định, lương tháng vài triệu, con trai út, anh chị đã có gia đình, tài sản một chiếc Win (tôi leo lên đó được... bốn lần). Với cái lý lịch ngang ấy của Minh, chuyện tình của tôi và anh bỗng trở thành đề tài nóng hổi vừa thổi vừa bán của mấy người ở cơ quan anh. Đàn vịt giời ở đấy kêu to lắm!

2.
Minh vừa được thăng chức phó phòng. Tiếp theo là thay đổi. Anh "chảnh" từ cái chức phó phòng "chảnh" đi. Và, đôi khi tôi nhận thấy trong suy nghĩ của anh, tôi không phải là người được việc. Cứ nhìn kiểu nói chuyện của anh thì biết. Huơ tay trái, múa tay phải và cuối cùng là "Em có hiểu không?". Một tỉ lần em có hiểu không như vậy thì lòng kiêu hãnh của tôi bắt đầu lên tiếng. Tôi - con bé vừa tốt nghiệp đại học, chân ướt chân ráo tấp tểnh vào đời, gương mặt khờ khờ như thằng Bờm, một cái nhìn thôi cũng đủ làm mình tổn thương, vậy mà dám cả gan nộp đơn vào đài truyền hình tỉnh. Ước ao rồi sẽ có một ngày, tôi vác camera nghênh ngang đi vào cơ quan anh, cho anh và đàn vịt giời ở đấy... lé mắt luôn.

Ngày nhận giấy báo trúng tuyển, tôi gọi Minh ra, phất phất tờ giấy trước mặt anh với vẻ hí hửng. Anh bảo:
- Em lớn rồi, suy nghĩ cho người lớn một chút. Đừng trẻ con như thế.

Tôi không là trẻ con. Hình như ý tưởng trả thù này là động lực thôi thúc tôi từ mấy tháng nay. Nhưng mà, để làm được cái việc trả thù trẻ con này tôi phải mất thêm vài năm. Chả biết đến lúc đó, tôi với anh có còn yêu nhau nữa không? Và lúc đó chả biết tôi có còn hứng thú để trả thù nữa hay thôi...

Khi cho Minh biết tin tôi chuẩn bị đi làm, anh có vẻ mừng lắm:
- Em đi làm anh cũng mừng chứ em cứ như vậy anh cũng chẳng biết phải làm sao.
Chẳng biết là anh nói thật bao nhiêu phần trăm nhưng nghe cũng mát dạ. Bắt chước lũ con Phiên, Cầm, tôi cũng bôi xanh xanh đỏ đỏ lên mặt, hân hoan bước vào công việc mới. Ngày đầu tiên đi làm thật chẳng thong thả tí nào, nhất là khi bôi cái thứ xanh xanh đỏ đỏ lên mặt. Vậy mà ai đó lại bảo phụ nữ đánh dấu sự trưởng thành của mình bằng việc trang điểm. Tôi chả tin.

Hôm làm chương trình Tết, bận túi bụi đến tận hai mươi chín, tối bảy giờ tôi mới mò về nhà. Tham công tiếc việc. Thằng em tôi bảo:
- Không có bà chắc đài truyền hình đóng cửa quá.

Còn cha tôi nhăn quá trời, cơn giận của người lớn tuổi bắt đầu bằng sự im lặng. Tôi gọi đó là áp thấp nhiệt đới. Cuống cuồng dọn dẹp, cuống cuồng giặt giũ, tôi tự hỏi con người sao cứ bắt mình phải khổ vì những ngày này như vậy. Nhắm mắt mở mắt, ba ngày xuân đã qua cái vèo, còn hối hả hơn khi người ta dọn dẹp cuối năm. Nó chẳng kịp cho tôi làm mới chính mình. Tôi còn như cũ mèm đi.

Còn lũ bạn, chúng há hốc mồm nhìn tôi như một sinh vật lạ. Từ hồi nào đến giờ, tôi chưa bao giờ nỡ bỏ một chuyến đi chơi với bạn bè. Vậy mà mấy ngày làm chương trình tết, tôi biến đâu mất. Sáng ba mươi tết, tụi nó bắt cóc tôi ra quán cà phê. Phiên hỏi:
- Có còn nhớ tên họ của mình không? Coi chừng cầm ổ bánh mì mà không biết cắn đầu nào trước bây giờ.

Bất giác tôi đưa tay lên đầu, gõ thử cái cốp, thấy đau đau lòng khấp khởi mừng. Chắc cũng không đến nỗi như lũ bạn tôi hù dọa.

Còn thời gian nào cho Minh, tôi cứ đi miết, khi cần chả biết tìm ở đâu. Một lần nào đó, anh bâng quơ:
- Có mỗi việc là làm cho anh vui mà em cũng không làm được sao?
Chỉ có thế thôi cũng đủ cho tôi hiểu rằng mình phải có trách nhiệm với từng niềm vui nỗi buồn nhỏ bé của anh.

Thế rồi, công việc cứ cuốn tôi đi. Phóng sự tiếp nối phóng sự, bản tin tiếp nối bản tin. Ý định trả thù đậm chất trẻ con ngày xưa như tan biến đâu mất, chỉ còn lại một tôi cứ như cái đèn cù chạy vòng vòng với ý tưởng cho chương trình mới. Thỉnh thoảng sực nhớ vội đưa tay lên gõ đầu cái cốp, thấy đau đau chỉ để biết rằng mình vẫn còn là mình.

Sáng nay, ý tưởng của tôi đã được duyệt. Tôi như đang ở chín tầng mây, sắp tới chắc sẽ còn bận nhiều. Nghĩ tới cái ngày vác camera nghênh ngang đi vào cơ quan anh không còn xa, tôi như muốn cất cánh bay... Và, trong khoảnh khắc ấy, ý nghĩ mình phải có trách nhiệm với từng niềm vui, nỗi buồn của anh bỗng hiện về...

3.
Còn bây giờ tôi ngồi đây. Một mình và chẳng biết phải làm gì với ý tưởng trả thù đậm chất trẻ con của mình khi mà Minh chẳng còn ở bên tôi nữa. Có lẽ khi người ta chán nhau rồi thì một hạt bụi cũng có thể trở thành nguyên cớ. Minh và tôi cũng vậy. Anh xa tôi với một lời giải thích đã được gọt giũa cẩn thận:
- Chúng mình không hợp nhau đâu. Mình chia tay thôi.

Chỉ có thế thôi, mà tôi thấy đau lòng quá. Và tôi, một phụ nữ da trắng tóc dài với trái tim nhạy cảm như sợi dây đàn, từng tích tắc đi qua tôi thấy rằng mình đang sống trong một thế giới nghiêng. Nghiêng từ tình yêu của anh nghiêng đi...

Bọn con Phiên bảo:
- Thằng Minh của mày lên chức rồi, đi đây đi đó nhiều, thấy đèn xanh đèn đỏ nên bỏ đèn dầu là phải chứ gì.

Tôi mà là đèn dầu á? Không dám đâu, tôi là đèn cù đấy chứ. Mấy tháng nay quay vòng vòng với công việc, lúc ngoảnh lại thì chẳng còn gì...

Mỗi sáng tỉnh dậy mới thấy hết cái trống trải của cảm giác đã mất đi một cái gì to tát lắm. Ngẩn ngơ đi ra đi vào, thẫn thờ buồn mất mấy ngày, rồi thôi. Bọn con Phiên chịu tôi ở điểm này lắm, bọn nó bảo còn khuya tụi nó mới sắm được bộ mặt tỉnh queo như vậy. Kệ, đau khổ thì đau khổ nhưng cho hắn biết mình đau khổ thì không bao giờ, nghe chưa! Tôi ừ mà nghe mũi mình cay cay. Chỉ buồn một điều rằng, Minh yêu tôi cơ mà, sao lại mang hết niềm tin của tôi mà đi như thế?

Một vài lần nào đó, tình cờ trên đường tôi chợt thấy anh, khi thì đang cười cười với cái di động bên tai, khi thì đang phóng xe đèo theo một con bé nào đó có vẻ mi nhon lắm, cười sáng cả một góc đường. Bọn con Cầm nói đó là người yêu mới của anh. Tôi cười mà chả biết mình cười vì cái gì. Đi qua một cuộc tình bỗng thấy mình người lớn hơn, vững chãi hơn và già dặn hơn rất nhiều. Thì ra tôi vẫn chỉ là một cô bé theo đúng nghĩa của nó - không biết giữ tình yêu cho mình. Nói như Phiên vẫn thường nói: "Tình yêu như cánh chim, nếu không biết giữ nó sẽ bay đi mất". Có lẽ tình yêu của Minh là cánh chim thật, nó đã bay đi đằng nào, chẳng kịp cho tôi nhận ra rằng Minh của tôi cũng giống như một cậu bé, thích được quan tâm chăm sóc.

Bây giờ tôi ngồi đây, gom tất cả những gì đã đến, đã qua và đã xa mà săm soi, ngắm nghía. Sao vẫn thấy đau ở phía trái tim. Hột muối mặn trăm năm còn mặn, củ gừng cay sáu tháng còn cay. Vậy mà, tình yêu của Minh với tôi mới đấy đã phai, làm sao mà không đau. Tận trong sâu thẳm của lòng mình, tôi rất muốn quên Minh đi, vậy mà sáng sáng chiều chiều mỗi khi ra đường tôi lại cố gắng tìm trong trăm trăm ngàn ngàn gương mặt, một gương mặt tôi nghĩ là của mình, để rồi mỗi tối đi ngủ chỉ muốn ngủ luôn chẳng bao giờ trở dậy nữa...

Chưa bao giờ tôi thấy mình chông chênh như vậy, tựa hồ dựa cây cây ngã, dựa bờ bờ xiêu...

4.
Chiều. Chiều rồi. Điện thoại reng tơi bời. Mọi người í ới rủ nhau đi chơi giải trí. Mới đó mà đã hết ngày. Tôi cũng sửa soạn ra về. Ông bảo vệ già đang rị mọ với chiếc xe đạp cà tàng, chào tôi bằng một câu đùa:
- Thời gian cứ qua, chẳng kịp cho người già chúng tôi làm được gì cả. Ở tuổi tôi bây giờ có nhiều điều để nuối tiếc lắm cô ạ.

Tôi phóng xe đi, cảm thấy mình vẫn còn thời gian để nhặt về một lời khuyên. Đôi khi nó cũng giúp tôi vượt qua những ghềnh thác của chính mình. Tôi chưa từng biết rằng khi cuộc tình kết thúc, người ta lại đau lòng đến vậy. Lòng kiêu hãnh làm tôi đau nhiều hơn tôi tưởng. Thế mà nó lại không cho phép tôi khóc...

Và lũ bạn của tôi lại đến, lôi tôi ra khỏi mớ lăng nhăng lùng nhùng đó và thả tôi ở một xó nào đó trong quán cà phê. Bọn nó uống rượu, tôi uống cà phê. Vẫn như xưa nhưng tôi bây giờ đã khác nhiều với ngày xưa. Dạo này tôi bỗng thèm nghe nhạc Trịnh, để ru tình, ru mình. Uống cà phê, mê nhạc Trịnh - có lẽ tôi sẽ trở thành một con người khác, nhẹ nhõm hơn, thánh thiện hơn. Mỗi ngày tôi sẽ chọn cho mình một niềm vui. Niềm vui tiếp nối niềm vui, tôi sẽ quên Minh mau thôi.

Và tôi lại lao vào công việc. Đôi lúc cũng ngu ngơ hỏi lòng, có phải là để chứng tỏ mình với người ta không mà sao mải mê thế. Rồi buồn. Ước ao có một ngày nào đó, tôi lại đứng trước mặt Minh để nghe anh nói rằng: "Ở tuổi anh bây giờ có nhiều điều hối tiếc lắm", như ông bảo vệ già cuối đời mãi nuối tiếc những điều đã qua. Đôi khi người ta cũng không biết rằng mình đã ném đi cục vàng để nhặt về cục đất. Nhưng ước ao của tôi cũng chỉ dừng lại ở đó. Mấy mùa xuân đã qua rồi mà sao tôi vẫn còn thấy đau ở phía trái tim. Ừ, còn buồn, còn đau, còn muốn chứng tỏ mình có nghĩa là còn yêu anh ư?
Lũ bạn của tôi vẫn nói nói cười cười. Ông bảo vệ già vẫn rị mọ với những nuối tiếc của tuổi già. Và tôi, mấy năm qua rồi, Minh của tôi chắc gì còn nhớ đến một mối tình đã trôi qua, vậy mà tôi vẫn cứ mãi nhọc lòng với một vết thương.

Quân tử mười năm trả thù vẫn còn kịp. Mong rằng chưa tới mười năm thiên hạ đã thái bình...


Hương Ngọc

Hansy
21-09-2014, 11:37 PM
49.

ĐÓI

Thạch Lam

Một cơn gió lọt vào làm Sinh tỉnh giấc. Anh ta thấy cái hơi lạnh của mùa đông thấm qua lần chăn mỏng, và thấy người mệt mỏi vì suốt đêm đã co quắp trên chiếc phản gỗ cứng.
Sinh cuốn chăn ngồi dậy. Thế là, cũng như những buổi sáng khác, một cái buồn rầu chán nản, nặng nề ở đâu đến đè nén lấy tâm hồn.

Những đồ vật quanh mình ẩn hiện trong bóng tối lờ mờ khiến Sinh lại nghĩ đến cái cảnh nghèo nàn khốn khó của chàng. Một cái bàn con xiêu vẹo bên góc tường, một cái chõng tre đã gẫy dăm ba nan, một cái ấm tích mất bông và mấy cái chén mẻ, nước cáu vàng... Trong cùng, một cái hòm da, dấu vết còn lại, của cái đời phong lưu độ trước...
Tất cả đồ đạc trong căn phòng chỉ có thế. Mà đã lâu lắm, quanh mình Sinh vẫn chỉ có những thứ đồ tồi tàn ấy, đã lâu lắm chàng đến ở cái căn phòng tối tăm, ẩm thấp này. Những ngày đói rét không thể đếm được nữa. Tiếng gió vi vút qua khe cửa ban đêm chàng nghe đã quen, cả đến cái mệt mỏi lả đi vì đói, chàng cũng đã chịu qua nhiều lần rồi.

Sinh thở dài. Chàng nhớ lại cái ngày bị thải ở sở chàng làm, cái giọng nói quả quyết và lạnh lùng của ông chủ, cái nét mặt chán nản, thất vọng của mấy người anh em cùng một cảnh ngộ với chàng... Từ lúc đó, bắt đầu những sự thiếu thốn, khổ sở, cho đến bây giờ...

Một tiếng guốc ngoài hè làm cho Sinh ngẩn lên trông ra phía cửa: vợ chàng về. Nàng vén cái màn đỏ treo ở cửa bước vào. Sinh thoáng trông cái thân hình của vợ in rõ trên nền sáng, một cái thân thể mảnh giẻ, gầy gò trong chiếc áo the mỏng phong phanh. Cảnh tượng ấy làm cho chàng xót thương...

Vợ chàng đi lại cạnh giường, yên lặnh nhìn Sinh không nói gì.
Sinh vơi lấy tay nàng kéo xuống bên mình, âu yếm hỏi :
- Em đi đâu mà sớm thế?
- Em lại đằng bà Ba ở cuối phố vay tiền.
Thế có được không?
Vơ Sinh nhìn chồng, thở dài lắc đầu :
- Ai cho chúng mình vay bây giờ. Bà ấy còn nhớ đâu đến khi trước vẫn nhờ vả mình.
Sinh buồn rầu, nói một cách chán nản:
- Thói đời vẫn thế, trách làm gì. Nhưng bây giờ làm thế nào?

Chàng nghĩ đến cái thạp gạo đã hết, mà trong túi không còn được một đồng xu nhỏ... Đã hai hôm nay, chàng và vợ chàng thổi ăn bữa gạo cuối cùng, đã hai hôm, cái đói làm cho chàng khốn khổ...
- Làm thế nào?

Vợ chàng nhắc lại câu hỏi ấy, rồi cúi mặt khóc. Một mối tình thương tràn ngập vào trái tim chàng như một làn sóng mạnh. Sinh nắm chặt lấy tay vợ ôm vào lòng, đắm đuối, thiết tha. Chàng chỉ muốn chết ngay lúc bấy giờ để tránh khỏi cái nghèo khốn khó, nặng nề quá, đè ở trên vai...

Buổi chiều đến đem theo những cơn gió lạnh lùng. Sinh bắc ghế ra cái hiên nhỏ trước cửa phòng, tựa vào bao lơn nhìn xuống nhà... Chỗ chàng thuê ở là một căn nhà hẹp và dài, chia làm nhiều phòng. Mỗi gian phòng là một gia đình che chúc ở, toàn là những người nghèo buôn bán ở các nơi.

Giờ này là giờ họ làm cơm. Trong thấy họ tấp nập làm lụng, Sinh lại nghĩ đến cái bếp nhà mình bây giờ vẫn còn tro lạnh, chàng lại lo không biết vợ đi từ sáng đến giờ sao mãi không thấy về, mà về không biết có đem cái gì không, hay lại chỉ một mối thất vọng như nhiều lần...

Nghĩ đến, Sinh lại đem long thương, thương người đàn bà xưa nay vẫn quen thói đài điếm phong lưu, mà bây giờ phải chịu khổ vì chàng... Hai bên gặp gỡ nhau trong một tiệc rượu dưới xóm cô đầu. Hồi ấy, chàng còn là một người có việc làm, còn là một người có lắm tiền. Quen biết nhau, rồi yêu mến nhau, chàng đã chẳng quản sự ngăn trở của nhà lấy nàng về. Đôi vợ chồng đã cùng nhau sống những ngày sung sướng, ái ân, những ngày còn để lại trong trí chàng một kỷ niệm êm đềm, mà mỗi khi nghĩ tới, chàng không khỏi bồi hồi. Rồi sự nghèo nàn đến, đem theo những cái nhọc nhằn, khổ sở, đem theo những ngày đói rét.

Tuy vậy, sự khổ sở chàng nhận thấy không làm cho vợ chàng bớt tình yêu đối với chàng. Cũng vẫn nồng nàn, đằm thắm như xưa, cái ái tình của đôi bên chỉ có thêm màu cay đắng vì xót thương nhau.

Cái hình ảnh một thân thể yếu đuối, mảnh giẻ in trên nền trời sáng buổi sớm mai lại thoáng hiện ra trước mắt Sinh. Chàng nhớ lại cái thất vọng không vay được tiền, đôi con mắt buồn rầu, đắm đuối nhìn chàng như ngụ biết bao nhiêu âu yếm, bao nhiêu hy sinh.
Một cơn gió đến làm cho Sinh thấy lạnh buốt tới xương. Chàng thấy đói, một sự đói vô cùng như trong đời chàng chưa thấy bao giờ. Đói như cào ruột, làm người chàng mệt lả đi, mắt hoa lên, trong vật gì cũng lờ mờ như lay động.

Khi còn đủ ăn, đủ mặc, chàng không hề để ý đến cái đói, không bao giờ nghĩ đến. Bây giờ chàng mới được hiểu biết cái đói như thế nào. Chàng rùng mình khi nghĩ đến trước cái mãnh liệt của sự đói, chàng cảm thấy sự cần dùng của thân thể tràn áp đuợc hết cả những lệ luật của tinh thần.

Mùi xào nấu đồ ăn ở dưới sân nhà đưa lên làm cho chàng khó chịu vô cùng. Sinh cúi đầu trên bao lơn nhìn xuống xem họ làm bữa cơm chiều. Các thức ăn tuy tầm thường, nhưng Sinh lấy làm lạ rằng chàng chưa bao giờ thèm muốn những cái đó như chàng thèm muốn bây giờ. Mấy miếng đậu vàng trong chảo mỡ phồng dần trên ngọn lửa, mấy con cá rán bắt đầu cong lại làm cho chàng ao ước đến rung động cả người...
Không bao giờ chàng thèm muốn như bây giờ cái miếng ăn kia.

Trước kia, khi nghe chuyện người ta tranh giành nhau vì miếng ăn, chàng vẫn mỉm cười khinh bỉ. Chàng cho rằng miếng ăn là một sự không đáng kể, chỉ có cái thanh cao trong sạch của linh hồn mới là cần. Nhưng bây giờ, trong cái phút đói này, chàng mới thấy rõ cái cần mạnh mẽ của miếng ăn là thế nào.

Và chàng, trước kia phong lưu trưởng giả, trước kia khi đi qua đám bình dân bẩn thỉu và nghèo nàn này, chàng vẫn khinh và tự hỏi không biết họ sống để làm gì, sống để mà khổ sở, để mà đói rét, không biết sống đối vơi họ có ý nghĩa gì mà còn ham mê quyến luyến. Bây giờ chàng lại ao ước được một miếng ăn như họ để sống qua cái rét mướt bây giờ...

Một bàn tay nhẹ nhàng để lên trên vai Sinh quay lại, vợ chàng tươi cười, giơ ra trước mặt mấy cái gói giấy bóng, gọn gàng, sạch sẽ, mà chàng thoáng trông, Sinh cũng nhận biết ngay là những thức ăn được, mà rất ngon, ở các hiệu tây mới có. Mùi thịt ướp và mùi giò thoang thoảng đưa qua. Sinh rung động cả tay khi lần cởi những giây buộc chung quanh. Chàng sung sướng hỏi:

- Ồ! Ở đâu thế này? Em Mai lấy tiền đâu mà mua thế?
Mai nghe Sinh hỏi:
- Anh cứ ăn đi đã! Ăn cho đỡ đói, rồi em kể chuyện cho anh nghe. Thật là may quá, mà cái bà ấy thực phúc đức quá, anh ạ...
- Ai thế? Kể đi cho anh nghe.
Mai âu yếm nhìn chồng:
- Không, anh cứ ăn đi đã kia. Vừa ăn, em sẽ vừa nói chuyện...

Rồi nàng nhanh nhẹn đặt mấy cái gói giấy lên bàn, mở những tờ giấy bọc ngoài. Sinh nhìn thấy mấy miếng thịt ướp hồng hào, mỡ trắng và trong như thủy tinh, mấy khoanh giò nạc mịn màng, mấy cái bánh tây vàng đỏ...
Mai cất tiếng vui vẻ:
- Thế này nhé, em ở nhà đi cũng là đi liều chứ thật không biết đến nhờ vả ai được. Anh còn lạ gì các bạn hữu bây giờ: họ thấy mình nghèo khổ, thì ai người ta giúp, vì có mong gì mình trả lại người ta được. Vì thế em mới lang thang ngoài phố, nghĩ lúc bấy giờ cực thân quá, anh ạ, chỉ muốn đâm đầu xuống sông cho rảnh...May quá, vừa lúc ấy, lại gặp ngay bà Hiếu, một người quen biết từ trước. Bà trông thấy em, vồn vã hỏi han như người bắt được của...

Mai nói nhanh, liếng thoắng:
- Bà tử tế quá... Cho em vay tiền, lại còn hứa giúp vốn để em buôn bán nữa. Rồi nay mai, em đi buôn cau, anh nhé. Thật không ngờ có bà biết thương người đến như thế...
Sinh sung sướng:
- Nếu không thì chúng ta đành nhịn đói ngày hôm nay. Nhưng sao em mua hoang thế này?
Mai cúi đầu cười, hai má đỏ hồng, mấy sợ tóc rối tung trên trán càng tăng thêm vẻ kiều mỵ của nàng.
Nàng thò tay vào trong túi áo, rút ra một tập giấy bạc, vứt ra trước mặt Sinh rồi nhanh nhẹn vui vẻ bước vào trong nhà.
- Anh đợi em một lát, em đi lấy dao cắt bánh.
Nàng quay lưng đi, Sinh chợt trông thấy trên mặt đất một mảnh giấy gấp rơi xuống đất. Chàng vô tình cúi xuống nhặt lên mở ra đọc:

Em Mai,
Đây, anh đưa em số tiền anh đã hẹn. Em muốn lấy nữa, anh sẽ cho em nốt, nhưng thế nào tối nay em cũng phải đúng hẹn đến đấy, anh đợi...
Tờ giấy trên tay Sinh rơi lúc nào chàng cũng không biết. Một cái sức nặng nề như đè nén lấy quả tim, làm cho chàng ngừng thở. Hình như một giây phút, bao nhiêu cái hy vọng sung sướng của đời chàng tan đi mất.

Sinh tưởng có thể chết ngay trong lúc ấy. Cái đau đớn chàng cảm thấy thấm thía, và sâu xa quá.

Còn mong gì đó là một sự không thật, một giấc mộng nữa. Không còn phải ngờ vực gì, cái số tiền kia chính là cái số tiền bên trong thư này. Ai cho vay mới được chứ! Sinh nhớ lại những ngày đi hỏi tiền, những buổi trở về thất vọng và buồn rầu, những lời tha thiết và oán hờn của vợ chàng kể lại, về cái lãnh đạm, hững hờ của những người nàng quen biết. Bà Hiếu là bà nào! Chẳng qua là một sự bịa đặt ra để che mắt chàng.

Sinh thấy cơn giận dữ nổi lên mãnh liệt trong lòng; đôi môi chàng tự nhiên nhách lên một cách khinh bỉ, chàng run người lên, khẽ rằn từng tiếng:
- Đồ khốn nạn.

Quả tim buốt như có kim đâm. Sinh nắm chặt lấy thành ghế, nhìn cuốn bạc giấy để trên bàn, nhìn gói đồ ăn đang mở dở rồi cúi mình xuống nhặt tờ giấy gấp lên.
Một lát, yên lặng. Rồi Sinh nghe rõ tiếng tấm màn vải ở cửa vắt lên trước gió, tiếng dép đi nhẹ nhàng, gần đến bên chàng... Sinh cố hết sức cắn môi để đè nén cơn giận dữ đang sôi nổi trong lòng, nắm chặt tay hơn nữa cho khỏi rung động cả người.

Tay vuốt nhẹ trên tóc Sinh, vợ chàng đưng sát hẳn ngay bên người. Nàng giở giấy ra, lấy dao cắt bánh, vui vẻ:
- Anh xem bánh này có ngon không? Em mua ở hàng Trống kia đấy. Miếng thịt ướp này là hạng ngon nhất, em đã phải trả đến năm hào đấy, anh ạ. Để em cắt cho anh nhé. Hinh như anh đói lắm thì phải. Em cũng thế. Thôi chúng ta hãy ăn cho no đã, rồi sẽ liệu sau...

Nàng cắt xong miếng thịt ướp, xếp lên đĩa, tươi cười nói tiếp:
- Kìa, anh ăn đi chứ? Thật là may cho chúng mình quá. Nếu hôm nay em không gặp bà Hiếu thì không biết chúng ta làm thế nào nhỉ?
Nàng vỗ vào vai Sinh, lay chồng:
- Làm thế nào? Lại nhịn như mọi hôm, chứ còn làm thế nào nữa, anh Sinh nhỉ! Anh nên cám ơn bà ta đi. Bà thật là một người tốt, hiền hậu biết thương người. Em vừa mở miệng hỏi, thì bà đã lần ruột tượng đưa ngay cho em 15 đồng tất cả đấy, anh ạ...Cuốn giấy bạc anh chưa đếm à? Em không nói dối anh đâu.

Cái giận của Sinh lên đến cực điểm: chàng không nén nổi nữa. Cái tên bà Hiếu làm chàng uất ức, vì chàng rõ những nhời giả dối của vợ chàng, giả dối một cách khôn khéo, tự nhiên như thật vậy...Mai lại đến nỗi như thế ư? Đôi mắt trong, cái khuôn mặt hiền hậu như thế kia không ngờ lạicó thể giấu được những sự tối tăm như bây giờ...
Vùng mạnh cánh tay, Sinh hất Mai ra xa như người ta hất một con vật đáng ghê sợ. Mai lảo đảo lùi lại sau ngã dúi vào tường, vành khăn tung, tóc xổ. Nàng giương to con mắt ngạc nhiên nhìn chồng:
- Ô hay! Anh làm sao thế?

Sinh cất tiếng cười, hai hàm răng rít lên, cái tiếng cười ghê gớm như tiếng cười của một người điên:
- Làm sao à? Cô lại còn hỏi tôi tại làm sao nữa...Thôi, đừng vờ đi, đừng giả dối nữa...
Sinh mở bàn tay giơ ra tờ giấy gấp đã nát nhàu:
- Thế cái giấy gì đây mới được chứ?
Mai trông thấy mặt xám đi, hai tay ôm lấy đầu, người run lẩy bẩy. Giọng nói của Sinh càng thêm vẻ chế riễu, mỉa mai, chua chát:
- Bà Hiếu tử tế đấy! Úi chà! Nào là bà ấy tử tế, nào là thương người, nào là hiền hậu... Sao không nói, bà ấy hẹn đến đêm nay lại đến nữa.

Mai cúi đầu ôm mặt khóc nức nở. Cái tiếng khóc ấy không làm cho Sinh bớt giận, lại chỉ làm tăng thêm lên như ngọn lửa đổ thêm dầu. Càng nói Sinh lại càng thấy cái giận như sôi nổi, bồng bột trong lòng. Mai sợ hãi nép vào tường, thổn thức, ngập ngừng, khẽ gọi:
- Anh Sinh...Anh...
Sinh như không nghe thấy tiếng, nói luôn:
- Cô còn khóc làm gì nữa... Cô đi ngay đi, đi ra khỏi cái nhà này, tôi không muốn thấy mặt cô một phút nào nữa. Cô cầm lấy cái này...

Sinh giơ tay vơ cuốn giấy bạc trên bàn ném mạnh vào người Mai; giấy bạc tung ra rơi lả tả trên thềm. Chàng hất cả mấy gói đồ ăn xuống đất, những mẫu bánh, miếng thịt bắn tung tóe dưới bàn...
- Không ai thèm ăn những thứ khốn nạn này!

Rồi chàng mệt nhọc ngả người trên ghế, hai tay dây mỡ ôm lấy trán, không để ý đến Mai đang sợ hãi giơ tay về phía chàng cầu khẩn, van xin. Rồi nàng nấc lên khóc, kéo vạt áo che mặt, đi ra phía ngoài.

Sinh cúi đầu ngẫm nghĩ; cái giận dữ đã tan đi, đểlại một nỗi buồn rầu chán nản vô cùng. Sinh thấy trong lòng nguội lạnh, một cảm giác lạnh lùng như thắt lấy ruột gan. Nghĩ đến những ngày đói rét khổ sở đã qua, đến mấy năm sống trong cảnh nghèo nàn, Sinh uất ức căm giận cho cái số phận của mình. Nhưng tại sao lại có thêm một sự đau đớn nữa? Tại sao Mai trước kia đã từng bao phen khổ sở cùng chàng, đến bây giờ đem thân bán đi lấy một vài đồng bạc, tại sao Mai lại làm sự khốn nạn như giờ...

Bao nhiêu đau đớn trong tâm can làm Sinh thổ thức, nghẹn ngào. Quả tim không đủ chứa nổi nỗi đau thương, Sinh gục xuống bàn.

Một cơn gió hắt hiu thổi đến làm cho chàng rùng mình. Bỗng nhiên tất cả người chàng chuyển động: chàng vừa thoáng ngửi thấy cái mùi thơm và béo của những miếng thịt ướp mỡ còn dính ở tay.

Cơn đói lại sôi nổi dậy như cào ruột, xé gan, mãnh liệt, át hẳn cả nỗi buồn. Chàng muốn chống cự lại, muốn quên đi, nhưng không được, cái cảm giác đói đã lan ra cả khắp người như nước triều tràn lên bãi cát. Mỗi lần cơn gió, mỗi lần chàng ngửi thấy mùi ngậy béo của miếng thịt ướp, mùi thơm của chiếc bánh vàng, mũi Sinh tự nhiên nở ra, hít mạnh vào, cái mùi thơm thấu tận ruột, gan, như thấm nhuần vào xương tủy.
Sinh cúi xuống nhìn gói đồ ăn tung tóe dưới bàn, chàng lắm lét đưa mắt nhìn quanh, không thấy Mai đứng đấy nữa... Khẽ đưa tay như ngập ngừng, sợ hãi, Sinh vớ lấy miếng thịt hồng hào.

Sinh ăn vội vàng, không kịp nhai, kịp nuốt. Chàng nắm chặt miéng thịt trong tay, nhây nhớp mỡ, không nghĩ ngợi gì, luôn luôn đưa vào miệng...

Trong gói giấy, đồ ăn đã hết, chỉ còn những cái vụn nhỏ dính trên mặt giấy bóng mỡ. Sinh thấy nóng ran trong bụng. Chàng ưỡn người ra đằng sau khoan khoái thở dài. Nhưng chàng nhớ lại bức thư, cuốn giấy bạc, nhớ lại tiếng khóc thổn thức của Mai nép bên tường, nhớ lại những lời khinh bỉ, mỉa mai, chua xót. Chàng nhớ lại nỗi uất ức, đau đớn của mình...

Một cái chán nản mênh mông tràn ngập cả người. Sinh lấy hai tay ôm mặt, cúi đầu khóc nức nở.


Thạch Lam

Hansy
24-09-2014, 04:43 AM
50.

MỘT BUỔI ĐI SĂN

Dương Bình Nguyên

Từ cầu thang nhà Kỳ nhìn sang, những triền rừng lúc nào cũng mươn mướt xanh. Đó là những bụi giang bụi nứa lớn, những thân cây gỗ đang tuổi lớn và dây nhợ đeo bám nhằng nhịt. Thảng hoặc mới có những cây chò chỉ, cây sồi cổ thụ lớn mọc trội hẳn lên. Kỳ bảo đó là mắt rừng, nó như một sự minh chứng cho việc rừng vẫn còn tồn tại. Tôi chỉ nghe Kỳ nói về rừng nhiều, chứ thực tình những chuyến đi rừng của tôi rất ít. Bố tôi là một người nghiêm khắc. Ông muốn trui rèn tôi thành một người học hành tử tế hơn là một người thợ rừng bình thường. Vì thế tôi chỉ được theo bố đi săn vào những ngày trời nắng và rất đông người.

Tôi đã sướng đến khi Kỳ bảo: “Mày muốn đi săn thì chuẩn bị súng sang nhà tao”. Tôi đã rất công phu chọn lựa trong số súng kíp của bố để tìm một khẩu ưng ý, chuẩn bị những thứ cần thiết và sang ngủ nhà Kỳ từ đêm hôm trước để sáng sau lên đường.
Buổi sáng. Mặt trời đã lên bằng con sào. Sương đang dần tan. CHúng tôi nai lại quần áo cho chặt, buộc con dao săn một bên hông và một bên là bi đông nước. Kỳ khoác súng lên vai, hỏi: “Xong cả chưa ?”. Tôi bảo: “Rồi. Có cho Sao đi không ?”. Kỳ khẽ gắt: “Con nhóc cho đi làm gì. Con gái lẽo nhẽo theo đuôi. Rõ ghét”. Sao chạy từ trong bếp ra, hai má đỏ bừng, tóc đỏ lông ngựa, nói như hụt hơi: “Không cho em đi, chiều em mách bố là anh bỏ nương đi săn”. Kỳ nhăn mặt, dứ dứ gói xôi thịt gà bọc chuối vào mặt Sao: “Liệu cái thần hồn đấy. Nhưng được rồi, đi cấm kêu khóc nghe không ?”. Nhoẻn cười, Sao vội xách chiếc thưng vào tay: “Không mà. Em quen lắm rồi”. Kỳ gọi con vện xuống cầu thang, rồi chúng tôi đi.

Cuộc đi săn bắt đầu !
Chúng tôi vượt qua con suối, chạm chân đến cánh rừng. Những cây kháo, cây bứa đang mùa trổ lá. Những đám guột lên thân mới um tùm. Kỳ hạ súng xuống, quay lại bảo: “Chỉ trong vòng khu này thôi. Vào sâu trong lá ướt lắm, mà lúc sau lại không biết đường ra”. Sao hỏi: “Tính đến vạch lá dựng à ?”. Kỳ trả lời: “Ừ. Nhưng mà mày phải ngồi ở gốc dẻ dai ấy. Nhớ không ? Cái gốc cây to tướng mà hôm nọ mày lấy mấy xiên mộc nhĩ ấy”. Sao gật đầu, nhưng chợt nhớ, giãy nảy lên: “Không. Sợ lắm. Eo ơi trong đó có tiếng ma kêu “chét chét”…”. “Biết ngay mà. Cứ đòi đi theo! Cáu lắm rồi đấy”. Kỳ nổi quạu, tôi liền dàn hòa: “Bây giờ em chịu khó ngồi đây, bọn anh cũng chỉ ở khu này thôi, có đi đâu xa đâu mà sợ”. Sao miễn cưỡng ngồi ở gốc cây dẻ gai, chờ cho chúng tôi đi săn về phía rừng rậm. Đi chừng trăm bước, Kỳ bảo: “Phải bước thật êm, không lũ rái cá nó tinh lắm, nghe bước là nó chạy biến”.

Chúng tôi đi nhẹ, không một tiếng động. Bỗng vện hộc lên một tiếng từ phía bụi cây gần đó. Kỳ quay phắt sang. Con vện đã đánh thấy hơi mùi còn mồ, liền ngửi theo vết mòn chân thú lần theo. Hai chúng tôi cũng bám sát. Vết chân con thú khá lơn, hiện rõ lên trên nền lá mục. Rất có thể là gấu hoặc lợn rừng. Nhưng ở khu này những con vật ấy gần như đã xóa sổ. Hay rừng đang hồi sinh nên những con thú lại trở về ? Lòng nghi hoặc, tôi định hỏi Kỳ xem thế nào, nhưng nhìn nó quá chăm chú, tôi lại thôi.Đi đến một bụi giang lớn, lá lòa xòa chán hết tầm nhìn, con vện phóng vào trong rồi sủa ầm lên. Kỳ lấy xoa chặt những ngọn giang xòa xuống để lấy lối vào. Bỗng một mùi hôi khăn khẳn bốc lên, đến nghẹt thở. Tôi tính bịt mũi lại, nhưng không được. Rất có thể một con lợn rừng đang ở rất gần. Kỳ đã lăm lăm súng trong tay, sẵn sàng bóp cpfn nếu gặp. Rồi lần lần tới chỗ con vện, tôi đi sau Kỳ, không mấy tự tin. Đây là lần đầu tôi đi săn – hiểu theo đúng nghĩa của nó – trách sao khỏi ngỡ ngàng và lo lắng. Được cá Kỳ rất tự tin nên tôi yên tâm đôi phần.

Con vện cứ sủa nhặng lên, chứng tỏ đã phát hiện được điều gì. Nó cũng làm tôi hăm hở đi theo Kỳ, đầy tò mò. Nhưng đến nơi, chỉ là một đống lông rụng và xương của con vật gì đó bị ăn thịt chừng một tuần rồi. Và con vật ăn thịt đã bỏ đi hoặc ở đâu đó gần đấy. Mùi hôi bốc lên dữ dội, tôi gọi Kỳ trở ra.Có một vết trượt dài trên lá làm chúng tôi chú ý. Chứng tỏ con thú vừa bỏ chạy khi bị con vện phát hiện. Chúng tôi tiếp tục lần theo dấu chân. Đúng lúc ấy có tiếng kêu của Sao. Chúng tôi đạp dây chạy về phía Sao.Nó đang đứng há hốc mồm mắt như người mất hồ, trợn ngược. Người nó run bắn. Phía sau gốc cây sồi già, có một con chồn. Kỳ bắn một phát chỉ thiên. Con vật sợ hãi bỏ chạy. Động rừng, tiếng chim kêu, tiếng chân thú chạy lạng chạng, lao xao cả một khu. Kỳ nhìn con bé Sao định cáu nhưng lại im lặng. Tấm thân rắn chắc của Kỳ hơi gù xuống. Nó đặt phịch khẩu súng xuống dễ dẻ gai rồi nói, vẻ chán nản: “Thế là mất toi con mồi”. Sao đầy vẻ hối lỗi: “Tại nó há mồm nhe răng làm em sợ quá”. Tôi liều nói: “Thôi, bây giờ đi ăn, chạy suốt buổi sáng, đói mềm rồi”. Chúng tôi giở xôi trong lá chuối ra ăn. Nhìn hút từ vòm sáng nhỏ ngước lên, nắng đã gắt lắm. Trời đứng bóng giữa ngọ rồi. Nhìn Kỳ ăn tôi lại mường tượng ra những bước đi của nó, trông dáng khoan thai như một con báo. Nó ăn như hổ, làm cũng mạnh bạo, đúng sức trai 17. Con bé Sao lấm lét nhìn anh, ăn nhỏ nhẹ như gượng ép. Tôi nhìn nó, thấy tồi tội bảo: “Anh nhận thấy là em hay khóc quá đấy. Có gì đâu, ăn mạnh vào, chiều chúng ta còn đi nhiều”. Nhìn hai anh em nhà nó, nghĩ mà buồn cười. Thằng anh lầm lì còn con em hay khóc. Chả hiều nổi

Nghỉ trưa xong, Sao dứt khoát đòi theo sau chúng tôi. Lần này chúng tôi đi theo hướng khác. Tịnh không có một bóng chim thú nào. Đến độ hai giờ., Kỳ dường như đã hơi nản. Tôi đã định thong súng xuống đi cho nhanh. Đúng lúc ấy thì con mồi hiện ra. Lại là con chồn lúc sáng. Lần này chắc nó khó thóat khỏi tay súng của Kỳ. CHúng tôi nín thở, theo dõi. Tiếng súng của Kỳ nổ giòn tan. Con vật vụt chạy thục mạng. Con vện lao theo, ba chúng tôi cùng dàn hàng ngang đéo bám quyết liệt. Con vện đã bám sát lắm, chỉ cách chừng nửa mét, rồi độ một cán dao, rồi đuổi kịp. Nó ngoạm vào cẳng con vật. CÓ tiếng kêu thống thiết của con chồn, nó định chống trả nhưng hình như nó cũng nhận ra bóng người nên cố lao về phía gố dẻ gai. Chạy tới gần gốc dẻ nó kiệt sức, nằm sượt như đã tắt thở. Chúng tôi quát con vện ra, nhìn con vật đang thoi thóp thở. Máu ở chân nó chảy ướt thẫm một khoảng lông vàng mịn màng. Nó rên khe khẽ. Con bé Sao lại khóc. Nước mắt yếu mềm con gái. Kỳ bảo Sao: “Bây giờ mày dám vào nhấc xác nó ra đây không ?”. “Nó chưa chết. Mà em thấy thương nó lắm”.

“Thế mày theo đi săn làm gì ?”
Đúng lúc ấy, có tiếng “ư ử, chét chét” nổi lên, con bé Sao bíu chặt tay tôi: “Đấy, tiếng ma…”. “Vớ vẩn. Ma gì mà ma”. Đến cả Kỳ can đảm là vậy cũng bắt đầu phát hoảng khi nghe tiếng réo nhè nhẹ từ phía sau gốc dẻ gai. Cả bọn chúng tôi mò về phía rễ cây bị lấp ấy, có một cái hốc sâu. Chao ôi, ba con vật lông măng mượt, ba sinh vật bé nhỏ vô tôi. Con chồn mẹ đang cố rướn thân về phía ấy nhưng đầu vẻ khó nhọc. Nó bất lực. Tôi quay lại. Từ hai khóe mắt của nó, từ từ lăn ra hai giọt nước. Con vật cũng biết khóc? Khóc trong sự khốn cùng? Tôi bắt đầu ân hận về chuyến đi của mình. Con bé Sao quay lại, nhìn con chồn, lại khóc. Nó nhìn Kỳ: “Hay là mình tha cho nó đi anh Kỳ?”. “Sao phải thế ?”. “Để nó nuôi con chứ. Bắt nó là giết cả ba cái con”. “Đi săn mà không lấy con thú mình hạ được thì xui lắm!”. Con bé Sao vẫn nài nỉ: “Nhưng nó thật đáng thương. Mình phải băng chân cho nó nữa”… Hai chúng tôi lặng yên, không biết nói gì. “Máu ra thế kia, nó sẽ chết mất !” – Sao nói rồi đi hái lá để đắp vết thương cho con thú mẹ. Sự thể này không biết phải làm gì nữa. Kỳ nhìn tôi ngán ngầm: “Thật là một ngày xúi quẩy”. Không biết nó nói có đúng không, nhưng lúc ấy tôi cứ bần thần cả người, nghĩ ngợi ghê gớm.
Sau khi Sao đắp lá, băng chân cho con thú mẹ thì cũng là lúc nó tắt thở. Sao khóc ghê gớm, không hiểu có ohải đó chỉ là nước mắt mềm yếu ? Tôi chạnh buồn. Kỳ không nói gì. Bỏ lại đám măng hái dưdợc ban sáng, Sao nâng ba con thú con vào trong cái thưng. Chúng tôi ra về. Chiến lợi phẩm trên vai Kỳ kia mà chúng tôi thấy lòng trĩu nặng. Vì nhiều lẽ.

Sau buổi ấy tôi phải về trường ngay cho kịp. Sau này nghe Sao kể lại, ba con thú bé nhỏ đã chết vì không được chăm sóc đúng cách. Tôi hỏi xem Kỳ có hay đi săn nữa không. Nó bảo rừng đã thưa đi nên thú cũng ít. Giờ nghĩ lại buổi ấy, tôi vẫn thấy cảm giác là lạ, hệt như mắt rừng đang nhìn tôi oán giận. Tôi đứng bên cầu thanh nhà Kỳ, nhìn sang bên kia thấy rừng bớt xanh đi thì phải. Bủôi đi săn ấy là buổi đầu tiên và cuối cùng của cuộc đời tôi.


Dương Bình Nguyên

Hansy
27-09-2014, 05:57 PM
51.

