PDA

Xem phiên bản đầy đủ : Những "ngôi trường xưa Em học" - (Đoản Văn) - NhàQuê



NhàQuê
19-10-2011, 07:47 PM
"Cuộc Hành Trình" của mỗi đời người, ai cũng phải trả đúng cái giá của nó. Mỗi xê dịch của thời gian, của không gian đánh dấu thành từng bài học. Đường đời chính là "Ngôi Trường"; Ý nầy đã có từ lâu của các bậc Tiền Bối.

Mong được thứ lỗi nếu có gì sơ suất.

Người viết các đoản văn nầy: NhàQuê




Những "ngôi trường xưa Em học"



http://2.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SZIN4UU8dBI/AAAAAAAAAxo/JuIBevpaTyE/s200/NQ86CoThu3.jpg



Đoản1- Cổ Thụ



Trừ những khi mây xuống thả vòi là đà thấp hơn ngọn cây, báo hiệu cơn mưa ập đến. Còn không, từ bên nầy của cánh đồng rộng tôi trông thấy làng Tân Thủy của tôi mờ mờ màu xanh núi, giăng ngang tựa tranh vẽ, bầu trời nhạt hơn phía sau.


Trên con đường dẫn từ quận lỵ Ba Tri về hướng Ðông băng qua cánh đồng ấy, tôi về trễ hơn các bạn khác mỗi ngày: Tôi đi bộ!

Khi bắt đầu vượt đoạn đường tôi luôn nhìn Cổ Thụ làng tôi vấn kế, Cổ Thụ nhìn thằng bé đi học về mỉm cười lúc trong lòng tôi vẫn còn rộn rã lời khen của thầy, âm vang chưa tan hết. Những lúc tôi đi đầu cúi thấp vô hồn chắc Cổ Thụ cũng rưng rưng.

Có khi tôi phải đứng chờ có người đi cùng mới dám vượt qua khu trâm bầu của chòm Ðìa Ðôi gần khoảng giữa, đám trâu đen, trâu cò đang cằn từng cọng cỏ gần đó cho biết rằng mấy đứa chăn lẩn khuất đâu đấy, sẵn sàng nhảy ra bắt nạt tôi: Thằng bé cũng đã giữ trâu cho người chú không con trai của mình, tựa chúng, nhưng tôi không hung hãn như.
Dù không nhìn thấy trâu, qua chòm Ðìa Ðôi tôi vẫn chạy hết tốc lực sau đó vừa đi vừa thở như người tập thể dục bất đắc dĩ; Những lần như vậy Cổ Thụ nhìn tôi dáng có chút đăm chiêu, nhưng cũng có vẻ ngầm khuyến khích.

Cổ Thụ đứng ven con lộ đất dẫn đến cuối làng, gần đoạn khởi hành hơn. Phải nói rằng con lộ đất đi dưới chân Cổ Thụ mới đúng, vì anh chàng cát bủng nầy né rẽ đi hướng khác mấy lần trong thời loạn lạc, nhường chỗ cho địa đạo, giao thông hào; Nhà tôi không xa nơi ấy.

Không ai biết Cổ Thụ bao nhiêu tuổi, Ba Má tôi nói hồi đó giờ vẫn vậy, không lớn thêm cũng không có dấu hiệu gì già cỗi. Có thể từ xa xưa lắm những hạt mầm bị sóng triều xô giạt vào cồn cát vừa nhô lên khỏi mặt biển đôi chút, bám được rễ bắt đầu sự sống: Cuối cùng chỉ một cây non thoát được các đợt tất công liên tiếp của sóng triều.

Dấu chỉ bên dưới lớp đất nói rằng làng tôi là cồn cát càng ngày càng lấn biển ra xa. Khu rừng nước mặn mọc thêm dàn hàng ngang tiến về hướng Ðông lần sau khác lần thấy trước, củng cố thêm trong tôi lịch sử hình thành con giồng tên gọi Giồng Bông nơi tôi được sinh ra.
Cây xanh mơn mởn tín hiệu hứa hẹn về vùng đất tươi tốt, hấp dẫn nhóm người đầu tiên đến đây dựng lều cắm trại định cư ...

Theo Chúa Nguyễn "Nam Tiến" bằng cách nầy cách khác Tổ Tiên tôi xua dần lớp cư dân thời tiên khởi lập làng...Tôi, hậu duệ nhóm người lấn chiếm dựng nên quê tôi hiện giờ: Tôi nghĩ vậy!

Ðứng vươn cao, Cổ Thụ nhìn bao hưng phế đổi dời đời nầy qua đời khác: Ði xa Cổ Thụ đứng trông theo đến khi không còn chấm nhỏ, vui mừng gần như nhón gót cao thêm cho rõ, coi có đúng kẻ trở về đấy không.

Cổ Thụ hát reo bốn mùa gió lộng, ủ rũ u buồn vĩnh biệt mỗi lần đám tang đi qua dưới chân Người.
Lo âu cho kẻ ra khơi sinh nhai dạt trôi không trở lại...
Từng mắt lá Cổ Thụ như nghe, như thấy bao khắp và xúc cảm với từng hơi thở nhẹ của quê tôi.
Cổ Thụ chắc cũng vui mừng mùa bội thu, rầu rầu những năm sâu rầy phá hoại.

Gần giáp Tết, Cổ Thụ nhìn gió chướng từng cơn lọc qua khu rừng nước mặn, nhìn từng đợt sóng bổ ghềnh hùng hổ ập vào rồi lại kéo ra như muốn xô ngã khu rừng chông chênh đang cố ráng sức chống chọi, chơi vơi chao đảo như người chỉ còn có một chân phải trụ lưng vào cồn cát phía sau phụ lực.

Có lẽ Cổ Thụ cũng nhìn thấy thằng bé trùm kín chăn nhai trộm bánh phồng sống mới phơi một nắng, bị Má bắt gặp lôi ra rửa miệng giữ răng. Mật chiếc bánh nếp trôi ngọt ngào qua cổ cùng âm vang tiếng sóng bổ ghềnh như rượt đuổi nhau luồn dưới lòng đất, không những qua tai mà ngấm sâu đưa tôi vào giấc ngủ nhẹ nhàng không mộng mị: Tuổi thơ tôi đấy!

Rồi một ngày kia, đao phủ thủ nghiện rượu về từ hướng Bắc, chém nhát đầu tượng trưng làm hồn tôi, người vốn buộc phải câm: Ðau rướm!
Làng tôi nghèo đến độ cần gỗ để đóng vài chiếc bàn ghế học trò cho trẻ em thế sao! Không! Cổ Thụ là cây củ chi, mã tiền,... độc dược, vô dụng từ nhánh tới lá, thân cũng nguy cơ ngộ độc. Sao lại mang ra làm thế chứ!

Sau mấy ngày đau đớn Cổ Thụ gục ngã: Ðám chim chóc đủ màu đủ loại sống chung bao đời hốt hoảng vội vàng rời tổ, đậu nhờ những cây lân cận ngơ ngác đứng nhìn lại. Rồi như đồng loạt kêu lên ai oán cùng lúc Cổ Thụ đổ nhào, âm thanh như một chấn động khác biệt chưa lần nào nghe thấy. Ðám chim chưa muốn tản mác bay đi, đám chim mỗi lần đi qua tôi dừng lại nhìn lên, không còn sợ trên ấy có người khuất mặt như ngày xưa còn nhỏ chẳng khi nào.

Từ đó làng tôi không còn như ca dao, có lũy tre xanh, có cây cổ thụ.
Cổ Thụ làng tôi cao nhất trong vùng, cao hơn bất kỳ cổ thụ những nơi tôi đã đi qua. Không còn dấu mốc nào để dễ dàng nhận biết từ xa, rằng gần đó có ngôi nhà lợp lá: Ba Má Anh Chị Em tôi, cái chùm hạnh phúc ấy quây quần bên nhau một thời.


Làm làn khói thoát ra từ lò hỏa thiêu, tôi hòa tan vào mây phiêu du về bên ấy, biết tôi có còn nhận ra được chốn xưa không. Cổ Thụ còn đâu để cho tôi xin mây một lần xà xuống thấp. Tôi chẳng có chút nào so được con chim nhỏ nhất ngơ ngác rời tổ ngày nọ.


NhàQuê May 19, 2005

NhàQuê
19-10-2011, 07:52 PM
Những "ngôi trường xưa Em học"


http://www.bentrehome.net/trong/NQ40DinhBinhHoa1.jpg

Đoản2- Ðình Làng

Hai đình, bốn miễu và một lăng của làng tôi năm nào cũng có cúng kỳ yên, vía hay tương tự, những năm đặc biệt trúng mùa bao giờ cũng có rước hát bội về ít nhất là ba đêm diễn, đoàn hát xong nơi nầy dọn tiếp qua nơi khác; Ðó là dịp hẹn hò của trai gái làng quê tôi đang mùa đồng khô, trăng tỏ, tương đối rảnh rỗi trước mùa vụ mới.

Từ nhà tôi qua khỏi Cổ Thụ không xa, ngôi đình Tân Hòa mái ngói âm dương, cổng dáng hình lăng miếu, hai cây dương hai bên cao không đều nhau có lẽ một cây được trồng lại sau.

Đình tọa lạc trên phần đất độ hơn hai mẫu tây, có mấy cây sao thẳng hàng còn lại là vú sữa, gia đình Ông Từ chăm sóc quét dọn đình cũng được dành cho một phần vừa ở, vừa trồng trầu.

Không ai gọi tên đình Tân Hòa, thậm chí có người không biết; Ðó là trường vỡ lòng đầu đời của tôi: Ðình làng Tân Thủy.

Một buổi sáng tôi mặc quần áo mới chẳng khác nào ngày Tết, ôm cặp đệm cũng mới màu chiếu trơn, có viền bìa vải bông cho đừng vuột chỉ may, trong đó có nhiều thứ Ba Má tôi mua cho và dặn tên từng món, có vài món hơi lạ tôi chưa biết dùng để làm gì; Tuy nhiên tôi cũng trân trọng xếp chúng gọn gàng trong ấy. Ngày hôm trước Má tôi nấu chè cúng vái, cầu cho tôi học sáng láng, ăn chè xong tôi kiểm lại đồ đạc mấy lần sợ có ai mở ra coi thử làm lệch thứ tự theo ý tôi, tay kia tôi xách bình mực nâu đi theo Má: Tôi đi học không khóc như những đứa khác, trước khi đi tôi sợ Má quẹt lọ lên trán xin phép Ông Táo như những lần cũng đi hướng ấy về quê ngoại đám giỗ. Không, lần nầy Má tha!

Mấy đứa khác gặp trên đường không có vẻ lo âu như tôi, chúng đi một mình mà còn nhìn tôi chế nhạo, học trò mới: dốt!

Má nói chuyện với chú sáu Niên gì đó, Chú ghi ghi chép chép, tôi đứng bên cạnh có khi tôi nhìn xuống quyển sổ Chú ghi, có lúc tôi nhìn đám đông xếp ngồi từng nhúm đang xù xì to nhỏ nhau.
Chú ngưng viết, nhịp thước mấy lần lên bàn của Chú, tụi nó nín khe trở lại.

Mọi việc kết thúc khi Má dặn: Nó làm biếng Chú cứ việc uýnh! Mấy đứa dưới ra hiệu roi mây nẹt đít tôi thấy rõ ràng mấy giây trước đây khi tôi nhìn hướng chúng, làm tôi cũng hơi chùng xuống đôi chút.

Ðến khi Chú chỉ chỗ ngồi cho tôi, tụi nó lấn còn có chút xíu, tôi đặt đít vào như phải trướng lấn lại cả hai phía: lưỡng đầu thọ địch.
Trên mặt bàn hai đứa hai bên khuỳnh tay, cùi chỏ gần đụng nhau chừa chỗ nghiêng nghiêng vừa đủ tôi đặt bình mực, cặp tôi chỉ được ghé chút, còn phần dư phải tựa trên đầu gối.

Suốt buổi ấy sư phụ tôi chưa truyền phép mầu gì, quyển vở còn trắng tinh, bụng trống như lúc ra đi không chữ nào trong đó.

Lúc cho về tôi khoanh tay "Thưa thầy em về" như mọi đứa khác, từ nay tôi không gọi thầy tôi là chú nữa.

Má tôi qua khỏi Cổ thụ đôi chút đón tôi vinh qui, vì từ đoạn đó tới nhà tôi không có đứa nào cùng đường, chúng đã rẽ vào xóm trước khi.

Em tôi bỏ trò chơi bắn cu li một mình vừa một lúc làm hai vai, hai đối thủ. Em chạy lại chạm nhẹ tay tôi: Có gì hôn? Ý em tôi hỏi có bị đòn hay biến cố trọng đại nào không, tôi cười lắc đầu và nó an tâm hiểu rằng đi học là chuyện dễ dàng. Tôi giấu em cuộc chiến đấu từ cả hai cánh vừa qua của tôi.

Hai ông lấn tôi từ bữa sau trở đi dễ thương lạ, hai ổng nhường chỗ cho tôi thoái mái: Hai ông làm thầy kèm tôi; Làm thầy thì phải hy sinh chứ! Người lớn mà! Ðâu lại giành chỗ với trò hay ít ra là đàn em.

Thầy phóng mấy chữ cái trên tập bằng viết chì rồi hai thầy "lấn chỗ" chỉ tay vào chữ đọc trước tôi đọc theo kèm theo lời hăm dọa: Tụi tao đọc ba lần mà không đọc lại được như tụi tao hồi trước là đuổi học.

Tôi hiểu hai thầy xưa kia thông minh rất mực và nay có quyền tâu lại Thầy đuổi tôi.

May phước, sau lần thứ hai là tôi đi suông. Kế tiếp tôi còn được chừa chỗ rộng hơn, không bị thình lình đụng tay khi tôi dùng viết mực đồ theo lằn chì mấy chữ cái thầy phóng.

Vần xuôi: Bê a ba, bê á bá ...em mờ a ma, em mờ á má ... tôi thanh toán gọn mấy ngày kế tiếp và thêm ít ngày nữa tôi xong phần vần xuôi, phải từ giã hai thầy "lấn" để qua nhóm vần ngược ngồi góc bên kia. Hai thầy cũng tự hào dạy giỏi.


Tôi không nhớ rõ tôi học ở đó bao lâu nhưng tôi biết rằng tôi đã tiến qua giai đoạn tự chép theo bài thầy biên trên bảng vuông vức màu xám treo trên tường và làm toán cộng trừ không số giữ.

Thời gian đó tôi lần lượt được chuyển học chung nhiều nhóm khác nhau ngồi riêng góc tùy theo trình độ tôi tiến lên được, thuở ấy chúng tôi gọi là được lên lớp.

Thầy tôi bị ruồng bắt lính trong một đêm nào. Không còn ai thay thế dạy cái lớp học đủ mọi trình độ đó.

Một buổi sáng u buồn chúng tôi ra về, giã từ cái nhà đãi ăn của ngôi đình làng dùng làm trường lớp đầu đời của tôi và có lẽ cũng của các bạn cùng thuở.

Ngôi trường đình có cánh đồng rộng bên kia đường trước cổng chúng tôi cho diều hát vi vu mùa khô, trong lớp chúng tôi ngồi lắng nghe đoán biết được nó đang lên cao hay lượn xuống, tàn cây vú sữa cho chúng tôi bóng mát nô đùa mỗi lúc được ra chơi.

Tôi thấy mấy đứa con gái thường nhảy dây, đánh thẻ, ít khi thuộc bài lại khóc nhiều hơn hết trong buổi sáng lạc thầy đó.


Ít lâu sau Thầy tôi trốn về được. Ngang qua nhà, thấy Má tôi, Thầy nói vọng vào: Tui mới về nè chị Tư !
Má tôi dừng Thầy lại nói chuyện mấy câu, tôi chạy ra mừng, ngỡ thầy vài ngày nữa sẽ dạy lại.

Không, thầy tôi vĩnh viễn bỏ thiên chức khai hoang. Vĩnh biệt Thầy!


NhàQuê May 21,2005


Đình Làng, Ngôi Trường Đầu Đời

Mái vẫn rêu phong trước sau êm vắng
Uy nghi ngầm phảng phất nét hiển linh
Sắc vua phong thuở trước cẩn cung nghinh
Ơn đức bổn Thần tiếp nhau truyền rạng

Nhớ Má cúng cầu mong tôi sáng láng
Trước hôm nao dẫn đến gặp thầy xưa
Đứng khoanh tay, lắng tiếng dưới hăm đưa
Nhìn khúc roi xơ, lòng mình tự vấn

Rồi chút nữa đây “mấy ông” xúm lấn
Ngơ ngác trùng vây lọt thỏm giữa lòng
Xóm dưới đầu trên có vẻ đợi trông
Chờ thầy xếp cho tôi cùng chung dãy

Tàng lá xum xuê cánh tay rộng trải
Bóng mát rợp che trong ngõ lối ngoài
Nhớ buổi vỡ lòng… giờ tít chân mây
Mất dấu Trường xưa, Đình ngùi thế sự

NhàQuê


Bên Kia Đình Làng

Hai nhành rẽ phướng giữa tầng bay
Uống gió no đầy túy lúy say
Vụt thoắt lên cao tìm hướng núi
Vòng vèo lượn xuống bỡn vòm cây
Hồ pha giấy phất diều đâu sợ
Nhợ mảnh sườn oằn sáo lắc lay
Nhắc đến nơi xưa vui thú ấy
Trường ĐÌNH chạnh nhớ khóe mi cay

NhàQuê

NhàQuê
19-10-2011, 07:57 PM
Những "ngôi trường xưa Em học"


http://3.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SOK6d1I_etI/AAAAAAAAAHI/nCnoHjY0ExE/s200/ChuaCaoDai1.jpg


Đoản3-Qua Ðồi Cát Nóng


Vào mùa nắng, các làng ven biển quê tôi có thể nói gọn không ai muốn bước chân ra đường. Sức nóng làm đôi mắt lúc nào cũng chực khép vào giấc ngủ nặng nề nhơm nhớp mồ hôi đang xô tới; Tôi thằng bé đi học về dưới từng hạt nắng bốc lửa ấy!


Anh Mười và anh Út mặc áo dài trắng khăn đóng đen dạy học công quả cho chùa, chúng tôi học trong ngôi trường lợp lá mới cất theo chiều dọc con đường đi, mấy cây cột còn mùi cây rừng chưa khô hẳn, chưa tróc hết vỏ.

Trường mới của tôi bên trong rào của thánh thất Cao Ðài Thiên Tiên, các cơ sở phụ thuộc của chùa kể cả phòng thuốc nam làm thành các dãy tách biệt sau ngôi chánh điện nguy nga mái ngói, có hai tháp cao phía trước hình dáng quen thuộc như những chùa Cao Ðài trông thấy đó đây, chúng tôi thường gọi hai tháp ấy là lầu chuông lầu trống. Các loại cây, rễ, lá có thể làm thuốc thường được bọn học trò chúng tôi mang tới hiến, góp phần công quả và có lúc chúng tôi bỏ lớp vụt ra phụ khiêng, kéo các đệm, nia thuốc đang phơi khi cơn mưa đột nhiên ập nhanh đến.

Trường gần ranh giới làng tôi với làng kế cận: Thuộc làng bên. Tôi lại có thêm bạn mới, nhiều đứa sau nầy cùng tôi ra trường Tổng, nhưng trong những ngày nầy chúng không về cùng đường với tôi, vì tôi từ làng khác tới học nhờ. Sau mấy bài thử sức, tôi theo các bạn mới không vất vả gì.

Thế nhưng đến khi thầy cho về là lúc trí óc tôi phải hoạt động căng thẳng, nghĩ cách qua đồi, qua nỗng cát nóng hừng hực, con đường duy nhất phải vượt qua, không cách nào khác. Trong lúc nỗng cát dường như thu gom hết sức nóng từ mặt trời lên đến giờ, đem chúng trải dọc lối về của tôi.

Tôi nhẩm tính từ đám cỏ khô nầy đến đám gần nhất xem có thể chạy nổi một mạch không, nhẩm tính những đám cỏ nào còn sót lại chưa gãy rụm mấy ngày trước, lúc tôi nhào lên đứng bằng một bàn chân, bàn chân kia ghé tạm lên trên chờ đổi thế cho nhau, đến khi cả hai nguội để có thể chạy nhanh qua “đoạn đường chiến binh” kế tiếp.

Ðường đi dọc lưng đồi, hai bên lối đi cây xương rồng gai nhọn tua tủa còn sống nổi, nhưng xem ra chúng cũng bệ rạc, xen kẽ vài đám gò mả, nơi đó không có loại cây có khía nhiều gai ấy, đám mả còn chút ít cỏ khô cho chỗ đứng tạm.

Xa dưới triền đồi, mấy chòm tre gai mốc thít như ngủ gục, như trôi trên làn sức nóng chập chờn. Mặt trời cao vút bên trên mà sao sức nóng phả khí thế đáng sợ!

Phải chạy năm hơi mới tới cây keo già không còn cành nào phía đường đi, tàng lá đều nghiêng về một bên phủ kín cái giếng lạn chứa tạp nham đủ loại bị gió cuốn tới.

Ðứng trên rễ cây đảo mắt xem chừng trên ấy nghe nói thỉnh thoảng có bà mẹ xỏa tóc nằm võng ru con.

Con tắc kè trong bọng cây không biết bao lớn, cất tiếng đến giật mình, tùng dấu hù dọa thằng bé, thúc nó bỏ chạy tiếp, vượt qua đám dúi tháng trước còn rậm rạp, giờ xơ xác, bên trong nhiều lúc có ma chọi đất ra, người gan dạ dám lận theo mấy miếng gạch vụn chọi lại thì nghe tiếng ma bỏ chạy.

Cuối cùng tôi cũng nghĩ ra được miếng mo cau hay “thịnh soạn” hơn là một hộp giấy dày làm cứu tinh đem theo, khi không còn bụi cỏ khô nào.

Cơn mưa đầu mùa ập xuống, cũng chỉ làm đồi nỗng cát phủ được lớp da ướt bốc khói râm rức, bên dưới lớp da ấy khi vít thử chân, lớp cát khô quánh vẫn đang nằm thách thức.


Ngôi trường thứ hai tôi đấy! Không có con chữ, phép tính nào mà tôi không đổi bằng gót chân mỗi ngày một chai dày thêm.

NhàQuê June 01, 2005


Con Lộ Đất

Em kể lại tôi nghe
Con đường xưa bây giờ tráng nhựa
Vẫn vắt ngang qua mấy ấp quê mình
Những cây cao cây còn cây đà đốn
Nhìn lạ làm sao!

Trong ký ức một mình tưởng lại
Con đường làng cát nóng vuột da
Tôi thằng bé chân trần đi học
Băng qua nỗng cao khổ ơi là
Chạy từ đoạn một

Đầu trên kia có miễu Bà Bèo
Phía nọ giáp làng bên Giồng Nần, Đục Mộ
Người ở xa biết làm sao nhớ
Riêng tôi quen như từng ngón tay mình
Chia phe phục kích

Đi học sớm chun vô bụi núp
Đợi tụi nó ngang nhảy ra hù
Mới vô trường đà trèo lên một bậc
Sách chẳng nói nhất quỷ nhì ma đó ư
Đường thêm ma nữa

Con ma giờ đây nhớ thương đường cũ
Đêm chiêm bao đi lại bao lần
Vẫn y nguyền từng chùm cây dại
Nhàn hạ trỗ hoa đâu chờ Xuân

Tôi thằng bé chân trần
Ước bỗng làm hạt cát!!

NhàQuê 2005

NhàQuê
19-10-2011, 08:09 PM
Những "ngôi trường xưa Em học"


http://4.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SRTiCOglVbI/AAAAAAAAAmg/cMy1PTaR6gI/s200/SMHaiAu02.jpg


Ðoản 4: Cánh Chim Bay


Như sự giã từ trong âm thầm trước chuyến đi xa, tôi làm người say ghé những chỗ thân quen nói miên man chuyện trên trời dưới đất, mưa nắng, mùa màng...tất cả những thứ ấy và nhiều hơn nữa đã đóng gói vào một góc hồn tôi trong số hành lý không thể nào đong đếm được, có cái cùng có thứ chỉ riêng: Chúng là Quê Hương bây giờ tôi ngàn dặm.

Tôi đi lại đoạn tỉnh lộ 26, có cầu Bà Hiền bắt ngang con rạch tưới ngọt cánh đồng chỉ có vụ mùa. Những tháng nát rạ chờ mùa vụ mới, đám trẻ chúng tôi và xóm bên kia dàn trận đánh nhau chọi bùn chí chóe hai bên bờ rạch, ngay cả đứa ốm yếu cũng góp phần xắn bùn tiếp tế hay giữ quần áo, cặp vở cho các tráng sĩ ra trận được an tâm.

Trận đánh lần sau mãnh liệt hơn lần trước, hai bên tìm cách qua sông chọc thủng phòng tuyến của nhau, bắt tù binh trát bùn, trấn nước...Những con người dũng cảm ngày nào đã trôi theo dòng thời gian và hai bờ cuộc chiến có thật, cuộc chiến kết thúc bi thảm không như...

Từ chỗ trống trải nhìn xuyên ruộng rẫy thấy được bến Ðường Tắt, nơi đó cùng các bạn trai khác, tôi đã phụ vác cây rừng vừa sức mình về làm vách cho trường mới cất chưa quá hai trăm thước gần nhà tôi.

Tôi nhớ hoài bữa cơm canh mướp tép rang ngon chi lạ ở nhà thầy sau buổi phụ vác cây ấy. Thầy vai em trong họ hàng, nhưng không vì thế mà được thiên vị.

Lớp tư thuở đó có vài bạn học chung vai cô chú tôi, cũng có mấy bạn vài năm sau có vợ lấy chồng, mấy bạn gái ngồi các bàn trước, lưng họ che chắn làm tôi vất vả phải đứng lên đọc chữ trên bảng rồi ngồi xuống chép, khi họ dựa vào bàn sau cũng làm chúng tôi khốn đốn, nét chữ răng cưa.

Gần cuối năm thầy bỏ đi kháng chiến thỉnh thoảng thầy ghé nhà thăm Ba Má và hỏi thăm sự học hành của tôi.

Lâu sau trong trận đánh nào đó thầy tôi, viên Huyện Ðội Trưởng đã hy sinh cho lý tưởng của mình: Vĩnh biệt thầy Nguyễn Tấn Hồng!

Tôi lại hằng ngày qua cây cầu ván không lan can trên tỉnh lộ đến học tiếp ở trường "Nhà Việc Cháy".

Trường gần công sở xã, nơi người dân thiếu thuế, thiếu xâu bị bắt "đóng trăn". Cái Nhà Việc được cất lại trên nền công sở cũ đã bị thiêu hủy thời Nhật Ðảo Chánh.

Gần như những bạn trường ấy không nhớ gì khi tôi nhắc có lần tôi đã học chung với họ, vì tôi đến đó vài tháng cuối niên khóa. Không biết tôi có được kể là cựu học sinh trường sơ học Tân Thủy không nhỉ? Xin cho tôi với chứ! .......

Vào mùa vụ, sau buổi học tôi theo Ba Má sang bên kia rạch, đi phụ làm cỏ, bè dăm mạ, ôm đất đắp bờ ...
Chiều nào bầy cò trắng cũng bay khoan thai về hướng rừng xa, chốc sau đám le le rợp trời diễn tập đội hình, khi bay chung khi tách riêng, đổi hướng rồi lại nhập vào.

Không nhớ ngày đó tôi nghĩ gì khi ngắm nhìn chúng mà giờ nầy tôi là cánh chim lìa đàn bay đi. ./.


NhàQuêJune 16, 2005

http://1.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SPqViK08DnI/AAAAAAAAAS4/dQnT_39Cj40/s200/BTHCanhChimBay1.jpg


http://i28.photobucket.com/albums/c238/trongbtran/BTHTheoCanhChimBay1.jpg
http://i28.photobucket.com/albums/c238/trongbtran/BTHTheoCanhChimBay2.jpg


(Theo Cánh Chim Bay - Thơ: NhàQuê; Nhac:Thanh Ngọc) - Thân tặng nhà thơ NhàQuê


Theo Cánh Chim Bay

Có một dòng sông chảy tận đây
Trong tôi tưởng nhớ suốt từng ngày
Ra đi vẫy biệt lòng đau cắt
Gởi lại âm thầm dạ xát xay
Xứ lạ luôn dành nguyên góc nhỏ
Quê xa vẫn cất trọn tim nầy
Nghe ai nhắc đến tên dưng bỗng
Muốn được thành chim chớp cánh bay

Bay qua chốn cũ xóm nhà tôi
Nén những bâng khuâng cố tưởng hồi
Cổ Thụ vươn cao giờ hạ đốn
Đình xưa bóng rợp trước đùa chơi
Trông theo dáng nhỏ vừa tan học
Thấy lại y nguyên đủ khoảng đời
Ước được sau cùng nương cánh giạt
Lần nhìn trước lúc biệt xa khơi

NhàQuê

NhàQuê
19-10-2011, 08:18 PM
Những "ngôi trường xưa Em học"

http://1.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SOK5I8YNZdI/AAAAAAAAAG4/zPpdEI8MSbA/s200/NQ001HoaXuan1.jpg

Ðoản 5: Vượt Cánh Ðồng Ma

Thế rồi tôi cũng học hết lớp tư, từ nhà tôi đến trường Tổng, trường dạy tới lớp ba, Trường Sơ Học Xã Diệu không xa lắm đi về hướng Quận.Trường có hai phòng học vách ngăn bằng lá nằm dọc theo tỉnh lộ 26 bên ngoài vòng rào bót có cả nhà lồng chợ.


Mấy đứa bàn chót có thể thò tay qua chỗ rách khều ghẹo với mấy đứa lớp bên kia, có lần tôi bị méc và bị thầy đòn vì trò nghịch ngợm đó: Tôi lọt bẫy vì chúng quấy tôi trước, đến khi tôi thò qua thì chúng hè nhau giữ chặt tay tôi lại.

Trường nào cũng vậy, vẫn theo phong tục con gái ngồi hết mấy bàn đầu, vẫn theo truyền thống ngoại giao khép kín giữa trai gái cùng lớp, lằn ranh phân biệt ấy chưa bên nào vi phạm, điểm thấy rõ nhất là phía gái đã bắt đầu mang theo và ăn lén xoài ổi, kẹo bòn bon trong lớp mà không biết hối lộ bên trai chút nào, trả lễ chúng tôi cũng chẳng nương tay nên thỉnh thoảng "giới thiệu" các cô nàng tình nguyện trả bài lúc mấy trự chưa kịp nuốt hết, lắc lư! Họ gọi chúng tôi là Ðồ Quỷ từ đó.

Trong lớp tôi có nhiều đứa là con các viên chức địa phương, họ thường chểnh mảng bài vở, nhưng thầy cũng "không nỡ" nặng tay.
Bọn trai chúng tôi tiến tới giai đoạn cởi mở rủ bạn bè về nhà ăn cơm có gì ăn nấy, xong tắm ao tắm đìa, trèo cây hái trái...
Ngôi trường qui tụ đủ học sinh các xã chung quanh, do nền ngoại giao phát triển đó nên chúng tôi thông thuộc mọi lối đi ngang đi tắt trong vùng.

Chỉ trong gần một năm lớp ba, chúng tôi học tới ba thầy khác nhau vì lần lượt mấy thầy bị gọi đi lính, sau nầy đọ lại với lịch sử đó là những năm chiến tranh Việt Pháp đi vào giai đoạn kết thúc (1953-1954).

Do vô tư của tuổi trẻ chúng tôi chưa có mảy may nào quan tâm tới thời cuộc, vẫn thả dòng vui chơi học hành theo ngày tháng đi qua.

Ðã xong hai kỳ thi xét lên lớp , một biến cố xảy ra cắt ngang nếp sống đều đặn thường nhật của tôi: Anh tôi trốn lính, mấy ngày sau đó anh đi tu lánh nạn.

Cái ông Cai Tổng hay dẫn đám lính đốt nhà những gia đình có người đào ngũ, có khi bắn giết cả nhà nếu người trốn mang theo vũ khí hay gây thiệt hại; Gia đình Ba Má Anh Chị Em tôi tức tốc rời bỏ ngôi nhà êm ấm, có giàn bầu tự tay tôi trồng chăm bón đang trỉu quả, trốn đến cuối làng gần rừng làm chòi sống tạm gần như màn trời chiếu đất mấy ngày đầu; Khổ nào cho xiết!

Mươi ngày sau tình hình lắng dịu, Ba xin Bác tôi một nền nhà cho gia đình trú ngụ vẫn cuối làng, xa nơi nhà chưa dám trở về của tôi. Má tôi lại dẫn tôi qua xã khác xin học lớp ba với người bác họ: Thầy Tô Văn On.

Mỗi sáng tôi đi ngược hướng mặt trời mọc băng qua cánh đồng rộng đến trường Vĩnh Hòa có cây dúi cao trước cửa lớp, nơi ấy tôi có nhiều bạn mới chia phe bắn u du giữa hai buổi học sáng chiều, lần cuối cùng thằng Tín thọ tiển nơi mắt và trò chiến tranh nầy đi vào dĩ vãng chúng tôi.
Mốc thời gian được nhắc lại cả Niêm và tôi nhận ra nhau có thời học chung lớp, tôi ở đó chỉ có mấy tuần lễ cuối niên học.

Tan học buổi chiều tôi lại đi ngược hướng mặt trời, băng qua cánh đồng ban sáng nổi tiếng ma, nhất là ngang đám cây chùm quân, nơi nghe đồn có người bị ma giấu cho ăn đất sét, qua đó đi càng lẹ tôi nghe hình như có người đang đuổi theo.

Thời gian cuối năm lớp ba ấy tôi hai lượt đi về, ánh nắng sau lưng, tôi đuổi theo bóng của tôi đang đổ dài phía trước như đuổi theo tương lai một cách vất vả nhưng không kém phần bền chí.

Con đường tôi qua không đoạn nào bằng phẳng cả!

NhàQuê June 24, 2005

NhàQuê
19-10-2011, 08:21 PM
Những "ngôi trường xưa Em học"

http://2.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SRRH6yLQ8WI/AAAAAAAAAmA/du0CcOupk1U/s200/TranhChaMe1.jpg


Đoản 6: Bác Nông Phu


Ðời Bác chưa biết Sài Gòn, Bác chẳng có việc gì để tới chốn Trường An đó. Tuy thế Bác không như phần nhiều hàng xóm láng giềng quanh năm ôm khư khư vạt lúa mùa, chưa đi xa hơn các làng lân cận. Bác đôi lần tới thị thành tỉnh lỵ đó chứ!


Dù ít ỏi vậy mà Bác vẫn đến đúng nơi đúng chỗ.Bác dắt con lần đầu tiên của cả hai hành hương thánh địa Cao Ðài, viếng tịnh xá nơi Ðức Lý Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương nhập tịnh, rồi kế nữa khi Ngài qui tiên.

Lần đứng trước Chánh Án Tòa Hòa Giải Rộng Quyền Bến Tre tuyên thệ làm thế vì khai sanh cho con, qua đó Bác đã ký gởi ước vọng tỏa mát tựa bóng mây, tấm lòng người cha mong đứa bé sau nầy thoát khỏi vùng bao đời tăm tối. Không có lần đó một mảnh đời riêng đã rẽ đi hướng khác.

Thằng bé nhớ mãi ngày Bác đong đưa con cúi bện rơm, khói không tan được trong lớp sương dày đặc, vẽ thành vệt dài dọc theo con đường băng qua cánh đồng rộng dẫn về hướng Tây.

Vài giờ nữa mặt trời sẽ lên từ phía sau lưng; Cha con vượt ngang khoảng đêm sắp tàn, đến sớm ngồi chờ trong sân Trường Tiểu Học Bổ Túc Ba Tri ngày đầu tiên của niên khóa, nơi ấy cũng có lác đác vài cha mẹ dẫn con từ các xã xa tới.

Mãi tới học trò đã đâu đó vô lớp rồi, ông Ðốc Học Huỳnh Văn Chưng mới giải quyết đến nhóm người ngồi chờ.Ông nhìn thằng bé nhỏ xíu nghi ngờ không biết Nó đủ sức học nổi lớp nhì, lớp moyen hay không? Thằng bé gan dạ dám trình Ông tất cả bài thi đều đạt điểm cao.

Thế rồi mọi chuyện cũng qua, thằng bé được xếp vô lớp nhì F chưa có thầy cô nào chánh thức phụ trách, quý thầy thay phiên dạy tạm hàng ngày trong mấy tháng liền.

Trong ba dãy trường, chỉ dãy lớp của nó lợp lá, phòng học có lần làm phòng bỏ thăm, trong xó góc Nó thấy được hàng đống hình Ðức Quốc Trưởng in sẳn mặt bị gạch tréo.Ngài xấu xí quá nhiều so với hình chính Ngài ngự trên giấy bạc đang lưu hành. Vị Vua mới không long bào, nguyên là vị tể tướng từng mấy lần quì nhận tước đã soán ngôi Ngài qua ấy...

Ông Hiệu Trưởng đã sửng sốt khi đến lớp nhất D công bố và nhìn mặt thằng bé "Thủ Khoa". Ông ngỡ rằng Nó ngồi đâu cuối lớp, ai dè Nó đứng dậy từ bàn đầu Ông không hay.

Từ đó thằng bé được cả trường biết mặt, thầy cô nhớ tên dù năm trước Nó cũng đã một lần lảnh thưởng nhất lớp. Lần nầy Nó gom hết ba phần: nhất mỗi lớp, phần thưởng Tổng Thống và phần thưởng đặc biệt do một người địa phương có phương vị gần như thành viên Nội Các, gởi tặng cho học sinh đứng nhất qua kỳ thi riêng của tất cả học sinh được xếp nhất nhì ba trong mỗi lớp.

Phần thưởng đặt ra lần đầu tiên và có nhiều sách quý, đến ông Hiệu Trưởng phải nhắn thằng bé đem cho ông mượn đọc trong một thời gian, nhiều quyển còn bút tích ghi chú của ông.

Bác nông phu chân đất thật sự xúc động trong số khách dự lễ phát thưởng năm ấy, lần đầu tiên được danh dự nhận thơ mời. Cả hội trường ít nhất ba lần vỗ tay, nhìn thằng bé lên nhận thưởng rồi nhìn người cha; Bác nông phu áo vải ngồi lạc chung quanh những lụa là.

Bác nông phu thân phụ tôi, Ba tôi đó!

Trong tiềm ẩn Người có tất cả những đặc điểm anh hùng mà tôi tôn kính. Lần hãnh diện tôi mang lại cho Người chưa thấm vào đâu so với công mà tôi năm dài tháng rộng được hưởng dưới bóng mát mênh mông của Người.


NhàQuê 2005

NhàQuê
20-10-2011, 04:43 PM
Những "ngôi Trường xưa Em học"

http://3.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SRRT87GVsbI/AAAAAAAAAmI/NSztUCRWeZg/s200/NQ76THKH.jpg

Đoản 7: Muối

http://2.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SRRUKrZNB2I/AAAAAAAAAmQ/PIfOCcI_GY8/s200/NQ76Muoi01.jpg


(Kính Dâng Ba Má, Tri Ân Nhạc Phụ và Thương Yêu Tặng Mẹ Các Con)


Thuở ấy tuổi hoa niên, tôi hòa nhập vào dòng chảy chính cùng các bạn khác mỗi ngày một đông dần thêm: Tôi là học sinh Trường Trung Học Công Lập Bến Tre, Trường Trung Học Kiến Hòa tên gọi về sau. Tôi hãnh diện là!

Chúng tôi đến từ nhiều hoàn cảnh khác nhau, đến từ nhiều nơi chốn khác nhau, cách trú ngụ cũng khác nhau, đến từ nhiều giai tầng xã hội khác nhau, tuổi tác cũng khác nhau ... cái chung là chúng tôi theo đuổi cùng một chương trình giáo dục phổ thông đồng đều của chính phủ lần đầu tiên của tỉnh tôi: Tỉnh có ba dãy cù lao, có ngút ngàn dừa xanh lả ngọn quanh năm trĩu quả, có cánh đồng lúa hát vui mùa lên đòng ngậm sữa, có mấy cánh rừng nước mặn kiêu hãnh trực diện thách thức từng cơn sóng dữ biển Ðông...

Nếu có một thang biểu để xếp hạng có lẽ tôi ở trong nhóm thấp kém nhất về nhiều mặt, không hiểu sao tôi đã che dấu tung tích nghèo nàn thiếu thốn của mình suốt tháng năm ròng rã nơi “cửa Khổng sân Trình" ấy.

Tôi cố thủ trong vỏ ốc mặc cảm hàn vi của mình. Tuy nhiên tôi cũng có vài bạn để gần gũi, vì tôi đã có lần ngủ đêm trong cái nhà người bạn: Cái nhà trống trước trống sau, vách phên rách nát, bà mẹ phải tha phương làm mướn làm thuê, lâu lâu về cho chút tiền và anh em họ đùm bọc nhau giữa hai kỳ mẹ về với đàn con rồi lại ra đi.

Vài bạn khác mà em gái phải hy sinh việc học hành để hàng ngày vun xới mảnh vườn bên cạnh người cha không còn chân nào sau ngày hòa bình tạm thời lập lại...

So các bạn ấy tôi thầm nghĩ tôi còn diễm phúc ít ra là trong hai năm đầu tiên khi Ba tôi chưa đột ngột từ trần.

