PDA

Xem phiên bản đầy đủ : Thơ hồ xuân hương



thugiangvu
09-10-2011, 02:37 AM
Hồ Xuân Hương-

(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)

Trần Đại gia blog . Đăng ngày: 06:40 10-03-2010
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/0/05/Ho_Xuan_Huong.png/180px-Ho_Xuan_Huong.png http://bits.wikimedia.org/skins-1.5/common/images/magnify-clip.png
Hồ Xuân Hương


Hồ Xuân Hương (chữ Hán: 胡春香) là nhà thơ Nôm nổi tiếng sống vào cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Bà đã để lại nhiều bài thơ độc đáo với phong cách thơ vừa thanh vừa tục và được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam.
Tiểu sử

Tiểu sử của Hồ Xuân Hương đến nay vẫn còn nhiều điểm gây tranh cãi. Thậm chí có một vài ý kiến còn cho rằng những bài thơ được xem là của Hồ Xuân Hương hiện nay do nhiều người sáng tác, nghĩa là không có ai thực sự là Hồ Xuân Hương. Dựa vào một số tài liệu lưu truyền, những bài thơ được khẳng định là của Hồ Xuân Hương, các nhà nghiên cứu đã tạm thừa nhận một số kết luận bước đầu về tiểu sử của nữ sĩ:

Hồ Xuân Hương thuộc dòng dõi họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Đây là một dòng họ lớn có nhiều người đỗ đạt và làm quan nhưng đến đời Hồ Phi Diễn - thân sinh của bà - thì dòng họ này đã suy tàn.'
Theo các nhà nghiên cứu đầu tiên về Hồ Xuân Hương như Nguyễn Hữu Tiến, Dương Quảng Hàm thì bà là con ông Hồ Phi Diễn (sinh 1704) ở làng Quỳnh Ðôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An (*). Ông thi đậu tú tài năm 24 tuổi dưới triều Lê Bảo Thái. Nhà nghèo không thể tiếp tục học, ông ra dạy học ở Hải Hưng, Hà Bắc, để kiếm sống. Tại đây ông đã lấy cô gái Bắc Ninh, họ Hà, làm vợ lẽ - Hồ Xuân Hương ra đời là kết quả của mối tình duyên đó.[1]
Bà sống vào thời kỳ cuối nhà Lê, đầu nhà Nguyễn, tức cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Do đó bà có điều kiện tiếp thu ảnh hưởng của phong trào đấu tranh của quần chúng và chứng kiến tận mắt sự đổ nát của nhà nước phong kiến.
Bà xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn, song hoàn cảnh cuộc sống đã giúp nữ sĩ có điều kiện sống gần gũi với quần chúng lao động nghèo, lăn lộn và tiếp xúc nhiều với những người phụ nữ bị áp bức trong xã hội.
Hồ Xuân Hương ít chịu ảnh hưởng của [[Nho giáo,Vậy tại sao lại có chuyện "cổ nguyệt đình"? bà không dùng chữ nho cũng đâu thể cho rằng bà ít chịu ảnh hưởng của nho giáo được, mà phải xem lại xã hội thời đó, bà là một nhà thơ nên cũng là một minh chứng cho xã hội thời đó như thế nào]] về mặt nhân sinh quan cũng như về phương diện văn chương.
Bà là một phụ nữ thông minh, có học nhưng học hành cũng không được nhiều lắm, bà giao du rộng rãi với bạn bè nhất là đối với những bạn bè ở làng thơ văn, các nhà nho. Nữ sĩ còn là người từng đi du lãm nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước.
Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc. (Nhưng theo tài liệu của GS Hoàng Xuân Hãn và ông Lê Xuân Giáo thì nữ sĩ có tới 3 đời chồng chứ không phải hai: Tổng Cóc, Ông Phủ Vĩnh – tường, và cuối cùng là quan Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiến).
Có thể thấy Hồ Xuân Hương không phải là một phụ nữ bình thường của thời phong kiến mà bà đã có một cuộc sống đầy sóng gió.
Các tác phẩm

Các tác phẩm của bà đã bị mất nhiều, đến nay còn lưu truyền chủ yếu là những bài thơ chữ Nôm truyền miệng.
Năm 1962, ông Trần Văn Giáp đã công bố 5 bài thơ chữ Hán của Hồ Xuân Hương trên báo Văn nghệ viết về vịnh Hạ Long. Đến năm 1983, giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã dịch và đặt tên cho 5 bài thơ này (bao gồm: Độ Hoa Phong, Hải ốc trù, Nhãn phóng thanh, Trạo ca thanh, Thuỷ vân hương) và công bố trong bài Hồ Xuân Hương với vịnh Hạ Long, đăng trên tập san Khoa học xã hội, tại Paris vào năm 1984.
Năm 1964, nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại phát hiện một tập thơ nữa tên là Lưu hương ký 琉香記, theo những nghiên cứu đến nay nhiều người tán thành rằng những bài thơ trong đó là của Hồ Xuân Hương.
Lưu Hương Kí là tập thơ có nội dung tình yêu gia đình, đất nước, nó không thể hiện rõ cá tính mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương, cho nên, việc nghiên cứu giá trị thơ Hồ Xuân Hương chủ yếu được thực hiện trên những bài thơ Nôm truyền tụng của bà.
Dưới đây là trích dẫn một số bài thơ trong tuyển tập thơ HỒ XUÂN HƯƠNG.
********************
CÁI QUẠT
Mười bảy hay là mười tám đây? (1)
Cho ta yêu dấu chẳng rời tay.
Mỏng dầy chừng ấy chành ba góc,
Rộng hẹp đường nào cắm một cây (2)
Càng nóng bao nhiêu càng muốn mát, (3)
Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày.
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy, (4)
Chúa dấu vua yêu một cái này.

