Nắng Xuân
01-01-2015, 03:35 PM
ĐỌC BÀI THƠ “TỨ ĐẠI ĐỒNG ĐƯỜNG”
CỦA CHỊ NGUYỄN THANH LAN
Đọc bài thơ “TỨ ĐẠI ĐỒNG ĐƯỜNG” của chị Nguyễn Thanh Lan, cảm xúc đầu tiên của tôi là ngưỡng mộ. Một bà, một mẹ sống hòa thuận cùng hai đời cháu chắt. Đó là lý do tại sao tôi họa nương vận dù biết là bộ vần của chị viết không hề dễ xơi. Chị Nguyễn Thanh Lan cũng là người bạn tri kỷ về thơ ĐL mà tôi mến mộ ngay từ những ngày đầu thành lập CLB (nay là Chi hội) thơ Đường luật TPCT (2005).
Hãy lắng nghe tiếng reo vui thỏa mãn của hạnh phúc xen lẫn niềm tự hào trong hai câu mở đề của chị: “Tứ đại đồng đường quý biết bao/ Một nhà đông đúc thấy vui sao”. Thật vậy! Hạnh phúc của người già là thấy con cháu quây quần, hòa thuận, hạnh phúc của mẹ cha là nhìn thấy cháu con thành đạt. Không phải chị nắm bắt được mà chính chị sống trong niềm hạnh phúc ấy và không thể không bật ra thành tứ thơ hay.
“Gia đình là tế bào của xã hội”, gia đình hạnh phúc góp phần cho xã hội phồn vinh nên việc nuôi dạy con là một thiên chức nhưng đồng thời cũng là nhiệm vụ của lớp người đi trước: “Dạy con – Mẹ cất lời êm ái/ Dỗ chắt – Cụ ru giấc ngọt ngào”. Đẹp làm sao tấm lòng những người mẹ, người chị, đại biểu xứng đáng cho những người phụ nữ VN “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” suốt đời vất vả, siêng năng việc đời, việc nhà, chăm sóc cho chồng, cho con rồi đến khi tuổi già bóng xế vẫn tiếp tục chăm lo cho cháu chắt. Chị đã mượn những hình ảnh thực tiễn trong cuộc sống để đưa vào cặp câu THỰC của mình. Hãy hiểu DẠY DỖ của chị theo nghĩa rộng mới thấy sự chắt lọc ngôn từ của nhà thơ tinh tế thế nào! Tuy nhiên, nếu thay GIẤC bằng Ý trong câu 4 sẽ chỉnh đối hơn về quan hệ từ tương ứng trong câu (LỜI của MẸ, nhưng GIẤC lại của CHẮT).
Dù không còn khỏe, không đủ sức lực sung mãn để đỡ đần con cháu mãi, nhưng kinh nghiệm sống của bà, của mẹ cha quyện vào với nền nếp văn hóa truyền thống chính là những kho sách quý (ân đức) dành cho đời sau vận dụng và tiếp nối: “Chỉ lối soi đường, ân đức đậm”
Ngược lại, cùng với sự kính trọng, lòng biết ơn, lớp trẻ đang thể hiện lòng hiếu đễ, đền ơn sinh thành, dưỡng dục: “Dâng cơm dìu bước, nghĩa tình cao”. Tôi không cho chữ “CAO” chị Nguyễn Thanh Lan dùng ở đây là phù hợp và chí ít cũng không rõ ràng là dùng cho ai ở câu này? Theo tôi có thể viết: “Chỉ lối soi đường, ân đức vọng/ Dâng cơm dìu bước, nghĩa tình trao” sẽ thoát nghĩa hơn và đồng thời tránh bệnh thượng vỹ khi 5 câu có hậu tố là tính từ (3, 4, 5, 6, 7). Nhưng dù muốn dù không, người đọc vẫn hiểu được phần LUẬN chị muốn nói đến ân đức của mẹ cha và ơn đền nghĩa trả của con cháu. Chị không cần viết “trên kính, dưới nhường” cũng không có từ nào đả động đến cụm từ “nương dựa” nhưng qua tứ thơ mộc mạc người đọc vẫn thấy nề nếp gia phong thấp thoáng đâu đây.
Điều tôi vừa nhắc đến càng được khẳng định rõ ràng trong câu tiếp theo: “ Đầu xanh hớn hở bên đầu bạc”. Niềm vui quấn quýt của bốn thế hệ khéo léo thể hiện trong hai chữ “hớn hở” và phép tiểu đối XANH và BẠC ở câu 7 như cái nhịp dẫn để câu 8 vươn lên, bay cao hơn “Ngũ đại đồng đường, vẫn ước ao!”. Thật tuyệt vời ! Lối điệp ngữ không hề làm hẹp ý thơ mà sảng khoái như một tất yếu. “Ngũ” ở đây không đơn thuần là một mơ ước mà nó thật sự là nỗi khát vọng cháy bỏng, không chỉ là sự vui vầy đông đúc, đầm ấm theo quy luật phát triển mà nó còn là nguyện vọng muốn bà (mẹ của chị) sống lâu hơn để hưởng phúc của đời và để con cháu được đền ơn đáp nghĩa. Đây chính là điểm sáng, là dấu ấn riêng trong tác phẩm của chị Nguyễn Thanh Lan.