Sự ra đi của Người làm gia đình tôi nghiêng hẳn! Lần đó có vài bạn hay tin tới thăm trễ, nhưng làm tôi hổ thẹn thân thế mình trong thời gian dài trước khi tôi nhận ra nghèo không phải là một điều gì ghê gớm!

Bây giờ không trễ tôi xin tạ lỗi cùng các Bạn, vì những ý nghĩ chưa lần nào nói ra ấy và đã tiếp các bạn xơ xài, không xứng đáng những nghĩa cử ưu ái mà các bạn từ xa lặn lội đến thăm. Các Bạn còn khuyến khích tôi đừng bỏ học...

Sau mỗi mùa Hè, tôi trở lại trường tóc hoe da nám của mấy tháng theo thuyền buồm ra biển, sang sông bắt xò nghêu, lặn lội vô rừng bắt cua bắt cá. Số tiền kiếm được phụ giúp một phần vào chi phí ăn ở cho năm học kế tiếp. Thiên nhiên thời ấy cũng góp phần...

Các em tôi đều dừng lại ở tiểu học cùng Má tôi lo cái nguồn lợi huyết mạch: lò nấu muối. Ba tôi một tá nông dành dụm mua được hai mẫu ruộng rẫy trước đã mướn. Mỗi năm có một vụ mùa vào những tháng nước ngọt, hai mẫu đất thiếu trước hụt sau vì gò và rạch xẽo cũng được tính vào diện tích chung, còn phần trằn thì năm nào lúa cũng bị nước chảy mẹp. Trúng mùa cho lắm cũng chỉ hơn trăm giạ đôi chút. Thế còn hơn nhiều gia đình khác chạy gạo từng ngày!

Từ tôi còn nhỏ lắm, Ba Má tôi đã làm thêm việc nấu muối, nấu nước mặn lọc ra từ đất nhiễm nước biển, lớp đất trắng mốc thít, công việc nầy đòi hỏi nhiều sức cần lao từ bước đầu tiên đi nạo vét lấy đất có chứa muối cho đến khi vớt được những hạt muối trắng ngần kết tinh từ lò nấu liên tục không ngừng nghỉ ngày đêm, bên cạnh đó phải có đủ củi đốt cho dù là cây tươi, chuyện nầy không phải dễ dàng!Về sau nước mặn dùng để nấu thành, do lọc từ muối hột khi làng tôi đã được du nhập kỹ thuật làm ruộng muối từ Phan Thiết và lò nấu được chụm bằng trấu làm cho công việc chế biến nầy đỡ vất vả hơn nhưng cũng phải liên tục ngày đêm. Muối hột và trấu đều mua thiếu được trả dần.

Muối bọt, thành phẩm đó phần lớn bán chịu cho đồng bào vừa di cư vào Nam, họ dùng trong khâu sản xuất mắm tôm, mắm ruốc (cho đến năm 1960 họ rời đi nơi khác vì cuộc sống đe dọa), mọi việc thiếu chịu vần lân dây chuyền như vậy dựa vào lòng tin lẫn nhau.

Ngoài việc đã có đủ lúa ăn, "kinh tế phụ" gia đình tôi như thế đó!

Sau khi Ba tôi mất, đáng lẽ tôi đã phải bỏ học, chuyện đó ắt phải vậy và tôi cũng sẵn sàng! Hàng xóm láng giềng và nhất là bên phía nội tôi khuyên Má tôi để tôi ở nhà phụ giúp gia đình: Lấy Giạ Ðong Lúa, Không Ai Lấy Giạ Ðong Chữ

Vâng, chính lời khuyên ngàn vàng ấy Má tôi nhất quyết hy sinh thêm nữa cho tôi theo đuổi việc học cho đến hết bậc đệ nhất cấp theo suy tính của Người.

Phải hiểu điều kiện sinh sống ngày đó ở nông thôn mới thấy hết gánh nặng trĩu vai của Má tôi vừa tự chất thêm lên cho mình.

Tôi lại đến trường lòng ngổn ngang không tả xiết!... Tôi đã chiến đấu không kém phần dũng cảm bên cạnh các bạn đồng song có cuộc sống an lành hơn tôi trong nhiều năm dài, tôi cho là thế!

Ðứng nhìn mặt đất tuyết phủ trắng, nhìn từng đống tuyết lem luốc bị ủi vào xó góc bãi đậu xe, tôi thường so sánh với màu muối bọt và muối hột thuở nào với nhà tôi đứng cạnh. Nàng hiểu tôi hơn tất cả, đã đi bên tôi suốt bốn mươi năm rồi.

Thân Phụ nàng, một vị viên ngoại đã thi ân giúp tôi theo học được năm cuối cùng bậc trung học, mức thang chót tôi cơ hồ không với tới... Nàng chẳng khác là bao nấc thang tiểu thơ cao thẳm về một bên ...

Trong trí tưởng hồ như Ba Má tôi mờ mờ mỉm cười nơi phía an nhiên...

Xin đời đời nhớ ơn! và tôi đã đến!

Tôi còn nhớ rõ lắm, lần đầu tiên bước lên bục giảng ở một tư thục, nơi học sinh không đồng phục, một thứ biểu tượng của kỷ luật mà tôi chỉ mới rời bỏ tháng trước đây.

Tôi bắt đầu nghiệp dĩ bằng bài muối Clorua Natri: NaCl


NhàQuê 2005

NhàQuê
21-10-2011, 07:23 AM
Những "ngôi trường xưa Em học"


Đoản 8: Trung Học Tư Thục Nguyễn Du

http://4.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SRXvSut-5CI/AAAAAAAAAmo/CFcclDjO-p8/s200/NguyenVanPhuoc1A.jpg

(Di ảnh Thầy Nguyễn Văn Phước, Hiệu Trưởng Trung Học Tư Thục Nguyễn Du, Ba Tri Kiến Hòa)



Nếu vị giám khảo không rộng lượng, chấm bài toán kỳ thi tuyển vào đệ thất trường công mà tôi làm bài sai từ đầu tới cuối, chắc tôi đã rơi đài .

Tôi cũng nhận biết ngay được vì kết quả toàn số lẻ thập phân, lúc đó tôi không còn đủ thì giờ để chép đầu bài rồi làm lại từ đầu trên tờ giấy khác.

Cách giải hoàn toàn đúng theo trình tự. Ðến nay, tôi vẫn thắc mắc là do tôi chép đầu bài thi sai vài con số nào đó hay lỗi do hai vị giám thị viết lên bảng sai.

Cũng may tôi trúng tuyển hạng thấp, nếu không tôi đã là học sinh trường trung học tư thục Nguyễn Du có lẽ.

Một cách rộng rãi, tôi cho 80m x 20m = 1600 m2 là các cạnh và diện tích toàn thể khuôn viên nhà trường gồm hai phòng học trong một thời gian dài và sân bóng chuyền có cái giếng hộc ở cuối, mỗi lần banh ra ngoài hoặc ra lộ hoặc va vào tường hoặc nóc nhà lân cận làm láng giềng thường xuyên méc với văn phòng dù họ cũng là phụ huynh học sinh.

Sự thực chưa chắc trường Nguyễn Du đạt được diện tích "lớn" như vậy!

Tôi đến lớp học của trường lần đầu tiên với sự hướng dẫn và giới thiệu của vị giám thị, khi ấy trường đã được mười tuổi trong suốt chiều dài chung hai mươi năm lịch sử của nó. Trước đó tôi chỉ ngang qua, dù rất nhiều bạn tôi theo học ở đây. Tôi chỉ nhận dạy ở đó nhiều nhất là 8 giờ mỗi tuần, thường thì 4 giờ cho đến ngày miền Nam đổi chủ và trường xóa sổ.

Một cạnh 20 mét vừa nói tiếp xúc với tỉnh lộ 26, đoạn đó tỉnh lộ theo hướng Nam Bắc trước khi nó quẹo đúng 90 độ đổi hướng Tây Ðông để ra biển cách nơi đây khoảng bảy cây số; Do đó kiến trúc chánh của trường là hai phòng học không hướng ra đường mà lại nhìn về hướng Nam, hướng ngôi Giáo Ðường. Tôi không tìm hiểu có phải phần đất trường tọa lạc được mướn của Nhà Thờ hay không.

Tôi quên chưa nói cho các bạn biết trường Nguyễn Du nằm gần rìa phía Bắc của quận lỵ Ba Tri, Quận quê tôi.

Thầy hiệu trưởng gắn bó hai mươi năm thủy chung với nó, có người gọi thầy là chủ trường.

Chưa bao giờ tôi thấy thầy ăn mặc cẩu thả, bỏ áo ngoài quần hay mang dép, chưa bao giờ! Thầy mang giày da, áo veston, nón nỉ thoạt nhìn tưởng thầy sắp sửa đi đâu đó. Không, thầy sắp sửa bữa nhậu mỗi chiều ngay trên hàng hiên ngôi nhà lá của thầy gần căn chót của dãy trường hai lớp học, nhà thầy xa đường lộ hơn, cũng quay cửa về hướng Nam, tiếp theo nữa còn vài nhà khác hàng xóm thầy, họ không có đường nào tiện lợi hơn là qua cửa nhà thầy rồi qua sân các lớp học vốn hẹp lại còn lổm ngổm xe đạp trong những ngày có lớp để ra lộ cái, ra tỉnh lộ 26.

Thầy du học ở Pháp về, mấy năm đầu thầy dạy Pháp Văn sau chắc già yếu thầy không đứng lớp nữa.

Chiều nào khi hết giờ dạy ở phòng gần nhà thầy, cách mấy cũng không thoát được khi thầy gọi qua, cùng ngồi trên hàng hiên đó đối ẩm.

Khổ nỗi thầy không cần mồi, kiểu nầy tôi chịu không thấu nên thường phải có món nhấm riêng cho, có thể là sớt ra từ phần dành cơm chiều cho thầy, chí ít cũng là đậu phộng rang. Thầy không uống "sét" bao giờ, phải pha “sô đa” tuy chỉ là cognac nội hóa, thỉnh thoảng mới có Beehive hay Rivalet.

Thầy không ép nhưng theo thầy cho phải lễ, đã là chuyện vất vả dù tôi thuộc hạng cứng đang lên!

Dĩ nhiên rượu vào lời ra, thầy kể chuyện những ngày thầy còn là "dân cậu" con điền chủ, xó xỉnh hầm rượu nào ở Paris cũng có ít nhiều lần thầy đến đó. Thầy "kiên trì giáo dục" hoài đến nỗi tôi thuộc lòng, cộng thêm sách vở nên lần đến Paris tôi đã dễ dàng kiểm chứng vài điều thầy kể khi xưa.

Một món tôi không học được ở thầy là môn đá gà, thầy mê lắm. Nhiều lúc vị giám thị vào lớp nhắc nhở học sinh đóng học phí đúng hạn, phải dừng nói vì đám gà nòi trong chuồng sát vách gáy vang làm cả lớp cười rộ. Mùa lạnh lớp học um khói do đám gà nòi được sưởi ấm thêm cho dù đã nghệ ngãi đúng mức. Ðám học trò vẫn thường đổ thừa khói quá chúng làm bài không được chứ không phải do chúng không thuộc bài.

Chiếc xe lôi đậu chờ thầy và thằng "đệ tử" mang bịch đệm có gà chiến trong ấy đi theo, thì ai cũng biết hôm nay có nhiều trận gà hấp dẫn đâu đó.

Nhớ rằng thầy vẫn khoác veston như hằng ngày khi bước ra khỏi cửa, thầy là người duy nhất trong trường gà mặc như vậy, trong lúc giới mộ điệu có nhiều cụ ông bới tóc củ tỏi...

Các quán nhậu dã chiến di chuyển theo trường gà như vệ tinh không thể thiếu được, đo đó cũng tạo được hưng phấn như xem đá gà mà nhiều người cho đá gà là một nghệ thuật.

Sau 1980 tôi có vài lần thưởng thức món da gà nòi xào lăn và thịt gà nòi "hon đu đủ", thời gian nầy đá gà bị cấm, gà đá được tròng cựa sắt nên trận đấu diễn ra rất nhanh và bên thắng còn được "bắt xác" gà thua vì vậy có món nhậu hấp dẫn nầy: Da gà đã được nghệ ngãi dòn ngon thì phải biết!.Trong chín năm đầu tiên, Nguyễn Du là trường trung học duy nhất toàn quận Ba Tri, học sinh của trường đủ loại "quốc tịch" của mười sáu xã trong quận và tương đối đông đúc, phải mướn thêm phòng học bên Nhà Thờ. Ðến năm thứ mười lăm cất thêm một phòng học thứ ba quay cửa ra sân bóng chuyền thay thế cho phòng mướn Nhà Thờ đã hết hạn.

Mỗi cấp có được hai lớp, nét đặc biệt là học sinh dù cùng lớp nhưng tuổi đời chênh lệch nhau nhiều, thời chiến tranh nên điều nầy dễ hiểu.


Ở quận miền quê như vậy, thầy cô đã có gia đình hay còn độc thân đi ăn cưới học sinh của mình là chuyện thường, thường như phụ huynh nhờ con mình "thỉnh" thầy tới ăn giỗ hay đám cúng kiến gì đó.

Ngoài vị giáo sư trụ cột sắp xếp môn dạy và thời biểu, con gái ông hiệu trưởng các buổi không học cùng phụ giúp vị giám thị lo việc sổ sách và được mấy thầy "cưng" lắm vì Bé chi xuất trả lương, có khi "kẹt" mấy thầy mượn trước nữa, thế mà vẫn bỏ bao thơ lịch sự đúng mức.

Trường dù nghèo, ở vị trí khiêm nhường nhưng đã hoàn thành vai trò của nó sau hai mươi năm giảng dạy.

Không có thống kê chính xác về tổng số học sinh đã học ở trường đệ nhất cấp nầy; Tuy nhiên tôi khẳng định là nhiều học sinh đã là Bác Sĩ, hoàn tất Cao Học, Sĩ Quan Võ Bị, Sĩ Quan Hải Quân, Sĩ Quan Không Quân, Sĩ Quan Thủ Ðức... đủ các binh chủng và chuyên môn kỹ thuật... có nhiều người mang cấp bậc Ðại Tá không kể chiến tuyến, cũng có nhiều cấp chỉ huy, viên chức thuộc ngành Cảnh sát Quốc Gia, đông nhất phải kể nghề giáo giảng dạy đủ các cấp lớp,... lại cũng có người đạt học vị Tiến Sĩ (Ph.D) tại Hoa Kỳ...Các cựu học sinh Nguyễn Du là doanh nhân thành đạt nhan nhản. Rộng lớn hơn phải kể từ cấp Xã Ấp cho đến Quận Huyện Tỉnh Thành đều có bóng dáng lãnh đạo mà ngày xưa đã có thời theo học Nguyễn Du.

Tất cả đều góp phần với đất nước trong phương vị của họ.

NhàQuê 2005

NhàQuê
22-10-2011, 11:05 PM
Những "ngôi trường xưa Em học"


Đoản 9: Ban Khánh Tiết

Đình làng tôi cũng như tất cả các đình khác trong vùng, đều có cử ra Ban Khánh Tiết, quý cụ trong ban ấy đều là những người được kính trọng, uy tín đầy mình.

Ban Khánh Tiết họp nhau bàn định phân công, lo liệu công việc trong năm, cúng kiến, mời và trả lễ các đình làng bên khi được mời lại, trong đó lần quan trọng nhất là cúng kỳ yên của mỗi đình thường có rước hát bội về diễn ba đêm, vở tuồng nào kết thúc cũng rất có hậu.
Đình nào không làm đủ bài bản như vậy coi như " mất mặt" với các làng khác. Vì tôi đi học rồi mưu sinh nên thực sự không sống ở làng nhiều, chỉ hiểu lờ mờ như vậy. Có vài lần dự đám cúng nhưng là khách mời của đình.

Không hiểu gì cả mà có lần tôi làm trưởng ban khánh tiết mới tréo cẳng ngỗng. Khen ai khéo đặt ra cái ban nầy trong mỗi lớp của trường trung học. Tên thật sự của nó là Trưởng Ban Trật Tự Khánh Tiết và Vệ Sinh, nghe dài dòng văn tự quá cỡ thợ mộc!!

Số là mới lót tót từ dưới quê lên tỉnh học, đường xá ngang dọc còn chưa rành, còn sợ đi lạc vậy mà "có chức" liền, sướng không???

Trong lớp tôi có tới bốn đứa cùng quận nên sau khi các "chức vụ có ăn" đã bị phe thành thị chiếm hết rồi: Nào là Trưởng Lớp, Phó Lớp, Trưởng Ban Học Tập và Báo Chí, Trưởng Ban Thể Thao và Du Ngoạn, Thủ Quỹ...nên ba ông kia đẩy tôi ra kiếm chút cháo, vớt đỡ con vịt đẹt!!

Chắc là do ông "Ba Tri Thi Tập" nhanh miệng giới thiệu người đồng hương là tôi vào "Chức Trưởng Ban Trật Tự Khánh Tiết và Vệ Sinh".

Tôi đắc cử dễ dàng nhờ tôi nhỏ con!! Cám ơn các bạn cùng lớp chỉ mới ngày đầu tiên chưa quen nhau mà tín nhiệm tối đa "trong cuộc bầu cử phổ thông, trực tiếp và kín"!
Các bạn tôi quả có đầu óc khôi hài!!

Năm sau tôi ngán quá, lớp lại cử bạn khác, ông "Hộ Pháp" làm trưởng ban nhiệm kỳ mới; Lại cũng óc khôi hài, phải to con mới giữ nổi trật tự!!

Tôi được xếp hàng trong giới lãnh đạo, trình diện "nội các" nhận tràng pháo tay có cả reo huýt sáo của mấy ông "trật búa" tôi biết về sau nầy .

"Nhậm chức" rồi tôi mới hiểu đây là chức vụ quan trọng vào hàng bậc nhất về nhiệm vụ: Tôi phân công quét lớp một cách "Quốc Pháp Bất Vị Thân" đồng đều và ai tới phiên cũng phải vì lợi ích tập thể mà thi hành.

Nghe nói ở các lớp nam nữ hỗn hợp bọn con trai sướng lắm, khỏi làm vụ nầy, vì các cô nàng muốn chứng tỏ "ba đảm đang" nên làm tất, dịp cho người khác coi giò coi cẳng hiền thục, cũng có thể sợ đám con trai khám phá ra "đồ chua" bánh kẹo giấu trong hộc bàn cũng nên. Lớp toàn nam chúng tôi thì rắc rắc!!

Chổi cùn phải báo cho Thủ Quỹ xuất tiền mua cây khác, việc giữ chổi mới là chuyện rắc rối, thượng phiên bàn giao hạ phiên, lỡ khi họ quên tôi phải đem về nhà ở trọ, chứ để góc lớp đã có mất rồi: Sách xưa có nói ăn cắp chổi thì nghèo mạt rệp vậy mà vẫn mất có tức hôn?!?!

Ở nhà cũng không hiểu tôi vô trường làm tới chức gì mà lảnh được nhiều "chổi chà" như vậy!

Rồi lại còn vụ lau bảng, phải nhúng ướt miếng bọt biển mỗi lần đổi giờ của Giáo Sư, mà hồ nước trong nhà vệ sinh ít khi đầy lại còn nhìn vô muốn phát ói... Bảng phải được lau sạch cuối giờ mà đứa nào cũng mới mười một, mười hai tuổi nên phải nhảy mới với tới mấy chữ thầy viết trên cao, làm như đang ôn các động tác tập thể dục!

Nói trưởng ban cho nghe gồ ghề vậy chớ trong năm chung quy chỉ có vụ quét lớp, lau bảng là thường xuyên các ngày học.

Trật tự thì đâu ai ớn cái thằng nhỏ con nhất, còn khánh tiết tôi chẳng biết làm gì trừ lần tổ chức tiệc chia tay nghỉ Hè mọi người hùn tiền đi mua kẹo bánh và nước ngọt, cái khó là đứa nghèo quá thì có bao nhiêu hùn bấy nhiêu, vậy mà tôi làm được dịp để cho ban văn nghệ hát xướng: Hôm nay đây còn vui trông thấy nhau...

Trong lớp cũng có vài người không biết học ở đâu cứ mỗi lần rảnh rỗi như tiệc chia tay Hè ngày hôm đó, lại ưa cầm tay người khác hành nghề.

Trước khi nó phán, nó bắt tự mình kiểm soát lại chỉ tay coi có đúng là : bàn tay trái nào cũng có chỉ tay hình chữ AI, bàn tay phải rõ ràng chữ ỈA.

Xong thủ tục rồi bắt đứng dậy xem tướng mạo: Tụi nó phán tôi rằng cuộc đời mầy không khi nào làm được cấp trưởng. Sách Tam Thế Diễn Cầm cũng nói tôi như vậy.


Tất cả đều trật: Tôi có làm Trưởng Ban Trật Tự Khánh Tiết và Vệ Sinh; Nghề của chàng!!!

NhàQuê 2005

NhàQuê
24-10-2011, 06:42 AM
Những "ngôi trường xưa Em học"


Đoản 10: Nhan Sắc

Em có thể cô bé cột hai tà nhảy cò cùng bạn là cụ bà quá sáu mươi hoặc lưng chừng khoảng giữa là nhân vật nữ một thời nào đó trong đời rụt rè bước qua ngưỡng cửa trở thành nụ hoa nức ra từ nách lá trang điểm tạo phấn hương quyến rủ ngẩn ngơ Anh hay Ta là một hoặc nhiều người lại cũng có thể là con đường góc phố em qua con đò em sang hàng bữa hay dòng sông dịu dàng có ai ngờ cuồn cuộn tự dưới sâu Em với Ta thuở nào ngờ nghệch.

Guốc mộc Em khua càng ngày thêm vần điệu nắng sớm nắng chiều toa rập cùng chiếc nón nhạc thơ mong manh đôi má ửng hồng ẩn náu làn môi giấu giếm thẹn thùng bất chợt Anh nhìn buâng quơ lời không rõ nghĩa giật mình mẹ hỏi mấy lần luýnh quýnh lời thưa cốc đầu em hăm he dấu nhẹm liếc chừng ai lảng vảng gần xa con chữ đọc qua đọc lại mấy lần khô khốc trôi biệt tăm tăm không dính lại chút nào chỗ chứa kia có gì rất mới bám chặt như keo trí khôn đi đâu mất biệt khù khờ đến chẳng dám nhìn nhau

Hoa phượng Hè nào cũng rực đỏ chói chang theo gió lay lay chẳng nói lời gì buồn mênh mông da diết khoảng cách không xa bên nào cũng ngơ ngơ ngẩn ngẩn trông hướng trời kia thơ viết hoài không dám gởi biết làm sao nhận lại hồi âm có dáng quen quen nháng tới nháng lui mấy lần đứng chờ góc phố giả bộ tình cờ huyên thuyên trời trăng mây nước không thấm vào đâu không dàn bài nhập đề đi đâu chưa tới kịp hay còn đang ấp úng

Em có thể đến từ Mõ Cày Thạnh Phú Giồng Trôm Ba Tri Bình Đại chiều em về Chợ Giữa Ba Lai Sơn Đông Cái Nứa Hữu Định Tú Điền mang ước mơ rộn ràng phố thị rải thơ lên những con đường mấy mươi năm có nhòe nhoẹt chút nào hai tà hãy để gió bay chấp chới cơn mơ trắng ngần ngăn nào vừa nhét vội phong thư thương nhớ một trời hồng cây cỏ xanh hơn làn sóng ngầm không dáng hình rõ rệt âm thầm lắc lư từng con đường góc phố

Phố thị rộn ràng dòng suối trắng chảy ngang qua những cây me sân trường bốn góc hồ kia làm sao quên em được có dù đóng kín gạo bài phờ phạc hao gầy phập phồng dò thấy tên em trên bảng hay nước mắt rơi thất thểu chẳng muốn bước ra hàng quán rất gần có biết Hè bên ngoài vẫn vậy nhiều thêm vài Hè nữa em rời nơi đó sang trang rẽ nhánh con phà phía Bắc chở giấc mơ em con đường Duy Tân cây dài bóng mát

Cổng trường xưa vẫn mở mỗi mùa đã là dĩ vãng chợt nhớ chợt thương về ngang quay lại thôi thì em vui màu áo mới có còn chăng bối rối nhìn nhau không hay giờ chỉ còn xả giao kiểu cách tiên nữ xuống phàm cổ tích đã xa đua chen ráo riết sóng cuốn ào ào mờ mờ dấu chân chim vội vàng khỏa lấp dáng hình đổi thay nhận ra đâu dễ tình cờ gặp lại bao năm có phải đấy không sao giờ lạ quá trao đổi dè chừng

Thiên Địa Phong Trần Hồng Nhan Đa Truân lòng thắt quặn đau nước non binh lửa mới đó khăn sô em chít Cổ Lai Chinh Chiến Kỷ Nhân Hồi em có mặc màu nào đi nữa có đổi thay được kiếp người đâu chăm bón cây non đứng thẳng trở mình xanh tươi hoa lá xum xuê ơn em vô cùng tận thấm thía Nước Trong Leo Lẻo Cá Đớp Cá Trời Nắng Chang Chang Người Trói Người em có vui lòng xương gởi nơi xa

Gọi tên nhau muốn rơi nước mắt mới đó mấy chục năm con đường xưa em đi thay đổi đã nhiều cứ khép đôi mi em vẫn rõ ràng hiện ra vẫn rộn ràng góc phố lung linh soi bóng hồ kia bởi em và ta có thật cõi phàm trần nầy xin ngợi ca em là Nhan Sắc đẹp vô ngần cám ơn Em

NhàQuê Sep 25, 2006

NhàQuê
25-10-2011, 03:10 AM
Những "ngôi trường xưa Em học"

http://1.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SRr1qzopHqI/AAAAAAAAAqA/6N7WYEOrsE0/s200/BuiVanManh2.jpg
(Di ảnh thầy Bùi Văn Mạnh, Hiệu Trưởng/Trung Học Công Lập Kiến Hòa)

Đoản 011: Monsieur RICHARD


Tây Tới, Tây Tới!! Chạy, Chạy Bà Con Ơi !!!


"Ông Cụ" trạc năm mươi, gầy, đi hơi ngã về phía trước, mặc "côm bờ lê", thắt cà vạt đường hoàng, nách một đống giấy tờ bọc trong các bìa cứng, thường đi bộ đến trường. Đó là thầy hiệu trưởng thứ tư của trường tôi theo học: Thầy Bùi Văn Mạnh, Hiệu Trưởng Trường Trung Học Kiến Hòa.

Thuở ấy những năm 1960-1963, tôi qua các lớp đệ tam, đệ nhị rồi đệ nhất. Tôi không nhớ rõ Thầy từ Mỹ Tho sang nhậm chức vào tháng nào của niên khóa 1960-1961, có lẽ những tháng cuối của niên khóa nầy.

Tôi chưa thấy Thầy mặc áo sơ mi khác hơn màu trắng và để cổ hở bao giờ, "côm bờ lê" của thầy màu nhạt, thường là màu mỡ gà hay xanh bông phấn.

Đôi lần Thầy lái xe Traction màu đen đến trường, làm thầy "oai" ra phết: Đi làm bằng xế hộp! Tôi không nghĩ Thầy muốn "chơi nổi" như nhiều người đương thời, lối sinh hoạt trong trường của một nhà giáo mẫu mực hổ trợ cho sự suy nghiệm nầy của tôi. Những lần như vậy có thể là Thầy từ nhà bên Mỹ Tho sang trễ đôi chút nên đến thẳng cho kịp công việc. Cũng có thể vì giấy tờ hồ sơ quá nhiều không thể ôm đi bộ như hàng ngày, giờ hành chánh ở văn phòng không đủ cho Thầy giải quyết phải mang về làm thêm. Lại cũng có thể là sau khi rời văn phòng Thầy phải đi đâu đó gấp, không kịp trở về công xá dành cho để lấy xe.

Công xá vừa nói nằm trên đường Hai Bà Trưng, khoảng giữa đại lộ Phan Thanh Giản và đường Lê Văn Duyệt, ngôi công ốc nầy nhìn ra hướng Nhà Đèn, trong đó có cả phần của ông Quận Trưởng Trúc Giang.

Nhiều năm trước đọc trong Website Nguyễn Đình Chiểu-Lê Ngọc Hân, Mỹ Tho, được biết sau nầy Thầy sống bên Cali. Tháng trước trong lúc phụ đưa danh sách Thầy Cô và Cựu Học Sinh vào trang Trung Học Kiến Hòa mới hay rằng Thầy đã qua đời.

http://3.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SRr1fDhu8XI/AAAAAAAAAp4/Rg_pvidFo10/s200/BuiVanManh1.jpg

Mấy ngày nay đọc đi đọc lại mấy lần bài "Thầy Bùi Văn Mạnh và Tôi" của Giáo Sư Huỳnh Chiếu Đẳng có thêm được vài chuyện xưa nay về Thầy, trong đó có chuyện về dạy tiếng Tây.

Nếu bài viết nầy có gì thất lễ, xin được tha thứ, tôi chỉ muốn gợi về một kỷ niệm vẫn còn hiện diện một cách rõ ràng trong trí nhớ ngày càng thất thoát của tôi, nhưng kỷ niệm ấy về Thầy thì không phai chút nào.

Là học trò, ai chẳng khoái các giờ trống (giờ permanent) hoặc giờ giáo sư thình lình vắng mặt, nếu được hai giờ liền nhau thì tuyệt vời. Dùng giờ "tự do" vàng ngọc ấy đi lang thang ra phố rửa mắt, rề rà quán nước nhả khói triết gia, đấu láo thiên hạ sự ở quán cà phê hay ít ra tụm năm tụm ba ngoài Bờ Hồ, cô nào đi ngang đúng giờ "hoàng đạo" đó coi như không cóng giò cũng rệu khóc.

Nhưng nếu nhìn thấy Thầy từ xa đi tới, tức thời "đơn vị" phân tán mỏng liền tù tì, sợ Thầy thì ít mà sợ Thầy kéo vô trở lại có được bao nhiêu đứa hay bấy nhiêu: Cho Thầy dạy tiếng Tây.

Thường thì Thầy dặn trước thầy cô giám thị nói lại trưởng lớp, bảo cả lớp chờ Thầy lên dạy, những lần như vậy không thoát được. Còn dịp bất ngờ giáo sư không đến, cả lớp còn đang lóng ngóng chờ người xuống văn phòng hỏi, sứ giả đi giữa đường gặp Thầy đang ôm một đống bài in ronéo đi lên, là được "Ê Trò" quay lại cùng Thầy.

Có đứa nào đó tinh mắt thấy trước la vang động cả hành lang: Tây Tới, Tây Tới, Tụi Bây Ơi, Chạy! Y như trong làng quê khi xưa báo động nhau khi lính Tây đi ruồng.

Thầy Cô đang dạy lớp bên cạnh lấy làm lạ ra cửa lớp nhìn, sau quen dần mỉm cười lắc đầu...

Có khi chúng tôi cũng chạy "gió", xộ!, vì tin tức do cảm tình viên cung cấp không đúng sự thật: Thầy cũng ôm xấp bìa cứng như hàng ngày, cũng đi ra khỏi văn phòng; nhưng lại đi họp với các cơ quan khác hay đi công việc gì đó ngoài trường.

Tóm lại Thầy ra khỏi văn phòng là có "báo động đỏ", mức thấp nhất cũng "báo động màu da cam".

Vậy mà có lần cả đám bị tóm mang trở lại, còn giả lả phụ ôm dùm bài cho Thầy rất ư ngoan học, chắc lâu ngày Thầy biết "mánh" đi lên bằng cầu thang chúng tôi thường chạy xuống.

http://3.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SRr18c61IgI/AAAAAAAAAqI/HXst38_wAZw/s200/BuiVanManh3.jpg
Dãy nầy bị Tây ruồng nhiều nhất

Đoạn trên có nói về bài in ronéo, tôi xin nói với các bạn trẻ về chuyện nầy: Những năm tháng đó nhà trường chưa có máy photocopy, khi cần in nhiều bản phải dùng máy ronéo, nói là máy chứ thường quay bằng tay, sau có máy tự động quay bằng điện.

Tờ giấy sáp (stencil ??) được quýnh máy trực tiếp qua máy đánh chữ đã tháo ru-băng, những chữ được gõ vào đó làm cho giấy sáp bị lủng lỗ, nhờ vậy mực in xuyên qua được giấy sáp in thành chữ trên giấy, thường là loại giấy tái chế rẻ tiền màu vàng đất, tờ giấy sáp được móc cuốn tròn vào trục máy ronéo hình trụ nằm ngang và mực in đã được nạp vào máy.

Vậy là sang lắm rồi đó, chứ tụi tôi có khi phải dùng bàn chải phết mực in rồi quét qua giấy sáp cho mực xuyên qua và in xuống tờ giấy đặt bên dưới, cách thủ công nầy làm bản in không đều, chỗ đậm chỗ lợt...

Về máy đánh chữ, các bạn có tưởng tượng được rằng ngày đó và cho mãi đến năm 1975, ở một nước thuộc Thế Giới Tự Do như nước ta, vậy mà tư nhân muốn mua một máy đánh chữ phải xin phép chờ điều tra, thuận mới được mua và có máy rồi phải nạp bản chữ mẫu cho nhà chức trách Cảnh Sát Công An... Họ lượm được truyền đơn giống loại chữ máy của mình, người sở hữu gặp rắc rối không nhỏ... Không có máy chữ, chúng tôi có khi phải viết vào giấy sáp bằng cây viết có kim nhọn ở đầu, vẽ hình nhất là về Toán phải theo cách nầy....

Lúc đầu, cấp lớp nào Thầy cũng dạy một bài in sẳn y như nhau. Sau Thầy cho lớp tôi mượn mỗi đứa một quyển "Le Livre Unique", quyển sách bìa cứng màu rêu nhạt, chính gốc sách in bên Tây, người ta nói khỏi lo vụ in trật chính tả, sách in bên Tây không bao giờ có phụ bản đính chính.

Tôi nhớ nhất lần Thầy dạy bài "La Rentrée" trích của Anatone France, mở đầu: Je vais vous dire tout ce que.... khi đọc tới Le ciel agité de l'Automme, Thầy đang tìm chữ tiếng Việt cho từ agité, có đứa nào đó nói lớn "Trời Thu xao xuyến" Thầy ơi! Thầy ờ ờ khen giỏi có vẻ đắc ý....

Sau bài học nầy, tôi đâm ngờ bài "Tôi đi Học: Hằng năm cứ vào cuối Thu, lá ngoài đường rụng nhiều, trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức,...." của Thanh Tịnh có thể là phóng tác???

http://2.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SRr2yUvsyrI/AAAAAAAAAqY/576zoFXhFpY/s200/Luxembourg1.jpg
(Trong Vườn Luxembourg)

Le sac au dos, Je traverse au jardin du luxembourg en sautigent comme un oiseau(moineau ??) dans le premier jour d'Octobre ....Les feuilles tombent une à une sur les épaules nues des statues...(Xin tha lỗi chánh tả vì lâu ngày quá viết lại không đúng văn phạm và ngữ vựng). Chính bài nầy đã là nguyên nhân tôi bỏ ra một ngày thay vì đi xem lâu đài Versailles bên ngoài thủ đô nước Pháp, tôi đi riêng viếng vườn Lục Xâm Bảo mò cho được bảng tên vườn nầy dịp tôi đến Paris.

http://2.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SRr2USAsVWI/AAAAAAAAAqQ/omxj7w6PqHU/s200/Luxembourg2.jpg
(Rờ Bảng Tên Vườn Luxembourg)

Quyển sách Thầy cho mượn, không thấy kêu trả lại nên tôi giữ đến mãi sau 1975 bị toán truy quét Văn Hóa đến nhà bắt vợ con tôi nộp, vét hết sách tôi quý, Họ thu đem làm giấy đi đồng chắc!?!?

Bán niên thứ nhì của năm đệ nhị, chúng tôi không còn bị "Tây Ruồng" nữa, có ruồng chắc ai cũng trốn.

Và Thầy cũng biết "tụi nó" đang đứng trước ranh giới hoặc "Thượng Sĩ Gân" hoặc "Cánh Gà": Rớt Tú Tài anh đi Trung Sĩ..., và ước mơ " Tiến Xa Hơn" có nguy cơ tan vỡ. Thầy dạy nhiều lần vậy mà Thầy không nhớ cũng chẳng hỏi tên đứa nào hết, khi truy bài Thầy chỉ tay: Trò! Vous!

Lớp chúng tôi đàn anh thoát rồi, nhưng các lớp sau "áp lực vẫn còn nặng nề" và học loạt bài mới hơn được đưa vào; Đó là chuyện về gia đình Richard: Monsieur RICHARD s'habite à Paris....

Nếu chúng tôi ám chỉ Thầy là Tây thì các bạn các năm sau đặt "bí danh" cho Thầy là Monsieur RICHARD.

Với Thầy đọc tiếng Tây mà đọc chậm là không được à nha! Thầy rầy làm líu lưỡi luôn! "Ngu Như Cá" là thành ngữ nghe các bạn trọ chung nhà nói lại vào lúc thầy giận nhứt (Thay vì thường nói Ngu Như Bò trong tiếng Việt).

Tôi xin ghép bí danh Monsieur RICHARD và TÂY TỚI ám chỉ Thầy Hiệu Trưởng Bùi Văn Mạnh của thời chúng tôi còn là học sinh "quần kaki xanh nước biển, áo sơ mi trắng ngắn tay cổ hở", làm tựa đề bài nầy. Những từ danh ấy có lẽ Thầy chưa hề hay biết!

Vĩnh biệt muộn màng Thầy: Vị Tướng Soái phương vị cao cả không muốn quên những ngày dẫn đại đội tấn công!

NhàQuê 2005

http://1.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SRr3B8ONqqI/AAAAAAAAAqg/GndafczWvEI/s200/Paris1.jpg
(Paris Có Gì Lạ Không Em)

NhàQuê
27-10-2011, 06:17 AM
Những "ngôi trường xưa Em học"

Đoản12- Khung Cửa Sổ

Lần cuối cùng chúng tôi khép các cửa sổ lại và rời trường. Việc đóng các cửa sổ lớp học ra về, hằng ngày gần như không còn ai để ý hay có sự xúc động nào, vì nó nằm trong việc qui định của toán trực mỗi lớp. Các bạn có còn nhớ cửa sổ lớp mình màu gì không? Tôi tin rằng tất cả đều nhớ đúng!


Trường học nào cũng sơn cửa và cửa sổ màu xanh, màu của hy vọng ...! Qua bao nắng mưa, chúng được tu bổ, sơn phết lại nhiều lần, lớp sơn có mới cũ. Điều đó không xao động nhiều trong trí mỗi người khi chợt nhớ về.

Cửa sổ được đóng mở có ích lợi gì ai cũng biết, riêng chúng tôi việc ấy như dấu chỉ cứ lớn dần theo nhịp thể chất phát triển lên.


Ngày mới thành học sinh trung học, nhiều đứa trong chúng tôi đã không dễ dàng trong việc đóng mở bốn cánh lá sách ấy, vậy mà có tới hai khung như thế, có khi còn nhiều hơn tùy vị trí lớp dưới trệt hay trên lầu, ở khu trường cũ hay lúc đã dời về trường mới....

Tôi chưa bao giờ ngồi gần cửa sổ, lẽ dễ hiểu là tôi thuộc nhóm nhỏ con phải ngồi mấy bàn đầu, nơi các bạn gái thường chiếm trong các lớp hỗn hợp. Cũng không biết ai đặt ra qui luật như vậy, chưa chắc gì lúc đó chúng tôi đã biết "nịnh đầm" An Nam.

Ngồi mấy bàn đầu có lợi nhìn rõ những gì thầy cô ghi vẽ trên ấy, tai hoạt động ít căng thẳng hơn, .... nhưng thường bị chiếu tướng, bị truy bài thường hơn, không rỉ tai nhau được khi tình cờ có ý nghĩ vui chợt đến!

Nếu các bạn có thử lần nào, thì rõ ràng ngồi cạnh cửa sổ nóng hơn, lảnh đủ sức nóng của nắng hắt vào; Nên chi các anh lớn như anh Triệu văn Hoa chẳng hạn, thường bị ngủ gật. Ngày chúng tôi vào đệ thất còn nhỏ xíu mà anh lấy vợ được rồi đó, chênh lệch rất xa!

Anh và anh Tươi lớp trên hơn cũng cao lớn như vậy, được xếp trong đội hầu kỳ. Thầy Nho đặt tên là toán gỡ bóng đèn khỏi cần thang.

Cửa sổ chốc chốc lại mở ra, làm chúng tôi ngồi mấy bàn đầu bị lóa không đọc được chữ thầy biên trên bảng. Khiếu nại lại đóng, lại mở ... nhiều lần.

Sau nầy khi đã bể giọng, đám nhỏ chúng tôi mới rõ lý do tại sao, bên cạnh lý do bị hắt nắng còn có một lý do "quan trọng" hơn; Ấy là tiếng tu huýt re rét của cô Liên đang dạy thể dục bên dưới sân.

Tôi mường tượng viết đến đây, khi các bạn đọc, thế nào cũng vỗ đùi mình một phát, đúng rồi! thằng NhàQuê nói đúng tim đen quá trời.

Có đứa hông mắc mớ gì tới cửa sổ, ngồi tận đâu đâu cũng lò mò qua mở giùm... thấy thương.

Dưới sân bầy tiên nga đang tắm nắng, cánh trắng, quần đùi đen túm ống đang trong cuộc thi đoán hào hứng, trừ tóc ngoài ra trắng bốc đủ size, đủ code ... thôi thì đủ thứ ...Thôi tôi cũng không dài dòng chi cho lắm! (Vũ Trọng Phụng). Làm sao đóng cửa sổ cho đành!