Chú thích:

(1) Vì quạt thường có 17 hay 18 nan.
(2) Tức một cây để xỏ nan quạt ở lỗ dùi.
(3) Có bản chép: "thời càng mát."
(4) Vì giấy quạt thường phất bằng nước trái cây, thứ trái giống như trái hồng nhưng nhỏ hơn, nhiều nhựa hơn và cũng chát hơn nữa. Quạt phất bằng nước ấy nên màu sắc thường có vẻ hồng hồng
--------------------------------





DỆT VẢI
Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau,
Con còn mấp máy suốt đêm thâu. (#1)
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc,
Một suốt đâm ngang thích thích mau.
Rộng, hẹp, nhỏ, to vừa vặn cả,
Ngắn, dài, khuôn khổ cũng như nhau.
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ, (#2)
Chờ đến ba thu mới dãi mầu. (#3)

Chú thích:

(1-) Con cò đây tức con chim bằng gỗ hay bằng sắt hình tựa con cò hay con ác, con quạ, để ở Chỗ trên đầu người ngồi dệt có sợi dây ở mỏ và đuôi để kéo xuống tấm go.
(2-) Tức muốn cho vải tốt thì phải ngâm sợi trước khi dệt bằng nước hồ hay nước cơm cho kỹ.
(3-) Dãi mầu tức nhuộm rồi đem đi dãi





CHÙA HƯƠNG
Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm,
Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom.
Người quen cõi Phật chen chân xọc, (2)
Kẻ lạ bầu Tiên (3) mỏi mắt dòm.
Giọt nước hữu tình rơi thánh thót,
Con thuyền vô trạo (4) cúi lom khom.
Lâm tuyền (5) quyến cả phồn hoa (6) lại,
Rõ khéo trời già đến dở dom. (7)

Chú thích:

(1) Tức chùa Hương Tích ở phủ Mỹ Đức, tỉnh Hà Đông, trong thờ Phật Nam Hải Quan Thế Âm Bồ Tát.
(2) Xọc có nghĩa là thọc vào, dấn vào.
(3) Bầu tiên là chỗ động tiên ở, chỗ riêng hẳn một bầu thế giới.
(4) Vô trạo là không mái chèo.
(5) Lâm tuyền là nơi suối rừng.
(6) Phồn hoa là nơi thị thành, đô hội.
(7) Dở dom là bày vẽ, bày đặt.





HANG CẮC CỚ
Trời đất sinh ra đá một chòm,
Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom.
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm.
Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm,
Con đường vô ngạn(2) tối om om.
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc(3)
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm!

Chú Thích
(1) Tên một cái hang ở trong chùa Thầy. Ca dao có câu: "Hội chùa Thầy có hang Cắc Cớ; Trai chưa vợ thì đến hội này"
(2) Vô ngạn: Không có thành bờ tay vịn.
(3) Xuyên tạc: Xoi và đục thông qua đá.

thugiangvu
09-10-2011, 02:45 AM
Chợ Trời

Hồ Xuân Hương (http://www.vietnamsingle.com/p_tuabai.asp?TID=1013)

Khen thay con Tạo khéo trêu ngươi.
Bày đặt ra nên cảnh chợ Trời!
Buổi sớm gió đưa, trưa nắng đứng,
Ban chiều mây họp, tối trăng chơi.
Bầy hàng hoa quả tư mùa sẵn,
Mở phố giang sơn bốn mặt ngồi.
Bán lợi, buôn danh nào nhương kẻ,
Chẳng nên mặc cả một đôi lời.

thugiangvu
09-10-2011, 02:48 AM
Đền Trấn quốc

Hồ Xuân Hương (http://www.vietnamsingle.com/p_tuabai.asp?TID=1013)

Ngoài cửa hành cung cỏ dãi dầu,
Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau!
Một tòa sen lạt hơi hương ngự,
Năm thức mây phong điểm áo chầu.
Sóng lớp phế hưng coi vẫn rộn.
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau.
Người xưa, cảnh cũ đâu đâu tá?
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu

thugiangvu
09-10-2011, 02:50 AM
Đánh Cờ

Hồ Xuân Hương (http://www.vietnamsingle.com/p_tuabai.asp?TID=1013)

Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,
Đốt đèn lên đánh cuộc cờ người.
Hẹn rằng đấu trí mà chơi,
Cấm ngoại thuỷ không ai được biết.
Nào tướng sĩ dàn ra cho hết,
Để đôi ta quyết liệt một phen.
Quân thiếp trắng, quân chàng đen,
Hai quân ấy chơi nhau đà đã lửa.

