PDA

Xem phiên bản đầy đủ : Thơ BÙI THANH KIÊN (Thơ Truyện "Đồi Mai Vùi Kiếm" & Thơ Các Thể Loại)



NhàQuê
13-11-2011, 12:50 AM
ĐỒI MAI VÙI KIẾM

- Tác Giả: Huyền Hạc BÙI THANH KIÊN

-Người Đăng: NhàQuê


Tác Giả:

http://i271.photobucket.com/albums/jj123/nhukieu_1/BuiThanhKien.jpg

- Tên thật: Bùi Thanh Kiên

- Bút Hiệu: Bùi Thanh Kiên, Huyền Hạc, Hải Chu, Nam Chi ...

- Hiện cư ngụ tại Sài Gòn


Tác Phẩm:

- Truyện Thơ ĐỒI MAI VÙI KIẾM -

- Tuyển Tập Thơ Hải Chu - Huyền Hạc
(Đường và Xướng Họa, Lục Bát, Mới, Vườn Quỳnh)

- Phương Ngữ Trong Ca Dao Nam Bộ -

- Nói Lái - Một Lối Chơi Chữ Trong Dân Gian -

- Từ Điển Phương Ngữ Nam Bộ (Nam Chi BÙI THANH KIÊN) -
(Hội Văn Nghệ Thuật Nguyễn Đình Chiểu Bến Tre Xuất Bản)




ĐỒI MAI VÙI KIẾM

của Huyền Hạc, bút danh của anh Bùi Thanh Kiên, cựu GS/TH Kiến Hòa

Tập Thơ Truyện nầy trải dài 4554 câu không kể các Bài Biểu, Văn Tế, Thơ Phó Thác ...,

gồm Phần Mở Đầu, Bảy HỒI và Phần Kết Thúc

Đây không đơn thuần là Tập Thơ Truyện bình thường

mà là một Tỷ Sánh, Liên Hệ Cổ Kim và Nhất Là Chuyển Tải Tâm Sự.....

Xin được giới thiệu đến các bạn

và mời xuyên suốt thưởng ngoạn

NhàQuê



http://www.bentrehome.net/trong/BN46.jpg


Tập truyện thơ


ĐỒI MAI VÙI KIẾM:


Mấy lời tự ngôn:


Văn chương vốn dĩ là cái của báu của con người. Nó muôn đời nay vẫn giữ được nét thanh tân cao quí của nó. Vậy mà trong đời biết bao nhiêu kẻ vô sỉ lạm dụng cái ảo diệu thần kỳ, cái hào quang của nó để mê hoặc lòng người, xum xoe miệng lằn lưỡi mối để xu nịnh hòng tìm cầu chút manh áo miếng cơm. Bổn thân tôi thì không, không bao giờ. Bước vào cuộc đời thân trần lưng trụi, mảnh vải che thân cũng phải nhờ xã hội thì sống trên đời có cần gì cái lợi cái danh? Tôi tâm niệm: sống là nhập cuộc, là xuống thuyền (Nous sommes embarqués), đóng xong một vai trong tấn trò đời rồi lại phiêu du lưu diễn nơi khác. Đi vào đời là một bổn phận, một trách nhiệm chớ không phải để ma mảnh kiếm tiền, đoạt của thiên hạ sống sung túc giàu sang. Cuối đời nhìn lại, có nhiều kẻ còn sống như đã chết, trốn vai diễn mà cuộc đời giao để chun vào cánh gà ngủ say mặc cho thế sự. Cũng có những kẻ diễn tồi mà vẫn đòi thù lao trọng hậu, cố xin những vai đội mão mang râu để khỏi dọn lớp, kéo màn. Đóng vai vua chẳng ra vua, quan chẳng ra quan mà vẫn nghinh ngang tự đắc, tự cho mình là nhơn vật trọng yếu, không có mình thì màn kịch, vở diễn sẽ chảy re.