ĐỜI CHA ĂN MẶN

Nguyên Đỗ

Ông Khoa cuối năm 1999 quyết định về quê hương một chuyến trước khi thế kỷ 20 chấm dứt. Ông tuổi đời đã cao, chỉ năm năm và vài tuần nữa là đã đạt tới tuổi "nhân sinh thất thập cổ lai hy". Bà Khoa, thua ông 10 tuổi, người bạn đời bao nhiêu năm của ông đã mất năm rồi trong một tai nạn giao thông. Bà ấy thực sự là người vợ thứ hai của ông, chứ bà cả người mà ông đang trên đường về nước thăm vẫn còn sống trên đất Bắc. Năm 1954, khi đất nước chia đôi, lúc ông đang hai mươi, ông từ Hải Phòng vội vã lên tàu vào Nam bỏ lại bà cả và đứa con trai nhỏ dại ở lại Nam Định.

Không ai hiểu ông hơn bà Hai. Tính ông lăng nhăng thuở xưa, lúc ông còn bơ vơ độc thân tại chỗ, bao lần bà đã biết nên bà tuyệt đối cấm ông dây dưa với người này người nọ từ khi bà nhận lấy ông làm chồng năm 1960 lúc bà vừa đôi mươi. Mười lăm năm chung sống với bà Hai ở quê hương, ông bị kềm tỏa ghê gớm lắm nên chẳng sơ múi được gì trừ những lần đi công tác ở những tỉnh lỵ xa. Bà Hai khôn ngoan và đanh đá lắm, ông có giận cũng không làm gì được, vì bà Hai khéo ăn khéo nói, giao thiệp rộng và chơi trội hơn cả ông.

Có lần nào đó năm 70 hay năm 71 gì đó, một cô thư ký trẻ đẹp làm tại văn phòng ông chừng đâu một tuần, ông chưa kịp trở mòi dê dẫm gì hết thì bà Hai đã gặp. Bà chào hỏi cô thư ký ân cần và mời mọc về nhà ăn uống chuyện vãn chị chị em em như ruột thịt trong nhà thì của có treo trước miệng mèo ông cũng đố dám leo meo. Bà lại đề bạt cô thư ký trẻ lên làm cho ông tổng giám đốc, thế là vừa được lòng giám đốc lại vừa có công với cô thư ký, thế có phải bà hơn cả cái ghen của Hoạn Thư không chứ!

Từ lúc rời trại tỵ nạn Pendleton, tiểu bang California, ở Mỹ cuối năm 1975, phần thì tuổi đã ngoài tứ tuần, con cái với bà Hai còn nhỏ, ông đầu tắt mặt tối đi làm không kịp thở thì lấy đâu mà bay với bướm. Cái tính nguyệt hoa của ông, không biết sao lại được trổ mòi qua hai cậu con trai qúi của ông khi chúng tới tuổi 17, 18 gì đó! Bà Khoa buồn lòng lắm, cứ nhắc nhở răn bảo chúng:

"Các con phải đàng hoàng, còn làm gương, để phúc lại cho ba đứa em gái và con cái sau này chứ! Chúng mày chẳng nghe đời cha ăn mặn đời con khát nước sao?"
Ông Khoa thì cười xuề xoà khi có ai nói chi:
"Hơi gì mà lo, tuổi trẻ chúng ăn chơi thì kệ chúng! Miễn đừng phá gia hại sản là được rồi! Bọn nó giống tôi hồi xưa! Đấy coi đi, tôi bây giờ cũng chăm lo cho gia đình, chứ có bỏ bê gì đâu!"

Bà Hai trách ông:
"Ông không lo dạy con thì thôi! Lại cứ nói lăng nhăng đổ dầu cho chúng làm bậy! Thử tưởng tượng ba đứa con gái của mình kia kià, mai mốt 15, 16 tuổi lỡ có gì thì sao?"
"Thằng nào láng cáng tôi đập gẫy cẳng chứ mà dám đụng đến con gái tôi!"
"Đấy ông xem, con trai ông lung tung, thì ông bao che! Con trai người ta đụng đến con gái ông thì ông đòi đả thương thiên hạ! Rõ thật là thiên vị, chẳng có lề luật gì nhất định!"

Ông Khoa nghe vợ lý luận cứ trớ ra mà nhìn! Ông biết bà khôn ngoan đáo để lắm, chẳng gì bà cũng cầm chân trói tay ông bao nhiêu năm trời. Cửa khoá giờ đã mở từ khi bà mất! Chỉ vài tuần nữa ông đã 65! Ôi hơn 64 năm qua, ông làm lụng vất vả chỉ được ăn chơi bồ bịch đâu chừng sáu năm từ lúc vào Nam năm 54 tới ngày ông chui vào rọ của bà Hai, thỉnh thoảng mới thoát rọ những lần đi xa, thế mới có tiếc không! Mỗi người con gái, mỗi người đàn bà là một kho tàng vô giá mà ông là người thích sưu tầm, thích làm giàu tìm kiếm những kho tàng sống động đó.

Khi bà Khoa mất, ông để tang bà chỉ đúng 49 ngày thay vì ba năm hay ít ra cũng phải chờ qua ngày giỗ 100 ngày. Sau buổi giỗ 49 ngày, đám bạn già ngà ngà say rủ rê ông ra quán Ô Lớn giải trí. Ôi chao, sao mà bắt ý ông quá! Bao năm qua, ông tò mò muốn tìm hiểu mà phần bận rộn phần bà Hai kềm kẹp ông chẳng dám to te. Đám con gái vóc dáng như người mẫu từ từ theo kích động nhạc thả rơi những mảnh áo quần, trở thành những bức tượng khoả thân linh hoạt nhún nha nhún nhẩy trông đã con mắt. Ông nghe lời xúi dục của đám bạn già, ngậm những tờ giấy 1 Mỹ kim ngồi gần sàn nhảy đợi chờ. Từng cô Á có, Âu có, đen có, trắng có, nâu vàng đầy đủ cả, hơ hễnh khoe của thấp của cao sát mặt ông! Những bông hoa lạ nhún nhảy từ từ hạ thấp xuống đưa tay ôm lấy đầu ông rồi ghì mặt ông sát vào da thịt, hai má ông chạm hai mặt trong của đôi trái cam, trái bưởi có khi là của thật, có khi là của giả si-lic, nhưng của nào cũng làm ông đê mê muốn chết. Rồi từ đó cuối tuần nào ông cũng đi thăm các em, riết rồi quen mặt quen tên. Nhưng xem thì xem vậy thôi, chứ ông chẳng vớ vẩn được gì, chỉ làm ông thêm bức rức. Con lợn lòng gặp cám treo heo nhịn cứ nhao nhao lên. Những lần cao hứng, ông chọn người ông ưng ý nhất nhảy riêng cho ông ở một góc mờ mờ càng làm ông bức xúc thêm. Những cú rà sát thân mật của các cô càng tạo thêm lòng dục, mà chẳng giải toả được lòng háo hức xuân xanh của ông.

Ở tuổi ngoài sáu mươi của ông, phải tiết chế tu nhân tích đức thì hơn, giá mà ăn chay trọn đời tưởng niệm người vợ chung thuỷ xấu số đã ra đi vĩnh viễn thì đẹp biết chừng nào. Ngọn lửa âm ỉ cháy. Ông tiếc cái thời oanh liệt đã bị bà Hai kềm toả, cơm canh trong nhà đầy đủ, nhưng chẳng phở phiếc bên ngoài gì được. Đến lúc đại thọ sáu mươi của ông, bà Hai treo chén ông luôn, bảo ông tu tại gia, phải tịnh dưỡng kẻo đau tim bởi vì ngày làm tám tiếng, lao tâm lao lực, tập thể dục đều chi, mà ấm ức thay chỉ số áp huyết ông cao gần 140 gì đó, chứ thể lực ông còn khoẻ mạnh. Bà sợ ông chết, vậy mà bà đi trước. Bà chẳng có gì sai trái cả, chỉ có một cái là khó khăn ràng buộc ông tí thôi. Phải bà như người khác, không chừng ông chẳng sợ mà phải khép mình sống thuận hoà tới già.

Hai cậu con trai và ba cô con gái của ông nhờ bà Hai khéo léo đã yên bề gia thất, đứa nào đứa nấy cũng có nghề nghiệp và nhà cửa đâu vào đó rồi. Tiền bảo hiểm nhân thọ của bà Hai, ông cũng dành một nửa để chia cho chúng đồng đều. Còn một nửa, ông giữ lại cho ông, cho người vợ cả và đám con cháu vừa liên lạc lại được năm rồi, nhờ ông đăng báo cáo phó ở quê ông bên nhà cũng như ở thành phố ông sống ở Hoa Kỳ lúc bà Hai từ trần. Ông thầm cám ơn bà Hai đã biết tính toán lo xa, dạy dỗ con cái nên người, chứ cứ như ông, đời cha ăn mặn, đời con ăn mặn hơn! Không chừng không có nước mà uống!

Ông về thăm quê hương chuyến này, một là thăm gia đình bà Cả, hai là định giải quyết vấn đề "khí tồn tại não" chi chi đó! Đám bạn già kháo láo với nhau những màn xào khô, xào ướt nghe mà phát thèm. Kỳ này ông về với số tiền hưu non hàng tháng của ông cũng tha hồ cho ông ngụp lặn, tung hoành chứ đừng nói tới nửa số tiền bảo hiểm của bà Hai. Con dê già thả giữa đồng cỏ non xanh tha hồ gặm cỏ. Ông lim dim cười! Cái mã ông, tóc bạc cả đầu hôm kia đây đã được cô thợ hớt tóc nhuộm đen, trông có khác nào các ông bốn mươi đâu! Cái miệng môi hồng dễ thương nói câu đó làm ông muốn thưởng cô một nụ hôn nồng nàn, và cái mông trông mát mắt khiến bàn tay ông muốn vỗ một cái cho đã lỗ tai và sướng bàn tay. Ông đã hí hửng đưa cô nguyên cả tờ 50 Mỹ kim, gấp đôi giá tiền nhuộm tóc, khi cô áp má cô vào má ông nói cám ơn, để hơ hớ đôi gò bồng đảo trông mà tiêu tán đường. Ngôi sao đào hoa của ông lại sáng rồi, chuyến này áo gấm về làng không vinh quy cũng hưởng lạc, ông nhủ thầm trong bụng.

Vừa ra khỏi phi trường, đám thanh niên thanh nữ đổ xô vào mời mọc đi xe họ. Ông chủ ý không cho người thân biết ông về chuyến này để có dịp tìm hoa thơm cỏ lạ nên hơi luống cuống trước sự vồn vã của các tài xế, nhân viên du lịch. Đi với đám thanh niên thì sợ chúng cướp giật, dù dễ dàng nói với chúng những gì ông muốn. Đám thanh niên thì chắc rành rẽ khu xóm ăn chơi, cò mồi, nhưng ông sợ chúng giở trò thì chẳng còn áo mà về, không chừng còn toi mạng già nữa. Đi với đám thanh nữ thì khó nói! Cuối cùng ông nhận lời mời của một cô gái chừng 20, 21 gì đó, trông dáng dễ thương và không đến nỗi đáng sợ.

-- Anh đi xe em nhé! Khách Việt kiều bao giờ cũng hài lòng với dịch vụ của hãng xe em!
-- Được cô cho tôi về khách sạn nào vừa sang vừa thoải mái nhé!
-- Dạ được anh! Anh về thăm gia đình hay thăm bạn bè, quê hương thôi?
Gớm các cô gái choai choai thiệt là khéo mồm khéo miệng, đứa con gái út của ông với bà Hai giờ cũng 32 và có 2 đứa con rồi. Cô này tuổi nhỏ hơn cả đứa con gái út mà cứ anh anh em em ngọt xớt nghe lọt tai quá! Mà trông tướng cũng mơn mởn mát con mắt nữa! Ông ỡm ờ nửa thật nửa đùa:
-- Cả hai! Vợ tôi mất năm ngoái, tôi về Việt Nam kiếm vợ!
Cô gái nhìn ông chọc:
-- Anh về tìm mẹ kế cho các con anh đấy hở?
-- Không, con cái tôi lớn cả rồi cô! Chúng có gia đình riêng hết rồi! Tôi kiếm vợ cho tôi đó!

Cô gái cởi mở:
-- Anh cần kiếm người như thế nàỏ Trẻ, đẹp, có học thức hay...
Cô gái chưa kịp dứt lời thì ông Khoa, mặc dù nhìn còn điệu lắm nhưng tuổi đã gần đất xa trời, may nhờ ăn uống đầy đủ nơi quê người, bác sĩ, nha sĩ khám thường xuyên nên răng riếc hãy còn và bộ dạng cũng chưa đến nỗi, đã thả dê:
-- Người như cô đó!
-- Vậy anh phải gọi em là em chứ, chứ cứ cô cô gì nghe mà phát ghét!
Người ta bảo người già hoá trẻ. Ông Khoa không biết có phải hoa mắt, hoa tai hồi nhi hay là bị cô gái trẻ có cái nhìn mời mọc, nhõng nhẽo quên cả tuổi tác của mình nói:
-- Ừ thì anh em nhé!

Ông thả hồn mình về đường đê đất Bắc, thả hồn mình về đồng lúa vàng thuở ông còn đam mê bên bà Cả gần nửa thế kỷ trước. Chẳng biết bà ấy có nhận ra mình không? Bà vẫn ở căn nhà của thầy mẹ ông, thôi thì cũng là nghĩa vợ chồng! Bà thay ông nuôi dưỡng thầy mẹ ông lúc ông hơ hãi vội vàng bỏ vào Nam một mình sau ngày đất nước phân chia.
-- Đồ đạc anh còn nhiều không hay chỉ có xách tay này?
-- Chỉ vậy thôi em! Anh đi gọn gàng có bấy nhiêu thôi, nghe nói bên này cái gì cũng có!
-- Vâng cái gì cũng có!

Cô gái lườm nhìn ông với cái liếc đầy ý nghĩa gây trăm ngàn ngọn sóng! Ông Khoa tuổi đã cao rồi, có còn sống bao lâu nữa mà không ngại gì mà không vớt con nai vàng! Không ông thì cũng người khác vớt thôi! Trông nó mời mọc thế kia bố mà chịu được! Ông Khoa lý luận trong đầu.
-- Đây là xe của em hay của hãng?
-- Xe của hãng, anh ạ! Em vừa làm tài xế vừa làm hướng dẫn viên du lịch!
-- Anh muốn bao xe này! Giá cả ra sao? Nếu một tuần thì bao nhiêu, hai tuần thì bao nhiêu, và ba tuần luôn thì có giảm giá không?
-- Một ngày thì 1 triệu rưỡi, một tuần thì trả sáu ngày, một ngày miễn phí, hai tuần thì mỗi tuần chỉ trả 5 ngày, còn ba tuần thì hưởng qui chế đặc biệt.
-- Qui chế đặc biệt là gì?
-- Thì anh trả tiền cho 15 ngày, miễn phí 6 ngày. Anh cần gì thì có em tận tình săn sóc cho anh!

Ông Khoa tính toán. Bao ba tuần thì cũng được, nhưng ông muốn biết tận tình săn sóc cho ông là thế nào mới được mà ông không dám hỏi. Ông lưỡng lự. Như đoán biết được ý nghĩ của ông, cô gái nói:
-- Anh về đây một mình thì đi với em, em sẽ săn sóc chu đáo cho anh như người yêu của anh. Nhưng tiền ăn uống, khách sạn, anh phải bao hết!
-- Để anh thử một tuần xem nhé! Được thì anh bao luôn ba tuần!
-- Bảo đảm là anh sẽ hài lòng cách phục vụ của em một trăm phần trăm mà!

Qua ngày đầu đi xem các nơi và một đêm thoải mái hưởng thú tắm chung, mát-xa và thân già thấy lại xuân tình phơi phới, ông Khoa chẳng những ký trọn ba tuần bao xe mà trong lòng còn muốn bao người trọn cuộc đời còn lại của ông nữa. Ông như chạm phải tiếng sét ái tình với cô gái trẻ hao hao giống bà cả của ông ngày xưa. Ông thấy ông diễm phúc lắm, đời ông đã có ít nhất ba lần bị sét ái tình, lần đầu với bà Cả, lần thứ hai với bà Hai, và lần này là lần thứ ba, chưa kể những lần chớp bể mưa nguồn thoáng chốc lúc còn xuân trẻ. Ông thấy nếu năm 2000, một thiên niên mới, dù có tận thế đi nữa, ông cũng không ân hận.

Ông và cô gái hướng dẫn du lịch hưởng mùa trăng mật và mừng thiên niên mới trên giòng sông Hương, ở Huế, kinh đô của vua chúa thời xưa. Ông tưởng mình như hoàng đế bên cạnh nàng sủng phi. Hai người bên ngoài nhìn hạnh phúc lắm, tựa như câu , "Chồng già vợ trẻ là tiên!" Nhưng cái duyên muộn có khi là nợ đời khó mà gánh nổi. Những thủ tục giấy tờ, những cản ngăn của bạn bè, gia đình trước mối duyên kẻ già người trẻ, hay những bất ngờ không biết được!

Điều bất ngờ xảy đến cho họ vào tuần thứ ba khi cô gái chở ông về làng Diên Thọ, Nam Định, nơi bà cả sống. Cảnh vật đã đổi thay! Về đến làng, ông đưa địa chỉ nhà bà Cả cho cô gái nói cô chở về đấy! Cô sửng sốt cầm tờ giấy, địa chỉ này cô quen thuộc lắm mà! Bà cụ thân sinh của bố cô ở vậy nuôi cha mẹ chồng và đứa con trai duy nhất tên Quyết! Ngôi nhà cổ xưa vẫn chưa thay đổi gì, nhưng bố mẹ cô thì ra Hà Nội để buôn bán từ khi kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường theo chính sách Đổi Mới. Cô ấp úng hỏi:
-- Anh quen gì với gia đình này?
-- Đó là nhà của bố mẹ anh hồi xưa.
-- Thế anh là gì với bà cụ Quyết, người đang ở đó?
-- Chẳng dấu gì em, đó là vợ anh hồi xưa! Anh vào năm lúc con anh là thằng Quyết còn một tuổi! Bây giờ thăm vậy thôi, chứ cả gần 50 năm rồi, người còn không nhận ra nữa chứ có còn chút tình nào đâu!

Cô gái hoảng hốt, nước mắt lưng tròng, rấm rức nói dứt đoạn từng quãng:
-- Ông.... Ông là... ông nội.... của... cháu!
-- Sao? Tại sao vậy? Tại sao lại có chuyện đó?
-- Cháu.... cháu.... là con của ông Quyết, con trai ông, đây mà! Khổ cho... cháu quá đi, ông nội ơi! Cháu xin lỗi ông! Cháu không biết!

Ông Khoa choáng váng! Ăn bánh trả tiền đối với ông là chuyện thường, thậm chí cả những mối tình ngắn ngủi vụng trộm đối với ông cũng là chuyện tự nhiên, nhưng chuyện ái ân với con của con mình là chuyện ra ngoài sức tưởng tượng của ông. Ông thấy tức ngực, khó thở, có lẽ áp huyết lại tăng rồi! Ông nghẹn ngào:
-- Ông... ông... mới là người có lỗi với cháu!
Cô gái lau nước mắt lái xe chở ông về tới nhà bà nội của mình, đậu trước cổng! Ông Khoa mới hôm trước đây còn cảm thấy trai trẻ, bây giờ nặng nề bước xuống xe, đi theo cháu gái trước cặp mắt tò mò của đám người rải rác bên đường đã quen thuộc cảnh Việt kiều về thăm quê hương. Có con chó đen gầm gừ giữ cổng. Cô gái vừa vòng tay vào cổng vừa nói với con chó:
-- Mực mực, mày không nhận ra tao à?

Con chó cuống quít nhảy chồm lên liếm mặt liếm tay cô gái nhưng vẫn gầm gừ nhìn người khách lạ khi cô gái gọi:
-- Bà nội ơi, bà ra xem cháu đưa ai về cho bà nội nè!
Một bà lão mở cửa nhà bước ra khi ông Khoa lảo đảo chúi người ngã xuống sân. Cô gái đang ôm bà nội mình mừng mừng tủi tủi không để ý tới ông Khoa giật mình khi bà lão buông cô ra nói:
-- Ông ấy bị sao kìa!
Cô và bà lão chạy tới luống cuống cúi xuống xem ông bị việc gì. Ông Khoa đã nằm bất tỉnh nhân sự như một cái xác không hồn. Con Mực tru lên một tiếng dài nghe rất não nùng. Cô gái vội vã kêu người khiêng ông đặt lên ghế đằng sau của xe cô. Bà cô ngồi đằng trước với cô. Bà rơm rớm:
-- Chạy vào nhà thương nhanh lên con. Ông ấy có việc gì thì thật khổ. Bao nhiêu năm trời nay, không ngờ ngày gặp lại ông ấy lại thế này.

Bác sĩ bệnh viện đưa ông vào phòng cứu cấp, nhưng ông đã tắt thở thực sự. Những cố gắng phục hồi tim cho ông cũng hoài công. Ông áp huyết cao, bị chấn tim mạnh, đã chết từ nửa tiếng rồi. Bác sĩ tuyên bố. Thân thể đã lạnh. Sau gần nửa thế kỷ xa nhau, ông về thăm bà Cả mà chưa kịp nói với bà điều gì. Cô gái tức tưởi khóc tiếc thương cái chết đột ngột của ông. Phải chi ông sống thêm một hai ngày nữa, hay ít ra là hoàn thành di chúc cuối cùng của ông cho bà nội, cho cha mẹ cô, cho các anh chị cô và cho cô là kẻ vô tình gần gũi với ông trong suốt hai tuần qua.

Xác ông phải để lại bệnh viện, chờ báo tin cho các con ông ở Hoa Kỳ. Bà cháu về tới nhà thấy con Mực đứng tru trước cổng, nói mãi không ngừng. Bà lão nói:
-- Mày không ngưng tru trếu thì mai tao thịt mày làm đám táng hay tao gọi ông Từ tới thiến mày bây giờ!
Con Mực không biết hiểu tiếng người không lại càng tru to hơn nữa. Có người nói con chó tinh khôn biết thương tiếc ông chủ dù nó mới gặp ông lần đầu, có người mê tín nói hồn ông già nhập vào con Mực.

Tôi nghe kể chuyện này lấy làm băn khoăn. Không biết là ông trời có mắt, thưởng phạt nhãn tiền hay cái chết đột ngột của ông Khoa là do sự quá xúc động, sự dày vò, sự hối hận của một lương tâm vừa tỉnh thức.


Nguyên Đỗ

Hansy
28-09-2014, 01:01 AM
52.

ĐÔI KHOEN VÀNG

Nguyễn Thị Long An

Phía bên kia sông Tiền Giang, vầng trăng tròn mới nhô lên khỏi rặng trâm bầu cuối xóm xa. Ánh sáng hừng lên góc trời soi rọi bãi lau sậy, hàng dừa nước và những căn nhà lá nằm yên lành với dáng vẻ thanh bình trong không gian tro xám, ẩn hiện giữa vùng lãng đãng hoàng hôn. Dựa người vào lan can của chiếc phà đang hướng mũi về phía trước, quan sát phong cảnh mập mờ trên sông lòng tôi se thắt và xao xuyến sau những năm dài vắng mặt. Gần triền sông vài chiếc xuồng, ghe hai mái chèo rẽ nước trên làn sóng nhỏ bạc đầu. Hình ảnh đó gợi nhắc trong tôi bến nước ngày nào tôi và mẹ trên chiếc ghe tam bản đi thăm bà ngoại ở bên kia làng. Hơn hai mươi năm trôi qua, trán tôi đã hằn lên những nếp nhăn và tóc tôi lớm đớm bạc. Ðưa tay vuốt vội mái tóc rối bời bởi ngọn gió vô tình xoa nhẹ, lòng gợn lên nỗi lao xao khi hướng mắt về góc trời xa xa. Những ngày tháng vu vơ nơi đất khách xa cách mọi thâm tình, một mình đơn độc giữa lớp người bon chen danh lợi. Tháng Tư đen năm đó, tôi phải tháo chạy cùng với bạn bè lìa xa quê nhà trong nỗi ngậm ngùi đau xót.

Tiếng máy phà vẫn rì rầm và xoáy đều trên mặt nước. Bỗng một chút chộn rộn phía sau lái cùng lúc giọng hát khàn đục vọng tới : '' '' Nhà tôi... sang nhà người em gái... cách nhau con sông dài....'' '' Tiếng hát của người mù xin tiền, một bài hát quen thuộc ngày xưa tôi thường hát với Hạ Vi. Nhớ tới Hạ Vi lòng tôi bàng hoàng xót xa cho số phận hẩm hiu cô gái con người bạn thân của ba mẹ tôi.....Cho tới bây giờ tôi vẫn không thể quên được, xác thân của ba tôi và ba mẹ Hạ Vi được mẹ tôi mang về chôn trên phần đất của giòng họ. Ba người tử nạn trong đêm địch công đồn. Nàng không có thân nhân quyến thuộc, mẹ tôi đành nhận nuôi dưỡng và lo cho ăn học. Năm ấy Vi vừa hết tiểu học..
Mười năm sống chung một nhà với tôi nhưng Hạ Vi luôn luôn e dè, thẹn thùa không dám ngẫng lên, se se vạt áo miệng lí nhí trả lời điều gì tôi cần hỏi. Hạ Vi chưa hết bậc Trung học thì tôi đã lên đại học. Mỗi kỳ nghỉ hè, tôi trở về đây vui chơi với Hạ Vi trên cánh đồng lúa chín. Vùng trời kỷ niệm thuở xa xưa vụt chốc trở lại trong tôi, ngửa cổ nhìn khoảng không gian phía trên tối đen, đỉnh cao xám đặc như làn không khí trước kia đã phủ trùm xuống hai mươi tám năm buồn thiu hơn nửa phần đời của một trang nam tử. Em ơi. Tôi gọi người yêu đầu đời và lúc đó tôi mới nhận ra lòng mình trống không, chùng xuống trong niềm thương xót vô biên. Hạ Vi bây giờ ra sao, nàng có còn ở trong cùng một nhà với chị em tôi hay đã bỏ đi biền biệt ở tận phương nào mang theo nỗi sầu đơn lẻ. Một vài cánh thư qua lại những năm đầu nơi đất nước tha nhân dài lâu trong nỗi khó khăn chờ đợi. Thư chỉ hỏi han thông thường với mẹ với chị và cô em gái tuổi bằng Hạ Vi, những điều muốn nói không thễ dàn trải lên trang giấy. Cũng như bây giờ đã mang xác thân về nơi đây vẫn e ngại và gần như sẽ giữ gìn từng lời nói, từng hơi thở. Nhớ một lần có hỏi thăm Hạ Vi nhưng mõi mòn trong sự phúc đáp. Dường như trong tôi đã có một chút vương vấn, một chút nhớ thương người con gái đã lẽo đẽo bên tôi suốt những tháng năm ngày hạ. Tôi với Hạ Vi đã nghìn trùng xa cách và khó có thể gặp lại. Hạ Vi ơi, có lẽ chúng ta có duyên nhưng vô phận. Bao nhiêu năm đơn độc nơi xứ người, cố gắng làm việc mong một ngày về với mẹ, với chị, với em nhứt là với Hạ Vi. Nhưng cuộc đời đầy dẫy tai biến và bất trắc.

Hai năm sau nhận được tin mẹ qua đời, lòng chết lặng bởi hy vọng về với mẹ già đã tan theo mây khói. Từ đó tôi không còn thiết viết thư về quê nhà nữa. Sự quyết tâm chăm chú làm việc không còn là một thôi thúc trong đời sống hằng ngày. Mặc cho năm tháng trôi qua khỏa lấp hết niềm đau ẩn uất trong tâm tư và thời gian có thể kéo qua nỗi buồn côi cút. Muốn quên hết, tôi đắm đuối với một cô gái mà bây giờ là vợ tôi. Rồi tôi làm thầy giáo dạy trường tiểu học ở một thị xã nhỏ trong tiểu bang tôi ở. Chồng vợ chúng tôi phải sống xa nhau và suốt mười mấy năm trời tôi làm việc cật lực để dồn hết tất cả tiền dành dụm được mua một căn nhà ở thủ đô theo ý muốn của vợ. Vợ tôi là người đàn bà không bao giờ thỏa mãn, luôn luôn có nhiều đua đòi. Cô ta chẳng để tôi yên được phút nào, không ngừng rầy rà, miệng mở ra là tiền. Tiền, tất cả chung quanh là tiền. Tôi chịu đựng và đau khổ nhiều năm chỉ yên lặng để vợ tôi hiểu mà trở lại dịu dàng như trước, thật tình cũng muốn mình bồi đắp hạnh phúc cho bỏ những năm xa cách. Bây giờ hiểu ra chúng tôi sống với nhau không có tình yêu. Hai mươi mấy năm héo hắt trĩu nặng vì sinh kế cho vợ con, tôi hầu như quên lảng mối tình đã ấp ủ nơi quê nhà.

Theo thư mới gửi chị tôi cho biết ngôi nhà của cha mẹ tôi để lại đã phải bán để họ có chút tiền hầu xoay sở cho kinh tế gia đình. Theo di chúc của mẹ, tôi là đứa con trai dù đã ở xa vẫn được hưởng phần thừa kế. Tôi không muốn dự chia, nhưng vợ tôi buộc phải xin phép nghỉ việc đi ngay. Vợ tôi còn nói, anh là con trai duy nhất được hưởng cả gia tài, không phải chia cho ai hết. Vẫn biết gia đình tôi không hề thiếu thốn, tiền bạc dư thừa vậy mà bản tánh tham tiền khiến vợ tôi không còn biết nghĩ đến những người nơi quê nhà trăm bề cực khổ. Chị Hai và em tôi muốn chia bốn phần bằng nhau và cuối cùng chị tôi gởi thêm cho tôi một bức thơ gợi ý về Hạ Vi, cho rằng nên chi cũng chớ quên phần cho cô ấy. Dầu gì đi nữa lúc mẹ còn sống đã coi Hạ Vi như con gái và Hạ Vi đã có công săn sóc mẹ suốt những ngày chị và em tôi phải bận bịu ở nhà chồng. Bức thư ấy làm tôi nghĩ ngợi đến vợ, chưa một giờ một ngày kề cận mẹ già vậy mà cô ta đã muốn hưởng hết gia tài cho riêng mình. Tôi thở dài chán ngán, muốn phủi bỏ tất cả, về sống ở đây bù đắp lại cho Hạ Vi những năm dài thiếu thốn với cuộc sống lẽ loi.
Thời gian dài chịu đựng như chất chồng gánh nặng trên vai và sự nhẫn nhục làm héo hắt tâm hồn. Gần như chiến tranh lạnh kéo thầm lặng mấy mươi năm. Bên ngoài có vẻ êm ấm và tốt đẹp nhưng bên trong là thảm kịch, mỗi người cố gắng thoát ly vai trò mình, nhưng không làm được vì người này chính là nguyên nhân nỗi khổ của người kia, mỗi người biết như vậy nhưng không thể giải quyết. Trong sâu xa của đáy tâm hồn không ai chịu biến đỗi cá tánh hay tình cảm riêng của mình để hòa hợp với người kia.cuối cùng cả hai ngấm ngầm nhận ra là không ai hưởng được hạnh phúc. Cố gắng bù đắp không đi đến đổ vỡ là vì đám con còn khờ dại. Tôi chôn vùi mình vào công việc, biến công việc thành phương tiện để trải qua ngày tháng cho xong.

Phà đã cặp bến, tôi bước lên bờ bỡ ngỡ đứng sững lại, lạ lẫm chưa nhận ra lối nào đi về hướng nhà mình thuở trước, mọi thứ đổi thay rõ rệt trong đôi mắt. Tôi nhìn từ trái sang phải để nhận định, một người đàn bà đến bên tôi dịu dàng hỏi :
- Ông, ông ... có phải là anh Nhân?
- Cô là ....? Tôi nhận ra ngay, nhưng sững sờ cho đến đổi không thể kêu lên '' Hạ Vi'' '' .
Người đàn bà đứng trước tôi có một khuôn mặt hiền hậu, tầm vóc chỉ đến vai tôi, mặc bộ quần áo màu sẫm không được ủi phẳng phiu, tóc bới ở phía sau. Tôi nhận ra Hạ Vi qua ánh mắt long lanh, cái miệng khẽ cười, má rám nắng da hơi nhăn, khó có thể thấy được dáng xưa...
Hạ Vi vừa cười vừa nói:
- Tôi đi đón anh. Anh ngạc nhiên hả?

Tôi còn đang ngơ ngác trước sự hiện diện của Hạ Vi, chẳng nói được câu nào, lại nhớ đến cảnh Hạ Vi gặp tôi lần sau cùng, lần về từ giã mẹ lên đường nhập ngũ, đầu óc lang mang để rồi nói lên một câu thật loãng:
- Ô, Hạ Vi đấy à? Mừng quá!
Chỉ nói lên như vậy để khỏi đắm chìm trong quá khứ, tôi hỏi Hạ Vi:
-Chị Hai và em gái tôi đâu?
- Họ chờ anh ở nhà. Tối rồi, họ làm sao đi được một đoạn đường dài để đón anh, họ có tuổi anh quên rồi sao?
Và một lần nữa tôi lại ngớ ra. Hạ Vi nói:
- Bây giờ anh đã là một người luống tuổi. Khi xa chúng tôi anh còn quá trẻ.
-Hạ Vi, nhắc chuyện cũ làm gì?
- Nhưng những kỷ niệm đều có ý nghĩa. Ðừng sợ tôi làm anh cảm động. Chẳng có gì đâu. Với tôi là niềm vui lớn. Hai mươi mấy năm đã trôi qua, buổi sáng cả nhà tiễn anh ra bến xe, quên sao được....Thôi tôi không nhắc đến nữa, bỡi anh đâu còn muốn nghe. Sao, hiện nay vợ con anh thế nào?
Tánh hồn nhiên của Hạ Vi khiến tôi xua đuổi đi nỗi băn khoăn như khói tan trước gió, tôi trả lời :
- Vợ tôi và các cháu khỏe. Còn cô ?
- Thì anh thấy đó, tôi rắn rỏi như vầy...
Cuộc nói chuyện trở nên dễ chịu.
- Cô thay đổi nhiều quá Hạ Vi ơi!
- Thật sao?
Và rồi Hạ Vi hối :
- Thôi, về nhà hãy nói chuyện tiếp kẻo chị Hai và cô Út chờ.

Tôi bước chậm sau Hạ Vi men theo con đường có ánh đèn sáng chói và dường như mới được tráng nhựa bằng phẳng thẳng tắp. Hai bên đều là những ngôi nhà xây theo phong cách và truyền thống cũ. Trên là lầu, tầng trệt là cửa hàng trang trí nhiều màu sắc sang trọng. Những căn nhà như vậy kéo dọc dài hai bên mé lộ.

Qua một khúc quanh hơi tối, cửa ngõ quen thuộc hiện ra trong tầm mắt, tôi nhận ra ngay căn nhà ngày xưa cũ kỹ nhưng đồ sộ, cổ kín nằm lùi vào phía sau khoảnh sân rộng. Tôi và Hạ Vi đẩy cửa bước ào vào, người đầu tiên tôi gặp là chị Hai vừa cười vừa chảy nước mắt với nỗi vui mừng quá đỗi, và cô em cũng òa khóc theo. Cả nhà nhôn nháo bởi những người con của chị, của em dồn dập chào hỏi mà tôi như một kẻ từ trên cung Quảng Hàn rơi xuống. Tôi chưa qua cơn bàng hoàng thì Hạ Vi đến tháo gỡ hành lý trên tay mang vào phòng. Cô đi xuống bếp lo bữa ăn tối cho cả nhà bỏ mặc chị em tôi rối rít với sự trùng phùng vừa mới có.

Dọn mâm cơm lên bàn ăn xong, Hạ Vi cáo từ xin phép về nhà riêng của cô.
Mấy chị em đã thức quá khuya bàn bạc về căn nhà, về bức thư của mẹ để lại dặn dò lúc biết mình không thể sống chờ đợi đứa con trai cưng trở về. Nhờ đọc bức thư tôi được biết mẹ dự định cưới Hạ Vi cho tôi lần được nghĩ phép ở đơn vị về. Nhưng đất nước đổi thay, tôi đã trở thành kẻ vong gia thất thổ.

Hạ Vi đã săn sóc mẹ tôi như bổn phận dâu con trong những tháng ngày dài hầu hạ, lo lắng cho mẹ tôi thay thế hai đứa con gái đi lấy chồng. Chị Hai, và cô em gái ca ngợi Hạ Vi rất tròn hiếu thảo. Bây giờ tôi được biết thêm, khi hay tin tôi cưới vợ, Hạ Vi đã khóc hết nước

mắt và trước khi nhắm mắt lìa đời mẹ tôi đã hứa gả Hạ Vi cho một thanh niên cùng xóm. Chôn cất mẹ tôi xong, khoảng hai năm sau Hạ Vi lấy chồng. Chồng Hạ Vi mất bởi căn bịnh ngặt nghèo sau một năm cưới vợ. Hạ Vi sinh con sau khi chồng chết, nuôi con với số lương ít ỏi cô giáo dạy ở nhà giữ trẻ. Hạ Vi góa bụa từ đó. Bất chợt tôi cảm thấy lòng mình ray rứt, dù tôi chưa một lần hứa hẹn. Tôi quyết định trong lòng sẽ dành một khoản tiền thừa kế đền đáp lại tình Hạ Vi trong muôn một. Nếu không có lửa hồng tháng Tư năm đó, thì bây giờ Hạ Vi đã là vợ tôi, có một mái gia đình sống trọn vẹn bên chồng bên con, đủ đầy hạnh phúc.

Ở đây được hơn tuần lễ thì nhận được điện tín của vợ tôi. Trong điện tín nhắc nhở tôi không chia phần cho chị em, đem hết số tiền được hưởng về bên nầy. Chuyện chia chác đã thỏa thuận vài hôm trước và có phần cho Hạ Vi nhưng với giọng hết sức nghiêm chỉnh cô từ chối:

-Tôi là Trần Hạ Vi, không phải họ Lê, không có phần gì trong gia đình này cả. Rất biết ơn chị Hai và anh đã có lòng nghĩ tới, nhưng tôi lấy tiền làm gì, tôi không muốn nhận tiền không thuộc phần mình. Dù lương ít nhưng cuộc sống tôi rất thoải mái với con. Mời anh khi rãnh ghé qua nhà tôi để anh thấy cuộc sống dễ chịu đó.

Dòm Hạ Vi đang mĩm cười, mắt long lanh sáng, dịu hiền và thân thiết, tôi liên tưởng đến dáng điệu của vợ tôi quát lên lúc hỏi tiền để làm một việc gì đó.

Xong xuôi công việc, tôi còn ở lại một tuần nữa. Những ngày rỗi rãnh này tôi thường thơ thẩn quanh sân một mình. Hình ảnh Hạ Vi không ngừng vơ vẩn trong bữa ăn, giấc ngũ. Dường như tình yêu sâu kín chôn vùi bao nhiêu năm bây giờ vươn mình sống dậy. Tình yêu trổi dậy

từ quá khứ tôi tự hỏi liệu có thể đem lại được gì cho Hạ Vi? Con thuyền đã chuyển bến và đã đi qua một mảng đời phía trước có còn gì để mộng mơ? Trăm muôn nghìn câu hỏi không một trả lời nào ổn thỏa. Tất cả đều không cho thấy một cơ hội mong manh nào để níu kéo cuộc đời đã sơ sẩy rớt rơi từ một lần yêu không toại.
Tôi đứng bên ngoài lớp học, dòm qua hàng rào bằng lưới kẽm. Phía trong bức tường vây quanh là ngôi nhà màu vàng, có hành lang rộng. Cái sân được chia làm hai phần, bên là sân chơi, bên là bồn cỏ. Tôi đến gần để dòm rõ hơn Hạ Vi đang cùng một bầy trẻ nhảy múa trên

sân, đọc một bài học thuộc lòng:
Thứ nhứt là phải chào thưa.
Thứ hai lễ phép ra vào nghiêm trang.
Thứ ba quần áo đàng hoàng.
Thứ tư chăm học, con ngoan nhứt nhà.

Ðám học sinh hát, Hạ Vi vỗ tay theo nhịp, mình lắc lư qua phải, qua trái. Rồi kế tiếp dạy múa những động tác đầu tiên. Ba mươi bảy tuổi, trải qua những khó khăn của cuộc đời, vậy mà Hạ Vi vẫn giữ nét hồn nhiên tươi tắn với đám trẻ như cùng tuổi thơ đồng lứa.
Một người đàn bà về chợ đi qua, dừng lại bên cạnh tôi, ghé mắt dòm vào, ý chừng để được thấy đứa con gái của chị đang nhảy múa trong sân. Chị vui vẻ nói khi nhìn về phía tôi:
" Cô hiệu trưởng trông thật hay hay! "
Tôi hỏi chị :
- Sao....cô ấy là hiệu trưởng?
- Anh không biết à, báo chí và đài phát thanh ca ngợi phương pháp dạy trẻ của cô. Cô thật tuyệt vời! Tất cả phụ huynh ở đây đều
gởi con em đến đấy. Anh dòm kìa con gái tôi đó. Bây giờ, cho một đứa con ăn học tốn kém lắm, nhưng ai chẳng muốn con mình được học hành tử tế.

Tôi gật đầu đồng ý.
Một người đàn bà góa ở một thị trấn nhỏ với thân hình mảnh mai, yếu đuối đã cố gắng vươn lên hẳn phải nhận nhiều khổ sở. May mắn chồng cô ấy chỉ là một người bình thường, không có một quá khứ mà những người đương quyền gọi là có tội nên giờ này được ca tụng. Nếu ngày xưa cô là người thân của tôi không biết đời sống hiện giờ ra sao? Nghề gỏ đầu trẻ là nghề nhọc nhằn, khổ cực.

Tôi lặng lẽ rời xa ngôi nhà giữ trẻ, đi loanh quanh trong vùng.
Những buổi chiều nằm im trong căn phòng cũ hiu quạnh nghe thời gian trôi giạt xuống bờ hư vô mờ mịt. Những buổi mai thức dậy hoang mang

đối diện với một ngày thiếu vắng. Cũng căn phòng này, nhà này bóng dáng Hạ Vi luôn luôn thấp thoáng vào ra để cảm thấy được nâng niu, săn sóc thật ưu ái và trân quí lên trong tầng không gian ấm áp tấm đẫm đầy sự nồng nàn của tuổi mới lớn. Ước vọng thầm kín như muốn trỗi dậy, thúc dục tôi đi tìm Hạ Vi. Nhưng không thể, khối tình đó đã qua, đã tan chìm mất hút. Hãy xem như một giấc mơ đẹp lúc giựt mình tỉnh dậy âm thầm nuối tiếc. Tôi thường đi lang thang không đỵnh hướng, như kiếm tìm bóng dáng hạnh phúc đã xa rời tầm tay với.

Buổi chiều, mặc dầu bầu trời đã nổi lên một chùm mây đen phía xa, báo một cơn mưa sẽ đến. Mặc kệ tôi băng mình ra ngoài, cố gắng nhớ lời chỉ vẻ hướng đi đến nhà Hạ Vi. Trời nổi gió và cơn mưa ào ào trút xuống khi tới cửa nhà Hạ Vi. Tôi đẩy cửa bước vào, một đứa trẻ ngồi trước TV đang theo dõi trận bóng bàn hỏi tôi:
- Thưa chú tìm ai?
Ðứa trẻ rất giống mẹ, có đôi mắt thật đẹp.
- Chú tìm mẹ Hạ Vi của cháu.
Tôi đinh ninh chú nhóc con này sẽ lúng túng không biết trả lời và phản ứng ra sao.

Nhưng nó mau mắn:
-Mời chú ngồi. Mẹ cháu chưa về. Mẹ cháu thường về trễ. Chú ngồi đây chờ nhé. Nếu chú có cần đi ngay thì dặn cháu, khi mẹ về cháu thưa lại.
Vừa nói nó vừa đi ra phía sau nhà, không lâu đem ra tách nước trà còn bốc khói, đặt trước mặt tôi:
- Mời chú uống nước.

Ðứa trẻ quá lễ phép, hiền lành, nói năng vững chãi. Liên tưởng đến hai đứa con tôi bên kia trời, tôi lắc đầu chán ngán.
Tôi dòm quanh phòng khách, đồ đạt sơ sài. Cái bàn dài sáu ghế bằng cây cũ kỹ. Cái máy may kê sát vách gần cửa sổ, cạnh đó là cái ghế
cao kê cái TV nhỏ. Tôi không thể so sánh với cô, Hạ Vi ơi. Cuộc sống sung sướng hạnh phúc hay không là tùy mình.

- Chú chẳng có gì quan trọng dặn cháu. Chú là một người bạn cũ, đến thăm mẹ cháu thôi. Chú đến đây cũng để thăm cháu và có chút
quà cho cháu.
Tôi lấy cây viết máy và một số viết nguyên tử xanh, đỏ trao cho nó. Ðôi mắt hiện vẻ ngạc nhiên, má hừng lên, hai tay tiếp lấy, dòm tôi đăm đăm.
- Cám ơn chú.
-Cháu tên gì?
- Cháu tên Khương.
Chúng tôi trở thành thân thuộc ngay khi tôi cầm tập toán Khương để trên bàn và hỏi nó:
- Cháu hiểu bài không chú giảng cho?
Tôi giải nghĩa bài cho Khương, nó yên lặng ngồi nghe và sau đó nó làm xong những bài tập mà thầy giáo đã cho về nhà làm.
Khương đem cất tập, trở ra liền hỏi tôi :
- Chú giỏi toán quá. Chú là giáo sư phải không? Chú hãy cho cháu biết ý kiến nếu thi vào trường Sư phạm thì cháu còn phải học tới bao
nhiêu năm nữa.
- Tại sao lại vào trường Sư phạm?
- Ðó là nguyện ước của mẹ cháu. Cậu cháu tốt nghiệp trường Ðại học Sư phạm. Mẹ cháu nói mẹ cháu rất mãn nguyện nếu cháu đỗ đạt
như cậu cháu.