Thọat mới vào chàng liền nhảy ngựa,
Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên.
Hai xe hà, chàng gác hai bên,
Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sĩ.

Chàng lừa thiếp đương khi bất ý,
Đem tốt đầu dú dí vô cung,
Thiếp đang mắc nước xe lồng,
Nước pháo đã nổ đùng ra chiếu.

Chàng bảo chịu, thiếp rằng chẳng chịu
Thua thì thua quyết níu lấy con.
Khi vui nước nước non non,
Khi buồn lại giở bàn son quân ngà

thugiangvu
09-10-2011, 02:52 AM
Bà lang khóc chồng
Hồ xuân hương

Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì ?
Thương chồng nên khóc tỉ tì ti.
Ngọt bùi, thiếp nhớ mùi cam thảo,
Cay đắng, chàng ơi, vị quế chi.
Thạch nhũ, trần bì, sao để lại,
Quy thân, liên nhục, tẩm mang đi.
Dao cầu, thiếp biết trao ai nhỉ ?
Sinh kỳ, chàng ơi, tử tắc quy.

thugiangvu
09-10-2011, 02:53 AM
Cảnh Thu

Hồ Xuân Hương (http://www.vietnamsingle.com/p_tuabai.asp?TID=1013)

Thánh thót tầu tiêu mấy hạt mưa,
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ,
Xanh ôm cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn say chấp rượu.
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ.
Ơ hay, cánh cương ưa người nhỉ,
Ai thấy, ai mà chẳng ngẩn ngơ.

thugiangvu
09-10-2011, 02:55 AM
Hỏi Trăng

Hồ Xuân Hương (http://www.vietnamsingle.com/p_tuabai.asp?TID=1013)

Trải mấy thu nay vẫn hãy còn,
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn.
Hỏi con bạch thố đà bao tuổi,
Hở chị Hằng Nga đã mấy con?
Đêm tối cớ chi soi gác tía?
Ngày xanh còn thẹn với vừng son.
Năm canh lơ lửng chờ ai đó?
Hay có tình riêng với nước non?

thugiangvu
09-10-2011, 02:57 AM
Chơi Đền Khán Xuân

Hồ Xuân Hương (http://www.vietnamsingle.com/p_tuabai.asp?TID=1013)

Êm ái chiều xuân tới khán đài,
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai !
Bà hồi triêu mộ chuông gầm sóng,
Một vương tang thương nước lộn trời.
Bể ái nghìn trùng khôn tát cạn,
Nguồn ân muôn trượng dễ khơi vơi.
Nào nào cực lạc là đâu tá,
Cực lạc là đây chín rõ mười.

thugiangvu
09-10-2011, 02:59 AM
Chùa xưa

Hồ Xuân Hương (http://www.vietnamsingle.com/p_tuabai.asp?TID=1013)

Thày tớ thung dung dạo cảnh chùa,
Thơ thì lưng túi, rượu lưng hồ.
Cá khe lắng kệ, mang nghi ngóp,
Chim núi nghe kinh, cổ gật gù.
Then cửa từ bi chen chật cánh,
Nén hương tế độ cắm đầy lô.
Nam mô khẽ hỏi nhà sư tí,
Phúc đức như ông được mấy bồ?
Quán Nước Bên Đường
Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo,
Đường đi thiên thẹo, quán cheo leo.
Lợp lều, mái cỏ tranh xơ xác,
Xỏ kẽ, kèo tre đốt khẳng kheo.
Ba trạc cây xanh hình uốn éo,
Một dòng nước biếc, cỏ leo teo.
Thú vui quên cả niềm lo cũ,
Kìa cái diều ai thả lộn lèo.

thugiangvu
09-10-2011, 03:01 AM
Tranh hai Tố nữ

Hồ Xuân Hương (http://www.vietnamsingle.com/p_tuabai.asp?TID=1013)

Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình?
Chị cũng xinh mà em cũng xinh.
Đôi lứa như in tờ giấy trắng,
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.
Phiếu mai chi dám tình trăng gió,
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh.
Còn thú vui kia sao chẳng thấy,
Trách ông thợ vẽ khéo vô tình!

thugiangvu
09-10-2011, 03:03 AM
Thương

Hồ Xuân Hương (http://www.vietnamsingle.com/p_tuabai.asp?TID=1013)

Há dám thương đâu kẻ có chồng,
Thương vì một nỗi hãy còn không.
Thương con cuốc rũ kêu mùa Hạ,
Thương cái bèo non giạt bể Đông.
Thương cha mẹ nhện vương tơ lưới,
Thương vợ chồng Ngâu cách mặt sông.
ấy thương quân tử thương là thế,
Há dám thương đâu kẻ có chồng.