Về nghệ thuật, bài thơ không trau chuốt, cầu kỳ, nhưng chính vì vậy nó lại chân thành và lắng đọng. Bố cục chắc, đối khá chỉnh, ngoại trừ quan hệ từ trong cặp THỰC chưa cân thì phép đối được tuân thủ nghiêm ngặt, đặc biệt cặp KẾT rất sâu. Nhược điểm chính đáng chú ý là bộ vần 4 chữ không dấu mà chỉ có một dấu huyền. Ngoài ra, chữ ƯỚC AO chết vận và NGỌT NGÀO (chữ cuối là hư tự) chỉ có một lựa chọn khác có nghĩa là NGẠT NGÀO; BAO và SAO là thán từ (nên khó cho bạn thơ nếu muốn họa).
Cám ơn chị rất nhiều về tứ thơ độc đáo mang giá trị thông điệp sống giàu ý nghĩa này. Chúc chị ngày càng có nhiều tác phẩm hay.
Cần Thơ, ngày 13.12.2014
Nguyễn Thanh Toàn
TỨ ĐẠI ĐỒNG ĐƯỜNG
Tứ đại đồng đường quý biết bao
Một nhà đông đúc thấy vui sao
Dạy con – Mẹ cất lời êm ái
Dỗ chắt – Cụ ru giấc ngọt ngào
Chỉ lối soi đường, ân đức đậm
Dâng cơm dìu bước, nghĩa tình cao
Đầu xanh hớn hở bên đầu bạc
Ngũ đại đồng đường, vẫn ước ao.
Nguyễn Thanh Lan
Bài họa nương vận:
BỐN THẾ HỆ SUM VẦY
Tứ đại quây quần thỏa mãn sao
Êm đềm quả phúc đẹp dường bao
Chồi nương cội cả luôn đầm ấm
Bóng tỏa mầm xuân vẫn ngạt ngào
Nghĩa lý ân cần xuôi biển rộng
Tâm hồn nhã nhặn vút trời cao
Niềm tin hứa hẹn vun bồi mãi
Ngưỡng mộ xa gần phải khát khao.
Nguyễn Thanh Toàn
CỦA CHỊ NGUYỄN THANH LAN
Đọc bài thơ “TỨ ĐẠI ĐỒNG ĐƯỜNG” của chị Nguyễn Thanh Lan, cảm xúc đầu tiên của tôi là ngưỡng mộ. Một bà, một mẹ sống hòa thuận cùng hai đời cháu chắt. Đó là lý do tại sao tôi họa nương vận dù biết là bộ vần của chị viết không hề dễ xơi. Chị Nguyễn Thanh Lan cũng là người bạn tri kỷ về thơ ĐL mà tôi mến mộ ngay từ những ngày đầu thành lập CLB (nay là Chi hội) thơ Đường luật TPCT (2005).
Hãy lắng nghe tiếng reo vui thỏa mãn của hạnh phúc xen lẫn niềm tự hào trong hai câu mở đề của chị: “Tứ đại đồng đường quý biết bao/ Một nhà đông đúc thấy vui sao”. Thật vậy! Hạnh phúc của người già là thấy con cháu quây quần, hòa thuận, hạnh phúc của mẹ cha là nhìn thấy cháu con thành đạt. Không phải chị nắm bắt được mà chính chị sống trong niềm hạnh phúc ấy và không thể không bật ra thành tứ thơ hay.
“Gia đình là tế bào của xã hội”, gia đình hạnh phúc góp phần cho xã hội phồn vinh nên việc nuôi dạy con là một thiên chức nhưng đồng thời cũng là nhiệm vụ của lớp người đi trước: “Dạy con – Mẹ cất lời êm ái/ Dỗ chắt – Cụ ru giấc ngọt ngào”. Đẹp làm sao tấm lòng những người mẹ, người chị, đại biểu xứng đáng cho những người phụ nữ VN “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” suốt đời vất vả, siêng năng việc đời, việc nhà, chăm sóc cho chồng, cho con rồi đến khi tuổi già bóng xế vẫn tiếp tục chăm lo cho cháu chắt. Chị đã mượn những hình ảnh thực tiễn trong cuộc sống để đưa vào cặp câu THỰC của mình. Hãy hiểu DẠY DỖ của chị theo nghĩa rộng mới thấy sự chắt lọc ngôn từ của nhà thơ tinh tế thế nào! Tuy nhiên, nếu thay GIẤC bằng Ý trong câu 4 sẽ chỉnh đối hơn về quan hệ từ tương ứng trong câu (LỜI của MẸ, nhưng GIẤC lại của CHẮT).