Tôi không hoan nghinh cô Liên tí nào, cô ưa méc với phòng giám thị và chúng tôi lại nghe các thông cáo không được vui vẻ gì hết. Chán ngắt như thao diễn nghỉ, nghiêm, nhật lịnh...ở giai đoạn sau nầy kaki...


Cô ơi! Cô không thông cảm tụi em chút nào hết, tại cô chưa từng làm con trai mà !


Cô lại cứ méc: Monsieur Thắng, rầy học trò nghe, tụi nó chọc phá học trò "Mõa" đó nha! Và thầy Thắng của chúng tôi "Oui" lấy lệ.


Khung cửa sổ thuở hoa niên, thuở trái tim rung mãnh liệt của những tháng năm dưới mái trường Trung Học Kiến Hòa khép lại sau lưng, nhiều khung cửa sổ khác liên tiếp mở đóng:

Những khung trời mới quang đãng có, u buồn có, mây đen vần vũ có...lần luợt đến đi.

Nhưng có một ai hỏi những gì còn ghi đậm rõ trong trí nhớ, thì xin thưa đó là...

NhàQuê 2005

http://2.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SRrueynOm7I/AAAAAAAAApw/zvwArl0PGDo/s200/NQ76TranhDep01.jpg

NhàQuê
29-10-2011, 03:09 AM
Những "ngôi trường xưa Em học"

http://1.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SRy2Sp0EJiI/AAAAAAAAAqw/bi49Ur-Pl_A/s200/BTHTruong02.jpg

Đoản 13: Bảng Tên Trường

Gần đây có bạn thắc mắc là không biết trường mình có lúc nào có tên thật sự là Trường Trung Học Công Lập Bến Tre hay không, tôi cũng có dẫn chứng để làm sáng tỏ chuyện nầy rồi, dù rằng tôi không có thẩm quyền gì để bảo đảm việc có tính cách hành chánh đó; chỉ hoàn toàn dựa theo trí nhớ của mình, tôi tự tin như vậy!

Làm thơ ký cho cô Chung Thủy trong việc lập danh sách cựu Giáo Chức và cựu Học Sinh trường Trung Học Công Lập Kiến Hòa, đọc các tài liệu và hình ảnh do cô và nhóm bạn thiện chí của cô sưu tập được, sau đó chuyển Email hoặc Bưu Điện sang cho tôi.

Thú thật tôi hân hạnh và xúc cảm mãnh liệt khi lần đầu nhìn, đọc các tài liệu tưởng chừng không cách nào tìm được.

Những điều tôi viết trước đây, gần như phù khớp, độ chính xác rất lớn. Rồi từ đó tôi nhớ lại một điều làm tôi mủi lòng, các bạn cùng khoảng tôi khi đọc bài nầy chắc có cùng cảm tưởng như tôi, tôi tin vậy!

Các bạn ơi, thế hệ học sinh 1956 chúng tôi là đợt học sinh đầu tiên học suốt liên tục bậc Đệ Nhất Cấp và Đệ Nhị Cấp tại chỉ một trường thân yêu Trung Học Công Lập Bến Tre rồi cải danh theo tên tỉnh trở thành Trung Học Công Lập Kiến Hòa. Về sau trường còn có tên Lạc Long Quân và cả Nguyễn Đình Chiểu nữa. Hai tên gọi về sau nầy, do tôi đọc được trong số tài liệu tôi có nói bên trên.

Dù danh xưng có là gì đi nữa, trong thâm sâu "Người" vẫn là một, mẫu số chung của chúng ta đó các bạn ta ạ!

Cái mủi lòng của thế hệ chúng tôi là từ năm 1954 đến 1964, khoảng 10 năm lịch sử ngôi trường chúng ta nhắc đến là thương ấy; Chúng Tôi bước qua mấy chiếc cổng khác nhau mà không có treo bảng tên. Không có bảng tên trường trong 10 năm đằng đẵng...Không có bảng tên trường...Không có bảng tên trường!!!

Những tấm ảnh các bạn tìm thấy rải rác trong BenTreHome có cổng và bảng tên trường đều được ghi lại sau năm 1964.

Thực ra có một lần có bảng tên trường, nhưng lần ấy bảng được treo ở cổng vào văn phòng, tọa lạc tại góc ngã tư đường Nguyễn Tri Phương và đại lộ Phan Thanh Giản.

Không có bảng tên trường cũng đồng nghĩa, chúng tôi học nhờ trường sở của trường khác, có thể so sánh với hình ảnh một người đã trưởng thành rồi mà chưa có nhà ở. Không như các bạn về sau có được trường ốc khang trang, cổng thay đổi mấy lần, càng về sau càng uy nghi bệ vệ ...Tôi nghĩ nếu các bạn mường tượng lại chắc sẽ thông cảm với hồi cảm của chúng tôi.

Thời gian học nhờ trường Tiểu Học Phan Thanh Giản (trường Nam Tỉnh Lỵ), và trường Cộng Đồng Dẫn Đạo, trường không treo bảng tên đã đành! Khi dời về trường mới, khu vực Sở Thú cũ, trường có tới 2 cổng ra vào, do vì trụ cổng tạm quá thấp; Đó là lý do vì sao trong suốt 7 năm, chúng tôi mỗi ngày đi học ra vào không được đi ngang dưới bảng tên trường mình.

Nhưng tôi nhớ rất rõ tên trường và các con dấu ấn (mộc):

Trường Trung Học Công Lập Bến Tre có con dấu to hình tròn, trên vành khăn ngoài cùng có tên trường và tên tỉnh, chính giữa có huy hiệu Bụi Trúc. Thời kỳ nầy phù hiệu chúng tôi mang là miếng nỉ hình bầu dục (Oval), có thêu kim tuyến vàng hai bông lúa bao nâng niu 3 chữ THB viết tắt tên trường, bên dưới ba chữ đó có một hoặc nhiều dấu chấm tùy theo năm đang học (Đệ Thất, năm đầu có 1 chấm). Đồng phục áo bà ba trắng, nam quần trắng, nữ quần đen (phân biệt Giới Tính à ha !!!)

Trường Trung Học Công Lập Kiến Hòa có con dấu cũng in ra thành vòng tròn, vành khăn lớn ghi Quốc Hiệu và Bộ Quốc Gia Giáo Dục, vòng tròn giữa viết theo hàng ngang Trường Trung Học Công Lập Kiến Hòa . Về sau để thống nhất chung toàn quốc, con dấu được làm cùng khuôn khổ và cách trình bày. Phù hiệu kim loại có hình dáng chữ nhật 3 cạnh, cạnh thứ tư cong đều, nhọn phía dưới của dáng hình quả tim, nền xanh có hình quyển sách mở ra và chính giữa hơn cả có cây đuốc lửa đỏ đang cháy. Thời gian nầy, về đoàn ngũ học sinh nhà trường có tên là Hiệu Đoàn Trương Tấn Bửu và có bản nhạc làm Hành Khúc, đồng phục học sinh giống như trước 1975.

Như vậy tôi đã viết xong phần dang dở về phù hiệu Kim Loại rồi đó nghe các bạn, Huề nha!

Sau nữa là phù hiệu vải có tên trường, tên học sinh (tự viết lấy), đáng lẽ may hẳn vào ngực áo; nhưng phần đông chỉ kẹp, ra khỏi cổng trường tháo bỏ túi cho thành người lớn!!!

Xin xem đây là bài viết kỷ niệm chúng tôi vào trường hơn năm mươi năm, hơn nửa Thế Kỷ về trước! Ô Hô!!

NhàQuê, 2006

http://i28.photobucket.com/albums/c238/trongbtran/TranKimQue05.jpg

NhàQuê
30-10-2011, 12:09 AM
Bài Tiễn Bác Sĩ NGUYỄN VĂN LƯU, California

Lời Dẫn Nhập: Khoảng từ năm 1983 đến 1986, tôi có gặp ông một lần. Lúc đó tôi đi buôn thương hồ, đậu ghe ở bến Cầu Cái Cối, với bộ đồ bà ba đen mốc thít tôi rà rà lên nhà sách Thuận Hòa (tên mới là nhà sách Giải Phóng ??) bởi cái tật ghiền sách.

Ngạc nhiên và bất ngờ gặp lại người bạn là ông Bến Tre Nguyễn Đồng Danh đang tìm mua gì đó, tôi tiến lại gần đứng sau lưng nói nhỏ vừa đủ nghe "Về hồi nào vậy?". Mỗi đứa đi cải tạo mỗi nơi từ sau 4/1975. Bạn tôi quay lại nhận ra và cũng nói nhỏ "Qua Huê Liên uống nước". Huê Liên là tiệm ăn căn bìa sát vách.

Chúng tôi chưa ra khỏi tiệm Thuận Hòa thì ông bước vào gặp và chào bạn tôi (Có lẽ hai người biết nhau vì chung xóm, đất của hai ông Nhạc Gia cùng ranh), hình như ông có gật đầu chào tôi, thật ra tôi và ông chưa có dịp quen. Tôi chỉ có lần dắt con tới phòng mạch của ông mà thôi!

Khi đã ngồi ở Huê Liên, bạn tôi nói đó là Nha Sĩ LƯU đang tìm đường ra đi, tôi nói "tao biết ổng".

Đó là lần cuối cùng tôi gặp ông trên đất Bến Tre, quê hương tôi và là quê vợ của cả bạn tôi và ông. Sau nầy có thấy hình ông đôi lần và cả chị Hạnh, hiền nội của ông. Chị Hạnh vừa đồng nghiệp vừa học cùng năm cuối cùng bậc trung học.

Nay đọc tin buồn nầy, mới hay: Ông, bạn tôi và tôi cùng tuổi.

Bài dưới đây viết đã lâu, có nhắc đến ông, xin gởi lại đây như lời tiễn biệt ông đi trước nhé!

NhàQuê 07.09.2010



Những “ngôi trường xưa Em học”

Đoản Rời: Thấy Xương Mà Tiếc

NhàQuê tui vẫn giữ phong tục không đi Bác Sĩ khi không có bịnh. Mà trời cũng thương, hồi nhỏ tui bịnh liên miên nhờ thuốc Nam, thuốc Bắc, thuốc tiêu, thuốc tán xúm nhau đẩy lùi bịnh trái trắng và đồng bọn đi vào dĩ vãng: Dứt nọc!

Bịnh nhức đầu cảm cúm, tứ thời cảm mạo sơ sài tui tự trị bằng canh, rau. Đối đế ghé nhà thuốc tây nói cô bán thuốc, bán cho vài viên bá chứng hoặc nguyên ống optalidon, xin chút nước trà dọng vài viên trước khi lâm trận Nhậu, nhìn mặt quen còn vẫn lạc quan cô không ngại tui nốc nguyên ống, nên cô cũng thỏa mãn theo nhu cầu. Có chết cho bỏ ghét, tật hay dê!

Bác sĩ chỉ mò tui được mấy phát vào những dịp bắt buộc như nhập ngạch, nhập ngũ ... tức thuộc loại thủ tục không có không được!

Vì theo phong tục Việt Nam ấy, nên khi đến Mỹ thời gian đầu có Medicaid tui cũng chẳng xài vào đâu. Mấy ông bạn mới quen tới trước, bày NhàQuê tui đi khám nầy khám nọ đủ thứ cho chánh phủ Mỹ trả tiền chơi! Họ nói riết thuận tai, tui cũng gia nhập vào "đảng" phí phạm nầy.

Tui nhớ nhất là lần đi Nha Sĩ, vào phòng tiếp khách theo hẹn, mấy con nhỏ Mỹ nó đưa cho một xấp giấy tờ, còn hỏi mầy điền được không?

NhàQuê tui hùng dũng trả lời: Dĩ nhiên, tao làm được! Đến khi qua khỏi phần tên họ, địa chỉ, số điện thoại thì tình hình bắt đầu gay go. Một lô các loại bịnh cần lưu ý cho Bác sĩ thì NhàQuê tui tịt; Nhưng đám đó cứ cho là nó hỏi bậy hỏi bạ cho vui, không trả lời cũng chẳng liên quan gì đến tình hình Iraq hay Palestine.

Duy chỉ có một câu hỏi NhàQuê tui không "biết trả lời sao cho êm ấm đôi vành môi" đành bỏ trống, đến khi gặp Bác Sĩ thì "Ngài" vẫn hỏi lại; Ấy là: Lần cuối cùng bạn đi "khám Nha Sĩ" là khi nào??

Từ nhỏ đến lớn tui có đi Nha Sĩ khám răng bao giờ đâu! Thay răng sữa thì Má nhổ cho cái đầu tiên đau quá, nên mấy cái sau tự mình làm Nha Sĩ lấy cho đỡ tấm thân!

À, Nói rằng tui không có đi Nha Sĩ là không đúng sự thật, tui có dẫn đứa con đi bác sĩ Soạn ở bệnh viện Nguyễn Đình Chiểu Kiến Hòa một lần và cũng có vài lần đem nó đến phòng mạch bác sĩ Lưu trên đường Nguyễn Đình Chiểu tỉnh lỵ đối diện tiệm vải Quãng Phát Xương để trám răng, Ổng làm rè rè chút xíu là thằng nhỏ chê cà rem cả tháng. Rồi êm luôn cho tới gần đây mới nhớ lại hỏi nó thì được biết vẫn tốt, nhưng Nha Sĩ ở Mỹ khuyến cáo nó nên trám lại và nó đã làm!

Về phần giữ răng hàng ngày thì đã có Perlon, Hynos phụ giúp. Thời gian hoạn nạn nhất, thời hậu chiến, thì có muối ra tay nghĩa hiệp!

Nên tui mạnh dạn trả lời là: Tui chưa khi nào viếng Bác Sĩ về răng cả! Ông rất ngạc nhiên, có lẽ lần đầu tiên nghe!

Sau nầy nghĩ lại NhàQuê tui rất hổ thẹn cho phong tục mà tui hằng hãnh diện về bộ răng vẫn luôn chắc, tốt của mình. Nhìn răng người bản xứ và hàm răng vàng thuốc mà mắc cỡ thầm.

Các phụ tá Bs phải clean mấy kỳ hẹn mới tạm "coi được" ! Rồi một lần đau nhức khi nhổ bỏ mới hay chiếc răng nầy mẻ từ lâu, vừa lấy ra đã rớt một miếng vụn. Kết quả của nhai xương, sướt mía, cắn càng cua, khui bia bằng răng rất dân chơi xứ Thượng!

Từ đó tui mang một tật lớn là nhìn các cô nói chuyện tui ưa nhìn răng nhất là các cô ca sĩ; Hồi xưa khác!

Cách nay mấy tuần con dâu dưới Texas gọi lên, sau khi hỏi thăm như thường lệ rồi mới báo cáo việc chánh là cháu nội Michelle vừa thay răng mà đặc biệt là nó tự nhổ lấy! Cũng như nhiều người, tui thương đám cháu mỗi đứa có một đặc điểm riêng nhất là biến chuyển tánh tình.

Biết tui giờ quí và nhắc nhở mấy đứa con chăm sóc răng cho đám cháu, khi mà tui và mẹ sắp nhỏ mỗi lần nhìn món gà xé phai: Da thì nhiều cholesterol, xương đùi xương cánh làm sao đây, răng thiệt thì xệu xạo, răng giả thì mắc tiền quá! Nhất bì nhì cốt ơi!

Ôi thời oanh liệt nay còn đâu!

NhàQuê 2006

NhàQuê
03-11-2011, 05:18 AM
Những "ngôi trường xưa Em học"


Đoản Rời: BẾN XE NGỰA

Từ khi có xe lam ba bánh rồi sau đó xe Daihatsu, loại xe có động cơ chạy bằng xăng dầu làm phương tiện chuyên chở khách đường ngắn, đã chấm dứt nhiệm vụ lịch sử của xe ngựa hay ít ra xe ngựa không còn được dành riêng cho bến bãi để đưa rước khách như trước đó.

Như quê của NhàQuê cũng chỉ còn hai chiếc xe ngựa là cùng, mà xe cũng đã cải tiến dùng để chở nên không có mui và hai bánh bằng bánh xe Jeep có bạc đạn, đồng thời có nhíp nâng thùng xe lên vừa tầm ngựa, giúp cho công việc kéo xe của ngựa nhẹ nhàng hơn.

http://2.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SR-IKg6u50I/AAAAAAAAAsg/PvfbPd9AMCc/s200/BenXeNgua.gif

Khoảng năm 1961, NhàQuê được đứa bạn rủ đi SàiGòn thăm bà Ngoại của nó ở đường Bùi Hữu Nghĩa gần chợ Bà Chiểu Gia Ðịnh. Ðó lần thứ nhất NhàQuê đến Thủ Ðô và lần đầu tiên và duy nhất đi xe thổ mộ từ trước lăng Ðức Tả Quân Lê Văn Duyệt đến ngã tư Phú Nhuận, nhưng một đứa phải đứng đeo phía sau và một đứa ngồi vì chuyến xe chỉ còn có một chỗ.

Khi NhàQuê bắt đầu lên tỉnh học, nơi đây còn nhiều xe ngựa và có bến hẳn hòi. Bến xe ngựa là con đường ngắn nằm giữa chùa Viên Minh và đình An Hội, chùa và đình cùng quay cửa chánh ra cùng một con đường tấp nập bậc nhất tỉnh lỵ.

Ðình và nhà lồng chợ đối diện nhau qua con đường Nguyễn Ðình Chiểu tấp nập vừa nói. Từ hướng nhà lồng nhìn qua đình, chùa nằm về phía phải, về sau chùa Viên Minh có xây trường Trung Học Bồ Ðề quay cửa ra bến xe ngựa cũng là lúc xe ngựa lui vào quá khứ.

http://3.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SRoq0rVowsI/AAAAAAAAApo/yoMJcgD4fKQ/s200/NQ76XeNgua01.jpg

Riêng đình An Hội vì hùng cứ ở đô thị đầu não của tỉnh nên thần đình thế lực rất mạnh, được giao cho nắm hết lý lịch của mọi con dân trong tỉnh; Vì vậy toán căn cước bọc nhựa trú đóng ngay trong đình dưới sự bảo hộ của thần và ngày nay nghe nói còn lo luôn vụ xuất nhập cảnh nữa không biết có thật vậy không.

Ðình nào cũng có sắc phong của Vua cho vị thần được thờ.

Vào thời đó, nói bến xe ngựa thì ai cũng biết nó ở đâu, nơi chốn quýnh quá thì vén ống quần bà ba, mặt ngoảnh nhìn hai bên cho chắc ăn, trút xong nhẹ nhàng có khi huých sáo như xong phận sự, mấy cây bã đậu rũ dần ai cũng đổ thừa tại ngựa, chỉ có ngựa biết mình hàm oan là mang tiếng đái bậy….

Ngẫm buồn nhớ thuở xa xưa:
Ðố mặt ai dài bằng mặt ngựa.…
Tuy rằng thú cũng hai giống thú
Thú như ta ai dám phen lê
Ta đã từng đi quán về quê
Ðã ghe trận đánh Nam dẹp Bắc
Mỏi gối nương phò xã tắc
Mòn lưng cúi đội vương công
Ngày ngày chầu chực Sân Rồng
Bữa bữa tựa kề Loan Giá
Hán Cao Tổ năm năm thượng mã
Mới dựng nên cơ nghiệp Lưu Gia
Ông Quan Công sáu ải thoát qua
Nhờ cậy có Thanh Long, Xích Thố…

(trong Lục Súc Tranh Công)

Bác xà ích là người đánh xe ngựa, trong các chuyện kể thường gặp cô gái mặc áo dài trắng đón xe quá giang, nói chuyện một quảng tự nhiên cô khách dễ mến biến mất hoặc trả tiền mà sáng hôm sau xem lại toàn giấy tiền hàng mã. Ði chơi đêm qua các địa danh có mấy chuyện như vậy: Lạnh nổi da gà!

Thầy cảnh sát Paul bụng phệ nổi tiếng trấn thủ Bến Xe Ngựa nầy: Trong lúc mấy bác xà ích lo vô trong nhà lồng chợ phụ đem hàng hóa của bạn hàng mình ra xe, thầy tháo cương cho ngựa nhảy đực; Ngựa lỏng cốt thì làm sao kéo xe??? Mấy bác xà ích ớn thầy vụ nầy lắm!! Ðúng là thầy Paul, không hiền lành như tướng tá ục ịch đâu!!

Bến xe ngựa nầy đã cho NhàQuê một món quà quý giá tặng các bạn thời thơ ấu của mình, những người đã bao ngày chia sẻ buồn vui, chia nhau từng củ khoai cho đến vịt đấp bùn đem nướng, cùng lang thang chăn trâu cắt cỏ ở quê nhà của NhàQuê: Món quà đó là lông đuôi ngựa!

Chắc các bạn cho rằng món đó mà quý nỗi gì! Quý lắm đấy, không phải để làm hàm râu giả cho kép hát mang, khi thủ vai quan tướng trong các tuồng hát bội vào mùa cúng kỳ yên của các đình miễu miền quê. Mà quý là dùng lông ngựa nầy vào việc bắt cá…

Quê của NhàQuê tận dưới Ba Tri lận! Dưới đó ít ngựa lắm! Lâu lâu mới thấy một con!

Nghe Ba kể khi xưa mỗi lần bà Cố (bà ngoại của Ba) sai đi công chuyện cho Bà, Ba đều cỡi ngựa đi cho mau. Thuở đó còn hoang vu, các con đường ngày nay là hương lộ xe chạy thoải mái, ngày ấy còn là đường mòn quanh co những gai và trâm bầu. Nghe nói đi đâu mà được cỡi ngựa bắt ham! Ba là cháu ngoại nên hèn chi từ đó ….nghèo!

Lần đầu tiên NhàQuê thấy ngựa thiệt khi được lũ bạn rủ qua tận nhà ông Hù Ðê ở xã lân cận coi cho biết. Ông nầy lúc rảnh rỗi kiêm luôn thợ hớt tóc nên có tên kèm HÙ; Thầy hù là thợ hớt tóc, vậy là ông chuyên đè đầu thiên hạ vừa là thợ, vừa là thầy. Chứ không như ngày nay nhiều người làm thầy trước mới được làm thợ sau mà lại là thợ vịn chớ chưa được thợ chánh.

Mà mấy đứa bạn lớn rủ đi coi ngựa là có ý đồ sắp đặt sẳn, đứa nào muốn mấy con nhỏ bạn chú ý thì vô hớt tóc, chỉnh trang lại cái phần có cùng thành phần hóa học với sừng…an vị trên cái ghế đóng bằng cây tạp, quay được; Thế đã là khoa học kỹ thuật lắm rồi!

Ổng choàng cho một miếng vải trắng, thực ra nó màu cháo lòng! Không được giãy giụa à nha, dù có bị rệp lạ hơi bò ra cắn xả giao.

Kể từ đây muốn gãi hay chỉnh đổi thế ngồi phải “báo động” cho ổng trước vì món nào, món nấy của ổng cũng bén ngót. Trong lúc đó bọn còn lại ra chuồng ngựa của ông để coi ngựa.

Ðứa nào có đi học tới lớp ba mới biết được chuồng ngựa còn có tên đẹp hơn là TÀO, nhờ thầy cho tập viết và giải nghĩa thành ngữ: Một Con Ngựa Ðau, Cả Tào Không Ăn Cỏ. Giải nghĩa gì mà khó quá trời! Bịnh không chịu nói mà nói là đau, rồi tào không biết có phải cùng loại với ghe xuồng không đây hè!

Ra chuồng ngựa là thực hiện ý đồ đen tối, hớt tóc chỉ là cái cớ chứ gần nhà cũng có tới mấy thầy hù. Ý đồ đó là lén nhổ lông đuôi ngựa, có dám nhổ trực tiếp đâu! Nó đá giò lái có mà giập dái, dùng bửu bối nhánh tre tước đầu, quấn lông đuôi giựt. Con ngựa đau hí vang. Ổng bỏ tông đơ, kéo, dao cạo, kiếng lão, thằng đang thọ hình và gạt phăng thằng giả bộ chàng ràng chậm bước tiến…Rượt và chạy….

NhàQuê chưa hớt tóc ở nhà ông lần nào, ở nhà Má có dao cạo và viên đá bùn, Má liếc sơ là làm Hù ngay, cạo cho NhàQuê trắng bóc chừa chút xíu đàng trước cho ấm mỏ ác.

http://2.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SR-ItXg_B0I/AAAAAAAAAsw/t0jQ8O87rPI/s200/BTHBenXeNgua02.jpg

Lâu lâu có lạc loài chú ngựa “đường trường xa vó câu” tới, chú nầy lục lạc đồng đen hẳn hòi, còn được che mắt không được liếc ngang liếc dọc, chỉ thẳng một đàng mà đi, không được phát huy sáng kiến sáng tạo gì hết!

Vì ở xa tới nên không rành "phong tục", dịp đó tụi NhàQuê mới tha hồ. Xong, khi xe gần chạy mới cho xóm khác hay, ăn ké không được tiếc hùi hụi: Phải chi tụi bây cho hay sớm, bữa nào đám giỗ, tao lén cho cái bánh ích! Thôi lỡ rồi, bữa nào gánh hát Sơn Ðông lại tụi tao kêu liền đi coi voi ăn mía.

Không ai để ý đến “giá trị” và công dụng của lông đuôi ngựa nên NhàQuê đi ngang qua là chíp bụng liền, quay lại quả thật vô số, mặc sức chọn lựa thứ hảo hạng đen mướt dài phải trên hai tấc trở lên mới được chiếu cố, loại màu hoe đã bị loại rồi đừng nói chi đến lông ngựa bạch, muốn lượm bao nhiêu cũng có.

Kỳ về quê gần nhất NhàQuê đem về phân phát, mấy đứa bạn nhận quà cảm động, cục mịch hỏi: Chừng nào mầy dìa nữa? Chớ tụi nó đâu biết NhàQuê nhớ nhà khóc quá trời, nhất là đêm mưa nghe ếch, nhái, ễnh ương kêu, nhớ nhà muốn bỏ học về luôn.

Tụi bạn còn được vểnh tai đi tỉnh thành hàm thụ một cách say sưa, thỉnh thoảng có đứa dừng lại chất vấn rồi cuối cùng cũng phải công nhận: Trên đó cái gì cũng có, đã quá hén! Ðâu biết rằng NhàQuê có pha mắm muối, gáy nổ và chế thêm trong đó.

Chuyện có thể tin được là nếu không có chiến tranh, không bị bắt quân dịch thì nhiều bạn thuở nhỏ của NhàQuê tới nay chưa qua tới tỉnh lân cận, các cụ thế hệ trước NhàQuê nhiều người đã như thế.

Lông ngựa dùng để vòng các loại cá có đầu lớn hơn cái mình như cá kèo, cá bóng sao, cá thòi lòi….phổ thông nhất là vòng cá kèo.

Sau mùa gặt gần nát rạ, đám cá kèo cựu niên nổi đầu trông thấy phát ghét. Má cứ việc nấu cơm trước, NhàQuê xách cần đi vòng cá một chút là đem về kho ăn mệt nghỉ.
Cần vòng cá là một cây trúc dài phơi héo và được đốt lửa để uốn chỉnh cho cây trúc thành thiệt thẳng băng, cắt bỏ một phần ngắn của ngọn to xù, chỗ đó được cắm vào một que tre chuốt nhỏ và thanh để cá nhìn thấy không hoảng sợ, nối vào bên dưới que tre là cọng nhợ màu càng trong càng tốt, cuối cùng mới tới sợi lông ngựa được làm thòng lọng.

Các chú cá vừa kể, nếu chưa bị giật hụt lần nào trở nên nhát, thì khi bị NhàQuê từ xa tròng thòng lọng vào cổ, chúng có khuynh hướng ngóc cổ thêm cho NhàQuê dễ "làm ăn" , tình hình rất thuận lợi. Chỉ cần gật nhẹ một cái đưa lên khô cho vào giỏ. Chú cá bị dính vùng vẫy thoát thân quyết liệt, nên đừng giật mạnh tay.

Cá thòi lòi có hai con mắt lộ ra, nên những người mang kiếng mát bị dân quê kêu là thòi lòi lên bờ. Cá nầy nhát hơn nhưng không phải là không vòng được, nếu nó chun xuống hang sâu rồi thì dùng tay hoặc chân phá bể nồi gọ là nơi nó trồi lên để thở, xong đặt vào miệng hang một cái xà di, thường làm bằng trúc kín một đầu, đầu còn lại mở lớn có một cái hom là độc đạo vô rồi ra không được. Cá ngộp trồi lên thở hoặc thấy yên tịnh ra khỏi hang phải chui qua hôm, vào xà di và kẹt ở đó: Chào bạn thòi lòi, chờ bạn đây!

Cá thòi lòi kho sả ớt thì khỏi chê, lá gan và cặp trứng ngon độc nhất vô nhị. Thấy chưa việc bắt cá đơn giản như đang giỡn, làm chơi mà ăn thiệt! Tuy nhiên có khi trời gió, nước bị xao động cá đều vô hang không vòng được: Tổ trát, lèo, về không!

Có một lần NhàQuê lấy làm lạ, là một quân nhân thuộc cấp sao đêm nào cũng dùng đèn cầy hơ khắp mình kỹ lưỡng rất lâu trước khi đi ngủ, hỏi ra mới biết anh vốn là nài ngựa đua, tiếp tục giữ cho thân thể luôn gầy, ít ra không lên cân, một trong những yếu tố để thắng cuộc. Lúc đó trường đua Phú Thọ đã đóng cửa dùng làm nơi trú đóng của Liên Ðoàn 5 Biệt Ðộng Quân; Thế mà anh tiếp tục chuẩn bị trong hy vọng chờ ngày, anh cũng cho biết kỹ thuật nuôi ngựa đua rất phức tạp.

Nhiều môn thể thao có ngựa đã được thi tài trong các kỳ thế vận hội. Cỡi ngựa, đua ngựa hiện là môn thể thao được yêu chuông rộng rãi ở các nước không riêng gì Âu Mỹ: Từ trong trại Sungei Besi, ngoại ô Kuala Lumpur, Malaysia, NhàQuê thấy xe đủ màu đủ loại, đậu kín mít bãi xe trong những ngày có cuộc đua của trường ngựa lân cận, vang vội tiếng hò reo. Ðất nước thanh bình có khác!

Các danh tướng xưa tên tuổi sáng chói cũng được góp phần nhờ những chiến mã trở thành điển tích: Xích Thố, Long Câu, Ô Chùy ...Ngày nay các nhà bình luận thể thao trên các đài truyền hình không hết lời về các tuấn mã chuẩn bị ra sân đua. Dù không trực tiếp theo dõi, breaking news liền sau đó cũng cho ta sốt dẻo tin tức kết quả cuộc đua được chuẩn bị chu đáo trong sự mong đợi của giới mộ điệu lẫn dân “ghiền” cá độ.

Ngựa cũng được dùng trong các nghi lễ truyền thống của nhiều quốc gia, nhất là ở Anh quốc có cả nơi diễn tập hàng ngày cho đội ngự lâm quân, kỵ sĩ. Thao trường diễn tập có khán đài cho khách dự khán chỉ cách một khu vườn rộng là tới điện Buckingham, gần dinh Thủ Tướng hơn.

Ði từ Cambridge vào London, NhàQuê thấy nhiều đồng cỏ ngựa đang ăn mà lúc chưa nhìn kỹ, ngỡ là đàn bò: Nhiều đến như vậy!

Trong vùng Lancaster, Pennsylvania Hoa Kỳ có khu vực người Hòa Lan di cư, họ sinh sống chung, biệt lập với các sắc dân khác, không dùng các tiện nghi văn minh nên ngựa giúp ích cho họ rất nhiều. Ban đêm lỡ gặp họ đi ngựa chậm rãi trước mặt, bạn cần lái gấp. Bạn nghĩ sao nè??? NhàQuê chờ đến nơi gần nhất có chỗ là quẹo liền!

Nếu bài nầy kết thúc ở đây các bạn có phiền gì không? NhàQuê đã đưa các bạn từ quê ra tỉnh và viễn du bằng ngựa rồi đó. Chúc khi nào phát tài ngon lành, bạn sắm "xế" để đi đó đây cũng đừng quên chọn nó bao nhiêu mã lực (HP,Horse Power)

NhàQuê chỉ trừ chưa chiêu đãi bạn món thịt ngựa mỡ ngà vàng chạy dọc từng thớ thịt; Ngon lắm! Ðã lắm!

NhàQuê 2005

NhàQuê
06-11-2011, 07:52 AM
Bài nầy viết năm 2005, dựng sườn từ bài: Những "con đường xưa Em đi"(Lộ Lạc Hồng)/Forum Tùy Bút/bentrehome.net

In vào Tuyển Tập để:

- Tưởng Nhớ Má Tôi và kính Dâng Tặng các Bà Mẹ miền quê chỉ nhớ mang máng ngày sanh Âm Lịch của con mình.

- Thân mến tặng các bạn có lời chúc sinh nhật của NhàQuê.

- Tặng Nhà Tôi và các Con Tôi năm nào cũng tổ chức sinh nhật cho, theo kiểu hiện nay vào cuối tuần gần nhứt.

- Tặng chính tôi cho có ngày sinh nhật như mọi người .

Tác Giả

http://i1215.photobucket.com/albums/cc504/nhaquebatri/XSinhNhut14.jpg

http://i1215.photobucket.com/albums/cc504/nhaquebatri/XSinhNhut17.jpg

http://i1215.photobucket.com/albums/cc504/nhaquebatri/XSinhNhut20.jpg



Những "ngôi trường xưa Em học"


http://1.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SRzBO85_0xI/AAAAAAAAArA/mgu918eKV-g/s200/AConDuongXua18.jpg


Đoản rời: Cầu Bà Mụ

Hãy tưởng tượng tỉnh lỵ quê của NhàQuê hình vuông, cầu Bà Mụ nằm góc Ðông Bắc hình vuông đó, cầu ván nhỏ không lan can bắt ngang cùng một con rạch Cầu Cá Lóc, con rạch nầy chạy uốn éo từ sông vào đến đây tóp nhỏ lại sắp cùng. Ngày nay có lẽ cầu Bà Mụ đã được xây lại vì góc Ðông Bắc vốn là ngoại ô đó, đất còn rộng rãi, hấp dẫn lớp người mới phất lên, nhất là chiến tranh đã chấm dứt. Cái hình vuông tưởng tượng cũng lớn thêm lên theo tất cả các cạnh của nó; nên cầu Bà Mụ không còn là vùng ven, người xóm cầu Bà Mụ không còn là "Người Ven Ðô" nữa.

Theo như tên cây cầu thì ai cũng đoán ra được nơi đây trước kia có Bà danh tiếng giúp đỡ đẻ, tiếng bình dân là Bà Mụ. Rất lâu về trước, ở cấp Quận mới có trạm y tế và một nhà bảo sanh vài giường, sản phụ thường là cư dân lân cận.

Trong các vùng sâu hẻo lánh, hầu như nhà nào cũng sanh con năm một, đứa thôi nôi đứa đầy tháng mà chẳng có cái nhà sanh công tư nào; mỗi nhà tự làm nhà sanh lấy, một xóm ba mươi nhà dù ọp ẹp đi nữa cũng có ba chục cái nhà bảo sanh. Tiêu chuẩn nầy chưa nước nào đạt được!

Cưới vợ vài ba năm chưa có con, trong nhà bắt đầu lục đục. Mẹ chồng thấy con dâu lén giấu đồ chua trong kẹt khóe đã không còn rầy la, mừng là đàng khác, có khi lại cưng chìu.

Anh chàng sắp làm cha hoặc sắp làm cha thêm bắt đầu lo lần cây lá chuẩn bị lợp vại: Vại như một cái chòi, cất nối thêm ra với nhà chánh, có tính cách tạm thời sẽ dẹp bỏ khi đứa con tròn tháng tuổi. Vại ngoài phần che chắn vách phên bốn bề tránh "gió mái", cửa vào hẹp vừa đủ ra vô quạt lửa, lợp lá hoặc tranh. Ðặc biệt cái "giường cữ”thời trang hơn bất cứ món nào trong mái nhà tranh có hai quả tim vàng tổ ấm ấy. Cái giường không có bản sao, chỉ giống với chính nó mà thôi. Thiết kế duy nhất!

Trong một tháng "nằm chỗ" bà mẹ dù sanh con so hay con rạ, phải nằm lửa, xông, tắm, ăn uống…trong phạm vi "Nhà Bảo Sanh" ấy. Vài ngày sau khi sanh có khi tự mình lo cơm nước vì ai cũng bận đồng áng. Nước uống nấu trong có “cây chó đẻ” luôn cả lá rễ gốc: Ðắng nghét!….Tới "bữa ngự thiện khô lân chã phụng" chỉ có muối tiêu nện dẽ nướng than; vậy mà "đàn bà đẻ" vét hết nồi cơm hai lon gạo, vượt chỉ tiêu bình thường: Ăn trung gian cho bé mà!

Mà Bé cũng tội nghiệp lắm: cùng chia cái giường gồ ghề và cái biệt thự um khói hừng hực trong tháng đầu tiên cuộc đời với mẹ và cùng chia sức nóng mẻ than kê dưới lưng của mẹ nữa, nên mấy ngày sau Bé "rỏ" lại nhỏ xíu đỏ hỏm! Bé có được nằm nôi như các bé thị thành đâu dù đã đầy tháng "lên trên".

Trước khi lên trên, bé được tắm tươm tất…để thực sự chào mừng một thế giới mới mà tháng trước đây vì kiêng cữ nhiều người không vào chốn ô uế thăm Bé, nên chưa biết mặt Bé, chỉ nghe nói bé giống cha cái nầy, giống mẹ cái kia….Giờ đây “Mụ Bà Dạy" Bé cười chào mọi người trong cái gia đình đông đúc: Chào tất cả, Tôi đây! (Hello everybody, I am here! Nói theo cách trẻ sơ sinh Mỹ khi lần đầu từ bịnh viện về nhà).

Giáp năm theo cách tính gái bớt hai trai bớt một gì đó, Bé được “Tôi Tôi” chứ không phải thôi nôi vì Bé có nằm nôi bao giờ đâu. Dịp nầy Bé chọn nghề nghiệp tương lai cho mình: Bắt cây viết, gom cái kiếng tròn bọc cạnh đẹp đẽ, cạp miếng chè hay vắt xôi và lết về phía có tiếng cười reo của mọi người có mặt, Bé cười thấy đủ mấy cái răng sữa mới nhú. Tiệc thôi nôi có chè xôi, cháo vịt…bắt đầu bàn luận quanh đề tài các món đồ mà Bé hân hoan gom lúc nãy.

Ngày nay khó hình dung ra một loại nhà bảo sanh như vậy, khi mà trẻ con bây giờ được chăm sóc từ trong bụng mẹ cho đến lúc thai phụ có triệu chứng và lâm bồn bởi Bác Sĩ và Nữ Hộ Sinh là những người có trình độ và được huấn luyện chuyên môn trong lãnh vực nầy với tất cả tiện nghi y khoa không ngừng cải tiến.

Ngày xưa đó, Bà Mụ không xem đó là nghề mà tự Bà coi như được Ơn Trên sắp đặt sẳn cho bà nhận lảnh thiên chức ấy, bà không quản ngại đêm khuya, đường xa đã đến tận “Chòi Bảo Sanh” khi gia đình sản phụ đến nhờ Bà.

Khi ‘Bà Bầu" trệ và đau ngầm ngầm, người nhà sắp xếp cho người đi rước Mụ, thường thì hai hoặc ba người khỏe mạnh đến nhà Bà, mô tả tình hình và đốt nhang xin Tổ. Bà huỡn đãi ăn trầu xỉa thuốc ngồi nghe báo cáo. Nếu bà thấy "chưa có gì", Bà biểu: "dìa đi, ba bữa nữa qua".

Nhưng cũng có khi vừa thấy mặt Bà hô: "tới rồi hả!" và nhanh chóng gom góp vật dụng cần thiết, không quên giỏ xách trầu cau, leo lên võng nằm hoặc ngồi, có khi còn hối mấy người khiêng "lẹ lên, lẹ lên" ba người thay phiên gần như chạy lúp súp. Khi không "khẩn trương" lắm Bà kể chuyện nầy chuyện nọ xưa nay cho người khiêng quên đường xa.

Không những một xóm, một xã mà nhiều xã gần nhau đều thọ công ơn của Bà. Dưới bàn tay nâng ấy, các hài nhi cất tiếng khóc chào đời, chào biển khổ: "…Trót sanh ra miệng đà khóc chóe - Trần thế vui sao chẳng cười khì…"

Trước khi được võng đưa về, Bà dặn dò đủ thứ, đủ điều kiêng cữ từ ăn uống đi đứng, khăn choàng, nón đội, tai nhét chân guốc…Tuyệt đối bà không nhận tiền bạc gì của ai!….

Sau khi rụng rún, phần rún khô được bà mẹ gói kỹ nhét mái nhà, mé vách, cất trong hộc tủ…sau nầy đốt hòa chung cho anh em uống mỗi đứa một chút cho chúng thương yêu, hòa thuận lẫn nhau.

NhàQuê cũng trong trường hợp các bé ấy, lại còn thê thảm hơn, theo Má nói lại là NhàQuê lúc ra đời chưa nằm trong lòng mẹ được chín tháng mười ngày, sanh non ngày tháng, èo uột, thấy cả mấy khoanh ruột dưới làn da bụng, khóc mấy tiếng đầu thua mèo đói kêu ngao. Không ai kể là NhàQuê qua được ít con trăng. Xin cám ơn Thượng Ðế!

