PDA

Xem phiên bản đầy đủ : Bài thơ THU HỨNG KỲ 1 của Đỗ Phủ



nguyenxuan
06-03-2019, 03:43 PM
Về bài thơ THU HỨNG KỲ 1 của Đỗ Phủ được chọn dạy trong SGK Văn học 10 giai đoạn 1990-2006, SGK Ngữ văn 10 giai đoạn từ 2007 đã có rất nhiều người dịch ra thơ Đường luật hoặc thơ lục bát. Xuân Đào cũng thử tra cứu và dịch thử. Nhưng càng dịch càng thấy không thể diễn tả được ý thơ của Đỗ phủ.
Và cuối cùng đã cho ra đời 6 bản dịch về bài thơ này trong mấy buổi tối đầu xuân Kỷ Hợi. Khi dịch xong bản thứ nhất, XĐ thấy không cùng bảng luật với nguyên tác nên dịch bản thứ 2. Càng dịch càng thấy không thoả mãn.

Bản thứ 1. CẢM HỨNG MÙA THU
(Thơ Đỗ Phủ)

Rừng phong sương móc cứa tơi bời
Hẽm, núi thu luồn khí lạnh rơi
Cửa ải mây sà ngang mặt đất
Lòng sông sóng nhảy tận lưng trời
Hai lần cúc nở tuôn dòng lệ
Một chiếc thuyền xuôi náu cuộc đời
Mùa lạnh muôn người đang cắt áo
Xao chiều Bạch Đế nhịp chày khơi!

Nguyên Xuân - dịch
7/2/2019

Bản thứ 2. CẢM HỨNG MÙA THU
(Thơ Đỗ Phủ)

Sương phủ rừng phong héo hắt vờn
Tiêu điều Vu giáp lẫn Vu sơn
Lòng sông dậy sóng trời thăm thẳm
Cửa ải choàng mây núi chập chờn
Giọt lệ rơi thầm chùm cúc cũ
Vườn quê buộc chặt mảnh thuyền đơn
Mùa sang tiết lạnh cần dao thước
Bạch Đế chày khua tiếng đổ dồn!

Nguyên Xuân - dịch
7/2/2019

Bản thứ 3. CẢM HỨNG MÙA THU
(Thơ Đỗ Phủ)

Móc phủ rừng phong héo úa vây
Làng Vu núi hẽm khí tiêu gầy
Lòng sông sóng dậy trời in nước
Cửa ải sương tràn đất tiếp mây
Một chiếc thuyền neo tình níu buộc
Đôi phiên cúc nở lệ rơi đầy
Người may áo lạnh tìm dao thước
Bạch Đế hoàng hôn trỗi nhịp chày.

Nguyên Xuân
8/2/2019

Bản thứ 4. CẢM HỨNG MÙA THU
(Thơ Đỗ Phủ)

Héo hắt rừng thông ngọc lộ sa
Non cao mờ mịt vạt sương sà
Dòng sông sóng dựng in trời thẳm
Mặt đất mây choàng lấp ải xa
Cúc nở đau lòng vương khoé lệ
Thuyền đi vọng bến nhớ quê nhà
Nơi nơi tiết lạnh chờ may áo
Đập vải chày rung đổ bóng tà!

Nguyên Xuân - dịch
8/2/2019

Bản thứ 5. CẢM HỨNG MÙA THU
(Thơ Đỗ Phủ)

Sương đọng rừng phong cảnh úa vàng
Non mờ hiu hắt khí hàn loang
Dòng sông sóng cuộn trời in nước
Mặt ải mây giăng đất phủ màng
Giọt lệ chan đầy nơi khóm cúc
Quê nhà gắn chặt chiếc thuyền nan
Người ta hối hả may đồ lạnh
Bạch Đế tung chày tiếng dội vang!

Nguyên Xuân - dịch
8/2/2019

Bản thứ 6. CẢM HỨNG MÙA THU
(Thơ Đỗ Phủ)

Héo hắt rừng phong dạ cảm thương
Non cùng núi thẳm cảnh thê lương
Dòng sông sóng cuộn trời in bóng
Cửa ải mây choàng đất phủ sương
Cúc cũ chan thêm dòng lệ chảy
Thuyền đơn buộc chặt khối tình vương
Nơi nơi giục giã tìm dao thước
Đập vải rung thành níu tịch dương!

Nguyên Xuân - dịch
9/2/2019

.................................................. ......