- Cậu cháu là ai?
-Ai ? Cháu không biết. Cho tới bây giờ lúc nào mẹ cháu cũng nhắc đến cậu ấy. Khương dòm tôi mĩm cười.
Tôi kéo Khương lại gần, dịu giọng hỏi:
-Có phải mẹ cháu kể nhiều chuyện rất hay về cậu cháu phải không?
- Còn gì nữa! Ðó là những việc có ý nghĩa thời thơ ấu của mẹ cháu và cậu cháu.
- Thế mẹ cháu có vui khi kể chuyện không?
- Ðâu có...Ðôi lúc mẹ cháu khóc....

Lòng tôi trĩu nặng và tự nghĩ thầm sao em chẳng quên đi, quên hết đi cho yên ngày tháng mới. Biểu vậy, nhưng lòng tôi nào làm được như lời mình. Vẫn loáng thoáng không bao giờ dứt những ảo ảnh dật dờ của cánh hoa pensée ép vào trang sách cũ và gợi nhớ tà áo trắng

qua cầu một sáng nắng reo, hai con mắt long lanh dưới vành nón nghiêng buổi chiều sương trắng. Nhớ lại, nghĩ đến để rồi thao thức, bâng khuâng, đau xót, tôi đã đành chìm lỉm giữa đời sống, như xác tàu đắm dưới biển sâu. Vòm trời mặt nước trên kia đã vô cùng ngăn cách.

Bé Khương nhíu đôi lông mày nói tiếp:
- Ðời mẹ cháu vất vả lắm. Khi được nghỉ hoặc khi đau yếu mẹ cháu thường khóc, cháu biết mẹ cháu tủi thân không có ai bên cạnh.
Tôi ôm Khương vào lòng, an ủi:
- Mai cậu cháu sẽ đến. Chắc là vui lắm.
Mặt Khương tươi hẳn lên, nói:
- Cháu có món quà tặng cho ông cậu.
- Quà tặng gì vậy?
- Hai chiếc khoen bằng vàng.

Thì ra cô ấy còn giữ. Hơn hai mươi năm, cái ngày cả nhà đưa ra bến phà, Hạ Vi giúp tôi mang hành lý vào phía trong phà, tôi nhờ Hạ Vi đưa đôi vòng tai dùm cho mẹ tôi.
Cho đến nay tôi vẫn tưởng chị hoặc em tôi đang giữ. Hóa ra mẹ tôi trao cho Hạ Vi. Tôi hiểu trước khi mất mẹ tôi đã có nói về việc của hai đứa.

Tôi cảm thấy một chút lo ngại nếu gặp Hạ Vi. Chắc chắn tôi tự cho phép mình được quyền đeo những chiếc khoen nầy vào tai Hạ Vi. Sao
lại không? Tim tôi đập mạnh. Tôi dụi mắt, vuốt mặt làm một động tác để xóa đi ý nghĩ điên rồ. Tóc đã bạc, đã luống tuổi, làm sao tôi có thể nỡ làm đảo lộn, lật tung lên đời một người đàn bà, mà chính mình ngày trước đã bỏ rơi.
Tôi đi như trốn chạy giữa đôi mắt ngạc nhiên của thằng bé.
Sáng hôm sau, tôi ra bến phà một mình. Ðứng sau đám người chờ bước lên phà, tôi không ngừng quay đầu dòm lại phía sau. Lòng tự hỏi
không biết Hạ Vi có đến tiễn không. Tôi lên sau cùng. Phà nổ máy.Tim tôi se thắt lẫm bẫm lời từ biệt quê hương. Bóng Hạ Vi xuất hiện trên bến phà, xòe tay cho thấy hai cái khoen tai. Tiếng nàng dội mạnh trên mặt sông đầy nước:
- Anh Nhân, em không buồn đâu. Em vui lắm. Thượng lộ bình an nha.

Phà đã rời bến, Hạ Vi quay trở về, mãi mãi làm cái bóng chìm dưới đáy sông sâu. Tôi rướn người lên dòm theo khuôn lưng gầy gò xa
dần. Ðầu cúi thấp, bước đi xiêu vẹo nhạt nhòa trong sương mù buổi sáng của lối rẽ trở lại nhà, lâu lâu cánh tay đưa lên quẹt ngang tầm mắt.

Phà đã ra giữa sông, phía xa, sau rặng bần dày đặt vầng thái dương đầu ngày ló dạng, chiếu những tia sáng vàng chói chan phủ trùm sóng
nước. Tôi thấy mình như có nước mắt lưng tròng, xoá tan cảnh vật thân mến của quê hương.


Nguyễn Thị Long An

Hansy
30-09-2014, 01:19 AM
53.

ĐỔI NGHỀ

Nguyễn Quang Sáng

Người học trò chưa kịp cúi đầu chào thầy thì thầy đã cúi đầu chào trước, thầy cười niềm nở và đưa tay hướng dẫn khách ngồi vào bàn và hỏi giọng hỏi nhẹ và lễ phép lắm: "Dạ hai cậu đi mấy người?". Người cùng đi trả lời cộc lốc: "Hai!".

Chiều mưa lất phất, hứa hẹn một buổi nhậu ngon lành sau một hợp đồng xây dựng cho một công ty xuất nhập khẩu. Anh học trò là kỹ sư xây dựng, tuổi ba mươi, người dong dỏng, mang kính cận, hãy còn dáng dấp của một sinh viên, tên Liêm. Ông giám đốc công ty người vạm vỡ, tuổi hơn bốn mươi, vẻ phong trần, râu lún phún, tóc muối tiêu - ông Nguyễn Hưng. Sau khi hai người an toạ thì cô tiếp viên tuổi hai mươi mặc chiếc áo bà ba cách điệu màu xanh lá cây, lễ phép trình thực đơn bìa màu đen - ông Nguyễn Hưng đưa tay chộp lấy. Tiếp viên giọng nhỏ nhẹ: "Hai anh uống gì?". Ông Nguyễn Hưng: "Chiều mưa ta làm chai rượu?". "Dạ tuỳ anh". Ông Nguyễn Hưng giọng vừa to vừa ấm: "Một chai Rémy!". "Dạ lớn hay nhỏ?". Ông Nguyễn Hưng trợn mắt nhìn cô tiếp viên: "Chai nhỏ không đủ lỗ mũi". Cô tiếp viên cười. Anh kỹ sư Liêm vẫn bị ông thầy ám ảnh, anh hỏi: "Anh đến quán này thường không?". Ông Nguyễn Hưng: "Từ ngày khai trương, gần một năm, thấy được, không sang không hèn lại tiện đường".

Chai Rémy đặt lên bàn, hai cái ly bầu, một xô đá, hai chai soda Chương Dương... Hai ly rượu sóng sánh màu mật ong - ông Nguyễn Hưng vui mừng với hợp đồng, ông háo hức cầm ly nâng cao: "Cạn!". Anh kỹ sư vẫn bị ám ảnh nhưng vẫn nâng ly. Ông Nguyễn Hưng nốc cạn, còn anh kỹ sư thì nhấp đến ba lần, rồi cũng cạn. Khách tốp ba, tốp bốn lác đác vào - Ông chủ lại chào, lại bắt tay, lại cười, qua lại, lui tới, lăng xăng. Anh kỹ sư cứ đưa mắt nhìn theo ông chủ: "Sao mà giống ông thầy trường tôi quá!". "Còn ai vô đây nữa, thầy Viết chú không nhớ à!". "Tôi không ngờ...". "Có gì mà không ngờ...". Rồi ông kể. Đáng lẽ ông hạ giọng nói nhỏ cho hai người vừa đủ nghe, nhưng ông vẫn giữ giọng bình thường: "Trong giáo dục, sự nghiêm khắc là điều cần thiết, ông ta nổi tiếng là ông thầy nghiêm khắc - Hồi chiến tranh ta có chiến sĩ diệt Mỹ, chẳng biết ông ta làm gì mà nổi tiếng là "chiến sĩ diệt sinh viên". Mỗi năm mỗi kỳ học, đơn kêu oan, đơn khiếu nại gởi lên ban thanh tra chồng chất. Ban thanh tra xuống. Cái bộ mặt nghiêm khắc là cái mặt nạ. Những sinh viên chưa đáng đuổi thì ông ta đuổi, còn đứa đáng đuổi thì ông ta cho học. Chứng cớ rành rành thế là ông ta bị thôi việc, không chỉ có ông ta, cái băng của ông ta dài lắm. Tôi cũng là một bằng chứng".

Ông Nguyễn Hưng phát giận, ông cầm ly ực một hớp: "Tôi có một đứa cháu ở Đồng Tháp lên trên này học - Đồng Tháp bị lũ, nó chạy về thăm nhà. Không ngờ lũ to, nhà bị cuốn trôi, em nó chết. Mùa lũ người chết không có đất chôn. Vắn tắt là như vậy, chú đủ thấy bê bối cỡ nào. nó phải ở nhà giúp mẹ em út chạy lũ. Tạm ổn, nó trở lên. Nó bị phạm quy vắng mặt không xin phép. Thầy Viết này đuổi. Với tư cách là chú, tôi đến trường. Tôi là người làm ăn, tôi biết muốn đạt được mục đích thì phải đi nhiều đường. Cửa trước, cửa sau, cửa hai bên hông, đi ngày đi đêm. Nhưng tôi nghĩ, nhà trường là chốn tôn nghiêm - Tôi đi cửa chính. Khi tôi bước vào phòng của thầy, thầy nhấc cặp kính nhìn tôi. Tôi cúi chào lễ phép: "Chào thầy". "Ông có việc gì?" - Gương mặt của thầy sắc lạnh, thầy cũng không mời tôi ngồi. Tôi rất bực, nhưng tôi phải xuống nước nhã nhặn. "Dạ tôi thay mặt cho phụ huynh của cháu Đông". Không để cho tôi nói hết lời, ông ta nói như rít trong hai hàm răng: "Trường hợp này tôi đã xử lý rồi, không khác được". Nói xong ông ta quay mặt qua hướng khác, còn tôi, tôi quay đít đi luôn. "Bây giờ thì khác, là chủ quán, ông ta phải chào mình, phải xởi lởi. Chú không nhận ra ông thầy của chú cũng phải. Mỗi nghề, mỗi gương mặt. Nghệ sĩ có gương mặt nghệ sĩ, công an có gương mặt công an, chính khách có gương mặt chính khách. Đời là vậy. Mất dạy thì phải đổi nghề, còn tại sao ông ta chọn đường mở quán thì tôi không biết".

Ông thầy Viết mở quán thật ngẫu nhiên. Trong thời gian bị thôi việc, tất nhiên là buồn. Không việc làm, buồn thì giao du với bạn bè, nhưng xấu hổ, ông chẳng muốn gặp ai. Ngay ngày Nhà giáo, không có một bó hoa. Học trò không ai đến thì làm gì có hoa. Hồi đương chức, Ngày Nhà giáo hoa ngập cả phòng khách đủ hương đủ sắc, tối phải phân tán nó đi, không thì ngợp mà chết. Trong những ngày quẫn bách, một người bà con ở Sóc Trăng tạt qua thăm. Người bà con tên Trần Sển, trên năm mươi tuổi, tóc hớt đầu đinh, bụng phệ, nói cười rang rảng. Ông là chủ nhà hàng, với con mắt nhà nghề, qua nhiều câu thăm hỏi, ông chợt nói: "Nhà thầy mà mở quán thì thầy giàu to". Thầy Viết tròn mắt ngạc nhiên: "Mở quán à?". "Thì mở quán". Thầy lắc đầu lia lịa: "Không được, không được. Ở con phố này có bao nhiêu tiệm ăn. Có tiệm ở xéo bên kia một năm mà thay tới ba chủ. Chủ nào cũng lỗ". "Họ lỗ là họ không biết làm ăn". "Tôi thì biết gì?".

Ông Trần Sển ngồi trên chiếc nệm da, áo phanh ngực, hai chân xoải dài, giọng tự tin: "Không biết thì học. Thầy để tôi chỉ. Nhà thầy ở quận 5, nhà lại mặt tiền. Thầy có nghe dân Sài Gòn nói không? Ăn quận 5, nằm quận 3... Ăn thì ở đâu mà không ăn, nhưng ăn cho ra ăn thì phải ăn ở quận 5. cái lợi thế thứ hai là thầy không tốn tiền thuê mặt bằng. Nhiều người bị lỗ là một phần tiền thuê mặt bằng. Người cho thuê mặt bằng họ ăn chắc nhưng là người không biết làm ăn. Cái mặt bằng của thầy, cái phòng khách kê được tám bàn, cái sân, thầy che mái, xếp được mười hai bàn". Thầy Viết cảm thấy hứng thú nhưng vẫn ngại ngần: "Tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc mở quán".

"Có phước làm quan, có gan làm giàu. Nghề dạy nghề mà . Nghề nào cũng có mánh lới, cũng có bí quyết, phải biết dụ khách. Khách hàng là thượng đế, họ thích thì mình chiều. Như ở nhà hàng tỉnh tôi thì làm gì có heo rừng, nhưng khi gọi heo rừng tôi vẫn có heo rừng. Nói thầy đừng cười, heo rừng của tôi là heo nọc. Con heo nọc hôi dái ai ăn! Nhưng biết làm thì thịt nó như thịt heo rừng. Mỡ ít, da dày, thịt nhiều nhai nghe giòn rựm, ai biết. Khách gọi rùa rang muối, rùa phải có trứng họ mới ăn. Họ đâu có biết rùa có trứng phải nhằm mùa. Dù rùa không có trứng, tôi vẫn có trứng. Có gì đâu, tôi mua trứng rắn bông súng, tôi nhét vô, họ ăn vẫn thấy ngon. Có một lần sơ ý, tôi nhét trứng rắn bông súng vô bụng con rùa đực nhưng họ vẫn ăn ào ào. Còn nói về con cua, con cua hấp phải đủ càng đủ ngoe. Hai cái cang mà rời ra thì họ chê. Cua tôi mua là cua xuất khẩu không đạt tiêu chuẩn. Cua một chỗ càng ngoe một chỗ. Có gì đâu ráp nó lại bằng keo dán sắt. Họ bẻ rôm rốp, họ cười rang rảng. Họ toàn là khách sành ăn!". Thầy Viết càng nghe càng thú vị, thầy như đứa học trò được giảng một bài học kinh tế đầu đời.

Con rùa rang muối đặt lên bàn. Ông Hưng lấy đũa lật cái mai lên, trên mình con rùa có một chùm trứng, những cái trứng nhỏ bằng đầu ngón tay út, màu trắng ngà, ông đưa mũi trên chùm trứng nghe mùi khói. Chùm trứng như vuốt hết cơn giận của ông Hưng, ông đưa đũa gắp một cái trứng vào chén anh kỹ sư: "Chơi đi! Ăn nguyên trứng chớ đừng cắn, một cái trứng đủ liều lượng cho một hớp rượu".

Như để làm mẫu, ông cho nguyên cái trứng vào miệng, vừa nuốt xong thì ly rượu kề bên môi, ông ực một hớp ngon lành. Ông vừa rót thêm rượu vừa nói: "Tôi thích ăn rùa, nhưng rùa phải có trứng, trên đời này không có trứng nào bằng trứng rùa. Có những quán hỏi rùa có trứng không, nó bảo mùa này không có trứng. Dẹp! Còn quán này, ngày nào, mùa nào rùa cũng có trứng, tôi thích quán này là vậy".

Ông Hưng tìm ông chủ, vẫy tay một cách hào phóng. Ông chủ chạy tới, ông Hưng rót rượu đưa cho chủ quán: "Thưởng!". Ông chủ quán khẽ cúi chào, mặt rạng rỡ, ông đưa hai tay bưng ly rượu vẻ trân trọng, nhưng ông chưa kịp uống thì ở bàn bên kia một ông khách hỏi: "Ai có bút cho tôi mượn!". Ông chủ quán vội đặt ly rượu xuống, vội quay đi. Chỉ cần vài bước mà ông đi như chạy: "Dạ bút đây!".


Nguyễn Quang Sáng

Hansy
01-10-2014, 12:50 AM
54.

ĐỜI NHƯ Ý

Nguyễn Ngọc Tư

1
Ai cũng hỏi, "Làm gì có chuyện đời như ý?". Chú Đời cười, hàng ria mép xoăn tít xồm xoàm quớt lên, tự hào, sao mà không?

Nhìn vẻ mặt này không ai nghĩ chú mù, thấy sao mà tự tin, thanh thản quá chừng. Không ai biết chú khổ còn hơn... cô Lựu. Chú Đời dẫn cả nhà rời Chợ Cũ, Cầu Nhum lang thang lúc con Ý mới bồng nách. Gồng gánh như một gánh hát, chú ca cải lương, bán vé số kiến thiết. Vợ chú nửa điên nửa tỉnh, không biết có phải vui trong bụng lắm không mà suốt ngày cười ngẩn ngợ Hai đứa con gái đứa mười, đứa tám tuổi phụ cha đem vé số tới mời từng sạp chợ. Đứa nào mặt mày cũng xấu xí, lem luốc, đen đúa, nên nghe cha tụi nó kêu con Như con Ý ai cũng cười.

Một ngày của gia đình chú Đời bắt đầu từ sáng sớm, chú buộc vô mình sợi dây điện nối giữa cây đờn với cái loa con Như đang cầm, nó ghịt dây thì chú bước tới, chùng dây thì đứng lại. Con Ý nhỏ con chạy lăng xăng đằng trước, đứng coi búp bê người ta chưng tủ kiếng. Vợ chú vừa đi vừa ca hát đằng sau, nhặt hoa phượng để lên đầu. Cũng giống như những người hát rong khác, nhà chú có cả thảy bốn người nhưng trên con đường tấp nập, trông họ nhỏ nhoi, cô độc làm sao.

Ở thành phố này có chừng đến ba bốn người hát rong, họ dìu dắt từng đôi, ở tận đằng xa, người ta nghe tiếng ca là biết gánh của ai rồi. Có đôi vợ chồng già ca mùi như Thanh Sang, Thanh Nga; có một đôi trẻ hơn, ông chồng đưa hơi như Trọng Hữu. Chú Đời ca dở, giọng hơi giòn, chói, thuộc lòng chỉ mấy bài "Chiếc áo người vợ hiền", "Con gái của mẹ"... nghe mắc chán. Nhưng chú đi đằng đầu phố, gió đàn lại cuối phố nghe tiếng được tiếng mất nhưng người ta biết ông "Đời Như Ý" sắp đi quạ Cái miệng của ông này sao mà lanh dữ vậy, luôn miệng gọi Ý con, con đừng có đi xa, con Như đi chậm một chút, ba theo muốn đứt hơi rồi, coi má con đâu. Mình ơi, mình à, mình lại gần tui nè. Rồi oang oang bảo vé độc đắc chiều nay nằm ngay đây, ngay trân chỗ này nè. Có hai ngàn một vé, ăn gói xôi chưa kịp mắc răng đã hết, mua giúp tờ vé số đặng giúp tui xóa đói giảm nghèo. Mua đi, để tui đi xin bà con cũng mắc... cho hà. Mấy ông chạy xe ôm nói chú rao làm sao mà láu cá quá, không biết mù thiệt hay mù giả mà sao cái miệng leo lẻo vậy. Chú gỡ mắt kiếng đen ra, cười với đôi mắt lạnh lẽo, sâu hút, "Mấy anh nghĩ vậy riết quen, em đui tối thiệt thòi, rên rỉ, than vãn cũng đâu hết thảm. Mà, em đang sung sướng quá chừng đây, kể lể nỗi gì".

Theo chú nói thì chú sung sướng thật. Vợ chú đẹp, vui vẻ (vì cười hoài), có đi nhậu vợ chú cũng không chù ụ như vợ người tạ Không ngã lòng trước sự hào nhoáng xa hoa, chồng người ta sao mà đẹp trai, sao mà giàu hơn chồng mình. Chỉ cần mỗi bữa sáng, chú mua cho vợ hai ngàn đồng cà phê sữa là vợ mừng rưng rưng nước mắt. Chú sung sướng vì còn có hai chị em con Như con Ý, nhỏ xíu mà giỏi, dễ dạy, đẹp đẽ. Nghĩ vậy nên chú Đời phải vui, vui vì vừa lòng với những gì mình đang có.

Những trưa nắng gia đình chú tạt vào hiên chợ Bách Hóa, nghỉ chân. Con Như lãnh tiền, chạy đi mua cơm về ăn. Họ ngồi giữa ngọn gió mát lồng lộng. Chú Đời lúc nào cũng ngồi ăn chậm rãi, nghe ngóng chung quanh như canh chừng, như bảo vệ bữa ăn thiêng liêng của nhà mình. Chú nghe tiếng đũa khua tinh tang, cuống quít lên miệng chén là biết đứa nào đói đứa nào không. Rồi cằn nhằn vợ, "Mình ăn chậm thôi, nghẹn bây giờ, đó, nghe ặc ặc rồi đó. Con Như lấy nước mà uống. Coi gỡ xương cho em Ý với, con". Bữa nào ăn cơm xong, chú cũng ngồi chải đầu cho ba mẹ con họ, ai đi ngang khen chơi, cha, bữa nay hai đứa nhỏ đẹp gái dữ, chú sướng quá cười hích hác. "Nó giống mẹ. Giống vợ em mới đẹp, giống em xấu hì. Mà, ngộ quá, con của mình, xấu mấy cũng thấy đẹp thấy thương".

2.
Quẩn quanh mấy chợ, mấy khu phố quen hoài bán không chạy như trước, chú Đời phải ráng đi tới tối mịt mới về. Giọng chú ngày càng khàn, nghe khen khét như nồi cơm quá lửa. Đi qua mấy quán nhậu, có người kêu vô, đưa ly rượu, chú trịnh trọng nâng ngang mày đa tạ, chỉ hít tới hít lui khen "Rượu ngon. Mùi đã thiệt" nhưng không uống, chú bảo lúc này giọng dở quá, hình như nghe không khỏe trong mình.

Nên có lúc giọng ca của chú lật bật như hai hàm răng đánh vào nhau, chú biểu con Như đi mua Anagin về cho chú uống. Mấy cô tiểu thương trong chợ cằn nhằn, thằng cha mầy lúc này ca gì như là sốt rét, "Chiếc áo người vợ hiền" hay vậy mà ca lụm cụm như "chiếc áo bà già". Một bữa đi ngang qua trạm y tế phường, con Như dụ, nó nói trong trạm có khám bệnh miễn phí, nên nó dẫn chú vào. Lát sau, lúc từ phòng siêu âm bước ra, chú Đời giận quá, mặt xanh, tay chân run rẩy, "Ba đã nói có bịnh hoạn gì, làm tốn hết mười lăm ngàn đồng bạc".

Chú Đời mau giận mà cũng mau quên. Bữa sau chú còn sắm đồ cho hai chị em con Nhự Diện quần áo mới, tắm rửa kỳ cọ sạch sẽ, ai cũng bật ngửa, "vậy ra ông này mù mà tinh, ổng đâu có xạo, mấy đứa cũng ngộ gái quá chớ". Dì Liễu cũng khen.

Dì Liễu bán xoong chảo ở trong chợ Bách Hóa, không có con nên thích con nít, hay rờ rờ đầu chị em Như, Ý, nói với mấy bà bạn, "tui khoái chị em con nhỏ này, nghèo vậy mà đàng hoàng, không đá cá lăn dưa". Con Như nghe thích lắm, về nói với ba, chú Đời hỏi, dì Liễu thích con hay thích con Ý. Như bảo thích bằng chang nhau. Cho con cục kẹo thì cũng cho con Ý một cục. Chú Đời thở dài, "Ba già rồi, hát ca hết ra hơi rồi, chắc là nuôi mấy má con con không nổi, hay là ba cho bả một đứa, nghen".

Dì Liễu tính đâu chú nói chơi, con người quý con như mạng mình, nói cho là cho sao. Ai dè chú làm thiệt. Dì Liễu mừng lắm, những bữa chợ vắng có một đứa hủ hỉ, trông đồ cho mình ngủ cũng vui. Dì chọn con Ý vì khuôn mặt nó đẹp, sáng sủa chứ không buồn bã như con Nhự Dì còn đi coi thầy, chọn ngày tốt để rước con Ý về.

Hôm con Ý về với dì Liễu là rằm tháng Hai, chú Đời biểu con Ý mặc đồ mới, kéo nó ngồi vô lòng mình, chú chải tóc cho nó, chú chải lâu vì nó cứ tức tưởi liên hồi. Chú hỏi bữa nay con mặc áo màu gì, nó bảo màu xanh. Chú dặn lòng, mình sẽ nhớ hoài, lúc xa chú, con Ý mặc đồ xanh, mặc dù chú không biết màu xanh ra sao. Chú kêu vợ lại, biểu, "Mình hôn nó một cái đi, mai mốt nó không ở với nhà mình nữa. Mình đẻ ra nó mà tui không nuôi, mình đừng có giận". Vợ chú đâu có giận. Chỉ có con Như giận, nó nức nở, "con thương con Ý nhất nhà mà, ba". Chú không thương à? Thương, nhưng chú chắc dạ lắm, bước đi là đi một nước. Vợ chú rên ti tỉ, ngoái lại nhìn phía chợ hoài. Con Như vẫn khóc. Chú hỏi nó, "Con Ý có nhìn theo không, con". "Có, ba à, tội nghiệp nó quá".

Dường như con đường có nhiều ổ gà sao nghe chông chênh quá. Chú Đời cắn môi bước tới.

Nhưng đến chạng vạng, lúc quay về nhà trọ đã thấy con Ý ngồi lù ở cửa. Từ đó không cách gì bứt nó ra được. Chú năn nỉ nó quay lại với dì Liễu, nó không nghe. Chú lấy gậy đánh, nó cắn răng chịu. Chú đưa vợ với con Như trốn khỏi thị xã nó cũng biết cách lần theo. Bảy tuổi, con Ý cũng đã bảy năm lưu lạc giang hồ chớ giỡn. Cuối cùng, một đêm, chú bắt nó ngồi trước mặt mình, ôm lấy đôi vai xương xẩu của nó, chú nói cho con Ý nghe một câu chuyện đau lòng, chú nói nó không phải là con ruột của chú, chú lượm nó ở ngoài đống rác bệnh viện. Chú nuôi nó tới chừng này là để kiếm người bán lại. Dì Liễu cũng trả cho chú hai triệu chớ đâu có ít. Con Ý nhìn tệp tiền chú rút ra từ túi áo, mặt nó lạnh băng. Sáng sau, chú Đời đưa con Ý trở lại với dì Liễu. Lúc quay đi chú hỏi con Như, "Nó có nhìn theo không, con". Con Như nói không. Chú ừ, nấc khan một tiếng rồi cất tiếng ca, "Nuôi con khôn lớn không mong gì con nuôi lại me... ", sao mà nghe nghẹn ngào như đang khóc.

Con Như sợ rồi sẽ tới phiên mình. Nó cuống quýt sống, cuống quýt yêu thương chú Đời. Nó ăn ít, lấy đồ cũ ra mặc như thể chứng minh rằng nuôi nó cũng không tốn kém gì mấy. Chú Đời hiểu lòng nó, hay hôn lên mái đầu khét nắng của nó, lặng lẽ thở dài. Lấy số tiền dì Liễu cho, chú Đời đưa vợ vào bệnh viện. Bác sĩ nói vợ chú bệnh đã quá lâu, không có hy vọng chữa lành, nhưng cứ ở lại điều trị một thời gian xem sao. Chú Đời ôm vợ vào lòng, ngồi ngay chỗ băng đá đằng trước, chú nắn đôi tay, rờ rẫm mãi lên mặt vợ, biểu: "Mình ở đây nghen, ráng mau hết bệnh về nấu cơm cho tôi ăn, nói chuyện với tôi chơi. Hồi cưới mình tới giờ, chưa khi nào mình nói câu nào tử tế với tôi, tôi cũng buồn lắm". Vợ chú cười.

3.
Cả gia đình lang thang đó giờ chỉ còn hai người. Đêm khuya trở giấc, chú Đời kéo mền đắp cho con Như, vô tình đôi tay chú quệt trúng hai hàng nước mắt. Chú biết nó thức, chú hỏi "Sao vậy, con đau bụng hả?". Nó tức tưởi, "Bây giờ chỉ còn có mình con, ba đừng bắt con đi đâu hết, để con dẫn đường cho ba, mua thuốc cho ba uống, phụ bán vé số, nghen ba". Chú ừ, bỏ con đi đâu bây giờ.

Chú thường vòng qua chợ Bách Hóa, chú không hát, không dừng lại bán, chỉ kêu con Như tỏ mắt nhìn con Ý coi bữa nay nó mặc áo màu gì, mập ốm ra làm sao, tóc dài bao nhiêu rồi. Đứa con gái lớn buồn bã bảo, "em con mập lắm, trắng hơn hồi nó còn ở nhà mình. Nó cắt tóc tém, coi giống con trai lắm, nó nhìn thấy con mà giả đò như không thấy vậy, ba". Không mặc đồ xanh ba mua à? Không, lâu rồi nó không mặc nữa. Chú nghe vừa mừng vừa đau. Vậy là nó quên chú rồi, nó yên lòng bên người mẹ mới. Vậy là từ nay chú đã xa mãi đứa con này. Lụi hụi hết mùa nắng, giọng chú tắt khèn khẹt trong cổ họng, thậm chí không thể cất lời rao. Chú đờn cho con Như ca, tiếng ca ngọng ngịu và non nớt lắm, vô vọng cổ luôn bị đứt giữa chừng. Tội nghiệp, con nhỏ không có tài, ngáy còn lạc giọng mà ca nỗi gì. Những lúc ngồi bên con, nghe nó ăn giá sống cho họng bớt khan, chú Đời muốn khóc, thấy mình bất lực trước bệnh tật. Chú bảo, "Thôi, bỏ nghề, con".

Đã thấu gần hết cái khổ của kẻ hát rong, đã mỏi đôi chân ròng rã, chú Đời bán cây đờn, cái loa với bộ bình ắc quỵ Chú xin cho con Như đi chạy bàn, rửa chén ở quán hủ tiếu Nam Vang. Mới đầu nó không chịu, nó nói ba ở nhà một mình không được. Hồi đó ba buồn còn đờn lửng tửng chơi, bây giờ đờn cũng không còn. Nhưng rồi đến bữa cơm, nó đổi ý, nó không thể để chú Đời quẹt kho quẹt vầy hoài. Một bữa trưa, nó bưng tô nước thịt có nhúng nắm rau chạy về, chú Đời rầy nó làm vậy chi, ông bà chủ chắc không thích, nó cười, chú thím Sảnh biểu con đem về cho ba đó. Người ta thương con lắm. Chú Đời bảo, cuộc đời này, thiệt nhiều người tốt.

Một bữa trưa, chú Đời bắt nó ngồi lâu với chú thêm một chút nữa. Chú lấy lược ra chải đầu cho nó, tóc nó đã dài chấm thắt lưng. Chú nói, không biết chừng nó mười tám hai mươi tuổi tóc dài cỡ nào hen. Con Như cười, chừng đó cho ba chải đầu, thắt bím cho con mệt luôn. Chú Đời bảo, từ đây tới đó còn lâu. Rồi chú than, sao mà chú nhớ vợ với con Ý quá chừng. Con Như bần thần, "Hồi đó, nhà mình vui biết bao nhiêu hén, ba".

Ừ, vui. Trưa vầy, nếu không ở bên hông chợ thì cả nhà chú cũng tụm lại bên một gốc cây nào đó có bóng mát, nghỉ chân, ăn cơm. Hai đứa con nhỏ của chú bữa nào cũng không chịu ngủ lấy sức mà mải mê búng thun. Mở miệng ra rầy, con Ý nịnh, "để con nhổ tóc bạc cho ba". Nó nói đầu ba bạc nhiều lắm, rồi đặt sợi tóc lên bàn tay chú, trời ơi, sợi tóc mỏng tanh, nhẹ te vầy mà nó cũng thấy, con mắt nó sáng ghệ Rồi chú nhớ tới người vợ hay tựa đầu vào vai chú ngủ khì, trong trẻo, vô tư như trẻ con. Tự dưng chú Đời thèm được sống lại những buổi trưa ấy, những buổi trưa đã xa rồi, đã xa mất rồi. Chú biểu, "Mai con chạy ra chợ Bách Hóa, hỏi dì Liễu cho con Ý về, ba gặp một chút, sao... ba nhớ nó quá hà". Nhưng con Ý đâu còn ở chỗ dì Liễu nữa, dì nói nó đi rồi. Con Như tưởng dì giấu, cứ theo năn nỉ hoài, "tội nghiệp ba con mà, dì, cho nó về một chút thôi rồi mai mốt con không lại xin dì nữa". Dì Liễu vốn là người nhân hậu, dì chỉ biết nắm tay nó mà khóc ròng.

Là thật. Con Ý đã bỏ nhà đi bụi đời là thật. Nó đi vì lâu rồi mà không được nhìn thấy người cha tội nghiệp ấy dắt chị nó lặng lẽ qua chợ. Nghĩa là ba nó đã không còn thương nhớ nữa. Vậy thì ở lại làm gì? Con Như quay về, nó phải dừng lại rất lâu, nó không biết phải nói thế nào cho chú Đời đừng đau xót. Nó ngập ngừng đứng chỗ cái hàng ba đầy rêu ướt, chợt nó nghe tiếng hát, trời ơi, là tiếng hát của má nó. "Ầu ợ Đường dài ngựa chạy biệt tăm. Ơ... Phải duyên chồng vợ ngàn năm cũng chờ". Con Như mừng rỡ xô cửa bước vào, má nó đưa tay lên miệng ra hiệu im lặng, rồi thì thào:
- Đừng la lớn. Mệt rồi. Ngủ đi.

Con Như chạy lại ôm má nó, nó nghĩ chắc chú Đời giả bộ đây, trông con Ý thấy mồ mà không chịu dậy. Nó chọc lét vô mấy cái xương sườn của chú, nhưng chọc mãi, chọc mãi, chú không bao giờ thức nữa.

4. Làm gì có chuyện đời như ý?


Nguyễn Ngọc Tư

Hansy
02-10-2014, 12:23 AM
55.

"CÔ GIÀ" NOEL

Dương Lệ

Đã gần đến ngày Nô en...
Tôi học cùng với cậu ấy từ năm cấp 3. Sang đến Đại học, như một duyên nợ, chúng tôi lại học cùng nhau.

Ra trường được một thời gian, tôi cũng đã đi làm nơi này nơi khác. Cuối cùng, tôi lại nộp đơn vào công ty nơi mà bố cậu ấy làm Phó Tổng giám đốc. Hôm đầu tiên đến nhận việc, biết cậu ấy làm trưởng phòng mình, tôi suýt ngất.

Mấy nhân viên cùng phòng cực kết phong cách làm việc của cậu ấy: nhanh nhẹn, chuyên nghiệp, bản lĩnh, quyết đoán. Thật không khó để hiểu được tại sao cậu ấy có thể trở thành trưởng phòng. Một chị lớn tuổi hơn tôi bảo:
- Tôi không bao giờ phục những người trẻ tuổi hơn mình đâu. Nhưng cậu ấy thì ngoại lệ đấy.

Tôi cứ thắc mắc vì nghĩ chứ không phải chị ấy sợ Phó Tổng nên mới nói như vậy hay không. Nhưng khi nhìn thấy cậu ấy giao việc cho tôi thì tôi đã dập tắt ngay ý nghĩ ấy trong đầu.

Cậu ấy quả thực biết rất rõ tôi mạnh và yếu ở điểm nào. Nên không ngại ngần chỉ dạy cho tôi và giao cho tôi toàn những việc khó. Có ngày, tôi phải bạc mặt ở ngoài đường và suýt nữa phát khóc lên vì không thể hoàn thành được công việc. Rồi chẳng hiểu sao bỗng có cuộc gọi của cậu ấy.

- Nếu cậu không thể hoàn thành được công việc thì trước hết đừng bao giờ nhận dự án này. Hãy tìm người chia sẻ nó. Nhưng cậu đã nhận làm rồi, thì đừng có nản chí như thế chứ. Mình không quen người cam chịu thất bại đâu. Đừng để trở thành người xa lạ với mình như thế.

- Mình không phải người cam chịu thất bại. Nhưng đối tác không chịu đồng ý giúp đỡ. Chân mình hiện giờ đang rất mỏi và toàn bộ ý nghĩ của mình bây giờ là cái tai của mình được yên. Mình không phải nghe những lời phàn nàn của cậu nữa.
- Được thôi. Hãy cố gắng nhé!

Rồi cậu ấy dập máy. Tôi đã phải chờ đến 10h tối mới về được đến nhà. Trời đã vào mùa đông nên rất lạnh. Không khí càng gần đến ngày Nô en khiến tôi thêm chạnh lòng vì công việc vẫn chưa thể xong. Chạy lên chạy xuống công ty của đối tác (trước cửa đã đặt cây thông lớn) và nhà của ông ta mười mấy lần, bị bảo vệ đuổi ngay ở ngoài cửa, bị chó nhà họ xộc ra sủa oăng oẳng, suýt nữa thì toạc cả gấu quần, tôi thất vọng đến nỗi không còn tin tưởng vào những cố gắng cuối cùng của mình vào ngày hôm sau nữa.
Thật không ngờ chiều hôm ấy tôi nhận được điện thoại. Ông ấy đồng ý gặp tôi để nghe tôi thuyết trình bản kế hoạch sơ lược của năm sau. Tôi vui sướng đến mức muốn nhảy cẫng lên. Trưởng phòng nhìn tôi, mỉm cười. Tôi chỉ cười trừ với cậu ta. Trời đất! Sao tôi lại ghét cậu ta đến thế! Mỗi khi tôi không hoàn thành công việc gì một cách nhanh chóng, là cậu ta lại mắng như tát nước vào mặt tôi. Lúc sáng, tôi bước vào văn phòng, chào cậu ấy mà không thèm mỉm cười với tôi lấy một lần.

Sau đó thì tôi đã thuyết phục được một cách khó khăn đối tác nhận dự án của tôi. Ngày cuối cùng, trước khi dự án được ký kết, tôi gặp ông ấy. Ông ấy bảo với tôi:
- Thực ra tôi là người rất kỹ tính, cuối năm thì lại càng bận rộn hơn. Nhưng trưởng phòng của cô là một người thật tuyệt vời đấy. Cậu ấy đã kiên nhẫn gọi điện cho tôi đến hơn 70, 80 cuộc để thuyết phục tôi đồng ý gặp cô. Cậu ấy bảo nếu tôi gặp cô thì tôi cứ yên tâm rằng tôi không gặp lầm người đâu. Cậu ấy nói đúng. Chúc mừng sự cố gắng của cô!

- Dạ! À vâng, xin cảm ơn ông ạ.
- Không có gì. Hẹn gặp lại cô sau.
Thực ra thì tôi đã hiểu lầm về cậu ấy. Cậu ấy đã giúp đỡ tôi rất nhiều, mặc dù cậu ấy không nói ra. Trước mặt tôi, cậu ấy luôn tỏ ra lạnh lùng. Có lẽ vì cậu ấy biết tôi rất tự trọng. Nếu cậu ấy nể tình bạn bè mà thiên vị với tôi thì những người khác trong phòng sẽ nói về tôi không được tốt. Tôi càng là bạn bè của cậu ấy, thì cậu ấy càng phải yêu cầu khắt khe hơn. Nhưng chính vì thế mà mối quan hệ giữa chúng tôi lạnh như băng. Có lần, cậu ấy uống rượu say, ngã đập đầu vào tường, tôi cũng không dám ra đỡ cậu ấy.
Hôm sau, tôi mới hỏi:
- Vết thương của cậu sao rồi? Đầu cậu sưng có bị đau lắm không?

- Mình đến đây được là mình đã đỡ rồi. Cậu đừng lo cho mình. Nếu cậu lo cho mình thật thì tại sao hôm qua mình bị ngã, cậu lại không phải là người đầu tiên đỡ mình chứ?
- Cậu biết là mình không thể đỡ cậu dậy mà. Nếu mà mình ra đỡ cậu thật thì liệu cậu có cho phép mình không hả? Hay là cậu lại đẩy mình ra như 5 năm về trước?

Cậu ấy chỉ nhìn tôi cười rồi nắm lấy tay tôi, nhìn sợi dây chuyền mặt hình cây Thánh giá trên tay tôi một lát, rồi xoa lên vết thương trên trán:
- Nếu có thể quay lại ngày hôm qua, cậu có thể giúp mình lần nữa được không?
Tôi rụt tay lại:
- Cậu thôi đi. Mình làm sao mà giúp cậu được. Mình không phải là bác sỹ. Cậu có hiểu không hả?
- Cậu không phải là bác sỹ. Nhưng cậu đã từng là bạn mình mà. Chuyện 5 năm trước mình đã muốn xin lỗi cậu. Song hình như cậu không muốn tha thứ cho mình.
Tôi quắc mắt với cậu ta, bỏ ra ngoài.

Cậu em trai của tôi năm nay học lớp 5. Gần đến Nô en rồi, nên cu cậu háo hức lắm. Nhà tôi theo đạo. Mỗi năm, cứ đến dịp này, bố tôi lại mang về một cây thông to. Em trai tôi mua đầy đồ về trang trí. Nào là những quả bóng tròn, nhỏ, vàng ánh, những dây kim tuyến lấp lánh, những chiếc chuông kêu leng keng leng keng. Những món quà nhỏ cũng được treo lên cây thông. Một hôm, thằng bé bảo tôi:
- Chị ơi, năm nay chị làm “Chị già” Nô en nhé.

Tôi đang uống nước, suýt sặc ra ngoài.
- Em sao thế? Làm ông già Nô en phải là đàn ông chứ? Năm nào, bố cũng làm ông già Nô en phát quà cho trẻ em trong xóm đạo mà.
- Nhưng mà không phải phát cho trẻ con đâu. Phát cho người lớn cơ.
- Hả? - Tôi ngạc nhiên - Ai cơ?
- Chị không biết thật sao? Là anh Tuấn.
- Em sao thế? Sao tự nhiên lại phải phát quà cho anh ấy? Nhà anh ấy thì thiếu gì. Vấn đề là người ta có thích hay không chứ?
- Anh ấy rất tội nghiệp. Anh ấy chẳng bao giờ được nhận quà vào Nô en cả.
- Sao cơ?

- Thì hôm trước anh ấy đến nhà mình tìm chị mà. Anh ấy tự nhiên bảo anh ấy muốn bé lại lần nữa. Vì anh ấy chưa bao giờ được nhận quà Nô en cả. Anh ấy kể với em là, hồi anh ấy còn bé, còn tin ông già Nô en là có thật. Như em bây giờ thì là lớn rồi - Thằng bé nhấn mạnh - Hồi ấy, bố anh ấy toàn đưa anh ấy đi chơi bằng xe hơi. Anh ấy không được chạy bộ như những đứa trẻ khác. Một lần, anh ấy trốn ra ngoài chơi. Đó là ngày Nô en. Anh ấy được một ông già Nô en tặng cho một chiếc kẹo mút, bảo là tặng cho cậu bé ngoan. Anh ấy rất thích. Nhưng ngay sau đó, bố anh ấy đi ra, quăng chiếc kẹo mút đó đi, rồi lột chiếc mũ và râu ông già Nô en ra. Thì ra, đó chính là một người nhân viên dưới quyền của bố anh ấy. Sau đó, không hiểu sao bố anh ấy đuổi người nhân viên đó ra khỏi công ty. Từ đó, anh ấy không tin và cũng không cần có ông già Nô en nữa. Cái gì anh ấy cũng được bố cho, anh ấy chẳng phải mong ước bất cứ điều gì cả.

Tôi ngắm lại tấm ảnh của tôi và cậu ấy hồi cấp 3. Cậu ấy đúng là rất đáng thương. Mẹ cậu ấy bỏ hai bố con cậu ấy đi theo người khác khi cậu ấy còn chưa đầy một tuổi. Cậu ấy thiếu tình thương của mẹ trong một gia đình giàu có. Mẹ cậu ấy cũng theo Công giáo. Có thể, bố cậu ấy giận lây sang cả ông già Nô en, không cho cậu ấy dính dáng đến ngày Giáng sinh. Chúng tôi cũng rất sợ bố cậu ấy. Biết bố cậu ấy không thích nên Nô en chẳng khi nào dám rủ cậu ấy đi chơi cả. Thế nhưng, tôi biết cậu ấy rất yêu mẹ mình, thường lén đến gặp mẹ, mỗi khi mẹ cậu ấy trở về từ nước ngoài. Tôi nhớ lại. Cậu ấy đã từng nói với tôi: “Một buổi sáng, năm mình học lớp 5, mình nhìn thấy một gói quà vứt ở ngoài sọt rác. Mình nhặt lên xem thì thấy có đề gửi đến cho mình từ mẹ. Hôm đó, mình mới biết mẹ vẫn quan tâm đến mình. Tiếc là món quà Giáng sinh ấy đã bị bóc ra và bị lấy mất. Sau đó ít lâu thì mình gặp mẹ. Mẹ bảo mẹ không muốn mình xa bố, vì bố chỉ có mình thôi. Mẹ cũng bảo là năm nào mẹ cũng gửi quà Giáng sinh cho mình. Mình nói là mẹ đừng làm như thế nữa, vì bố chắc chắn sẽ không vui, mình cũng chẳng bao giờ được nhận quà cả. Chỉ cần có thể gặp mẹ là món quà lớn nhất đối với mình rồi”.

Một buổi sáng, tôi ra mua đồ ở ngoài chợ. Họ có bán bộ đồ đỏ của ông già Nô en rộng thùng thình. Tôi chọn mãi mới được bộ quần áo của người lớn cỡ bé nhất, nhưng dù sao nó cũng vẫn rất rộng so với người tôi.

Vê lại cái râu giả trắng xóa dán ở quanh miệng, tôi đội chiếc mũ đỏ vào, vác hộp quà sang nhà cậu ấy, định nhấn chuông. Sau đó nhớ ra bố cậu ấy không thích ông già tuyết, nên tôi đành trốn một góc, gọi điện thoại cho cậu ấy ra.
Cậu ấy cười rũ rượi. Tôi phải lôi cậu ấy ra một góc.
- Này, cái thằng bé kia. Ông già Nô en đang ở đây. Cười cái gì mà cười hả? - Tôi giả giọng khàn khàn, bảo.

