PDA

Xem phiên bản đầy đủ : Thơ dịch - Nguyễn Văn Đức



Nguyễn Văn Đức
29-06-2017, 08:03 PM
ĐỘC TIỂU THANH KÝ
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Tây Hồ mai uyển tẫn thành khư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn.
Phong vận kỳ nan ngã tự cư.
Chỉ phấn hữu thần liên tử hận.
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Bất tri tam bách dư niên hậu.
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
Nguyễn Du
Dịch nghĩa:
Viếng thăm ngồi trước song cửa đọc sách.
Vườn mai Tây Hồ nay đã thành gò hoang.
Những oán hận xưa nay khó thấu tới trời.
Nỗi oan kì lạ kiếp người thấy ta trong đó.
Son phấn phải có thần của nó, chính thần đó mang nỗi đau sau khi giã biệt.
Văn chương không có số mệnh, làm sao khỏi sự ưu phiền khi bị đốt cháy oan.
Không biết sau hơn ba trăm năm nữa.
Thiên hạ có người nào khóc Tố Như.

Dịch thơ:
ĐỌC KÝ TIỂU THANH(1)
Thân phận Tiểu Thanh cực thế ư ?
Hào hoa, tuyệt sắc giỏi thơ từ.
Bấy nay hờn oán trời khôn thấu.
Tái hiện đau buồn đất khó cư.
Son phấn có thần, đau nỗi biệt.
Văn chương vô mệnh, oán thân trừ.
Ba trăm năm nữa nào ai biết.
Liệu có bao người khóc Tố Như.
Văn Đức dịch

(1)Tiểu Thanh là cô gái tuyệt sắc, chữ đẹp, giỏi thơ văn. Số phận éo
le, nàng lấy chồng, gặp người vợ cả ghen tuông quá mức, bắt nàng ở
riêng dưới chân núi Cô Sơn hiu quạnh, thơ văn của nàng bị đốt phũ
phàng. Nàng tuyệt mệnh khi còn quá trẻ. Nhân chuyến bắc hành (1813)
Nguyễn Du đã đọc bài kí còn lại mấy trang và thơ văn sót lại, ông vô
cùng thương xót, khóc người xưa, ngẫm tới phận mình, không biết ba
trăm năm sau có ai người khóc mình.

Xưa có thời gian dài dị bản bài Độc Tiểu Thanh ký (1) được lưu truyền
làm cho nhiều độc giả và các nhà nghiên cứu rất phân vân: Chẳng lẽ Đại
thi hào Nguyễn Du-từng là giám khảo kỳ thi hương năm 1807 đời Gia Long
thứ 6,mà lại có bài thơ thất luật như vậy sao? Mà ở vào thời kì đó thơ
luật đường ở Viêt Nam đã phát triển khá hoàn thiện về Niêm Luật và đối
rất nghiêm chỉnh. Với bài Độc Tiểu Thanh kí sai niêm luật thì Nguyễn
Du là gì dưới con mắt các sĩ tử và các bạn đồng liêu thời đó.
Nhờ nhà văn, nhà nghiên cứu Linh Đàn (người ở Lan Đình Gio Linh)
ghi theo "Thượng thi tập ngâm" của dòng họ Thượng thư Trần Đình -
Quảng Trị, đã giúp chúng ta giải nỗi oan cho Nguyễn Du.
Nguyễn Văn Đức
(1)
Chính bản xưa, hẳn sẽ là Dị bản:
ĐỘC TIỂU THANH KÝ
Tây Hồ mai uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
Chỉ phấn hữu thần liên tử hận
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì nan ngã tự cư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.