Vì trường hợp đặc biệt như vậy nên mỗi lần Bà Mụ có dịp ngang qua nhà, thấy Má đang lui cui, lần nào từ ngoài đường Bà cũng hỏi vọng vào "Tư à! Nó chơi hả?": Tư là thứ của Ba, Má theo thứ nầy khi về nhà chồng. Về quê bên vợ, Ba được gọi là dượng theo thứ của Má. Nó ám chỉ NhàQuê. Chơi ý nói mạnh giỏi, bình thường.

Bà quan tâm đến trường hợp sống sót kể là hy hữu của NhàQuê. Má bắt NhàQuê gọi Bà Mụ là bà ngoại, tới mấy năm sau má dắt NhàQuê đi "Giỗ Mụ Bà", vừa tới cửa NhàQuê khoanh tay thưa bà ngoại, Bà hỏi Má: Nó đó hả ? Ý nói thằng nhỏ tưởng đâu “xí lắt léo” rồi mà giờ còn sống nổi đi đám giỗ mụ. Má biểu NhàQuê lạy trang thờ bà Cửu Thiên Huyền Nữ, Tổ Mụ, trang thờ bà tiên khói hương nghi ngút. NhàQuê lạy búa xua theo Má.

Có một điều NhàQuê biết chắc rằng bà ngoại nầy không phải bà ngoại thiệt của NhàQuê, vì năm nào Má hoặc Ba cũng gánh anh em NhàQuê đi đám giỗ bà ngoại ở tận nơi xa. Mỗi anh, em một đầu thúng, đứa nào cũng được phết chút lọ bếp lên trán xin phép Ông Táo đi xa vắng nhà, đầu thúng NhàQuê phải thêm cục gạch hoặc khoai, bí, trái, củ gì đó, do em của NhàQuê sanh đủ ngày tháng nặng hơn, cồ lự hơn. Ðường về quê ngoại phải qua con đê, cũng có cầu bằng thân cây bắt ngang dòng nước chảy, qua đó ngồi trong thúng nhìn thấy rõ mấy con cá nhỏ bơi lội "vô tư" bên dưới.

Như bao trẻ khác trong hoàn cảnh đó làm sao mà NhàQuê có giấy khai sanh được, học đến lớp tư thầy đòi phải có khai sanh mới chuyển qua lớp ba trường Tổng ở xã lân cận, cả lớp bốn năm chục đứa như nhau, cuối năm nhiều đứa phải bỏ học.

Khoảng chục đứa may mắn được gia đình quan tâm, dắt lên tỉnh cùng lúc để làm thế vì khai sanh; đó là lần đầu tiên NhàQuê được ngồi trong lòng Ba "Ði Xe Hơi", mà mấy đứa cùng chuyến chắc cũng vậy thôi.

Ðợi tới lượt kêu tên vào đứng trước ông Tòa, người lớn đưa tay lên thề thốt sao đó, mấy người thơ ký, lục sự ghi ghi chép chép….Mấy gia đình thay phiên làm chứng cho nhau; Có lần ông Tòa hỏi thử xem đám dân quê nầy đối đáp ra sao “ Sao ông biết thằng nhỏ nầy sanh ngày tháng năm đó?- Ðáp: Bẩm quan Tà, tui có đi đám đầy tháng của nó!”. Ông tòa biết là phịa nhưng cũng thông cảm cho nhóm dân quê nghèo nàn làm chứng vần công cho nhau, thay vì phải mướn người đang thậm thụt chờ sẳn bên ngoài. Chuyện có thật là vào thời đó tại tòa án có hai nghề lạ đời: Làm đơn mướn và làm chứng mướn. Dưới quê của NhàQuê đâu có như vậy, việc gì giúp được người ta giúp thiệt tình!

Cái ông Tòa năm đó ngồi trong mát mà đen thui hà! Sau nầy lên tỉnh học, ông Tòa khác có hai cô con gái Quỳnh Dao và Minh Trân học chung trường với NhàQuê, cô nào cũng yểu điệu dễ thương mà không đứa nào dám hó hé, ngán ông Tòa lắm, Cụ đọc: Nay tuyên án…là bà cố hú!

Thế vì khai sanh dành cho những người sanh trước ngày "Nhật Ðảo Chánh và Việt Minh Cướp Chánh Quyền" vì trong biến động nầy có nơi tất cả giây tờ sổ bộ đã bị thiêu hủy, nay làm lại giấy khai sanh khác thay thế. Do không phải phần lỗi về mình, nên lần làm lại nầy không phải đóng phạt, miễn phí; nhưng chánh quyền địa phương phải xác nhận không còn sổ hộ tịch lưu trử.

Lên án thế vì khai sanh dành cho những ai sanh sau ngày Nhật Ðảo Chánh mà không làm khai sanh, lỗi do chểnh mảng, do đó phải đóng tiền phạt án phí.

Tên trong giấy khai sanh cũng trở thành một câu chuyện vì có đứa “Xấu Háy” khó nuôi bị đặt cho cái tên rất tục, phải sửa lại na ná như: Các, Lớn, Cử, Ðủ…NhàQuê may mắn nhờ Ba có học chữ Nho và Quốc Ngữ đủ đọc truyện Tàu và truyện xưa tích cũ nên ngoài không phải mướn làm đơn, tên anh em NhàQuê toàn tên tốt. NhàQuê được mang tên vị anh hùng mà Ba ngưỡng phục, đến nay xét cho cùng NhàQuê không xứng đáng làm cọng râu của Ngài.

Không như các bạn thành thị và ngày nay, khi sanh ra đã được ghi tên vào sổ bộ, còn dưới quê phải mấy ngày sau gia đình hội ý rồi mới đặt tên cho đừng trùng với tên người lớn trong thân tộc. Vậy mà chưa xong, cả hai ba năm sau có vợ chồng nọ ở cuối ấp, đến nói một cách nghiêm chỉnh, xin Ba Má đặt NhàQuê tên khác vì tên vị anh hùng trùng với tên ông cố ngoại vợ của ông, mà ông cố đó đã qua đời từ lâu, quê đâu tận Bình Ðại, Lục Tiên hay Hồ Cỏ, Cồn Rừng, Thạnh Phong, Thạnh Phú gì đó xa lắm! Ba Má cũng giữ hòa khí thôn lân, bèn đặt thêm cho NhàQuê tên gọi ở nhà; Chỉ ở nhà và trong xóm mà thôi. Do đó có bạn nào tình cờ tới xóm NhàQuê hỏi tên theo giấy tờ đi học thì không ai biết cả.

Chuyện về tên của NhàQuê là chuyện có thật 100% đó các bạn! Má cũng biết đọc biết viết qua xóa mù chữ: Cóc a sa, cóc á sá, cóc ớ sớ, cóc e se vài bậc (Cóc Ếch gì cũng vậy mà thầy giáo!), nên Má cũng không chịu đặt tên xấu cho con.

Về ngày sanh cũng nhiều chuyện lạ bốn phương: Anh em sanh cùng ngày tháng khác nhau đúng một năm; Chuyện nầy chấp nhận được. trẻ nào cũng sanh ngày 30, 01, 15 hoặc sanh ngày 5 tháng 6 hay ngày 10 tháng 11…. tất cả phải cho dễ nhớ khi đứng trước tòa: Khớp lắm! Cũng có chuyện sanh ngày 30 tháng 2…tháng 2 làm gì có ngày 30, vì vô ý tòa cũng cho qua nhưng rắc rối về sau.

Có tờ báo NhàQuê đặt mua, trong đó có bài khảo cứu của một cây viết lừng lẫy đã nghiên cứu được rằng ông hoàng Rainer xứ Monaco sanh ngày 31 tháng 4. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 chưa ai quên cả hai miền Nam Bắc. Tháng 4 bên Congo cũng chẳng có ngày 31. Xin chào thua và nghỉ mua luôn!

Má chỉ nhớ mang máng ngày rằm tháng tám âm lịch là ngày sanh NhàQuê, nên lấy ngày đó làm dương lịch trên khai sanh, chắc vì vậy mà mấy lần đem lá số tử vi nhờ thầy xem thấy không đúng về những việc quá khứ, suy ra làm sao đúng tương lai được. Tờ “Quy Kỳ” bỏ trong túi đến khi rách dần, mất cái góc có cung thiên di nên không thể nhờ giải đoán cầu may xem tốt xấu khi chuẩn bị ra đi khi trời vừa tối:

" Thùng thùng trống ngực ngũ liên…
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa".

NhàQuê 2005

http://i1215.photobucket.com/albums/cc504/nhaquebatri/XSinhNhut03.jpg

NhàQuê
08-11-2011, 08:29 PM
Những "ngôi trường xưa Em học"


Đoản Rời: Tôi Làm Mụ

Giờ đã hai mươi mấy năm rồi, thôi thì thời gian đã đủ, tôi tiết lộ cùng các bạn chuyện tôi làm mụ. Chuyện bắt đầu là tôi bị liệt thành phần theo chánh sách chánh vở khỉ khô gì đó, không cho ở thị trấn, phải về nông thôn. Nhà cửa phải bán gấp, mọi chuyện phải dứt nọc, không còn gì để nấn ná ... Không bán thì họ mượn làm văn phòng...chơi cha thiên hạ ... Bán cả nhà đất chưa bằng một phần ba số tiền tôi xây cầu tiêu khi vừa mua nhà!

Về nông thôn rồi mà hai năm liên tiếp không được “Tập Đoàn” cấp ruộng đất kinh tế phụ, kinh tế mẫu gì hết, không giống như mọi gia đình trong hàng xóm, thành ra tôi thuộc lưng chừng giữa “Người Cày Không Có Ruộng” và “Cà Nhỗng Chống Xâm Lăng”.

Bây giờ nói chuyện trồng sắn: Anh tôi cho mượn gần một công đất để trồng sắn (loại củ người ta làm nhưn bò bía). Các bạn có tưởng tượng được tôi gánh tưới mỗi ngày hai cữ, mỗi cữ một trăm đôi nước không?? (Khoảng 40 lít)

Tôi làm được đó!

Không kể sắn vụn, tôi thuê ghe chở cả mấy tấn thành quả của mình lên tỉnh bán, bị cửa hàng nông sản ở nơi đây định giá rẻ mạt, không chịu họ đòi kêu thuế vụ tới đánh thuế. Chơi cha thiên hạ! Bán xong huề vốn, lỗ công.

Kế tiếp tôi từng bước tiến vững chắc lên nuôi heo song song. Nuôi heo nái, không phải một mà ba con.

Vụ nầy nhiều chuyện tức cười lắm nghe! Trước hết lựa giống to con, tướng tá ngon lành, quan trọng là nhiều vú, cho ăn đúng mức. Mỗi sáng tôi ra chợ xã uống cà phê chờ mấy bà bán rau muống ế, mua mảo, bao nhiêu cũng gom về bằm trộn với tấm nấu và cám làm thức ăn cho “ba em nái”.

Cái tức cười là khi nuôi heo nái thì lời ăn tiếng nói của mình phải điều chỉnh, nói sao cho tục thành thanh và kiêng cữ không được nói gở, vụ nầy tôi gặp khó khăn nhiều !!

Tôi phải hỏi bà con hàng xóm đã từng có kinh nghiệm để nái và được chỉ dẫn tận tình.

Riêng chuyện “Bỏ Nọc” cũng có bí quyết, nào là chờ “Hoa Héo”, nào là không cho Nọc ăn quá no, nào là số lần bỏ nọc ….(Sau nầy tôi thường cười thầm vụ Hoa Héo nầy lắm)

Đi “rước” nọc vừa về tới nhà còn đang cho nó nghỉ mệt là bà chủ nọc đã có mặt, canh chừng sợ mình “tận dụng quá mức” và không chịu tẩm bổ cho Nọc của bà ta; Do vậy cũng đỡ vất vả khi dắt nọc đi trả, chính bà dắt về.
Cái anh nọc nầy đánh hơi có nái là kéo miết, ghì muốn không lại với tiếng gọi tình yêu của anh ta.

Sau đó tính ngày tháng chờ và chuẩn bị heo đẻ và đúng là có nhiều chuyện đến bây giờ mới biết: Nào là mấy cần xé lót rơm đựng heo con, biết cách nâng đẻ, cho heo con bú…

Tôi đã làm Mụ đỡ đẻ cho mấy bầy heo rồi đó ….Thiên Hạ ơi!

Phải có ổ rơm vì mấy chú nhỏ nầy cần ấm khi vừa lọt lòng, nâng lau phải nhẹ nhàng, chú nào bị đau, chú é lên là mẹ chú bênh vực tức thì, dù còn đang tiếp tục sắp đẻ con kế tiếp.

Và cũng biết thêm là bầy nào cũng có con ngoẻo ngay; gọi là con lót ổ.

Bầy đầu tiên tôi có tám cô cậu, mấy lần sau mười. Thế được xem là có tay nuôi nái rồi đó!

Xong xuôi nái nằm nghỉ một hồi và “ịch, ịch” kêu đám con bú. Khi nghe tín hiệu màu xanh ấy, mấy cô chú nhôn nhao, chỉ cần nghiêng cần xé là chúng chạy ùa đi tìm nguồn sữa đầu tiên, những lần sau đó chúng trở lại đúng vị trí vú mà chúng dành riêng từ lần đầu (bà con kinh nghiệm nói rằng chúng tìm đúng vú mà nhao đã nuôi nó từ trong bụng).

Hai mươi bốn giờ đầu phải chăm sóc chúng không rời cữ sữa nào cả. Những ngày kế tiếp không cần gom chúng vô cần xé nữa mà cũng không đủ sức chứa vì chúng lớn nhanh… chúng tự gom nhau vào một góc chuồng.

Thiến heo con và phá bầy là giai đoạn chót trước khi heo mẹ được bỏ nọc lần kế tiếp. Đêm trước khi thiến, chúng làm như vui mừng bước qua cuộc đời mới và thời kỳ dứt sữa tự mẹ chúng hất chúng ra ….

Tới ngày phá bầy, bà con hân hoan đến bắt heo con mình dặn mang về nuôi và hình như khi đó ai cũng nói để ít bữa đem tiền lại nghe “Thầy Giáo”, ít bữa ở thôn quê là khi họ thu hoạch và bán xong nông sản hay bán được heo thịt…

Có một người quen hỏi nài tôi để lại con nái khi biết tôi có ý định không nuôi heo đẻ nữa.

Tôi hiểu sai, tưởng ông ta muốn mua, ai dè ông ta mượn mà không biết đến bao giờ ông ta mới trả tiền lại.

Bây giờ tôi quên chi tiết, hình như ông trả làm nhiều kỳ, trong lúc ông đã bán nhiều bầy heo con và con nái mà ông nói để lại, ông đã bán đâu mất từ lâu. Lại chơi cha! Hơn cả mượn đầu heo nấu cháo!

Tôi lại huề vốn nữa. Đã là may! Huề vốn thật vì thời giá thay đổi liên tục

Tôi viết bài nầy vì năm Hợi sắp đến chứ chính tôi đọc nghe chán quá, văn chẳng ra văn, chẳng ra kể chuyện.

Người bạn thân của tôi đề nghị viết thành thơ vui. Tôi đầu hàng, thà rằng khi nào bí đề, tôi sẽ kể chuyện tôi nuôi bò cái đẻ bò con, nuôi đã đời bán mẹ và con trước khi tẩu thoát và vẫn tiếp tục huề vốn!

Tôi hả! Tôi “làm kinh tế” vĩ đại nhất thế kỷ trước vì tôi huề vốn, mấy ông nhà nước thì luôn lỗ thâm thủng.

NhàQuê 2006

http://i28.photobucket.com/albums/c238/trongbtran/NQ2012HeoNai02B.jpg

NhàQuê
11-11-2011, 08:16 AM
Những "ngôi trường xưa Em học"


Đoản Rời: Ăn, Tết, Ăn Tết


Ăn

Vợ và Em Vợ một nhà hiền triết đã cùng nói rằng: Một ngày không ăn uống, soi gương không nhận ra được mình (Nhại câu:Một ngày không đọc sách ...)ăn uống cực kỳ quan trọng cho những ai thường soi gương.

Ăn và uống liên hoàn hỗ trợ cho nhau: Nếu ăn mà không uống thì bị hốc cổ, trừ ăn canh. Nếu uống mà không ăn gọi là tuyệt thực. Kiểu tuyệt thực ngậm sâm uống sữa nầy chỉ có từ năm 1963 trở đi.

Thực đơn nhà hàng nào cũng kê đủ các món ăn món uống và được tính tiền giá cả riêng chưa kể tiền thuế và tip, vì các người khai thác nhà hàng hơn ai hết, biết rằng ai đã vào ăn thì phải uống phàm là người bình thường.

***

Từ ba mươi năm nay, NhàQuê tui đã qua trường lớp nên lấy mình làm thí dụ cho khỏi mích lòng ai, cách nầy trong cái trường dị hợm đặc biệt ấy gọi là liên hệ bản thân, trước đó mà ai chuyên nói về mình, một hai gì cũng tôi thì tụi Tây nó cho là vô liêm sỉ. Nên có gì xin bà con tha.

NhàQuê đã được căn dặn trước khi đầu thai là phải nhớ ăn uống, nên từ khi lọt lòng mẹ NhàQuê tui gia nhập tức khắc vào Hội Ăn Uống sau khi khóc chơi vài tiếng gọi là, mấy đứa dù là con ông cháu cha mà không chịu làm hội viên đều bị thuyên chuyển đi vùng 5 chiến thuật cả. Hội nầy hoạt động trên phạm vi toàn thế giới, NhàQuê là hội viên tích cực có thâm niên hẳn hòi, nhưng không được lên hàng lãnh đạo, vì khi đói NhàQuê rất xấu tánh, tính tới tết Con Chó nầy NhàQuê được 64 năm tuổi hội viên theo âm lịch.

Nói đến ăn Tết thì NhàQuê khoái lắm, có tiếng ăn trong đó là đúng khớp phe ta như ăn cưới, ăn giỗ, ăn tiệc....

Ăn gian thì NhàQuê cũng có vài lần nhất là khi đụng độ rượu, phải chạm trán với lực lượng mạnh, trận đại tửu chiến như vậy nếu không ăn gian vài vòng thì chỉ có nước được đồng bọn mang đi; Vì thế có nhà nghiên cứu đã quả quyết rằng uống rượu ăn mồi nhấm đưa cay từ cao lương mỹ vị cho đến cầy me cóc ổi gì cũng say, chỉ có ăn gian là ít hoặc không say mà thôi. Xin ghi nhớ: Uống rượu ăn gian không say!

Riêng ăn hối lộ thì NhàQuê thuộc hạng cá kèo, còn xa mới được hưởng chế độ đó. Xưa nay vẫn còn đứng xem thiên hạ mần ăn mà rỏ dãi!

Mấy năm đầu ở trung học, NhàQuê biết có môn học tên gọi là Nữ Công Gia Chánh, bây giờ ở Mỹ được một thời gian, thấy cái xứ nầy lạ lắm bà con ơi!

Cho đến cái tên giải thưởng cũng phải coi chừng bị người ta chống đối vì cho là có xa gần dính líu tới kỳ thị. Thí dụ Giải Thưởng Âm Nhạc Cho Người Da Ðen thì OK, chứ chưa ai dám đặt giải thưởng loại nào đó chỉ dành riêng cho da trắng cả.
Ngẫm lại thấy tên gọi môn Nữ Công Gia Chánh nầy nặng mùi kỳ thị quá trời!

Như trong gia đình NhàQuê đây, ai đi làm về sớm thì nhào vô bếp nấu nướng chứ đâu còn dành ưu tiên cho Nữ như ngày xưa. Lúc mà phe bề trên đi làm về ngự trên ghế bố xích đu đọc báo, đợi bà xã, đợi phe bề dưới biểu mấy đứa nhỏ lên khoanh tay thưa Ba xuống dùng bữa, chứ không được nói Kêu Ba xuống ăn cơm nghe nó phàm phu, không văn hoa kiểu cách.

Phải chi trời ngó lại ngày đó nhà trường không kỳ thị giới tính, cho bọn trai học môn ấy thì mấy năm đầu sang Mỹ, ba cha con NhàQuê đâu phải mua sách dạy nấu nướng của bà Nguyễn Phan Long, bà Quốc Việt về theo đó mà chấp hành trong hoàn cảnh thiếu nhiều nguyên liệu và gia vị của vùng còn ít người Việt định cư như vầy!

Kịp đến bốn năm sau, năm 1991 Tư Lệnh dắt con gái và trai út sang đoàn tụ, tình trạng ăn uống của cha con NhàQuê được cải thiện một cách đáng kể

Và chiếu theo phong tục bản xứ, Nàng đảm nhận Commander in Chief từ ấy (Both in Chief and Chef) mà không cần dùng biện pháp của các vì tinh tú là biểu dương lực lượng, chỉnh lý gì hết, diễn tiến theo lộ trình rất hòa bình.

Lần đầu tiên được hộ tống đi SuperMarket, nơi chuyên bán thực phẩm Á Ðông, coi giá ghi sẳn, món nào Tư lệnh cũng qui thành vàng rồi chê mắc mặc dù đồng đô la đã được định nghĩa theo kim bản vị từ lâu rồi, trù trừ so sánh bên Việt Nam món đó rẻ lắm!

Tết tái sum họp đầu tiên năm đó đứa con gái làm đủ loại mứt cho Ba ăn tết lớn! Có lẽ đó là cái tết đầy đủ hoa lá cành nhất ở hải ngoại. Giờ nhắc lại ai cũng cười chảy nước mắt, vì mứt qua tới mấy tháng sau ăn không hết đem bỏ; Bấy giờ Bé đã biết rằng ăn thức ăn để lâu ngày dễ bệnh, mà đã bệnh đi bác sĩ trả bill xỉu luôn! Thà bỏ trong tiếc nuối!

Trải dài hơn sáu mươi năm qua chỉ xét về quá trình đứng trong Hội Ăn Uống cũng nhiều hỉ nộ ái ố lắm bà con ơi:

Trước nhứt NhàQuê tui thuộc thành phần con nhà nghèo, còn khá hơn thành phần con bà phước, lúc nhỏ NhàQuê bị ban bạch nó vật cho chết lên chết xuống mấy bận, tóc rụng gần hết, Má phải cạo cho có hơi dao, tóc nhà ta coi vậy cũng biết ớn xương sống không dám tiêu cực nữa, bèn ra lại lớp mới một cách hăng hái, nhờ mới nên bọn chúng lâu bạc chăng?

Thuốc tán, thuốc tiêu uống mỗi lần cả bụm thường hơn ăn cơm, mà cơm nhà đông con ăn vào trôi đâu mất biệt.

Trường hợp thiếu ăn như vậy, ngày nay thế nào cũng được mấy ông Bác Sĩ phê cho ít chữ suy dinh dưỡng trầm trọng. Rồi theo đó mà tự tìm cách điều chỉnh tình trạng sức khoẻ cho đúng tiêu chuẩn Khỏe vì Nước kiến thiết Quốc Gia, đoàn thanh niên ta góp tài ba, hùng mạnh trong năm giới. Thuở nhỏ thiếu ăn!

Lớn lên chút xa quê ra tỉnh học, đọc thi văn thánh hiền nên ngộ và lấy câu người quân tử ăn chẳng cầu no để dỗ dề cho cái bao tử chực nổi loạn khi ở tuổi đang lúc sức trai, vung vai hoài mà không chịu lớn; Đức Phù Ðổng ơi! Ngài đã cởi ngựa sắt lên núi Sóc Sơn biến mất lâu rồi lấy ai mà dạy cho bài thể dục vươn vai đó, mà cho dù Ngài quay lại bộ chỉ huy ở Hạnh Thông Tây, Gò Vấp chắc Ngài lần nầy chỉ mang theo mang theo M-113, M-48, T-54 mà thôi... Lại thiếu ăn!

Những tháng, năm ai cũng cho là thời hoa mộng sao mà ngắn quá! Loa thông tin, đài phát thanh bộ phận thống lãnh lãnh vực xin vặn nhỏ vừa đủ nghe, đừng làm phiền hàng xóm đang cần sự yên tỉnh nghỉ ngơi lại cứ hết volume: Toàn dân nghe chăng, sơn hà nguy biến, hận thù đằng đằng, biên thùy rung chuyển, Diên Hồng tâu lên cùng minh đế: Bắt Lính! Bắt Lính! Bắt Lính!..

Như mọi người NhàQuê tui theo tiếng nói động viên hăng hái tòng quân, đứng lên đáp lời sông núi, giã nhà đeo bức chiến bào ngủ bờ ngủ bụi ngủ rào từ đây...

Hành quân tiếp nối hành quân nên dù có đi theo phương giác nào cũng lấy lương khô làm chuẩn trong những ngày buồn dài lê thê, có hôm chợt nghe gió lạnh đâu tìm về đó.


Thôi thì có muốn gì đi nữa cũng chỉ thế thôi! Bắt phong trần phải phong trần, cho thanh cao mới được phần thanh cao. Tự lấy châm ngôn lừng lẫy đương thời.. đời lính mà em an ủi mình. Ðêm qua em mơ gặp đủ thứ.

Một ngày đẹp trời cụ Hương đề nghị với chính phủ và chiếu nhu cầu công vụ, NhàQuê cũng được như số đông cho về nhiệm sở cũ làm công chức.

Mà công chức lương ba cọc thời kiệm ước, thời Âu Trường Thanh, thời Tổng Thằn Lằn Phạm Kim Ngọc là giai cấp khốn khổ, huy hoàng được mấy ngày đầu tháng là may, làm sao sánh được với giai cấp mới, giai cấp đô la xanh đô la đỏ.

Tội nghiệp nhất là mấy Nhà Chức Quyền cũng phải buôn lậu có còi hụ kiếm thêm mới đủ đối phó với tình trạng suy thoái nầy, thương thay!

Bọn như NhàQuê muốn chi tiêu cái gì cũng phải suy nghĩ bảy lần theo cách tiết kiệm là sống, lãng phí là chết không kịp ngáp, do đó lấy câu ăn để sống chứ không phải sống để ăn làm kim chỉ Nam và chỉ vô miệng. Cũng lại thiếu ăn!

Chiến tranh nào rồi cũng phải kết thúc, chứ kéo dài hoài ai đẻ cho kịp! Truyện xưa tích cũ nói rằng, các đấng không phải là hôn quân sau khi chiếm được thành trì rồi thì dỗ an bá tánh, tha thuế ba năm, quan quân bại trận cho phục viên lo an cư lạc nghiệp. Người thì vậy, ta thì không!

Nên chi ngày hòa bình trở thành ngày hồng thủy tang thương ập xuống đất nước: Tù! Tù! Tù!

Nhà tù lớn bên ngoài đã thê thảm rồi thì bên trong nhà tù nhỏ mà chật ních, thì ai cũng hình dung ra được như thế nào. Thời kỳ nầy có người gọi là thời ăn uống qua loa, không phải ăn uống đạm bạc, đơn sơ cho qua ngày để sống mà là qua loa phát thanh hay kẻng báo ăn mới được xách gô, xách chén đi nhận phần đã được chia, đong, đếm kỹ lưỡng rất ư bình đẳng, ăn xong rờ bụng xem mấy thứ vừa trợn trạo chui vô bao tử hiện nằm chỗ nào trong cái bụng lép xẹp, tay kia gác lên trán và thở dốc. Thiên đường nhỏ cũng thiếu ăn!

Thiên đường lớn là đây! Mười ba tầng xây kiên cố. Với đối tượng số càng cao, không khí vốn là của thiên nhiên còn chưa có đủ để thở thì nói chi là...Bà con đừng có no để cho người ta no cho!

Lạ nhỉ, thằng nhỏ thi đạt điểm gần mười mà không trường nào nhận, đúng ra là không ai chịu cắt chuyển hộ khẩu cho nó đi học. Thôi thì ra đi tìm đường cứu lấy thân.

Ðêm chia tay, mẹ là người ở lại, huấn dụ thằng con nhỏ hơn, thằng em, sợ nó đổi ý: Qua Mỹ con ăn cơm có thịt!


Ước mơ ăn cơm có thịt của một đứa trẻ con Việt Nam lớn như vậy mà nói không phải tỵ nạn kinh tế! lạ thật!


Bây giờ, bốn viên thuốc bốn loại mỗi ngày, NhàQuê tui trường kỳ kháng chiến cho đến hơi thở cuối cùng: High blood pressure, high cholesterol, kéo thêm các loại bịnh phụ tùng, bịnh ăn theo, chúng chực trăm hoa đua nở ...Thế cho đến cuối đời vẫn lại khổ cả Uống lẫn Ăn!


* * * * **


Tết

Tết chia ra làm ba phần không phải gồm đầu, mình và chân tay như bài học cách trí ngày xưa mà cũng chẳng phải đầu bài, thân bài và kết luận như một bài luận văn mà chia theo thời gian dựa vào nhận thức; Là theo ý kiến riêng của mình, của NhàQuê tui:


* Năm nào cũng hỏi năm nay có nhuần không vì năm nhuần dài ra, tụi nít chúng tui đứa nào cũng buồn lâu tới Tết quá, Tết được lớn thêm một tuổi để khoe khoang mình đang tiến dần thành người lớn, hơn hẳn mấy đứa nhỏ hơn, quên rằng mấy đứa ấy cũng đuổi theo bén gót, đuổi theo với cùng khoảng cách chứ đâu có chịu giậm chân tại chỗ. Có mà ham! Nhiều đứa còn nghĩ là năm nay nó tuổi Con Gà tết tới nầy nó sẽ tuổi Con Chó và cứ thế tiếp tục cho đến khi có lệnh mới.

Cái khoái nhất là được nghỉ học cho đến mùng sáu, có quần áo mới vải Xiêm còn mùi hồ bước đi còn nghe sột soạt, dằn túi lì xì rồi là rủ nhau càng đông càng vững bụng, cho có lực lượng khỏi sợ bị ăn hiếp, kéo vô chợ đặt bầu cua, bông vụ, ăn khô mực nướng, hột vịt lộn và mua ít viên pháo lẻ bỏ túi phòng góp tiếng Ba Ngày.

Chạy theo đoàn lân tranh nhau lượm pháo rơi xem chừng còn nổ được trong lúc "chiến trường" vẫn còn nghi ngút khói và vẫn còn lác đác mấy tiếng nổ phụ.

Mùng một NhàQuê không thích lắm vì Ba Má dặn nhiều điều kiêng cử nhất là phải ăn chay, gặp đứa rủ ngã mặn, đang lúc xót ruột NhàQuê đâu nỡ chối từ lời mời đầu năm đầu tháng của nó, ăn chay có một ngày chắc cũng chẳng Thành Chánh Quả được.

Thời gian không khí Tết còn kéo dài thì tụi con nít xóm trên xóm dưới như NhàQuê cũng biết hiểu ngầm tạm xóa bỏ hận thù sau các trận kịch chiến chọi bùn, giành sông, lấn đất, tranh thắng ở hai bên bờ rạch, hưu chiến đợi đến ra giêng tái chiến. Thành ra Tết là thời kỳ sống thật Hòa Bình Thịnh Vượng!

* Con nhỏ thiệt là ác độc, không chịu ngỏ xem

NhàQuê tui muốn gì rồi hãy tặng cho, Nhỏ gởi quà tết rồi rút lui nhanh hơn khi đồng minh tháo chạy nữa, lại cận giờ tiệm tùng đóng cửa không thèm làm giàu thêm, chỉ trừ có mấy gian hàng bán đường đậu là còn bán ráng chờ thâu tiền bạn hàng thiếu chịu trong năm...

Nhỏ làm NhàQuê tui một phen chới với; thôi thì năm tới sẽ quà cho nhỏ gắp đôi.

Năm đó NhàQuê có cái tết lạ lắm bà con ơi! Má tui nói lo học à nhe, khi Má tui biết đang mùa gió chướng, gió muốn tốc nóc nhà mà có người quà tết cho tui một cái quạt, đưa lên thấy hai con chim quyến luyến chẳng con nào muốn dợm bay riêng. Tui nhớ tui giấu kỹ lắm mà! Má tui hay thiệt!

Những cái Tết lòng rộn ràng như thể sao qua đi quá vội , thay vào đó những cái tết phải lo toan, sự mong chờ thuở nhỏ không có nữa, mà thường hỏi nhau năm nay quân nhân công chức có được mượn một tháng lương Tết như năm trước hay không; Nói là cho mượn trả làm nhiều kỳ trong năm kế tiếp chứ thường được cho luôn, khỏi hoàn lại gọi là lương tháng mười ba. Hoan hô Tây có mười ba tháng!

Nghe nói mười ba là số không được hên, nên cầm món tiền hoạnh tài ấy rồi, còn lo năm nay hai bên có tôn trọng lệnh hưu chiến, lệnh ngưng bắn hay không. Hỏi là hỏi vậy chứ nói theo Tây: Chỉ có Trời mới biết! Thôi thì vui Xuân không quên nhiệm vụ!

* Trước khi hưởng kiểu Tết như hiện tại, NhàQuê tui cũng như ai, cũng nhiều năm chào Xuân trong vòng rào kẻm gai và sau đó trong vòng phạm vi đi lại cho phép; Thôi nhắc làm gì chuyện cũ xì!

Có một lần NhàQuê tui xin phép thằng xếp: Ngày mai tao nghỉ Happy New Year. Nó trả lời giỡn chơi mà tui chạm tự ái muốn quạu: Mầy đã Happy New Year rồi mà.

Cũng có lần vừa vào, có đám đủ màu xúm lại bắt tay chúc mừng Happy New Year mà đêm qua chúng thấy hình ảnh quay trực tiếp cảnh đốt pháo múa lân ở Chinatown, NewYork City trên TV...

NhàQuê tui nhớ cũng có lần quên ngày Tết Nguyên Ðán cổ truyền giữa mùa lạnh giá vùng Ðông Bắc Mỹ nầy. Gần như nhiều năm qua, ở đây NhàQuê tui chào Xuân cổ truyền một cách tân thời là độc ẩm ngồi nhớ bạn bè xưa, sau khi chắc chắn rằng đã cào tuyết sạch driveway chuẩn bị cho ngày mai tiếp tục một năm Sửu nữa.

Ðôi lúc tui được nhắc nhớ đúng ngày đầu năm âm lịch nhờ mấy đứa con. Trước khi có vụ khủng bố Sep11, năm nào chúng cũng bỏ hàng giờ lái xe đến ChinaTown dưới NewYork City xem đốt pháo mà còn quay phim để dành, rồi còn đi Hội Xuân của Cộng Ðồng tổ chức cốt yếu là chúng đi dạ vũ có ca sĩ từ Cali qua, có bán vé vào cửa phân biệt riêng với phần múa lân khúc đầu. Không có món dạ vũ nầy người ta không đi. Lạ thiệt! Cho đến thôi nôi, đầy tháng cũng phải nói rõ là có nhảy đầm. Ðón Xuân là như vậy Thế mà có còn hơn không, cho có mùi Tết chứ bên nhà đã giao thừa cách đây đúng mười hai tiếng đồng hồ rồi, tính theo giờ miền Ðông, giờ ET (Eastern Time).


*** *** ***


Ăn Tết

NhàQuê xin kể một vài năm ăn tết rất đặc biệt thời học sinh: Số là, đám tụi tui đi học tứ tán đứa ở Quận, đứa ở Tỉnh, đứa ở Sài Gòn và nhiều nơi, chỉ có dịp Tết là hội về năm nào cũng gần như đủ mặt.

Trước nhất cùng đi chúc tết thầy học cũ theo gương xưa Carnot thăm thầy, chứ tụi tui chưa đứa nào thành danh hay đã đi làm có tiền cả, nhưng tụi tui đã hết lớn rồi nên mới biết lễ nghĩa như vậy.

Phỏng theo ý chuyện ông đại tướng Carnot bên Tây, Bà con còn nhớ chuyện ông Carnot không? Chuyện nói rằng ông Carnot làm quan to nước Pháp, một hôm về thăm quê, qua trường cũ nhìn vào thấy thầy mình ngày xưa vẫn còn tận tụy dạy dỗ đám trẻ làng quê như Carnot từng và cũng nhờ từ thuở đó đi lên mới có Carnot của nước Pháp.

Carnot ghé vào chào thầy xong quay xuống đám trẻ con nói mấy điều khuyên dạy. Truyện không có nói rõ là vị thầy có còn nhớ ra Carnot hay không. Ai có làm nghề giáo đọc chuyện nầy đều cảm động.

Tụi Carnot thế kỷ 20 thăm thầy làm thầy mừng và cũng cảm động lắm. Cảnh cảm động hơn cả là thầy tiễn trò về mà trò đứng không vững, phải từ ghế bắt qua tường, từ tường bắt qua cửa cái, từ cửa cái bắt qua cột thềm ba, từ cột thềm ba khó khăn lắm mới chiếm lĩnh được mục tiêu kế tiếp là cổng phía lộ và cứ thế từng bước không rời nhau, vì rời nhau là đo đất, giúp nhau chinh phục trọng điểm cuối cùng là nhà đứa nào gần nhứt. Rượu Giồng Lứt, Phú Lễ mau phê hết biết!?.

Thỉnh thoảng thầy nhắc năm nào không thấy đám Carnot An Nam đến thầy mong. Thầy hiện ở Sydney, Australia.

Một năm khác, tụ tập lại nhà thằng bạn mà bà cụ được coi là dễ dãi hơn cả, không nhớ rõ sau mấy vòng, bắt đầu thách đấu: Chơi ly cối, rồi mẹ bồng con.

Kết quả tận cùng bằng số là một thằng ngả quỵ đầu tiên được đưa về bằng xe đẩy hai bánh, mà đứa nào cũng dành đẩy để chứng tỏ ta đây còn ngon. Vừa tới thềm nhà gặp ông cụ đi ra, trong nhá nhem cụ hỏi gì đó bây, hoảng hồn đổ hàng tươi xuống thềm ba, ùn ùn kéo xe chạy.

Sau nầy mỗi lần tới ăn đám giỗ nhà cụ, Cụ lắc đầu : Tui chạy mặt mấy thầy luôn! Coi vậy mà rồi làm thầy giáo hết đó bà con ơi, chớ không phải là người phàm đâu!

Thằng chủ nhà giờ ở Washington DC, thằng đi long xa giờ ở Everett, WA. Mấy đứa còn lại giờ ở đâu, ba hồn chín vía tụi bây về đây ăn tết con Cầy!

Mấy mươi năm không năm nào giống năm nào, xin chọn gởi đến bà con vài chuyện mọn mong rằng cũng làm vui được một ít phút giây nào đó cuối thềm năm cũ, trước thềm năm mới. Chứ chuyện nầy NhàQuê tui viết rồi đọc lại thấy đầu voi đuôi chuột, bố cục không cân đối, rời rạc giữa các đoạn chuyển tiếp mà chưa biết làm sao đây....miễn bà con thấy đây là chuyện tào lao nửa cà nửa thực là NhàQuê tui mừng!

Cảm Ơn bà con đã chịu khó đọc đến đây

NhàQuê Dec 2005



Ông NhàQuê mắc dịch,

Ai đánh mà Ông khai việc tôi bắt các ông đưa về bằng "Ngoạ Long Xa Hai Bánh" cách đây hơn bốn mươi năm. Không biết chủ nhà DTT còn nhớ vụ nầy không? Bây giờ tôi thách Ông có giỏi thì tụ tập lại kiểu đó một lần nữa tại quê nhà, rồi rủ thêm các bạn già như các ông Admin, Bentre, Trọn, Kiên, Chấng... làm một trận cho tới bến.

Trước sau gì thì tụi mình cũng thuyên chuyển về Vùng 5 Chiến Thuật. Gặp nhau lần chót để rồi mỗi người mỗi ngã.... Xin Ông cho biết ý kiến.

ThoiTran


Bạn Gọi

Đầu bên kia hỏi Hùng hã mậy
Hiểu tức thì đứa bạn thân
Chỉ có nó biết "bí danh" Hùng nầy Hùng nọ
Cái thằng trút bạn nhậu xuống sân

Kéo xe chạy sợ ông già ngó thấy
Đám giỗ gần... ổng cho lọt sổ... lỗ thấu xương
Đó là chuyện mấy chục năm về trước
Giờ không biết dịp nào ăn giỗ "đối phương"

Nghe giọng rè cà lăm hơn lần trước
Hỏi mầy bịnh gì tao bày thuốc cho
Nó nói tao điếc tai hỗm rày quá xá
À thì ra đoán mò... trả lời đại cũng ro ro

Sẳn hỏi thăm Dâu mầy chừng nào qua tới
Nhắn nó gởi tao vài bó nhang
Nữa tao chết chợ xa không mua kịp
Mầy xá tay không, tao ngồi dậy không chừng

Tao sẽ trối dằn dưới lưng chai rượu
Dành gặp mầy rút nút cưa êm
Rồi hợp xướng vang đầu trên xóm dưới
Đay Nêm - Đêm Nay, Trằng Có Trơi - Trời Có Trăng....

Bớ ba hồn chín vía mầy...thằng Năng!!!

NhàQuê

NhàQuê
12-11-2011, 11:26 PM
Những "ngôi trường xưa Em học"


Đoản 14- Tầng Thứ 11


Sau hai năm tôi ra trường, cái bằng cấp mỏng te, con dấu đỏ chói. Nhờ nó tôi "kiếm ăn" khấm khá sau nầy, không những cho bản thân tôi mà cho cả gia đình gồm vợ và các con cháu tôi nữa!