- Xin lỗi ông, ông già Nô en. Con không cố ý. Nhưng con trông ông buồn cười quá. Để con dán lại râu cho ông đã - Cậu ấy đưa tay lên miệng tôi - Bây giờ thì được rồi.
- E hèm - Tôi gạt tay cậu ta ra - Ai cho động vào ông già Nô en như thế chứ? Bởi vì cậu chưa bao giờ được tặng quà Nô en nên hôm nay ta tặng cho cậu một món quà. Nào, giơ tay ra đi. 1,2,3!

Cậu ấy giơ tay ra, nhưng vẫn ngạc nhiên hỏi:
- Sao tự nhiên năm nay cậu lại giả làm ông già tuyết tặng quà Giáng sinh cho mình vậy? Chà. Cậu chưa bao giờ rủ mình đi chơi Giáng sinh cơ mà.
Tôi đưa hộp quà vào tay cậu ấy:
- Nào, tặng cho đứa bé ngoan. Ta tặng con thì con phải cảm ơn ta đã. Sao chưa gì đã thắc mắc rồi?

Cậu ấy cười rất tươi:
- Vâng. Cảm ơn ông... à không, “cô già” Nô en nhiều ạ.
Cậu ấy ngạc nhiên, mở ra đọc thiệp Giáng sinh và một hộp kẹo mút to.
- Ôi, trời đất. Nhiều kẹo thế này thì ăn biết bao giờ cho hết chứ. Cảm ơn cậu. Thực sự cảm ơn cậu.
- Ừm... Ta đã hết nhiệm vụ của ngày hôm nay rồi. Bây giờ ta đi về đây. Chào tạm biệt!
Cậu ấy kéo vội tay tôi:
- Khoan đã. Sao chưa gì cậu đã đi như thế? Chúng ta không thể trở về như trước kia được sao?

- Mình nói rồi. Chúng ta không thể mà. Mình không thể ở bên cạnh cậu như trước kia được.
Nhưng cậu ấy bất chợt ôm lấy tôi, làm tôi không kịp phản ứng.
- Bỏ ra nào - Tôi bảo.

- Mình không thể xa cậu lần nữa. Mình xin lỗi. Đầu năm thứ ba đại học, mình đã biết mình yêu cậu. Mình đã nói với bố về cậu. Nhưng bố mình đã ngăn cản, vì cậu là người Công giáo. Bố bảo rồi cậu sẽ giống như mẹ mình, cậu sẽ bỏ rơi mình. Bố nói là nếu mình còn muốn ở bên cậu, thì phải bỏ ngay tình yêu đó với cậu đi, nếu không thì bố sẽ bắt mình đi du học. Lúc đó mình đã nghĩ, chỉ cần mình hàng ngày được nhìn thấy cậu thì mình sẽ chấp nhận tất cả. Ra trường, mình biết cậu làm ở rất nhiều công ty. Mình đã nhờ bố mẹ cậu cố gắng thuyết phục cậu nộp hồ sơ ở chỗ công ty bố mình đấy. Lúc cậu vào làm chỗ mình, thực ra mình cũng đã đấu tranh với bố rất nhiều. Mình nói bấy lâu nay, mình vẫn giữ khoảng cách với cậu, sao bố vẫn còn lo lắng đến thế. Mình đã nghĩ là sẽ có ngày mình nói ra tất cả mọi chuyện với cậu. Hôm nay, mình đã nói với bố mình vẫn còn yêu cậu. Mình cũng đã viết đơn xin thôi việc rồi. Ngày mai, mình sẽ gửi cho bố. Cậu hãy ở lại tiếp tục làm việc. Mình sẽ không để bố mình làm gì được cậu, tình yêu của mình đâu. Dù sao thì thời gian qua, cậu cũng đã trở thành nhân viên chính thức của công ty rồi.

Tôi đẩy cậu ấy ra:
- Cậu điên rồi. Sao cậu có thể rời bỏ công ty chỉ vì mình chứ? Hãy ở lại và mình sẽ rời khỏi công ty.
- Đừng. Cậu đừng làm như thế. Cậu phải cho bố mình biết là ông ấy đã sai rồi. Cậu là người rất tuyệt vời. Và cậu sẽ không bao giờ rời bỏ mình vì bố mình hay bất cứ điều gì khác, có được không?
Tôi thúc vào ngực cậu ta:
- Cậu đang định lợi dụng mình để chứng minh bố cậu đã sai đấy hả? Cậu muốn mình làm thế vì điều gì chứ?

- Vì mình yêu cậu. Và mình yêu mẹ mình. Có thể cậu không tin, nhưng mình cũng yêu bố mình nữa. Mình hi vọng rằng tình cảm của mình đối với cậu sẽ giúp ông ấy nghĩ lại. Mẹ mình không bao giờ trở về nữa. Nhưng mà Nô en thì năm nào cũng có. Ngày mai, cậu có thể vào đặt một hộp quà Nô en trong văn phòng bố mình được không? Mình sẽ dẫn cậu vào, sau đó sẽ đưa đơn thôi việc của mình cho bố.
Chúng tôi đang tranh luận thì có một bóng người đi ra. Tôi giật mình hoảng hốt. Cậu ấy nắm lấy tay tôi:
- Bố!

- Không phải là một Ông già Nô en mà lại là một “Cô già” Nô en ở đây sao? - Bố cậu ấy bảo.
- Cháu chào bác ạ - Tôi lúng túng.
- Cháu tặng quà cho nó thì cháu có hứa suốt đời này sẽ ở bên cạnh nó không? - Tiếng bố cậu ấy cất lên.
- Dạ... Cháu...
- Nếu cháu hứa được thì Tuấn sẽ không phải thôi việc nữa. Bác sẽ cho phép hai đứa. Vì thực ra thì... - Bố cậu ấy tiến lại gần hai đứa tôi - Hai đứa rất xứng đôi. Cảm ơn cháu vì đã trả lại tuổi thơ cho nó. Tuổi thơ đau khổ của nó, bác có lỗi rất nhiều. Vì có ai lại không thích Nô en chứ. Bác cũng rất thích, chỉ vì một số nguyên nhân nên mới phải không thích thôi.

- Thưa Phó Tổng giám đốc, cây thông và mấy dây trang trí này để ở đâu vậy ạ? - Tiếng một người gọi ở đằng xa. Tôi nhận ra anh ấy, hình như là trợ lý của Phó Tổng giám đốc.
- Cậu để vào trong nhà cho tôi - Bác ấy ngoảnh lại, bảo, rồi quay ra nói với chúng tôi - Hai đứa tối nay cứ đi chơi đi. Tối mai đã là Nô en rồi đấy.
Tôi ngoảnh nhìn cậu ấy rồi nói với bác ấy:
- Dạ, để cháu trang trí cây thông Nô en giúp bác trước đã được không ạ? Bây giờ cũng chưa muộn mà. Vừa nãy, ăn cơm xong, cháu sang đây luôn. Chợ Giáng sinh phải gần khuya thì mới vui. Bác có muốn đi cùng bọn cháu không ạ?
- Bố, con cảm ơn bố - Cậu ấy bất chợt nói - Vì năm nay nhà mình lại có Nô en rồi.
- Bố đặt cây thông ấy từ chiều đấy. Nếu hai đứa muốn giúp đỡ bố thì cũng được. Nhưng trang trí xong thì hai đứa đi chơi thôi, bố còn bận nhiều việc lắm. Thế nhé! Vào trong nhà đi. Lạnh lắm!

Tôi kéo tay cậu ấy:
- Mình phải về thay đồ đã. Mình không thể mặc đồ ông già Nô en như thế này lâu được.
- Không sao đâu. Mặc thế rất ấm mà. Ông già Nô en à, cháu yêu ông lắm.
- Dở hơi à? Ai là ông già Nô en chứ? - Tôi véo cậu ấy.

- Vậy thì “Cô già” Nô en vậy. Anh yêu em!

Tôi mỉm cười, muốn nói với cậu ấy rằng tôi cũng thế. Nhưng đã bước vào nhà rồi, căn nhà này sang trọng quá, tôi thấy ngần ngại, nên lại thôi.

Ngoài kia, người ta đi bộ rất nhiều trên đường. Không khí Giáng sinh đã tràn ngập khắp các ngả. Bài hát Nô en vang lên: “Jingle bell, Jingle bell...”. Một đứa trẻ nghịch ngợm, nhấn chuông rồi bỏ chạy...


Dương Lệ

Hansy
03-10-2014, 05:15 AM
56.

ĐỜI QUÈ

Lâm Huyền

Trời nắng chang chang bỗng dưng sập mưa xuống. Nắng dữ dội và mưa xối xả. Nó lê ra cửa nhìn cái sân kín ngô nửa bắp nửa hạt mẹ phơi hồi sáng. Ngao ngán và bất lực. Nó trở vào nhà nằm khóc. Mưa ném xuống ngói bộp bộp, hắt những hạt li ti vào giường lên cả mặt nó.

Với ai không quen, khi ở nhà một mình lúc trời mưa giông tầm tã hẳn dễ phiền muộn lắm. Nhưng với nó, việc này diễn ra thường xuyên đến nỗi, nó gần như không còn cảm giác gì nữa, như một miếng bọt biển đã sũng nước bị vứt xuống đại dương mênh mông vậy. Từ khi rất bé, nó đã phải ở nhà trông nhà để mẹ và chị đi làm. Ngày đó, mỗi lúc trời mưa to, sấm sét đì đùng, nó khóc thét lên rồi lê lết bò xuống gậm giường. Nó sợ. Đã nhiều người trong cái làng này chết vì bị sét đánh. Cả cây cối trâu bò cũng vậy. Biết đâu đấy. Nhưng rồi, một mình mãi, sợ mãi dần dà thành quen. Đến bây giờ nó trở thành con người đã tật nguyền lại câm điếc. Nó nhắc mình hãy cố gắng làm một con chó giữ nhà tốt, một đứa trẻ biết im lặng. Thế là yên thân rồi.

Nhưng cơn mưa hôm nay không cho nó được vô tình. Mưa đánh vào nó bao nỗi niềm. Buồn và cô đơn. Lo lắng và sợ hãi xâm chiếm lấy tấm thân nhỏ bé của nó. Nó nhớ như in cảm giác đau đớn khi thằng Thái (tên nó gọi thằng người dân tộc Thái) làm chuyện ấy cách đây hai tuần, cũng vào lúc trời mưa thế này. Nếu mẹ biết thì sao? Chết mất. Liệu có? Có thể chứ. Dù sao nó cũng đã 18 tuổi rồi. Nó tàn tật nhưng vẫn là một đứa con gái. Làm gì?

Vừa về đến đường ngoài mẹ nó đã chửi đổng. Có khổ thân không chứ. Ăn ở đâu mất đức mà Trời đày. Ngô với khoai. Thôi thì trôi hết đi. Mẹ vừa chửi vừa kể. Vẫn cái điệu chửi thông thường ấy. Trước đây đã thế, từ ngày chị đi lấy chồng mẹ càng chửi dữ hơn. Nó nghe mãi thành quen. Thường thì mẹ chỉ chửi để mà chửi. Nhưng có lúc vơ quàng vơ xiên thế nào lại sang cả chị em nó, rồi chửi chỉ mình nó. Có lúc chửi to, hàng xóm nghe được bảo mẹ vô tâm ác khẩu, đứa con tàn tật mà làm nó buồn. Nó buồn nhưng không trách mẹ. Những lần thế này chỉ thấy thương mẹ và giận mình.

Mẹ nó người miền xuôi. Nhà làm nông không giàu nhưng cũng có của ăn của để, lại là con gái độc nên rất được chiều. Một lần ngẫu hứng xin lên huyện miền núi Con Cuông chơi nhà bà con. Nhà này ở đây lập nghiệp đã lâu, làm nghề buôn gỗ, hàng ngày cánh thợ cưa, lái xe qua lại rập rình. Ngày đấy mẹ nó trắng trẻo xinh tươi lắm. Cánh thợ tán tỉnh dữ nhưng chỉ có chàng lái xe đẹp mã, nhà cách đó 6 cây số là thành công. Tất nhiên, bên ngoại nhà nó không đồng ý. Tuy nhà đông con nhưng chỉ được cô con gái muốn gả chồng gần. Mẹ nó nằng nặc dù sống với người mình yêu một ngày khổ mấy cũng chịu. Ông bà ngoại bất lực, sợ ép quá, tính mẹ nóng nảy lại làm liều nên đành chấp thuận.

Về làm dâu, mẹ mới vỡ lẽ ra nhiều điều. Nghe đâu, ngày xưa bà nội nó cũng là người xinh đẹp hiền lành. Lấy ông đẹp trai, chỉ phải tội hay gái nên cay nghiệt với bà lắm. Bà sống không bằng chết. Rồi bà đổ bệnh. Lúc bà còn thoi thóp thở ông đã cho vào quan tài, để đến 10 năm sau bốc mả vẫn còn nguyên xương thịt. Chuyện là nghe người trong làng này kể lại, thực hư đến đâu không biết. Cái điều mẹ nó chắc chắn nhất là, nhà chồng chuyên làm nghề ăn cắp và đánh bạc. Cả nhà có một cô chị cả và 4 anh em trai nhưng chỉ cô con gái là người duy nhất chưa biết mùi tù ngục. Trước khi lấy mẹ, bố nó đã phải đi tù hai năm vì tội ăn cắp ngoài bến xe. Sau khi cưới vợ được năm tháng lại vào tù ngồi năm tháng tiếp. Mẹ nó vò võ ở chốn đất khách quê người, trong nhà có bố chồng hay gạ gẫm nên chán. Hình như có lần khi bố ở tù, giữa trưa bị ông chồm, sẵn có cào lúa trong tay, mẹ đã đuổi ông khắp vườn. Thế mới bị cả nhà chồng ghét. Đến lúc ra ở riêng đã coi như không nhìn được mặt nhau rồi.

Mẹ khuyên mãi bố không nghe. Chán. Mẹ im lặng nhưng không bỏ. Bố bắt đầu nghiện thuốc và bao bồ. Mẹ nó vẫn im. Rồi bố vào tù. Ba mẹ con nó ở nhà làm lụng nuôi nhau. Thỉnh thoảng mẹ có về thăm ông bà ngoại. Thương con, ông bà bàn bỏ rồi cả ba mẹ con về miền xuôi sống nhưng mẹ không nghe, ở trên miền ngược này lầm lũi làm, lầm lũi chờ bố nó. Một lần nghe tin bố vượt ngục. Khoảng một tuần sau bố về làng. Ngày giỗ bà, dù không muốn, chị em nó vẫn bị mẹ bắt lên nhà ông ăn cỗ. Mẹ cũng lên nhưng chỉ thắp hương xong rồi về. Lần đó, khi chị cõng nó từ nhà nội về, thấy bố với cô Khương - sau này nó mới biết tên - đang quần nhau trong nhà kho bỏ dở. Hai chị em vừa đi vừa khóc đến tận nhà. Mẹ cũng biết, và biết nhiều hơn những gì chị em nó thấy. Tối bố về. Hai bố mẹ nói chuyện với nhau. Bố nó ở lại nhà, ngày chui vào sập lúa, đêm khuya ra với mẹ con nó. Mấy ngày qua đi không thấy động tĩnh gì. Một hôm bố không chịu được đang ban ngày ban mặt bò ra ngoài, bảo nó ngồi ở thềm canh chừng. Được vài tiếng, công an vào. Từ đó nó không được gặp bố. Nghe nói sau đó bố đánh người vượt ngục thêm lần nữa nhưng không thành và phải chịu mức án hai mươi năm tù giam ở nhà tù tỉnh. Mẹ không nhắc gì tới bố nữa. Lâu lắm mới thấy mẹ vắng nhà một ngày, không biết có phải đi thăm bố không.

Đời mẹ què quặt là thế. Cho nên mẹ thương nó lắm. Thỉnh thoảng mẹ vuốt tóc nó lẩm bẩm “cái con chị trời đánh làm khổ con tôi thế này đây”. Rồi khóc. Lúc sinh nó, mẹ chắc hẳn cũng tự hào vì ít ra, nó là đứa trẻ lành lặn lắm chứ. Nhưng có lẽ hơi bé. Có phải vì thế mà lúc nó hơn một tuổi, chị bế mới đánh rơi nó xuống nhà. Ai cũng tưởng nó không sống được mà rồi nó sống. Nó bị liệt và teo mất một chân. Chân còn lại mãi chỉ nhỏ và ngắn như chân đứa con nít mười tuổi. Mông lại bành ra to hơn người nên mỗi lúc muốn dịch chuyển nó phải ngồi và nhích bền bệt giữa nhà. Sau này tập dần nó cũng đứng dậy vin vào thành giường nhảy lò cò được mươi bước. Người nó bị thế nên không phát triển được, bé choắt. Đã 18 tuổi rồi mà nặng chưa được ba chục cân, thấp lũn cũn, làm gì cũng cần người giúp, từ việc đi vệ sinh cho đến kì kinh nguyệt. Chị nó từ bé thay mẹ chăm bẵm hầu hạ nó. Đời chị vì nó mà làm cho liên luỵ. Tuy nhà nghèo đầu tắt mặt tối nhưng chị học lại rất khá. Thế mà phải bỏ học giữa chừng đi làm công nhân nhà máy đường. May vẫn có người thương. Chần chừ mãi rồi mẹ nói được câu động viên:
- Thôi kiếp tao đã khổ. Kiếp em mày cũng khổ. Hai chúng tao nuôi nhau. Mày tính chuyện mày đi.

Chị khóc tức tưởi. Bên anh chồng giục mãi chị mới cho cưới. Từ đó đến nay đã được năm tháng rồi.

Còn lại hai mẹ con nó, mẹ lại càng hay vắng nhà hơn. Cả nhà được chia ruộng cho bốn nhân khẩu, khi bố đi ở tù và chị lấy chồng, mẹ vẫn tham công tiếc việc, làm hết không cho một ai. Thành ra mẹ làm cả ngày, trưa chỉ choạng về ăn cơm với nó một chút rồi đi. Đã thế nhà nó ở tận cuối làng, giữa ngã ba đường. Một ngã vào làng, hai ngã nữa hướng vào nghĩa địa và vào rừng. Chính con đường vào rừng đã đem lại cho xóm dưới làng nhà nó đỡ hiu quạnh đi nhiều. Bởi vì hàng ngày có bao nhiêu người, đặc biệt là các anh vào rừng chặt gỗ. Ở đây, không những làng này mà cả xã này đều không có phong trào học hành. Từ khi thành lập làng đến giờ đã ngót năm chục năm mới chỉ có 3 chị em con ông Kha xa làng đi học Đại học. Mà ông Kha cũng đâu phải là dân lao động thuần tuý chứ. Cả hai ông bà đều thoát li mà lị. Người ta vẫn bảo bì sao kịp. Còn lại số đông thanh niên trong làng đều chỉ học hết cấp hai, nhiều nữa cũng là cấp ba rồi nghỉ. Con gái thì về làm đồng, chờ vài năm lấy chồng coi như xong. Con trai đứa làm công nhân, đứa làm đồng nhưng phần lớn vào rừng chặt gỗ bán. Cũng may là rừng này còn có nhiều gỗ nên đời sống còn khấm khá. Hàng ngày mọi người vẫn đi qua, có khi nhìn vào nhà nó một cách vô tình, hờ hững như nhìn bao mái nhà khác trên con đường này. Nhưng với nó, đó lại là một phần cuộc sống. Sáng sáng, nó ngồi mãi bên cửa sổ nhìn và lắng nghe những tiếng bước chân, tiếng rì rầm của con người và tiếng hục hạc trên cổ trâu. Nó cười. Mọi cái đó tưởng như bình thường đến nỗi đôi lúc nó không ý thức được nó đang nghe gì. Chỉ đến những ngày mưa người ta tạm nghỉ không vào rừng, nó mới nhớ âm thanh quen thuộc đó. Và buồn.

Gần đây không chỉ dân làng nó mà những làng thân cận cũng liên tục vào cánh rừng này. Ngay cả hai làng của người dân tộc Thái bên kia khe cũng rầm rập người sang đây kiếm củi, chặt gỗ. Vì vậy, mẹ nó đã đặt cái tủ li cũ kĩ ra thềm, bày ra đó vài thứ lặt vặt để nó bán. Cũng chả có gì ngoài vài gói bánh kẹo, mấy bánh lương khô, đôi ba chai nước mắm rẻ tiền, rồi diêm, hương, thuốc lào, thuốc lá con cò… ấy thế mà ngày nào cũng có người tạt qua mua dăm ba thứ. Rồi cũng quen. Cái gì lâu mà chẳng thành quen. Dần dà nhà nó không chỉ là ngôi nhà biệt lập, là cái quán mà nó thân quen hơn với mọi người. Thế mới có người trời mưa xin vào trú chứ.

Hôm đó, cách đây đúng hai tuần rồi. Một cơn giông đến quá nhanh khiến mọi người ai cũng ngỡ ngàng. Thằng Thái chạy hùng hục vào nhà, thấy nó xin trú nhờ. Đến bây giờ nó còn không nhớ rõ cái thằng đó đã nói gì. Nó nói gì nhỉ? Chả gì cả. Nó hỏi tên, hỏi tuổi, hỏi mẹ đi đâu và vài ba câu lặt vặt. “Lạnh không”. Nó cười. “Ở nhà một mình à”. Nó gật đầu. “Thích không?”. Nó lắc đầu. Hẳn đứa con gái nào ở nhà một mình vào cái tuổi này, trong nhà lại có người đàn ông lạ sẽ rất dè chừng. Nhưng với nó, sự ngu dại đã khiến nó trở thành đứa trẻ vô tư và ngớ ngẩn. Sau này nó nghĩ lại mình ngu. Mà ngu là đúng thôi. Đời nó mới được hai năm cắp cặp tới trường, học hết lớp 2 mẹ bảo học cũng chả để làm gì, lại phiền thêm một người phải đưa đi đón về nên nó nghỉ. Ti vi không, sách báo không (có thì chắc gì đọc được?). Mẹ nó do vô tâm hay nghĩ không cần thiết mà chẳng bao giờ nói với nó các chuyện mà những cô gái lớn thường vẫn được dạy bảo cả. Ngay lần nó có kinh nguyệt đầu tiên nó còn khóc nức nở, gọi mẹ toáng lên vì nghĩ mình có bệnh. Làm sao nó không ngu được. Vì nó ngu nên nó cứ ngồi đó, mắt dán vào thằng Thái vừa ở rừng ra, đầu tóc khô khốc, mặt mũi đen sì, quần áo sắp mục đến nơi dính đầy quáu bẩn. Ngửi mùi thum thủm của người ta nó còn bật cười. Và thương. Dù sao nó vẫn còn sung sướng chán. Người ta nhìn nó, nó vẫn cười. Cho nên, khi cơ thể kia bất ngờ đè lên nó, nó chỉ dám ới lên một tiếng rồi đưa hai tay yếu ớt ra chống đỡ. Nó muốn kêu nhưng trời mưa to thế này có ai nghe? Với lại kêu ai bây giờ? Trước mặt nhà nó, cách một con đường là nhà của hai người ngây, lấy nhau hai chục năm không sinh được mụn con nào nên điên điên dở dở. Bên kia, cách cả 2 mảnh vườn là nhà 2 ông bà đại keo kiệt, rất ghét nhà nó chỉ vì bố nó phải đi tù. Họ là người dưng. Nhưng nhà bác gái nó bên này thì sao? Thì đấy. Ghét cay ghét đắng nhà nó có hơn gì. Nó không bao giờ quên những ngày giỗ bà nội, ba mẹ con nó lên thắp hương, bác đứng bĩu môi nguýt dài đánh thượt. Vậy thì biết nó đang bị người ta cưỡng hiếp, bác nó có sang không? Hay lại đứng bên kia chong chỏng và ngày mai cả làng biết. Nó chống đỡ một lúc rồi khóc hư hử. Cái thân hình trên người nó nặng quá. Nó thấy mình như nghẹt thở. Hai chân của nó khép chặt vào nhau. Do lần đầu hay vì nó bệnh mà làm cái việc đó khó thế. Thỉnh thoảng thằng Thái lại banh cái chân nó ra làm nó đau điếng. Khi mọi việc xong xuôi, thằng Thái đi rồi, nó vẫn nằm đấy. Cảm giác đau rát xâm chiếm toàn thân nó. Nó không khóc thành lời vì cổ nghẹn ứ lại. Nhưng nước mắt thì chảy ra ầng ậng tràn hết vào tai nó. Tối mẹ về thấy nó nằm trên giường khóc. Mẹ hỏi. Nó bảo tập đi bị ngã đau chân. Vài ngày đấy mẹ giục đưa đi khám xem xương xẩu thế nào, nó bảo không sao. Những ngày sau, trước mặt mẹ, nó cố tỏ ra bình thường. Dần dần rồi cũng hết đau.

Từ đó, những người qua đường đi vào rừng lại càng có ý nghĩa hơn với nó. Nó không thiết gì bán hàng nữa, từ sáng sớm đến tối mịt cứ chăm chăm nhìn ra đường. Có người nào, con trâu nào đi qua, nó nhìn thật kĩ như sợ bỏ sót thì không nhìn lại được vậy. Nó hi vọng gặp được thằng Thái đó lắm. Vì gì? Không phải vì quen hơi bén mùi mà vì nó căm thù. Gặp thì với thân hình yếu ớt của mình nó sẽ làm được gì? Không làm được gì nó cũng muốn chửi một câu chó đểu. Vậy mà nó không gặp. Hay gặp mà nó không nhớ ra nữa? Dù sao quanh làng nó có đến 3 con đường đi vào rừng!
Hai tháng sau cái ngày khổ nhục đó, mẹ nó hỏi:
- Sao mày tắt kinh?

Nó run lẩy bẩy mặt đỏ au không nói gì. Mẹ nó hỏi có bệnh gì nói để đi bệnh viện? Thật ra mặc dù không nôn oẹ như người ta nhưng nó đã thấy trong người khang khác. Lạ lắm. Và nó chờ đợi ngày con gái đã cách đây một tháng nhưng không thấy gì. Nó hiểu. Vì đã có lần vô tình nó nghe chị kể với mẹ như thế, mẹ mừng bảo chị có chuyện vui rồi. Nó sợ lắm. Từ ngày chị đi, mẹ là người duy nhất giúp nó trong chuyện này. Nó chờ đợi mẹ hỏi nhưng mẹ không hỏi. Đến bây giờ mẹ hỏi nó đây. Nó oà khóc nức nở. Nó khóc dài. Mệt quá không khóc được nữa. Mẹ nó thì cứ choang choảng một bên. Nó hít một hơi thật sâu, và nhắm mắt lại nói. Nhưng là của ai? Là của ai chứ? Làm sao biết được? Mẹ nó điếng lịm mất 1 phút rồi cũng oà khóc như nó, không, khóc to hơn nó chứ. Cứ thế hai mẹ con khóc. Hôm đó, hôm sau rồi hôm sau nữa...

Nhà neo người đã buồn bây giờ lại ảm đạm hơn. Nó tưởng như trong nhà có người chết. Nó ở nhà suốt nên không biết làng xóm có biết, mà biết thì có nói gì nhiều không? Chắc là nói nhiều chứ. Bởi vì những người đi rừng qua đã nhìn vào nhà nó nhiều hơn, bớt vô tình hơn. Với lại, mỗi lần đi đâu về, mẹ nó lại chửi đổng. Mẹ chửi nó ngu. Cứ đi làm về là chửi. Chửi thế thôi nhưng lại không nói gì đến chuyện phá đi cả. Mẹ càng chửi nó ra rả thì càng chăm sóc nó. Gà đẻ được quả nào luộc ngay luôn quả đó. Có miếng thịt cũng dành cho nó, còn mình vẫn bát canh rau qua bữa vậy. Càng ngày cái thai càng to khiến nó không thể nào đi lại được, chỉ ngồi lê lết thôi. Chị về thấy thế bật khóc. Nhưng nó buồn chán rồi, sợ chán rồi nên bây giờ lại thấy vui vui. Nó đã dần cảm nhận được một mầm sống đang được nuôi trong người nó. Nó thường nhìn xuống bụng và cười. Nó biết, bố nó khốn nạn với mẹ nó nhưng chị em nó thì không. Cho nên con nó sẽ không giống thằng Thái mà khốn nạn với nó. Con nó sẽ ở bên nó suốt đời, cả sau này khi nó già cả. Nghĩ đến đó lòng nó ấm áp lạ. Không biết nó nên nguyền rủa hay cảm ơn thằng Thái đây.

Mới được hơn bảy tháng nó đã trở dạ. Mẹ nó cuống. Cuối cùng phải tất tả nhờ người đưa đi bệnh viện huyện cách nhà đến 6 cây số. Con người ta đã căm ghét ai thì ngay cả khi kề bên cái chết cũng bất cần. Chả thế mà trong lúc nước sôi lửa bỏng này mẹ nó có thiết gì anh em nhà bố nó. Một mình hai mẹ con ở bệnh viện 2 ngày trời. Con đau con gào, mẹ cũng gào theo. Đến ngày thứ 3 thì nó đau dữ dội. Bác sĩ bảo nó phải mổ. Sau hơn giờ đồng hồ chờ đợi thấp thỏm, mẹ nó hét lên một tiếng thất thanh và ngất lịm đi…
Thế là nó chết.

Đám tang của nó cả làng đi đưa. Một phần vì người ta thương nó. Phần nữa do tò mò. Vì tin đồn về chiếc quan tài đặc biệt dành cho nó. Một chiếc quan tài của trẻ con. Nhìn cảnh mẹ nó ngất lên ngất xuống và khi chiếc quan tài dịch chuyển ai cũng trào nước mắt. Cái chết của nó và buổi đưa tang vẫn được người làng nhắc mãi cả tuần sau.
Nó chết. Nhưng đứa con gái bé tẹo chỉ nặng được 1,8 kg vẫn sống. Có người mẹ vừa mất con trong lúc sinh nở nài nỉ để được nuôi đứa bé nhưng mẹ nó không cho. Đêm đêm, người ta vẫn nghe tiếng khóc. Tiếng khóc của trẻ con the thé và tiếng ru trầm đục của người bà, lẫn vào đó đôi lúc là tiếng khóc ư ử…

Có người Thái nào vào rừng đi qua nhà nó nghe tiếng trẻ con khóc mà đứng lại nhìn không? Có hay không cũng để làm gì? Nó đã chết rồi. Ai biết đấy là đâu!


Lâm Huyền

Hansy
04-10-2014, 04:36 AM
57.

ĐỔI THAY

Nguyễn Thanh Bình

Giảng đường, giờ ra chơi
Thầy ơi!… - Tiếng con bé lảnh lót – Thầy ơi, chữ này là chữ gì hả thầy?
Đâu? Chữ nào?
Chữ này này – Con bé chỉ ngón tay búp măng có móng nhọn hoắt vào giữa trang giáo trình Hán ngữ.
À, đây là hai chữ “tự do”.

Thế còn chữ này nữa? - Con bé dịch ngón tay xuống phía dưới, nơi có hai chữ đã được gạch chân nắn nót bằng chiếc bút dạ kim đắt tiền.
Đây là chữ “ái nhân” nghĩa là … - Thầy đỏ mặt.
Nghĩa là gì hả thầy? - Nó vẫn hồn nhiên gặng hỏi bởi đây là những ngày đầu tiên trong đời sinh viên nó được làm quen với chữ Hán cổ.
Nghĩa là … là… “ người… người…” - Thầy ấp úng mãi không thành câu.
Thầy! Thầy nói đi để em dịch nốt bài này - Nó nài nỉ.

Tôi quên mất rồi, thôi cho tôi khất đến mai.
Ứ ừ! Em cần bây giờ kia. Nếu thầy không nói thì hôm nay về em... xuống tóc cho mà xem!
Ấy, đừng có dại - Thầy vội vã - Cô còn trẻ phải đi học chứ.
Nhưng thầy phải nói chữ đó là gì cơ.
Thôi được!... - Thầy kéo tờ giấy trắng trên bàn và vội vã ghi: “ái nhân = người yêu”. Rồi thầy bỏ chạy ra ngoài, tà áo nâu lẩn quẩn cứ quấn lấy chân. Con bé bỗng chợt giật mình về nghĩa của hai từ quái đản mà nó vừa gặng hỏi thầy.

Nó tên là Lan, học cùng lớp với thầy. Lan xinh nhất lớp nhưng cũng là kẻ to mồm, hay nói hay cười trong lớp. Nhà Lan ở gần trường nhưng chẳng bao giờ nó đến lớp sớm nhất cả. Hôm nào cũng vậy, khi nó vừa đặt chân vào cửa lớp thì đã thấy thầy ngồi ở đấy - dãy bàn dành riêng cho những sinh viên dự thính, ở trên cùng. Và cũng như mọi hôm, vừa nhìn thấy nó thầy đã “sổ” ra một câu chào bằng tiếng Trung Quốc “Ní hảo” (Chào cô) khiến nó phải đáp lại: “Lảo shi hảo” (Chào thầy). Một hôm, nó cố tình không chào lại, chỉ bật cười lanh lảnh, bởi bốn năm rồi ngày nào cũng thế.

Thầy đã lên chức sư ông. Nhà chùa cử thầy đi học để lấy trình độ đại học, khi có điều kiện sẽ học cao hơn.

Lan quen thầy từ năm thứ nhất, nó hay bắt thầy đọc và dịch nghĩa từ. Nó chơi rất thân với thầy. Còn thầy, trừ những lúc tụng kinh niệm Phật thì cũng hoà vào nhịp sống sinh viên. Thầy coi tất cả là bạn. Những ngày rằm, mùng một thầy thường mang lộc nhà chùa tới chia đều cho cả lớp. Nhưng từ năm thứ ba, thầy mang lộc cho mình Lan, thầy chơi thân mật hơn và thỉnh thoảng cũng ghé nhà nó chơi.

Thầy vào chùa từ khi lên bảy tuổi với lý do là bố mẹ bỏ nhau. Được nhà chùa dạy chữ nho cho từ đấy thành thử thầy biết nhiều chữ nho và viết rất đẹp. Lan mê chữ của thầy, nó bắt thầy dạy cách viết, bắt thầy đi chọn bút lông cho nó. Nó thừa biết rằng, thầy nửa ngày phải đi học, còn nửa ngày phải về chùa lễ Phật nhưng vẫn bắt thầy đưa đi lễ khắp các chùa. Lan bảo: “Đi bên thầy mọi sự đều suôn sẻ”. Thỉnh thoảng Lan cũng ở lại ăn cơm chay cùng nhà chùa: “Cơm chay ngon lắm...”.

Thầy làm sinh viên với bộ áo dài sẫm màu trong khi tụi con gái lại thướt tha với bộ áo dài trắng muốt. Sau hai năm học, thầy đi sâu vào chuyên ngành Hán. Lan cũng vậy. Nó học theo thầy để sau khi tốt nghiệp sẽ xin vào Viện Hán Nôm. Càng những tháng cuối cùng, chương trình học càng khó, lại hay phải đi thực tế nhiều. Lan thường về những nơi còn lưu giữ nhiều dấu tích cổ, nhiều câu đối, văn bia... Trong đó có cả chùa mà thầy đang ngụ.

Lan kém thầy bốn tuổi. Tuổi Thìn. Bốn năm đại học nghĩa là có bốn lần sinh nhật. Và thầy cũng thế. Ba lần sinh nhật trước, lần nào thầy cũng đến sớm nhất, mỗi lần thầy tặng nó một món quà, gói cẩn thận, đẹp đến kỳ lạ. Năm nào cũng vậy, vẫn câu nói “bất hủ”: “sinh nhật cô, nhà chùa chẳng có gì, nhà chùa có món quà nho nhỏ mong cô nhận lấy...”. Chỉ có bấy nhiêu lời nhưng thầy nói mãi mới xong. Thầy ngồi một lát, nó mở chai nước suối mời thầy. Thầy uống. Rồi thầy xin phép ra về. Nó tiễn thầy ra cổng, thế thôi.
Tối này là sinh nhật cuối cùng trong đời sinh viên của nó. Thầy vẫn đến sớm nhất, mặc dù nó không hề báo thầy. Vẫn những lời nói ấy, món quà ấy, cử chỉ ấy nhưng ánh mắt thì khác, lưu luyến hơn. Và hôm nay là lần đầu tiên thầy ngồi lâu đến thế, tận khi đám bạn kéo đến đã có đứa đứng dậy ra về thì thầy mới xin phép ra về. Lan lại tiễn thầy. Thầy đứng lại ở cổng một lát, nắm lấy tay nó, định nói điều gì đó nhưng sợ đám bạn ở trong chờ lâu, lại thôi. Tay con bé run run. Người con bé cũng run run. Hình như thầy cũng nhận thấy điều đó! Rồi thầy buông tay nó. Chào nó và lên xe nổ máy về chùa. Lan tần ngần nhìn theo tà áo dài bay phấp phới, thảng lại rõ hơn khi chiếc xe đi qua ngọn đèn cao áp. Đợi đến khi bóng thầy khuất hẳn Lan mới vào nhà.

Thầy sinh nhật sau nó một tháng. Vào tháng tám. Bốn lần thầy sinh nhật nó tặng thầy bốn bộ áo dài nâu do chính tay nó cắt may. Nó cũng gói cẩn thận, xinh xắn không kém nhưng đến chùa – nơi thầy ở – nó chẳng nói được gì. Chỉ im lặng. Và về khi mọi người đã về hết.

Bốn năm đại học trôi qua, lúc chập chạp, lúc nhanh chóng. Thầy và Lan cùng tốt nghiệp loại khá. Cả hai cùng sung sướng vì đã hoàn thành tốt nhiệm vụ nặng nề. Sau đó, thầy trở về với cuộc sống nhà chùa. Ngay sau đó, với tấm bằng đại học, thầy tiếp tục được nhà chùa cử đi học một năm ở Ấn Độ. Còn Lan về làm việc ở Viện Hán Nôm, giống in như ước mơ hồi còn là sinh viên.

Ngày thầy đi học nước ngoài, Lan tiễn thầy ra sân bay Nội Bài. Thầy an ủi nhiều nhưng nó vẫn buồn. Nó khóc… thầy cũng rơm rớm bờ mi. máy bay rùng mình và mất hút vào cuối đường băng. Lan đứng nhìn, mãi rồi nó mới quay về. Sau đó ít ngày, Lan nhận được thư của thầy gửi về từ Ấn Độ. Rồi nó viết thư hồi âm. Cứ thế, hàng tháng cả hai đều nhận được thư nhau.

Hết một năm du học, thầy hoàn thành nhiệm vụ trở về. Ngày thầy về, nó không biết để đón. Ngay sáng hôm sau thầy đến tìm nó ở nơi làm việc. Thầy mang quà cho nó. Toàn những cái mà đêm qua nó mơ thấy, nó thích. Lan ngạc nhiên vô chừng, vừa cười, vừa chạy ra ôm chầm lấy. Thầy cũng mừng, cũng vậy…

Sau khi về nước được một thời gian, thầy không còn ở chùa nữa. Thầy mua nhà riêng ở mặt phố, cách nhà con bé không xa. Từ đó thầy ít về chùa tụng kinh niệm Phật như trước. Rồi thầy bỏ hẳn. Bỏ không gian êm đềm với khói trầm nghi ngút. Bỏ bộ áo nâu đã khoác trên mình gần hai mươi năm qua… Thầy để tóc như những người thanh niên bình thường… Thầy đi giày đen, uống rượu… Thầy vào quán thẫn thờ trong âm nhạc Trịnh Công Sơn… Rồi thầy năng đến với con bé…


Nguyễn Thanh Bình

Hansy
06-10-2014, 01:17 AM
58.

ĐỒNG HỒ NÓI TIẾNG NGƯỜI

Phạm Văn Khôi


Đã mười hai tuổi, nhưng thằng Đăng vẫn được bố mẹ trìu mến gọi là thằng cu Tý.
Của đáng tội, nếu đem so nó với những đứa cùng trang cùng lứa quả nó có phần loắt choắt hơn. Nó hiếu động và ranh mãnh như một con rận. Có lẽ vì thế mà người nó sắt lại. Ở nó, từ vóc dáng đến khuôn mặt hình như cái gì cũng ngắn!? Chân tay cũng vậy. Bù lại, nó là một đứa trẻ thông minh và đã bộc lộ cá tính. Tổng kết học kì một, cu Tý được một chiếc giấy khen cũng nhỏ xíu. Nhưng cu Tý đã gây ra được một áp lực để vòi ông bố mua cho một chiếc đồng hồ báo thức điện tử nói được tiếng người. Cu Tý đã mê loại đồng hồ này ngay từ cái buổi tối xem quảng cáo trên ti vi. Sự thèm thuồng gia tăng không ngừng khi thằng Trung bạn nó được một ông cậu tặng làm quà sinh nhật một chiếc đồng hồ đen trũi nói tiếng người sà sã không biết mệt.

Lần này thì cu Tý được thoả mãn. Nó không ngờ một mảnh giấy khen nhỏ xíu đã đánh đổi được chiếc đồng hồ báo thức bằng tiếng người mà nó hằng mơ ước. Cu Tý khoái trí nở từng khúc ruột. Cu Tý sung sướng và si mê. Chỉ sau vài giờ hí hoáy…ấn, vặn. Nó đã biết cách sử dụng. Cu Tý giải thích với bố mẹ rằng: Cái đồng hồ này chỉ cần hẹn báo thức một lần là mãi mãi “cô” ấy gọi dậy, không cần phải lên dây cót. Nói rồi nó ấn vào một cái phím nào đấy và giọng một cô gái ẽo ợt cất lên: “Bây giờ là mười ba giờ ba mươi mốt phút…”cứ như vậy, “cô” ta nói đi nói lại dai dẳng hàng phút. Tính cu Tý là vậy! Nó ưa số lẻ. Mười ba giờ ba giờ ba mươi phút cu cậu phải dậy để đi học, nhưng nó để đồng hồ báo thức thêm một phút nữa, không phải nó muốn ngủ thêm một phút nữa mà nó thích thế.

Mẹ của cu Tý thích đọc sách tử vi tướng số. Nhiều lần mẹ nó nghiêm túc dặn nó rằng: “Con đã chớm bước vào tuổi gặp hạn, cái hạn năm tuổi rất nặng. Phải cẩn thận đề phòng!”.

Bố của cu Tý nguyên trước đây là một công nhân xây dựng. Nhưng từ khi ông nội bán đất chia cho vài chục lạng vàng, bố cu Tý bèn xin nghỉ việc. Mẹ cu Tý cũng “một mũi”.Có tiền có khác. Hai người bỗng trở nên quan trọng trong những quan hệ mà trước kia họ thường tỏ vẻ kém vế. Họ nhanh chóng nhận ra điều đó. Có túi bạc kè kè, họ đang tìm cách “làm ăn lớn!”.

Cu Tý nhận thấy dạo này nhà nó vui quá. Bạn bè của bố nó bỗng nhiều vô kể. Ngày bố nó làm thợ xây đâu có thế! Trong số vô kể ấy, có một người đáng kể. Đó là chú Đẹn. Hình như bố cu Tý sắp hùn vốn với chú Đẹn làm một cái gì độc đáo lắm, ngày kiểm tiền triệu như bỡn. Nghe nói chú Đẹn vốn là diễn viên sân khấu có khuôn mặt lý tưởng để sắm những vai đểu. Ngoài đời, trông chú hào hoa, ăn diện đúng mốt. Chú luôn sử dụng những loại xe máy đời mới nhất và đắt tiền nhất. Năm nay chú Đẹn ba mươi sáu tuổi, lấy vợ bảy năm vẫn chưa có con, hiện vợ chồng chú là chủ một tiệm vàng ở giữa trung tâm thành phố. Có điều, không hiểu sao…cứ mỗi lần chú Đẹn cười là cu Tý cảm thấy sợ? Nỗi sợ bằng chính sự nhậy cảm bẩm sinh của những đứa trẻ.

Vào buổi trưa chủ nhật hai mươi ba tháng chạp thì lời phán của mẹ cu Tý đăng nghiệm! Cu Tý gặp “hạn”! Chiếc đồng hồ báo thức điện tử nói tiếng người đã không cánh mà bay! Nó khóc rống lên tưởng như cha mẹ nó “chán cơm chán gạo”. Chân nó dẫm bành bạch, tay nó đấm lên ngực thình thịch. Nước mắt nước mũi giàn giụa. Mồm méo xệch réo” “ới… cô ơi! Cô đi đâu mất rồi…đứa nào đã lấy cô…ô…ô…” Hàng xóm cứ tưởng cô nó bị bọn bất lương đem bán qua biên giới. Phải vài chục phút sau, bố mẹ nó mới ngăn được cơn lũ nuối tiếc kiểu ăn vạ của thằng cu Tý. Mẹ nó nhai đi nhai lại lời an ủi sặc mùi mê tín, lời nói này đã trở thành câu thần chú cửa miệng cho những đệ tử của ông quỉ cốc tiên sinh:
- Của đi thay người! Của đi thay người…mà con!

Bố nó bảo:
- Trong cái rủi, có cái may! Bố mày may thì mày phải rủi. Chốc nữa, cả nhà mình sẽ đến nhà chú Đẹn ăn tiệc chúc mừng cho sự hợp tác sắp thành của một công ty mang tên con: Công ty TNHH Huy Đăng.
Lời vỗ về thành thực này đã khiên cu Tý ngừng nức nở. Chứng tỏ nó là một đứa con có hiếu. Bố mẹ cu Tý to nhỏ với nhau:
-Này, bố thằng Tý, phải cảnh giác đấy! Nhà mình từ trước có bao giờ mất trộm đâu.
-Ừ mà kể ra cũng lạ? Nhà mình kín cổng cao tường. Trẻ con không dám bén mảng vì chó dữ. Còn người lớn thì toàn khách khá giả hoặc giàu “nứt đố đổ vách”…cái đồng hồ giá trị không bằng chục chai bia có đem biếu người ta cũng chẳng thèm. Thôi, chấm dứt cái chuyện vặt vãnh này. Ngày mai mua cái khác. Hai mẹ con thay đồ, còn tôi vào thu xếp cái khoản tiền hùn. Mau lên kẻo chú Đẹn đang chờ. Chuyện này mà trễ là “sái” chứ chả chơi đâu.