Kẻ bất tài muốn chiếm địa vị cao phải ngoác mồm nói phét. Tôi từ chối hành động của bọn vô lương lạm dụng tánh chất cao thượng vô tư của văn chương để hùa theo tội ác.

Viết tập truyện thơ nhỏ này là tôi chỉ muốn nói chuyện với riêng mình và các mặc khách tri âm tri kỷ. Thế giới của nó thu gọn trong hột cải mòng, trong đầu kim nhỏ xíu an bình giữa cái thế giới bao la bát ngát mà hỗn độn xô bồ của giống người cư xử với người như loài lang sói.Sự kiện lịch sử đời Đường chỉ là một phần nhỏ, còn bao nhiêu là phiêu bồng trong sương trong khói, còn lại bao nhiêu là mỏi cánh hạc bay trong thế giới huyền nhiệm của ước vọng tâm tư. Ta mơ ước một mẫu người hoàn thiện sống trong một xã hội thuần lương. Tinh hoa triết lý tam giáo hòa quyện vào nhau phối hợp với hồn thiêng sông núi tạo ra một mẫu người, một xã hội như vậy. Dùng cảnh để gợi tình rồi cũng dùng cảnh mô tả tình. Cảnh và tình hòa quyện lấy nhau thành một thế giới ý niệm bất phân ly không biên cương mà cũng không thể tách riêng ra được. Đừng bao giờ đặt vấn đề nhơn vật kia, địa danh đó có thiệt không, giữa nơi này xa cách nơi kia là bao nhiêu dặm, sao không nghe nói trong chánh sử? Tất cả chỉ là nét phóng bút thô kịch theo dòng tâm tư nhưng cố tạo ra một thế giới thuần ý niệm,-người đời cho là đúng cũng đúng, cho là sai thì cũng đúng. Nó có phải viết cho đời đâu mà phê phán?-Không lẽ quá vô công rồi nghề, mà lấy con mắt nhị nguyên vụn vặt để nhận xét bàn tán chuyện của người. Bản thân tôi vốn dĩ rất ghét bọn lấy tâm lý hẹp hòi của mình để suy đoán chuyện của thiên hạ. Hãy coi nó như một thực thể vô hại có mặt trên đời này. Hãy để nó yên và đừng bao giờ bận tâm tới nó.



*
* *


Ngẫu hứng


(đề tựa tập Đồi mai vùi kiếm)


Riêng tặng đám bạn bè xa vắng.
Miên man con sóng vỗ bờ,
Đất cay lửa hạ, trăng mờ thềm rêu.
Tay buồn gom nắng đìu hiu,
Hong tơ mướt cũ một chiều chiêm bao.
Tương tư tắt lối nguồn đào,
Lệ tình si đẫm nhịp cầu tầm tiên.
Lưng khòm nặng gánh nghiệp duyên,
Kiếp con tằm,-giấc ưu phiền ngàn năm.


Mùa hè 1972.




PHẦN MỞ ĐẦU:


1-Nghiệp duyên, canh bạc lộn sòng,
Sấu hùm bỏ rọ, giam lồng mà chơi!
Thân tàn, chí luyến mây trời,
Xây nền lễ trị, dựng đời thăng hoa.
Chơn trần thương giọt máu pha,
Sân quê, mai nẩy chồi ba bốn lần.
Ngựa cuồng giậm vó bâng khuâng,
Nhớ ngày biển Sở sông Tần dọc ngang.
Chim chiều gọi nuối bóng tàn,
10-Cánh hồng mút mắt tách ngàn bay cao.
11-Canh dài, đợi sáng còn lâu,
Hắt heo bóng lẻ, giọt sầu giá đông.
Muôn ngàn con nước đục trong,
Hỏi về đâu?- Vẫn thuận dòng chảy xuôi.
Đất kia, bồi lở lở bồi,
Phù sa doi vịnh, bùi ngùi dấu xưa.
Lầu vàng gác tía, ai ngờ,
Hoang vu phủ lớp bụi mờ thời gian.
Mượn oai mưa gió chiến tràng,
20-Nên công hiển hách giữa làng giáo gươm.
21-Cũng theo nắng úa chiều hôm,
Phôi pha tắt ngấm lạc vòm trời mây.
Ai say, ai tỉnh đời này?
Dại khôn rồi cũng ra ngoài gò hoang.
Hụp sâu dòng đục Thương lang,
Vàng phai, thắm dợt, ngỡ ngàng nét son.
Cảnh phù du có gì còn?
Song trăng gác lạnh, nghe hòn sỏi rơi.
Vào đời: nhập cuộc đùa chơi,
30-Tàn canh: giủ áo bước dời lối xa.
31-Giấc trăm năm, cõi người ta,
Thảnh thơi, ngắm sắc yên hà mới hay.
Phòng văn hé cánh mưa bay,
Trà lan khơi mạch, một hai góp lời.

Chú thích:

Nghiệp: (Ph): ảnh hưởng việc làm trong kiếp trước mà mình phải gánh chịu trong kiếp này.
Duyên: (Ph): điều kiện đưa đẩy để tạo ra nghiệp.
Lễ trị: (Nho) - dùng lễ, đức dộ để trị dân, khác vớii pháp trị là dùng luật lệ, hình phạt.
Thăng hoa: vươn lên tới chỗ tốt đẹp.
Hồng: loại chim lớn có cánh rộng, bay cao và xa,-chỉ người anh hùng có chí lớn.
Câu 23-24: lấy ý trong hai câu thơ cổ:
Hiền ngu thiên tải tri thuỳ thị,
Mãn nhãn bồng cảo thổ nhứt khâu.
(tạm dịch: Những kẻ dại khôn xưa nay là những ai?
Chỉ thấy khắp nơi một gò đầy cỏ dại)
Thương lang: sách Mạnh tử có câu:
Thương lang chi thuỷ thanh hề, khả dĩ trạc ngã anh,
Thương lang chi thuỷ trọc hề, khả dĩ trạc ngã túc.
(tạm dịch: nước sông Thương lang trong ư?-có thề giặt dải mũ của ta. Nước sông Thương lang đục ư?- có thể rửa chân ta).
Phù du: (éphémère)- con thiêu thân, sinh vật nhỏ, đời sống chỉ kéo dài một ngày, thường lao đầu vào ánh sáng đèn đêm.

NhàQuê
13-11-2011, 12:52 AM
HỒI THỨ NHỨT:

TRƯỜNG AN THẤT THỦ, HUYỀN TÔN TỚI CẨM THÀNH,
ĐỒNG QUAN SA CƠ, ANH HÙNG LÂM MẠT LỘ.


A-LOẠN AN LỘC SƠN.