Ra trường rồi cuộc đời tôi thay đổi hẳn, bà con tôi ít tới lui chuyện vãn đã đành, trong đám giỗ đám cưới tôi ít thân mật với họ mà hình như họ cũng muốn xa cách tôi chẳng khác nào ý nghĩa thực của hai tiếng kỳ thị, phải khác nhau chứ vì tôi là người duy nhất học trường ấy mà! Có ai như tôi đâu!

Nói thật các bạn là ngay trong đám cưới thằng cháu tôi là đứa có chức vụ quan trọng không kém gì cha nó, anh rể tôi, tôi cũng chỉ đến gởi quà rồi ra về chẳng chờ tiệc và cũng trước khi lễ cử hành, tôi biết rằng chờ tới phần chánh nầy e rằng tôi phải lưỡng lự không biết đứng chỗ nào cho hợp.

Có nhiều đám cưới lãng nhách, tới rồi gia chủ không biết tôi là ai, nhưng tôi phải đi, không đi sau nầy sẽ gặp nhiều chuyện lãng nhách, như khi đêm họ bất chợt một cách cố tình ngang qua mà không nghe tôi ngáy. Có đám đòi tôi quà món nầy món nọ lạ lắm so với thời tôi cưới vợ.

Có khi ngồi gần nghe những người trẻ chung quanh nói chuyện mà tôi ngớ ngẩn không hiểu họ nói gì. Chẳng lẽ học trường đó ra tôi ngu đần vậy sao cà!

Với bạn bè thân xưa, tụi tôi đứa nào cũng kênh kiệu thấy rõ, đi ngang giữa đám đông hai đứa giả đò cố ý "chẳng thèm nhìn mặt nhau" nhìn đi nơi khác như chưa lần nào quen biết.

Thôi, không nói dong dài chi nữa, đó là trường tập trung cải tạo, nhờ có cái mà tôi gọi là bằng cấp thực sự nó là cái certificate, cái giấy ra trại, có cái ấy, cái "dài chỉ một gang thôi" đó, tôi chứng minh được rằng tôi không phải là tỵ nạn kinh tế với Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ, cả thế giới lúc đó ai cũng biết người sở hữu cái bằng cấp đó có cuộc đời "sung sướng, hạnh phúc" đến dường nào.

Tôi gọi là bằng cấp theo truyền thống chuộng học vấn từ nhiều đời ông cha ta vẫn vậy, chứ theo đúng nghĩa trường đó là nhà tù, hãy nhìn bảng hiệu người canh gác có chữ "Quản Lý Trại Giam" thì rõ. Và từ ấy chúng tôi thuộc về một sắc tộc mới gọi là Người Việt Gốc Trái Trắng, duy lụy nhiều đời sau.

Trong nhà tù kiểu mới, tôi được xếp ở tầng thứ mười một trong số mười ba tầng, đừng hiểu theo nghĩa nhà lầu mà hãy hình dung nó là địa ngục nên số càng lớn càng ở sâu không dễ gì thở nổi, kể như "muôn đời Lục Quân Việt Nam" rồi, trừ khi có phép lạ ngoài biển khơi theo tay chỉ của Ðức Thánh Trần.
http://2.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SSFxoVPxcjI/AAAAAAAAAtI/jooGoBbT0BM/s200/BTHTranHungDao01.jpg
Thế giải thích một trong muôn ngàn lý do đớn đau, vì sao cha con tôi gạt nước mắt nhào ra đại dương. Chúng tôi những người mang tên Ðối Tượng 11. Tôi chẳng còn chọn lựa nào khác sau hơn 11 năm cứ tưởng mình có thể lam lủ nông dân như ba má tôi đã là.

Bên kia bờ cuối hiểm nguy, tôi đã gặp tình nhân loại. Cái mà chẳng làm sao tìm được nơi tôi vừa bỏ ra đi, bỏ lại mọi thứ thiêng liêng.

Một ngày kia có dịp đi đó đi đây đôi chỗ, lần qua "cửa khẩu" Tân Sơn Nhứt tận mắt thấy các lớp người gọi là có ăn có học hạch sách moi tiền, tự nhiên tôi buồn và thương hại họ một cách thành thật tự tâm tôi.

Gần đây một người quen khoe với tôi có con tốt nghiệp đại học vài năm rồi và đang xác minh chờ được kết nạp, bàn đạp để có phương vị chỉ huy dễ kiếm ăn hơn. Lớp trí thức thế sao, chẳng lẽ tôi "chúc mừng" cho anh.

Tôi thương đất nước tôi vô hạn: Mẹ Việt Nam ơi, giấc mơ bình thường còn xa!


NhàQuê Nov 28, 2005

NhàQuê
14-11-2011, 07:45 PM
Những "ngôi trường xưa Em học"

http://3.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SRzbuYDPvCI/AAAAAAAAArI/w3vvXI4cdlM/s200/NQ44VongPhu1.jpg

Đoản 15: Dục Mỹ! À! Chợt Nhớ

Với tôi, Dục Mỹ nơi chốn đầu tiên xa nhất của miền Trung mà tôi có đến và ở đó bốn tháng; Tôi là người miền đồng bằng sông Cửu Long, chính xác hơn tôi là người Kiến Hòa.

Nhân đọc thơ Quan Dương thấy có nét gì lạ lạ và truyện của ông gần gũi với xúc cảm thời học sinh và thời ngủ rừng, tôi bèn phăng tới và tìm ra Website Ninh Hòa

Cũng qua đó tôi đọc bài của cô Hà Thị Thu Thủy và bạn Phó Ðức Lâm nói về Dục Mỹ, cái Thành Phố Nhà Tranh Vách Ðất mà từ 19-08-1967 đến 05-01-1968 tôi đã thụ huấn pháo binh ở Huấn Khu đó.

* * *
Tôi trong số 36 mạng Khóa 25/SQTB Thủ Ðức được chọn đi học Pháo Binh, khóa trước đó không có người nào. Nằm vật nằm dựa ở phi trường Tân Sơn Nhất chờ chuyến bay, cuối cùng rồi cũng được leo lên chiếc C-130 của Mỹ, phi cơ đáp xuống phi trường Nha Trang đã nửa đêm, lần đầu tiên đi máy bay lại là phi cơ quân sự, ngồi bẹp xuống sàn lổm ngổm quân trang, lại đi ban đêm: Cũng như không! Kể như chưa biết đi máy bay là gì.

Phải thêm lo vì trước khi cất cánh, mỗi người được phát cho một miếng giấy nhỏ nói về ưu điểm của chiếc Hercule nầy cùng hướng dẫn an toàn: Nào là khi khẩn cấp sẽ đáp xuống biển và có 30 phút chưa chìm hẳn để mọi người thoát ra ngoài: Lạnh ót!

Thành phố "Thùy Dương Cát Trắng" tiếp đón chúng tôi ở khách sạn ngàn sao một góc nào đó trong khu quân sự phi trường. Rà hết băng tần duy nhất của cái radio bỏ túi không nghe được đài nào: “Buồn ơi là buồn!” Vậy là “Nước trôi ly biệt nguồn”.

Sáng hôm sau được GMC bỏ xuõng cuối đường Ðộc Lập chờ xe trường Pháo Binh đến rước. Chúng tôi cắt phiên canh giữ quân trang, thay nhau đi phố, có đứa mua mang về cuốn Ðời Pháo Thủ của Nguyên Vũ (K16/PB), chuyền tay nhau đọc; Thấm thía về tương lai nhà pháo của mình!

Mấy ông tài xế nhà binh lái xe thì phải biết, mấy Ổng leo và đổ dốc đèo Rù Rì không cho chúng tôi phút nào "xa quê hương nhớ mẹ hiền" được cả! Xón thật! Hai xe ngược chiều cơ hồ đâm vào nhau. Cuối dốc mới được thở ra, ngắm nhìn phong cảnh.

Trời về chiều, núi ngã màu xanh sẫm, mây xuống thấp la đà, xa hơn cái nhà ga xe lửa đứng đơn độc, là xóm làng gần giáp chân núi sương khói giăng giăng, con đường dẫn tới trông hiu hắt làm sao; Chúng tôi không còn pha trò nhau, im lặng, mỗi người chìm vào thế giới riêng.

Không biết do đâu, tự tôi đặt tên ga phía trái trước khi leo đèo Rọ Tượng là ga Diên.

Vậy là bây giờ tôi mới biết xóm nhà cuối khu rừng nước mặn thưa thớt toàn cây mắm trắng và ô rô về phía phải của Quốc Lộ 1 trước khi đến đèo là làng Tân Thủy, cùng tên với quê tôi và cũng sinh sống bằng nghề biển. Trước khi qua đèo, nghe nói Rọ Tượng nguy hiểm hơn Rù Rì làm tôi lo một phen nữa lên ruột , nhưng không chẳng có gì: An toàn trên xa lộ!

Có lẽ tôi ngồi bên băng phía lề mặt nên tôi nhìn thấy rõ trường Trung Học Trần Bình Trọng với hàng chữ tên trường màu đỏ, trường trệt không nằm cạnh đường mà xa bên trong, phía trái từ hướng Nha Trang tới.

Tôi lầm lẫn, tưởng rằng trường Pháo Binh gần trường Ðồng Ðế tức ngoại ô Nha Trang.

Khi đến ngã ba Ninh Hòa xe ngừng, tôi lại tưởng trường ở lòng vòng gần đây; Lại lầm! Ðường trường xa...

Ngừng ở ngã ba Ninh Hòa gần như thông lệ hay sao của mấy bác tài xế nhà binh, tôi khám phá ra điều nầy vì sau đó lần nào cũng vậy mấy ảnh bỏ đi đâu mất tiêu, tụi tôi biến thành người trông chừng xe cho mấy trự nầy.

Ở ngã ba đó, tiệm nem nướng Thái Thị Trực hấp dẫn tôi khiến sau đó mấy lần tôi trở lại có khi phải đi về trường bằng xe lam; Vậy mà có đứa lại nói có tiệm khác ngon hơn mà nó không chịu chỉ trước: Thế có ức không?

Mấy năm sau tôi trở về trường làm giám khảo kỳ thi mãn khóa, tôi lại có dịp cùng mấy sĩ quan giám khảo khác dùng chiếc Dodge 24 của trường để thăm Ninh Hòa. Lại đến Thái Thị Trực làm nem nướng rồi lái lòng vòng dọc Quốc Lộ.

Đám xe sư đoàn Mãnh Hổ hay Bạch Mã gì đó của Củ Sâm, gần như chẳng buồn tránh ai dù trục lộ khúc đó chẳng rộng rãi gì. Ninh Hòa tôi chỉ biết thế!

* * *



Trường Pháo Binh Dục Mỹ nằm sau lưng Trung Tâm Huấn Luyên Biệt Ðộng Quân, dẫn vào bằng con đường cặp hông hướng từ Ninh Hòa tới, ngăn bằng hàng rào kẽm gai đơn sơ.

Thế mà đấy là lằn ranh thiên đường địa ngục, chúng tôi cho là vậy: Ai có qua các khóa Rừng Núi Sình Lầy, Viễn Thám thì sẽ biết mức gian truân của Lò Luyện Thép nầy, trong lúc chúng tôi mỗi bước lên xe hơi, không uổng phí cuộc đời .

Ðã đi xe mà còn thêm ghế bố xếp xách tay. Thực ra chúng tôi không thể cuốc bộ vì đồ nghề lỉnh kỉnh, nào là: Bàn chân xếp đặt xạ bảng, GB là dụng cụ gióng hướng súng, ống dòm, la bàn, bản đồ, họa xạ biểu, họa tà biểu, quạt hướng tầm, cả lô kim mục tiêu và viết chì phải học cách chuốt từ ngày đầu tiên, chúng tôi giống như anh họa sĩ đi tìm cảnh đặt giá vẽ, móc thêm chú 105 hoặc 155 tùy theo buổi học.

Không sung sướng đâu các bạn ơi! Tụi tôi bù đầu vật lộn với các môn: Chiến Thuật, Ðịa Hình, Trung Ương Tác Xạ, Chiến Cụ & Ðạn Dược, Khẩu Ðội Vụ, Quân Xa, Truyền Tin và cả Chiến Tranh Chánh Trị nữa.

Bao nhiêu quyển Binh Thư có mã số riêng nặng chình chịch, từng quân trang quân dụng vũ khí chiến cụ phải nhớ một lô danh số và đặc tính, cách sử dụng và hiệu quả của chúng, rồi sử dụng bảng Lô Ga Rích giải địa hình .. và giải toán tác xạ chuẩn định chính xác, chuẩn định thời nổ, giải khí tượng... : Nhức đầu lắm! Nếu không thì rớt!

Bù lại, chúng tôi chiều nào cũng ra phố Dục Mỹ tự do trừ những khi dã trại đêm. Cuối tuần có xe đưa đi Nha Trang, chiều Chúa Nhật ruớc về.

Người thân một đứa bạn tôi, vốn là thầu khoán đó đây, có biệt thự bỏ hờ do một quản gia trông coi trên đường Biệt Thự, hai đứa tôi cuối tuần ra đó, được lo chăm sóc như ông chủ nhỏ.

Từ biệt thự đó lội bộ băng qua đường với khăn tắm vắt vai, là đã tới biển khu vực gần nhà hàng Kim Sơn có rào kẽm gai, nghe nói dành riêng cho Phó Tổng Thống Kỳ, chán về đã có cơm dọn sẵn sàng.

Đôi lần xuống tận chợ Chụt làm vài quả Phở, lại cũng nghe nói Phó Tổng Thống Kỳ ưa tới đây: Tôi cho phở Chụt đạt điểm A!; Nhưng tụi tôi vẫn thích khu vực đường Ðộc Lập hơn hẩu xực mì xào dòn đồ biển , đớp bún bò huế đường Hoàng Tử Cảnh và vài chuyện ai cũng biết .

Càng về sau chuyện đi Nha Trang thưa thớt dần vì tiền lính tính liền.

Ðầu tháng lảnh lương, bà Ðô chủ câu lạc bộ trường Pháo Binh, bắt ghế ngồi gần nơi phát ngân viên làm việc, bà thu không sót một xu các anh nào trong tháng Gô Sĩ Ghi Sổ ăn chịu bà ta. Con nhỏ Ngân Thủy con bà, thường gọi Ngân, đẹp không có chỗ nào chê được, nhỏ cười liếc ai cũng có cảm tưởng cô ta đang để ý tới mình. Lầm to! Nhỏ đi về đã có người đưa đón.

Có cái câu lạc bộ đó cũng đỡ lắm, mỗi sáng chúng tôi đến uống cà phê và xin một bi đông nước đun sôi chống sốt rét. Việc nầy nhỏ Thủy tử tế có thừa, chắc Nhỏ cũng sợ dùm các Quan tương lai dính chấu bệnh chưa chi đã run.

Phòng ăn dành cho SVSQ chúng tôi bàn ghế đóng bằng gỗ thông: Pháo Binh mà! Mỗi bàn bốn đứa bốn cạnh, trước mặt một dĩa ớt hiểm tươi rói, một gói thuốc nâu có, đỏ có, hai ba thứ ngừa sốt rét, món ăn có thịt, cá, bò thay đổi, nhưng món măng bao giờ cũng hiện diện mỗi ngày chưa có triệu chứng nào đào ngũ dù có khác cách chế biến.

Từ đó tôi bắt đầu ăn ớt nhất là hôm nào có món cá biển, cá tương đối còn tươi, nghe nói từ Vạn Giã chở lên.

Trừ những khi trời mưa, chiều nào chúng tôi cũng có mặt ở các quán cà phê Dục Mỹ, có khi đi lang thang chẳng có mục đích gì. Nay đọc lại các bài viết trong ninh-hoa.com mới nhớ ra rằng: À ! Ở Dục Mỹ các con đường mang số 1, 2, 3 ... như ở Âu Mỹ

Lần đó tôi đến tiệm Tân An rửa hình , đúng lúc con nhỏ Yến con chủ tiệm bí toán, tôi thấy Nhỏ loay hoay quên cả hỏi tôi, khách hàng mới vào. Nhìn qua tôi ngứa nghề giải sơ cho Nhỏ, không biết Nhỏ có hiểu không? Nhưng lần đến lấy hình , Ba Má của Nhỏ mời uống nước và ngỏ ý nhờ dạy kèm cho Nhỏ. Tôi nhận lời và bảo Nhỏ tìm thêm vài người nữa.

Khi lớp bắt đầu tôi mới biết rằng họ mất căn bản rất nhiều, tôi phải ôn lại từ đầu cho họ. Tôi dạy giúp họ không nhận thù lao. Mỗi ngày học sinh ở đó có xe của các quân trường đưa đón tận Ninh Hòa, học sinh phần đông là con em của quân nhân của Huấn Khu.

Lúc ấy tôi vẫn tưởng ở Ninh Hòa chỉ có trường Trần Bình Trọng mà thôi. Gia đình tiệm hình Tân An có nói họ từ Diên Khánh ra. Ở đây người ta gọi đi Diên Khánh là đi Thành, tên gọi tắt. Cô Hà Thị Thu Thủy có nhớ tiệm hình Tân An và nhỏ Yến nầy không?

Có những đêm kéo súng lên Lam Sơn trực, tụi tôi cũng mò về chợ Dục Mỹ uống cà phê cho ấm lòng chiến sĩ, từ đó lên trung tâm huấn luyện Lam Sơn phải ngang qua phi trường Dục Mỹ, mà phía đối diện là bãi tập Ðịa hình và Chiến Thuật, cũng như nơi diễn tập và thao dượt cuối khóa chúng tôi.

Trong mé rừng bãi tập ấy, có cả một chợ nhỏ đủ loại thức ăn thức uống và đặc biệt mấy chị bán cháo gà chờ chúng tôi giờ xả hơi. Phải nói gà ở đây ngon tuyệt, tôi thường mua thêm một quarter leg mới đã! Mỗi lần tôi mua là chị hỏi: Nguyên đùi gà phải hôn? Trả lời: Yếu tố cũ, một tràng! Không biết nồi cháo còn lại chị bán làm sao đây? Thực khách đến sau chắc phải dùng loại không người lái.

Khi học các bài về Khẩu Ðội Vụ, có khi súng phải được kéo vào tận xạ trường xa trong núi, nơi đó nhìn rõ đỉnh Vọng Phu không cần phải dùng ống dòm. Trên đường đi, về xe ngang qua Buôn Sim, Buôn Lác lô nhô nhà sàn và mùi hăng gia súc. Có những tối trên đoạn ấy, gặp các bạn bên Biệt Ðộng Quân lặng lẽ di chuyển trong đêm.

Còn trên quốc lộ 21 từ hướng Ninh Hòa đến, trước khi leo dốc Núi Ðeo, ai cũng thấy bảng to tướng "Nơi Ðây Lò Luyện Thép" , bao giờ cũng nghe tiếng la hét xung phong về phía có dây tử thần.

Cái đáng nhớ nhất là có một sáng chúng tôi ra chợ uống cà phê về, chuẩn bị hay đã ăn cơm xong, vì chúng tôi cứ đủ bốn người là mời các Quan cầm đũa chứ không cần đông đủ. Bỗng có kẻng báo động, mấy đứa về trễ hơn nói ngoài chợ đã lụt tới đầu gối rồi.

http://4.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SR2JE-PxZtI/AAAAAAAAAro/tP8m5sNTTPo/s200/NQ76DucMy02.jpg

Tôi chưa tin vì trời chỉ lâm râm chứ không có trận nào mưa lớn từ mấy ngày qua và tôi cũng mới về từ ngoài ấy. Hướng núi có lẽ mưa mấy hôm nay, trời mù không nhìn thấy đỉnh Vọng Phu. Tôi cũng theo đoàn người đi, thực ra do hiếu kỳ chứ tôi không có nhiệm vụ gì.



Lụt thật! Lụt gì mà dễ vậy! Ðứng ở trụ cây số có chữ Nha Trang 47 Km, bên kia đường trước Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Ðộng Quân nhìn nước đục ngầu đang chảy cuồn cuộn từ nguồn suối Dục Mỹ xuống, ngập mất lan can cầu, dòng nước hung hãn mang theo cây khô, nhánh to. Các bạn sau nầy thấy thành cầu Dục Mỹ có gãy một đoạn hay được vá lại là do trận lụt năm ấy. Các nhà vách đất rệu rã thảm hại. Dòng suối hàng ngày nước tận lòng lạch, đứng trên cầu nhìn xuống mấy cô ra lấy nước, giặt giũ ngồi trên mấy tảng đá trông nhỏ xíu, sâu bên dưới. Phút chốc con suối hiền hòa trở nên kẻ hung bạo.

Khí hậu Dục Mỹ rất bất thường, ban trưa nóng ngủ dậy không nổi, uống hai trái dừa lạnh do các anh quân nhân cơ hữu trường mang bán dạo, cũng chưa đã khát, dừa Ninh Hòa nhỏ và ngọt hơn dừa Bến Tre.

Ban tối lạnh khó lòng tắm được, từ đó tụi tôi sáng chế ra kiểu tắm rất Pháo Binh: Tắm trên miền (dựa theo tên một loại tác xạ: Tác xạ trên miền), tức chỉ tắm những phần cần tắm. Vậy chứ vẫn cứ tán nhỏ Ngân Thủy thơm tho dài dài, không thuyên giảm .

* * *

Ðầu năm 1968 tôi mãn khóa, sáng 06 tháng 01 năm 1968 tôi rời trường về Nam, lần nầy tôi mua vé hàng không Việt Nam: Nhớ nhà quá! Không chờ phương tiện nhà binh được. Dù có trở lại một lần vài năm sau đó, nhưng mấy chục năm qua tôi chưa gặp lại một ai kể cả các bạn cùng khóa ít ỏi chỉ có 36 người tính luôn tôi đã được rải ra khắp bốn vùng chiến thuật.

Nay đọc trong ninh-hoa.com gợi cho tôi nhớ một khoảng thời gian trong đời rằng có lần tôi đã đến đó: Vùng đất xem ra nghèo nhưng dễ thương!

NhàQuê

Connecticut Oct 06,2005


Kính anh NhàQuê,

Rất vui khi được biết anh gia nhập vào trang Ninh Hòa đồng hương của chúng tôi. Nhân dịp đọc bài viết của anh trên trang Web ninh-hoa.com về Dục Mỹ thật hay, gây cho tôi nhiều cảm xúc và xin có đôi lời nhờ trang Web gởi về anh .

Dù chỉ một thời gian ngắn nhưng anh đã có những kỷ niệm và yêu mến xứ nhỏ của chúng tôi vùng đất xem ra nghèo nhưng dễ thương. Cuộc sống nơi đó sau 1975 đã không còn được như trước vì chiến tranh tàn phá một phần nào và sự sinh sống của những người dân nơi đó xưa kia sống nhờ vào 3 trung tâm quân đội giờ đây cũng không còn nữa nên quang cảnh sinh hoạt hoang vắng hơn trước nhiều. Những hình ảnh cũ đã mất hết cả rồi. Nay được một người là quân nhân xưa kia, dù chỉ ghé qua một thời gian ngắn nhắc đến, tôi thật sự cảm động, thế mới biết những người đã sống từ thuở bé trong vùng quê nhỏ đó dành sự yêu thương cho nó nhiều biết dường nào. Cám ơn anh đã dành tình cảm cho quê nhỏ chúng tôi.

Qua lời hỏi thăm của anh về chị Yến con của bác Tân An tiệm chụp hình, tôi được biết ba má của chị vẫn còn ở Dục Mỹ tại căn nhà xưa, chị Yến đã lập gia đình và có 3 cháu, hiện chị đang sống tại Quảng Ngãi quê chồng, chị lớn hơn tôi hai lớp. Chị có người em gái tên Oanh đang sống tại Mỹ là bạn học với em gái của tôi, Oanh có về VN và ghé thăm chúng tôi vào tháng 9/2004.

Kính chúc anh và gia đình vui khỏe, hạnh phúc. Mong được đọc nhiều bài viết của anh gởi qua trang Web ninh-hoa.com, chúc anh sáng tác nhiều.

Kính thư.
Thu Thủy


http://i1215.photobucket.com/albums/cc504/nhaquebatri/VongPhu01.jpg

Vịnh Đỉnh Vọng Phu

Dặm tiễn lên đường nhắm hướng Đông
Người về chót đỉnh đứng chờ trông
Non thương giúp nhón … nâng tầng đá
Biển cảm dùm loang … dịu nắng hồng
Biểu tượng kiên trinh trong ngữ ngạn
Hình trưng tiết liệt giữa thinh không
Mây trôi vướng núi dừng lưu luyến
Hóa thạch "Vọng Phu" mãi đợi chồng

NhàQuê

(Được họa từ bài xướng Vọng Phu Thạch bên dưới)


Vọng Phu Thạch

Ngóng đợi phu quân cuối bể đông
Đăm chiêu thiếu phụ mỏi mòn trông
Bồng con rủ rượi hai hồn đá
Dẩm núi trơ vơ một bóng hồng
Đếm bước kim ô trầm đỉnh ngạn
Đong gương ngọc thổ ngự tầng không
Thoi đưa tạc dấu trang tình luyến
Khắc giữa nhân gian khổ vọng chồng

Đồng Lão

NhàQuê
18-11-2011, 08:48 PM
Những "ngôi trường xưa Em học"


Đoản Rời: Viên Sỏi


Tôi rời Ninh Hòa, quê hương các bạn, nơi có đủ núi non, sông ngòi, ruộng đồng và biển cả. Nơi đó xóm làng đồng ruộng làm tôi đỡ nhớ quê xa, nhưng núi non đem mây xuống thấp như gần, tôi dễ buồn hơn.

Tôi mong ngày về Nam, nên lần từ giã quê hương các bạn lòng tôi mừng, không giống như các bạn lúc khăn gói rời xa. Chắc ai cũng có lần xao động như thế!

Từ khi còn đi học, ao ước khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi nơi nầy, nơi nọ khi có dịp. Thế mà tôi đã bỏ nhiều cơ hội trong thời gian lưu ngụ nơi quê hương các bạn. Tôi đã không biết Vạn Giã, Vạn Ninh, Thành Diên Khánh, Suối Nước Nóng.

Xa hơn như Ban Mê Thuột phía Tây, Tuy Hòa phía Bắc, Cam Ranh Ba Ngòi phía Nam. Những nơi ấy bạn tôi có đến trong thời gian bốn tháng quân trường, tôi thì không. Họ về kể lại làm tôi ấm ách khi tôi hỏi Ðèo Cả cao thế nào, bị chúng trả lời: Ðã nói là Cả thì phải biết nó như thế nào rồi!

Nhủ thầm thôi để sau nầy! Cái sau nầy tôi chờ đợi, nuôi dưỡng khác xa cái sau nầy tôi nhận được, nên ước muốn đi đó đi đây cơ hồ không thực hiện được.

Ngày nay có dịp đi nhiều nơi, nhưng tôi biết rằng những nơi tôi ao ước ngày nào, giờ chỉ là phấn son. Cái hồn nhiên mộc mạc tôi yêu, ước muốn một lần được gặp đã vĩnh viễn của quá khứ. Cái háo hức ngày xưa thôi giờ để lại con cháu tôi mấy dịp chúng về thăm đất Tổ. Thế cũng đủ!

Khi đến nơi nào hay rời xa tôi đều mang về theo một vật kỷ niệm, vật kỷ niệm có khi cũng tức cười, vì đó là tờ thực đơn của nơi tôi đã ghé ăn.

Không phải chỉ có kẻ phàm phu như tôi mới có cái thú sưu tập vật kỷ niệm xem ra tầm thường như vậy. Ngay đến những tài tử, minh tinh, ca nhạc sĩ nổi tiếng khi được mời lên AirForce One, mấy vị nầy cũng đã xếp mấy tờ napkin có in huy hiệu tổng Thống Mỹ cho vào túi làm kỷ niệm.

Xét ra từ quân tử chí ư thứ dân cũng vậy thôi!

Nhà tôi thỉnh thoảng phàn nàn tìm thấy trong túi tôi mấy vỏ sò vỏ ốc.

Theo thói quen đó, tôi cúi xuống nhặt viên sỏi nhỏ còn ấm quê hương Ninh Hòa các bạn, viên sỏi có thể không phải từ trong lòng đất nơi đó, nhưng nó đã hiện diện ở đây trước tôi. Nó đã chứng kiến hôm qua, chúng tôi quỳ xuống dâng lời thề cùng sông núi:

Tuyệt Ðối Trung Thành Với Tổ Quốc Việt Nam! Xin Thề!

NhàQuê Dec 04, 2005


http://i1215.photobucket.com/albums/cc504/nhaquebatri/VongPhu01.jpg


Nếu Lại Có Lần

Tôi thuộc tên Ninh Hòa quê bạn
Con Sông Dinh, Xóm Rượu, Đường Luồng
Thành phiên bản in đầy trí tưởng
Một mai kia có dịp đến cùng
Sẽ rất quen không gì bỡ ngỡ

Nơi ngã ba bồi hồi tưởng nhớ
Bốn mươi năm dấu tích đổi thay
Lần đầu tiên dừng lại nơi đây
Thêm thiện cảm ghi lòng từ đó
Giữ trong sâu bước mỗi dần xa

Rời Bùng Binh bóng chiều đã ngả
Màu núi lam càng lúc một gần
Mười bánh xe dừng hẳn vòng lăn
Tôi đứng giữa núi rừng Dục Mỹ
Bao nhiêu mới bắt đầu từ đấy

Chuyện kể ấy về xa xưa lắm
Chứ bây giờ tôi khách hành hương
Về nhìn lại dấu chân xuống núi
Trả chiếc gùi nay đã rách bương
Chỉ viên sỏi vẫn còn nguyên dạng

Mấy tảng đá dưới lòng suối cạn
Đấm vai nhau cười khách đứng nhìn
Chưa nhận ra hai bên cứ ngó
Cây cầu xưa chứng kiến lặng thinh
Tóc tôi bạc mà rong vẫn vậy

Hồi tưởng nhớ từng viên đá ấy
Dáng ai ngồi giặt giũ khoan thai
Nước từ nguồn miệt mài xuôi chảy
Như tôi xa biền biệt năm dài
Nay trở lại chung quanh đều lạ

Từ trên cầu tay buông hòn đá
Trả về lòng viên sỏi tôi vay
Đã đi theo gần suốt đời nầy
Cùng lạc bước theo dòng nghiệt ngã
Gợn sóng tăn như đã vẫy tay

Tôi còn muốn ghé thêm nhiều chỗ
Từng hàng dương vẫy gió đong đưa
Hương cà phê và làn khói quyện
Đưa tôi về cổ tích giăng mưa
Cài áo che … lạnh từ hướng núi

Sắp rời xa tôi gắng gượng cười
Chia tay nhé đã là phút cuối
Kỷ niệm xưa nầy dịp ghé thăm
Đỉnh núi cao cũng dường xúc cảm
Nhạt nhòa mây qua đó tần ngần

NhàQuê

http://1.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SR1_F1D2GwI/AAAAAAAAArg/PML2bb5gj_8/s200/NQ76DucMy01.jpg

NhàQuê
20-11-2011, 10:58 PM
Những "ngôi trường xưa Em học"

Đoản Rời: Đại Bác Cướp Cò

Tưởng là chuyện giỡn chơi, có thiệt đó các bạn à! Bản thân NhàQuê tui trải qua ba trường hợp xin kể tặng người bạn tuy xa lại gần của tôi, dịp bạn quyết định nghỉ hưu cuối tuần nầy: Tôi nói xa là chúng tôi xa nhau ba mươi năm mới gặp lại, gần là nay trong số bạn cùng năm vào trung học chỉ có hai đứa tôi gần nhau nhất, cũng phải mất một giờ rưởi lái xe.

Tôi ra trường Pháo Binh sau bạn tôi ba khóa, thuộc đàn em, kể như lội mút chỉ, vì các phương vị chỉ huy có chữ THỌ đã được hàng hàng lớp lớp đàn anh nắm giữ rồi.

Không biết do đâu, vì sao, tôi lại được về Tiểu Đoàn Pháo Binh Hoàng Gia, gọi như vậy vì nó ở sát nách Nhà Vua tức Biệt Khu Thủ Đô, chứ đơn vị tôi có tên có số riêng như mọi đơn vị khác.

Xin nhớ tôi là một tên nhà quê mốc thít nhiều đời không có "gốc gác" gì cả! Chắc bản mệnh tôi "an tại Thiên Phủ Cung" nên phải ở gần Nhà Trời, mà đơn vị tôi cũng mới tinh, huấn luyện chưa xong, đại bác còn chưa lảnh hết bên Quân Cụ.

Tôi trình diện đơn vị trưởng đúng hai tuần là gặp trận Mậu Thân liền, quân số tại hàng lúc đó rất ít vì đang đi phép Tết và một số "dù" về thăm gia đình chung quanh SàiGòn.

Tiếng súng nổ vang mà tôi tưởng pháo tết hay phe ta bắn súng thay pháo, cứ tiếp tục ngủ một mình trong dãy phòng dành cho sĩ quan độc thân, may là tôi không nghe radio kiểu vừa nghe vừa ngủ.

Đến khi Đài Chỉ Huy cho người lên ruồng xem có còn ai trong phòng ngủ hay không, mới khám phá ra tôi là quân nhân gương mẫu không "dù", mà có "dù" cũng đâu biết đi đâu!

TĐT tôi bảo Kiến Hòa mất rồi! vì trên hệ thống Liên Quân báo như vậy, khi ông hỏi tôi quê ở đâu.

Không đầy mười phút sau đơn vị tôi bị tấn công trực tiếp, sau nầy tù binh khai là họ đã vào sát rào cả giờ rồi, nên tôi nói tôi ngủ không mở radio là may!

Dĩ nhiên là đơn vị tôi có tổn thất nhưng làm sao "Xơi" chúng tôi được! Trại Phù Đổng của Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp gần đó bị chiếm, Họ đã gây nhiều khó khăn tiếp tế đạn dược cho chúng tôi trong mấy ngày.

Đến khi đường đã giải tỏa, tôi được đưa đến trại Thiên Hộ Dương (căn cứ 30 Quân Cụ) nơi một pháo đội Đại Bác mới lảnh còn mùi dầu mỡ, trú đóng vị trí hành quân ngay bên trong căn cứ Quân Cụ nầy, trên khoảng trống gần Trường Quân Y, cạnh sân banh sau lưng "Lò Bát Quái" khám Chí Hòa và yểm trợ liền cho lực lượng bạn đang chạm địch nặng....

Khi được giao điều khiển cho pháo đội thi hành tác xạ, tôi vẫn hô khẩu lịnh y chang như những gì học trong quân trường không sai sót một chữ, làm ai cũng cười (lính mới mà em!):

** Pháo Đội điều chỉnh!
** Đạn nổ!
** Lô XXX!
** Đầu Nổ nhanh!
** Trung Tâm một quả!
** Pháo Độ 5 quả, Đầu nổ CVT khi bắn hiệu quả!
** Nạp...! ngưng ít giây, hô tiếp

** Độ Giạt ....!
** Góc Thăng Bằng...!

Chưa đầy phút sau khẩu đội báo cáo:

Khẩu 3 sẳn sàng!
Khẩu 4 sẳn sàng!

Tôi phất tay đồng thời ra lịnh:

Bắn! .....

Đến khi chuẩn bị bắn hiệu quả thì ngoài mặt trận xin ngưng tác xạ để họ chiếm mục tiêu.

Thay vì hô khẩu lịnh Ngưng Tác Xạ! hoặc Chấm Dứt Tác Xạ! Đàng nầy tôi "một cánh tay đưa lên" lại âm thầm bỏ cánh tay ấy xuống.

Các khẩu đội nhìn tưởng lệnh Bắn, họ chơi hết 30 quả.

Tôi xanh mặt! Chân đứng không vững nghe khẩu đội thứ tự báo cáo:

Khẩu 1 bắn xong!
Khẩu 2 bán xong!
Khẩu 3 bắn xong!
Khẩu 4 bắn xong!
Khẩu 5 bắn xong!
Khẩu 6 bắn xong!

Tôi uể oải ra lịnh: Chấm dứt tác xạ!

Ngoài mặt trận vừa định tiến lên phải dội lại, chửi thề ỏm tỏi trên hệ thống truyền tin. Kể như Đại Bác Cướp Cò "sĩ quan sữa" mới ra lò mà!....


***

Sau ba tháng nằm trong tiền đồn mật khu Lý Văn Mạnh nay là khu kinh tế mới Lê Minh Xuân, tôi trở về vị trí Pháo Ðội đang đóng tại quận Bình Chánh Gia Ðịnh, đi phép 24 giờ xong, cũng chưa có việc gì làm.

Trưa tà tà ra chợ thả dê tán dóc, tối không trực thì nằm nghe "đại bác ru đêm". Thời điểm ấy Bình Chánh bị pháo kích dài dài có khi cả ban ngày. Nơi đây Họ có lợi thế là ranh hai tỉnh thuộc hai khu chiến thuật khác nhau, nên mỗi lần xin Clear lãnh thổ rất nhiêu khê, rồi vụ đó cũng được khắc phục.

Riêng về phản pháo thì chúng tôi có toa bổ hẳn hòi cho những chỗ nào thường là vị trí súng.

Hai khẩu đội nào tới phiên đêm trực thì ghi yếu tố sẳn trên súng, nạp đạn vào nòng, kéo dây giật vào tận trong phòng ngủ.

Khi nghe Bên Kia "đề pa" là cứ vừa nằm vừa giật dây phản pháo, cả hai quả hai hướng gần như một lượt: Đơn vị bạn khen nhanh ơi là nhanh!!!

Thế mới có chuyện là một đêm nọ khi không mà tự nhiên "phản pháo" một mình: Gì vậy Bây?? Em đi tiểu máng dây Ông Thầy ơi!!! Ðại Bác cướp cò!.......


***

Nhờ có số sống dai, trong lính rất cần cái số đó lắm!!! Nên đúng ngày tháng cũng được thăng cấp. Tiệc liên hoan cho các Sĩ Quan tân thăng trong lần có tôi, cũng được TĐ tổ chức trong Hội Quán Sĩ Quan của đơn vị như những lần khác.

Hội quán nầy không do Kiến Trúc Sư nào vẽ kiểu cả, do "lính thợ" có tay nghề được giữ lại hậu cứ xây nên.

Đây là hội quán rất đẹp nghe nói chỉ kém " Mây Bốn Phương Trời" Huỳnh Hữu Bạc bên Không Quân trong Tân Sơn Nhất, nên gần như được cho mượn rất thường.

Nói là cho mượn chứ chỉ cần cú điện thoại là TĐT tôi lo từ A đến Z và thuộc cấp chạy bắn khói từ Z trở lại A...

Khách mời lần đó Sao có, Trưởng có....về ca sĩ có Kim Loan (Hồi nào cũng có bà già đi theo giữ), Giáng Thu, Giao Linh, Phương Hồng Quế, Anh Khoa, Phương Nga, Phương Khanh,... hú được một số bên TĐ50CTCT và Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương... ca sĩ tới ca vài bản rồi chạy SÔ, Phương Hồng Quế thủ suốt, thân như ca sĩ cơ hữu...

Ban nhạc của đơn vị tôi tuần nào không ở nhà thì được mượn đi, ban nhạc rất khá vì qui tụ thành phần lính kiểng nhiều người gốc nhạc công...; Từ đó tôi nghĩ ra rằng: tôi ở đơn vị nầy từ ra trường cho đến ra khỏi lính mà không bị thuyên chuyển trong các đợt "bị" qua Pháo Binh Dù, là vì để những người như tôi dùng "Xỉ" đi mấy chỗ nguy hiểm, chứ còn lại đều là con ông cháu cha gốc to nhánh bự.....dễ mích lòng!!

Càng khuya chương trình càng hấp dẫn khi khách Lớn tới dự tiệc, "nhảy" rồi về sớm hay đi "công vụ".

Phải nói rằng thằng bạn tôi quả là hay! Nó xứng đáng được rút về lo ban 5, nhờ vậy tôi trám chỗ của nó và khỏi lội nữa.

Nó và con bồ ca sĩ của nó "vận động ngoại giao" sao mà được một màn "thoát y" vào giờ chót. Tôi không nhớ rõ là do Xuân Trang hay Thu Thủy trình diễn. Hai cô tài danh đương thời đã từng làm cả khóa 25/SQTBTĐ chúng tôi suýt bị cúp phép, trong lần cả hai cô trình diễn ở Đại Giảng Đường dịp gắn Alpha.

Lúc màn nầy diễn ra, không còn ai ngồi ở các bàn, mà tất cả tập trung bao quanh kín cả piste. Cái làm ngạc nhiên là phía nữ lại ầm ĩ hơn bên mấy ông vốn háo hức.

Cô nàng diễn điệu nghệ kéo dài đứng ...tim, cởi từ từ... cuối cùng 100% em ơi, đêm nay 100%! Nàng tỉnh bơ chậm chạp đi vào phòng thay đồ, nhìn từ sau cũng không biết diễn tả sao cho đúng những gì mắt thấy. Ước gì tôi là họa sĩ!! Đẹp vậy mới thoát y chứ!!

Suốt buổi cho đến hết màn vừa qua, kéo dài đến nghẹt thở, tôi "đành" vào phòng rửa mặt cho hạ hỏa. Lại gặp nàng chưa mặc lại gì trong đó.

Thấy tôi vào nàng hỏi rất...: bộ Đại Bác Cướp Cò rồi sao mà vô đây vậy Quan?? Cưng làm tình hình Cuba căng thẳng quá đi!!
............................