Gia đình cu Tý vi vu trên chiếc xe Dream-đó là loại xe khi ngồi lên bắt người ta phải mơ ước.Bố cu Tý mơ thành tỉ phú.Mẹ cu Tý mơ thành một ngôi sao trong giới thượng lưu.Cu Tý mơ ngày mai có chiếc đồng hồ nói tiếng người để cứ đến mười ba giờ ba mươi mốt phút lại được “cô” ấy đánh thức.
Cu Tý thấy mặt chú Đẹn sáng lên trước cái túi lặc là trên tay của mẹ nó. Trong thâm tâm nó bây giờ chỉ mong sao chú Đẹn đừng cười. Nó cẩn thận quay đi chỗ khác. Nó giật mình khi chú Đẹn mở Sâm Panh.
Bàn ăn bày la liệt những món ăn đặc sản thơm phức nhưng cu Tý cũng chẳng thiết. Không hiểu sao nó cảm thấy lo sợ? Giống như tâm trạng của những đứa bé sợ ma. Một nỗi lo sợ vô hình!? Cu Tý chỉ biết nắm chặt lấy tay mẹ.

Chú Đẹn nói sang sảng:
-Chúng ta nâng cốc chúc sức khoẻ và tình nghĩa. Cạn chén trăm phần trăm để tự tin bước vào giai đoạn “chung lưng đấu cật”. Chúng ta nguyện có phúc cùng hưởng có nạn cùng chịu…

Tất cả đều trang trọng đứng lên, trên tay lăm lăm ly rượu màu hổ phách…Bỗng nhiên, từ trong ngăn kéo của chiếc tủ tường tráng lệ nhà chú Đẹn dội ra tiếng nói ẽo ợt của một cô gái:
“Bây giờ là mười ba giờ ba mươi mốt phút!”…


Phạm Văn Khôi

Hansy
07-10-2014, 05:14 AM
59.

ĐỨA BÉ ĐÁNH GIÀY
VÀ CỌC TIỀN ĐÁNH RƠI

VanTienSinh

Có người nói "Có những người tuy lớn nhưng nhân cách bé, có những người nhỏ nhưng tấm lòng bao la".
Công viên vào một buổi chiều nắng đẹp. Trên con đường vòng chạy quanh ngoằn nghèo trong công viên, từng tốp, từng tốp người đi hoặc chạy bộ. Từng đợt gió thổi mơn man, lay nhẹ những cành liễu rung rinh, đang toả bóng xuống mặt hồ. Rải rác xung quanh hồ, trên các ghế đá là các cặp tình nhân đang ngồi tâm sự với nhau. Thi thoảng đâu đó lại phát ra tiếng cười vui vẻ, làm khuấy động không gian vốn đã yên tĩnh ở bên hồ.
Tại một góc khuất trong công viên, có một đám thanh niên choai choai đang tụ tập. Nhìn vào chúng là người ta biết ngay là lọai thanh thiếu niên hư hỏng, lêu lổng, mà ta hay gọi là dân bụi đời. Đưá thì đang nằm, đưá thì ngồi chuyền tay nhau điếu tài mà. Đưá thì lim dim tận hưởng khoái lạc của ma tuý, đưá thì đột nhiên đứng dậy tay chân muá máy như động kinh, đưá thì bất thần hét lên như thấy quỷ... Một đưá có vẻ là đại ca của cả nhóm, đầu tóc cắt theo kiểu bờm ngựa, áo nó không cài nút phanh bộ ngực lộ ra hình xăm là 1 cái đầu hổ, tay đang vung vẩy sợi dây xích bằng sắt, cất tiếng hỏi cả nhóm:
- Sáng giờ có đưá nào thấy thằng Hùng không?
- Dạ không thấy đại ca.- Một thằng đang nằm dưới đất nhỏm đầu dậy trả lời.
- Đm...Bưã nay mà nó không kiếm được gì là chết với tao. - Thằng đại ca văng ra 1 tiếng chửi tục, vụt mạnh sợi dây xuống đất dội lên một tiếng đánh "Bộp".
Thằng Hùng mà cả bọn đang nói tới, là một thằng bé nhất trong đám. Mặc dù còn nhỏ tuổi, nhưng kinh nghiệm của nó trong việc móc túi mà người ta hay gọi là "nghề hai ngón", đã lên tới hàng siêu đẳng. Chỉ cần liếc mắt nhìn qua người khác, là nó biết tiền người ta để ở chỗ nào trên người, lấy được là dễ hay là khó. Nhìn bề ngoài, nó ăn mặc thật lịch sự lại còn bé, nên ít ai để ý, nhưng chỉ cần nó lướt qua người họ, thì tiền trong túi người ta đã nhẹ nhàng qua tay nó. Chỉ có điều mấy hôm nay, nó vẫn chưa kiếm được ai để trổ "tài". Hôm nay, nhất quyết nó phải "săn" được "hàng", nếu không thì chiều nay sẽ ốm đòn với thằng đại ca. Nghĩ tới những trận đòn của thằng đại ca đối với nó, nó bỗng cảm thấy người rét run dù trời đang nóng.
Giờ này nó đang lòng vòng gần bệnh viện, cả người nó căng ra đang chú tâm để tìm "con mồi". Bỗng mắt nó chợt sáng lên, khi nó thấy một người đàn bà vừa xuất hiện từ xa. Người đàn bà đầu đội nón lá, mặc bộ đồ bà ba màu đen, chân đi dép nhựa, hai tay chị ôm khư khư túi xách trước ngực đang đi vào bệnh viện. Thằng Hùng đưa tay vào túi, trong túi của nó lưỡi dao lam như đang ngọ nguậy...
°°°°°
Tú đang cầm cái khăn, hai tay nó xát đi xát lại đôi giày một lần nữa. Đôi giày đã trở nên đen bóng, lấp loáng dưới ánh nắng mặt trời. Gật gù tỏ ra vưà ý, từ từ sắp xếp hết dụng cụ đánh giày vào hộp đồ nghề, nó cầm đôi giày vào quán đưa cho khách. Trên đường nó vưà đi vừa huýt sáo. Từ sáng đến giờ kiếm cũng được kha khá, nếu ngày nào cũng được như thế này thì đỡ biết mấy, vừa đi nó vừa nghĩ bụng. Chợt nó thấy phiá trước lao xao, một đám đông người đang bu quanh một phụ nữ. Chị đang bận bộ đồ bà ba đen đang ngồi khóc sướt mướt dưới đất. Nó tò mò chen vào hỏi thăm một chị bên cạnh, mới hay chị phụ nữ kia bị rạch giỏ móc túi, bị mất hết tiền mang từ dưới quê lên, để lo cho đứa con bị bệnh nằm trong bệnh viện.
- Số tiền bị mất cũng khá lớn, khoảng chục triệu. Đúng thật là tụi ác ôn, người ta đã nghèo đi nuôi con bệnh nặng, mà chúng nỡ nhẫn tâm lấy hết tiền của người ta. Đồ cái quân trời đánh thánh vật. - Chị này rủa.
°°°°°
Lúc này trong một góc khuất ở công viên, thằng Hùng mặt mày đắc ý, chìa chiến lợi phẩm cho đại ca của nó. Cả đám thanh thiếu niên liền nhanh chóng bu lại xung quanh thằng đại ca, thằng nào mắt cũng sáng rỡ thèm thuồng nhìn vào chiến lợi phẩm, được bọc trong chiếc khăn mùi xoa ca rô màu xanh da trời. Thằng đại ca từ từ mở ra chiếc khăn mùi xoa, cả đám không hẹn mà cùng ồ lên một lượt. Trong chiếc khăn là một xấp tiền dày cộm, nhìn sơ qua cũng có thể thấy trị giá của nó cũng trên dưới chục triệu. Đột nhiên lúc đó trong bọn có thằng thét lên :
- Đại ca, bọn thằng Phúc kìa.
Từ xa, xuất hiện một đám thanh thiếu niên khác, dẫn đầu là một thằng đầu trọc mặt mày hung dữ. Thằng này tên là Phúc, là đại ca của nhóm thanh thiếu niên này. Băng của thằng Phúc đang đi kiếm băng của thằng Hùng để hỏi tội, tại sao bữa nay băng của thằng Hùng lại dám đi xâm lấn địa bàn làm ăn của tụi nó. Biết là chuyện không lành, đại ca của thằng Hùng liền hô cả bọn chạy. Cả băng thằng Hùng liền nhanh chóng tản ra các hướng. Bọn thằng Phúc cũng vội chia ra để đuổi theo, riêng thằng Phúc thì rút ra từ sau lưng một cây mã tấu dài sáng loá, rượt theo thằng đại ca của thằng Hùng. Trong khi đang gấp rút chạy, đại ca của thằng Hùng vô tình vấp phải một cái rễ cây, làm cho nó lộn đi mấy vòng. Từ trong người nó rớt ra một cục màu xanh, lăn chầm chậm xuống dưới một chiếc ghế đá, chạm phải một cái thùng đồ nghề đánh giày và dừng lại. Không để ý đến điều đó, đại ca của thằng Hùng vội vã bật dậy, chạy trối chết để tránh kẻ thù truy đuổi phía sau...
°°°°°
Màn đêm đã buông xuống. Dưới các ngọn đèn đường, từng đám, từng đám con thiêu thân lao đầu vào ánh sáng. Trời đã trở nên se lạnh. Trên một chiếc ghế đá, Tú mở mắt nhìn trời, từng ngôi sao nhấp nháy lung linh, lâu lâu lại có một vệt sáng dài vạch ngang qua bầu trời rồi biến mất. Nó vươn tay ngồi dậy, chân nó đụng vào thùng đồ nghề đánh giày, là vật mà vừa là người bạn, vừa là lẽ sống của nó đã năm năm nay.
Từ ngày đến thành phố, khi nó theo một anh bạn sau một trận đòn gần chết của người chú bất nhân. Nhiều đêm nó mơ thấy cha hiện ra trong giấc ngủ, đang dẫn nó đi chơi hoa viên. Ông tươi cười vẫy tay gọi nó, nó chạy mãi chạy mãi nhưng không nắm được tay ông, giật mình tỉnh dậy thì nước mắt đã giàn giụa đầy trên mặt. Nó không biết mặt mẹ, vì mẹ đã bỏ cha con nó khi nó vừa được sinh ra. Cha của nó sau đó gởi con lại cho em mình, ra tận ngoài Miền Trung, theo các anh em vào bãi vàng. Một chiều mưa như trút nước, người ta báo tin ông đã chết vì sập hầm. Năm năm ở Thành phố là năm năm cơ cực, để nó có thể hiểu đưọc khoảng cách giữa giàu và nghèo, để nó có thể hiểu trong cuộc sống này mạnh được yếu thua, để nó có thể thấy những thủ đoạn đối xử với nhau giữa người và người.
Nó chầm chậm cúi người xuống cầm lấy thùng đồ nghề, để chuẩn bị cho một đêm làm việc. Vừa dợm chân định bước đi, bỗng nó quay lại lụm từ dưới đất lên một cục tròn tròn màu xanh. Nó ngồi xuống, nhè nhẹ mở chiếc khăn mùi xoa, cả người nó bỗng cứng đơ nhìn chăm chăm vào những tờ giấy bạc...
°°°°°
Chị như người mất hồn, bước đi lang thang vô định. Nước mắt chị cứ trào ra nhòa lệ, không nghe gì không thấy gì. Trong đầu chị chỉ hiện lên hình ảnh đưá con, đầu nó quấn băng trắng toát vô cảm giác. Ngày mai nó phải mổ thì mới hy vọng cứu sống, mà bây giờ trong tay chị không còn một đồng. Chị còn nhớ nét mặt vô cảm của ông bác sỹ khi chị trình bày hoàn cảnh của mình :
- Không đóng tiền thì chúng tôi chịu thôi.
Lời ông bác sỹ vang vang "chịu thôi, chịu thôi.." làm chị quỵ xuống, không ngó gì đến chị, tay bác sỹ móc chiếc điện thoại ra trả lời bạn vùa gọi tới và nhanh chóng bỏ đi.
Chị đi mãi đến khi có một cơn gió lạnh thổi qua mang theo mùi bùn làm chị tỉnh táo đôi chút. Trước mặt chị bây giờ là hồ nước trong công viên, chị ngồi thụp xuống và lặng lẽ khóc. Mấy thằng mất dạy uống rượu say đã tông thằng bé con của chị, trên đường nó đi học về rồi tụi mất dạy bỏ chạy mất. Người ta báo tin cho chị khi chị đang cấy luá ngoài ruộng. Khi biết rằng con mình bị chấn thương sọ não phải mổ mới cứu được, tài sản đáng giá trong nhà chị chỉ còn đôi bò cày, chị liền kêu người bán rẻ để lo cho con. Ai dè chị vừa lên, chưa kịp đóng tiền cho con, thì đã bị bọn bất lương rạch túi lấy đi mất. Càng nghĩ càng xót xa trong lòng, chị khóc rưng rức, làm sao đây? Làm sao đây? Chị càng nghĩ càng quẫn trí, trong cơn mê hoảng loạn chị ngửa mặt lên trời hét lên :
- Trời ơi, ngó xuống mà coi, sao con lại khổ thế này ?
Bầu trời đen thăm thẳm im lặng, chỉ có gió đưa tiếng khóc của chị đi xa...
°°°°°
Cả người Tú như lên cơn sốt, chốc chốc nó lại sờ tay vào túi quần để chắc chắn là cọc tiền vẫn đang ở đó. Vận may đến quá bất ngờ làm nó choáng váng. Đầu óc nó quay cuồng bao nhiêu là ý tưởng, khi nó nghĩ đến việc xài số tiền này.
Nhiều đêm nằm mơ nó cũng thấy mình kiếm được thật nhiều tiền. Nó sẽ đường hoàng bước vào quán, kêu ra những món ăn mà ngày thường nó chỉ được ngửi mùi thơm khi đi ngang. Nó sẽ mua một ngôi nhà mời chú nó lên chơi, để xem sự thành đạt vươn lên của nó. Nó sẽ mời tất cả bạn bè đánh giày đến chơi, để nhìn thấy sự ngưỡng mộ của chúng. Nó sẽ mở một cửa hàng bán xe và thuê người làm, như các cửa hàng trên đường nó thấy những lúc đi ngang hàng ngày...
Số tiền này tuy không đủ thực hiện những ước mơ lớn lao của nó, nhưng chắc chắn là nó sẽ sung sướng hơn trong những ngày sắp tới. Chợt nó nghe văng vẳng như có tiếng người đang khóc. Nó định bỏ đi, nhưng sau đó hình như nó nghe một tiếng than văng vẳng nghe não ruột. Tò mò nó bước lại gần, thì thấy một người đàn bà bận bộ đồ bà ba màu đen, đang ngồi khóc cạnh hồ. Nhìn thấy người đàn bà có dáng quen quen, nó sực nhớ tới hình ảnh người đàn bà bị mất tiền hồi chiều. Tự nhiên trong lòng nó bỗng trào dâng nỗi thương cảm đồng loại. Trong túi nó các tờ giấy bạc đang sột soạt. Trong tích tắc nó quyết định chia xẻ cái may mắn của nó một ít, cho người đàn bà đang ngồi kia. Nghĩ vậy, nó liền cất tiếng kêu :
- Cô ơi...
Người đàn bà giật nảy mình, ngước đôi mắt đẫm lệ nhìn lên. Trước mặt chị là một thằng bé khoảng 14-15 tuổi ốm yếu, đen đủi, bận bộ đồ rách vá năm ba chỗ. Tay nó cầm thùng đồ nghề đánh giày, đang cúi xuống kêu chị. Chị không hiểu nó kêu mình để làm gì, nhưng cũng khẽ trả lời :
- Có việc gì không cháu?
- Có phải cô hồi chiều bị móc túi mất tiền phải không? - Nó hỏi.
Như chạm vào nỗi đau xé lòng, người đàn bà lại khóc ti tỉ và kể lể cho nó nghe trong nước mắt :
- Uh. Con cô bị xe tông chấn thương sọ não phải mổ mới cứu được nó. Cô đã phải bán bò là tài sản đáng giá trong nhà, để lấy tiền lên lo cho nó. Cô bọc tiền trong chiếc khăn mùi xoa màu xanh, bỏ vô ngăn trong của túi xách, vậy mà...vậy mà tụi nó đã nhẫn tâm rạch túi lấy đi của cô. Ngày mai con cô phải mổ rồi...
Người đàn bà lại nấc lên trong tiếng khóc. Chị không thấy để ý tới sự thay đổi của thằng bé đứng trước mặt. Nó sững người há hốc miệng khi nghe chị nói tới chiếc khăn mùi xoa màu xanh. Sao lại có thể như thế được? Tú lập cập hỏi :
- Vậy...vậy cô mất...nhiều ít.
- Khoảng chừng chín triệu sáu. - Chị nói tiếp - Toàn tờ năm trăm ngàn...
Nó bàng hoàng thật sự không thể tin nổi sự bất hạnh của chị, lại là sự may mắn của mình. Sao lại như thế nhỉ? Tiền của chị bị lấy cắp, lại...lại nằm dưới chiếc ghế đá nó ngủ hồi chiều. Trong lòng nó lúc này giằng xé bao nhiêu là ý nghĩ. Từng tiếng nói đan xen vang lên trong đầu nó :
- Thôi đi đi, số tiền lớn như thế biết bao giờ mới kiếm được. Mình có lấy cắp của ai đâu...
- Không được, người ta khổ thế mà. Con người ta ngày mai phải mổ...
- Hay đưa lại cho bà ta một ít. Làm sao bà ta biết được...
...
Trong một phút mà tưởng đâu lâu như cả đời người. Cuối cùng lương tâm, nhân cách của một đứa bé lăn lộn giữa chợ đời ô trọc suốt năm năm trời đã chiến thắng. Nó nhè nhẹ lôi cục tiền bọc trong chiếc khăn màu xanh ra từ từ đưa cho chị.
- Cô ơi, cái...này cháu...lụm được cô ...xem có phải của cô không? - Nó ngập ngừng nói một cách tiếc rẻ.
Chị như vồ lấy cục tiền trong tay nó. Tay chị run run, lật đật mở chiếc khăn mùi xoa. Chị như không tin vào mắt mình. Trời cao quả thật có mắt. Chị nắm hai tay thằng bé vừa khóc vừa nói :
- Cháu ơi, cô...cô...- Giọng chị nghẹn lại. - Cháu đã cứu cả hai mẹ con cô...- Như chợt nhớ ra điều gì chị cầm lấy hai tờ năm trăm ngàn dúi vào tay nó.
- Cháu cầm lấy, đây là lòng biết ơn của hai mẹ con cô đối với cháu.
- Cháu không lấy đâu.- Nó khảng khái đáp, bưóc giật lùi và bỏ đi như chạy.
Trong bóng tối, từ nãy giờ có một cặp mắt đang theo dõi câu chuyện giữa hai cô cháu. Mắt hắn đột nhiên ánh lên một tia nhìn gian giảo.
°°°°°
Khi chị vừa bước ra cổng công viên. Đột nhiên chị nghe tiếng kêu :
- Chị kia đứng lại.
Nhìn sang phải chị thấy tay bảo vệ công viên đang cầm chiếc dùi cui chỉ chỉ vào chị. Ngay sau đó một tay bảo vệ khác liền kéo tay chị vào phòng bảo vệ. Chị hoảng sợ la lên :
- Tôi có làm gì đâu mà các anh kéo tôi vào đây.
- Chúng tôi nghi ngờ chị ăn cắp. Chúng tôi thấy chị và thằng bé bụi đời chia nhau tiền.- Tay bảo vệ cầm dùi cui nói.
- Nó đâu phải bụi đời, nó lụm được tiền của tôi bị móc túi hồi chiều, nó trả lại cho tui...- Đột nhiên chị cảm thấy lời nói của mình có vẻ không được ổn.
- Bà đang kể chuyện cổ tích đó hả? - Tay bảo vệ cầm dùi cui cười hắc hắc. Hắn lôi cọc tiền từ trong người chị ra, mắt hắn sáng lên khi đếm cọc tiền. Hắn tách cọc tiền ra làm đôi, một nửa hắn đút túi còn một nửa hắn thảy lại cho chị.
- Coi như là bọn tui tha cho bà...


VanTienSinh

Hansy
10-10-2014, 12:33 PM
60.

AI LÀ AI...

Đặng Quang Tình

Trước khu tập thể có một cái cột điện.Cái cột điện ở liền kề một biệt thự ba tầng cũng của khu tập thể, nhưng được xây riêng ra, có cả tường bao. Ở chân cột điện, hàng ngày có một ông già chữa xe đạp. Ông ngồi câm lặng khi không có khách và cũng chỉ đáp lời khi được hỏi. Khách cũng chẳng nhiều nhặn gì: dăm học sinh, mấy ông bà già tập dưỡng sinh đưa xe đạp đến bơm vá săm, chỉnh líp phuốc, chuốt dây phanh... à chiều tối còn có lũ trẻ con dắt đến khi cái xe ba bánh, lúc xe có bánh chống: “Ông ơi! sao cái bánh xe của cháu không quay?”, “Ông ơi! sao cổ nó cứ ngoẹo?”...

Lặng lẽ chữa, ai trả bao nhiêu cũng được; có trẻ cười trừ, ông cũng cười. Hòm đồ nghề của ông khá nặng. Hồi đầu, hàng ngày ông lễ mễ bê lên gác ba ga xe đạp lai, dắt đi, về. Sau, có một đầu gấu cảm kích bảo ông cứ xích vào chân cột điện không sợ mất. “Mỗi anh hùng một sơn hà”, chôm chỉa cũng có luật: không chôm chỉa sở tại, chỉ xi nhan cho cánh khác. Còn đã có lệnh thì mục tiêu an toàn tuyệt đối. Quả nhiên, cái hòm đồ của ông không suy suyển trong khi mấy cái cửa sắt hớ hênh một đêm mất liền ba cánh.
Một hôm, có một học sinh đứng đợi chữa xe thì cánh cửa biệt thự mở. Cháu ông chủ biệt thự bước ra:
-Ê Liên! mày biết hu-ít-hu là gì không?

-Là gì ấy à?... Mày viết ra cho tao xem chứ cái tiếng Anh ba giọi của mày ai nghe mà hiểu được.
-Đây! Cậu bé lấy que vạch xuống đất ba chữ Who is Who.
-Ôi dà! ai là ai... có vậy cũng đố.
-Ngu ơi là ngu... hu-ít-hu là danh nhân.
-Danh nhân cái con khỉ! Hu-ít-hu chỉ là ai là ai thôi! Phải không ông? Liên quay sang hỏi ông chữa xe đạp.
-ờ ờ... cả hai đều đúng! Who is who trực dịch là ai là ai. Nhưng cũng có thể hiểu là danh nhân. Có một số người nói như thế...Còn đúng danh nhân là celebrity; cũng có thể là famous man hay well-known man.
-Danh nhân là những người có danh tiếng phải không ông? Được gọi theo tiếng Anh chắc phải là danh nhân thế giới .

-Cũng không hẳn như vậy, vì chỉ là sự công nhận của một nhóm người chứ không phải của một tổ chức chính danh nào, nên cũng khó nói là có đẳng cấp quốc tế.
-Nhưng vẫn oách chứ ông? Được Tây công nhận cơ mà!
-Oách chứ! Ông tao là hu-it-hu đấy!
-Chà ghê quá! Thế nhà văn Tô Hoài nhà thơ Tố Hữu có phải là danh nhân không ông?
-So với....Các ông ấy là đại danh nhân ấy chứ! Nhưng không phải là who is who.
-Vì sao vậy ạ?
-Vì các ông ấy không có đô la nộp cho người ta.
-Đúng rồi! Cậu cháu ông giám đốc nói: không phải muốn là được mà phải có năm ngàn đô.
-Eo ôi, năm ngàn đô thì to quá!

-To chứ! năm mươi tờ cơ mà! Bà tao cứ cằn nhằn, ông tao mới cáu, mắng cho: “bà biết một mà không biết hai!” Thế là bà tao im luôn. Bà tao sợ ông tao tăng xông. Ông tao có máu tăng xông thật đấy! Eo ôi, cái hôm tao theo ông tao đi Hải Phòng, cái cô thư ký Mỹ cứ cãi ốp trứng là ốp-la, trong khi ông tao bảo là ốp-lết. Cuối cùng ông tao mặt đỏ tía tai rít lên: “Cô mà dám dạy tiếng Tây tôi à?”.. Cô Mỹ vội đưa thuốc, rồi xoa ngực vuốt lưng ông, mồm rối rít: “Em xin lỗi! Em xin lỗi... Đúng là ốp lết, ốp lết...” Eo ơi, sợ quá! Tý nữa thì ông tao tăng-xông.
-Ông ơi! Liên lại hỏi ông chữa xe đạp- có năm ngàn đô ông có là hu-ít-hu được không?
Ông chữa xe đạp cười, cả buổi bây giờ ông mới cười:
-Cũng có thể...
-San! vào nhà ngay.
Cậu bé dật mình chạy tọt vào

sân, sập cửa lại. Bà nó đón ở bậc thềm:
-Không được ra ngoài ấy!
-Bà ơi! Ông chữa xe đạp bảo có năm ngàn đô ông ấy cũng có thể là hu-ít-hu.
-Nghe cái lão ấy làm gì. Từ nay không được đến chỗ lão.. Rồi bà lẩm bẩm: Đến phải tống cổ cái lão vô ơn bạc nghĩa đi thôi!
San không hiểu sao bà lại ghét ông chữa xe đạp đến vậy? Bà đã dặn xe hỏng thì mang sang hiệu bên kia đường mà chữa, không đưa cho cái lão ăn cháo đái bát ấy.
Bà thằng San ghét ông chữa xe đạp là có lý. Ghét tràn hông ấy chứ!

Ông chữa xe đạp vốn là một kỹ sư cơ khí giỏi và trước đây cũng có một căn hộ trong khu tập thể, rồi phải bán đi mua lại một thẻo rau muống trong làng dựng lều tá túc. Ông đã từng là trợ thủ của ông nội thằng San. Trong một đợt xây dựng cơ sỏ ở T. ông bị kỷ luật lưu Đảng một năm nhưng chỉ năm rưỡi sau ông lại được đề bạt là phó giám đốc phụ trách kỹ thuật. Ông nội San là giám đốc đã an được nội bộ (việc này không khó vì ông kỹ sư vốn là người tốt, trong sáng), thuyết phục được cấp trên vì chuyện ở T. là do sự “lỏng lẻo có tính chất đặc thù”, “trách nhiệm của tập thể”, chứ “người phụ trách là trong sáng. không tư túi”.... Thế mà chẳng biết ơn người cưu mang, chỉ một tháng sau đã dở bướng.

Số là, lần ấy giám đốc bảo ông vào Nam thay mặt cơ quan nhận tiền do một cơ sở đang làm nên ăn ra tự nguyện cho cơ quan vay trong năm năm không tính lãi để làm vốn tự cứu. Đang đợi chủ thể thì một người ở cơ quan thường trú đến bảo vừa nhận được điện của giám đốc bảo ông chỉ việc ký giấy nhận, còn anh sẽ thực thi vì tiền để hoạt động ở miền Nam. Anh ta đưa luôn ra một tờ giấy biên nhận có con dấu không có quốc huy.
Trước sự mập mờ với số tiền quá lớn ông không đợi gặp đối tác mà bay ngay ra Hà Nội để hỏi, nhưng giám đốc đang bận đi công tác nước ngoài. Ông hồi hộp đợi cả tuần nhưng khi giám đốc về không hề nhắc tới chuyện này. Ông hiểu: không nên hỏi.
Chuyện trên bà chỉ biết lơ mơ nhưngviệc sau đây thì biết rõ vì tổng giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn Phùng Hưng là em ruột bà.

Phó giám đốc được lệnh ra Đông Bắc xin đất xây dưng cho cơ quan với thư tay của giám đốc. Địa phương đã cấp cho một khu rộng đến nửa héc-ta. Đang loay hoay tính toán thì tổng giám đốc Phùng Hưng tìm đến đưa ra một bản quy hoạch đã vẽ sẵn nói là giám đốc đã xem. Khối nhà và khu kỹ thuật gọn gàng trong nửa khu đất. Ông đánh dấu hỏi vào cái nửa bỏ trống nhìn ra biển. “Thì tôi đã xử lý mặt bằng, làm toàn bộ tường bao và có thể cả cái vỏ công trình chính. Cứ yên trí đi!” Ông Phùng Hưng nói. Ông chặc lưỡi: “Cứ phải hỏi lại giám đốc đã!”. Về đến cơ quan, ông được cử gầp đi tham quan học ở tập nước ngoài, chẳng thấy hỏi đến chuyện Đông Bắc.

Nhưng chuyện này mới làm bà tràn hông. Phó giám đốc đã gạt khỏi danh mục trang bị kỹ thuật phục vụ chỉ đạo tại gia: ba trong bốn cái ti-vi có cái gắn đến tận bếp, dàn xít-tê-ri-ô Haiphai, bốn trong sáu cái điện thoại kéo tới tận nhà vệ sinh, bốn cái tủ quần áo và cả cái vét-pa. Càng tràn hông khi tý nữa thì đức ông chồng tăng-xông. Suýt tăng-xong vì cờ tính đến thế mà lại bị chiếu ngược.
°
Sau hai tháng đi học tập nước ngoài về, ông được cơ quan điều tra triệu tập. Theo thư “quần chúng”, việc ở T. được lật lại. Để khỏi ra toà vì tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, ông đành nhượng lại nhà, xin nghỉ một cục lấy tiền khắc phục hậu quả; rồi ra cột điện kỳ cạch chữa xe đạp nuôi vợ con. Tay nghề kỹ sư, tính cẩn thận lại dễ dãi nên cũng đủ khách để sống. Chăm chắm làm ăn, tránh phiền hà mọi người, ông ngồi nép vào cột điện, ai nói cũng chỉ cười. Được cái, những người cùng được phân nhà dần dần chuyển đi ở nơi khác, khu tập thể vẫn mang tên khởi thuỷ nhưng người lạ ngày càng nhiều, đỡ phải ngượng với nhau.

Anh công an hộ khẩu một hôm được bà chủ biệt thự ra tận cổng mời vào nhà xơi nước. Chuyện dông dài rồi bà bảo:
-Trật tự khu tập thể rất tốt,chỉ có cái ông chữa xe đạp suốt ngày người tụ tập, dăng bày ảnh hưởng việc đi lại. Còn trưa thì kỳ cạch làm mọi nhà mất ngủ.. Đang có phong trào phố xá văn minh, đường thông hè thoáng phải không chú?

Anh công an biết bà muốn tống khứ ông chữa xe đạp, và vì sao anh cũng đã loáng thoáng được nghe. Kể ra ngồi chữa xe đạp ở đấy quy vào chuyện làm hè không thông, đường không thoáng cũng được. Nhưng ngay cạnh đó là cả dãy ki-ốt với đủ loại cửa hàng, dịch vụ, hai trạm rửa xe lênh láng nước, lại cửa hàng bia ngầu pín chiều chiều đông nghịt khách. Anh biết chẳng dễ gì dẹp hội này vì họ có những cơ sở rất vững chắc dưới khẩu hiệu rất nhân đạo: “Cuộc sống người ta”. Mà cái ông chữa xe đạp này thật hiền, thật biết điều ai cũng mến, đến đầu gấu còn cảm kích. Trẻ con thì rất mê ông. Học sinh gọi ông là từ điển tiếng Anh, bách khoa toàn thư vì câu hỏi toán lý hoá, văn sử địa nào ông cũng giảng được. Chính con trai anh nói với anh: nghe ông giảng cụm từ Who is Who mà bài kiểm tra tiếng Anh của nó được điểm Mười. Nó còn bảo: Cô giáo cứ lẩm bẩm: “Ai là ai... tuyệt”.

Dăm ba lần nhắc không hiệu quả, bà giám đốc lắc đầu: “Chán cho công an bây giờ! Thật vô trách nhiệm”.

Còn anh công an hình như cũng ngại gặp bà. Nhưng một hôm anh phải đến nhà bà cùng với mấy người nữa. Bà vội mở cửa ra đón thì nhận được cái phong bì, mở ra xem, mặt tái đi. Giấy mời ông giám đốc đến cơ quan điều tra về việc
đất đai ở Đông Bắc.

Anh công an ra về, đi ngang qua ông chữa xe đạp đang kỳ cạch chữa một cái xe ba bánh giữa lũ trẻ ngồi chầu. Anh lẩm bẩm: “ Hừ! Ai chẳng là ai thì là ma à?”./.


Đặng Quang Tình

Hansy
11-10-2014, 04:51 AM
61.