35-Trung nguyên sóng gió tơi bời,
Sông khô núi sụp, đổi dời phù vân.
Tôi loàn con giặc Lộc Sơn,
Tiếm xưng đế hiệu, khinh lờn điện loan.
Đất bằng sấm nổ sét vang,
40-Xiên đồn đạp luỹ, phá tan thành trì.
41-Thói thường quỉ lộng thời suy,
Quốc Trung là đứa vô nghì ác gian.
Ngựa trâu tầm loại hợp đoàn,
Manh tâm xô ngã miếu lang Đường trào.
Hương trời sắc nước bấy lâu,
Tấn cung Dương thị làu làu bóng gương.
Gác son kín cổng cao tường,
Gấm phong lụa rũ hải đường mặt hoa.
Lan vóc ngọc, huệ da ngà,
50-Thẹn thua dung mạo, Hằng nga khom mình.
51-Minh mông biển ái trời tình,
Hồ thu dợn sóng long lanh đầu mày.
Vẫy vùng thước kiếm khiên mây,
Dễ no đáy mắt đầu mày hường nhan!
Ngửa nghiêng nệm thuý màn loan,
Vườn lê tơ trúc rộn ràng thâu đêm.
Cầu vồng rỡ áo ngời xiêm,
Men lừng lửa dục, lòng mềm dáng xuân.
Bướm già si sắc hoa rừng,
60-Ác tà thỏ lặn tưởng chừng phút giây.
61-Trễ tràng triều ngự hôm mai,
Nỗi dân việc nước đoái hoài chi đâu.
Mây mưa càng đắm càng sâu,
Võ vàng long thể, âu sầu hình mai.
Éo le con tạo khéo bày,
Non mòn sông cạn hoạ tai gần kề.
Biên cương lửa ngập trời mê,
Chập chùng xương chất, bộn bề thây phơi.
Ngư Dương trống thúc chiêng hồi,
70-Quân reo dậy đất, núi đồi chuyển nghiêng.
71-Lũ cuồng thác loạn mọi miền,
Chẻ tre, nát ngói, binh Yên ập vào.
Cam Tuyền chìm giữa ba đào,
Dập dìu quỉ dữ xôn xao lạ thường.
Ngoài thành, vút múa nanh giương,
Bình Lư hợp sức Phạm Dương dấy loàn.
Mưu thần chước thánh khó toan,
Thở dài bó gối khôn đường tới lui,
Hôi tanh, sâu bọ lằng ruồi,
80-Bu đeo hào luỹ, dập vùi cỏ hoa.
81-Điều binh khoá chặt đường ra,
Sục sôi lửa giận bốc hoà máu say.
Được thua, quyết chỉ trận này,
Danh thơm cõi suối làng mây muôn đời.
Sá gì tên lạc đạn rơi,
Sử xanh bia miệng nối lời muôn thu.
Chốt đầu chận lối Thành Đô,
Kình Dương ải vững, cơ đồ mới an.
Trướng hùm, tướng sĩ luận bàn,
90-Ngăn đường giặc tấn, bảo toàn đế kinh.
91-Thuồng luồng quấy động biển xanh,
Cọp điên cậy sức băng gành ào qua.
Đông tàn, bấc lạnh cắt da,
Lộc Sơn mở thế trận ra tung hoành.
Vạc kêu sương hé bình minh,
Sói lang cản lối, ngạc kình ngăn sông.
Ra oai rõ mặt anh hùng,
Đẩy lui sóng gió vẫy vùng dọc ngang.
Bày xe, dọn pháo rộn ràng,
100-Cửa viên dạ sắt gan vàng giáp công.
101-Cao xanh đành đoạn phụ lòng,
Bọc thây da ngựa tận trung dưới cờ.
Phách nương gió phất dật dờ,
Con thơ, vợ dại,-bơ vơ tìm về.
Nực nồng máu nhớp bốn bề,
Điêu tàn cõi ấy, thảm thê dường này.
Ô chuỳ gió thốc bụi bay,
108-Trường An tốc thẳng nội ngày tới nơi.


CHÚ THÍCH:

-Trung nguyên: (cn: trung thổ): chỉ Trung quốc.
-Phù vân: mây nổi, do câu thơ Đỗ Phủ:
Thiên thượng phù vân như bạch y,
Tu du hốt biến vi thương cẩu.
(Đám mây nổi trên trời giống như chiếc áo trắng,
Bỗng chốc biến thành con chó xanh)
:chỉ sự thay đổi mau lẹ nhanh chóng của cuộc đời.
-tiếm xưng đế hiệu: tự xưng làm vua.
-điện loan: nơi vua ngự, chỉ triều đình.
-Kim loan điện: điện của vua thiên tử,
-Ngân loan điện:điện của vua chư hầu.
-Quốc Trung: tức Dương Quốc Trung, tễ tướng nhà Đường, anh ruột Dương quí phi.
-Vô nghì: (nghì, đọc trại từ chữ nghĩa): gian trá, bất nhơn bất nghĩa.
Không râu là đứa vô nghì,
Đàn bà không vú, lấy gì nuôi con?
(ca dao)
-ngựa trâu tầm loại: do câu:" Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã" (trâu tìm trâu, ngựa tìm ngựa),-ý nói người xấu tìm kẻ xấu để kết bạn.
-miếu lang: (cg: lang miếu), (miếu: chỗ thờ các vua đã băng hà; lang: chỗ các quan làm việc): chỉ triều đình.
-tấn cung: đưa đàn bà con gái vào cung để làm phi tần, cung nữ.
-Ngư Dương, Bình Lư, Phạm Dương:tên các địa danh mạn Bắc sông Trường giang, các cứ điểm nổi loạn của An Lộc Sơn.
-Cam truyền: địa danh phía Bắc Trường An.
-vút: (từ Nam bộ): móng vuốt.
-lằng: (Đ.ng: nhặng),- (từ Nam bộ):loại ruồi lớn, mình xanh bóng, mắt đỏ, bám bu thịt cá hôi thúi.
-cõi suối làng mây: chỉ cõi chết.
-Thành Đô: (cg: Cẩm Thành),- thủ phủ đất Thục (Tứ Xuyên).
-cửa viên: tức viên môn, lối ra vào có hai cây dáo gác tréo bên trên làm cổng, xung quanh là xe cộ vây kín,- chỉ chỗ đóng quân.
-Ô chuỳ: tên con ngựa của Tây Sở bá vương Hạng Võ,- dùng để chỉ ngựa chiến.

NhàQuê
13-11-2011, 12:55 AM
B-DẤU XE HẠNH THỤC.


Chợt nghe tin gấp rụng rời,
110-Trong tay cầm chắc đủ mười lao đao.
111-Hãi kinh, tôi chúa bôn đào,
Noi gương Huyền Đức lánh vào Tứ Xuyên.
Lẻn chuồn, bỏ mộ tổ tiên,
Nhọc nhằn trăm họ, oan khiên dân lành.
Hận tràn ngất ngọn mây xanh,
Cuốn phăng công đức bình thành lâu nay.
Ùng ùng gió giục mưa bay,
Nắng nung mặt rát, đường dài mắt hoa.
Màu chiều vàng ố bóng tà,
120-Mây giăng mù Mã Ngôi pha mịt mùng.
121-Nhạn đơn tiếng lẻ não nùng,
Trắng phau dặm cát minh mông đất trời.
Lìa nhành, nhớ cội,-lá rơi,
Sương pha quạnh núi, lệ trôi xót mày.
Băng truông lướt bụi mệt nhoài,
Vợ con đeo thẹo, chơn tay dắt dìu.
Nách mang tay xách đơn biều,
Cũng đành nhắm mắt theo liều quân đi.
Trẻ thơ có tội tình gì?
130- Ốm đau, bú mớm, bù chì, nào ai?
131-Già run, gậy lạc khỏi tay,
Bơ vơ đất lạ, rủi may vận thời.
Cỏ bồng tróc gốc bay khơi,
Thềm hoang rêu đậm, bước dời tha hương.
Mỏn hơi, tàn kiếp Vô thường,
Nắm xương vô chủ, lửa hương đâu nào?.
Xanh xanh trời mấy từng cao,
Tiếng than xé ruột, nỡ nào làm ngơ!
Trăng liềm thiêm thiếp bóng mơ,
140-Chim côi xa ổ, hững hờ về đâu?
141-Thẹn thùng nắng vắt nhành cao,
Nước khe cơm gói đi vào Mã Ngôi.
Tâm tư héo hắt theo người,
Ngày mai nào biết,-một đời tha hương.
Mặt chai, cát bốc bụi vương,
Lòng đau quán cỏ giường sương canh dài.
Tranh hơn thua, kiếp đoạ đày,
Trăm năm nháy mắt, đổi thay khó tường.