Nguyễn Văn Đức

Lê Đức Mẫn
29-06-2017, 08:05 PM
http://i967.photobucket.com/albums/ae151/vietphuongbac/HOACHAOMUNG.jpg?t=1306807290

Nguyễn Văn Đức
29-06-2017, 10:39 PM
DỊCH THƠ THÚY KIỀU

Trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân có gần 1000 câu thơ do
Kiều (572 câu) Thúc Sinh (110 câu), Sở Khanh (82 câu),Giác
Duyên(46câu), Tống Ngọc (44 câu) v v..sáng tác.Thi hào Nguyễn Du có
nhắc đến, nhưng không có tác phẩm nào được dịch.
Tôi xin dịch đôi bài của Kiều để góp vui với Hội Kiều Học


*Bài 1 (Kiều trước mộ Đạm Tiên)

Sắc hương hà xứ dã
Băng điếu thống tâm tai
Minh nguyệt lãnh loan bị
Án trần phong kính đài
Ngọc tuy hoành thổ oánh
Danh vị bạch tuyết mai
Thương hữu như miên tửu
Vô nhân nhất tửu bôi.
Thúy Kiều

*Bài 2 (trước khi rời mộ Đạm Tiên)
(Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần. ND)

Tây phong hà hối khí
Trận trận sử nhân ai
Thảm thiết như hàm oán
Thê lương tự hữu hoài
Thừa loan nghi sạ khứ
Khóa hạc nhạ trùng lai
Bất đoạn hương hồn xứ
Thương thương xi ấn đài.! Thúy Kiều

Dịch thơ: Nguyễn Văn Đức

1 - VIẾNG MỘ ĐẠM TIÊN

Sắc hương dẫu nhạt phai
Thăm viếng đau lòng ai
Trăng lạnh soi chăn gối
Bụi mờ phủ kính đài
Bùn đen sao vấy ngọc
Tuyết trắng lại che mai
Ly rượu bên bài vị
Xin nâng chẳng ép nài.
Văn Đức dịch thơ

2 - TẠ TỪ

Từ đâu gió đến đây
Mấy trận não nùng thay
Những tưởng thân hờn oán
Hay đâu cảnh đắng cay
Chim oanh vừa bay khuất
Bóng hạc lại về ngay
Chẳng mất cùng năm tháng
Còn in rõ dấu giày.
Văn Đức dịch thơ

TRẦN THỊ THANH LIÊM
01-07-2017, 11:52 AM
Xin góp cùng thi huynh một bài ạ:


Thơ Cao Bá Quát



薄暮思家

高伯适

城上凍雲千里陰,
梁園花柳瞙沉沉。
高堂兩處思兒淚,
薄宦三春感舊心。
對榻貧妻烹北茗,
敲門小女弄南音。
邦家有道知何用?
一病蹉跎歲自深。

Bạc mộ tư gia

Cao Bá Quát

Thành thượng đống vân thiên lý âm,
Lương viên hoa liễu mạc trầm trầm.
Cao đường lưỡng xứ tư nhi lệ,
Bạc hoạn tam xuân cảm cựu tâm.
Đối tháp bần thê phanh bắc mính,
Xao môn tiểu nữ lộng nam âm.
Bang gia hữu đạo tri hà dụng?
Nhất bệnh tha đà tuế tự thâm


Dịch nghĩa:

Chiều hôm nhớ nhà

Mây lạnh trên thành che rợp ngàn dặm

Hoa liễu vườn bên cầu mong manh rủ xuống

Hai chốn cha mẹ tuôn lệ nhớ con.

Chức quan nhỏ bạc bẽo làm cảm thương lòng mong mỏi của cha mẹ khi còn nhỏ

Ngồi trước giường, vợ nghèo nấu (pha) trà kiểu Bắc

Gõ cửa, con gái nhỏ chơi điệu phương Nam

Nước nhà có đạo (thịnh trị) biết dùng người cách gì đây?

Bệnh tật lay lắt kéo dài suốt cả năm.

Chú thích:

- Cao đường lưỡng xứ: Chỉ cha mẹ ở hai nơi.

- Tam xuân: Ba tháng mùa xuân, ám chỉ cha mẹ; xuất xứ từ thơ "Du tử ngâm" của Mạnh Giao đời Đường. Ý trong bài: Thương cha mẹ từng hy vọng khi anh em Cao Bá Quát thông minh từ nhỏ.

- Nam âm: Có thể chỉ điệu Nam ai, Nam bình nghe thật ảo não, tả tâm trạng công chúa Huyền Trân về xứ Chiêm Thành, rất hợp cảnh ngộ họ Cao.