ĐỨA CON KHÁC HỌ

Trần Thành Mỹ

Bé Nhi vừa đi vừa nói chuyện vui vẻ với bạn bè trên đường về nhà. Không ai để ý có một người đàn ông lạ theo sau.Ðến đoạn đuờng rẻ vào nhà, vừa từ giả hẹn hôm sau như thường lệ thì ngạc nhiên Nhi nghe ai gọi : « Cháu cháu, cho bác hỏi một chút, cháu có phải là cháu bà ba tiệm cơm không ? ». Nhi đang định cắm đầu cắm cổ chạy nhanh về nhà thì khựng lại nhìn lên rồi lễ độ trả lời : « Dạ phải » Nhanh như cắt cô bé ôm tập chạy đi, mặt mày tái mét. Ðến cửa nhà quay lại Nhi không thấy bóng dáng ai sau lưng hết. Cô bé dụi mắt nhìn quanh chỉ có khách bộ hành bách bộ trên lề đường. Vào nhà, bé Nhi ngẩn ngơ cả ngày mà không dám thô lộ với ai cả .
Nhi là con gái đầu lòng của cô hai con bà ba chủ tiệm ăn, học ở trường Tiểu học gần nhà.Nhi rất hiền lành mủm mỉm xinh xắn được cả nhà thương yêu rất mực. Thế mà hôm nay trước khi đi học, bé Nhi cứ nằn nì đòi mẹ đi rước. Mẹ Nhi bận rộn bếp núc la con : « Con biết giờ đó khách đông mà. Sao con dở chứng vậy ? Bộ giận hờn bạn bè rồi phài không ?
Thời bấy giờ chưa có chuyện mẹ mìn bắt cóc hoặc « pédophile » như ngày naỵNhớ một thời nghe tin đồn học sinh nhỏ ở các tỉnh miền Nam bị bỏ bùa dẫn đi, cha mẹ thường bắt con cái đem theo vài tép tỏi để trong cập, trong túi trừ tà ma quỷ ếm. Bé Nhi bệu bạo khóc không chịu đi học nếu không ai rước bé về. Khi các bạn đến rủ Nhi cùng đi chung như thường lệ, mẹ Nhi liền ra gởi gấm Nhi nhờ bạn bè từ nay đưa dùm Nhi về tận nhà. Cả tuần sau không có gì xảy ra. Nhi nguôi ngoai quên đi câu chuyện trên.
« Nhi, bác muốn nói chuyện với con. ». Bạn bè Nhi còn nhỏ nên cả nể người lớn, nghe thế liền bảo Nhi : « Tụi tao về trước nghẹ Mai tụi mình cùng đi chung nhạ » Nhi sợ quá chạy theo đám bạn không dám nhìn lại phía sau, qua mặt luôn không nghe cả tiếng các bạn gọi « Chờ tụi tao với, làm gì mà chạy dữ vậy, điên hả ». Nhưng vừa la xong, cả bọn mới giật mình sợ hãi đồng lượt hô to « Dông tụi bây ơi », rồi bắt đầu co giò chạỵ
Về đến nhà, Nhi vẫn im bặt không hở môi. Tuy nhiên, ngồi thu tiền, bà ba ngạc nhiên thấy Nhi hớt ha hớt hải chạy vào nhà như bị ma đuổi, lúc đầu bà ngỡ Nhi đùa giỡn với bạn, chuyện chưa bao giờ xảy ra, nhưng không thấy ai theo sau, bà vội ra trước tiệm nhìn quanh thì cũng chẳng thấy người nào. Theo linh tính bà nghĩ chắc phải có gì lạ xảy ra cho cháu bà.
Thấy ngoại thình lình lên lầu, Nhi vội đứng dậy chào ngoại. Bà ba đến bên Nhi tươi cười trao cho cháu trái ổi thơm phúc. Lần đầu tiên bà ba ôm cháu vào lòng làm Nhi quá cảm động tự nhiên khóc nức nở. Bà để yên cho bé khóc, lau nước mắt một cách trìu mến : « Sao Nhi, ở trong lớp có chuyện gì vậy ? Nói đi, bà sẽ vào trường hỏi xem đứa nào dám ăn hiếp cháu bà ? ». Nhi ấp úng : « Hổng phải vậy đâu ngoại ». Bà ba vẫn hiền từ :
« Con ngoan hiền, bà thương con lắm. Có gì con cứ nói với bà nghe con.Con là cháu ngoại đầu tiên của bà mà, cháu cưng của bà cháu biết không?”
Nhi bập bẹ:
- Con sợ quá ngoại ơi! Có ông nào không biết, lâu lâu cứ chận đường con hỏi con có phải là cháu của ngoại không? Ổng còn biết cả tên con. Hôm nay còn đòi nói chuyện với con nữa .
- Con có nhớ mặt ông đó ra sao không? Ông ta có vẻ dữ dằn không?
-Con nghe lời ngoại, tan học là đi thẳng về nhà nên vừa nghe người lạ hỏi là con lo chạy trốn rồi đâu có nhìn mặt ông ta kỹ làm chỉ Nhưng chắc ông ta cũng không dữ, ông chỉ khom lưng xuống hỏi con chứ không có sờ đầu nắm tay con gì hết
- Mấy bạn con có biết không?
- Con đâu có dám nói với ai chuyện nầy
- Tôi nghiệp cháu bà quá. Hèn chi hổm rày con đòi mẹ đi rước con đó phải không? Ðược rồi đừng lo nữạ Lần tới hễ gặp lại ông ta, nhờ mấy bạn cùng đi chung ở lại với con, nghiêm chỉnh hỏi ông ta là ai, ông cần hỏi gì thì đến tiệm mà hỏị Con dám nói không? Ðừng sợ gì cả. Cháu bà lớn rồi mà.
Rồi từ đó trở đi, Nhi không thấy ông ta xuất hiện nữạ Tuy nhiên càng lớn lên, lâu lâu hình ảnh cũ vẫn thoáng qua, mặt ông chỉ là cái bóng mờ nhưng giọng nói đầy vẻ cảm động của ông đôi khi cũng chập chờn trong giấc ngủ .
Một hôm, cô hai mẹ Nhi gọi Nhi đến bên thì thầm: “Từ nay đi đâu gặp ai hỏi thăm đừng trả lời gì cả, càng tránh càng tốt, coi chừng kẻ xấu bắt cóc cho chuộc đó con. Nhớ lời má dặn chưạ” Chuyện nầy dần dần trôi qua mà không một ai để ý ngoại trừ hai người bàng bạc nhớ về quá khứ nghi ngờ, bà ba và cô hai .
Thời gian trôi qua, Nhi đã lên Trung học, một nữ sinh khá xinh đẹp hiền lành chân chất hồn nhiên. Ngày ngày cùng bạn gái cư ngụ gần nhau, đi bộ đến trường. Nhi cũng thường được bạn bè trong lớp nói đùa chọc phá:
“ Nhi ơi Nhi, mầy là viên ngọc quí mà không mài cứ để ngọc lu lị Tao là con gái mà thấy mầy còn cầm lòng không đặng huống hồ bọn con trai mới lớn.”.
Thấy Nhi mặt đỏ bừng lên, “á khẩu”, càng thích chí trêu thêm, cô tấn công, người bênh vực:
- Mới nói chút xíu mà đã đỏ mặt tía tai
rồi, chắc ai hỏi đến là xỉu luôn. Ðừng có hiền quá vậy cô nương ơị Phải ‘’thọ giáo ‘’ cúng tổ đi chị dạy cho vài chiêu phòng thân em ơi .
- Bà làm như mình đầy kinh nghiệm không bằng. Mà cúng Tổ nào vậỷ
- Thần trẻ con Cupidon, Thần giương cung bắn trúng ai là hết trốn. Vì thế tình yêu thật khó đoán không biết đâu mà rờ. Và ai bị trúng tên thần rồi thì như đứa trẻ đang lạc vào Thiên thai, tuổi nào cũng thế. Do đó khi nào thấy quả tim nó có triệu chứng rung rinh, phải nhớ là mình đang vào hàng đệ tử của Thần rồi nên cần phải đề phòng, chín chắn nghĩ suỵ
- Nhi nó nhút nhát, hiền khô, kín đáo, đừng dọa phá nó quá tội nghiệp.
- Thương mới chọc cho vui để nó thấy bọn con gái mình cũng đoàn kết lắm chứ bộ. Vậy bà muốn Nhi như thời nam nữ thọ thọ bất thân, thấy con trai đến gần là la làng:
“Ðây là phân gái đó là phận trai”.
Rồi về nhà “tương tư” họa hình như Kiều Nguyệt Nga à.
Bạn bè nói gì Nhi cũng cười cười cho vui chứ ít khi giận dỗị
Một hôm, trên đường về ngang một quán cà phê cùng với bạn bè như thường lệ, thình lình Nhi cảm thấy như có ai nhìn mình. Bất ngờ Nhi quay lại chạm phải tia mắt của một ông đứng tuổi đang vờ quay mặt nhìn sang chỗ khác. Lần khác Nhi để ý đến sự xuất hiện đúng giờ của ông, có khi Nhi về trễ hơn, từ xa Nhi cũng đã thấy ông ta đi qua đi lại trên lề đường như chờ bọn Nhi đi quạ Theo phản ứng tự nhiên, khi đi ngang qua ông, Nhi nhanh chân rảo bước. Trên đường về nhà,Nhi mỉm cười tự chế nhạo mình là đã “đạp vỏ dưa thấy vỏ dừa cũng sợ” trấn an. Thế nhưng lâu lâu Nhi lại thấy sự xuất hiện của người lạ mặt trên. Ông không tỏ vẻ muốn gặp Nhi mà dưnờg như chỉ âm thầm ngồi nhìn bọn Nhi đi qua thôị Tò mò Nhi muốn tìm hiểu xem có phải ông ta theo dõi mình không nên bàn với Thu cô bạn thân kín miệng hầu phát hiện ý đồ của ông ‘già bí mật’ mà hai cô đặt biệt hiệu cho ông tạ Thu bày mưu là sau khi cả bọn đi ngang qua rồi thì Thu sẽ một mình trở lại và nhìn ông ta một cách thân thiện xem saọ Lạ lùng thay ông ta biến mất. Sau vài lần thử nghiệm, Thu phát giác ra sau khi bóng dáng các cô vừa khuất khỏi tầm nhìn là ông ta vội đứng dậy trả tiền rồi lên xe đạp phóng đi ngaỵ Bẳng đi một thời gian, không thấy bóng ông già xuất hiện nữạ Hai cô gái cũng buồn buồn như thiếu vắng một kích thích lạ, một cái nhìn chiêm ngưỡng theo hoang tưởng của tuổi trẻ mộng mơ, nên không bao giờ quên nhìn vào quán như muốn tìm lại tia mắt…quen thuộc một thời .
Chuyện tưởng như kết thúc chấm chấm ở đâỵ Cũng có thể là do trí tưởng tượng của các cô gái mới lớn, xinh đẹp tự cho mình là cái rốn của vũ trụ. Cũng có thể là một sự trùng hợp nào đó trở thành đề tài sống động để các cô có dịp bàn tán sôi nổi trêu đùa nhau thỏa thích của lớp tuổi dậy thì mơ tưởng chuyện thần thoại hy vọng trong tương lai gặp được hoàng tử của lòng mình
Trưóc 75, bà ba bị bạo bệnh qua đờị Không bao lâu sau lại đến má cô.Chứng kiến cảnh ba cô lo lắng từng li từng tí cho ngoại, mẹ trong cơn bệnh hoạn, ba cô quả là tấm gương sáng của người con chí hiếu người chồng chung thủy mà ngày nay khó tìm được. Không để cho ai khác lo các việc nặng nhọc dơ bẩn, chính tay Ky ba Nhi quán xuyến tất cả, bồng bế ngoại lên xuống lầu để đi bác sĩ, không ngại đổ “bô” thay giường chiếu, đút từng miếng ăn hớp nước, tự tay cho uống thuốc… Con cái lơn lớn chỉ có nhiệm vụ thay phiên túc trực canh chừng.
Thế rồi, ba Nhi lại theo ngoại mẹ vĩnh viễn từ giã cõi đời để chị em Nhi mồ côi thay cha mẹ tiếp tục quản lý tiệm ăn. Bấy giờ hai em trai đã lập gia đình bị đi học tập cải tạọ Vợ con trước kia theo chồng công tác xa, bây giờ đều tập trung cả về nhà. Lo sống cho một gia đình đông đảo như thế đâu phải là chuyện dễ nhất là sau 75.
Một hôm, Nhi nhận được một bức thư có ghi rõ tên họ địa chỉ người gởi xin cho hẹn gặp tại quán cà phê sau nhà. Trong thư tác giả cũng ghi rõ là nếu không, ông Tân sẽ đến tận nhà. Và để tránh mọi ngộ nhận nghi nan hiểu lầm, ông cũng nêu lý do chính đáng là ông đến để làm sáng tỏ mối liên hệ gia đình giữa ông và Nhị Còn lý do khác rất có lợi cho Nhi ông hẹn sẽ bàn sau trong lần hội ngộ.
Thật là bất ngờ, một trái bom nổ chậm hay là cây pháo đại trong ngày đại lễ?Tên ông nầy Nhi chưa hề nghe ai nói tới, bà con cũng chẳng có ai trùng tên. Liên hệ gia đình với riêng Nhỉ Lạ thật, chắc có điều gì bí ẩn đâỷ Nếu muốn lường gạt mình sao lại ghi rõ danh tánh địa chỉ? Lại còn nói có lợi cho mình nữa ?
Cuối cùng, Nhi thố lộ bàn bạc với em gái kế mình, rồi tương tựu tương kế, hai chị em mướn xe đi tìm địa chỉ trên. Bất ngờ, đó là một ngôi biệt thư xưa, như vậy chủ nhân phải là người trước đây giàu có hoặc có địa vị xã hội caọ Hai chị em dụi mắt không tin, cố ở nán lại hy vọng nhìn thấy được người nào trong nhà. Một hồi lâu, may thay có bóng dáng người đi qua đi lại rồi mở cửa ra vườn. Một ông đứng tuổịSợ bị phát hiện, hai cô vội kéo nón sụp xuống rồi chuồng nhanh.
Chị em Nhi quyết định để Nhi đến chỗ hẹn như ngày giờ qui định, em gái mình theo saụ Không có gì phải lo sợ vì quán cà phê ở sau nhà, gần đó đầy dẫy những người bán hàng rong qua lạị Vả lại ở Saigon bấy giờ ai bắt cóc ai làm chi, nuôi thân còn không nổi làm sao nuôi thêm người .
Vừa thấy Nhi đến, một thực khách vội vã đứng dậy ra mời Nhi vào bàn ngồị Trời! Ðúng là ông ở ngôi biệt thự rồi và đột nhiên Nhi cảm thấy choáng váng khi nghe ông nói “cám ơn cháu đã đến”. Giọng nói nầy có âm hưởng ngày xưa và dáng dấp cũng tựa là của ông già bí mật rồịNhi chưa kịp có phản ứng nào là đã nghe ông bắt đầu ngay vào đề: “Chắc cô ngạc nhiên sao còn thấy lại mặt tôi nữa phải không?Tôi mời cô đến đây trước là để xin lỗi đã làm phiền lòng cô trước kia, sau là giải bày tâm sự dấu kín từ mấy mươi năm qua, mối liên hệ gia đình giữa tôi và cộ”
Nhi định trả lời nhưng ông đưa tay lên ngăn lại:
- Xin cô đừng ngắt lời, cho phép tôi nói tiếp. Tôi thật sự là ba ruột của cộ Anh Ky chỉ là cha của các em cộ Chuyện xưa bác sẽ nhắc lại lần sau vì bác có lỗi với má con quá. Bây giờ, thời gian gấp rút quá, bác hôm nay đến để nói rõ ý định của bác cho con nghẹ
Vội nhìn quanh ông thì thầm:
- Bác được bảo lảnh sang Pháp, bác muốn con cùng đi đề chuộc lỗi của bác ngày xưa đối với con. Lúc nầy bác cũng không được khoẻ lắm. Dì con cũng qua đời rồi như ba má con vậỵ Vậy bác nói để con về suy nghĩ lại, tất cả mọi việc giấy tờ bác sẽ lo liệu hết, con đừng lọCon đừng tiết lộ cho ai biết, nguy hiểm lắm. Chỉ có thể bàn bạc với các em trong nhà. Quyết định càng sớm càng tốt rồi cho bác hay để tiến hành mọi thủ tục cần thiết cấp bách.
Ông rút trong túi tấm danh thiếp có ghi sẵn cả ngày giờ hẹn gặp tuần sau rồi đứng dậy, ứa nước mắt kiếu từ. Nhi cũng vội vã theo ông ra khỏi quán mà không biết mình sống thật hay đang mở Không thốt lời nào Nhi nhìn ông lên xe đi thất thanh hồn vía, lơ mơ lửng thửng về nhà. Vừa thấy mặt em, Nhi bật khóc nức nở nghẹn lời không nói được gì cả. Nhi không biêt mình có nên kể lại câu chuyện mà cha mẹ dấu kín từ trước đến nay không? Có chắc ông ấy là người chồng đầu tiên bội bạc mẹ Nhi không? Có ai biết là ông ta có con với má Nhi đâu ?Nếu biết mình không phải là chị ruột, các em sẽ nghĩ như thế nàỏCòn thương mình như từ trước đến nay không? Sao ông ta lại tốt với mình như vậỷSao mình dễ tin người quá, có biết ông ta là ai, rủi ông ta bày đặt chuyện để gạt mình thì saỏ Bao câu hỏi không giải đáp được, cuối cùng Nhi quyết định kể chuyện cho các em nghe rồi cùng nhau giải quyết.
Lúc bấy giờ bao nhiêu người tìm cách vượt biên. Hai em trai đã bị đi học tập cải tạo, tiệm ăn bị thu hẹp lại, kinh tế gia đình suy sụp không biết đến chừng nào mới lên lại được, cả nhà đang lo bấn loạn đâỵ Sau mấy ngày bàn bạc, các em đề nghị là nên mời ông ấy đến nhà rồi tùy cơ ứng biến.Tại sao đến bây giờ ông mới nhìn nhận Nhỉ Bằng cớ nào chứng Nhi là con của ông? Nhi đâu có cùng họ với ông đâu mà đi theo ông được? Ổng làm tiền mình thì saỏ Hay gạt mình làm giấy tờ giả rồi đi tố cáỏAi bảo lãnh ông tả Cả nhà cuối cùng cũng đồng ý để cho Nhi đi hy vọng qua bên ấy rồi từ từ tìm cách đem các em sang. Nhi từ nhỏ đã yếu đuối, khờ khạo hơn các em nên xuống tinh thần, ăn ngủ không yên, nhuốm bệnh.
Ngày hẹn đến, Nhi cố gắng gượng dậy ra gặp ông Tân có mặt cả các em. Theo kế hoạch chung, Nhi định hỏi thì ông Tân đã nói trước: “Con có đồng ý không là tùy con, đây là thiện chí của bác hối hận tội lỗi ngày xưạ Bác cũng sẽ nói rõ cho các cháu nghe mọi điều, và cần gì các cháu cứ thẳng thắn hỏị Bác không ép buộc được Nhi, vì bỏ con trên bao nhiêu năm rồi nay muốn hàn gắn chuộc lỗi, khó tin thật.”
Nhi nhìn ông cảm động khi thấy ông trên dưới 60 mà già trước tuổi:
“Tôi có thể bằng lòng đi nếu ông nói rõ trước tiên lý do nào làm ông ăn năn nghĩ đến cái bào thai bị bỏ rơi trước kia là của chính ông, thứ đến là làm thế nào ông bảo lãnh cho tôi được, và các em tôi nữả”.
-Chuyện dài dòng lắm, ba chỉ có thể kể vắn tắt cho con nghe đoạn đời sau nầy của ba mà thôi…
-Xin ông đừng xưng ba con với tôi, ông cứ nói điều gì cần thiết mà thôi .
-Phải tập xưng hô cho quen để đến khi điều tra, tụi nó nghi thì chết. Ðáng sợ lắm con ơi! Ba cũng phải thận trọng, giữ tuyệt đối bí mật đó.
Rồi ông bắt đầu kể. Sau khi bỏ má Nhi, ông về tỉnh làm việc và lập gia đình với cô con gái nhà giàu, ở rể, có hai con, một trai một gáị Ít lâu sau, gia đình bên vợ phát hiện ông đã có vợ trước rồi, gia đình sợ mang tiếng nên dấu nhẹm đị Chẳng may không bao lâu cha mẹ vợ ông lại qua đờị Từ đó ông sống luôn ở đấy không trở lên Saigon nữa và cũng ít về quê hơn. Ðứa con gái sinh sau Nhi hai năm, và đứa con trai cũng hai năm sau đó, đi du học rồi ở lại Pháp làm việc cho đến ngày nay, còn độc thân.Sau khi vợ ông mất, ông mới về Saigon ở với cô con gái đi dạy ở tỉnh. Cô nầy, sau 75, vì có em trai ở nước ngoài nên gặp nhiều trở ngại trong việc khai lý lịch. Giao thông khó khăn lao động thường xuyên, lương bổng quá ít nên cô quyết định vượt biên không chờ đợi bảo lãnh. Rồi bặt tin mấy tháng naỵ
Tới đây,quá xúc động, nghẹn lời rút khăn ra lau nưóc mắt tiếp: “Con biết chuyện rồi, ba nói rõ luôn. Ba ray rứt và nhớ đến con hơn vì hai đứa giống nhau lạ lùng.”
Ông từ từ rút trong bóp tấm ảnh đưa cho Nhi xem làm bằng. Các em Nhi cũng đổ xô lại, chuyền tay nhau so sánh: “ Lạ thật, người giống người” !
Em nầy nói thế nầy em kia nói thế khác nhưng tựu trung là hai cô giống nhau như hai giọt nước.
Ông dừng lại, nước mắt rơi lả chả, thổn thức kể lể: “
- Con Thắm nhất định ra đi không ngăn cản được và mất tích luôn. Rồi giấy bào lãnh cho hai cha con về. Vì vậy bác mới đến đây đề nghị con thay chỗ nó. Thật ra con đừng lo gì cả, bác đã nhờ người lo hết cả mọi việc, xong xuôi trả tiền cho họ. Vả lại, bác cũng có người em trai đi theo “bên kia” tập kết mới trở về, có chức phận, bác định nhờ dùm nữạ Nếu được việc, bác sẽ để cả gia tài nhà lo cửa cho chú ấỵ Trước đây khi chú ấy đi ra “bưng”, phải trốn chui trốn nhủi, lắm lúc phải nhờ người tìm về xin tiền, trước kia nội còn sống nên thương con hay giúp đở. Do đó hy vọng chú ấy sẽ giúp mình không có vấn đề gì hết.
-Thì ông cứ đi một mình sao lại lôi tôi đi theo làm chỉ Nhi tức tửi khóc nói một hơịTừ trước đến nay, gia đình tôi đang sống gắn bó bình thản đoàn tụ, ông lại đến xáo trộn cuộc đời tôi như trước kia, như chuyện ông kể là thật, ông đã ruồng rẫy má tôi vì phú quí bạc tiền, vứt bỏ con từ mới lúc tượng hình. Nhi lâu nay hiền ‘như cục bột’, nay lại có phản ứng bất ngờ không kềm chế được. Nhi đã bị cái quá khứ gần 40 năm bao trùm quyện chặt làm Nhi muốn vùng lên, mọi người sửng sờ.
-Tôi không theo ông đâu để rồi sang đó biết đâu ông lại không xử sự tàn tệ như trước kia đối với má tôị Ông vứt bỏ tôi bên lề đường cuộc sống ở thủ đô Paris mà ánh sáng tiền tài vật chất có thể mà mắt ông làm óc ông tối mù lại mất lương trị Ông cũng có tình người, cha con nữa à? Ðúng rồi, có với ai xuất phát từ gia đình giàu sang quí tộc, chứ còn đối với đứa con ‘vô thừa nhận’ ông không thèm đếm xỉa tới từ trước đến nay, tại sao bây giờ ông cần sự có mặt của nó? Xin đặt cái dấu hỏi to tướng? Dù sao tôi cũng cám ơn ông đã có chút lòng ‘trám’ tôi vào chỗ người vắng mặt.
-Nhưng sao con bảo là bằng lòng đi với bả
-Không phải là tôi có ý định đó đâu mà là do cả nhà. Như ông biết thật khó sống dưới chế độ nầỵ Các em trai tôi đều phải đi học tập không biết ngày nào mới về, gia đình tôi đông anh em nên việc ra đi cũng là một lý do tốt hy vọng giúp đở gia đình và tương lai sáng lạn hơn.
-Thế mà bây giờ con lại đổi ý thình lình vậỷ
-Vì tôi khó có thể tin ông được ! Tôi có cha mẹ đàng hoàng. Chính mắt tôi đã thấy ba tôi săn sóc tận tình cho ngoại rồi má tôi trên giường bịnh, cõng tôi trên lưng mỗi lần về nội, ôm ru tôi vào lòng mỗi lần tôi bịnh nặng mà tôi hồi nhỏ bịnh rề rề, đút từng muỗng sữa miếng cháo cho tôi khi tôi bị thương hàn.Tôi chỉ biết có ông Ky là ba tôi thôi, ông hiểu chưả Ông là ai mà như một ác thần đến phá gia can tôi, xoáy tim tôi đến rỉ máu như vậỷ Tôi chưa báo đền công ơn sinh thành dưỡng dục của ba tôi một ngàỵ Hồi còn sinh tiền cho đến ngày cuối đời, ba tôi luôn lo lắng cho tôi, có khi còn la rầy ngay cả các em tôi mỗi khi cười nhạo trêu tôi : “Chị hai con yếu đuối lắm, tụi con phải thương quí đùm bọc lo cho chị hơn”. Ông có lo bênh vực tôi như thế được không? Bây giờ tôi có quí cha tôi gấp trăm nghìn lần hơn, cũng không sánh nổi vì đối với tôi trên đời nầy không có ai như ba tôi hết.
-Bác biết lỗi của bác lâu lắm rồi, bác cũng ân hận lắm, ông đổi cách xưng hô do phản ứng mạnh bất ngờ của Nhị Bác nói tùy con tin hay không, cũng vì thương con nên bác đã thôi không tìm gặp lại con hầu khơi đến việc xưạ Hiện nay, bác cũng đã già rồi, ba má con qua đời cả rồi, bác nghĩ là để chuộc phần nào tội lỗi nên mới quật mồ dĩ vãng đó thôị Chuyện qua rồi đâu có thể níu kéo trở lại được, kinh nghiệm đời của kiếp ngườị Trong cuộc sống ai cũng phạm lỗi nặng nhẹ. Con cũng nên tập thứ tha cho tâm hồn thanh thản hơn.
-Việc gì cũng cần có thời gian hết.
-Ðúng, nhưng mỗi việc phải qui định thời gian của nó. Như chuyện lập gia đình chẳng hạn, mỗi tuổi cho mỗi thờị Phải biết dứt khoát đúng lúc, tiến thối cần cân nhắc kỷ nhưng không được trì trệ. Ðiển hình là Thắm con bác đó, sống êm ấm trong gia đình, chỉ lo hăng say đi làm, không bao giờ để ý đến thời gian trôi quạ Ai đi hỏi cũng không rung động bảo chưa gặp người ‘hạp nhãn’, cũng không buồn bã tức giận gì khi người chung quanh bạn bè xầm xì ‘lỡ thời’, ế ẩm. Các con được tự do hơn thời ba má các con rất nhiều nên khó có tâm tình của thế hệ trước “áo mặc sao qua khỏi đầu”.
Ngừng lại một chút để lấy lại sức, ông Tân thiểu não tiếp:
-Thật ra không phải bác chỉ muốn chuộc tội với bà ngoại và má của các cháu mà thôi, đây còn là cách cám ơn anh Ky ba con nữạNếu không có sự ra đi bạc tình ngày ấy thì bây giờ các cháu là con của bác rồị Nhờ có lòng rộng lượng và tình yêu chân thật của ảnh, bác mới có dịp nhìn Nhi lại được. Ngày xưa ảnh đã nuôi con bác như con mình, bây giờ bác chỉ muốn trả ơn trong muôn một, làm mọi cách để lo cho các cháụ Do đó dự tính của bác là lo cho Nhi sang trước bên ấy rồi tìm cách đưa dần dần các em sang cùng chị, như mariage blanc đám cưới giả chẳng hạn, đi du lịch rồi lập gia đình ở luôn bên ấỵ Con trai bác hiện giờ còn độc thân, đã nhập quốc tịch, biết chuyện, sẵn sàng lo mọi chuyện. Bác chỉ cầu xin có một điều là bác còn đầy đủ sức khoẻ sống cho đến ngày các cháu đoàn tụ ổn định rồi, bác ra đi gặp lại ba má các cháu tạ tội, cám ơn là mãn nguyện rồi .
-Nhưng tại sao bác nhất quyết chị Nhi là con của bác? Ở nhà không ai biết chuyện nầy, bằng chứng nào bác lại quyết đoán như vậỷ, một em gái Nhi thắc mắc hỏi .
-Dứt khoát ra đi thình lình, có bao giờ gặp lại má con đâu mà biết. Vả lại có hỏi, má con cũng đâu thèm nhìn mặt con người bạc bẽo nữa làm chị Tuy nhiên người chồng bất nghĩa dù bỏ bê vợ nhưng luôn tìm cách dò la tin tức xem bên vợ mình xoay xở ra sao ?
-Như vậy là bác đưa ra tối hậu thư để bà ngoại tìm bác yêu cầu trở lại, thỏa mãn các điều kiện bác đòi hỏi ?
-Cũng đúng một phần thôị Bác biết chắc tính ngoại rồi, bà chỉ là dì ruột của má con thôị Vả lại giữa bác và má con chẳng có tình yêu, chỉ theo truyền thống xưa mà nên nghĩa vợ chồng. Bác lại theo tân học nên cũng lãng mạn ngầm. Ảnh hưởng của văn hóa Pháp trử tình mơ mộng thời bấy giờ cũng đẩy bác xa dần với nếp sống ‘chồng chúa vợ tôi’, không thân mật của cha ông. Không được ngồi gần vợ trước chỗ đông người, đùa giỡn nhau ngay cả trong phòng the cũng bị cấm ngặt, e làm gương xấu cho em út trong nhà. Ði ngang vợ cọ quẹt một chút cũng bị lên án, âu yếm vợ mình cũng gọi là “động cỡn”. Thôi chỉ có nước chuồng đi nơi khác mới giải tỏa nỏi nỗi ấm ức đó thôị Bấy giờ bác còn trẻ mà, đàn ông còn có quyền năm thê bảy thiếp, nên bác không chần chừ gì hết trốn luôn.
Trở lại vấn đề cháu hỏi, khi hay tin Nhi sinh ra, bác nhẩm tính là thiếu tháng nên nghi là bào thai do mình tạo rạ Bác nhờ người dọ hỏi thì được biết, dù sanh sớm, con bé lớn nhanh khỏe mạnh, mủm mỉm dễ thương. Ai cũng bảo là giống mẹ nhưng khỏe mạnh nhờ vóc dáng to lớn của anh Kỵ
Từ đó, bác không còn bán tín bán nghi gì nữa cả quả quyết Nhi là con bác rồị Nhưng nói với ai bây giờ?Tội mình làm mình chịu chứ biết trách aị Bao lần bác đã tìm cách gặp Nhi, tội nghiệp con bé, sợ bị bắt cóc nên thấy bác là chạy bá sống bá chết trốn bác thấy mà thương.
Cuối cùng, gia đình cũng đồng ý để Nhi đi trước với ông Tân. Mọi việc xảy ra trôi chảy như dự tính. Ông Tân chỉ tiếp xúc vói Nhi khi nào cần thiết thôị Nhi cũng không bao giờ đến nhà riêng của ông, vì thật ra Nhi cũng không hăm hở mấy trong việc ra đi nầy nhưng đã ‘phóng lao thì phải theo lao luôn’. Hồ sơ xuất ngoại không gặp trở ngại nàọ Ông Tân cũng đã làm giấy tờ bán nhà cho em trai mình xong, chỉ còn chờ giấy xuất cảnh lên đường.
Nhưng sau đó một thời gian, bặt tin ông Tân. Nhi cũng lấy làm lạ vì thông thường lâu lắm là hai tuần ông cũng đến thăm Nhi cho biết tin tức. Thật ra giữa ông và gia đình Nhi đã có sự cảm thông hơn, riêng đối với Nhi, ông tỏ vẻ săn sóc đặc biệt làm Nhi cũng bớt hờn ghét ông. Thấy ông càng ngày càng có vẻ mệt nhọc, Nhi cũng có đề cập đến vấn đề sức khỏe của ông, đề nghị nếu không có gì trở ngại thì mời ông đến tiệm ban ngày để chị em Nhi lo cơm nước chọ Ông thối thoát từ chối viện lý do là từ lâu ông cũng sống một mình tự lo liệu cho mình quen rồi, nhưng trước cử chỉ thiện cảm của chị em Nhi, ông tỏ ra hết sức cảm động nên mong cho mọi việc chuyển hướng nhanh.
Thế mà đùng một cái, cả tháng rồi ông không đến. Cả nhà lúc đầu bán tin bán nghi, tưởng là chắc ông sợ lộ chuyện, bị bắt. Hoặc giả ông nói gạt chị em Nhỉ Ai cũng nóng ruột như đốt nhưng vẫn cố chờ. Một tháng rồi hai tháng. Không thể chịu được nữa các em Nhi tìm đến nhà ông dò la tin tức. Biệt thự đóng cửa trong ngoài, cổng cũng khóạ Lúc bấy giờ, các biệt thự mà chủ nhân đã bỏ đi, thường bị trưng dụng phân phối cho cán bộ hay làm địa điêm cho hội đoàn nầy nọ, nên đâu ai biết ai mà thật ra cũng chẳng dám hỏi ai hết.
Tội nghiệp cho Nhi càng ngày càng tin mình bị lừa, nếu không tại sao ông không trở lại một lần dù để nói là giấy tờ lo không được.Không chần chờ được nữa, Nhi bèn nhờ mấy đứa trẻ bán ve chai lông vịt dọ hỏi dùm. Kết quả cho biết là mấy tuần sau, ngôi biệt thự đã có chủ mới, gia đình đông người, có cả người lớn con nít nữạ Tin sét đánh vì Nhi cho rằng ông đã đi rồi mà không cho Nhi haỵ Nỗi uất hận nầy thật khó thứ tha !
Một năm trôi qua, chuyện bảo lãnh như giấc mơ hoang hãi hùng không còn một ai nhắc tớị Chị em Nhi còn phải lo kiếm sống và tiếp tế cho em trai học tập cải tạo ở miền Bắc nữạ
Một hôm, một người đàn bà lạ đến tiệm ăn xin gặp riêng Nhị Vừa nhác thấy Nhi, bà khựng lại như gặp người quen thân.Bà tự giới thiệu là An, em gái ông Tân, ở dưới tỉnh mà trước kia Thắm con gái ông Tân, cháu bà ở nhà cô đi dạỵ Bà cũng ngạc nhiên là Nhi và Thắm giống nhau lắm, nhìn thoáng qua là có thể lầm lẫn như chơị Nghe đến ông Tân, cơn tức tràn hông Nhi chưa kịp nói gì thì bà An đã buồn rầu lên tiếng: “Anh tôi mất trên năm rồi, mất thình lình, té ngã đầu đập vào tường, mê man bất tỉnh, chở vào nhà thương, hai ngày sau mất luôn.” Nhi mở to mắt nhìn bà, há hốc rồi nức nở khóc trong khi bà An tiếp tục kể:
-Con trai tôi cũng ở Saigon, hằng ngày thường đi làm ngang nhà, nó thấy sao nhà đóng cửa thử ghé lại thăm, bất ngờ phát hiện cậu nó té không ngồi dậy được. Vội kêu xe chở cậu vào bệnh viện cấp cứu nhưng cũng trễ. Chúng tôi lo ma chay cho ông. Còn nhà cửa sau đó giao lại cho anh trai kế của tôi .
Trong khi dọn dẹp, tôi thấy trong một túi áo của anh Tân tôi bao thơ có ghi địa chỉ không có tên. Tôi bảo con tôi tìm xem thì biết đó là tiệm cơm. Tôi ở quê nên biết vậy hay vậy, nghĩ là có lẽ ông anh tôi ăn cơm ở đó nên chắc không cần phải báo tin buồn. Quan trọng là cho cháu Quang ở Pháp haỵChắc nó cũng không về được nên chờ mai táng xong xuôi mới viết thự Thư qua lại khó khăn kéo dài khá lâu, Quang mới cho chúng tôi biết mối liên hệ giữa cháu với anh tôị Quang còn yêu cầu tôi thay mặt nó tìm đến gia đình cô, xin lỗi dùm cho ba nó.
Ðến đây hai cô cháu như không còn chịu đựng được nữa, khóc ròng. Bà cô tiếp sợ quên:
-Quang bảo “ba con thương chị Nhi lắm. Tuy con chưa được gặp chị, nhưng nghe ba con kể về gia đình chị, con đã làm mọi thủ tục để bảo lãnh cho chị qua trước rồi”.
Bà đưa bức thư từ Pháp trong đó có đoạn Quang viết: “Nếu chị Nhi còn đồng ý đi, em sẽ tìm mọi cách để chị sang, và cả các em chị nữa nếu muốn đi cho có chị có em. Nhất định em làm được mới thôị Bây giờ ba mất rồi, gia đình chị cũng là gia đình của em. Ba má hai bên ở dưới chín suối chắc cũng vui lòng thấy chúng mình sum họp”.
Cả nhà khóc theọ Bà cô tiếp tục:
-Trước kia, biết anh Tân lập gia đình ở Saigon, cô là em út biết vậy thôi chứ đâu hy vọng lên đây làm chi mà để ý ảnh ở đâụ Rồi chuyện gia đình của ảnh dần dần cũng không ai nhắc đến, chỉ biết, ảnh sau khi cưới vợ là đổi về tỉnh xa làm ăn mà thôị Khi góa vợ anh về Saigon trở lại, thế thôị Thật ra lâu lâu vào dịp Tết, anh chị và các cháu cũng có về quê, chị tuy giàu có, hiền lành nhưng có vẻ yếu đuối bệnh hoạn, nhà nghe nói buôn bán lớn nên anh bận rộn luôn. Còn chuyện cháu Nhi thi hoàn toàn không ai biết hết. Ông bà nội thì cũng qua đời lâu rồị Nay nghe Quang kể, cả nhà bàng hoàng sửng sốt, không tưởng tượng được ngày xưa anh Tân đã lỗi đạo như vậỵ
- Ba con nói, Nhi buột miệng trả lời, ba con không biết má con đã có thai, nếu biết có thể ba con không bỏ đi đâụ
Nói xong, Nhi mới chợt phát hiện ra là mình vừa gọi ông Tân là ba rồi có lẽ do lương tâm cắn rứt, vừa như tạ lỗi với người cha huyết nhục vì đã nghi ngờ ông dối gạt mình, vừa như minh oan hành động của ông trước kiạ “Lá rụng về cội” mà. Người đời còn hay bảo:
“Bên ngoại thương dại thương dột,
Bên nội chẳng vội gì thương”.
-Cám ơn bà, Nhi định nói tiếp thì bà cô nhỏ nhẹ ngắt lời:
-Gọi cô bằng cô đi cháu cho thân tình hơn. Chúng ta là ruột thịt nhau mà.
-Cám ơn cộ Nhờ cô viết lại cho cậu Quang là chúng cháu cảm kích vô cùng, còn chuyện kia bây giờ còn đầu óc nào suy nghĩ được. Chúng cháu sẽ bàn lại rồi quyết định sau .
-Thưa cô, xin cô cho biết bác Tân được chôn cất ở đâu để chúng cháu có dịp đến viếng phần mộ của bác, em gái Nhi hỏi .
-Chúng tôi đã đem về quê chôn, trên đất nhà, bên cạnh ông bà. Có điều nầy nữa là Quang dặn kỹ cô phải giữ kín chuyện bảo lãnh nầy, không được tiết lộ với ai cả. Ba nó còn ủy thác cho nó tìm mọi cách gởi tiền về cho Nhi trong lúc chờ đợi và cho các em cháu sau nầy nữạ
-Không được đâu cô ơi, Nhi vội trả lời, chúng cháu có em học rập cải tạo, nhận được quà, tiền nước ngoài, họ kiếm chuyện làm khó làm dễ nguy lắm. Chúng cháu lo cho nhau được mà cô, xin cô chuyển lời lại với cậu Quang là chúng cháu hết sức cám ơn lòng tốt của Quang. Quang đừng lo nhiều cho chị em cháu, chúng cháu còn xoay sở được. Hôm nay cô lên đây, xin mời cô ở lại dùng cơm với chúng cháụ Rồi hôm nào chúng cháu sẽ xin về thăm mộ ba cháu, bác Tân.
-Cám ơn các cháu, cô phải về ngay e hụt chuyến xe đò chót. À, đây là địa chỉ của Quang ở Pháp và của cô ở dưới quệ Mong có dịp gặp lại các cháụ Quê của cô cũng không xa Saigon lắm đâụ Thôi cô về đâỵ Mừng là anh Tân đã được giải oan. Các cháu cũng không còn phiền người vĩnh viễn ra đi rồi phải không các cháu ? Xin cầu cho linh hồn Anh siêu thoát !
Cuối cùng, Nhi quyết định ở lại lo thăm nuôi các em trai, chờ ngày về rồi chừng đó tính saụ Quang vẫn liên lạc với Nhi và xem như gia đình ruột thịt.
Càng nghĩ, Nhi càng thương kính và cám ơn ba Ky nhiều hơn. Ba Ky không phải là đấng sinh thành nhưng công ơn cưu mang dưỡng dục thật vô bờ. Trong đạo vợ chồng là người chung thủy, đối với cha mẹ là người con hiếu thảo, đối với con cái là người cha mẫu mực, đối với mọi người là người có tư cách đứng đắn, có lòng, có tình. Giàu không kiêu, nghèo kiên trì vươn lên, khổ không oán than, tâm gắng luôn thanh tịnh. Ông luôn luôn nói với các con : « Gia đình mình được như ngày nay là do công ơn của ngoạị Các con luôn tâm niệm điều đó. phải noi theo gương bà và cố gắng tỏ ra xứng đáng với bà. »
Lâu lâu Nhi cũng bồi hồi nhớ tới ông Tân, và bí mật về cuộc đời Nhi dù đã được bật mí vẫn thuộc về phần đời riêng tư của Nhị Kỳ niệm vui buồn nào cũng là kinh nghiệm sống, liên hệ tình cảm nào cũng là một bài học của cuộc đời .
Nhi cũng không còn muốn nghĩ tới chuyện đời mình có thật hay không, nhưng ít ra Nhi cũng làm vơi nhẹ đi nỗi hối hận dày vò của ông Tân trong bao nhiêu năm qua, an ủi được một người cha sung sướng tìm lại được đứa con bi mình bỏ rơi, chuộc lại lỗi lầm trong những ngày cuối đờị Và nhất là ngoại, chắc Bà cũng sẽ mỉm cười tha thứ cho con rể biết quay về lối thiện. Và Nhi cảm thấy mình có phúc đã có đến hai người cha thủy chung, cảm ơn.
Hướng lên trời cao, Nhi tưởng tượng đến những gương mặt thân thương vui tươi hội tụ trên cõi vĩnh hằng, Nhi nhẩm lại lời của một nhà văn mà ba Nhi hay nói : « Chẳng có con đường nào dẫn ta đến hạnh phúc mà hạnh phúc chính là con đường ta dẫm bước hằng ngàỵ »


Trần Thành Mỹ

Hansy
12-10-2014, 12:41 AM
62.

ĐỨA CON LAI

Tô Đức Chiêu

Những câu hỏi cứ dồn dập bắn vào tai nó: “Làm sao tóc mày quăn?”, “Làm sao da mày đen?”, “Làm sao mắt mày trắng dã?”, “Việt Nam không có giống người như mày!”. Và cả những câu tục tĩu. Tôi không hiểu mọi sự sẽ ra sao nếu phút ấy ông thầy Lư không xuất hiện ở cổng Đền.
Ấy là một ngày đầu xuân năm 1951, tôi đang học lớp nhì (tương đương với lớp ba tiểu học bây giờ) trong thị xã Hải Dương bị chiếm đóng. Ngay dưới gốc cây đa cổ thụ bên cổng trường có một ngôi nhà lợp lá, đúng hơn là một túp lều, nhìn bề ngoài mỗi chiều chừng bốn, năm mét vuông mà chủ nhân của nó là một người đàn bà buôn thúng bán mẹt có đứa con da đen kin kít. Thằng bé tỏ ra rất muốn đến bên chúng tôi mỗi khi trống nghỉ giữa giờ nhưng lại hãi. Bởi mắt nó rất trắng, đặc biệt tóc xoăn tít thành hình vỏ ốc trên đỉnh đầu. Mỗi lần thấy bọn học trò chúng tôi vây quanh thằng bé, mẹ nó lại từ trong căn lều nhỏ xíu và tồi tàn kia thò đầu ra gọi lớn:
- Oăn!
Thì ra Oăn là tên của nó.
Thằng bé nhìn chúng tôi ngơ ngác rồi chạy vụt về với mẹ, thoát khỏi vòng quấy phá. Cũng có khi bọn học trò nhất quỉ, nhì ma đang xoa tóc, bẹo tai, lè lưỡi, trêu trọc Oăn đến phát khóc thì bố nó về. Đó là một người lính da đen trong đội quân liên hiệp Pháp đội mũ chào mào màu vàng, quần áo kaki màu vàng, đi đôi giày xăng đá cổ cao. Người lính ấy làm chúng tôi hoảng hốt bỏ chạy, núp vào những khe cánh cổng, góc tường, gốc cây. Và tất cả đều cực kỳ ngạc nhiên vì thái độ cam chịu của ông, vì nét mặt không hề giận dữ và có thể nói là hiền từ, vì cử chỉ âu yếm với thằng con lai Việt. Bởi Oăn thế nào cũng bứt khỏi vòng vây nhảy vội ra chỗ cha để được ông bế bổng lên, để hai bố con líu ríu nói với nhau những gì mà chúng tôi chỉ nhìn mồm đoán ra chứ nào có nghe được, và cũng không hiểu hai cha con nhà ấy nói với nhau bằng tiếng Tây hay tiếng ta. Rồi đến lượt người mẹ trong lều chạy ra đón hoặc có lúc thì gấp gáp với đôi quang thúng từ phía chợ Lớn tong tả bước về.
Một lần vào giờ chơi, người mẹ ấy không có nhà, ông bố đi càn đâu đó, chúng tôi vây quanh và mấy đứa học trò nghịch ngợm mặc sức hoạnh họe thằng Oăn. Nó gào khóc liền bị một thằng học trò táo tợn bịt mồm lại. Nó đưa mắt nhìn quanh cầu cứu mà chẳng thấy ai. Những câu hỏi cứ dồn dập bắn vào tai nó: “Làm sao tóc mày quăn?”, “Làm sao da mày đen?”, “Làm sao mắt mày trắng dã?”, “Việt Nam không có giống người như mày!”. Và cả những câu tục tĩu. Tôi không hiểu mọi sự sẽ ra sao nếu phút ấy ông thầy Lư không xuất hiện ở cổng Đền. Giọng ông nhẹ và ấm:
- Oăn! Lại đây con.
Oăn đi tới, nước mắt ngắn nước mắt dài.
- Con đừng khóc nữa. Hôm nào bố về con bảo sang gặp thầy – Nói rồi thầy Lư xoa đầu thằng bé, cho nó một hào. Đoạn thầy quay sang phía chúng tôi:
- Các con! Oăn cũng là một đứa trẻ như các con. Thân phận của nó có khi còn bất hạnh hơn gia đình các con nhiều. ấy thế nhưng mà bố, mẹ, con cái yêu thương quý mến nhau. Chúng ta phải biết tôn trọng họ!
Từ bữa ấy đám học trò chúng tôi không bao giờ còn trêu chọc Oăn nữa. Nó đến chơi với chúng tôi tự nhiên hơn. Bữa nó đưa bố sang gặp thầy Lư tôi mới được nhìn kỹ khuôn mặt người lính viễn chinh này. Môi ông dày và đặc biệt hai bên má đều có vết gạch sâu vào. Ở quê tôi người ta gọi là Tây gạch mặt! Không hiểu những phút đi càn bắn giết ông hung hăng thế nào chứ giờ đây ông hiền lắm. Hiền khô! Ông đứng nghiêm, đầu hơi cúi xuống, và lễ phép chào bằng tiếng Pháp. Thầy Lư tiến lại bắt tay ông. Thầy cho lớp nghỉ giữa giờ sớm hơn mọi khi rồi sóng đôi người lính Pháp đi về phía góc sân đền. Sau đó người lính dắt đứa con ra khỏi cổng đền. Tôi nhìn theo mất hút. Cái bóng hai cha con, một to lớn kềnh càng, một tiu tiu bé xíu, đều đen kin kít, cứ như đọng lại mãi trên bãi đất trống ngoài kia. Giờ hát. Mỗi trò phải đứng trước lớp hát một bài do mình tự chọn. Tôi nhớ có trò con nhà giàu, rất giàu, bố làm gì ghê gớm lắm của chính quyền chiếm đóng hát bài “Tiến quân ca” nhưng chỉ sang câu thứ hai thì bị thầy Lư ngăn lại. Thầy nói:
- Đây là một thứ nhạc phẩm nổi tiếng của ông Văn Cao. Chính phủ phía bên kia dùng làm quốc ca và nhạc sĩ cũng đi về phía họ. Chúng ta hát bài này chẳng làm ngài tỉnh trưởng cùng các cộng sự của ông vui lòng. Chúng ta có nhiều bài hát yêu nước khác kia mà! (Sau này tôi mới biết, thằng bé hát “Tiến quân ca” là theo ý cha nó để thử lòng thầy. Cha nó là mật thám. Nhưng thầy đã cảnh giác).
Tôi hát một bài thôn ca và được thầy khen. Bất ngờ tôi liếc ra ngoài thấy Oăn nép vào bên cột giữa đền nghe lỏm. Trời ơi! Chưa bao giờ tôi thấy đôi mắt đắm hoài như vậy. Lòng bỗng thương thương. Rồi thầy nói với tôi, như chỉ cần đủ để hai người nghe được, rằng anh có hay về quê không, rằng bốt Đò Thưa tự phá và rút rồi, rằng vùng ấy bây giờ đánh nhau dữ lắm… Tôi ngạc nhiên: “Thưa thầy!”… Thầy Lư xòe một bàn tay ra ngăn lại: “Anh không cần phải hỏi, gia đình anh tôi đã biết từ lâu, thân phụ anh là bạn tôi từ khi ông còn làm hương sư Tổng Phương Duy. Ông hay về phố Cuối và chúng tôi gặp nhau ở đó. Buổi học đầu tiên tôi đã nhận ra anh. Thoạt đầu là ở cái họ ít ỏi ở vùng này. Rồi tờ khai sinh. Chính tôi đã nhận anh mà không cần bài sơ tuyển”. Im lặng một lát thầy căn dặn: “Thân phụ anh tham gia kháng chiến. Tôi với ông ở hai phía khác nhau. Nhưng tôi quý mến phẩm hạnh và lòng quả cảm của ông. Tôi rất nhớ ông. Khi nào về nhà gặp cha anh hãy nói với người như thế”.
Ngờ đâu những câu trên là lời nhắn gửi xa vời. Nghỉ hè năm ấy tôi về quê. Một đêm nọ, tôi theo các anh lớn tuổi hơn vượt đường mười bảy chỗ gần Trắm sang Tứ Kỳ. Chờ giặc hết càn chúng tôi lại trở về trường ở làng Gừa. Lúc này tôi đang theo học lớp bốn. Làng xóm sau trận càn tan hoang. Người ta nói rằng trận đánh ở đây lớn lắm. Cứ nhìn vết xích xe tăng quần trên cánh đồng quanh làng cũng đủ hiểu. Nào là ta có hai chiến sĩ hy sinh. Nào là phía gốc đa làng đêm đêm những bóng ma Tây đen, Tây trắng hiện ra. Chúng tôi chưa vào học ngay được mà phải giúp dân dựng lại những túp lều, sửa hầm hố, dọn lối đi lại. Rồi lại có tin ở cuối làng hôm qua người ta vớt từ dưới ao lên một xác Tây đen gạch mặt… Ngồi trong căn lều của gia đình ở trọ tôi bỗng nhớ tới bố con Oăn giữa thị xã chiếm đóng. Thằng bé chắc chắn chẳng bao giờ nghĩ rằng tôi đang ở chốn này, đang hoảng sợ chạy càn bố nó cùng đồng đội bố nó. Tôi không hiểu bố nó có ở trong cánh quân từ bốt Triệu ra xả đạn trung liên đuổi theo tốp bạn học mới của tôi khi bơi qua sông Tràng Thưa hay không?
Nghĩ đến bố con Oăn tôi lại nghĩ tới thầy Lư. Thầy với tôi dịu dàng và xa nhớ. Cuối năm 1954, thị xã giải phóng, tôi theo cha tìm thầy nhưng không gặp. Tôi tìm đến cửa đền Ông vẫn còn căn lều mái lá nhưng không có Oăn. Thầy Lư xuống Hải Phòng để đi tàu vào Nam và mang theo vợ con…
Thời gian như sợi dây rừng dai ngoách cứ loằng ngoằng cuộn trôi, lại có lúc vun vút như hòn sỏi ném xuống mặt nước. Mới đó mà đã gần bốn mươi năm...
Bận rộn với công việc làm ăn, một hôm tôi nhận được điện thoại hẹn gặp và đến giờ gặp, xuất hiện trước mặt tôi là người đàn ông da đen. Tóc xoăn tít. Môi hơi dày. Đôi mắt sáng. Cử chỉ khá tự nhiên và nói tiếng Việt.
Tôi bắt tay, mời ngồi và vào đề luôn:
- Xin nghe ông nói đây!
Người đàn ông tên là Misen vừa từ Pháp sang nghe tin Việt Nam đổi mới mở cửa muốn tìm cơ hội làm ăn.
- Nhưng sao ông lại chọn Việt Nam? Và tôi xin lỗi vì hay tò mò – Ông học tiếng Việt khi nào? Học ở đâu? Giọng nói của ông chuẩn lắm!
Khách xòe hai bàn tay ra phân bua:
- Cả ba câu hỏi xin phép được trả lời làm một. Tôi là người gốc Việt Nam và lẽ tất nhiên sinh ra ở Việt Nam.
Tôi thoáng ngạc nhiên:
- Tỉnh nào?
- Hải Dương.
- Có phải là...
- Ồ kìa!... Trời ơi!... Có phải đúng là... – Misen đang luống cuống... Thế thì vinh hạnh quá, và vui quá, thưa ông, có phải ông là học trò của thầy Lư?
- Oăn! – Tôi kêu lên - Chẳng lẽ là Oăn đây sao?
Misen nhào vào ôm lấy tôi và đổi cách xưng hô:
- Anh! Em rất nhớ thầy Lư và nhớ anh. Những mơ ước được gặp lại. Thì ra là anh đây rồi! Bữa ấy anh hát “Nương chiều”, em đứng ở chân cột đền nghe trộm mà lòng những khát khao. Chỉ mong được cắp sách đến trường. Chỉ mong sau được như anh!
Thì ra cha Misen đã chết trong một trận càn lớn ở vùng Nam sông Thưa. Trước đây tôi đã đặt ra câu hỏi vu vơ có phải chính cha anh đã bắn đuổi theo chúng tôi khi vượt sông hay không? Có phải chính cha anh đã chết chìm ở dưới ao sau trận càn bà con vớt lên đem chôn hay không? Misen muốn tìm mộ cha. Việc ấy nhất định tôi sẽ giúp, nhưng trước tiên anh muốn tìm gặp thầy Lư. Thầy như người cha thân thiết đối với anh nhưng còn lý do chưa được giải đáp là chính thầy Lư bảo cho mẹ con Misen biết tin này sau cuộc hành quân kết thúc không lâu. Thầy giúp cho Misen theo học và sau đó anh đưa mẹ sang Pháp. Anh trở thành nhà kinh doanh bên Pháp.
Đang loay hoay chưa biết bằng cách nào tìm ra địa chỉ của thầy thì một hôm Misen sầm sập gõ cửa. Trong tay anh là một tờ báo:
- Anh! Đây rồi! Có tin mừng rồi! Địa chỉ của thầy đây. Thầy vẫn sống. Thầy còn là một chiến sĩ hoạt động bí mật cho mình. Bài báo nói rõ thầy tuyên truyền giác ngộ những người lính thuộc địa trong quân đội Liên hiệp Pháp. Chắc chắn cha em trong số những người này. Ta phải sớm bay vào Sài Gòn để phóng xuống Cần Thơ thôi anh!
Khỏi nói cuộc gặp thầy Lư ở Cần Thơ xúc động như thế nào. Thầy cứ lặng đi nhìn chúng tôi. Và Misen cũng như tôi không sao kìm được những giọt nước mắt. Rồi thầy nói, chậm rãi, nhát gừng, rằng cha Misen bị chính thằng sĩ quan chỉ huy bắn chết ở làng Gừa khi người lính ấy nhân lúc thu quân cố thoát sang hàng ngũ Việt Minh. Thầy cũng cho biết gã học trò hát bài “Tiến quân ca” để giúp cha hắn làm ở phòng nhì theo dõi thầy giáo giờ đang sinh sống ở Mỹ và đã có lần về tận biên giới Campuchia - Việt Nam để hoạt động chia rẽ chống đối. Thầy nói thầy vừa được thưởng huân chương nhưng không gì cao quý hơn bằng sự thanh thản của con người đã hoàn thành nhiệm vụ bé nhỏ của mình với dân với nước. Misen vội vàng chắp hai tay lại như làm lễ và giọng run run:
- Thưa thầy! Thầy là người cha thứ hai của con. Người cha cao quý của con. Thầy chẳng những truyền cho chúng con chữ nghĩa mà còn cả đạo làm người.
Nhìn căn hộ thanh bạch của thầy, Misen thắc thỏm muốn ngỏ điều gì đó nhưng thầy đoán ý ngăn lại: “Tôi sống ung dung lắm. Lương hưu đủ chi dùng. Các anh tới đã là quý rồi và đừng có băn khoăn".
Ngày hôm sau chúng tôi bay ra Bắc. Để về vùng nam sông Thưa, để tới làng Gừa, nơi người lính quân đội viễn chinh Pháp nằm xuống khi vừa bước tới vùng ánh sáng mặt trời


Tô Đức Chiêu

Hansy
12-10-2014, 11:20 PM
63.

