PDA

Xem phiên bản đầy đủ : THU HỨNG - ĐỖ PHỦ



VỀ MIỀN TRUNG
20-06-2017, 06:56 AM
秋 興
其 三

千 家 山 郭 靜 朝 暉
日 日 江 樓 坐 翠 微
信 宿 漁 人 還 汎 汎
清 秋 燕 子 故 飛 飛
匡 衡 抗 疏 功 名 薄
劉 向 傅 經 心 事 違
同 學 少 年 多 不 賤
五 陵 裘 馬 自 輕 肥

杜 甫

Thu Hứng kỳ tam

Thiên gian sơn quách tĩnh triêu huy
Nhật nhật giang lâu tọa thúy vi
Tín túc ngư nhân hoàn phiếm phiến
Thanh thu yến tử cố phi phi
Khuông Hành kháng sớ công danh bạc
Lưu Hướng truyền kinh tâm sự vi
Đồng học thiếu niên đa bất tiện
Ngũ Lăng cừu mã tự khinh phì

Đỗ Phủ

Một vài vấn nghi qua bài thơ Thu Hứng của Đỗ Phủ.
I. Lâu nay các dịch giả đi trước đều dịch chữ “Tín túc” là về đêm, đêm khuya, ban tối… Tôi tìm hiểu qua từ điển thì thấy:
宿 túc, tú
sù, xiǔ, xiù
*(Danh) Chỗ nghỉ ngơi, nơi trú ngụ. ◎Như: túc xá 宿舍 nhà trọ. ◇Chu Lễ 周禮: Tam thập lí hữu túc, túc hữu lộ thất 三十里有宿, 宿有路室 (Địa quan 地官, Di nhân 遺人) Ba mươi dặm có chỗ trú ngụ, chỗ trú ngụ có nhà khách.
II. Chữ Ngũ Lăng trong nguyên tác thường được giữ nguyên và dịch là xứ Ngũ Lăng. Theo từ điển tiếng Việt thì:
Ngũ Lăng
Một vùng đất phía Tây kinh thành Tràng An, các đời Hán, Đường, ở đó có lăng mộ 5 vua Hán, về sau vùng này tập trung nhiều quan lại quý tộc cấp cao. "Ngũ lăng niên thiếu" chỉ bọn con nhà quyền quý, giàu sang
VMT mạn phép lược dịch như sau:

THU HỨNG (3)

Nhà giăng phố núi buổi mai hồng
Khói quyện qua lầu tự mé sông
Bến cũ chèo đưa thuyền lãng mạn
Trời thu yến lượn cánh phiêu bồng
Khuông Hành sớ gởi danh càng lụn
Lưu Hướng kinh bày đạo chửa thông
Gặp bạn năm nào sao khó nhỉ
Giàu sang áo gấm cỡi xe rồng

VMT phỏng dịch – 20/06/2017

huyba
20-08-2019, 09:09 PM
@Đã lâu không dịch Đường thi. Tình cờ qua trang này thấy bài FULL MOON của DU FU, tra cứu mới biết là bài NGUYỆT VIÊN của ĐỖ PHỦ sáng tác năm 766 thời Thịnh Đường. Trên thivien.net chỉ mới có 1 bản dịch của Phạm Doanh. Nhưng ở phương Tây lại có nhiều bản dịch bài này, cũng lạ. Họ ngạc nhiên nhiều điểm trong bài thơ vì khác nền văn hóa . Thơ dịch cũng khá dài và hơi diễn giải, đôi ý hơi xa.
Tôi cảm nhận bài này theo tâm hồn gần với văn hóa của nhà thơ và dịch thành bài 2 khổ 4 câu 5 chữ rất quen thuộc.

月圓
孤月當樓滿,
寒江動夜扉。
委波金不定,
照席綺逾依。
未缺空山靜,
高懸列宿稀。
故園松桂發,
萬里共清輝。

Nguyệt viên
Cô nguyệt đương lâu mãn,
Hàn giang động dạ phì.
Uỷ ba, kim bất định,
Chiếu tịch, ỷ thâu y.
Vị khuyết không sơn tĩnh,
Cao huyền liệt tú hi.
Cố viên tùng quế phát,
Vạn lý cộng thanh huy.

Dịch nghĩa
Trăng cô đơn đương độ soi nơi lầu,
Sông lạnh ban đêm lay cửa.
Sóng lăn tăn vàng ánh không đứng yên,
Nệm được chiếu lên rõ sợi dệt đẹp.
Chưa bị khuyết trong cảnh núi non im lặng,
Treo trên cao nơi các sao lưa thưa.
Nơi vườn xưa, thông với quế mọc,
Xa vạn dặm nhưng chung ánh sáng trong vắt.

(Năm 766)




Bản dịch:


TRĂNG TRÒN

Trăng côi sáng quanh lầu
Sông đêm lạnh đến cửa
Ánh vàng gợn sóng xao
Từng sợi như thảm lụa.

Núi vắng trăng chưa khuyết
Trên cao sao lưa thưa
Vườn chung mùi thông quế
Ngàn dặm ánh trăng xưa.
20/8/2019