秋興其一
玉露凋傷楓樹林,
巫山巫峽氣蕭森。
江間波浪兼天湧,
塞上風雲接地陰。
叢菊兩開他日淚,
孤舟一繫故園心。
寒衣處處催刀尺,
白帝城高急暮砧。


THU HỨNG KỲ 1

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Đỗ Phủ
(Năm 766)

Dịch nghĩa của Đỗ Bằng Đoàn

Móc ngọc tơi bời ở rừng phong,
Khí ở núi Vu và kẽm Vu ảm đạm mịt mờ.
Trên sông, nước và trời cùng trôi chảy,
Ngoài ải, gió và mây liên tiếp mù đất.
Cúc từng chòm nở hai lần dòng lệ xưa,
Thuyền lẻ loi buộc chặt mối tình quê cũ.
Nơi nơi giục giã dao thước may áo rét,
Tiếng chày chiều dồn dập thành cao Bạch Đế.
Đỗ Phủ
(Năm 766)

Bài thơ này được sử dụng trong các chương trình SGK Văn học 10 giai đoạn 1990-2006, SGK Ngữ văn 10 giai đoạn từ 2007. Đỗ Bằng Đoàn dịch nghĩa và chú giải. Bùi Khánh Đản dịch thơ.
.........................................

DỊCH RA THƠ ĐƯỜNG LUẬT

1. Bản dịch của Bùi Khánh Đản

Sương đọng rừng phong héo hắt cây
Vu Sơn, Vu Giáp, khí mù bay
Trên sông sóng cuộn, trời liền nước
Ngoài ải hơi đùn, đất giáp mây
Một chiếc thuyền đơn tình cũ buộc
Hai phen cúc nở lệ xưa đầy
Nơi nơi áo lạnh tìm dao thước
Bạch Đế chiều hôm rộn tiếng chày.

2. Bản dịch của Nguyễn Công Trứ:

Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay đao thước,
Thành Bạch, chầy vang bóng ác tà.

3. Bản dịch của Ngô Tất Tố:

Vàng úa rừng phong, hạt móc bay,
Non Vu hiu hắt phủ hơi may.
Dòng sông cuồn cuộn, trời tung sóng,
Ngọn ải mờ mờ, đất rợp mây.
Lệ tủi: sợ coi chòm cúc nở,
Lòng quê: mong buộc chiếc thuyền đầy.
Giục ai kéo thước lo đồ lạnh,
Đập vải trời hôm rộn tiếng chày.

4. Bản dịch của Khương Hữu Dụng:

Móc trắng rừng phong vẻ úa gầy,
Vu Sơn, Vu Giáp khí thu dày.
Lòng sông sóng tận lưng trời nhảy,
Đầu ải mây sà mặt đất bay.
Lệ cũ nở hai mùa cúc đó,
Lòng quê buộc một chiếc thuyền đây.
Nơi nơi áo lạnh địi dao thước,
Bạch Đế thành hôm rộn tiếng chày.

5.Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu

Rừng phong xao xác móc thê lương
Vu Giáp Vu Sơn luống thảm thương
Trời ngút sông dài làn sóng dậy
Đất liền ải vắng bóng mây vương
Đôi chòm cúc nở tuôn dòng lệ
Một chiếc thuyền neo nhớ cố hương
Giục giã thước dao may áo rét
Chày khua Bạch Đế rộn tà dương.

Nguồn: Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hoá, 1997

6. Bản dịch của Hải Đà

Sương ngọc điêu tàn cây lá phong
Âm u Vu Giáp lạnh như đồng
Đất trời tiếp tiếp non cùng nước
Mây gió ùn ùn núi với sông
Tùng cúc hai lần rơi lệ uất
Đò đơn một độ khóc quê ròng
Thấu xương cơn rét cần may áo
Bạch Đế chày buông tiếng chập chùng.

7. Bản dịch của Thích Quảng Sự

Thê lương sương phủ ủ rừng phong
Vu Giáp Vu Sơn ảm đạm buồn.
Ải tiếp gió mây hòa đất lạnh
Sóng đùa sông nước hợp trời tung.
Hai mùa cúc nở còn vương lệ
Một chiếc thuyền tình mãi sắt son.
Đan áo nơi nơi cho giá rét
Giục chày thành Bạch mỗi chiều buông.

8. Bản dịch của Phụng Hà

Hiu hắt rừng phong sương lắt lay,
Vu Sơn u ám khí thu bay.
Sông dài, sóng lộng tung trời thẳm,
Ải cao, đất hiểm tiếp mây dày.
Khóm cúc còn khơi dòng lệ tủi,
Tình quê mãi buộc chiếc thuyền này.
Thu lạnh nhà nhà may cắt áo,
Thành Bạch chiều hôm rộn tiếng chày.