NhàQuê March 17,2006

http://2.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SR4zo_lGc6I/AAAAAAAAAr4/CnqtOWp48kI/s200/NQ76NT003A.jpg
Ảnh Nghệ Thuật

NhàQuê
23-11-2011, 04:03 AM
Những "ngôi trường xưa Em học"

Đoản Rời: Người Gõ Mõ

Hoàn toàn không dính dáng gì tới chuyện gõ mõ tụng kinh, tôi không có nhân duyên ấy, vì khi Thượng Đế xô tôi xuống Trần, Ngài cũng không có nói thòng "Ráng tu mới được trở lên".

Vậy là kể như Ngài không có kề tai nói nhỏ phải làm như vầy như vầy...giống truyện Tàu.

Tôi buồn lắm, trần truồng như nhộng không kịp lảnh áo mão cân đai gì hết.

Chỉ có cái Ngài ban cho tôi sự lành lặn và trí não bình thường khởi thủy như mọi người, chỉ khởi đầu thôi chứ càng về sau thân thể hình hài trí óc não bộ của tôi phải thay đổi cho thích hợp với địa hình địa vật để sống còn, tồn tại. Xin tạ ơn Ngài!

Có lúc suy ngẫm lại những đoạn đường đã đi qua, đưa tôi đến tự kết luận là Ngài dù không nói nhưng đã ngầm xếp đặt cho tôi nhiều chuyện, trong đó có công việc không lương là làm Người Gõ Mõ.

Như vậy tôi mặc nhiên tự nguyện làm công việc nầy từ lâu lắm rồi, có đến hơn 40 năm thâm niên, trước khi tôi đọc đâu đó rằng ở miền Bắc nước ta, trong mỗi làng có người tên gọi Thằng Mõ. Tôi so sánh và tự nhận, à thì ra giống như tôi đã làm trước nay; Nên tôi lấy đề bài nầy là Người Gõ Mõ vậy!

Trải qua thời gian ngần ấy, chuyện vui buồn chẳng thiếu chi, chuyện buồn có khi cũng chua xót trong lòng: Thuở còn đi dạy học nuôi thân, khi nghe tin thân nhân cha mẹ anh chị em cô dì chú bác thím dượng... của bạn bè đồng nghiệp có chuyện ma chay, tôi thông báo nhiều người rồi tổ chức đi phúng viếng .... xếp đặt phương tiện, ai đèo ai...vv. Kể cả những lần tiệc vui cũng sắp xếp tương tự...

Vậy mà đến Chú ruột tôi qua đời, đích thân tôi xin phép cùng "Ngài" Hiệu Trưởng của tôi, nghỉ một vài hôm dự đám tang. Không một ai trong trường có tiếng nào chia buồn dù là muộn màng khi tôi trở lại, chứ đừng nói chi đến cử đại diện viếng tang.

Tục ngữ ta có câu "Chú Như Cha", nhà chú tôi cách trường 3 cây số trên trục lộ chính trong vùng an ninh, nhà tôi thì lại sát gần trường.

Đơn cử như vậy không phải tôi hài ra chuyện nhỏ mọn, tôi muốn nói lên cái thấm thía, phải chăng tôi kém cỏi trong giao tế, tôi chẳng được lòng nhiều người chăng... Tôi đâu cần những tầm thường, tôi chỉ muốn ai cũng đãi nhau công bình trong hằng ngày quan hệ...

Cái thấm thía ở đây qua thí dụ đó là nhân tình được ban phát lại cho người gõ mõ! Nỗi buồn ấy yên ngủ trong tôi, trở thành nỗi đau đôi lần nó thức giấc khi bắt gặp những tương tự lại kéo về...

Nếu nhân theo thời gian, chuyện vui buồn gõ mõ không làm sao ghi hết cho được. Tôi lấy niềm vui trấn áp nỗi buồn và hân hoan gõ mõ lần mới.

Tiếng mõ ngày nay ngân nga vào không gian đến tận mọi nơi theo tốc độ gần ánh sáng, chỉ cần vài lần nhấp chuột hay mười một số bấm điện đàm viễn liên, Mõ sẽ nhận và thông báo nhiều tin tức có khi bất ngờ, khi xưa phải mất hàng tháng hoặc hàng năm.

Không phải mọi việc đều suôn sẻ, thái độ vồn vã có, hững hờ có, từ chối thẳng thừng cũng có...Dù sao người gõ mõ cũng làm được một việc rất rõ ràng làm gạch nối mà chẳng mưu cầu tí lợi lộc.

Trong những giấc mơ đẹp, có lẽ tôi mỉm cười cùng những niềm vui bạn bè vừa tìm được nhau sau cuộc tang thương.

Xin mời đọc chậm để chia sẻ xúc cảm điển hình với vài đoạn "qua lại" gần đây nhất:

"Kính anh Tng,

Cám ơn bạn hiền đã tìm được tin tức của chị VTT, rất cảm ơn, chúng tôi đã liên lạc được với nhau. Nói bận thì nói chớ ngày nào cũng check mail và về nhà coi có tin gì mới không.Tui nhớ lúc trước anh hay gọi tui vào những ngày nghỉ, tui chỉ sợ anh kêu không thấy ai trả lơì lại cho là tui tạ khách, không có đâu, Tui có cái phiền là khi tui về tới nhà, có giờ rảnh thì thằng con tui lại lên net, nên điện thoại bị kẹt, nên tui bị bạn bè cằn nhằn vì không kêu tui được.

Một lần nữa, càm ơn anh xin chúc anh và gia đình luôn an mạnh.

Thân kính. H."

Một lần khác:

"Goi ban PM,

Chao ban ghe vao BenTreHome, Chung toi da dua ban vao danh sach Cuu Hoc Sinh THKH, 1962 va mong nho do cac ban khac tim cach lien lac voi ban. Vi ten bạn rat dac biet it nguoi giong nhu vay. Ngoai ra con nhac toi nho mot nguoi la PT, co phai ban nay la chi cua ban khong? Nghe noi PT hien gio o Canda ma chua lien lac duoc. Neu dung nhu vay thi hai ban la con bac T, co luc bac la Truong Ty ....

Du dung hay khong mot lan nua chung toi nhom chu truong Website BenTre chao mung ban, xin giu lien lac!

NhàQuê/NhaQue"


"Hallo ban. thân mê´n,

Tôi không biet nên goi. ban,là Tng. hay Nha Quê,tuy nhiên biêt´ chác hai nguòi là môt.

Nhung~ ddiêù ban hoi ² -ddêù ddúng ca²,ban biê´t râ´t ro~ gia ddình chi. em tôi rôì ddó.Nhung xin lôi~ ban có thê² nói thêm chút ddinh² vê`ban.,ddê² tôi nhó* ra xem.Chác chán mình không cùng môt. ló*p,vì khi tôi vào Dê. thâ´t 3 ( 1962 ) thì ló*p nâ`y toàn là dân kep. tóc.

Ban. hiên. o² ddâu vây.?

Chúc cuôí tuâ`n vui ve²."


"Thân goi² anh Tng.>>

Tôi dda~ chuyên² mail cua² anh sang chi. tôi.Chác nay mai anh se~ dduoc. hôì âm.

Nhu* vây. ,tôi chác các anh, các chi. biê´t nhau qua cái "mission" viê´t thu* nhét vào ke² bàn ,ddê² làm quen phai² không?

Tôi vân~ thuong nhó* cô ban. xinh ddep. ,duyên dáng NMT,anh có tin túc gì, làm o*n cho tôi biê´t vói,không biê´t nó còn nhó* tôi không?

Xin anh cung~ vui lòng giúp tôi liên lac. dduoc. vói M & C con ông PCN,ddê² tôi dduoc. biêt tin túc cô ban. thân PPN là chi. hai. hai cua² M& C.

Mâý ngày nay tôi vui lám,vì dduoc. tin ban. cu~ ddêù ddêù.

Chúc vui.

M.


Dù là niềm vui nhỏ thoáng qua, nhưng tiếng reo của nó còn ở lại ...như thế đó!

Một ngày tôi sẽ chất hết niềm vui lên đầu gánh, hài lòng vừa tròn vai trò mình thủ diễn, một bước đi ra và xong!

Tôi ước muốn ngày ấy là một ngày toàn vẹn nhất vạch sẳn của tôi, khi mọi việc đã gọn gàng không còn vướng bận, khi mọi hứa hẹn đã tròn: Đó là lúc tôi đã ngợi ca xong những bạn tôi một thời "Nhan Sắc", những "Hào Kiệt" đường mây và những "Khung Cửa Sổ" khép lại.

Trên thực tế một lần tôi đã bước ra, một lần dự định bước ra nữa, liền tức thì bạn bè mà tôi liên hệ nhất, gặp ngay chuyện đau buồn; Tôi đâu có phải là con quạ đen mang điềm tin báo??? Thôi thì lần tới đây tôi buông mõ âm thầm, mất hút, mà tâm tôi không dằn vặt.

Xin nhận nơi đây tâm tình coi như lần duy nhất Người Gõ Mõ

NhàQuê July 24, 2006


Tâm Sự Gã Kéo Màn

Bạn tui lập gánh diễn trò
Mến mộ hứa ẩu chung lo
Hỏi rằng biết ca chút chút
Trớt he vụ hát với hò

Bạn thương cho đi rao bảng
Tối về giữ chân kéo màn
Tuồng tích nghe hoài nên thuộc
Đào kép vai vế lớp lang

Màn nhung coi vậy nặng oằn
Sức trai chạy tét vài lần
Huống hồ tui giờ lụm cụm
Giữa màn và sức sao cân

Đêm nào cũng làm khán giả
Vỗ tay dù chút cò mồi
Diễn viên gà nhà chịu quá
Phần mình thấm mệt bở hơi

Bầu gánh thầy tuồng vui thú
Mình tui nhắc lớp kéo màn
Người ngoài tưởng tui lên sếp
Cơm nhà lo việc tào khang

Trước khi chuyển qua lớp mới
Mấy người đòi lên giúp vui
Hát cương bà con méo mặt
Ối trời sao khổ thân tui

Hoảng hồn kéo màn cái rụp
Vấp váp đá nhầm người ca
Chân đau tay thêm ê mõi
Lại còn bị chửi má ba

Má tui sinh thời ít học
Dạy tui êm nhẹ ca dao
Rọi soi lòng người tục ngữ
Đãi nhau đồng loại đồng bào

Người chê ấy thầy ta đấy
Dạy mình thêm bài học khôn
Kính Người lời thiêng tui nhớ
Dằn lòng nhắm mắt qua luôn

Tuồng tích đang lúc xôm trò
Phận việc nào ai nấy lo
Xả hơi ra ngoài một chút
Nhờ vả sau trước dặn dò

Thăm cháu thăm con nhớ quá
Màn nhung xin vắng ít ngày
Lắng tai mà lòng nơm nớp
Chân đi hồn xẻ làm hai

Tử vi tui cung Thiên Phủ
Lẽ ra sung sướng như Tiên
Bởi tâm còn thương dĩ vãng
Việc làng ôm đồm việc riêng

Khi rảnh tập ca vài đoạn
Tui nghe còn chán nữa là
Cơm thiu bốc mùi ngây ngấy
Giữa hương dị thảo kỳ hoa

Dù sao cám ơn đoàn hát
Được gần nghệ thuật văn chương
Thâm sâu tui hằng hoài vọng
Cầm dây ròng rọc khiêm nhường

Nhiều lần tính đường giải nghệ
Khấn Tổ xin keo đàng hoàng
Trải lòng xin Người chứng giám
Lòng thành, tui, gã kéo màn

NhàQuê

NhàQuê
24-11-2011, 06:20 AM
Những "ngôi trường xưa Em học"


Đoản Rời: ... Sánh Duyên Cùng ...


Chúng tôi dự trù được không vận làm ba đợt đến vùng mục tiêu là khu tam giác Dallas, Austin, Houston Texas mà tiền phương đặt tại Murphy cách Dallas 45 phút về hướng Bắc Ðông Bắc.

Các Tư Lệnh hoặc Thẩm Quyền chúng tôi thuận cạ thẻ booked vé e-ticket từ hơn tháng trước. Cùng ngày N nhưng giờ G có khác, tuyến xuất phát cũng khác mà hướng tiến lại càng khác hơn.

Trận càn bắt đầu:

Thời tiết tốt trên toàn miền, trời trong, gió nhẹ, tầm quan sát rõ từ 12 đến 15 miles, cellphone ít nhiễu âm...mọi chuẩn bị hoàn hảo cực kỳ.

Ðợt Một và Hai cùng rời đại bản doanh bằng CTLimousine đến phi trường LGA, NewYork.

Tại đây Ðợt Một gặp "sự cố" ngoài dự đoán suýt vỡ kế hoạch, vì anh chàng Lý Vinh Hui vừa từ VN lần đầu tiên ngự phản lực tầm xa, qua mới mấy hôm chưa hết cơn mê, ngôn ngữ bên nhà mang sang toàn giấy 500000 thời hậu chiến đặc sệt, vỏn vẹn "Ai Em ViệtNam Mi" hùng dũng lận lưng ...

Trở ngại đó được "khắc phục" bằng tờ giấy nhỏ TO WHOM IT MAY CONCERN ... THIS GENTLEMAN HAS NO ENGLISH, PLEASE HELP HIM ...

Chánh là trong đêm trước đó nhiều chuyến bay bị hủy bỏ, làm ứ đọng hành khách, hãng máy bay giải quyết cho anh chàng Hui và vài người khác mất cả tiếng đồng hồ làm hơn hai trăm người đang chờ đợi phía sau nhao nhao phản đối và nhân viên phải xin lỗi giải thích sự việc và đang tìm cách...

Có ba giải pháp: Trở về đợi ngày hôm sau hoặc đến Chicago, Illinois đợi một đêm...hoặc bỏ hẳn chuyến bay tức không tham dự trận càn, nếu vậy lại khó khăn là làm sao trở về lại đại bản doanh đây??

Cả ba giải pháp đều có trở ngại là không người hướng dẫn, NhàQuê đòi hỏi phải chuyển cho qua hãng khác nếu hãng máy bay nầy không còn chỗ.

Tiền hung hậu kiết họ đã nhét được Hui vào chuyến trễ hơn hai giờ và đến Chicago chỉ có 15 phút để đổi chuyến bay kế tiếp...Từ đó sau khi qua "Security Check" giữ chặt vô tuyến, báo điểm đứng từng giai đoạn một.
Mọi việc cũng xong với phần lương khô hai khúc bánh mì và mấy chai nước suối, lên đường: Hay không bằng hên!

Ðợt Hai: NhàQuê di chuyển đến Terminal khác check-in xong, la cà 6 tiếng mới chui được vào lòng con đại bàng Boing 737, chuyến bay thẳng kéo dài ba tiếng rưởi chạm đất nhẹ nhàng NhàQuê lên máy liền trong khi máy bay còn đang trên đường vào khu khách đến của phi trường DFW, Texas.

Bên kia báo "Ðợt Một" đã đến và đang chờ trong khu lấy hành lý; Cơ bản hai đợt đầu thành công mỹ mãn!!! Hoan hô!

Gặp lại Hui và Tiền Phương gồm con trai và con rể chờ lấy hành lý. Dallas chào mừng quân ta bằng 105 độ F và dự báo ngày hôm sau 110 rát da.
Suốt từ đó đến Garland kiếm Phở, món mà NhàQuê đến mỗi nơi đều làm vài quả để so sánh với Sài Gòn ta ngày xưa, tới nay NhàQuê vẫn chưa tìm lại được hương vị tô "Xe Lửa" của tiệm phở Tàu Bay trên Ðại Lộ Lý Thái Tổ Sài Gòn hồi trước. Quí vị nào biết xin chỉ dùm!!

Mặt đường Garland như đang bốc hơi, như đang lên khói chập chờn.

Lúc 4:00PM giờ CT từ tiền phương Murphy, TX , NhàQuê nhận được tin Ðợt Ba đã check-in xong và đợi bay tại phi trường BDL, Connecticut.
Trong khi chờ đợi trừ tài xế còn lại làm sương sương và 8:00PM ấn định rời Tiền Phương trở lại DFW đón Ðợt Ba tới....

Quan ba pháo thủ Trần Văn Tự cõng ba lô gọn nhẹ như ngày nào, thả dọc hành lang vừa đi vừa gọi báo cáo về "Hậu Phương Lớn" rằng đã tới nơi.

Giới thiệu nhau xong, NhàQuê thông báo chi tiết có thay đổi là sẽ đến Arlington bắt cóc Phạm Duy Khiêm, cái anh quan ba tít tít tè tè "chụp hình quay phim", ngẫm ra vị chỉ huy trực tiếp cũng dễ dãi cho phép chàng ta "xuất gia" theo lũ bạn xưa vốn toàn ác quỷ.

http://2.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SSCqghPhMtI/AAAAAAAAAs4/Gv-uTOVc4x8/s200/NQ78DallasKhiem.jpg

Có hơn mười giờ đêm mới vô được bàn nhậu, mồi màng phải đem hâm nóng lại! Kéo dài tới qua bốn giờ sáng ngày July 01, 2005. Ðó là điểm khởi đầu làm nên bài Quế ơi, Quế hởi trong mục Tìm Bạn của Phạm Duy Khiêm.

Gần trưa lại trở ra khu Garland, nơi buôn bán tấp nập của "đầu đen", ăn sáng xong dự định trả Khiêm về cho đúng phép xuất trại hầu lần sau được dễ dàng như lần nầy.

Nhưng anh chị Khang, người bảo trợ gia đình Khiêm khi mới qua và cũng là bạn quan ba Tự gọi mời đến nhà, hỏi ra chỉ cách nhà Khiêm một ngã tư, quá xá tiện lợi!!


Bọc xa lộ vòng đai phía Nam đến điểm hẹn. Ngôi nhà gọn gàng cây cảnh, hồ giả sơn cho tới bể nuôi cá đều theo quan niệm về phong thủy.

Chị khang, Ðỗ Thị Ánh là cựu học sinh THKH, cùng năm với Nguyễn Thanh Bình em Jacqueline, khi đi học trọ chung nhà với Nguyễn Thị Ngọt, người có hình đứng thứ ba hàng sau cùng trong bức ảnh trắng đen mà www.bentrehome.net đã post, đặc điểm của Nguyễn Thị Ngọt làm nhiều người còn nhớ là thầy Phan Văn Sáu đọc kéo dài khi gọi tên ..Ng o o o Ngọt nghe thiệt ngọt xớt! và nhiều người biết cô bé đó sau làm đài phát thanh.

Ba con anh chị Khang đều thành tài trong đó cháu Quang, trưởng nam hiện là Bs nội khoa trong bệnh viện Fort-Worth. Lại một màn kéo nhau ra nhà hàng cho anh chị Khang khoản đãi; Ðúng khớp NhàQuê tui vốn là tên thực dân kiểu cũ!! Ông BenTre ơi, có ngày tui sẽ qua tận Sydney xếp hàng đớp cho được món phở AN xem có phải danh bất hư truyền hay không.

Chiều Chúa Nhật July 02, 2005 đến Phạm Duy Khiêm barbecue và rước Trần Văn Tự để ngày hôm sau lên đường đi Austin sớm; Tự được thả xuống nhà anh chị Khang đêm thứ bảy để hàn huyên tâm sự sau khi buổi trưa đã cùng đi lòng vòng thăm dân cho biết sự tình.

Tính cho đến tối Chúa Nhật " Cái Bang Du Phương Nam" đã nhận được điện chào mừng thăm hỏi của Huỳnh Ngọc Thạch từ Buffalo, New York, của Dương Văn Các từ Raleigh, North Carolina. Cũng liên lạc được Dương Thành Năm (Năm Nheo) ở Georgia và vợ chồng "Thần Nước Mặn". Do thời biểu đông ken nên không thể cho Hồ Văn Phước, Lê Tứ Hải và vài bạn khác hay. Mục tiêu Dallas và phụ cận coi như lục soát xong.

Ba giờ vun vút trên xa lộ 35 South hai bên mênh mông đồng khô cỏ cháy, đường dẫn vào trang trại Crawford cũng ngóng chờ mưa như thần dân của mình. Không có thổ công vùng Austin nên đoàn vào ăn nhầm tiệm phở tệ chưa từng có trong lịch sử ẩm thực tỵ nạn, còn tiệm Huế kế bên vào đứng cả một lúc không thấy thầy thợ đâu cả dù đèn Open đã mở sáng. Chán vậy! chán đến độ không thiết ghé State Capitol làm vài Pô. Thôi thì đi Houston sớm hơn dự trù! Hai mươi bốn giờ ở Austin chỉ có thế!

Hơn xế chiều ngày sau Lễ Ðộc Lập, từ xa lộ Sam HousTon chúng tôi vào Bellaire và chọn nhà hàng Tây Ðô làm điểm vừa ăn vừa hẹn "Thần Nước Mặn" đến, quả vậy khoảng hai mươi phút sau Thần vào. Trần Văn Tự xông ra tự giới thiệu: Tao là NhàQuê (TBT); Thần ú ớ bán tin bán nghi nhưng cũng ngồi vào bàn chưa dám phát biểu gì....

Màn thử Thần chấm dứt sau khi NhàQuê giới thiệu tên cúng cơm từng người. Bốn mươi năm gặp lại quả là vui!!

Thần đòi mời hết về nhà, cuối cùng thu xếp cho các Nhi Ðồng và Ba Má chúng ở khách sạn để cho Người Lớn tiện "kể chuyện trong đêm"

Thần chở đi mua các thứ cần thiết chuẩn bị đánh đêm, trên đường về nhà lại ghé nhà "Lão Ta" định có thêm tay phụ cưa.

"Lão Ta" nguyên là quan ba phú lích, dĩ nhiên bóc lịch hơn tiêu chuẩn HO. Nhà "Lão" cửa đóng then cài cẩn thận, không xa khu buôn bán tấp nập Bellaire mấy, đi bộ vừa tập thể dục vừa ra đó uống cà phê mỗi sáng vô tư; Không biết "Lão" có làm cách ấy không?

Theo Thần Nước Mặn nếu đi vào cùng lúc cả bốn người thì "Lão Ta" chẳng bao giờ mở cửa, NhàQuê xung phong, ba người còn lại vẫn ngồi trong xe đậu bên kia lề đường đối diện nhà "Lão" quan sát, sau đó đã kể lại từng diễn tiến:

- Ba hồi chuông và hai phút chờ đợi trôi qua, NhàQuê không nghe động tĩnh gì nhưng toán quan sát sau nầy nói lại là "Lão" hé chút xíu sáo cửa sổ nhìn ra thật nhanh.

- Ba hồi chuông thứ hai và hai phút chờ, lại không nghe động tĩnh gì. Toán quan sát được "Lão" di chuyển qua cửa sổ khác lại hé sáo cửa sổ nhìn ra cũng thật nhanh.

- Hai hồi chuông tiếp theo nếu không mở cửa NhàQuê sẽ gọi điện thoại vào, may quá có tiếng di chuyển thật khẻ và tiếng mở khóa cũng nhẹ nhàng.

Lớp cửa gỗ bên trong vừa hí, NhàQuê tức thì mở lớp cửa gió bên ngoài một cách dứt khoát, làm "Lão" khựng lại như muốn đóng cửa, nhưng không: "Lão" chẳng ớn chút nào tay nhỏ con hơn đang đứng mé cửa nhà "Lão". NhàQuê cũng sẳn sàng né sang bên nếu "Lão" có vũ khí hay vật bén nhọn.

NhàQuê tự giới thiệu: Tao là Trần Văn Tự trước học trường Công Lập Bến Tre nè! "Lão" nhìn từ đầu tới chân mấy lần rồi "Lão" lắc đầu: Không phải ...không phải ... "Lão" phán: Phạm Duy Khiêm chứ không phải Trần Văn Tự!

Vậy là "Lão" cũng trật ...NhàQuê khoát tay toán quan sát lẹ làng xuống xe sang lề bên nầy nhập cuộc và "Lão" an tâm vì nhận thấy có Thần Nước Mặn cùng trong số khách không mời nầy.

"Lão" vẫn như xưa, nghĩa là từ thắt lưng trở lên vẫn lắc lư khi "Lão" di chuyển, "Lão" hướng dẫn khách vào xa lông an tọa, trong lúc "Lão" bận làm các thủ tục cần thiết NhàQuê quan sát và đoán định là "Lão" thích kiểu classic vì tủ bàn ghế màu gỗ xậm và chạm trỗ ... tất cả chỉ có một Gam....

Rân rang kể nhắc chuyện xưa mới thấy là "Lão" có trí nhớ dai hơn NhàQuê nhiều, "Lão" nhớ rất chi tiết có khi nhớ cả ngày tháng năm....không những ở Tỉnh mà cả nhiều chuyện ở các Quận ...

"Lão" kể có lần "Lão" nhập kho hơn một chai Rivalet, thứ cognac của Pháp vô chai tại ViệtNam cùng thời với Beehive, "Lão" không nhớ đường về cứ hướng Ba Châu thẳng tiến (Châu Phú, Châu Thới, Châu Bình) nhờ có người chận xe Jeep lại hỏi: Mấy ông đi đâu vậy? Việt Cộng nhóc đàng kia cà ! "Lão" xuất mồ hôi hột và nhớ tới ngày nay.

Tuy thế "Lão" không nhớ ra NhàQuê sau 75 đã từng mấy năm dưa mắm với "Lão" bên trong rào kẻm gai. Thần Nước Mặn nói là "Lão" chỉ nhớ về con gái thôi, "Lão" nhớ đặc điểm từng người, từng tướng đi dáng đứng...."Lão" nhớ nhất đời của "Lão": Nguyễn Thị Cụt!



Trân trọng báo tin Lễ Thành Hôn và Vu Quy của con chúng tôi


ÐỖ VĂN HOÀNG sánh duyên cùng NGUYỄN THỊ CỤT


In tại Mai Kế Chí printing

* Mai Kế Chí, kẻ bị cò Ngô Văn Huề, thượng sĩ hiến binh lên án khi nào bắt được sẽ được khoản đãi một thực đơn nhớ đời vì đã chạy ép xe, lấn ngã ái nữ Ngô Phù Dung của ông.

Thiệp hồng do Mai Kế Chí cho lưu hành trong lớp bị cô nàng Nguyễn Thị Cụt tóm được và đem lên "KHOE" với thầy Bùi Văn Dương, Tổng Giám Thị.

"Lão Ta" bị điệu lên nghe lời giáo huấn: Ðồ... chưa mở mắt, ...chưa bằng trái cà nướng mà bày đặt ghẹo gái.

NhàQuê không biết oan hay ưng đây?? Mong dịp họp mặt năm nay các Bạn truy lại tấm thiệp hồng nầy...tất cả các người liên quan vẫn còn.

Ðêm đó lão Hoàng, Ðỗ Văn Hoàng trước gia đình có cây xăng góc đường Hai Bà Trưng-Phan Thanh Giản tỉnh lỵ Bến Tre đã không đến dùng ly rượu chung vui mà vợ chồng anh Ninh-Mỹ Thanh đã đến.

http://2.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SSCqvvntJ3I/AAAAAAAAAtA/HuYV5fKSRDg/s200/NQ78DallasNinh.jpg

Anh chị đã lặn lội cả tiếng lái xe ban đêm đến tìm khi nghe tin người bạn Kaki Trần Văn Tự vào vùng lãnh thổ. Họ quen nhau từ những ngày trấn thủ lưu đồn: Giồng Riềng, Rạch Giá... Lý Vinh Hui và chị Mỹ Thanh cũng nhận ra đồng môn Sư Phạm Vĩnh Long.

Chị Ninh đã thức suốt khi trở về để chuẩn bị bữa ăn sáng quá tươm tất mà anh chị nhắc đi nhắc lại không được phụ lòng anh chị. NhàQuê tên thực dân kiểu cũ không bao giờ chối từ!

Anh chị Ninh trước cũng ở Connecticut dời về Texas15 năm rồi, anh chị và trưởng nữ rất năng nổ trong nhiều việc chung. Trước khi lên đường anh chị còn tặng cho mấy đứa con NhàQuê một số cây cảnh mang về, Trúng tủ! chúng đang gầy trồng vườn hoa kiểng của chúng.

***

- 8:30PM/ July 07,2005 giờ Central Time Trần Văn Tự báo thu quân an toàn trên đường về hậu cứ, ban sáng đưa Tự ra phi trường sớm do sợ an ninh chặt chẽ hơn vì TV loan tin London vừa bị bom khủng bố.

- July 10, 2005 trận chiến kéo dài từ 12 giờ trưa đến 11 giờ khuya Trần Hoài Thu vẫn lái xe được về tới nhà an toàn rút ngắn đoạn đường từ 1 giờ còn 45 phút; Anh chàng Phòng Quân Sử /TTM vẫn "Lì" không "bỏ chạy như chuột" (Nhật Lệnh tướng Vĩnh Lộc) và lần đầu tiên Lý Vinh Hui uýnh đứt 2 xị XO không xuời xuễ gì!


".. Ðưa người ta không đưa ly không, lắng nghe cognac chảy mềm lòng..."

- 7:45AM/July 20,2005 Lý Vinh Hui bay qua Atlanta, GA rồi tiếp về New York.

- 11:50AM cùng ngày NhàQuê rời DFW đến LGA 3:40PM

- Và 5:45PM gặp lại Hui ở LGA New York.

- 6:00PM/July20,2005 NhàQuê báo cho Tư Lệnh đang chuẩn bị rời Việt Nam đi Nhật là: nhiệm vụ hoàn thành đang chờ limousine.

Tình hình miền Nam trở lại yên tĩnh!


NhàQuê Aug17,2005

NhàQuê
26-11-2011, 10:07 PM
Những "ngôi trường xưa Em học"


Đoản Rời : Thịt Chuột


Cũng khá lâu không viết tiếp chuyện Những “ngôi trường xưa Em học” , một phần tưởng rằng không đủ sức để viết chuyện tràng giang đại hải, một phần thời giờ bận bịu, và phần nữa là “bí đề tài”.

Gần cuối năm, mới giật mình nhớ lại cận kề năm Tý; Thì ra từ đó những nay sắp gặp năm Tý lần thứ năm trong đời …trong đó chỉ có năm Nhâm Tý 1972 là đáng nhớ hơn cả, vì có cậu “quý tử” sanh vào, … cùng tuổi Tý như ông Thiệu, lại là Nhâm Tý: Nam Nhâm Nữ Quý nữa chớ.

Nơi tôi ở hiện nay rất thường khi, dòng xe đang ngon trớn trên con đường cặp hông công viên Sở Thú, bỗng khựng lại và ngừng hẳn chỉ vì một cặp sóc, có lẽ là đôi tình nhân rượt đuổi nhau ra tận mặt lộ, không biết tới hiểm nguy.

Khi khác đàn vịt trời hàng vài trăm con dắt nhau chậm rãi băng qua đường nơi ngã tư, bốn dòng xe cộ tự động vui vẻ chờ … quí thú vật đến vậy

Vào mùa hè, những người chăm sóc công viên còn tìm trong các thùng đặt rải rác chứa thức ăn dư thừa cho đám chim chóc ấy mà các nhóm picnic đã bỏ lại ….

Tôi vẫn thường so sánh sự may mắn của số phần ngay cả số phần của loài vật và nơi được sanh ra hay sinh sống.

Ít khi thấy, nhưng tôi biết rằng gián và chuột nơi đây nhỏ hơn bên nhà. Chuột chỉ bằng ngón tay cái là cùng; Nhưng sóc thì to hơn loại sóc leo dừa rất nhiều. Về hình dáng sóc và chuột khác nhau rõ nhất là cái đuôi, sóc có hình chổi, chuột hình cọng rễ cây. Tôi chưa dám thử thịt sóc, sợ ra tòa … Sóc khoét thân cây làm ổ: Bão hay gió mạnh, cây bọng bị ngả đổ rất thường.

Lúc còn đi học nghe người lớn nói là ăn thịt sóc xui xẻo (sóc vườn dừa), điều đó không biết đúng không, nhưng ở xứ nầy rớ tới chúng là xui tận mạng chứ không phải chuyện giỡn chơi à nha! “Đừng giỡn mặt khó làm… ruộng!”

Đã lâu chưa nghe tiếng chuột xạ reo, mà khi xưa Má tôi hay nói nhà sắp có khách. Khách bây giờ thường hẹn đến chơi hoặc được mời đến cả tuần hoặc vài tuần trước, hiếm hoi vụ khách “đột xuất” phải dọn thêm đôi đũa, cái chén!

Chúng tôi có một người khách đặc biệt quê Cần Thơ, bạn của mấy đứa con tôi, thường được “thỉnh” tới vì cậu ta làm món nước chấm tuyệt cú mèo: Nước mắm gừng, nước mắm sả, nước mắm me …phát huy ưu điểm, nay còn thêm món gỏi ốc hương, gỏi Thái, lẫu Thái …thiệt là người khéo “có hoa tay” ….

Chút xíu nữa tôi quên, là "khứa" nầy không truyền nghề cho ai cả. Khi pha chế, mọi người được mời khéo lên nhà trên xem TV, football, ... Châm ngôn là: Giữ nghề tức giữ chỗ "nhậu"

Nhưng có chuyện khác, lại đúng vô đề tài năm Tý là cậu ta lâu lâu kêu thèm thịt chuột …mỗi lần chuẩn bị về thăm quê …bạn bè cậu thường đem đề tài thịt chuột ra xào nấu lại và khi cậu trở sang cũng được "phái đoàn” phỏng vấn tận tình.

Nếu các bạn đừng coi chuyện đớp thịt chuột là kém “văn minh” thì tôi “thành khẩn khai báo” là tôi cũng có lia chia một thời gian, không phải trong lúc khiếm khuyết nguồn đạm động vật trong trại cải tạo mà lại là thời gian sau đó.

Lẽ ra , tôi có nhiều dịp để đớp thịt chuột mà vì lý do nầy khác nên hơi trễ; Lúc nhỏ, hằng năm đi giỗ phía ngoại tôi ở làng bên cạnh, khi trở về đến cuối làng tôi, Ba tôi thường ghé thăm người em rể (chồng của cô em gái duy nhất của Ba). Lần nào Dượng cũng gói gởi, nài ép đem về món khô chuột mà Dượng và các em họ đã đào đuổi bắt được trên cánh đồng, trong đó có phần đất hương hỏa chia cho Ba, nhưng vì xa xôi nên Ba cho luôn cô em mình.

Vì chỗ ơn nghĩa như vậy nảy sanh thêm lòng thảo; Chứ món khô chuột thuộc loại "Khô Lân Chả Phụng" ở miền nông thôn, nơi mà lúc đó toàn đi bộ, chưa có xe động cơ, lộ đất có đoạn cát bủn mùa khô, có đoạn lầy lội mùa mưa.

Đem về nhà cho vui lòng Dượng, chứ Ba cho lại người khác và cũng không cho chúng tôi thử lần nào như Ba ! Hụt !!!

Nhà tôi và nhà Dượng ở hai đầu cùng trên một con đường làng huyết mạch, Đầu lộ phía tôi gặp Tỉnh Lộ 26, tạo thành ngã ba, mà người phía bên làng Ngoại mỗi lần đến đây , họ nói là "đi xuống lộ đá". Lộ Đá ám chỉ TL 26, con đường duy nhất đi ngang qua làng có trải đá.

Sau khi bị cải tạo về và đuổi khỏi thành thị (sau 1975), tôi sanh sống nơi làng xưa, đám bạn cũ, mới lại rủ tôi đi đào chuột, tôi đi theo xách giõ và phụ "dí chận", tôi mới biết ra là một hang ổ, có rất nhiều chuột, nhiều thế hệ sống chung hòa bình với nhau và thường gặp rắn chui vào kiếm chác. Lần nầy tôi cũng chưa dám ăn.

Có lần đang đêm trong trại cải tạo lại xôn xao vì một nhóm anh em người Cái Mơn, canh bắt mấy chú chuột ăn vụng thức ăn vốn ít ỏi; đám chuột nầy được mô tả theo "Nhà Nghề" là Cống Nhum tức chuột ăn được vô tư.


Tôi không hiểu cống nhum là thế nào chứ chuột cống ở trại tị nạn đảo Pulau Bidong, Malaysia thôi thì hết chỗ nói,vừa to, vừa đông, rượt luôn mèo, đêm ngủ chúng chạy ngang ngực mình là chuyện thường. Y Tế trại (Cao Ủy Liên Hiệp Quốc) treo thưởng nạp đuôi chuột, mà sự sanh sản của chúng cao gấp không biết bao nhiêu lần mà kể.

Vậy tôi đớp thịt chuột khi nào ?? Xin thưa, số là cứ hơn tuần, mươi bữa, tôi băng qua Đồng Tháp Mười, từ sông Tiền về sông Vàm Cỏ Tây, qua cánh đồng chó ngáp, mênh mông không khác gì đồng ruộng bao la như những tiểu bang miền Trung nước Mỹ.

Mỗi lần như vậy tôi và đứa đệ tử đều dừng lại cái chòi quen thuộc trên bờ kinh để mua vài chục con đang được nhốt trong rọ chờ lái tới thâu mua, tôi không rõ giá cả của chúng khi đà đến nơi tiêu thụ, nhưng tôi biết giá không đáng là bao tại nơi chòi xa hẳn xóm làng đó.

Những đoạn gần xóm làng, người ta dùng bẫy sập, chuột tham mồi bị khối đất đè bẹp. Dĩ nhiên, mấy chú Tý nầy "từ chết tới bị thương nặng" trước khi bị lột da. Thấy bẫy nằm bẹp thì thế nào cũng có một anh "hy sinh vì đất nước". Người đặt bẫy vài giờ đi "thu hoạch" một lần. Kiếm mồi nhậu thiệt đơn giản. Đúng là đang giỡn.

Chuyện làm chuột vừa nhanh vừa giản dị, nhanh hơn lột vỏ một con tép bạc! Tôi không kể ra đây e nhiều người dị ứng.

Thịt phau phau được ướp và quay chảo là cách nấu nướng không đến nỗi cầu kỳ trên ghe thương hồ.

http://2.bp.blogspot.com/_6avQ0ZkDv-8/SSKsX4zyT_I/AAAAAAAAAtg/9AUTrc3U0a8/s200/NQ76ThitChuotQuay02.bmp

Đồ ướp, đồ tẩn liệm …và rượu, nếu không thủ sẳn hoặc hụt bất ngờ do hứng thú, thì có thể dừng “ghe tiệm” lại, không thiếu món gì, họ và chúng tôi gặp nhau không hẹn mà đúng giờ giấc không lệch bao nhiêu, nghĩa là đi trên khoảng kinh đó thế nào cũng gặp ….Thầy trò rắc riu, ngất ngưởng cho đến Bình Châu trên sông Vàm Cỏ nước đang dâng, hương tràm tỏa thơm ngan ngát …có khi tới tận Mộc Hóa vẫn còn lắc lư con tàu đi …

Người sành điệu còn chế biến thịt chuột nhiều kiểu cách khác, trong đó có món bầm nhuyễn xào sả ớt xúc bánh tráng Mỹ Lồng nướng: thiệt bắt rượu !!! hoặc là xào khổ qua, nướng ngũ vị ....

Tôi ngẫm nghĩ, nếu con buôn tung đồn "ăn thịt chuột trị được bị ung thư, chắc có lẽ chuột có nguy cơ tuyệt giống !!


Tuy tôi có ăn nhưng chưa mạnh miệng cho lắm, nên chưa đạt trình độ "ghiền" như người khách tôi vừa kể trên …cũng là chuyện gì đó đã được thử biết qua … Mới đó mà đã hai mươi mấy năm, phần tư thế kỷ! Mau Thiệt !!!.

NhàQuê Jan 25, 2008

NhàQuê
28-11-2011, 06:56 AM
Những "ngôi trường xưa Em học"

Đoản Rời: Trong Sân Trường Còn Nhớ


NhàQuê tui ở dưới Biển lên tỉnh học vì dưới đó hết chữ rồi! Phần nhiều bạn tui trước lạ sau quen cũng từ xa tới chưa hết mùi phèn như tui; Chứ học trò ở tại tỉnh lỵ đâu phải độc quyền học giỏi đâu!!

Tất cả đều phải qua kỳ thi tuyển MƯỜI PHẦN MẤT BẢY CÒN BA, rồi bốn năm sau, rồi hai năm kế, rồi một năm cuối, lại gặp 3 kỳ thi khác MẤT HAI CÒN MỘT mới ra khỏi trường!!

Đi học chứ nhớ nhà, nhớ Má, nhớ Em lắm! Hết tiền, hết lương thực còn nhớ dữ hơn "dzọt về" liền!! Các bạn nghe thường đến quen tai các ngữ từ, tức thì bạn biết họ từ xa tới học:

- Tuần nầy về BỂN hôn?? (Mõ Cày, Cái Mơn, Giồng Keo, Ba Vát, An Hóa, Quới Sơn, Giao Long, Ba Lai, Giao Hòa, Tân Thạch, Phú Nhuận, Cồn Ốc...)

- Mầy ở TRỂN mới xuống hả?? (Sóc Sãi, Hàm Long, Tiên Thủy, Cái Nứa, Tường Đa, Thành Triệu ...)

- Thứ bảy nầy tao ra NGOẢI đeo bập dừa tập lội!! (đi Vàm, Mỹ Hóa, Bình Phú ...)

- Ở TRỔNG hồi qua có mưa lớn hôn (Hữu Định, Tú Điền, Phước Thạnh.....)

- Dìa DƯỚI gặp Má tao nói giùm: Rằm tao mới dìa đặng! (Giồng Trôm, BaTri, Bình Đại, Thạnh Phú, Cầu Mống , Giồng Luông, Cái Quau ....)