Dù không còn khỏe, không đủ sức lực sung mãn để đỡ đần con cháu mãi, nhưng kinh nghiệm sống của bà, của mẹ cha quyện vào với nền nếp văn hóa truyền thống chính là những kho sách quý (ân đức) dành cho đời sau vận dụng và tiếp nối: “Chỉ lối soi đường, ân đức đậm”
Ngược lại, cùng với sự kính trọng, lòng biết ơn, lớp trẻ đang thể hiện lòng hiếu đễ, đền ơn sinh thành, dưỡng dục: “Dâng cơm dìu bước, nghĩa tình cao”. Tôi không cho chữ “CAO” chị Nguyễn Thanh Lan dùng ở đây là phù hợp và chí ít cũng không rõ ràng là dùng cho ai ở câu này? Theo tôi có thể viết: “Chỉ lối soi đường, ân đức vọng/ Dâng cơm dìu bước, nghĩa tình trao” sẽ thoát nghĩa hơn và đồng thời tránh bệnh thượng vỹ khi 5 câu có hậu tố là tính từ (3, 4, 5, 6, 7). Nhưng dù muốn dù không, người đọc vẫn hiểu được phần LUẬN chị muốn nói đến ân đức của mẹ cha và ơn đền nghĩa trả của con cháu. Chị không cần viết “trên kính, dưới nhường” cũng không có từ nào đả động đến cụm từ “nương dựa” nhưng qua tứ thơ mộc mạc người đọc vẫn thấy nề nếp gia phong thấp thoáng đâu đây.
Điều tôi vừa nhắc đến càng được khẳng định rõ ràng trong câu tiếp theo: “ Đầu xanh hớn hở bên đầu bạc”. Niềm vui quấn quýt của bốn thế hệ khéo léo thể hiện trong hai chữ “hớn hở” và phép tiểu đối XANH và BẠC ở câu 7 như cái nhịp dẫn để câu 8 vươn lên, bay cao hơn “Ngũ đại đồng đường, vẫn ước ao!”. Thật tuyệt vời ! Lối điệp ngữ không hề làm hẹp ý thơ mà sảng khoái như một tất yếu. “Ngũ” ở đây không đơn thuần là một mơ ước mà nó thật sự là nỗi khát vọng cháy bỏng, không chỉ là sự vui vầy đông đúc, đầm ấm theo quy luật phát triển mà nó còn là nguyện vọng muốn bà (mẹ của chị) sống lâu hơn để hưởng phúc của đời và để con cháu được đền ơn đáp nghĩa. Đây chính là điểm sáng, là dấu ấn riêng trong tác phẩm của chị Nguyễn Thanh Lan.
Về nghệ thuật, bài thơ không trau chuốt, cầu kỳ, nhưng chính vì vậy nó lại chân thành và lắng đọng. Bố cục chắc, đối khá chỉnh, ngoại trừ quan hệ từ trong cặp THỰC chưa cân thì phép đối được tuân thủ nghiêm ngặt, đặc biệt cặp KẾT rất sâu. Nhược điểm chính đáng chú ý là bộ vần 4 chữ không dấu mà chỉ có một dấu huyền. Ngoài ra, chữ ƯỚC AO chết vận và NGỌT NGÀO (chữ cuối là hư tự) chỉ có một lựa chọn khác có nghĩa là NGẠT NGÀO; BAO và SAO là thán từ (nên khó cho bạn thơ nếu muốn họa).
Cám ơn chị rất nhiều về tứ thơ độc đáo mang giá trị thông điệp sống giàu ý nghĩa này. Chúc chị ngày càng có nhiều tác phẩm hay.
Cần Thơ, ngày 13.12.2014
Nguyễn Thanh Toàn
TỨ ĐẠI ĐỒNG ĐƯỜNG
Tứ đại đồng đường quý biết bao
Một nhà đông đúc thấy vui sao
Dạy con – Mẹ cất lời êm ái
Dỗ chắt – Cụ ru giấc ngọt ngào
Chỉ lối soi đường, ân đức đậm
Dâng cơm dìu bước, nghĩa tình cao
Đầu xanh hớn hở bên đầu bạc
Ngũ đại đồng đường, vẫn ước ao.
Nguyễn Thanh Lan
Bài họa nương vận:
BỐN THẾ HỆ SUM VẦY
Tứ đại quây quần thỏa mãn sao
Êm đềm quả phúc đẹp dường bao
Chồi nương cội cả luôn đầm ấm
Bóng tỏa mầm xuân vẫn ngạt ngào
Nghĩa lý ân cần xuôi biển rộng
Tâm hồn nhã nhặn vút trời cao
Niềm tin hứa hẹn vun bồi mãi
Ngưỡng mộ xa gần phải khát khao.
Nguyễn Thanh Toàn