9. Bản dịch của Phí Minh Tâm

Rừng phong sương trắng cảnh tiêu điều
Hiểm trở ngàn non thu hắt hiu
Sóng vọt lưng trời sông cuộn cuộn
Mây sà mặt đất ải cô liêu
Hai lần khóm cúc khơi nguồn lệ
Một lượt con thuyền trói dấu yêu
Dao thước rộn ràng may áo lạnh
Chày vang thành Bạch bóng về chiều.

10. Bản dịch của Lê Văn Phong

Sương trắng, rừng phong sắc úa xuân,
Hai Vu khí lạnh toả căm căm
Dòng sông sóng nổi tung trời múa;
Chóp ải mây buông tiếp đất giăng.
Lệ khách nhỏ hai lần cúc nở;
Lòng quê ước một bận thuyền găm.
Áo mùa rét giục nơi nơi gấp,
Bạch đế chiều hôm rộn tiếng châm.

11. Bản dịch của hieusol

Sương tỏa rừng phong sầu úa tàn
Non Vu hiu hắt heo may lan
Giữa dòng sóng cuộn tung trời thẳm
Bên ải mây vờn phủ đất hoang
Rớt lệ theo hai mùa cúc nở
Thương quê níu một chiếc thuyền nan
Nơi nơi hối hả may áo lạnh
Thành xa chày giục bóng chiều sang

12. Bản dịch của Hung Trandang

CẢM HỨNG THU KỲ 1
(ĐỖ PHỦ)

Sương như ngọc đầy rừng phong Thu
Hẻm núi Vu khí tỏa mịt mờ
Trên sông mây nước giao hòa
Ngoài ải gió cuốn mây sa mịt mờ

Lệ ai nhòa cúc tùng cùng nở
Thuyền cô đơn đậu, nhớ lòng xưa
Aó lạnh cần may nhà nhà
Thành Bạch chiều rộn rã khua tiếng chày

DỊCH RA THƠ LỤC BÁT

1. Bản dịch của Trần Trọng Kim:

Rừng phong xơ xác sương bay,
Vu sơn Vu giáp hơi may lạnh lùng.
Ngất trời sóng dội lòng sông,
Mịt mù mặt đất, mây lồng ải xa.
Con thuyền buộc mối tình nhà,
Hai lần cúc nở, lệ sa hai hàng.
Áo đông may cắt rộn ràng,
Tiếng chày đập vải, hôm vang Bạch thành.

2. Bản dịch của Thu Tứ:

Cảm hứng mùa thu

Rừng phong quạnh quẽ sương rơi
Non xa dáng cũng buốt hơi thu rồi
Lòng sông sóng nhảy lưng trời
Ải xa mặt đất bời bời mây giãng
Vàng hoa thôi lại ướt khăn
Thuyền côi nhớ bến bâng khuâng vô vàn
Rét lên thước, kéo rộn ràng (4)
Thành cao chầy nện âm vang bóng chiều.

_____________

Dịch nghĩa của Thu Tứ:

Cảm hứng mùa thu

Sương móc làm cho rừng phong tiêu điều
Núi Vu, khe Vu hơi thu hiu hắt
Mặt sông in trời, sóng như nhảy tận lưng trời
Trên cửa ải mây giãng sát mặt đất
Bụi cúc nở hoa bấy nay đã hai lần làm rơi nước mắt (2)
Lòng nhớ quê chỉ còn biết buộc vào chiếc thuyền lẻ loi này
Ở đây ai nấy đều đang lo cắt may áo rét
Trên thành Bạch Đế cao, tiếng chày giặt áo về chiều nghe hối hả.(3)

(1) Tham khảo:

- Thơ Đường, nxb. Vãn Học, VN, 1987

- Đường thi trích dịch, Đỗ Bằng Đoàn dịch nghĩa và chú giải, Bùi Khánh Đản dịch thơ, nxb. Vãn Học, VN, 2006.

(2) "Tùng cúc" nghĩa là bụi hay khóm cúc. Chúng tôi thiển nghĩ có lẽ đó không phải là bụi cúc trồng ở vườn xưa, mà là một bụi cúc chở theo trên thuyền đã hai năm, cứ mỗi lần nở lại làm chủ thuyền nhớ nhà rơi lệ.

(3) Người Tàu xưa giặt áo, giặt vải bằng cách đặt lên một tảng đá rồi dùng chày mà nện. Khi rét về, cần áo ấm, có thể giặt áo cũ hoặc giặt vải để cắt may áo mới.

(4) "Đao xích" nghĩa là kéo và thước may, theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh. Vậy "đao" đây là "tiễn đao", tức là cái kéo.