Chắc các bạn thèm nghe lại những "Đặc Sệt" thân quen ấy chứ!! Xin mời các bạn góp nhặt vài đề tài gợi ý sau đây:

*** Phù Hiệu: Qua các thời kỳ
*** Báo giờ : Chuông, Kẻng, Trống đặt ở đâu, ai làm việc đó ....
*** Nơi để xe đạp
*** Ăn quà vặt
*** Cúp cua
*** Tất cả vụn vặt bạn nghĩ ra ...


** Phù hiệu Trường Trung Học Kiến Hòa trải qua ba thời đại: thời đại Đồ NỈ, thời đại Đồ Kim Loại và cuối cùng là thời đại Đồ Vải.

- Phù hiệu NỈ:

Đúng như bạn Danh mô tả, miếng nỉ hình Oval màu xanh thật đậm gần với đen, có cái màu đen. Trên có kết kim tuyến ( loại cọng) vàng lấp lánh hai bông lúa giao cuống và mở bông ra hai bên theo cạnh rìa cong cong của miếng nỉ. Chính giữa có ba chữ THB (viết tắt Trung Hoc BenTre) cũng kim tuyến vàng như hai bông lúa. Phía sau có gắn sẳn một cây kim tây màu đồng rất cứng để cài phù hiệu vào Áo Bà Ba Trắng đồng phục lúc đó. Vì nỉ mềm nên lâu ngày cây kim tây và miếng nỉ phù hiệu ưa đường ai nấy đi. Chúng chia tay mà không báo trước do đó bị quý vị Giám Thị chộp đầu khi vào cổng mà trên ngực chỉ có... cây kim tây!

Cũng có màn đi nghiêng nghiêng để tránh bị khám phá và bị tóm cổ. Cũng có màn làm bộ lấy tập vở che che để thầy cô giám thị bắt mở ra, chọc cười chơi! Phá thầy!

Đeo phù hiệu lúc đó mắc cỡ lắm! Vì nó giống như miếng thuốc dán Sơn Đông mãi võ hoặc của tiệm thuốc Bắc người Tàu.

Còn ba chữ THB bị ngạo là Trâu Heo Bò; Nên ra khỏi trường là tháo ra bỏ túi, dễ bị bỏ quên ở nhà khi giặt bộ bà ba đồng phục.

NhàQuê tui nhất định không tháo để nhỏ "cô Mười bán guốc" nhận diện (xin đọc đường Lý Thường Kiệt trong Những "con đường Xưa Em đi", forum Tùy Bút).

Phù hiệu nỉ và đồng phục Bà Ba cũng đi song song với tên chánh thức của trường lúc đó là: TRƯỜNG TRUNG HỌC CÔNG LẬP BẾN TRE ( từ 1954 đến cuối năm 1958) và tên tỉnh thời ấy còn là Tỉnh BẾNTRE.

Phù hiệu nỉ trải qua suốt thời hai vị hiệu trưởng: thầy Nguyễn Văn Trinh, thầy Phùng Văn Tài và mấy tháng đầu chuyển tiếp của vị hiệu trưởng thứ 3 là thầy Nguyễn Đình Phú (bắt đầu đổi đồng phục và cũng đổi phù hiệu, cùng nhiều chuyện cười ra nước mắt lắm!).

Về thầy Nguyễn Đình Phú thì cách nay khoảng 18 năm thấy có một cụ tên Nguyễn Đình Phú là hội trưởng Hội Cao Niên vùng Orlando, Florida. Không biết cụ ấy có phải là THẦY hay không vì lúc đó NhàQuê mới qua Mỹ còn chưa hết mộng du nên không có tìm để làm Carnot dõm nhắc Thầy rằng:

Thầy còn nhớ con không? Con là NhàQuê đây! Ngày đó Thầy xuống lớp phát Bảng Danh Dự môn thi và quở trách học sinh làm bài thi hạng chót:

Môn...trò NhàQuê hạng nhất! Giỏi! Giỏi! Giỏi! (cả lớp vỗ tay) ....Bây giờ tới Môn.... hạng nhất là .... hạng chót là trò NhàQuê! Ôi giời ơi! ối giời ơi! sao lại thế ??? (cô Mười bán guốc ơi là Mười!!! Lạy trời cho nhỏ Mười đừng hay!)

Hồi đó đâu biết đeo phù hiệu là một danh dự và cũng nói lên tuổi trẻ tài ba … bốn … năm… sáu....Giờ thì già quá rồi lại tiếc biết là bao!!!

- Phù hiệu kim loại:

Địa giới tỉnh được phân chia lại, nhiều tỉnh mới được thành lập, nhiều tỉnh bị đổi tên trong đó có Bến Tre (Trước đó Nam Phần chỉ có 21 tỉnh là: Gia Định, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Trà Vinh, Sa Đéc, Bến Tre, Long Xuyên, Tân An, Sóc Trăng, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Biên Hòa, Mỹ Tho, Bà Rịa, Chợ Lớn, Vĩnh Long, Gò Công, Cần Thơ, Bạc Liêu, Cap Saint Jacque), cù lao An Hóa-Bình Đại trước thuộc Mỹ Tho nay chính thức sát nhập vào Bến Tre, Chợ Lách giao cho Bến Tre từ tỉnh Vĩnh Long.

Và Bến Tre lớn thêm lên đổi tên là Kiến Hòa sau nhiều đề nghị trong đó có đề nghị đổi tên là tỉnh Thanh Giản.

Địa giới các quận trong tỉnh Kiến Hòa được phân chia lại và có nhiều quận mới như Giồng Trôm, Trúc Giang, Hương Mỹ, Đôn Nhơn (diễn tiến nhiều giai đoạn không phải đồng loạt) hoặc đổi tên như Sóc Sãi thành Hàm Long

Trường Trung Học Công Lập Bến Tre đổi thành Trường Trung Học Công Lập Kiến Hòa . Đồng phục và phù hiệu mới thay thế thời đại đồ Bà Ba Trắng và phù hiệu nỉ THB.

** Đồng phục: Dường như đồng phục nầy không sửa đổi cho đến 1975!?!?

- Nữ: áo dài trắng, quần đen, guốc hoặc dép(sandal)
- Nam: Áo sơ mi trắng ngắn tay, quần màu xanh nước biển, áo bỏ trong quần có thắt lưng (dây nịt), giày bố trắng hoặc dép (sandal, không được mang dép Nhựt)

Về bên nữ NhàQuê tui không nhớ, bên nam trong giai đoạn đầu thì đầu tuần mặc đồng phục mới, hai ngày cuối tuần mặc đồng phục cũ, lý do là chưa mua sắm đủ.

@ Chuyện cười ra nước mắt về cái quần xanh đồng phục: Số là để cho thống nhất hay sao đó mà trường đặt mua vải dệt của hãng VINATEXCO=Việt Nam Tơ Sợi Công Ty (Nghe nói hãng nầy của bà Ngô Đình Nhu hay là Bà ấy có nhiều cổ phần trong đó) rồi bán lại cho học sinh cùng giá và cùng kích thước như nhau (bắt buộc mua). Mấy đứa cao quá khổ phải lên lai rất nhỏ, mấy đứa thấp may trừ hao nhổ giò mà nhổ giò thật!!! Có đứa bị tiệm may từ chối vì không đủ vải cho một cái quần chừng khám phá ra là có hai khổ: khổ chiếc và khổ đôi, đứa nào bị khổ chiếc phải đem vô trường xin thêm miếng nữa!!!

Về phẩm chất cũng khác nhau, có quần sau khi giặt lần đầu, quần trông xệu xạo đổ lông, mặc quần tây mà như quần bà ba xanh. Có đứa bị rút ngắn lên hơn mắt cá chân. Hầu hết bị xuống màu nên không còn giống nhau màu xanh ban đầu !!

Nhưng không phải được mua một lượt vì số lượng vải giao một lần không đủ cung cấp, vì vậy mấy đứa sau được bày đem về ngâm trong nước dừa cho giữ được màu. Hầu như kinh nghiệm đó không hiệu quả. Quần xanh từ từ mốc thít!!!

Chỉ một quần đầu tiên, việc thất bại, quần thứ hai học sinh tự lo liệu nên nhiều đứa sửa từ quần kaki vàng nhà binh rồi nhờ thợ nhuộm hóa phép giùm!! Thứ đó lại bền! Kaki xanh trên thị trường cũng dày, tốt....Có lẽ bị Treo Đầu Heo Bán Thịt Chó là hàng mẫu thì tốt, hàng giao thì không đủ phẩm chất, phải nhận vì áp lực quyền thế chăng???

Về giày phần nhiều chơi Bata trắng, qua ngày thứ ba vô lớp có mùi lạ lắm và mùi càng nặng thêm một cách đáng kể đi dần đến cuối tuần!! Thứ Bảy, Chúa Nhật gặp trời mưa giày giặt không khô, qua Thứ Hai mùi ấy đến sớm hơn chu kỳ!! Trong lớp có đứa nào "thầy giáo" là biết liền!!

Hồi đó dù là trường hổn hợp Nam Nữ nhưng vẫn còn lớp toàn Nam hay toàn Nữ, chỉ vài lớp đặc biệt như lớp Anh Văn sinh ngữ 1 mới có lẫn lộn Nam Nữ. Phải chi chia đều thì quý vị Nữ đã có dịp thưởng thức biết mùi nầy sớm! Hơn cả lính một tuần không tắm nữa!!!!!!!

Khác xa với " Mùi Của Các Chị Xông Lên Nồng Nặc" - tác giả Hồ Ngọc Sánh (xin đọc Những "con đường xưa Em đi" phần nói về đại lộ Phan Thanh Giản trong Forum Tùy Bút )


.................................................. ............

NhàQuê Mar 12, 2006

NhàQuê
01-12-2011, 07:30 AM
Những "ngôi trường xưa Em học"


Đoản Rời: Anh Ba Vững

Không nhớ rõ là 7 hay 11 năm trước tôi còn gặp anh. Với tình trạng ngây ngây, lang thang suốt ngày như vậy, tôi nghĩ ngày nay anh không còn trên cõi đời nầy nữa. Tự nhiên sáng nay tôi muốn viết về anh, trước khi tôi lãng quên và biết đâu rồi đây tôi cũng ngây ngây như anh!

Thực sự tôi gặp thầy Huỳnh Văn Vững (Lê Văn Vững???) năm 1965, khi thầy bị thuyên chuyển xuống dạy dưới Ba Tri. Chuyện đó phải coi là chuyện dĩ nhiên dành cho người tạm gọi là "không bình thường".

Bộ Ba Tri là nơi dùng để lưu đày hay sao vậy mấy Quan Giáo Dục, hèn chi học trò miền quê không khá!

Tôi biết thầy nhưng không có tiếp xúc lần nào trước khi thầy xuống đó, thầy đã dạy trường tỉnh lỵ và lân cận như trường Chợ Giữa...chẳng hạn, nhà thầy ở gần Chợ Ngã Năm.

Vậy rõ ràng là thầy bị thuyên chuyển như là hình thức kỷ luật nào đó dành cho. Dù sao cũng là cơ duyên đưa tôi gặp thầy.

Thầy xổ tiếng Tây, chúng tôi trả lời bằng tiếng Ta, vì cỡ những người học chương trình Việt như chúng tôi hiểu kịp thầy nói cũng còn may!

Có lẽ cung cách thầy nói chuyện làm người đối thoại rất "mát bụng". Thầy kêu tôi bằng Professeur làm sướng mê luôn! Nhưng tôi gọi lại bằng "Thầy" thì thầy biểu gọi bằng "anh ba Vững" thầy chịu hơn.

Phòng ốc trường sở lúc đó dùng cho cả Trung, Tiểu Học nên gặp gỡ nhau rất là thường, rồi đôi khi trên đường hoặc trong đám tiệc nào đó, thầy chào bằng cách bắt cả hai tay làm tôi rất áy náy ngại ngùng.

Lần thầy còn nhận ra tôi lại làm tôi thót ruột, tôi tình cờ gặp thầy ở bùng binh lúc gần sáng của những người thức sớm, nhưng giờ đó đối với thành thị vẫn còn là khuya, đường phố thị xã còn vắng lắm, tôi trên đường trở lại ghe còn đang đầy ắp hàng hóa.

Tôi đi buôn, thứ nghề bá nghệ lây lất nuôi thân sau cuộc đổi đời. Thót ruột vì thầy nói tiếng Tây rôm rốp như một diễn giả dùng máy trợ khuếch thanh, thứ ngôn ngữ bị cấm tuyệt vào lúc đó.

Chỉ dùng tiếng Việt! Tất nhiên tôi "chấp hành nghiêm chỉnh" bằng tiếng Ta và chỉ tiếng Ta mà thôi!

Tôi mở máy nhỏ vừa đủ nghe chừng nào, làm máy thầy phát càng lớn chừng ấy. May cũng tai qua nạn khỏi, không ai thức giấc vào giờ ngủ nướng để làm khó dễ.

Lần cuối cùng thầy không còn nhận ra tôi nữa, thầy cứ lập đi lập lại "nhắc cho Anh Ba nhớ coi, nhắc cho Anh Ba nhớ coi, Anh Ba gặp em ở đâu vậy"

Anh không còn nhớ đâu anh ba ơi, tôi đã nói đi nói lại mầy lần rồi mà, anh có nhớ lại đâu!

Lần đó dịp về nước, cũng lại tình cờ thấy thầy vừa rời quán cà phê (??) trên đường Nguyễn Đình Chiểu, khoảng tiệm kem Ngọc Duyên ngày xưa, có lẽ thầy định băng qua đường đang đông đúc xe cộ, lại luồn lách vun vút.

Nhìn thấy, tôi dừng lại đứng chờ trước cửa tiệm Thái Nguyên thuở trước, tên tiệm thu mua cau dừa sấy lúc tôi còn đi học, nay qua bao đổi thay không biết những Nam Phát, Thái Nguyên và những cửa hàng trên đường nầy có còn bảng hiệu không!

Thầy đã quên tôi thiệt rồi, ngay cả số tiền Việt tôi cho hết cho thầy mà thầy cũng không biết là bao nhiêu.
Nhiều là bao nhiêu vậy, nhiều là bao nhiêu vậy! thầy hỏi nhiều lần, khi người đi cùng thầy hoặc khách bộ hành thấy sự kiện lạ dừng lại, họ lưu ý cho thầy đây là số tiền lớn đối với thầy.

Tôi có nhắc mong may ra thầy vụt nhớ, về nghề cũ của tôi; Cám ơn Professeur nghe và thầy lại bonjour bằng cả hai tay như ngày trước.


Tôi rời nơi đó.Anh Ba Vững của tôi là người bình thường đầy đủ hỉ nộ ái ố, đôi khi tôi thèm được khùng khùng như Anh.

Thôi Anh yên nghỉ!

NhàQuê July 25, 2006


Kính Anh NhaQue,

Thầy Vững là Thầy giáo dạy Tiểu Học, Thầy Vững thường mặc áo sơ mi trắng khi đi dạy, thầy hay nói tiếng Pháp khi gặp người quen. Khi gặp người quen, Thầy chào hỏi rất lễ phép, luôn bắt tay bằng cả hai tay . Thầy có gia đình , có một cô con gái, nhỏ hơn HH vài tuổi, tên là Đầm, nhà thầy trước kia ở phía bên kia cầu Nhà Thương ... Thầy quen thân với Ba Má của HH, thường gọi Ba Má của HH là anh chị Hai ... Anh NQ có biết thầy sống chết thế nào không, theo lời kể của Anh, như vậy là Thầy Vững đã mất ?!

HH


Bạn HH thân mến,

Tôi không có tin tức gì về thầy Vững sau lần gặp mà thầy không còn nhớ ra tôi như trên đã kể. Tôi chỉ đoán vì thấy thầy có vẻ suy sụp nhiều!

NhàQuê

NhàQuê
04-12-2011, 09:06 AM
Những "ngôi trường xưa Em học"


Đoản Rời: Viết Về Một Người Bạn


(tặng cô Lưu Thị Chiêu-Hoa Chanh)


Có lẽ cô mến tôi như một người anh và thân thiện ngay từ những ngày đầu cô về nhận việc tại Trường Trung Học Ba Tri, ở một quận lỵ nhỏ bé tận cùng của Cù Lao Bảo; Chúng tôi cùng dạy toán.

Tới hôm qua tôi mới biết, cô cũng là cựu học sinh Trường Trung Học Kiến Hòa. Cô giáo sư mới, nói năng nhỏ nhẹ và xưng tên mình hay em chứ ít khi xưng tôi, mang đầy đủ vẻ đôn hậu của người miền Nam.

Học sinh dĩ nhiên thương mến cô như tấm lòng cô đối với các em. Cô làm việc sôi nổi hòa mình của tuổi trẻ mới vào đời, các sinh hoạt trong trường cô tham gia tích cực.

Tất cả những ưu điểm nghề nghiệp đã là lý do tôi nhờ cô phụ giúp tôi làm phó ban trong nhiều công tác được giao....qua đó chúng tôi chia sẻ nhiều kỷ niệm trong sáng dưới mái trường cùng dạy.

Sau những năm đọa đày trở về, tôi nghe tin cô theo chồng định cư ở Pháp, tính tới nay gần ba mươi năm.

Cách đây khoảng bốn hôm, tôi nhận một Email thường thì tôi xóa vì sợ virus, tên người gởi rất xa lạ; Nhưng tựa có chữ BaTri trong đó làm tôi khựng lại và khi mở ra là cả một bất ngờ....

Xin phép cô, cho tôi được đưa ra đây các Email liên lạc, chỉ để nói lên sự vui mừng và những khám phá mới về một người bạn đã xa cách thật xa cả không gian và thời gian...


From: m.armand
To: trongbtran
Subject: cuu giao su TH BATRI
Date: Mon, 9 Apr 2007 16:11:28 +0200

Anh TRONG than,

Em ten LUU THI CHIEU hien dang dinh cu tai Phap

Rat vui mung khi kham pha duoc trang web nay, thanh that cam on anh, nho the ma em nho lai nhung ky niem xua neu anh co email cua nhung dong nghiep khac tu nien khoa 1974 DEN 1978 xin chuyen den cho em de lien lac sau 30 nam cach xa va cung xin anh pho bien email cua em de tien be lien lac:
................................

Thanh that cam on va hien ky toi

LUU THI CHIEU


Co Chie^'u,

- Troi oi! Biet bao nhieu la mung!
- Toi gap ai quen cung hoi xem co biet ve Co khong, ma van mu mit tam hoi! Toi biet Co o Phap, toi co den Paris mot lan gap vai dua hoc tro o do, ma chung cung khong co tin tuc gi ve Co. Nay sao ma may man la thuong! Cam on Internet

- Ve toi, vuot bien cuoi nam 1986, den My nam 1987 . Nay da 20 nam. Luc di toi dem duoc hai dua con trai; Gio chung hoc hanh da xong va da co gia dinh rieng tu.

Ba Xa toi bao lanh sang doan tu nam 1991 dem theo 1 gai va 1 trai, da học xong va co gia dinh rieng tu

Nam 1998 dua trai lon nhat sang doan tu voi gia dinh rieng gom Vo va dua con gai, chung cung yen on cong an viec lam va hoc hanh

Nhu vay ve phan toi, gom Vo va 5 co deu dang sinh song tai My, moi viec binh thuong. Toi da nghi huu. Co 5 chau Noi, Ngoai ...

- Ve ban be thi phan dong khong co dia chi Email, vi co tuoi 60, chung minh da "Co Lo Xi" lam roi!

Toi xin ke so+ vai nguoi hien o Ngoai quoc: Bui Thi Ngoc Ye^'n, Bui Thi Ngoc A'nh, Tran Kim Dung, Huynh Ngọc Thach, Duong Thanh Hong, Do Van Xuan; Do la nhung vi ma toi co lien lac bang dien thoai.

De it hom ranh ranh va ddi.nh tha ^`n lại vi mung qua, sau do se luc lao lai roi cho Co biet chi tiet de lien lac.
Du Co la nguoi Long An(?); Co co' thoi gian tre? day hoc o BaTri, moi Co vieng trang bentrehome cua cuu hoc sinh Trung Hoc Kien Hoa nhu la khach than huu, toi co phu trach phan lon tren do voi ten dang ky NhaQue, hy vong co doc duoc vai dieu thich thu va goi nhan tin tren do cung tien vi khach truy cap se loan tin rong ra.

Truoc het tham va chuc moi an lanh den Co va gia dinh

Co lien lac theo dia chi trongbtran tien hon vi toi check mail thuong xuyen, con ben Hotmail chi thinh thoang vì do la hop thu chua tai lieu can mo ra dung.

Than men,

TBT


Anh chi thân

Thât là xuc' dông khi em nhân duoc thu anh ,và con mung hon nua khi biêt' duoc rang anh da liên lac duoc voi kha' nhieu nguoi quen ,nhu chi YÊN ,chi ANH ,anh HÖNG ......

Cang khâm phuc hon vê su chiu kho' cua anh dê suu tâm, tao môi truong cho ban huu cung nhung dông huong o Bên Tre co duoc môt môi truong dê liên lac và tham hoi nhau sau 30nam xa cach,cung ôn lai bao ky niêm dep khi con chung môt mai' truong trong thoi niên thiêu',truong trung hoc KIËN HOA ;

Anh Trong thân ,dê em kê so vê thân thê' cua em cho mà nghe ,quê Nôi em o Bên' Luc' con quê ngoai thi o Bê'n Tre thuôc quân Hàm Long ,nhung em sông' và lon lên voi Ngoai vi BA Me em bân làm an o xa,vi vây mà em duoc hân hanh làm dân Bê'n Tre ,may man' hon nua em con là cuu hoc sinh cua truong trung hoc Kien Hoa ( thuong xuyên làm lop truong)vào nhung nam 1963-1970 và sau khi dâu duoc tu' tài 2 em lên Sài Gon hoc, rôi sau do' di làm duoc gap cac' anh chi trong mai' â'm gia dinh truong trung hoc BA Tri, chi trong bôn' nam nhung biêt' bao ky niêm !

Em xin vài dong vê thân thê' hiên nay ,nam 1978 ,em theo chông sang PHAP' ,chung' em co duoc bôn' dua con ,môt trai và ba gai' ;hai dua lon' thành công tôt' dep ,dua thu ba dang hoc vê môn tâm ly' nam thu' ba ,con dua ut' 16 ¨tuôi dang hoc lop 11 ban toan',nho troi thuong cuoc sông' và con cai' em duoc on dinh ,

Em cung da vê huu ,hôm nhân duoc thu anh hai ngày truoc'là sinh nhut cua em (56) tuôi ,nho nhung tin tuc và hinh anh trên INTERNET mà em tim duoc nhung be ban cung thây cô hôi con o truong trung hoc nhin lai thây cô thi già di rât' nhiêu ;con tui em dua' nào toc' cung muôi' tiêu ,nhanh qua' thoi gian oi!

Em da làm mât' kha' nhiêu thoi gian cua anh rôi phai không? Em xin tam dung o dây hen anh chi lân toi ,chuc anh chi duoc nhiêu suc khoe và hanh phuc dê tiêp' tuc cham lo cho dan con cha'u và làm sông'mai nhom dông huong thân huu mên' thuong Bên'Tre.

LUU THI CHIËU

Bài nầy xem như món quà mừng sinh nhật cho cô nha! và Tôi cũng mang về cho Bến TreHome một người đồng hương, các bạn cựu học sinh Trung Học Kiến Hòa một người bạn đồng song, đồng môn.

Cám ơn Internet và bentrehome

NhàQuê 2007



m.armand@netcourrier.com wrote:

From: m.armand
To: trongbtran
Subject: Hôi âm thu ngày 24-4
Date: Tue, 1 May 2007 18:47:15 +0200


Anh Chi Trong thân ,

Em da nhân duoc thu cua anh, vê nhung thông tin và dia chi cua nhung nguoi ban em se liên lac sau ,ca'm on anh nhiêu la'm .

Anh Trong thân ,thât cam dông khi doc duoc vài hàng cua anh nhân xe't vê em. Anh no'i râ't du'ng ,anh em minh de dàng thông cam vi minh co nhung diêm tuong dông ,cung nâng niu qui trong tinh thân huu cung nhung ky niêm thân thuong cua da'm hoc tro o noi miên quê heo la'nh tuy thât thà chon châ't nhung râ't trung thuc dê thuong .

Em nho râ't ro ,ngày mà em len le'n roi bo dâ't BA TRI ,em nghi minh nên âm thâm ra di vi không muô'n gieo su buôn tui cho bao nguoi o lai ,và chac cha'n rang minh không chiu nôi su bin rin khi phai roi bo môt vung ky niêm êm dêm ,vây mà không biê't làm sao da'm hoc tro biê't duoc ,rôi chu'ng chuyên tai nhau ke'o ra bê'n xe ,dua thi niu ke'o dua thi khoc bu lu bu loa khiê'n xe không thê lan ba'nh duoc ,ông tai xê biêu em xuông xe và hua hen se vê tham chung lân cho't truoc khi di (ba'c tai là Ba cua môt em hoc tro). Anh biê't không tu ngày â'y dê'n lu'c di cung hon s'au tha'ng mà em không du can dam buoc chân dê'n ngôi truong môt lân cuô'i, bây gio ngôi dây hôi tuong lai và tâm su voi anh mà nuoc mat em roi, rôi thoi gian tha'm thoa't trôi ,cuôc sô'ng moi ,hoan canh moi ,gia dinh ,tra'ch nhiêm .....

Tuong nhung chuyên â'y da nam sâu trong ky uc ;nhung nay nho anh "NHAQUÊ " mà bao ky niêm dep hiên vê làm em sô'ng lai môt thoi vang son lu'c con niên thiê'u ; Anh dung cuoi vi em dung hai chu "vang son "hôi con tre sao mà quây qu'a , hang say nhu nguoi diêc không so su'ng, nhac dê'n dây em con nho và qui phuc anh ghê, anh nho co lân hôi hop dê tranh luân vê phuong ca'ch giang day sao cho co kê't qua tô't , co môt anh ca'n "hoi ngô'" tu xung minh kiê'n thuc hon nguoi ; nên phai làm theo phuong ca'ch cua anh ta , anh em minh buc minh cai lai , anh can â'y bèn nôi sung pha't biêu lung tung , anh giân qu'a du'ng lên no'i

-Anh nên nho' .... !

Và sau ngày â'y bao su ganh ti nho nhen cua dua hep hoi da làm cho anh em minh nan long không it',tinh doi u ? KE thuong nguoi ghe't hong them nho' làm chi cho mêt ,buôn nam phu't thôi ,hi hi .....

Thôi , em dài dong lâm câm qua' phai không anh ?

Tui em thuong ranh vào buôi tô'i '(sau 8gio) nê'u anh muô'n goi thi bâ'm sô' Tel. ........... hoi tên CHIÊU, dây moi là tên mà BA ME em dat cho ,di làm khai sinh ho cho thêm dâ'u sac, nghi co uc không?
Khi goi Anh cu noi bang tiêng Viêt vi ông xa em cung là nguoi Bê'n Tre vi Cha Me dân Tây nên co' tên ARMAND .

Hen anh lân sau, tam biêt

Em LUU Thi Chiêu


Gần Ba Mươi Năm

(Tên Và Vận Người)

Cảm tác sau khi đọc thơ cô CHIÊU,
tên của cô bị Chánh Lục Bộ viết sai thành Chiếu

Hồi trưa nhận lá thơ từ Pháp
Kỷ niệm chìm sâu lại hiện về
Có góc trời xưa hằng nhớ mỗi
Dòng đời gặp lúc lắm nhiêu khê

Khám phá điều chi lại mỉm cười
Tên cha mẹ đặt lúc chào đời
Bao nhiêu gởi gấm vào trong đó
Chốc bỗng dòng thay số phận người

Khoảng trước chênh vênh đã bước qua
Còn đầy luyến nhớ buổi chia xa
Bàn tay vẫy tiễn rưng rưng giọt
Biệt nhé Ba Tri những tuổi ngà

Chốn mới dùng tên không bỏ dấu
Xem như trở lại khoảng trời mơ
Cô CHIÊU ghé bến đời nhung gấm
Cậu ấm cùng xây đẹp mộng chờ

Lắm lúc ngồi ôn lại bước đường
Lên đồi xuống dốc mọi quê hương
Nơi đây chạnh nhớ về nơi cũ
Mỗi một trong lòng đậm nét thương

NhàQuê

NhàQuê
05-12-2011, 06:00 AM
Những "ngôi trường xưa Em học"


Đoản Rời: Lá Thư Miền Nam

(tặng chị Tô Thị Hồng Vân)

Tôi hứa sau Tết sẽ gõ bài chị lại, thay cho những trang công phu chị viết mà tôi gấp rút đưa lên dạng scan.

Rồi nhiều chuyện gấp rút hơn nên đến nay vẫn giậm chân tại chỗ, thế mà tôi lại gọi hối chị đưa bài kế tiếp...nhiều lúc suy nghĩ có nên để nguyên vậy hay không, ngoài cái lạ hay hay, nó còn mang thông điệp nhiệt tình của chị với trường quê xưa, bạn bè cũ mà bentrehome không quản ngại tài non sức mọn của mình, đứng ra làm nhiệm vụ chuyên chở đến mọi ngõ ngách có người mà trong tim mình còn xao xuyến chút gì khi nghe tiếng Bến Tre.

Chị học trước tôi một năm từ quê lên tỉnh, tôi đi theo dấu chân chị vì những thành tích học tập của chị làm Ba tôi, người Chú họ của chị luôn hết lời ca ngợi.

Sau khi rời trường Trung Học, mãi 20 năm sau mới gặp lại chị lần đầu tiên, chị đi ngang trong lúc tôi dắt vài con bò cho ăn dọc theo con lộ chính, thực ra là cho chúng rản chân.

Chị không nhận ra, còn tôi nhìn thoáng qua dường như ai đó giống chị. Cảm giác chị em nhận ra nhau lạ lắm: Vui buồn đủ thứ...

Chị về từ vườn tược đâu tận rừng sâu, tên gọi không gợi nhớ cho tôi lần nào tôi có đến dù là gần gần nơi đó.

Hơn 10 năm nữa trôi qua, nghe chị sang Mỹ, trong điện thoại chị kể bao nhiêu là chuyện cười, lần đầu tiên đơn thân độc mã muôn dặm xum họp chồng con.

Lại 10 năm nữa gần đây trong đó có một lần gặp mặt khi cùng dự một đám cưới. Tôi đòi chị đóng góp bài khi tôi biết rằng thơ truyện của chị xuất hiện vài nơi và chị vui vẻ đáp lời mời BenTreHome.

Cắt mở phong thơ dày cộm, ngoài địa chỉ ra còn họ tên người nhận "hoàn toàn nói tiếng Việt Nam" không có chuyển âm gì hết.

Tôi thật sự bàng hoàng khi xếp thứ tự lại theo loại, dù chị đã cẩn thận xếp rồi. Không kể gì nội dung tôi sẽ đọc trước khi đưa lên, chỉ nhìn mà nghĩ chị tôi vừa "giữ" cháu, vừa "nấu" cơm, vừa "khâu" bài đã viết tay chắc là trong mấy ngày liền, nhìn cách dùng chỉ may để khâu kết làm tôi mủi lòng.

Nhà tôi cũng ngạc nhiên không kém. Có người hỏi chị sao không Email, chị cười: Tui cứ vậy chứ hổng MEO MỐC gì ráo! Mẹ Tiến Sĩ thứ thiệt đó!
(Phạm Thị Trúc Chi, Ph.D)

Tôi nghĩ rằng bất kỳ ai, như trường hợp tôi làm sao không xúc động cho được. Thế nên tôi đưa bài dạng scan là vì thế!

Lẽ ra tôi còn chụp hình cả mấy cọng chỉ kết, đưa minh họa để các bạn viếng BếnTreHome thấy hết tấm lòng của chị mà thương mà quý!

Tôi định viết bài nầy ngay ngày hôm sau; Nhưng nay cũng không muộn. Không ngôn từ nào hơn:

Cám ơn chị! Nhận nơi đây lòng quý mến từ bentrehome

NhàQuê March 18, 2006

NhàQuê
07-12-2011, 06:03 AM
Những "ngôi trường xưa Em học"


(Viết Tưởng Niệm Cô Nguyễn Thị Kiêm Quyên)


Đoản Rời: Thư Gởi Bạn Tường Lam


Bạn Tường Lam thân mến,

Tôi hẹn bạn lần lữa từ tháng giêng năm nay sẽ ghé thăm bạn, mà mãi đến đầu tháng tư mới thực hiện được.

Mấy tuần trước đó bạn cứ căn dặn gọi cho bạn trước ít ngày. Xin lỗi bạn, tôi thường thích làm các bạn bất ngờ như bảy tám năm trước đây từ Canada về, tôi ghé nhà bạn Huỳnh Ngọc Thạch kêu cửa và chủ nhà chưa kịp mặc áo. Thế vui hơn!

Tôi đã chọn lộ trình dài hơn thông thường một ngày đường để gặp lại bạn sau hơn bốn mươi năm tin tức về nhau rất ít. Cuối ngày thứ ba của chuyến đi, tôi vào vùng lãnh thổ, chọn chỗ qua đêm xong, tôi lên máy báo cáo hiện diện, bạn cho tôi một giờ ổn định.

Nhà để đèn ngoài tôi hiểu là chờ tôi đến. Còn vui mừng nào hơn! Ðầu tiên đứa nào cũng tự nhận định xem nếu tình cờ gặp nhau giữa đám đông: Thì ...coi như là chưa quen!

Hai xác phàm đứng trước nhau lạ lẫm với hình ảnh ngày nào tuổi đôi mươi khôi ngô tuấn tú.

http://www.bentrehome.net/trong/Picture_014B.jpg

Hai lão già nhìn nhau may lắm mới không rơi nước mắt: Nhờ bao năm trui luyện trong nghiệt ngã tột cùng của quê hương và thân phận.

Ðứa nào cũng nói, cũng hỏi huyên thiên về bạn bè xưa đứa còn, đứa chưa lần nào gặp lại, về thầy cô...và cả hai dừng lại ở một người: Cô Nguyễn Thị Kiêm Quyên.

Hồi ấy, thầy Hiệu Trưởng xin ngưng giờ Việt Văn của thầy Nguyễn Ðức Lâm đôi phút để giới thiệu cùng lớp chúng tôi năm thầy cô vừa ra Ðại học Sư Phạm nhận Trung Học Kiến Hòa làm nhiệm sở và bắt đầu giảng dạy vào đầu năm tới, năm Ðệ Nhị của chúng tôi.

Thầy Hiệu Trưởng giới thiệu tên và môn dạy từng người: Gs Toán Vũ Ðình Lưu, Gs Sử Ðịa Lê Như Dực, Gs Anh Văn Vương Gia Thụy, Gs Pháp Văn Kiều Văn Chương và Gs Vạn Vật Nguyễn Thị Kiêm Quyên.

Hình như thầy Kiều Văn Chương thay mặt nói vài lời trong lúc " đóa hoa lạc giữa rừng gươm" có gương mặt khuê các, hiền từ đang lặng lẽ quan sát chúng tôi, đám học trò tương lai của mình.

Thầy Hiệu Trưởng lại tiếp tục hướng dẫn sang giới thiệu lớp khác, chúng tôi chụm đầu bàn tán, lần đầu tiên thầy Nguyễn Ðức Lâm dễ dãi cho chúng tôi việc gây ồn ào nầy.

Các "Mao Tôn Cương" thống nhất nhau một nhận định là nhờ uy tín cụ Hiệu Trưởng Nguyễn Ðình Phú mà Bộ đã thuận cho trường mở thêm các lớp đệ nhị cấp và gởi nhiều Giáo Sư về trường.

Thời gian gặp mặt ngắn ngủi vậy mà có đứa cũng cho biết là mấy thầy nam là người Bắc, còn cô Quyên là người Nam và bà con với bạn Nguyễn Phước Tồn, tin nầy sau đó không phải là "Tin Vịt".

Cô dạy môn Vạn vật cho ba lớp đệ nhị A và hai lớp đệ nhị B, đối với bọn ban B NhàQuê, mỗi tuần hình như chỉ có một hay hai giờ vì là môn phụ, không phải thi viết; Nhưng ban A thì không tà tà như vậy được, "Gạo" đêm ngày.

Bạn Tường Lam thân mến,

Bạn kể rằng khi vào vấn đáp xong, bạn tình cờ gặp cô trong sân trường, cô ân cần thăm hỏi xem có cần "cứu" gì không, bạn từ chối; Cô cho biết tất cả giám khảo hôm đó đều là bạn cùng khóa với cô và cô nhiều lần nhấn mạnh đừng quá tự tin. Sự lo lắng của cô lần đó in đậm trong tận cùng tâm khảm bạn về một người thầy dạy hết lòng chăm sóc học trò.

Tôi có nói với bạn là nghe đâu sau 75 cô không còn dạy nữa và tôi cũng chẳng gặp lại cô lần nào.

Mấy năm trước trong lần về Bến Tre thời gian ngắn, bạn có nhờ người bà con tìm tin tức về cô nhưng không kết quả. Bạn nói với tôi con người cô hiền lành, không lanh lợi như vậy làm sao bon chen khi phải xa rời môi trường vốn đã chọn là nghề.

Về phần tôi, tình cờ trong lần dạy thực hành ở trường Gia Long, cô vào trước mấy phút, ngồi cuối lớp làm giám khảo, cuối giờ ra đến hành lang cô bảo: Em dạy vậy được lắm NhàQuê à! Tôi biết rằng cô cho điểm không ít.

Năm 1967 vào K25/TÐ lại tình cờ chung đại đội 11 với thầy Phan Thế Chánh, chồng cô, thầy thuộc trung đội 43/11 cùng trung đội Huỳnh Ngọc Thạch và Nguyễn Tiến Minh, tôi 44/11.

Hôm đi bãi bắn ba phát chào sân, vừa xuống dốc cổng số 9, phần trước đại đội bị đánh mìn ngay đầu cầu Bến Nọc, vừa chết vừa bị thương 11 người, y chang con số đại đội 11.

Trung đội thầy có thiệt hại: bạn Nguyễn Văn Kha tử thương, Kha quê Châu Phú Bến Tre, lúc còn trọ học ngủ chung giường với NhàQuê.

Ra tới bãi bắn, thầy Chánh lính quýnh thế nào với khẩu Garant M1, mà cơ bẩm bụp thầy suýt đi ngón tay, nhanh đến nỗi tôi làm phụ xạ thủ nằm cạnh mà cũng không nhìn kịp.

Tin tức báo chí về vụ bị đánh mìn, làm gia đình nào cũng lên thăm cuối tuần đó. Gặp cô trong khu tiếp tân, cô nửa đùa nửa thật, cách nói có hơi tếu: Em làm sao mà ngón tay thầy ra nông nỗi nầy! ( không cầm tay nhau được). NhàQuê muốn tếu lại kiểu lính sợ bất kính!

Mấy tuần tiếp theo thầy Chánh lần nào cũng khệ nệ mang vào tận giường: Phần nầy cô gởi cho NhàQuê nè! Ô nào bánh, nào trái cây.

Mấy tháng sau tôi đi học ngành khác ở nơi xa. Khoảng thời gian nào đó giữa năm 1968, tôi về dưỡng quân và tà tà uống nước mía trong nhà lồng cũ chợ Bình Chánh (Gia Ðịnh) cạnh Quốc lộ 4. Chiếc xe đò Á Ðông xịch đỗ rước thêm khách, thầy trò vừa nhận ra nhau thì xe đã chuyển bánh; Ðó là lần trông thấy cô cuối cùng!

Bạn Tường Lam thân mến,

Hôm sau ăn sáng như đã hẹn trước xong, tôi chuẩn bị lên đường, bạn giao tôi hai chuyện: Thứ nhất chuyển quà bạn gởi cho Vân Bầu và Hải Ngò, thứ hai tìm tin tức về cô Quyên rồi bạn với tôi sẽ gởi về cô món quà chắc sẽ làm cô vui trong lúc tuổi già.

Cuối tuần kế tiếp tôi trở về nhà và làm ngay những điều bạn giao: Việc thứ nhất Admin làm suôn sẻ. Mấy ngày sau Admin email cho biết là cô đã qua đời cách nay mấy năm (và mới đây chính xác nhất NhàQuê được biết là cô mất ngày 23 tháng 7 năm 2003 sau mấy lần qua khỏi stroke; Nhưng lần "Tai Biến Mạch Máu Não, Brain Accident" thứ năm, lần cuối cùng kiệt lực Cô đã lìa bỏ chúng ta).

Tôi gọi liền cho bạn, không gặp và bạn về gọi lại tôi.

Tôi thông báo tin vừa nhận. Hình như phía bên kia giọng bạn nghẹn ngào chỉ lập đi lập lại mấy lần: Trễ quá, mình dở quá NhàQuê hở!

Tất cả ngưng lại thật lâu. Vĩnh Biệt cô Nguyễn Thị Kiêm Quyên!

Hình ảnh cô lưu giữ trong trí nhớ của tôi là con người khuê các, phúc hậu, hiền từ, đang hân hoan mang hoài bảo của mình bước xuống cuộc đời.

Câu kết tôi viết gì cho bạn đây?

NhàQuê 2006

NhàQuê
09-12-2011, 08:25 PM
Những "ngôi trường xưa Em học"


Đoản Rời: Chuyện Còn Nóng Hổi


Từ ngày có vụ BenTreHome tới giờ, tôi nhiều lần làm nhiều chuyện xưa nay chưa. Đó là người tiếp chuyện chưa bao giờ biết tôi hoặc quên bẳng đi.