ĐỪNG GẶP LẠI NGƯỜI XƯA

Tùy Anh

Gia đình ông rất chăm đi Chùa, nhưng ngày xưa hồi quen nhau, ông cười nói " Đã có Mẹ và Em đi lễ cầu nguyện cho anh rồi, anh lễ nữa sẽ thừa, Phật nào chứng cho người tham, phải không? " tôi đành chịu cái tính ngang ngang, bướng bỉnh của ông.
Rồi ông mê chính trị, tham gia quân đội, tiếp đó đi du học hay đi tu nghiệp gì đó ( sau này gặp lại ông nói " làm trai phải có danh gì với núi sông chứ? " ) , tôi cứ chờ vu vơ dẫu ông chẳng một lời hứa hẹn, cho đến khi hoàn cảnh đất nước thay đổi, tôi và ông mất liên lạc.
Chẳng còn hy vọng về người tình vô thanh, nay lại thêm vô ảnh, tôi cũng ba mươi mấy rồi, tôi phải vâng lời gia đình có chồng, rồi chồng con tôi cũng như bao người ở thời điểm hỗn loạn cuộc sống đó, tìm cách vượt biên, tôi chẳng nhận được tin tức của chồng con rất nhiều năm sau đó.
Ngày ấy, vợ chồng bàn nhau bán nhà, bán cả sản nghiệp lấy tiền vượt biên. Ngày ấy, ai cũng khuyên đi đâu thì cũng phải đi đủ vợ chồng, nhưng chồng tôi yêu tôi (?) nói " anh sợ không thể bảo vệ em khi mình lênh đênh trên biển, lỡ có chuyện gì không hay .... ( chồng tôi ngập ngừng câu nói, nhưng tôi có thể hiểu chồng tôi ám chỉ bọn cướp biển, chẳng những cướp tiền mà còn cướp cả trinh tiết của người người đàn bà đã có chồng ) ... anh sẽ ân hận và đau khổ lắm ! tôi ngậm ngùi chấp nhận ở lại sống lây lất chờ đợi cả chục năm
Một người hàng xóm từ Mỹ về chơi cho tôi biết tin, chồng tôi đã có vợ khác từ lâu rồi, dĩ nhiên tôi chết lặng vì đau đớn, không những vì hết sạch tài sản, mà tình nghĩa vợ chồng bây giờ cũng tay không bắt gió.
Buồn quá, ngoài giờ làm việc tôi bắt đầu lang thang vào Net viết vớ vẩn, tôi không chủ định kiếm chồng đâu, vì các con tôi sắp ra trường, khi đến tuổi thành niên, các con tôi cũng có thể bảo lãnh tôi đến Mỹ được, tôi chỉ muốn giải sầu.
Tôi gặp lại ông ở những trang web, phần lớn ông viết bài khảo cứu khoa học, phổ biến kiến thức kinh doanh, tôi đọc tên và ngẩn người " có thể tên trùng tên chăng? " còn ông cũng thắc mắc viết thư làm quen vì giọng điệu thơ của tôi gợi ông nhớ lại người xưa (ông viết bài giảng về khoa học, kinh doanh rất hấp dẫn, nhưng ông hoàn toàn không có năng khiếu về thơ) và khi trao đổi thư từ, chúng tôi mừng đến khóc khi biết tin tức về nhau.
Vợ ông mất đã vài năm, các con cũng đều có việc làm ổn định. Ông lại là một doanh nhân thành công. Chỉ một thời gian ngắn, ông đề nghị xây dựng gia đình với tôi, dù ngày xưa chúng tôi chẳng thề non hẹn biển gì cả. Tôi xúc động và hạnh phúc biết bao nhiêu, vì hình như ngày xưa tôi là kẻ yêu thầm mà nay sự lặng thầm đạt kết quả.
Ngoài việc viết Email thường xuyên, mỗi tối chúng tôi phone cho nhau, chúng tôi kể những chuyện xảy ra sau khi xa nhau, nhắc lại bao nhiêu chuyện cũ, nói về con cái ... chờ đợi ông thu xếp công việc về VN tiến hành thủ tục kết hôn với tôi. (chúng tôi vẫn chưa gặp lại nhau sau mấy chục năm xa cách )
Trong những lần nói chuyện, ông kể con gái ông rất thông minh, học giỏi và đặc biệt rất đẹp gái . Tôi biết ông yêu và hãnh diện về con gái của ông vô cùng qua cách diễn tả, khiến tôi chạnh lòng nghĩ đến con gái của tôi kém con gái ông vài tuổi, thiếu thốn đủ điều mặc dù cũng đang sống có bố, nhưng bố có vợ khác nên chẳng chăm sóc chu đáo được. Ông khoe con gái ông học ngành báo chí nên tiếng Mỹ như người bản xứ, tôi chỉ im lặng chẳng nói ra, con gái tôi cũng thông minh học giỏi, cũng đẹp gái và hơn nữa là rất rành rẽ tiếng mẹ đẻ dù cũng lớn lên ở Mỹ
Một vài người bạn chúc mừng tôi cuối cùng đã tìm thấy hạnh phúc, tôi thầm cám ơn trời Phật đã cho tôi được như hiện nay, nhưng đêm qua ông lại khoe với tôi thằng rể tương lai mua tặng cho con gái ông con chó đáng giá hai ngàn đô la, lại chuyện con chó thông minh, khôn ngoan như người, xinh đẹp. Tôi cố im lặng nghe chuyện khó nghe, rồi so sánh với hoàn cảnh sống của bao người khi bữa ăn còn thiếu thốn trong lúc con chó cưng của ông ăn toàn thịt bò và uống sữa mỗi ngày cho mượt lông, đi học, đi tỉa lông hàng tuần ... và có hẳn một người dắt chó đi ị mỗi ngày nữa chứ, ông toe toét nói mỗi khi ông đi làm về con chó mừng rỡ như gặp ông ngoại, ông gửi bao nhiêu hình chụp ông và con chó với đủ tư thế thân mật, khiến tôi cũng tức cười quá !
Ông hỏi tôi " em biết tại sao anh muốn lấy em làm vợ không? " " thì yêu chứ gì? " " Ừ, cũng yêu, nhưng một phần anh nghĩ, con chó mỗi tháng tốn cho nó bạc ngàn còn được, mà nó đâu biết vuốt ve ... còn em thì có thể làm tình được " Trời ơi, tôi không thể nào ngờ, người đàn ông tôi mê một thời, có học và tiếp tục có nhiều bằng cấp cao khi đến Mỹ lại có ý tưởng quái dị như vậy về chó và đàn bà.
Sáng nay tôi viết cho ông vài chữ vắn tắt từ chối việc ông về cưới và bảo lãnh tôi sang Mỹ, sau đó tôi phá password để từ nay không thể vào hộp thư đó nữa. Bây giờ tôi cũng báo xin đổi số phone nhà.
Hy vọng tôi đã quyết định đúng !


Tùy Anh

Hansy
14-10-2014, 01:41 AM
64.

ĐUỔI BẮT

Vương Liễu Hằng

Tiếng gõ cửa rụt rè, tôi chạy ra. Anh nhìn tôi âu yếm và hớn hở. Tôi nói ngay:
- Hôm nay Nguyệt bận học. Anh về đi!
Mặt anh bí xị như cái bánh bao:
- Thứ bảy mà em cũng học hả?
- Sắp thi rồi. Vả lại thứ bảy thì có khác gì thứ hai?
Vẻ đau khổ, hụt hẫng của anh làm tôi cảm thấy bất nhẫn:
- Có lẽ thứ sáu em thi xong. Anh rảnh không?
Tất nhiên là anh rảnh. Tôi đã biết kịp thời cho thêm một chút đường vào ly chanh muối. Xin thề với bạn là bữa đó… dẫu thành phố có bị động đất hay bão cấp mấy mươi thì… anh vẫn đến như thường.
Thơì gian chùng xuống như một tiếng thở dài. Anh nhìn tôi rồi quay đi, chiếc áo sờn và chiếc xe đạp lóc ca lóc cóc. Ðường về chắc dài lê thê.
Tôi đứng nhìn theo vừa thấy ân hận lại vừa thấy bằng lòng với… chính mình. Một sự bằng lòng rất đỏng đảnh và rất con gái. "Khá đấy, Nguyệt ! Ít ra cũng có một quả tim tan ra từng mảnh vì mày…"
Kể ra một buổi chiều thứ bảy dập dìu như thế này, chỉ có điên mới vuì đầu vào sách. Một chút thời gian trò chuyện với anh có nghĩa lý gì so với đống sách bài thi vĩ đại mà tôi đã ngốn gần xong từ mấy tháng nay. "Ác quá Nguyệt ơi! Nhưng không sao! Cần thử thần kinh một chút, cho vui mà."
Tối, tôi ra hành lang đứng hóng gió. Ai như anh ngồi ở quán cà phê bên kia đường, ủ rũ. Ðốm thuốc lá lập lòe soi tỏ khuôn mặt suy tư. Tính trồng cây si sao? Tự nhiên tôi thấy bực mình, dằn dỗi đi vào nhà tắt đèn và kéo kín rèm cửa. "Khung cửa sổ nhà em mỗi tối – ngọn đèn khuya lặng lẽ bóng em ngồi…" Tiếng hát đâu đó vọng lại. Tôi than thầm "lãng mạn quá chàng Roméo ơi!"
Anh yêu tôi đã bốn năm – một khoảng thời gian không ngắn. Anh yêu tôi từ khi tôi còn là một cô bé ngây thơ với hai bím tóc ngúng nguẩy trên đầu. Dù sao, tôi cũng thầm công nhận là anh biết khá nhiều. Dân bách khoa mà thơ chữ Hán thuộc làu làu. Bình văn thơ sắc sảo không thua gì Biêlinxki - Một cái đầu đáng nể! Thế nhưng trong tình yêu, anh chỉ là một chú bé con. Không màu mè, không mánh khoé, không …nghệ thuật tán tỉnh. Anh chân thành, nồng thắm và giản dị như những cuốn sách hay mà anh cố lục tìm mua cho tôi ở ven đường hay những văn thơ tình lãng mạn mà tôi thường thấy xuất hiện trong tập vở. Anh sống thật với những gì mình có. Anh trải lòng cho tôi nhìn rõ. Anh làm tôi xúc động bằng cái tình yêu chân chất ấy, nhưng …có lẽ đó là sai lầm nghiêm trọng của anh. Tình cảm anh cho tôi hoàn toàn hồn nhiên, tự nguyện, không toan tính, không đòi hỏi. Dạt dào mà không ồn ào. Yêu… và có một cái gì đó như sự cam chịu. Thường những. Thường những điều mà ta đạt được dễ dàng, ta lại không biết quý.
Anh yêu tôi nhiều và nhiều quá làm cho tôi nghĩ rằng mình đáng được như vậy, rằng đó là một điều tự nhiên như con người thở hít khí trời, như cây cỏ hướng về ánh nắng … Anh đâu biết rằng một chút lạnh, một chút phớt tỉnh, một chút hờ hững bất cần lại có "tác dụng" hơn gấp trăm ngàn lần cử chỉ chăm sóc, săn đón kia.
Còn tôi, tôi sẽ bật cười nếu ai đó nói rằng tôi yêu anh. Những lá thư tình nồng cháy của anh được đem ra bình luận, đọc diễn cảm và… ngâm lên giữa lũ bạn nghịch ngợm của tôi. Ðứa nào cũng lắc đầu khi thấy anh chờ tôi hằng giờ dưới trưa nắng chỉ để… đưa cho tôi mấy cuốn sách mới tìm mua được! Ðúng là con tim tôi bằng i-nốc. "Nhỏ Nguyệt chẳng có yêu ai hết, nó chỉ chinh phục và chinh phục thôi! những chàng khốn khổ nào lỡ ngã quỵ rồi thì chỉ còn là con zéro"
Tôi giật mình trước nhận xét quái ác của Phương. Nhưng ngẫm ra thì nó cũng có lý. Dòng máu trong người tôi là dòng máu… đi chinh phục mà.
Khi anh nói yêu tôi, tôi bình thản :
- Nếu Nguyệt chưa cảm thấy yêu anh thì sao?
- Thì anh sẽ chờ cho đến khi Nguyệt "cảm" .
- Không , anh chẳng chịu nổi Nguyệt đâu! Rồi anh cũng sẽ bỏ cuộc như bao chàng trai khác. Sau một tháng là cùng.
- Anh sẽ chờ … chờ cho đến khi Nguyệt quyết định chọn một người yêu.
- Thế nhỡ em không yêu ai hết?
Và …anh đã đáp lại tôi bằng một nụ cười khó hiểu . Sự kiên trì của anh làm tôi suy nghĩ. Tai ác thay, khi tôi bắt đầu nghĩ về tình yêu của anh một cách nghiêm túc thì Hùng lại xuất hiện.
Bây giờ chúng tôi lại đang đuổi bắt nhau trên một vòng tròn. Ðiểm đầu là Hùng, kế tới tôi và cuối cùng là anh. Tôi có yêu Hùng không? Chẳng biết nữa. Chỉ thấy rằng Hùng đã tác động nhiều đến tôi. Cái vẻ ngạo nghễ, khinh bạc của anh chàng làm cho tôi điên tiết và cảm thấy … bị xúc phạm nặng nề. Cần phải cho anh ta biết '' lễ độ '' và không được phép hờ hững trước một người con gái đẹp và thông minh như tôi chứ! ''Tôi phát cáu thật sự trước sự lạnh lùng của Hùng – Anh chàng như một quả bong bóng bay cứ vật vờ … chập chờn trước mắt như trêu tức tôi. Người ta vẫn cố đạt cho kỳ được cái mà người ta chưa nắm bắt ở trong tay, mặc dù đôi khi cái mà người ta đang nắm giữ lại đáng quý hơn nhiều. Bây giờ, mục đích duy nhất của tôi là phải làm cho Hùng ngã gục như bao nhiêu anh chàng khác đã từng ngã gục trước tôi .
Tối thứ sáu, anh đến sớm.
- Mấy bữa nay nhớ Nguyệt quá, anh chẳng học được.
Tôi lạnh nhạt:
- Vậy sao? Thế mà Nguyệt không biết đó!
Vừa ngồi với anh vài phút thì Hùng đến – Dầu thơm và xe Dream bóng lộn – Dạo này đã tỏ ra '' ngoan ngoãn '' hơn nhiều . Hai anh chàng gờm nhau.
Anh kiêu hãnh, Hùng ngạo mạn tự tin, nói:
- Tối nay Nguyệt đi xem ca nhạc ở rạp Rex với anh nhé !
Có nên đi không? Kỳ quá. Cái mục đích '' cao cả '' lại lởn vởn trong đầu tôi. Có thể hôm nay chàng sẽ nói… Thấy tôi phân vân, anh tế nhị:
- Nguyệt đi xem cho khuây khỏa. Em mới thi xong mà.
Tôi nhí nhảnh và vô tâm:
- Anh đi luôn cho vui nhé!
Anh bị bất ngờ:
- À … không được, chắc anh không đi được …
Ánh mắt đắc thắng của Hùng làm tôi khó chịu. Anh dắt chiếc xe đạp cà tàng đi ra cổng rồi bỗng quay lại nhìn xoáy vào tôi, cái nhìn đau đớn của một tâm hồn bị tổn thương cực độ. Tôi hiểu anh nghĩ gì. Không! Không phải đâu!
Ánh mắt anh ám ảnh tôi suốt buổi tối. Hùng hỏi:
- Ai vậy?

- Anh chàng bụi hết cỡ ha!
Cái giọng khinh thị của Hùng làm tôi phát cáu:
- Vì anh ấy không muốn là một con công!
- Nguyệt nói vậy là sao?
- Vì con công có một cái đầu quá nhỏ và một bộ cánh quá lớn. Còn anh ta ngược lại.
Tôi trả lời tỉnh bơ. Hùng lặng im trước vẻ gây gổ của tôi. ''Ðầu óc các bà …'' chắc anh ta nghĩ vậy.
Tối hôm ấy anh hiện ra trong giấc mơ của tôi với cái nhìn bị thương '' Em đã chọn con công loè loẹt đó sao? '' Không! Anh lầm rồi!
Tôi giật mình, toát mồ hôi và bỗng sợ mất anh kỳ lạ.
Một …hai …rồi ba ngày trôi qua, anh vẫn không lại. Trống vắng! Tôi ngạc nhiên với chính mình. Có lẽ nào …? Chắc tại vì anh trở nên quá quen thuộc trong cuộc sống của tôi nên sự vắng mặt ấy đã tạo nên cảm giác hụt hẫng là điều đương nhiên. Nhưng một tuần … Nỗi nhớ quặn thắt, cồn cào. Không thể nào quên được anh. Tôi ra hành lang đứng nhìn xuống quán nước ở bên kia. Những kỷ niệm tràn về - Tôi chống cằm ôn lại từng cử chỉ chăm sóc nhỏ nhặt của anh. Anh đã yêu tôi biết bao…Tôi nâng niu những cuốn sách, đọc lại từng lá thư …và cảm thấy xúc động đến tận đáy lòng. Tôi thèm được giận hờn, thèm được gục đầu lên vai anh mà … khóc.
Sinh nhật – Tôi không tổ chức gì cả. Chiều, tôi ngồi buồn thiu trước nhà, giàn hoa ti gôn tím ngát. Hùng đến – ôm theo một bó hồng nhung to tướng. Anh chàng lúng túng trước vẻ mặt '' hình sự '' của tôi – vẻ ngạo nghễ đã biến mất: ''Anh muốn nói với Nguyệt rằng … Anh yêu em''. Hùng táo bạo vòng tay qua người tôi – hôn lên mái tóc …
''Mi đã chiến thắng rồi đó Nguyệt – Ðược gì?'' Tự nhiên tôi nghe lòng tê tái lạ. Những giọt nước mắt chảy dài. Hùng ngơ ngác. Tiếng gió lao xao… Tôi linh cảm thấy người mà tôi đang chờ đợi ở rất gần đây thôi! Tôi vùng dậy, thoát ra khỏi vòng tay của Hùng chạy ào ra thì… chỉ còn thấy một nụ hồng bé nhỏ nằm trơ trọi trước cổng nhà. Anh đã lặng thầm đến tự bao giờ? Anh đã thấy và nghe những gì? Anh sẽ nghĩ gì?
Trời ơi!
Tôi đã phải trả giá cho sự ngông cuồng của chính tôi một cái giá khá đắt. Anh đã nói ''Anh từng yêu em, yêu em say đắm – rồi anh đặt toàn bộ ý nghĩa cuộc đời vào tình yêu ấy… Nhưng bây giờ thì em đã yêu và được yêu. Anh đã trở nên thưà thãi… '' Tôi nhìn sâu vào mặt anh để tìm lại sự đau đớn tuyệt vọng của ngày xưa, nhưng không thấy. ''Anh đã đau… đau lắm nhưng không khổ''. Anh cười nhẹ nhàng. '' Cuộc sống còn nhiều cái khác ngoài tình yêu – Em đã giúp anh nhận ra điều đó! '' Giọng anh đều đều, chân thành và nồng thắm, không hờn giận, không chua cay. ''Anh sẽ là anh trai của em nhé! Cô bé con. '' Tôi muốn hét lên: ''Không ! Anh lầm rồi, em không yêu Hùng, em không muốn làm em gái của anh – Em yêu anh …'' Nhưng tôi lặng người, cái cảm quan nhạy bén của người con gái giúp tôi nhận thấy sự nguội lạnh trong mắt anh. Người ta chỉ yêu có một lần! Tôi đã dại dột đùa giởn với tình yêu chân thành của anh. Tôi đang tâm giết nó và … phải chăng nó đã chết?
Bão táp trong lòng cứ nổi lên nhưng hãy cố mà bình tĩnh. Tôi kiêu hãnh như đã từng kiêu hãnh ''Vâng! cám ơn ông anh trai của em…'' Anh mỉm cười, nụ cười chân thật đáng yêu như chính con người anh vậy.
Anh đi rồi! Chiếc áo bạc màu và chiếc xe đạp cà tàng. Tôi như đánh mất chính mình. Anh đi – vững vàng và tự tin. Còn tôi, tôi không thể nào giương đôi mắt ráo hoảnh để nhìn theo bóng anh. Ðôi mắt ấy đã đẫm ướt.


Vương Liễu Hằng

Hansy
14-10-2014, 05:59 AM
65.

AI MANG HỘT NÚT ĐI RỒI

Đồng Sa Băng

Khi vừa lớn lên, biết đi rong trong xóm, hái trộm xòai, ổi của thiên hạ là tui biết “huýnh” lộn rồi. Tui không to con lớn tướng hơn ai, nhưng ai chọc tức tui là tui nhảy vào “huýnh” liền. Cho nên lúc đó mặt mũi tui thường có những vệt trang điểm bắt đắc dĩ. Có lần thằng Phúc con ông Mau bán cá, to con hơn tôi nhiều, nó chọc tui, tui “huýnh” nó, nó “huýnh” tui. Tức qúa hôm sau tui thừa lúc nó không để ý, tui đè đầu nó vào giữa hai song cửa sổ nhà trường, thụi cho nó một hồi, thả ra, thấy trên trán nó có hai lằn thẳng băng, tui bỏ chạy. Những ngày học trường tiểu học Nghĩa Thành, không hiểu tại sao mà dường như tuần nào tui cũng lâm trận. Có lúc phục kích tụi nó trên những đám đất cày, rồi chọi đất nhau tưng bừng. Những giờ ra chơi đập lộn với mấy thằng ở Thuận Phong bị ông hiệu trưởng Nguyễn Ngọc Anh cho thụt dầu đừ đầu gối, nhưng vừa đứng dậy thì thấy ngứa ngáy tay chân….
Rồi những ngày đầu vào Sài Gòn, mười một mười hai tuổi, cảnh người đều xa lạ và tui bị cô lập chặt chẻ nên dường như … hiền ra. Nhưng sao thấy tức lắm, nhất là mỗi khi tui nói cái gì là tụi nó bu lại nói: “Hỉ, hỉ, mầy noái cái gì”. Có những lúc tui nhẩm: “Nói tụi bây không hiểu thì tao đấm cho tụi bây hiểu”. Nhưng rồi tui cũng thụt tay vào túi, vì tụi nó đông qúa mà nơi đây tui không biết tẩu thoát ở đâu cho yên. Một hôm tui dẫn thằng cháu ra sông Sài Gòn câu tôm. Lúc đó ở kho 18, Tân Thuận Ðông, dưới cầu tàu có nhiều tôm hùm lắm. Hai chú cháu tui đang ngồi dung dăng dung dẻ câu tôm, lại gặp đám mấy thằng “Hỉ, hỉ, mầy noái cái gì”. Tụi nó thấy tui nó không chọc ghẹo nữa mà nó nhảy ùm xuống sông tắm. Tự nhiên tui thấy cần câu tui rung động. À! gặp tôm bự rồi. Tui kéo dây câu lên, thì con tôm nó búng búng, giựt giựt thấy tê lắm. Tui mừng quá, từ từ kéo lên, giữa đường nó giựt một cái thật mạnh. Ðứt mẹ nó dây cước rồi! Tui cuốn dây lên, thấy tiếc quá. Nhìn xung quanh thì thấy tụi nó ngóc đầu dưới nước lên, nó dơ giây cước cho tui xem còn nói:
“Ê coái nầy phải của mầy không?”
Tui điên lên rồi, không nói không rằng gì hết, tui chạy tới đám quần áo của nó, ôm hết trong mình. Tui dấu một khúc gỗ trong người:
- Tụi bây ngon thì lên đây lấy lại quần áo.
- Ê đừng giỡn mặt nhe mậy, tụi tao không tha cho hai đứa bây đâu.
- Lên đây.
Vậy là tụi nó bò lên, tui liền nhảy đến phan lên đầu, lên lưng nó, chịu không nổi nó lại nhảy xuống sông.
- Nề, quần áo tụi bây đây, lặn xuống đó mà lụm. Tui ném đống quần áo xuống sông, lấy cây nhận chìm xuống nước xong hai chú cháu chạy lẹ … về.
Thời gian trôi qua, tui cũng lớn theo. Tui bắt đầu học lối nói của người miền Nam: “A hôm nay tui dzià sớm nha, bà nhớ bỏ con cá ghô dô cái ghổ để nó khỏi nhảy gột gột”. Nói riết rồi cái lưỡi tui cũng quen đi. Và càng ngày những lời nói như “En không en, téc đèn đi ngủ. Súng bén phèng phèng, nó la xung pheng, xung pheng” cũng vắng bóng đi.
Hồi đó, tui rời gia đình ở Quảng Ngãi vào Sài thành sống với hai người anh. Ban ngày hai ông anh tui, người đi làm, người đi học. Tui thì học ở trường tiểu học Tôn Thất Thuyết, Khánh Hội.
Sau này tui theo anh Hai về sống ở Tân Thuận Đông. Những buổi chiều đi học về, buồn qúa, tui tập bè bạn với đám anh em thằng Hải thằng Nam. Anh em tụi nó con nhà khá giả và hiền lành, nhà nó có cái ao nuôi cá tui thường qua đó chơi. Nhưng vì chơi với bọn anh em thằng Hải, nên tui bị thằng Tư con ông Khải nó ghét lắm. Mà thằng Tư thì nó lớn hơn tui nhiều. Một hôm tui đi chơi ngang qua nhà thằng Tư, thấy tui nó ra đi bên cạnh và xô tui xuống ao trước nhà nó cái ùm. Tức mình lắm, tui đâu có làm gì nó đâu, tui bò lên khỏi ao, ướt như con chuột lột, tui cầm cục đá chạy kiếm nó:
- Ð.M, mầy ngon thì ra đây, tao không sợ mầy đâu.
Cửa nẽo kín nghít, không nghe thấy gì hết.
- Mầy không ra hả, coi đây: Chản, chản….
Một hàng hai cái lu đựng nước mưa của ông già nó bể tan tành, nuớc chảy lai láng, tui thấy hả dạ lắm. Tui đi về nhưng mặt méo xẹo vì tức cái thằng trời đánh ỷ lớn ăn hiếp tui.
Một năm vào Sài thành sao tui thấy bực quá, đi đâu cũng bị tui nó kêu “Bắc kỳ ăn cá rô ki, ăn nhằm lụ đạn chít cha Bắc Kỳ”, nay còn bị nó xô xuống ao nước như con chuột lột.
Ngày xưa tui đâu có tệ như vậy. Nhưng mà cũng thấy tội nghiệp cho mấy ông Bắc Kỳ, những việc gì tui làm tụi nó khen là tui nói tui người Trung Kỳ, còn những chuyện tui phá họai nó, nó chửi tui Bắc Kỳ, thì tui làm thinh.
Sau ngày tắm ao bắt đắc dĩ đó, tui về xin ông anh:
- Anh Hữu, cho em đi học võ đi.
- Tiền đâu mà đi học võ mậy?
Tiền? À tiền đâu mà đóng học phí đây. Cái thân của tôi làm gì ra tiền mà bày đặt đóng tiền nầy tiền kia. Hai ông anh tôi còn khối người ngoài quê để lo, chứ đâu phải chỉ có một mình “công tử bột” tui đâu. Nhưng mà mối thù tắm ao sình hôm nọ không lẽ quên luôn sao?
Tôi hỏi anh em thằng Hải thằng Nam nó chỉ cho tôi ra kho 18, vào buổi chiều mấy người lính Mỹ nó cần người phu khuân vác, xếp đồ may ra tìm việc làm ban đêm. Tôi liền thử thời vận, chiều hôm sau tôi mặt đồ của ông anh tôi, lụng thụng trông có vẻ lớn thêm một chút, tôi ra kho 18 … xếp hàng.
Thấy ông lính cầm sổ ra tôi cũng chen lấn vơi đám đông kia, tay đưa lên, miệng thì ” Me, me, me Sir”. La mõi miệng. Nhưng giờ bóc nhân công cũng qua rồi, đoàn người được chọn thì biến vào bên trong, còn lại những người thất nghiệp như… tôi, buồn qúa, đá vài hòn sỏi trên đường, lăn lăn không biết rơi vào vũng nước nào.
Ngày đầu tiên thất bại. Nhưng nghe bác Hai nói “Thất bại là mẹ thành công” nên chiều hôm sau tôi lại ăn mặt như chiều hôm qua và ra…. xếp hàng.
Những buổi tối sau khi ăn cơm xong là tôi biến mất đến khuya mới về.
Rồi một hôm tôi cũng như mọi ngày, đi… xếp hàng, và “Me, me, me Sir”, ông lính đó chỉ chỉ về hướng tôi, không cần biết chỉ tôi hay chỉ ai, tôi liền chen lấn đám đông chui qua, vậy mà tôi lọt được hàng rào.
Tối đó tôi không về nhà như thường lệ, tôi vào sân trong, khoái chí, tôi đá tung những hòn đá trước chân tôi: “Sướng quá, tao có việc làm rồi.” Tôi la lớn lên như thế. Tôi quyết giữ lấy cái việc làm thơm nầy nên tôi làm việc siêng năng lắm, bà xếp muốn cái nào tôi làm liền cái đó.
Tôi sẽ có tiền đi học võ, tôi làm việc say mê, đêm tàn, sáng đến lúc nào tôi không hay. Khi tan sở người ta trả cho tôi 90 đồng tiền công cho buổi tối đó. Lần đầu tiên tôi làm ra tiền bằng chính mồ hôi nước mắt cuả mình.
Ngày kế đó đi học về, tôi qua chơi với anh em thằng Hải, tôi khoe anh em nó là “Tao có tiền rồi, hôm nào tao mua cà lem đãi tụi bây,” một chút thôi rồi về làm bài, xong cơm tối là tôi lặn đến qúa nửa đêm mới về lại nhà.
Rồi những ngày kế tiếp tôi mệt quá, đi học về làm bài xong, tôi chợp con mắt một chút để có sức tối nay đi khuân đồ. Lâu lâu tôi mới có dịp qua thăm anh em thằng Hải. Cuộc đời va chạm với giới lao động còn quá sớm, tôi thấy cũng vui và nhiều lúc tôi cũng thấy lính quýnh, lúng túng đến đỏ mặt.
Có một chỗ làm tuy không bền vững nhưng cũng có để dành một ít tiền, tôi xin anh tôi đi học võ, lần nầy thì anh không từ chối được, tôi nói:
“Anh thấy đó, em đi đâu cũng bị tụi nó chọc Bắc Kỳ nầy Bắc Kỳ nọ và ăn hiếp hoài, bực qúa.” Tôi ghi danh vào võ đường Odokwan, cuả võ sư Nguyễn Bình ngoài xa lộ Phan Thanh Giảng. Học Taekwondo.
Mấy năm sau gia đình tôi từ Quảng Ngãi vào hết trong Sài Gòn. Vì mới vô chưa có nhà cửa nên cha me tôi ở tạm nhà anh tôi một thời gian đợi tìm nhà.
Mấy đứa em tôi nói tiếng Quảng đúng tiêu chuẩn một trăm phần trăm nên lúc nào cũng là đề tài cho mấy đám con nít trong xóm chọc ghẹo. Lúc nào tôi cũng rầu vì chuyện này. Một thời gian sau, cha me tôi dọn nhà xuống xóm dưới ở cho rộng và dể chịu hơn. Nhưng đi đến đâu anh em tôi cũng bị mang cái tên ác nghiệt là Bắc Kỳ, và mấy đứa nhỏ không bao giờ được chơi bình đẳng như mọi đứa trẻ khác.
Tôi không còn làm người phu khuân vác trong kho 18 nữa, mà tôi kiếm đước một chân làm trong cơ quan USAID.
Năm đó tôi đang đeo đai nâu. Thằng Tư ngày xưa xô tôi xuống vũng sình bây giờ đã gia nhập binh chủng Thuỷ Quân Lục Chiến.
Một hôm, trên đường ghé thăm nhà anh tôi, căn nhà sàn nên phải làm đường vô bằng một cái cầu. Khi tôi đến đầu câu thì đụng mặt thằng Tư, tôi nhắc nó:
- Mầy nhớ tao là ai không? Nó biết và nhớ tôi lắm chớ, nhưng nó nói:
- Tao xin lỗi mầy chuyện ngày xưa.
Lúc đó tôi không tức giận nữa, tôi hỏi nó:
- Mầy muốn chơi một trận sòng phẳng không? Xô lén người ta không anh hùng đâu. Nó lại xin lỗi nữa nên tôi lách qua một bên cho nó đi.
Những năm sau này có lẽ môn Taekwondo đã huấn luyện tôi trầm tính lại, không còn ngứa tay chân như ngày còn nhỏ. Vã lại tôi cũng biết tầm lợi hại của cú đấm, cái đá của mình nên tôi không dám dùng bừa bãi. Nhưng mọi sự nhịn nhục, khiêm tốn cũng đều có giới hạn, và chuyện gì đến nó sẽ đến.
Vào một buổi sáng chủ Nhật, trên đường đến sở làm, tôi ghé thăm anh Hai tôi. Khi mới vừa đến đầu ngõ thì tôi nghe tiếng la ó ỏm tỏi của ông Tiếu, người Tàu bên cạnh nhà anh tôi.
Ông ấy đứng ngoài đầu ngõ đạp phá cái cầu vào nhà anh tôi và chửi bới om sòm.
Tôi dắc xe đi qua và vào trong nhà. Bên ngoài ông Tàu vẫn không ngớt lời chửi rủa anh tôi, nói là anh tôi làm cầu lấn đất ổng. Nghe ổng chủi rủa nhiều qúa, tôi bước ra và nói:
- Ông bình tĩnh đi, nếu anh tui lấn đất ông thì vẫn còn đó, ông đi thưa cảnh sát đi, đâu cần phải chửi rủa như vậy, mà cái cầu nầy đã có từ mấy năm nay có khác gì đâu.
Nghe tui lên tiếng ổng còn làm dữ:
- Nị ngon hả, nị ra đây, lụ má, ra đây ngộ lá chít cha nị luôn.
Xưa nay tui biết ông Tiếu nầy có Thiếu Lâm, tối tối ổng thường ra trước sân đá đá mấy cái rồi mới vô ngủ. Tui không trả lời ổng, ổng lại lên cơn chửi tới, giậm sàn đùng đùng, làm như đất nầy là đất của cha ổng bên Tàu mang qua không bằng!
Tui vẫn khoanh tay đứng đó nghe ổng chửi, càng lúc ổng chửi còn có bài bản hơn. Nào là: “Lụ má lị, ông tằng cố tổ, thằng cha thằng mẹ lị ở đâu đến đây chiếm đất chiếm đai tao á, hôm nay tao đập tao phá nhà pây cho piết á.”
Nãy giờ nghe ổng chửi bực mình qúa rồi, tui liền bước ra giữa cái cầu:
- Tiếu cái lụ mụ nị á, nị không được chửi nữa đó nghen.
- A, nị là cái thằng con nít mà nị dám chửi ngộ á.
- Sợ gì không chửi, tiếu cái lụ mụ nị đó.
Mặt mày đỏ như con cóc tía, hắn xăng tay áo lên thật cao, miệng la chí choét, chạy lanh quanh như gà mắc đẻ. Hết chửi ngoài ngõ, hắn lại chạy qua cái sân hàng xóm bên cạnh nhà anh tôi mà chửi:
- Nị ra đây, ra đây, ngộ tả chít cha nị luôn, lụ má.
Những tiếng la chửi của hắn đã đánh thức sự tò mò của thiên hạ, nhất là đám con nít trong xóm. Lúc nầy mọi người lớn, bé đều ra xem như xem xi nê vậy đó.
Hắn xùng máu lắm rồi, thế nào hôm nay hắn phải “tả” ai đó mới làm nguôi cơn giận của hắn. Mà ai đó vào nữa, chỉ có thằng tui, vì tui dám lắm mồm chửi lại hắn. Nghĩ đến đánh lộn, tôi lại thấy sao mình mâu thuẫn qúa. Ngày xưa bị người ta ăn hiếp nên muốn đi học võ để “huýnh” lại, nhưng bây giờ có võ rồi thì tôi lại không muốn giải quyết sự việc bằng cú đấm, cái đá nữa. Thấy lạ không!
Tôi nhớ có lần song đấu giao hữu ở võ đường. Tôi, đai nâu cấp hai, đấu với đai nâu cấp một (sắp lên đai đen). Tôi dùng đòn tô-lô-cha-ki, đưa một vòng từ dưới lên trên xong đổ ngược ức bàn chân xuống, quạt ngay quay hàm dưới của đối thủ, vì đòn hư trước và đòn thật sau, tôi làm lẹ qúa, đối thủ đỡ không kịp nên quay hàm dưới trẹo qua một bên, và máu đổ.
Sau đó tôi thấy hối hận và tội nghiệp anh bạn kia quá. Nhưng thao trường mà, chuyện võ sinh bị trúng đòn là chuyện hằng ngày ở huyện, tôi cũng không ngoại lệ đâu. Rồi còn biết bao nhiêu trận đấu giao hữu nữa mà cuối cùng cũng chỉ chứng minh cho tui thấy, những cái đá, cú đấm của mình bây giờ không còn tầm thường như ngày xưa nữa, mà có thể gây thương tích trầm trọng cho đối thủ.
Bây giờ đối diện với ông Tiếu hàng xóm của ông anh tui đây, tui biết ổng có Thiếu Lâm và ổng cũng biết tui có Thái Cực Ðạo. Ổng cở tuổi ba mươi và tui chỉ là chàng trai mới lớn tuổi mười bảy, mười tám. Tôi rất bình tĩnh và khuyên ổng nên đi can thiệp cảnh sát để họ giải quyết, nhưng những lời nói của tôi đã không làm ổng thay đổi mà còn làm cho ổng nỗi trận lôi đình thêm lên. Anh Hai tôi nói:
- Thôi mặc kệ nó, để nó chửi mõi miệng nó im thôi, mầy đi làm đi.
Tôi nghĩ và biết chuyện hôm nay không thể giải quyết bằng lời nói được. Càng lúc càng gay cấn hơn, ông Tiếu lúc nầy đã nóng máy lắm rồi. Ổng đứng trên mãnh đất trước sân nhà ông Năm Cụt mà chửi và khiêu khích tôi không chừa một lời nào.
Ðến lúc nầy thì tôi cũng không còn bình tĩnh suy nghĩ phải trái gì nữa. Giống như người ta nói “cây muốn lặng, mà gió chẳng ngừng.”
Tiếng reo hò của đám con nít mỗi lúc ồn ào thêm. Mọi người đều dán cặp mắt trên mãnh đất trước nhà ông Năm Cụt.
Mai, con ông Năm Cụt, cô bạn hàng xóm cùng lớp với tôi cũng có mặt hôm đó, nàng cũng đang hồi hộp theo dõi. Ðã đến nước nầy rồi, tôi không chịu nổi những lời thô tục của tên chệt hàng xóm nầy nữa.
Không nói năng một lời, tôi liền tung đôi chân nhảy qua hàng rào, cao hơn một mét, giữa nhà anh tôi và nhà ông Năm Cụt, thì tiếng reo hò của đám con nít lại nổi lên to hơn, như để thay thế tiếng chuông bắt đầu trận đấu.
Tôi vừa chạm chân xuống đất thì hắn liền hét lên “Chít cha lị nề”, và đi liền ngay sau tiếng nói khó nghe của hắn là cái chân dài lòng thòng từ đâu bay vèo tới. Tôi liền lách người và đưa tay gạt qua một cái, hắn rơi xuống mặt đất.
Tôi giữ lại tư thế chiến đấu. Miệng hắn lúc nầy không còn chí choé như hồi sớm nữa.
Hụt cú dể ăn nhất hắn cay cú tôi lắm. Nơi tôi đứng hơi chật nên tôi liền tung ngọn yap-cha-ki bay để tống hắn ra, liền theo đó hắn quạt ngang dưới chân tôi, tôi nhích chân lên và nhảy ra xa một chút. Hắn liền bám sát tôi và tống thẳng hai cú đấm liên tục, tôi đưa tay tạt ra và luì lại.
Hắn liền sà người phóng tới bằng chân mặt và đá trúng vào vai tôi. Tôi nhấp chân trái làm đòn hư, bồi liền theo cú đá vòng vào người hắn, hắn đỡ, chân mặt tôi vừa chạm đất là chân trái đá móc 180 độ vào ngay ngực của hắn, bịch một cái. Hắn lảo đảo và bay ra xa liền. Hắn tiến lên bằng một đòn chân hư và liên tục phạt vào mặt tôi bằng đòn tay, tôi bị trúng đòn ở gò má.
Tiếng reo hò của đám con nít lại một hồi la to lên, dường như tụi nó muốn tui bị ăn đòn thì phải!
Tui liền yap-cha-ki bay tới hắn tới tấp, vừa yap-cha-ki vừa tô-lô-cha-ki tui gác lên ngực, lên cổ hắn liên tục làm hắn phải chùn chân và lảo đảo. Bây giờ thì tiếng reo hò lại về phiá tôi. Thừa thắng xông lên, tôi liền bồi luôn mấy cú đá vòng và nện luôn hai bàn chân song phi vào ngực hắn. Hắn trúng đòn tui liên tiếp, tự nhiên tui thấy tội nghiệp và không tấn công nữa.
Trong lúc tôi đứng nhìn thì hắn la khóc và chạy về nhà lấy khúc gỗ. Hắn trở lại, tôi thủ sẵn, hắn nhào tới và phạt thẳng khúc gổ bổ xuống đầu, tôi liền dùng chân đá tạt lên khuỷu tay hắn, lòng bàn chân tôi chạm vào khuỷu tay, bật một cái, khúc gỗ văng ra khỏi tay.
Tôi đã tước vũ khí của hắn. Hắn liền nhào tới người tôi, tôi đẩy hắn ra bằng cú đấm. Hắn không vào được hắn la như bò cắt cổ, tôi thấy thương hại và không tấn công hắn nữa. Tôi chỉ đỡ những cú đấm đá rời rạc. Hắn thực sự đã thua dưới vũ lực của tôi rồi! Tôi đang đứng hiên ngang giữa những con mắt mà ngày xưa có những lần khinh thường, và những con mắt hằng ngày đánh đập những đứa em tôi. Giờ đây tôi thấy những con mắt đó không dám nhìn thẳng vào tôi nữa mà trên đó có những tia sáng khâm phục.
Hắn vẫn chưa bỏ cuộc, tiến tới tôi. Bất thình lình tôi bị hai người đàn ông từ phía sau ùa tới ôm tôi lại, nói rằng can tôi ra không cho đánh nữa. Nhưng nếu can trận đánh thì phải can hai bên chứ, sao lại chỉ ôm mình tôi và để ông Tàu kia vào tấn công tôi!
Tôi bảo thả tôi ra, nhưng hai người đó không thả và còn ôm cứng tôi lại hơn. Hai người đàn ông đó là bạn của tên chệt, Tư Lùn và Năm Cụt. Tôi liền dùng cùi chỏ lắc vào hông hai người, đau quá chịu không nỗi, hai ổng thả tôi ra. Không nói một lời, hai người ôm xương sườn lui vào trong nhà. Ông Tiếu vừa khóc vừa chửi tui nát nước. Thấy không còn hy vọng gì nữa, ông trở về nhà.
Tui lầm bẩm trong miệng: “Thì ra ông chỉ có bấy nhiêu thôi, sao không liệu sức mà làm hoà ngay từ đầu thì đâu đến nỗi.”
Như vậy là xong, tôi “huýnh” ổng trúng đòn nhưng người học võ như ổng thì không sao đâu, chỉ là một bài học để sau nầy đừng làm phách nữa thôi. Cũng đã trưa rồi, tôi phủi quần áo đi làm.
Tôi nhìn vào nhà Mai, thấy tôi nàng nguýt một cái, tôi thấy trong ánh mắt nàng chứa đầy oán trách.
Tôi bước ra đầu đường thì bổng nhiên nghe tiếng người đàn bà từ ngoài đầu hẻm chạy vào, vừa chạy vừa khóc lóc, chửi bới om sòm. Thì ra là mẹ của ông Tiếu. Vưà đến nơi bả chửi: “Sao nị tả con ngộ, tiếu cái lụ mụ nị a.” Bả xông vào người tui, tui đẩy bả ra.
Rồi người con, hắn lại chạy ra nữa. Hai mẹ con xông vào “huýnh” tui. Tức mình quá tui thoi cho hắn một cái, lọt xuống ao sình, từ đầu đến chân lem luốt như con chuột cống! Hắn bò lên đi về một mạch. Ðến đây thì bà già hắn cũng bỏ cuộc chơi luôn. Vậy là hai mẹ con đứng trước nhà mà chửi để trừ. Thỉnh thoảng lại chêm vô một tràng tiếng chệt tui nghe điếc lỗ tai.
Tôi định lấy xe đi làm thì đứa em tôi nói:
“Anh lén đi ngõ sau đi, một đám năm thằng em của ổng ngòai chợ chạy vaò kià, tụi nó có dao nữa.” Tôi thấy chuyện không còn đơn giản nữa, tôi liền lòn ngõ sau nhà bà Ðạt đi ra, tôi đi vòng trong xóm thì đứa em tôi mang xe đạp đến cho tôi. Tôi dông đi làm luôn.
Chiều lại em tôi lên cho biết tụi nó kiếm hoài không có tôi, nó bỏ về. Anh em ông Tiếu là đám anh chị ngoài chợ Tân Thuận. Thấy chuyện không lành anh tôi nhắn tôi tối đừng về vì tụi nó đón đường tôi ở cầu Tân Thuận mỗi tối. Vậy là đi làm xong tôi ghé vào nhà bà Dì ở Hoà Hưng ở tạm.
Câu chuyện “huýnh” lộn của tôi được bàn tán xôn xao ở xóm Tân Thuận. Tôi tưởng rồi sẽ êm xuôi, nhưng không ngờ ổng cứ âm thầm cho đám cô hồn đón tôi trong bóng tối. Anh Hai tôi bèn mời mấy bô lão trong xóm lại để nói chuyện đâu cho ra đấy. Thế là một cuộc họp bô lão sẽ xẩy ra.
Một tuần sau ngày tôi đại náo Tiếu gia trang, trên bàn họp có đầy đủ năm ông lão trong làng, anh tôi, anh Thanh, ông Tiếu, ông Năm Cụt và Tư Lùn. Tôi không được dự buổi họp.
Tiếng bàn tán xôn xao trong bàn họp, xong một ông lão đứng lên nói:
“Qua sự việc chúng tôi thấy thì anh Tiếu nầy sai rồi, thôi thằng Tiếu chú mầy bỏ qua đi và đừng bảo em út hại chú em kia.”
Cuộc họp tan, anh Hai tôi cám ơn mấy ông lão và ra về. Từ đó tôi lại tự do đi làm và về nhà như thường lệ.
Chuyện tôi “huýnh” ông Tiếu chắc từ đây xong rồi. Nhưng còn Mai, tôi chưa có dịp gặp lại Mai từ ngày tôi “huýnh” lộn trước sân nhà nàng. Không biết Mai sẽ đối xử với tôi như thế nào?
Tôi biết Mai từ khi tôi về với anh Hai ở Tân Thuận. Thời gian ban đầu tôi chỉ biết Mai ở đó và hàng ngày hai đứa tôi vẫn gặp mặt nhau trên đường, cũng như mọi đứa trẻ khác trong cái hẻm. Nhà nàng ở sát vách nhà anh tôi, nhưng ít có khi nào tôi và nàng nói chuyện với nhau (con nít mà, biết cái gì mà nói, chưa cự lộn nhau là may). Nhưng thời gian trôi qua mau, Mai đã lớn. Nàng có làn da trắng, khuôn mặt trái soan và đôi mắt bồ câu. Ba nàng là người Miên lấy vợ Việt, quê của Mai ở Vĩnh Long. Có lẽ vì lai giữa Miên và Việt, và lớn lên ở miền sông nước Cữu Long nên nàng mới có vẻ đẹp của làn da trắng đó.
Thỉnh thoảng tôi ra ngồi trên hàng ghế trước nhà anh tôi và nhìn qua nhà Mai. Có lần nàng đang đi ra bắt gặp đôi mắt tôi nhìn nàng, nàng nguýt một cái xong trở vô nhà. Không khí ở đây có một cái gì thay đổi, tôi thấy ngồ ngộ và từ đó tôi thường ra ngồi trên hàng nghế trước nhà, nhưng không thấy Mai ra nữa.
Rồi một hôm tôi ngồi đó nhìn trời nhìn mây, bỗng nhiên tôi thấy Mai gánh gánh nước ngoài ngõ đi vào, bốn mắt nhìn nhau, không hiểu tại sao thùng nước của Mai đổ nhào xuống đất. Nàng lính quýnh với đôi thùng, mặt đỏ gay, Mai lấy đòn gánh đánh vào chiếc thùng kêu lẽng kẻng:
- Người ta gánh nước kệ người ta, ngó cái gì, hứ!
Nàng đang hành hạ hai chiếc thùng vô tội kia, tôi bèn chạy ra nói:
- Ủa! hai cái thùng đó có lỗi gì mà Mai “huýnh” nó dữ dzậy.
- Kệ người ta, hết chỗ ngồi rồi hả. Nàng ngồi bệt xuống đất.
- Chuyện Mai gánh nước và chuyện tui ngồi chỗ kia có ăn nhậu gì đâu.
- Sao không, ai bảo anh nhìn tui gánh nước.
- À! gánh nước đâu có sao đâu, bộ Mai mắt cở hả, thôi, để tui ra gánh gánh khác về cho Mai nhé.
Thế rồi tôi lấy đòn gánh, thùng thiết của Mai ra gánh về cho nàng một gánh nước để đền cái tội tôi ngồi không đúng chỗ, không đúng lúc.
- Nước của Mai đó, lần sau tui không ngồi đây nữa đâu.
- Anh….
Từ đó tôi thường nói chuyện với Mai, và Mai thường nhờ tôi chỉ Lượng Giác cho Mai.
Cũng gần một tháng từ ngày tôi “huýnh” lộn trước sân nhà Mai, tôi không tiện lui tới nhà anh tôi. Hôm nay tôi trở lại thăm và tìm Mai.
Một tháng trôi qua, không biết có ai chỉ Lượng Giác cho Mai không? Tôi bước chân lên cây cầu đó, nhìn vào nhà Mai thấy tối thui, cửa nẽo đóng kín. Sao lạ vậy, Mai đi đâu rồi? Tôi đang bàng hoàng suy nghĩ về Mai, không lẽ có gì xảy ra cho Mai sao? Tôi đang dán mắt vào khung cửa nhà Mai, thì, “Chú Mười, chú Mười, có cái nầy cho chú nè”. Ðứa bé con anh tôi chìa tay đưa cho tôi một phong bì.
Anh Vân.
Em biết anh ngạc nhiên khi đọc lá thư nầy lắm. Hôm đó nhìn anh “huýnh” ông Tiếu em sợ lắm, nhiều lúc em nhắm mắt không dám nhìn vì sợ anh trúng đòn. Nhưng may quá, anh không sao hết. Nhưng khỉ nè, anh học võ ở đâu mà “huýnh” hay quá dzậy. Anh nhớ không, mấy nhỏ xem anh “huýnh” nó reo hò ỏm tỏi, nào là ồ … coi ổng song phi kià, ồ đá đẹp quá … em cũng hồi hộp và hảnh diện lắm, anh hiểu em không? Mấy ngày sau em nghe tuị nó nói đừng đụng tới mấy đứa em ổng nữa, coi chừng quẹo giò đó … Nhưng mà hôm đó thấy khỉ thoi Ba em, em buồn lắm, nhưng ổng không sao đâu, ổng cũng không phải mà!
Em đợi anh mấy tuần nay nhưng không thấy bóng dáng anh đâu hết, bộ anh muốn tránh em hả. Khỉ à, đừng có nghĩ bậy nghen, em không giận anh đâu. Nhưng không biết từ nay em có còn được anh dẫn đi ăn kem, và đưa em đi dạo phố trong những buổi chiều tắt nắng nữa không, và lấy ai chỉ cho em những bài toán kia đây. Anh đừng gánh nước cho ai nghe hông! Em ghét khỉ rồi! Anh biết hông, gánh nước đó, ngoài em ra, em không cho ai dùng hết. Nhưng thôi rồi, chắc mình không có duyên bền lâu, nhũng ngày ngắn ngũi gần bên anh, em cũng vui lắm rồi.
Ở Sài thành bây giờ công ăn việc làm hiếm lắm, Ba Má em dọn về quê rồi, em phải theo về quê. Xa anh, em buồn lắm. Hôm anh “huýnh” lộn trước sân, anh rớt hột nút áo, em nhặt được, em sẽ giữ nó bên em maĩ để sau nầy những lần nhớ anh em sẽ nhìn nó.
Anh nhớ giữ gìn sức khỏe nhé.
Bé của anh – Mai.
Tôi sờ lên bâu áo, ai mang hột nút đi rồi!