- Hà dụng: Dùng cách gì đây. Kẻ sĩ gặp lúc nước nhà có đạo thì ra làm quan (xuất) gặp lúc nước nhà vô đạo thì ở ẩn (xử). Họ Cao cám cảnh cho mình “xuất” mà chỉ nhận cảnh đau ốm, chẳng đền đáp nổi ơn sinh thành.

Dịch thơ:

CHIỀU HÔM NHỚ NHÀ


Thành vắng mây che phủ lạnh mờ
Bên cầu trầm mặc liễu lơ thơ
Cao đường rơi lệ bao buồn nhớ
Chức nghiệp thương tâm luống vọng chờ
Trà Bắc vợ nghèo pha lạch cạch
Điệu Nam con trẻ hát ầu ơ
Sinh thời tuấn kiệt ai cầu nhỉ
Đeo đẳng thâm căn bệnh vật vờ.



Trần Thị Thanh Liêm

TRẦN THỊ THANH LIÊM
03-07-2017, 11:56 PM
Thi lão Thanh Minh cũng dịch thơ ND đó thi huynh ạ:
夾 城 馬 伏 波 廟 - Giáp Thành Mã Phục Ba miếu
阮 攸 - Nguyễn Du (1765–1820)

Nguyên văn chữ Hán:
六 十 老 人 筋 力 衰
據 鞍 被 甲 疾 如 飛
殿 庭 只 慱 君 王 笑
鄉 里 寧 知 兄 弟 悲
銅 柱 僅 能 欺 越 女
珠 車 畢 竟 累 家 兒
姓 名 合 上 雲 臺 畫
猶 向 南 中 索 歲 時

Phiên âm Hán Việt:
Lục thập lão nhân cận lực suy
Cứ an bị giáp tật như phi
Điền đình chỉ bác quân vương tiếu
Hương lý ninh tri huynh đệ bi
Đồng trụ cận năng khi Việt nữ
Châu xa tất cánh lụy gia nhi
Tính danh hợp thướng Vân Đài họa
Do hướng Nam trung sách tuế thì?
Nguyễn Du

Dịch nghĩa:
Người già tuổi sáu mươi thì gân sức suy.
Ông còn mặc giáp nhảy lên ngựa nhanh như bay.
Chỉ chuốc một nụ cười của nhà vua nơi cung điện.
Đâu biết anh em nơi quê hương thương xót cho ông!
Cột đồng chỉ dối được đàn bà con gái Việt.
Chứ như xe ngọc châu chở về, thị lại để lụy cho con cháu ông.
Tên tuổi ông (đáng lẽ) được ghi nơi bức họa Vân Đài.
Sao lại đòi nước Nam hằng năm phải cúng tế?

Dịch thơ:
ĐẾN MIẾU MÃ PHỤC BA (1)

Sức lực sáu mươi đã kém thay
Vẫn còn lên ngựa phóng như bay
Mong nơi cung điện vua cười phán
Chẳng kể anh em đau xót đầy
Đồng trụ chỉ lừa thôn nữ sợ
Ngọc xa thu lượm vợ con cay
Vân Đài danh họa sao không vẽ
Lại cúng thờ chi tại Việt đây?
Phan Thị Thanh Minh
(Hà Nội) dịch thơ

(1) Mã Viện đã già yếu, muốn sang đánh Hai Bà Trưng Nhảy lên ngựa ra vẻ mạnh khỏe- Vua cười khen phong là Phục Ba tướng quân. Khi đi em họ là Thiều Du nói: "Người ta sinh ra cốt ăn mặc vừa đủ thôi, nếu cầu thêm thừa thãi thì chỉ khổ thân" Mã Viện chết không được vẽ chân dung cùng 28 vị công thần TQ ở gác Vân Đài mà lại bắt xây miếu thờ ở Việt Nam nên Nguyễn Du chê trách. Khi sang đóng quân ở hồ Dâm Đàm (Hồ Tây) thấy diều lượn trên mặt hồ đầy khí lam chướng... Mã Viện hối hận nói: "Nay nghĩ lại lời Thiều Du nói đúng nhưng không làm sao được nữa"nên Nguyễn Du có bài thơ mỉa như bài dưới đây.