Mấy tháng trước tôi gọi thầy Phan Ngọc Gia, về vài phương diện nào đó, tôi gọi thầy bằng anh cũng tiện và thân tình, tôi bắt quàng mấy thằng bạn mà thầy và tôi đều quen biết.

Nói đủ thứ chuyện từ Đông sang Tây, vòng quanh thế giới trong môt giờ. Anh gởi tôi mười mấy CD MéKong Ký Sự gói ghém thật cẩn thận. Tôi hứa coi xong sẽ ý kiến về ký sự truyền hình nầy. Mà tôi coi ba chớp ba nháng đứt đoạn nghĩa là tôi coi ké với Tư Lịnh của tôi khi nào tôi xong công việc BenTreHome trong ngày. Thành thử tôi vẫn chưa coi liên tục bất kỳ CD nào của toàn ký sự.

Tôi cũng không hiểu tôi bận chuyện gì mà không gọi thăm anh từ lâu, để hôm nào xin lỗi anh và luôn tiện lảnh ít bộ Truyện Tàu hôm trước anh khoe cho khỏi uổng công anh sưu tầm! Tôi thưa thớt vậy chứ tôi biết chắc có bạn khác sốt sắng làm việc đó thay anh em trong BenTreHome; Đó là Bổn Báo Đặc Phái Viên KIM NGÂN! Tạm ổn việc lễ nghĩa với thầy Gia.

Cái cô "phóng Viên nầy cùng "HỌ" như tôi, nghĩa là cùng nhà họ HỨA, hứa chứ ít khi nhớ mình hứa gì; Cô đừng thấy tôi nói vậy rồi nói non-stop nha! Tôi thí vụ cho cô biết là những chuyện như:"Đời Sống & Con Cái Ở Mỹ", "Ký Sự Du Nam Cali", "Ký Sự Du An Nam", "Bịn Rịn ...." ....Còn một lô nữa mà đợi hoài chưa thấy cô đưa lên hay là cô đang cộng tác viết độc quyền đâu đó ????

Nhưng không sao, bù lại cô chuyển cho tôi tin tức và hình ảnh về thầy Lâm Vĩnh Thế; vậy thì tạm tha cho cô lần nầy hỉ!!

Tôi gọi liền thăm thầy, rất tiếc không gặp. Cảm ơn cha nội nào chế ra cái máy ghi được ID người gọi và thầy Thế đã gọi lại tôi không lâu sau đó.

Việc đầu tiên là tôi xưng hô cấp bực số quân (Năm Học), đồng đội gồm những ai nổi tiếng, nhắc ra là thầy nhớ liền....Nhưng thầy không nhớ vì hình như phòng Giám Học lúc đó đổi tên Gs liên tục trên thời dụng biểu đưa xuống các lớp, vừa chép xong thời dụng biểu nầy là đã có thời dụng biểu mới. Tôi nhớ có tên thầy trong trường hợp nầy ....Vậy coi như có học thầy đi hay là học hụt! ...Dù sao tôi còn nhớ rất rõ là thầy dắt chiếc Mobylette đi vào bằng cửa phụ tức cửa nhìn thẳng ra nhà thủy tạ của Hồ Chung Thủy.

Thôi thì lại búa xua bao nhiêu chuyện, chuyện nào nhớ thì nói, hỏi nhau trước, vụt nghĩ là cúp liền giành chiếm đài liền để bên kia nói xong sợ mình quên đi.

Sau Kiến Hòa, thầy về trông coi thư viện Đại Học Sư Phạm rồi được học bổng du học Hoa Kỳ, lấy Master tại Đại Học Syracuse về ngành Thư Viện; khi hồi hương, thầy có dạy đại Học Vạn Hạnh, vì thế Đỗ Quang Hạnh, quản thủ thư viện /THKH được dịp học thầy hai lần trong hai lãnh vực khác nhau.

Trong tương lai gần BenTreHome sẽ đưa lên Diễn Đàn các bài nghiên cứu, biên khảo của thầy. Thầy hiện đã nghỉ hưu và không xa Toronto, Canada là bao

Cái khoái nhất là nhờ đó tìm ra được "tung tích" thầy Trương Phan Nam Minh và chị Dương Bích Liên, cựu học sinh THKH/ 1957*. * dấu nầy có nghĩa là tương đương vì chị chuyển về THKH thời chị học lớp Đệ Tứ, cùng năm với thế hệ 1957

Chị người Cần Thơ và thầy quê Long An mà Kiến Hòa đã trở nên thân thương; tôi có hứa cho chị nhập tịch Kiến Hòa nếu các bạn đồng ý cho tôi ẩm chức HỘ TỊCH.

Tôi mường tượng thầy và chị Bích Liên theo hình ảnh 45 năm về trước ở góc độ đứng tựa lan can dãy lầu nhìn xuống, trong khi chờ đợi chị gởi hình cũ mới. Vậy các bạn cùng tôi chờ đợi, không lâu đâu để xem DUNG NHAN MÙA .... của thầy Nam Minh nay đã Thất Thập Cổ Lai Hy mà tiếng nói vẫn còn sang sảng như đang còn trên bục giảng, vẫn đùa, vẫn tếu ... thiệt là đã!.

Bây giờ nói chuyện với quý vị thầy xưa rất thoái mái vì mấy "Ổng" ở xa lắm,nên dẫu cúp cua cũng chẳng làm sao mà "Ê mấy trò, vô đây học Pháp Văn" như thầy Bùi Văn Mạnh cho được!!!!

Trong một dịp khác, tới đây tôi sẽ ghi lại những dòng tâm tình, có lẽ là những xúc cảm vô bờ của thầy Nam Minh và chị Bích Liên khi tôi gọi thăm - Trước đây và ngay cả bây giờ "thầy cô" vẫn chưa biết về tôi.

Nhưng may mắn quá có Bùi Thị Ngọc Yến đâu mà gọi thăm chị Bích Liên cũng đúng lúc ấy. Cái Bà nầy thì biết tôi quá xá! Bà Yến nầy! Ta "Xóa Bỏ Hận Thù " Với Nhà Ngươi Rồi Đó! Tuần Sau Ta Sẽ Gọi, Hôm Nay Mother's Day gọi trật vì có vẻ Ta bị tuột chức thê thảm!

Sẽ có "Ân Oán Giang Hồ" vì thầy Thế chỉ chỗ thầy Nam Minh cho tôi- Tôi nghe thầy Minh nói "Để ổng biết tay tôi!" Chờ xem

Cuối cùng tôi báo cho các bạn một tin là tôi nói trúng bốc về vài chi tiết cụ Thân Sinh của thầy Nam Minh. Thầy phục tôi quá xá!! Thầy nói chưa bao giờ nói với bất kỳ ai chuyện nầy! Tôi cũng tự phục tôi nhớ dai hết biết.

Không dám thử thầy đâu!

NhàQuê May 06, 2007

NhàQuê
11-12-2011, 08:51 PM
Những "ngôi trường xưa Em học"


"Giá Phải Trả" Cho Cuộc Hành Trình



Xin giới thiệu cùng Quý Bạn

Bài viết trên báo The Times-Reporter/Ohio về "Hành Trình đi đến Ngày Nay" (Lời NhàQuê) của một bạn Chs/THKH : Tiến Sĩ LÝ THÀNH THÔNG (Tiến Sĩ Hành Chánh Quản Trị)






Journey to U.S. citizenship is survival story

By RENEE BROWN, T-R Staff Writer


TTL’s journey from South Vietnam to the United States represents not only 14,000 miles but also survival, struggle and sacrifice.

During the Vietnam War, L. was a member of the Vietnam navy, having graduated from the Vietnam Naval Academy in 1967. In 1970, he took command of the U.S. Coast Guard cutter Point Grey from Robert A. Montgomery of New Philadelphia and continued patrols of the Mekong Delta.

L. remained at the helm of the cutter until 1972 and was promoted three times to larger ships. He eventually was sent to the Vietnam navy headquarters at Saigon, now Ho Chi Minh City, where he worked in the human resources department of the 45,000-person agency.

The Vietnam War ended on April 30, 1975, L. said. Later that year, he was captured by the communists of North Vietnam and was imprisoned for six years. His wife, V. , and their 2 1/2-year-old son, N. , were left alone.

“All government officials and (military) officers were put into prison,” L. said. “There was no sentence. There was no hearing. They keep saying this was re-education. If you learn good, we release you. But they decide if you learn good or bad.”

L. said the next six years were spent at a variety of locations, but the menu – strictly rice – didn’t change.


“Their philosophy was, ‘If we feed you, you will either uprise or escape. If we don’t feed you, you are too weak to do anything,’” he said. V. , a high school teacher, was permitted to visit him only three times before his release in June 1981.

“I made plans to escape,” L. said. “I got out and I looked at my son and said there is no way we are going to stay here. I would have been dead. I could not have lived with them (communists). The opportunity over there is the opportunity to die.”

L. made connections with a man who had been in prison with him, and they worked secretly to build a 33-foot-long boat with a three-cylinder engine intended to carry 25 people. It took six months to accumulate all of the needed supplies.

L. , his son and 70 others embarked on a treacherous, three-day journey out of Vietnam. V. stayed behind but would escape by boat and reach the United States in 1984.

“It took three days to reach Malaysia,” L. recalled. “Communist boats were shooting at us. Five bullets hit the boat in the engine room. One (bullet) got in front of me and hit the clothes we brought with us. The clothes burned. If it had gotten a little bit further I would have died.

“I used all my knowledge as a skipper. We chased them before so we knew how to escape.”

Once in Malaysia, L. and his son stayed in a Malaysian refugee camp for six months before being transferred to a second refugee camp in Indonesia. Singapore was the next stop and from there they were flown to Seattle, Wash.

They arrived by plane in Fort Worth, Texas, on March 8, 1983, after having left Vietnam on March 20, 1982. A whole different way of life was in store.

“In Vietnam I had a job, I had a salary, I had no contact with civilians on the outside,” L. said. “Now I have to face reality. I have to pay rent, buy food, buy a car. I came here as a single parent with a 10-year-old son.”

After being unable to secure even a dishwashing job, L. enrolled in a two-year program to become a machinist through a federal program that helped retrain people who lost their jobs because of the war. L. was paid $2.75 per hour for 30 hours per week of training.

When N. was on summer break, L. took his son with him to the classes, giving him math problems and other things to study. The operators of the training class learned of N. ’s attendance and prohibited L. from taking him inside the building. So N. stayed outside in the car, and L. would run in and out, checking on him and giving him schoolwork to do.

“But we survived,” he said. “We learned a little here and there, father and son.”

Again faced with the task of trying to find a job, L. found one on the assembly line at the Fruehauf trailer factory. In 1992 he obtained a bachelor’s degree in career enterprise from the University of North Texas with a grade point average of 3.97.

Eventually he was hired as a claims representative for the Social Security Administration. He got a master’s degree in rehabilitation services and earned his doctorate in 2002. Since 2002, L. has been team leader of the Study Team for the SSA. He and his seven-member group study to see whether the program is working, and if not, why not.

L. became a U.S. citizen in 1989. N. , now 34, was a National Merit Scholar and graduated from Harvard University and from Uniformed Services University of the Health Services. He is a commander in the U.S. Navy and a pulmonologist at Camp Lejeune, N.C.

L. said working for a governmental agency in the United States is quite different from being a member of the Vietnam navy.

“There, the decisions were life and death,” he said. “Now here maybe we make a mistake and we can correct it and it won’t kill anyone. The nature of the job is different, but I am always loyal to the government. I believe in the integrity of government.

“The government may make mistakes, but it is not its intention to do that. The government tries to do good things for its citizens. It’s not a perfect place to live, but it is the best. There is no other place like this.”




Comrades again - Friendship forged in Vietnam withstands test of time

By RENEE BROWN, T-R Staff Writer


Comrades from the Vietnam War TTL. and Robert A. Montgomery pose for a photograph during a recent reunion in Montgomery’s residence at New Philadelphia.

T-R/Jim Cummings

Though they were reared on opposite sides of the globe, Robert A. Montgomery of New Philadelphia and L. of Elkridge, Md., share a brotherliness born of necessity.

The two met in 1970 in South Vietnam’s Mekong Delta. Ltjg. Montgomery of Squadron 13 of the U.S. Coast Guard was the skipper of the cutter Point Grey. About two dozen vessels, including the Point Grey, were sent to the vicinity to interrupt communist supply routes. L. (pronounced T. Lee) was his Vietnamese counterpart who eventually would take the Point Grey, rename her HQ722 and become her skipper.

The two men, now 62, and their wives, Cheryl Montgomery and VL., recently held a reunion in New Philadelphia.

Montgomery said the transfer of the cutter – part of the “Vietnamization of the war” – was similar to what the U.S. military is attempting to achieve in Iraq – to turn over control of the country to its residents.

“Fortunately L. spoke pretty good English,” he said. “We could communicate very well. He happened to be the same age as I. He graduated the same year from the Vietnam Naval Academy as I did the U.S. Coast Guard Academy.

“We are counterparts. We are equals. We had to learn to live together (and) we had to be able to fight together. We were very fortunate we had a friendship that developed through that.”

Over the course of about three months in 1970, Montgomery and his 15-man crew showed L. and his 15-man crew how to operate the ship that soon would be theirs. The cutter was an 82-foot-long vessel equipped with numerous weapons.

“He was a good comrade in arms,” Montgomery said respectfully. “I never had to worry when he was on the bridge and I wasn’t. He is a true warrior. Had they had an army like this man, they would have never lost the war.”

When L. took command of the ship in July 1970, Montgomery left his friend and returned to the United States.

“We were able to correspond until 1973,” Montgomery said. “Then I got no more letters. I figured he was dead or captured and my old boat was either at the bottom of the Mekong River or in the North Vietnamese navy. I did not hear from him for 30 years.”

Montgomery didn't know it, but L. was very much alive. He had survived six years of imprisonment at the hands of the North Vietnamese, escaped his country in a hand-built boat and eventually landed a job with the Social Security Administration. He became a U.S. citizen in 1989.

In 2000, L. was sitting in his Internet-equipped office in Dallas and decided to look up Montgomery’s name on the World Wide Web.

“I found a series of names, and I knew he was from Ohio,” L. said, recalling his dilemma of how to pick the right name. “A co-worker told me I’d just have to guess. The co-worker asked me what he did for a living and I said veterinary medicine.”

Montgomery said he had been in the process of applying to veterinary colleges while in the service. Through further research, L. found the office phone number for Montgomery’s Town & Country Veterinary Clinic at New Philadelphia, called it and left a message.

“The message said, ‘If this is the Robert Montgomery from the U.S. Coast Guard, call this number,’” Montgomery said. “The hair on my arms stood up. L. ’s name was not on the note, but (by) the phraseology and the question, I knew who it was.”

Montgomery didn’t hesitate to dial the number.

“‘I thought you were dead’ was the first thing he said to me,” L. said. The men spoke about 30 minutes and have kept in touch ever since. The L' s visit to the Montgomerys’ home last weekend was their first trip to Ohio.

TL. and VL' s son, N. , was married in 2005, and the Montgomerys flew to Washington, D.C., for the wedding. The two couples plan to visit Vietnam together in the future.

Although the veterans no longer have to discuss ships and survival, the level of respect each man has for the other is obvious.

“Now we talk about our families, our life experiences,” Montgomery said. “We talk a little culture. We talk about how much we appreciate being here and how fortunate we both are.”

NhàQuê
11-12-2011, 09:08 PM
Những "ngôi trường xưa Em học"


Đoản Rời : Tằm


Câu Chuyện dẫn nhập:

Câu Đố:

"ĐEM EM MÀ BỎ XUỐNG XUỒNG
CHÈO RA KHÚC VINH LỘT T(ươi) EM RA "

thì mà là : "NGHỀ ƯƠM TƠ TẰM "

Bến Tre quê mình, Ba Tri là vùng đất rất thìch hợp cho cây Bông Vải và Cây Dâu Tằm. Có cây dâu tằm nên việc ươm tơ là công đoạn thứ hai vậy.

Khoảng 60-70 năm về trước BaTri nổi tiếng về công việc nầy, nhất là "Tuýtxo (tussor) Batri" vang danh khắp Nam Kỳ Lục Tỉnh, SaiGon-ChợLớn cả đến Nam Vang

Nghề dệt vải và lụa dùng khung khổ nhỏ- khoảng 40cm-gọi là "vải ta" để phân biệt với "vải tây"-khổ vải 80cm-100cm.

Có lúc Pháp đem máy dệt khung sắt jacquart thử nghiệm, nhưng không thành công...nghề ươm tơ dệt lụa dần đi vào ... mai một .

Về Tơ tằm, có một nghề phụ nữa là...có những nghệ nhân dùng những "cái kén" vàng ươm " bông hình" trông rất...nghệ thuật, đẹp khỏi chê , bà con ơi !

(Phần râu ria, linh tinh về Tơ tằm nầy đến đây... là phải nhờ Anh NhàQuê phụ trợ, bổ túc thêm, cám ơn Anh lắm lắm...).

TươiDương .



Bác TươiDương ơi!

Gởi yểm trợ vài tràng đây!

Góp với ông bạn Tươi Dương, tôi xin gáy những gì tôi biết; Số là khi tôi còn nhỏ, lúc đó ở nhà tôi có dệt "vải ta" từ bông vải, nơi quê tôi lúc ấy hãy còn nhiều khung dệt và trồng rất nhiều bông nguyên liệu, có lẽ như thế nên con giồng quê tôi có tên là Giồng Bông chăng???


Còn về dệt lụa tơ tằm, thì gia đình chú ruột tôi truyền nhau nhiều đời, chú sống bên gia đình phía thím, đến lúc tôi bự rồi, tức học xong tú tài, mà chú thím tôi cũng còn dệt lụa. Khi gặp , thím tôi thường cho mấy lon hoặc chén nhộng đem về ăn cơm.

Lúc nhỏ tôi giữ trâu cho gia đình chú tôi, chú thím tôi không có con trai, định nuôi tôi làm con mà cực quá nên tôi trốn về và thay đổi cuộc đời từ khởi điểm đó.

Vì vậy tôi cũng biết chút ít về nghề tằm tang....Lâu quá tôi không còn nhớ nhiều chi tiết, tôi xin kể sơ lược nha!

** Lá dâu là món ăn "duy nhất" của tằm, có nhiều nhà trồng dâu để bán, bán nguyên một mùa lá, chứ không phải bán lẻ.

Đối với người nuôi tằm, nếu vườn dâu của mình không đủ phải mua thêm, phải tính trước chứ không phải đợi "Nước Tới Trôn Mới Nhảy" mà tằm phải được cho ăn đúng mức, chúng "ăn phát ham" nên tục ngữ có câu:"Ăn Như Tằm Ăn Lên" giống như ngày nay người ta nuôi tôm vậy, đến lúc rộ nhứt bán luôn...cho tôm ăn đủ sức...

Lá dâu hái xong phải xếp ngay ngắn vào cần xé hoặc bội, che đậy cẩn thận giữ cho tươi, xắt thiệt nhuyễn nếu tằm mới nở, còn rất là nhỏ. Nhỏ đến nỗi như mắt già hiện nay khó mà nhìn thấy chúng

** Giống: Một số lượng kén được giữ lại để làm giống, số còn lại đem ươm để lấy tơ, tằm trong kén lúc đó đã thành Nhộng, trụi lũi màu vàng nên có tục ngữ "Truồng Như Nhộng" là vậy.

Kén giống trong một thời gian bao lâu đó, con nhộng biến thành bướm, cắn kén ra ngoài; Bướm gieo và thụ giống giữa chúng và đẻ trứng.


** Trứng nở ra tằm con. Tôi không nhớ Bướm hay Tằm Con được gọi là con Ngài

Tằm mới nở ăn dâu xắt nhỏ rức , càng lớn thêm, dâu cũng xắt lớn dần, cho đến khi chúng tự ăn thẳng lá dâu còn nguyên.

Hình như do sức ăn của chúng hay số lần phải cho ăn trong ngày mà gọi là: Tằm ăn một, ăn hai ....Tuyệt đối giữ yên tĩnh trong khu vực các nông tằm, phải giăng mùng tránh muỗi cho chúng. Tóm lại là phải giữ cho chúng đừng mất sức lớn ....

Tằm khi lớn đúng mức, khoảng nhỏ hoặc bằng ngón tay út đôi chút, hình dáng là một con sâu. Về màu sắc từ màu trắng, xám xanh đến đúng tuổi thì ửng vàng.

Khi đó được đem thả lên giàn có bện rơm và nhánh cây cho chúng kéo kén, tức chúng làm tổ, nói cách khác là chúng nhả tơ để tự xây tổ KÍN riêng từ con một

** Hái Kén: Như đã nói, kén là tổ tự làm của một con tầm, chúng nhả tơ xây tổ, giấu kín mình trong đó " Ăn Dâu Thì Phải Nhả Tơ" mà người ta hay ví lấy từ sự kiện, hình ảnh đó

Khi tơ đã hoàn toàn nhả hết, tằm lột xác thành Nhộng trong đó, hoàn toàn khác hẳn hình dáng của con tằm

Tất cả kén được gỡ, hái từ giàn, tập trung chờ đem ươm sau khi chọn một số làm giống cho đợt kế tiếp ....

** Ươm: là công việc lấy tơ từ kén (như trái nhản, tơ vàng) thành sợi tơ, Kén được luộc trong nước nóng (Không phải nước sôi sùng sục... ???), người thợ ươm dùng đũa để kéo từng sợi tơ, quấn vào ống hoặc xa quay, trong lúc đó cũng dùng tay loại bỏ các "vướng" làm cho sợ tơ không suôn sẻ ....

** Kéo Chỉ: Các cuộn tơ khô được kéo thành chỉ (nhợ) đều đặn, sau đó chỉ mới được dệt thành lụa, việc nầy tương tự như dệt vải

Người mua bán tơ,mua tơ trong giai đoạn chưa kéo chỉ hoặc đã kéo chỉ rồi. Vì số lượng một đợt tơ chưa đủ để dệt thành một tấm lụa kích thước như mong muốn. Số mua được tập trung nhiều đợt mới đủ ....Lượng tơ tính bằng cân...

** Nhộng mà ông Tươi Dương đố chìm và chín, ăn được, vớt ra từ TRÃ ươm, Nhộng ăn khá ngon nhưng nhiều người không ăn được vì cứ nghĩ đến hình ảnh con tằm ở dạng Sâu ....Việc ươm tơ cực lắm, đòi hỏi tỉ mỉ chứ không như các cô chít khăn mỏ quạ trên sân khấu trong điệu múa "Ươm Tơ Tằm, Ta Kéo Tơ Dệt Áo ..." đâu; Tôi thường nhìn "chết bỏ" mấy bạn nầy ....Trông Lạ Làm Sao Ấy, Chao Ôi!!!!


*** Trong một Đặc San Xuân của Trường Trung Học Ba Tri một năm nào đó, cô Dương Thị Minh Ngọc, giáo sư của trường, người gốc Hà Đông, miền Bắc, có sưu tầm tài liệu nói về vì sao địa phương có tên là BA TRI.

Là chữ Việt Hán, Ba có nghĩa SÓNG , ý nói VÂN trên lụa ...nhiều tài liệu biên khảo về Bến Tre, về Nam Kỳ Lục Tỉnh cũng có nói tới

Ở đây tôi muốn nêu lên là Ba Tri có thời nổi tiếng về Tơ Lụa và nghề Tằm Tang (để dâu nuôi tằm) thịnh hành như một loại công ăn việc làm...nhiều tỉnh ven biển miền Trung cũng có nghề nầy và trước hơn....có lẽ cây dâu dễ trồng, xum xuê nhiều lá trên loại đất ven biển chăng???

Ngày nay người đông, đâu còn chỗ trống nào để trồng dâu nuôi tằm nữa....

Có việc trùng hợp là trái dâu có hình dáng y chang con tằm, vị ngót ngót như trái trâm, nhưng chỉ lén lén hái vì chủ vườn sợ mình oằn hay leo làm gãy nhánh dâu .... Khi hái lá trên cao người ta dùng thang...


Việc dệt Vải Ta cũng tương tự, khác là sợi từ bông vải .

Nếu Các Bạn Không Thắng Bớt Lại Thì NHÀQUÊ tôi NỔ tiếp cho đến khi có lịnh mới à nha.....Như việc rình rình hái lén trái bông non, ăn cho đỡ buồn miệng ... dưa chua giá bông vải ... giá bông vải xào tùm lum...Tôi biết nhiều bạn chưa "thưởng thức" món nầy lần nào ....

Tiện đây tôi xin kể một số loại dưa chua mà ở thành thị ít có bán hoặc không thấy bao giờ: Dưa môn nè, dưa bồng bồng nè, dưa giá bông vải nè, dưa củ cải con nè, dưa màng màng nè….Tất cả các loại dưa chua nầy chấm nước cá kho thì ….coi chừng thiếu cơm! Đó là chưa kể một số ở dạng làm chua cấp tốc tức bóp xổi

Khoảng năm 1955, họa sĩ Văn Cầm ở Ba Tri có dùng kén tằm để ghép thành hình của Lãnh Tụ thời ấy, NhàQuê tôi thấy hình rất giống, vì NQ chưa thấy người thiệt!!!!! Sau hơn có lần được nhìn Long Nhan

Tấm hình được đem trưng bày trong Hội Chợ Tỉnh năm 1957 (?), sau đó nghe nói đem treo nơi Cụ ngự, trong cái đêm Cụ kinh lý và ngủ lại Bến Tre. Không nghe nói họa sĩ có được tưởng thưởng gì không!!

Nhiều người mướn ông họa lại hình ông bà cha mẹ để thờ, NhàQuê thấy ông cặm cụi kẻ ô vuông trên hình cũ và vẽ hình mới theo kích thước đặt hàng.

Cái đặc biệt là người quá cố nào cũng được ông tặng cho đôi tay búp măng, ngón tay mũi viết, chân mang hài hoa hoặc giày hàm ếch ....được người nhờ vẽ ngợi khen vì ông bà cha mẹ mình trở nên sang trọng quá .....NhàQuê tôi biết chắc chắn quý cụ ấy, tay chai sần sùi lao động đồng áng, guốc máng cán dù vì lâu lâu đi đám cưới mới mang một lần bị phồng chân, chưa bao giờ xỏ chân vào đôi giày....

Ba tôi cũng được vẽ trong trường hợp đó, tôi thuyết phục mãi trong gia đình mới chịu thay thế bằng tấm hình chụp mà tôi đã nhờ tiệm hình phóng to lên, lúc đầu còn để một lúc cả hai khung...

Họa sĩ Văn Cầm còn làm thêm công việc giặt nón nỉ ....sau nầy còn thêm mở nhà trọ ....

Đó có lẽ là Nghệ Nhân mà bác Tươi Dương muốn nói chăng???

NhàQuê May 21, 2007

NhàQuê
15-12-2011, 03:42 AM
Những "ngôi trường xưa Em học"


Đoản Rời: Giữ Trâu

http://i28.photobucket.com/albums/c238/trongbtran/BTHGiuTrau01-1.jpg

"....Có trâu sẳn tằm tơ lúa má
Không trâu không hoa quả đậu mè
Lúa gặt cắt đã có trâu xe
Lúa chất bã để dành trâu đạp...."

Trong Lục Súc Tranh Công


Mấy năm tản cư, Ba Má dắt chúng tôi đến ở nhờ nhà người bác ruột, sau đó cất tạm một căn nhỏ cạnh bên hàng rào theo chiều dọc của vuông đất, có mấy dây khoai lăng củ tím, tôi nhớ rõ điều nầy, vì thường hay lặt mấy dái lủng lẳng đem lùi bếp, bùi hết kể!

Những ngày nghỉ không phải qua trường làng bên học, tôi lân la xin theo anh người giữ trâu mướn cho Bác tôi, để được cho cỡi trâu.

Ban đầu ngồi sau lưng ôm eo ếch anh…tiến lên một bước được ngồi đàng trước cầm dây dàm, khi đã thành tài rồi mới được tự mình một con.

Tính ra anh cũng có khiếu huấn luyện. Anh tận tâm truyền nghề cho, vì Bác tôi có cô con gái út mà anh “dòm ngó” nhưng phận ở đợ anh chưa dám “tiến xa hơn” , đây là dịp anh kết thân với tôi.

Anh lảnh chức dài hạn nầy có lẽ từ lâu lắm, vì ba anh cứ tới lấy tiền trước mấy năm liền rồi nướng hết vô sòng bài, anh cam phận.

Tôi trở thành thân tín của anh. Lâu về sau tôi đã lớn vào đời, nghe nói anh đi làm biển, có lưới, có ghe riêng, và đã nên gia thất con cái đầy đủ …, cũng mừng cho anh, vợ anh không phải là chị con bác tôi.

Trâu thả ra đồng tràn lan mùa khô, chúng hợp đàn, cạp cỏ gần nhau thân thiện, nếu có hục hặc thì không lâu sau đó thế nào bầy cũng có thêm mấy nghé nữa.

Mở dàm cho trâu tự kiếm ăn xong, đám chăn họp bày trò chơi hay bàn mưu tính kế, lục lạo hái trộm hoa quả, bắn chim hoặc gà vịt đấp bùn đem nướng,… dùng cho đỡ buồn miệng. Cái đáng nói là họ thảo và không tố khổ nhau ….

Có một lần khi qua khu vũng lầy gần nhà, lũ trâu bất thần phát chạy, mất thăng bằng tôi rớt xuống nước bùn đen đó, mười phần kể tiêu tùng rồi, vậy mà khi ngoi lên được, ảnh cười nói với tôi là: Trâu không bao giờ đạp giẫm lên người chăn nó ! Chỉ có Trời mới biết !

Sau đình chiến gia đình tôi trở về nhà cũ, có lần chú ruột tôi tới thăm và ngỏ ý xin tôi làm con, vì chú thím chỉ có hai cô con gái, tôi thì còn mấy em trai nữa, cả hai cô em nhà chú đều đến tuổi cập kê. Không lâu sau lần ấy, tôi ôm quần áo về nhà chú thím….

Trong lúc Ba Má tôi trồng bông dệt vải thì bên gia đình chú thím trồng dâu nuôi tằm dệt lụa truyền từ nhiều đời, nghề nầy phía bên thím. Bữa cơm nhập gia và nhận chức hôm đó có món nhộng rang. Chức gì ? Thưa chăn trâu cho chú tôi, trong nhà chỉ thừa có công việc đó …ai cũng bề bộn !

Tôi đã được đào tạo lành nghề rồi, không cần phải “tập huấn” gì lâu lắc, ban tối sau khi đã đốt un cho trâu xong, tôi còn công việc khác ngoài chòi ruộng gần rừng chà là toàn gai nhọn, tôi ngủ ở chòi một mình gần như giữa rừng, đặt và đổ bung …gần sáng mang tôm cá về cho thím hay hai cô em kịp chợ . Tôi thành người ở kiểu mới cho chú thím tôi . Tuổi thơ ngây đời tôi bắt đầu như thế đó !

Hôm nhớ nhà quá, tôi trốn về méc lại Ba tôi. Lập tức Ba và chú thím tôi mích lòng nhau; Ba Má tôi nghèo nhưng vốn thương con…cứ ngỡ chú thím xin về nuôi và đối xử với tôi như con ruột … Ba biểu ở nhà và cuối cùng tôi được đi học trở lại.

Đến cấp lớp nhì lớp nhất, hằng ngày tôi phải đi về khoảng năm cây số mỗi lượt để tới trường Quận, nơi đây có dạy tới hết bậc tiểu học.

Đường dẫn về hướng Tây đó phải băng qua cánh đồng rộng, trâu đen trâu cò gặm cỏ từng đàn vào mùa khô. Đám chăn trâu luôn phục kích tấn công học trò đi học về ….Vô hình chung học trò và chăn trâu là hai thái cực !? Phần thua thiệt bao giờ cũng về phía học trò.

Để hóa giải áp lực nầy, tôi phải nhờ mấy đứa bạn học ở cùng xóm địa phương với chúng, làm trung gian thương thuyết với mấy “cựu đồng nghiệp” của tôi bằng bữa gặp nhau có rượu đế, cá nướng trui …và cả thuốc thơm Cotab, Grand Prix nữa …Hòa bình được vãn hồi. Cổ nhân ta có câu “Mạnh Dùng Sức, Yếu Dùng Chước” là vậy.

Khoảng hai mươi năm trước đây, tôi gặp lại một trong số người hiếp đáp tôi lúc xưa trong một bữa tiệc ở Philadelphia, Pennsylvania. Tôi nhận ra anh và vui miệng nhắc lại thời thơ ấu đó, anh có vẻ không bằng lòng vì dường như anh muốn giấu tông tích mục đồng của mình. Thôi cũng được, sau nầy lỡ cùng trong họp mặt hoặc tiêc tùng mà lý tình không tới không được … tôi phải đứng xa xa tránh chào hỏi "đồng hương"…

Sau mùa gặt ở thôn quê, nhất là những đêm trăng, thường hay đạp lúa. Công việc nầy cũng nhờ trâu quần cho đến khi bã chín tức hạt lúa đã rụng hết. Sau đó lúa lép bị tách ra nhờ vê hoặc là quạt.

Cọng khô lúc đó đã thành rơm, đó là phần ăn dự trữ trả công cho trâu. Những người không có trâu riêng phải nhờ và cho không phần rơm cho người chủ trâu. Những đêm như vậy trẻ con rủ nhau chui vô đống rơm mới ngủ rất ấm....

Nhân năm Sửu sắp đến, ghi lại chuyện thật 100% nầy như một ôn vui, hồi đó trâu ngoài đem sức trong công việc đồng áng nặng nhọc còn là tài sản của nông dân ta. Nay cơ giới hóa, có lẽ không lâu trâu bị đào thải chăng ?!

Phần tôi phải chi cam phận chịu khổ làm con chú thím tôi; Thằng chăn trâu ấy sau nầy chắc là Bí Thư nầy Bí Thư nọ rồi. Biết đâu đó!

Hình như tôi đã cải được số trời ....

NhàQuê Oct 02, 2008

NhàQuê
17-12-2011, 03:45 AM
http://i28.photobucket.com/albums/c238/trongbtran/NQ33CanhChimBay01.gif



Những "ngôi trường xưa Em học"


Đoản Cuối: Lời Gởi Lại


Tôi yêu một ngày như thế, một ngày thư thả, xoa hai tay mình vào nhau trước khi bước xuống khỏi hiên nhà nắng nhẹ.

Tôi sẽ đến công viên, nơi ấy những cây cao cho tôi cảm giác mình nhỏ lại, để thấy tôi không là gì giữa hùng vĩ của đồi núi chung quanh, để thấy đám chim chóc hợp đàn dưới triền cạnh hồ kia, chúng chuẩn bị bay xa, chuyển mùa có lẽ!

Một ngày nào đó theo tự nhiên của tạo hóa, tôi sẽ biến mất khỏi hành tinh, như một sự công bằng bất di bất dịch để trở về cát bụi, cùng lúc ấy một hay nhiều sự sống khác bắt đầu.
Xin hàm ơn lần tôi được làm con người trên quả đất, làm nhân loại mà không phải là gì khác, giữa bao la nầy!

Tạ ơn Ba Má tôi nghèo nàn nhưng đã cưu mang, dưỡng nuôi tôi ngạt ngào thể tựa ca dao, để lúc gian nan lời dạy khuyên của NGƯỜI vẳng tiếng. Làm tôi thấy cuộc đời đáng yêu đáng sống, đã cho tôi hình hài lành lặn không chi mặc cảm gọi là...và muôn trùng hy sinh mà tôi ân sủng!

Cùng anh em, họ hàng nội ngoại xa gần đã chen chúc nhau giao cành gia phả, tôi làm nhánh rẽ xa dần rồi mất hẳn trong một ngày nào; Xin tạ lỗi!

Cúi xuống quê hương triền miên đau khổ đã vắt cằn khô cho mầm vươn khôn lớn nên người . Xin gởi về Vạn Dặm với bao giọt mặn xót thương từ giã !

Vẫy chào con người, đất nước thân yêu từ đây chuyện nợ vay đầy vơi đến hồi kết toán.

Cảm ơn con cháu cho tôi niềm vui yên bề, thành tựu!

Nụ hôn sâu gởi cho người con gái đã không ngại ngần chọn tôi đi bên; Nhà tôi ơi!

Những ngôi trường tôi đã qua , khép lại.

NhàQuê NOV 28, 2005


** Những "ngôi trường xưa Em học" như một thứ hồi ký của một người không có gì trọng đại để làm việc đó. Chuyện có thể kéo dài theo những đề tài gợi nhớ, hiện về từ ký ức. Truyện chấm dứt lúc nào cũng không làm cho toàn truyện mất liên tục; Do đó xin được giải thích vì sao Ðoản Cuối xuất hiện .

NhàQuê
17-12-2011, 03:51 AM
"Cuộc Hành Trình" của mỗi đời người, ai cũng phải trả đúng cái giá của nó. Mỗi xê dịch của thời gian, của không gian đánh dấu thành từng bài học. Đường đời chính là "Ngôi Trường" ; Ý nầy đã có từ lâu của các bậc Tiền Bối.

Còn nhiều, nhưng xin ngưng ở đây. Mong được thứ lỗi nếu có gì sơ suất.


Người viết các đoản văn nầy: NhàQuê



http://i28.photobucket.com/albums/c238/trongbtran/NQ33CanhChimBay01.gif

NhàQuê
24-06-2012, 04:53 AM
Những "ngôi trường xưa Em học"

Đoản Rời: Giả Dụ

Như cách nay 17 năm, chặng đầu tiên rời New York lúc nửa đêm đến Anchorage, Alaska khi nơi đây còn chưa thức giấc. Chuyến bay dài 7 giờ 10 phút, vượt 3369 dặm đường chim.

Gần 20 năm ấy, phi trường Anchorage chắc thay đổi nhiều, dù có khác lạ bao nhiêu với 1 giờ dừng chân ngắn ngủi, đi loanh quanh các cửa hàng miễn thuế chắc chẳng nhận ra những đổi thay ....chỉ thay đổi chăng là trong quyết định lần nầy không mua thêm quà tặng bạn bè như lần trước, khi mà lần ấy lúc ra khỏi TSN mới hay số quà xách tay nầy không còn đầy đủ.


Lần trước đây quá cảnh qua phi trường Kim Po của Nam Triều Tiên vào sáng sớm sương mù dày đăc. Kỳ nầy sẽ qua Tapei, Taiwan, chắc mệt mỏi lắm sau chặng thứ 2 vượt qua 4669 dặm bằng 9 giờ 40 phút tiếp bay, nghỉ chờ thêm 3 giờ ở phi trường Đài Bắc, Đài Loan, và

Chuyến bay thứ 3 lúc 9 giờ 20 phút sáng xuôi hướng Tây Nam 1379 dặm mất 3 giờ 20 phút để bay về đến Sài Gòn sao mà chậm thế hay tại lòng đang rộn ràng không tả xiết khi từ trên cao nhìn lại quê hương: Từ màu nước trong xanh như ngọc của biển, màu lam như tranh vẽ của núi đồi, màu lục mát rượi của rừng khi qua Vũng Tàu, Bà Rịa, Biên Hòa, lô nhô những nhà phía phải Thủ Đức, phía trái Thủ Thiêm ...Chào quê hương nhiều năm xa cách mà những lúc nhớ về chỉ biết nhìn bằng nắm đất đã gói theo thuở ra đi ....

Gần 24 giờ bay xuyên Đại Dương nối 2 Đại Lục ấy, không làm sao chợp mắt, miên man trong tâm tưởng, hình xưa ảnh cũ kết đan nhau thành dãy phim lúc liền lúc đoạn ....bình thường và bình thường

Có thể ít nhiều khác hơn.... bạn bè nói vậy, nhưng hề gì ...Một người đang tâm sự với chính mình

NhàQuê 17-04-2012

NhàQuê
24-06-2012, 04:56 AM
Những "ngôi trường xưa Em học"


Đoản Rời: Trên Nền Đất Cũ


Đứng trên vuông đất ngày xưa có căn nhà lợp lá nơi tôi được sanh ra, mảnh đất không hình vuông không hình chữ nhựt nhưng có hàng tre làm rào chạy dọc theo con lộ dẫn đến cuối làng và qua các xã lân cận.

Không cần phải hồi tưởng chi lâu, tôi cũng định ra đúng từng chỗ từng nơi của từng cây duối, cây xù đâu ngay cả những cây xương rồng, cây dù mè vốn vô dụng .

Cái vườn trầu lá xum xuê vàng hực, dây leo quấn quýt nọc chùm ngây cả cái sàn nước bằng cây còn nguyên chưa tróc vỏ, lâu ngày từng chùm núm mèo mọc tự nhiên. Để thấy lại cái nghèo đeo đẳng tuổi thơ anh em tôi, chúng tôi đứng tắm hoặc cho Má kỳ hòm bên cạnh sàn nước ấy và Má tôi thường phải tắm vào ban đêm hoặc mặc nguyên quần áo bùn đất vừa về từ ruộng .

Chỉ còn tuần lễ nữa thôi, anh em tứ tán của tôi hẹn nhau về gặp mặt nhân giỗ Ba mình . Sẽ hàn huyên ôn lại cuộc đời từng đứa nay đã thành ông bà nội ngoại cả .... , đáng lẽ ra có đứa đã là ông cố nếu các cháu không vì chuyện học hành mà lập gia đình sớm . Có thể đây là lần xum họp cuối cùng mà chính các con tôi xếp đặt cho ....

Tôi đã toại nguyện cho dù bao phiền phức vây quanh

NhàQuê 03-05-2012