Đồng Sa Băng

Hansy
15-10-2014, 08:49 PM
66.

ĐƯỜNG XƯA LỐI CŨ

Đồng Sa Băng

Lâu rồi tôi cứ hứa với lòng là sẽ có một ngày tôi quên đi những nhọc nhằn để về thăm quê hương một chuyến thật lâu, như ba bốn tháng gì đó. Tôi ước mơ sẽ được đặt chân trên khắp nẽo đường quê hương từ Nam ra Bắc, để được nhìn và thấy quê hương trong hơi thở và nhịp sống. Nhưng cũng bao lâu rồi mà tôi vẫn chưa thực hiện được giấc mơ đó, nên mãi ngậm ngùi mỗi lần nghe nhỏ Mỹ Tâm hát bài Làng Tôi. Khi tiếng nhạc và lời ca đã chìm sâu, tôi vẫn còn mơ và lời ca:
“Quê tôi chìm chân trời mờ sương
Quê tôi là bao nguồn yêu thương
Quê tôi là bao nhớ nhung se buồn
Là bao vấn vương tâm hồn … người bốn phương”
vẫn còn ngân vang trong đầu tôi. Năm 1992 tôi nghe và xem chương trình ca nhạc “Mùa Xuân Nào Ta Về” của Paris By Night vừa phát hành. Qua lời thuyết minh của nhà văn Duyên Anh, giọng đọc trầm buồn của người thiếu nữ như giăng sâu vào tim gan với những bản tình ca, hình ảnh những chiếc cầu, ruộng đồng, sông nước, và những mái lá nghèo nàn nằm bên hàng dừa nước của làng quê Việt Nam. Đã làm tôi rơi lệ! Duyên Anh đã trải lòng nỗi nhớ và trăng trở với quê hương thật thống thiết qua lời nói, nếu tôi không lầm thì là: “làng tôi, làng anh, làng Việt Nam chúng ta nó đang xoay chiều và càng lúc càng nhanh lên rồi đó.” Như ông đã viết để hỏi: “Mùa Xuân Nào Ta Về?”
Có lẽ tôi cũng nhớ nhà như Duyên Anh, nhưng tôi không chịu nổi sự đợi chờ khi thời gian càng ngày càng trôi qua nhanh. Và có một Mùa Xuân tôi đã về.
Ngày tôi rời xa quê cũ không rượu, không trà, không có đuôi mắt dài nhìn theo bước chân tôi đi, không lễ tiễn đưa, không hồi còi tàu, không bịn rịn, và tôi cũng không biết tôi sẽ đi về đâu! Vì ngày ấy tôi chỉ là đứa bé ham vui bắt chim bắt cá trên đồng Sa Băng, thì bom đạn đổ xuống quê tôi. Thế mà Mùa Xuân đó tôi về, tóc đã hoa râm!
Đường dài mỏi cánh chim bay mãi rồi cũng đến lúc máy bay đáp xuống thành phố Sài Gòn. Tôi vẫn thương và muôn đời chỉ gọi là thành phố Sài Gòn mặc dù nó đã bị đổi tên! Anh tôi bảo lấy máy bay bay ra Đà Nẵng rồi lấy xe quanh ngược vào Quảng Ngãi cho lẹ và khỏe. Nhưng tôi quyết định đi bằng xe đò, vì tôi muốn được nhìn quang cảnh bên đường. Một con đường dài từ Sài Gòn về Quảng Ngãi, tôi tha hồ nhìn ngắm và ghi lại hình ảnh, vì có bao giờ tôi lại có được dịp may như ngày hôm nay. Và để đổi lấy những giây phút ngắm nhìn hình ảnh quê hương mà tôi hằng mong ước là thân tôi rả rời. Vì con đường dài và xấu. Nhưng nếu có lần thứ hai tôi vẫn không ngần ngại chọn con đường rả rời thân thể nầy!
Rả rời, bầm dập rồi cũng đến, và tôi đang đứng trên con đường đất đi vào chợ Thi Phổ một buổi sáng cuối Xuân. Tôi theo anh vào chợ mua ít nhang đèn để thắp cho mộ Cha và Bà Nội. Từ đây tôi nói anh chở tôi đi lại con đường xưa. Trong đời người có biết bao “con đường xưa”, những con đường xưa thường mang nhiều kỷ niệm đẹp, nhưng cũng có “con đường xưa” chỉ ghi dấu sự buồn phiền. Và con đường xưa hôm nay tôi đi lại là con đường mà ngày đó tôi chạy trốn!
Ra khỏi chợ Thi Phổ anh đèo tôi sau chiếc xe gắn máy anh mang theo từ Sài Gòn. Xe chạy về hướng thị xã Quảng Ngãi một chặp thì đến ngã ba Quán Lát, anh quẹo trái để về Hành Thịnh. Con đường đất đỏ ngoằn ngoèo đưa hai anh em tôi về xã Đức Thạch. Hai bên đường lúa xanh phơi phới và bên bờ mương tôi thấy chiếc xe đạp nước cổ kính của ngày xưa nằm phơi mình bên bờ ruộng. Tôi mừng quá, nói anh dừng xe lại. Tôi bước đến chiếc xe đạp nước đang được phủ kín bởi một tấm ni-lông bạc màu, tôi loay hoay nhìn kỷ như tìm kiếm một bảo vật, nhưng với tôi nó thật sự là một bảo vật. Thấy tôi như một đứa bé đang mân mê món đồ chơi, người chủ chiếc xe từ trong nhà bước ra. Tôi hỏi ông có thể cho tôi gỡ bỏ lớp áo ni-lông cũ kỷ để tôi chụp vài tấm hình, ông đồng ý, và hình ảnh chiếc xe đạp nước ngày xưa lại được theo tôi đi tận phương trời!
Tại đây anh tôi quẹo trái về Núi Đồi để chúng tôi thắp nhang cho Cha và Bà Nội, xong anh quanh xe lại chạy theo “con đường xưa tôi đi.” Một hồi sau chúng tôi đến chợ Vam. Đến đây tôi nói anh ngừng xe lại, tự dưng lòng tôi chùn xuống!
Nơi đây hơn bốn mươi năm về trước, năm 1965, gia đình tôi lừa bầy trâu chạy giặc từ xã Nghĩa Thành (nay là Hành Thịnh), chiều về Cha tôi cột bầy trâu ngoài chợ Vam trong khi cả nhà tạm cư trong nhà bà xã Thủ ở Đức Thạch. Tối xuống đàn trâu tự bức đức dây rồi một mình dẫn nhau trở về nhà. Sáng hôm sau Cha tôi lại đem gia đình trở về với bầy trâu. Ngày còn nhỏ có đôi lần tôi theo Mẹ xuống chợ Vam, nhưng lâu quá tôi không còn nhớ nhiều về ngôi chợ này. Chỉ nhớ đó là một ngôi chợ lớn có nhiều cá biển ngon như cá mòi, cá ngừ, cá chuồn, cá thu, cá hố, cá rựa, vân vân…, có bán đá cục, cà rem, quần áo đẹp, và có những đôi giày sơn-đanh (sandal) mà tụi con nít chúng tôi ngày ấy mơ có được một đôi để khoe trong ba ngày Tết. Mẹ tôi lâu lâu mới đi chợ Vam một lần, và mỗi lần được theo Mẹ đi xuống chợ Vam tôi mừng lắm.
Nhưng bãi đất và hàng cột ngày xưa Cha tôi cột đàn trâu nay không còn thấy nữa.
Tôi đứng trầm ngâm nhìn lại cảnh xưa một hồi, rồi nói anh tôi chở đi.
Một lát sau chúng tôi đến khu gò mã. Gò mã nầy ngày xưa có nhiều hàng Dương Liễu. Từ lối đi giữa mồ mã, tẻ ra một con đường mòn nhỏ để vào nhà bà xã Thủ ở Đức Thạch. Tôi lại nói anh ngừng xe lại. Nhìn những bụi xấp xôi và hàng cây bời lời hai bên đường tôi nhớ đến một buổi chiều.
Một buổi chiều cuối mùa Xuân năm 1965, khi tiếng súng tạm ngưng tôi dẫn đứa em trai, vai mang túi chanh tươi và mấy cục đường cát trắng, từ xã Nghĩa Thành xuống thăm người chị theo chồng đi lính, đang đóng quân ở quận Mộ Đức. Lúc đó xã Nghĩa Thành đã nằm dưới quyền kiểm soát của “quân giải phóng”. Việc đầu tiên “quân giải phóng” làm khi họ chiếm ngôi làng là đốn những bụi tre già nằm hai bên con đường chính trong làng, cho nằm ngỗn ngang bít lối đi chính. Tôi dẫn đứa em len lỏi trong vườn tược nhà người ta, nhìn đâu đâu cũng thấy đổ nát. Xóm làng lúc nầy nhiều người đã bỏ đi nên rất vắng lạnh. Thỉnh thoảng tôi bắt gặp vài người du kích mang AK đi trong vườn cũng đủ sợ đứng tim. Tôi đi trên đoạn đường ngắn từ thôn Ba Bình đến đập Bến Thóc mà dường như dài vô tận, tinh thần căng thẳng như đi trong vùng tử địa! Tôi rất sợ bị du kích bắt gặp, dường như ngày đó họ có một ma lực khiến cả những đứa bé như tôi cũng khiếp sợ, và dường như họ có toàn quyền sinh sát những thành phần thuộc gia đình khá dã mà họ cho là giai cấp tư bản. Khi đến sông Thoa, bên kia bờ là xã Đức Thạch quận Mộ Đức thuộc vùng kiểm soát của Quốc Gia.
Anh em tôi run và sợ, hồi hộp bước lên cầu đập Bến Thóc, cây cầu làm bằng gỗ bắc qua sông Thoa để rời khỏi vùng Cọng Sản kiểm soát. Qua bên kia sông Thoa không còn thấy hình bóng người du kích nữa. Nhưng con đường cũng không có ai đi, vắng, lạnh, và mang một màu tang thương như bãi chiến trường vừa trãi qua cơn binh biến! Đi thêm một khúc tôi đến Gò Rộng là một bãi cỏ dùng làm sân vận động, xung quanh có nhiều cây Dương Liễu. Những ngọn gió thổi xuyên qua rừng Dương tạo thành những âm thanh rì rào nghe đến não nùng!
Tại Gò Rộng nầy những ngày thanh bình tôi theo mấy người anh lớn từ xã Hành Thịnh xuống đây đá banh và đua xe đạp. Bình thường khi nghĩ tới đua xe là tôi liên tưởng đến những tay cua-rơ cắm đầu cắm cổ chạy như chạy chết. Nhưng trong cuộc đua này người thắng cuộc không phải là người chạy nhanh nhất, mà ngược lại! Anh nào chạy chậm nhất, và tất nhiên không được ngã xuống đất, cộng thêm vào đó các anh phải giữ thăng bằng và cuối người xuống đất lượm cho được chiếc mũ nĩ thì thắng cuộc. Ngày đó các anh lớn quê tôi bày những trò chơi thể thao ngược đời!
Hôm đó Gò Rộng bao trùm tử khí. Qua khỏi Gò Rộng là đến khu gò mã, lối vào nhà bà xã Thủ. Không khí nơi đây còn rùng rợn hơn, không bóng người đi, chỉ có tiếng gió rì rào của rừng Dương, và những mảnh giấy vụn gió thổi lăn lóc trên những nắm mồ. Anh em tôi bước đi trong sợ hãi. Bất chợt có tiếng la lên: “Đứng lại. Đi đâu đó.” Và liền sau tiếng la là vài ba người ôm súng phóng ra từ bựi rậm đè đầu hai anh em tôi xuống đất. Họ lục xét trong túi vải tôi mang theo rồi hỏi lại một lần nữa: “Mang ba thứ nầy đi đâu?” Tôi sợ tái mặt và run run nói: “Em mang đường và chanh xuống thăm người chị dưới quận Mộ Đức.” Họ xem xét một hồi không thấy có gì khả nghi nên thả hai anh em tôi đi. Thì ra các ông là những người lính Dân Vệ đang rình mấy ông du kích. Vậy là anh em tôi thoát khỏi cửa ải tử thần, tôi mừng vì đã thật sự đặt chân vào vùng Quốc Gia an toàn. Và hai anh em tôi đi như bay xuống ngôi làng nhỏ nằm sau Quốc Lộ 1, đối diện quận lỵ Mộ Đức.
Qua khỏi “con đường xưa tôi đi” tức từ chợ Vam đến gò mã nhà bà xã Thủ, qua Gò Rộng, đến đập Bến Thóc, thôn An Ba, Mỹ Hưng, Đồng Xuân là đến thôn Ba Bình. Tôi vui mừng như ngày mới lớn theo Mẹ đi chợ. Tôi đã về nhà! Về lại mái nhà xưa, nơi chôn nhau cắt rún!
Lâu lắm rồi tôi mới trở lại, tôi lức láo nhìn xung quanh cố tìm một vết tích quen thuộc của ngày xưa. Cổng ngọ môn vào làng bắt choàng qua đường Cái Quan nay đã mất. Dãy nhà “xóm đồng” ngày xưa vào ngày mùa lũ trẻ chúng tôi mang lúa “mót” đến đổi bánh chén bà Tài Phú giờ sao thấy xa lạ. Góc nhà anh Tạ Phi Long và bên kia là nhà ông Lộng, người thợ rèn duy nhất chuyên rèn rìu rựa cuốc xẻn cho dân làng, là con đường vào xóm nhà tôi, nay cũng không nhìn ra được! Cây cối, vết tích, nhà cửa và con đường ngày xưa nay đã khác, khác nhiều đến nỗi khó nhận ra. Tôi như người lạc đường.
Tôi nhìn vào núi, xác định Gò Đồn Gò Rú và núi Đuôi Chuột, những ngọn đồi nầy không dễ gì bị thay đổi, rồi tự kẻ trong đầu những con đường tưởng tượng nối ba đỉnh đồi trên thành khu tam giác. Tam giác này bao trùm một vùng, vùng đó là đồng Sa Băng, cánh đồng nằm ngay trước mặt làng tôi. Từ giữa cánh đồng tôi kẻ một con đường giáp chân núi Đình Cương về phía Đông, đó là con đường đi xuyên qua làng tôi, và chính xác hơn nó là con đường đi ngang qua khu nhà tôi! Từ đường Cái Quan tôi theo con đường tưởng tượng đi vào một phần ba làng, là tọa độ ngày xưa tôi u oa chào đời.
Nhưng nhà đâu?
Tôi bước chân tìm khắp nơi nhưng chẳng thấy. Lòng bồi hồi tôi nhìn người xa lạ trên mảnh đất xưa. Thấy tôi như người từ đâu mới đến, em bước lại. Tôi lượm cành cây khô, lấy tay khỏa lớp bụi đường trên mặt đất, em nhìn tôi ghi nỗi lòng lên lớp bụi đường.
Tôi theo con đường làng ra bờ sông Ba Bình. Cũng không còn như xưa. Con đường làng ngày nay nhỏ lại, bãi cát rộng lớn ngày xưa nay bị xoi mòn! Tôi đứng nhìn và hồi tưởng lại một thời nơi đây là bờ xe nước, chỗ kia là chòi xe mà nhiều đêm tôi theo Cha ra ngủ dưới đêm Hè nóng bức. Xa xa ngoài giòng sông là bờ độn xe nước chạy dài qua An Chỉ, và chỗ tôi đứng là con dốc lớn, trãi dài xuống bờ sông. Sau lưng từng là dàn máng nước chứa đầy nước sông chảy rốc rách mang vô ruộng đồng. Nơi đây những buổi trưa Hè đoàn người lớn bé và trâu bò thường ra vào: trẻ con đi tắm, người thôn nữ quay tơ trên cát, bà mẹ gìa cặm cụi cày đôi bàn chân trên những lát khoai lang khoai mì trên bãi cát nóng bỏng. Nhưng tất cả bây giờ chỉ còn lại là giòng nước ăn sâu vào bờ lởm chởm cỏ xanh. Nhìn qua bên kia bờ sông Vệ là con dốc xuống bến đò ông Đàn, ngày xưa sớm chiều chở người sang sông đi chợ chiều An Chỉ, nay đã thành cỗ tích.
Tôi quay vô làng, hầu hết những con đường ngày xưa nay đều nhỏ lại và lệch đi. Tôi nhớ ngày xưa nhà nào cũng có sân trước sân sau. Những ngày lụt lội lúa ngập chìm trong nước, người ta huy động bà con ra gặt tháo gặt để, nếu không lúa sẽ mọc thành mộng, coi như bỏ. Lúa bị ngập lụt người ta chỉ cắt ngọn lúa, bó lại thành từng bó bỏ lên ghe chở vào bờ, rồi dùng đòn xóc đâm hai đầu hai bó lúa gánh về trải đều trên sân. Sau đó dùng trâu (hay bò) cột thành chùm ba bốn con rồi một người theo sau đánh cho nó đi thành vòng tròn, dẫm lên lúa. Người đánh trâu (bò) phải cầm cái thúng để mỗi khi trâu (bò) ngõng đuôi lên là đặt cái thúng sau đít nó để hứng! Người ta dùng cây xỉa lật ngọn lúa nằm phía dưới lên cho trâu đạp, đến khi hột lúa rụng hết thì cũng dùng cây xỉa xốc rạ bỏ qua một bên và phần còn lại trên sân là hột lúa. Lúa lẫn lộn với rạ nên phải dê nhiều lần lúa mới sạch.
Cái sân ở nhà quê có nhiều công dụng như dùng để phơi lúa, phơi củ lang củ mì, đường cục, đậu, bắp, vân vân… Nói chung là dùng để phơi lúa thóc và ngũ cốc thu gặt từ ruộng đồng. Và cái sân cũng là nơi bà con giòng họ tụ tập vui chơi trong ngày giỗ, Tết nhứt. Nhưng đối với trẻ con thì cái sân và con đường làng là nơi bắn bi đánh đáo vui chơi. Và cũng nơi đây tình cảm và kỷ niệm về làng quê sẽ đi vào ký ức sau nầy. Nhưng ngày nay bước xuống cái hè là đụng đám củ mì củ lang. Có tuổi trẻ nào không gắn liền với cái sân nhà. Nhưng ngày nay mấy nhà còn có cái sân!?
Tôi trở lại thăm nhà thằng bạn cũ, ngày xưa có năm sáu thằng bạn nhưng bây giờ chỉ còn lại đây một thằng! Nó bảo
“Bao nhiêu năm rồi mầy mới trở lại, mầy muốn ăn cái gì tao sẽ đãi.”
Nhìn xung quanh cảnh nhà nó, tôi nói:
“Thôi, không cần cầu kỳ gì đâu. Mầy có món quê hương nào hông, mang ra đây nhậu chơi. Lâu rồi tao muốn ăn món đặc sản của quê mình lắm.”
“Vậy thì chuột đồng trộn mít non, mầy thấy sao?” Nó đề nghị.
Tôi liếm môi nuốt nước miếng cái ực, và trả lời nó một chữ ngắn gọn:
“Tuyệt.”
“Vậy thì tao đi hái vài trái mít non đem luột rồi xét mỏng ra, rang ít hột đậu phụng, hái ít rau răm và lá lốt là xong.”
“Còn chuột đâu, ai đi bắt?” Tôi hỏi.
“Mầy khỏi lo.” Nó quay vào nhà trong và gọi:
“Út đâu ra đây nhờ chút coi.”
“Dạ.” Cô gái miệng nhai nhỏm nhẻm đứng bên cửa nhà bếp nói ra.
“Em ra đồng bắt cho anh mấy con chuột mang về đây.”
Cô gái không trả lời, đi thẳng ra sau nhà lấy cây gậy, xong nhìn tôi cô nhoẻn miệng cười một cái, cô bước xuống hè và búng hai ngón tay ngoắt con chó chạy theo. Xéo một phút cô gái và con chó đã đi hút ngoài xa.
Tôi nói thằng bạn:
“Chỉ một mình em mầy mà là con gái mà bắt được chuột à?”
“Nghề của nó đó, mầy đừng coi thường con gái ngày nay.”
“Hay để tao đi bắt chuột với em mầy nhe, lâu rồi tao cũng muốn đi bắt chuột như ngày xưa cho vui.”
Không đợi thằng bạn trả lời, tồi liền phóng chân bước theo cô gái.
“Ông ra đây làm gì?”
“Phụ bắt chuột với em.”
“Làm sao ông bắt được chuột?”
Nhìn lại trên tay tôi không có vật gì để bắt chuột, mà chuột lại hay cắn mỗi khi bắt nó. Tôi chưng hửng đứng nhìn cô gái, hóa ra tôi chỉ theo làm bận chân cô.
“Chắc em bắt chuột giỏi lắm hả, em tên gì?”
“Mi.”
“Mi là mèo đó hả, mà mèo thì bắt chuột giỏi là đúng rồi.”
“Ông sai rồi, mèo lười bắt chuột lắm. Nó chỉ bắt khi nào thấy đói, còn không thì nó nằm yên một chỗ liếm lông thôi, nên ông không thấy em mang con mèo mà em mang con chó theo đó. Nhưng tên em là Mi như nốt thứ ba trên khung nhạc đó, anh kế em tên là Rê.”
Cô gái dẫn con chó ra mé ruộng sâu đồng Sa Băng. Cô bắt đầu đi tìm trên bờ ruộng, những nơi nào có hang là cô cuối xuống nhìn. Cô biết hang nào không có “dân cư” trong đó và cô cũng biết hang nào của rắn và hang nào của chuột. Cô giải thích:
“Cửa hang nào có dấu chấm lốm đốm là hang chuột, còn cửa hang nào trông bóng láng là hang rắn.”
“Có khi nào em đào lộn hang rắn không?”
“Ông sợ rắn lắm phải hông? Cũng có nhưng chỉ khi nào rắn vào bắt chuột trước mình và còn nằm lại trong đó.”
“Lạy Trời chuyện đó không xảy ra hôm nay.” Tôi nguyện cầu.
“Ông đừng lạy Trời mà ông nên lạy em đây nề.”
“Là sao?”
“Là chỉ có em mới cứu ông khỏi bị rắn cắn thôi. Mà sao ông về đây chỉ có một mình và khi nào ông lại ra đi?”
“Anh về đây với người anh.”
“Ý em hỏi không phải như vậy.”
“À, thì anh chỉ có một mình nên chỉ đi một mình.”
“Nói chứ em biết ông rồi. Ông về đây thấy buồn hơn vui phải hông?”
“Sao em biết?”
“Thì ông đề bài thơ nỗi lòng của ông còn trên bụi đường đó. Thôi để em bắt chuột mang về cho anh em đãi ông. Ông nhớ nếu gặp rắn thì đứng yên một chỗ đừng nhúc nhích. Ông muốn xua nó đi thì đưa mu bàn tay ra, ểnh ểnh mu lên rồi hất hất mấy ngón tay về phía trước. Còn ông muốn cầu cứu em thì cũng đưa mua bàn tay ra, ểnh ểnh mu cong lên rồi ngoắt ngoắt mấy ngón tay lại, đừng gây tiếng động rắn nó tấn công.”
“Ừ, anh sẽ nhớ.”
Cô quơ lấy một mớ cỏ, khô có ướt có, rồi nhúm lửa đốt trước miệng hang chuột. Cô lấy nón lá quạt khói cho bay vào hang, ở ngách hang khác cô cho con chó đứng chờ. Lửa càng lớn khói càng nhiều và khói chun vào mọi hang cùng ngõ hẻm nhà chuột. Chịu không nổi chuột chạy ra, một phần bị chó chụp, một phần cô gái dùng gậy phan. Cô phan rất giỏi, không con chuột nào thoát khỏi tay cô, chỉ một nhát thôi là con chuột nằm ngay đơ. Một con chuột chạy ra ở ngách khác, tôi liền nhảy đến chụp. Bị con chuột nó cắn một nhát, đau quá tôi buông ra. Cô gái nhảy đến đập nó một cái, nó chưa chết và đứng đó. Cô gái bảo tôi bắt nó bỏ vô đụt, tôi nhảy đến chụp, lại hụt, con chuột bò đi. Thấy con chuột bỏ đi, cô gái nhìn con chó rồi chỉ tay về phía tôi, quát lớn:
“Ngốc, ngốc, chạy lẹ đi bắt nó.”
Tôi bỏ cô gái ở lại một mình. Tôi đi về. Tôi giận lắm.
Hôm đó tôi nhậu chuột đồng trộn mít non với thằng bạn lâu ngày không gặp. Món nhậu ngon, rượu ngọt, tôi uống say mềm và muốn quên đi tất cả. Trong cơn say ngà ngà tôi hỏi thằng bạn:
“Em gái mi coi bộ ngông quá hả?”
“Ừ, nó ngông lắm. Mầy mà nghe nó đặt tên mấy con mèo của nó mầy cũng phải ớn, như Mai Thanh Tặc, Chu Như Tố, vân vân ... Tính nó ngông và cứng rắn lắm, nhưng hông phải lúc nào cũng vậy đâu. Những chuyện đụng đến con tim là nó mít ướt.”
“Mấy tên trên đây mang ý nghĩa gì?”
“Tao đâu có biết, nghe nó giải thích đại khái như heo mèo dê là ba con hợp nhau tức là tam hạp đó, mà con mèo nào suốt ngày ngồi vuốt bộ lông làm đẹp thì nó đặt tên là Chu Như Tố, Chu là họ nhà Trương Bát Giới đó.”
“Còn Mai Thanh Tặc là gì?”
“Ừ, thì nó nói Mai là mộc mà mèo hay mão thuộc hành mộc, còn Tắc là ba cái ngũ cốc nó đựng trong phòng nó. Con mèo nào chuyên môn leo trèo lên tủ lục lội phá phách đồ ăn của nó là nó đặt tên Mai Thanh Tặc, Tặc là giọng Huế của Tắc đó.”
“Tao nghe hay chứ có gì đâu mà ớn.”
“Ðó là chuyện của mèo, còn chó thì khác nhe mậy.”
Sáng hôm sau tôi đến từ giả thằng bạn. Khi bước ra khỏi ngõ, tôi quay đầu nhìn lại thì thấy Mi đưa tay lên vẫy tôi lại. Tôi trở lại.
“Em kêu tôi lại để nói gì tôi nữa?”
“Không có, em vẫy tay chào ông đi khỏe mạnh chứ có kêu ông lại đâu.”
“Sao tôi thấy em đưa mu bàn tay ra, ểnh ểnh mấy cái rồi ngoắt ngoắt lại.”
“Không có, cái đó là em kêu con Ngốc lại cho nó ăn. Ngốc là tên con chó em mang ra đồng Sa Băng bắt chuột cho ông hôm qua đó. Thôi, ông đi lẹ đi, không em khóc bây giờ.”
Tôi bước đi mà lòng ấm lại!


Đồng Sa Băng

Hansy
18-10-2014, 04:28 AM
67.

ĐÊM THỊ DÂN

Trương Thái Du

Lại một tối thứ bảy quái quỉ. Căn nhà mênh mông trở thành quá hẹp, chẳng chỗ nào hắn có thể ngồi nóng chỗ. Bật nhạc. Nhạt quá - tắt. Ti vi… không có gì mới. Điểm danh trong đầu những số điện thoại bè bạn. Một người, hai người không có nhà. Người thứ ba… đến hồi chuông tiếp theo thì hắn vội vàng cúp máy. Hắn tìm báo đọc. Những con chữ nhảy nhót. Chán, hắn thay vội quần áo, dẫn xe ra khỏi nhà. Đây đó trai gái từng cặp tung tẩy đi vào đêm cuối tuần. “Hừmm hạnh phúc nhỉ!”. Hắn đang ghen với thiên hạ. Cũng lạ, thấy mà thèm nhưng làm như họ thì hắn ngấy.
Chẳng tự biết mình đang muốn gì nữa, hắn bỗng thích chở một em thật xinh chạy lòng vòng rồi tắp vào quán cà phê nhạc bất kỳ, hoang phí thêm một tối không mục đích. Ít ra hắn sẽ là một kẻ hạnh phúc trong mắt mọi người. Tạm gọi là hạnh phúc mỏng manh hay sự lừa dối ngọt ngào. Ừ… có mấy ông nhà văn đã từng dẫn gái ăn sương về nhà để… ngắm và cao ngạo dạy đời đó thôi. Một ý tưởng loé lên. Hắn sẽ thử đảo qua vài cái chợ người tìm một cô ít son phấn rẻ tiền nhất. Tân Cảng ư? Chịu! Mấy lần có việc dừng bất chợt nơi ấy, cả một rừng hoa ngồi trên xe ôm xúm lại, hắn đã phát hoảng. Chỉ sợ người quen bắt gặp thì xấu mặt. Trước sở thú hay Huyền Trân công chúa cũng vậy thôi. Ma cô nhiều hơn thịt sống.
Chiếc xe rề rề theo những do dự và bắt đầu lên dốc cầu Sài Gòn. À chỗ này chắc hợp với tính nhát gan cố hữu trước đám đông của hắn. Đã thấy một vài cô đứng cách nhau xa xa, trông rất lành. "Coi chừng lầm mà bị chửi" hắn thầm nghĩ nhưng vẫn tắp vào. Chẳng có chút đon đả nào cả. Nhưng ánh mắt thì như van xin. Cô gái đẹp nhưng phấn son nhòe nhoẹt. Sự non tơ còn ấm trong điệu bộ.
- Hết đêm bao nhiêu em?
- Ba trăm ngàn, phòng anh lo.
- Chuyện nhỏ, em sẽ có năm trăm nhưng chỉ ngồi sau xe anh, ôm eo chặt và thật tình tứ tới lúc anh chán. Em biết thế nào là một tối thứ bảy hạnh phúc chưa?
- Là có khách sộp như anh vậy.
- Lên xe đi, anh sắp muối mặt ở đây rồi nè.
- Đưa tiền trước em gởi má đã.
- Hai trăm là cho thêm, còn giá gốc sẽ được thanh toán sau khi đi chơi về - Hắn nhón bốn tờ năm mươi ngàn giữa cục tiền dầy, một cách cố ý.
Không đầy tích tắc, chiếc xe rú ga lao vào thành phố. Một cặp không đến nỗi tệ của đêm Sài Gòn náo nhiệt. Thậm chí thỉnh thoảng hắn còn hất mặt lên trong vài ánh nhìn ghen tị đâu đó. Giả sử mười người nhìn, chia đều, mỗi lần giá trị năm mươi ngàn, tính cả tiền boa… rẻ chán!
Người đâu ra lắm thế. Đường đặc kín xe. Ai đó cho rằng mốt là một phần không thể thiếu của xã hội văn minh. Nhưng hình như chỉ có những nhãn hiệu đắt tiền được quảng cáo trên báo chí, truyền hình và khoe mẽ trong các câu chuyện bất tận của mọi người là thấp thoáng gợi cho ta về mốt, còn thứ bày ra trước mắt hắn giờ này lại là chân, tay, mông, đùi, ngực, rốn, vai, lưng … ngồn ngộn phát chán.
Cái từ đi chơi thế mà đa nghĩa. Chơi là tăng hết ga, lạng lách phóng thẳng ra xa lộ. Chơi là vô tư đậu xe dọc lề đường, dựng chống ngồi âu yếm nhau. Chơi là điên cuồng trong những vũ điệu chỉ thấy toàn là nhịp, lạnh lùng, vô cảm. Chơi là trốn chạy tiếng ồn ngoài phố để chút chít góc tối rì rì máy lạnh, bên hai ly nước chưa vơi một nửa. Chơi là ngả nghiêng hẳn một con phố đầy quán nhậu, điểm tô bằng đủ các đồng phục tiếp thị bia rượu, thuốc lá bắt mắt. Chơi là vắt chân lên chiếc ghế quán rượu cao quá khổ, thả khói mộng mị, lép nhép theo loa mấy bài hát tiếng Tây tiếng U. Chơi là chui nhủi góc công viên, cà phê đèn mờ, xé giấy bạc, đốt và hít. Chơi là bò toài trên bàn bida đo niềm vui cạnh mấy nàng xếp bi bụ bẫm, áo trễ ngực. Chơi là ì xèo cò kè thêm một bớt hai, mắt xanh mỏ đỏ khắp phố. Chơi là loạng choạng bước ra khỏi nhà hàng đặc sản máy lạnh, kháo nhau tập hai tập ba, quên đường về. Chơi là thi nhau hét đến khản cổ với cái máy chấm điểm chỉ biết đo âm lượng lớn nhỏ… Kể ra đây thì tới mai cũng chưa hết, mà hắn cũng đang đi chơi mà. Nên quay lại với cuộc chơi vừa khởi sự.
Chẳng hỏi han nhau lấy một câu. Hắn như mộng du trong cái ôm eo chặt cứng của người đẹp. Dạo quanh một vòng trung tâm. Cuối cùng hắn vứt vội chiếc xe cho cậu bảo vệ hay quên trả tiền thừa cho khách, tót lên cà phê Landmark tận lầu 16. Gió lạnh và mạnh. Hắn gọi hai ly nước, ngồi sát, quàng vai cô gái và đăm chiêu nhìn xuống đường.
Chỉ cách một ngang sông mà hai phần của thành phố như hai thế giới hoàn toàn khác biệt. Mấy chiếc phà, hai đèn mạn xanh đỏ cứ lầm lũi qua lại. Bao nhiêu con người đang vật lộn với cuộc sống bằng những con thuyền nho nhỏ quanh đó. Tiếng máy nén khí trong xưởng Bason xả van an toàn thỉnh thoảng lại xào lên. Khoảng nhỏ lầm bụi, ẩn hiện chiếc nón bảo hộ lao động. Chắc mấy người công nhân ca đêm đang phun cát làm sạch thân tàu dưới ụ. Vài đứa trẻ đánh giày, bán vé số tụ họp nơi góc tường vắng chẳng biết làm gì, chỉ nghe chí chóe giọng kim vẳng lên. Hàng đoàn xe tải ì ạch nối đuôi nhau khói mù đất. Mươi chiếc xe đạp, lưng áo xanh ngành may mặc đan vào dòng người chật vật, chẳng rõ về ca muộn hay đi ca khuya nữa. Họ bao giờ mà chẳng lừ đừ mất ngủ. Xéo xéo, góc khách sạn nổi cũ, ánh đèn pin mời mọc vạch nháo nhào khi có người rà qua.
Sự nhẫn nhục của cô gái đã tới giới hạn. Cô cắt ngang dòng suy nghĩ của hắn bằng cách hất cánh tay sắp tê cứng của hắn ra khỏi cô.
- Anh làm cái trò gì vậy. Như một kẻ tâm thần không hơn không kém.
- Xin lỗi nhưng chúng ta đã thỏa thuận rồi mà.
- Tiền với tôi quan trọng thật nhưng đừng quá coi rẻ một con người như vậy.
- Chà cái gì nữa đây?
Hắn giật mình. Cô gái kéo ghế ra xa, hai khuôn mặt đối diện nhau.
- Nói thật, tôi đã đang và sẽ bán thể xác mình như một cách mưu sinh. Nhưng chưa bao giờ tôi bán sự khinh bỉ. Cái cách anh im lặng mà vẩn vơ còn hơn thế nữa.
- Em nói chuyện nho nhỏ một chút .
- Anh có lòng tự trọng hơi cao đó.
Cô gái lườm hắn một cái rồi hất mái tóc ra vẻ bất cần. Đằng sau sự ngây thơ còn đọng lại trên cái tuổi đôi mươi hình như là nỗi trầm luân.
- Người như em đâu phải khó kiếm một anh chồng đủ khả năng bảo bọc suốt cuộc đời.
- Đàn ông ư… tên nào cũng tệ như anh cả.
- Em không phải là người đầu tiên có nhận xét đó. Em tên gì và bao nhiêu tuổi rồi.
- Em 21 tuổi, xóm liều vẫn gọi là Mimi. Anh có thích nghe bài ca về số phận nàng Kiều tiếp theo không?
- À, anh thuộc lâu rồi. Cái kiểu nói chuyện của em không giống một cô bé chưa học hết phổ thông.
- Anh thì có sự láu cá đằng sau tấm bằng khoe mẽ nào đấy là cái chắc.
- Hãy kể chuyện của em nghe chơi đi.
- Chẳng tác dụng gì đâu. Anh là người thích nói ra những gì anh suy tư, đơn giản là cho nhẹ lòng. Do đó anh chỉ nói với những người không biết anh là ai. Tóm lại là vô hại.
- Con mắt em rất tốt. Thêm cặp kiếng sẽ thành trí thức.
- Vòng vo hoài. Sao hôm nay anh một mình?
- Một mình tròn tháng rồi.
- Tin được. Anh không chịu nổi cô đơn hơn thế đâu. Hai mối tình gần đây nhất của anh như thế nào?
- Tiêu chuẩn của một mối tình, theo em là gì?
- Hãy bắt chước những thanh niên mới lớn, nghĩa là đi chơi một hai lần một tuần và hôn nhau.
- Em vật chất hóa nghe lợm giọng lắm.
- Chính anh đang dùng vật chất mua một tối thứ bẩy để nuôi cái sở thích ngông cuồng của anh đấy thôi.
°°°
- Nhà anh đây hả.
- Không nhà mướn thôi. À à…, quen miệng rồi. Với em thì đâu cần giấu. Nhà của anh.
- Nhức đầu.
- Thôi em vô phòng trong, ngủ đi là tốt nhất. Đêm nay anh sẽ thức viết truyện ngắn.
- Anh thích sống theo hư cấu nhà văn nhỉ.
- Anh không bao giờ có ý định thành nhà văn. Đơn giản là viết những gì thấy thích. Nhưng trong sâu thẳm lòng mình anh luôn ao ước sẽ gặp một bông hoa dại thật đẹp trong trò chơi này. Anh ghét trò nhân giống hoa.
- Em đang muốn tôn trọng anh.
- Năm giờ sáng mai anh gọi em dậy. Em ra cửa sau, đi taxi ở đầu phố về.
- Khu này cũng vắng vẻ, anh làm gì mà sợ chết khiếp lên vậy.
- Khi mặt trời lên. Đó là cuộc sống đầy nghiệt ngã.
Hắn nhẹ đẩy cô gái vào buồng ngủ của mình. Câu chuyện bị cắt đứt bởi cánh cửa gỗ cách âm rất tốt. Lúc bốn giờ ba mươi sáng hắn đã cơ bản hoàn thành một truyện ngắn khá vừa ý.
Bốp… Cái tát trời giáng - Một bầu trời sao trùm quanh người hắn.
- Em làm quái gì đấy? Hắn tuyệt vọng hét to, quên cả nhóm người cuối xóm đi tập thể dục mới thấp thoáng ngoài cửa sổ.
- Tôi không ngủ được. Tôi trừng phạt kẻ làm mình trằn trọc. Tôi đã liếm vết thương suốt đêm.
- Đồ điên! Cút… Vừa rủa, hắn vừa nháo nhào tìm chìa khóa cửa sau.
- Nè, còn ba trăm - Hắn nói với theo bước chân cô gái.
Cô gái dứt khoát bỏ chạy, cứ như sợ giọng hắn đuổi theo trói chặt mình. Hắn văng tục rồi quay vào nhà. Thay xong vải trải giường và áo gối, hắn đảo mắt một vòng xem nàng ăn sương nọ có táy máy gì không. Chiếc đồng hồ đeo tay hiệu Longines còn nguyên dưới chao đèn ngủ.
Chim sẻ bắt đầu chuyền cành, ríu rít trên tán mận trước sân. Tất nhiên hắn đang mệt. Hắn sẽ ngủ bù, chứ không phải cố gắng trốn khỏi buổi sáng chủ nhật thanh khiết.


Trương Thái Du