CHÚ THÍCH:

-Huyền Đức: tức Lưu Bị, nhân vật thời Tam quốc,chiếm Tứ Xuyên xây đại nghiệp nhà Thục Hớn.
-Hạnh Thục: chỉ nhà vua đi vào đất Thục.
-Mã Ngôi pha: tên ngọn đồi nơi xử tử Dương quí phi.
-Đeo thẹo (từ NB): (đeo:bám riết theo; thẹo: dùng dây cột chặt vào nhau thành một chùm để dễ mang xách),-ý nói đi theo vướng vít.
-Bù chì: biến trại từ chữ phù trì, có nghĩa là giúp đỡ.
-Đơn biều:bầu nước và giỏ cơm,-chỉ cuộc sống đạm bạc của người nghèo khổ.
-Vô thường (Phật):chỉ tính chất bất định của mọi vật, khó đoán trước được.

NhàQuê
13-11-2011, 12:56 AM
C-DƯƠNG QUÍ PHI CHẾT


Thuý hoa kiệu tía tàn hường,
150-Dùng dằng quân kỵ mở đường không đi.
151-Đổi dòng sông nước bất kỳ,
Rủi may suy thạnh, một khi biến dời.
Khói un mờ mịt mây trời,
Ngựa chồm xiên ải, tơi bời phong ba.
Ngán thay! Mắt phụng da ngà,
Xô xiêu đồn ải,-nụ hoa hải đường.
Dồn năm dụm bảy tán bàn,
Phải đồng lòng giết được nàng mới yên.
Siết tay rập tiếng thề nguyền,
160-Nhổ cho tiệt cỏ, cường quyền dễ nao!
161-Dầu ai bện sáo, ngăn rào,
Cũng không chận nổi nhịp trào sóng xô.
Lâu nay có mắt như mờ,
Nào ai đoán được sự cơ lạ thường.
Điện tiền Ngự sử Lý Phương,
Quành cương xuống ngựa giữa đường tâu lên:
-" Nghiệp truyền vua trước dựng nên,
Xác xây bờ cõi, vững bền giang sơn.
Mây đen vẩn đục trời quang,
170-Máu hoen cửa gấm, lửa tràn dầu sôi.
171-Sống mòn, chết thảm nơi nơi,
Biên cương sấm động, ngòi nơi cung đình.
Lở tan núi, sụp nghiêng thành,
Quân đòi Dương thị hành hình ngay đây.
Ví bằng Vương thượng riêng tây,
Tài Gia Cát cũng khó xoay cơ đồ,
Vận xui nghiêng chích thế cờ,
Thánh hoàng mau quyết, chần chờ không hay!"
Quí phi phách rụng hồn bay,
180-Sắc hoa chàm đổ, mặt mày ủ ê.
181-Trăng trong, vườn ngự oanh đề,
Chén hà thất tịch, câu thề bá niên.
Nghê thường điệu múa cung tiên,
Vành ngân còn tạc lời nguyền trăm năm.
Dầu khi hoa gãy bình trầm,
Chung cành liền cánh, sắt cầm bền lâu.
Áo là lả chả dòng châu,
Huyền Tôn dựa gối, màu sầu ngẩn ngơ.
Thuyền tình vội tách xa bờ,
190-Hường nhan phận mỏng, ai ngờ chăng ai!?
191-Mưa Xuân chớm bén cành mai,
Nào hay én nhạn lạc bầy Bắc Nam.
Tuyệt tình ca khúc thương tâm,
Dòng Tương ngăn lối, dương âm cách vời.
Gây chi oan nghiệt bấy trời!
Chia quyên rẽ thuý cho người hợp tan.
Xót tình nặng nghĩa tào khang,
Thương cây đoái cội tấc đàng hiểm nguy,
Non tình biển ái cuồng si,
200-Non sông máu lửa tức thì chìm sâu.
201-Vô tâm lòng phụ lòng nhau,
Nhơ danh bạc ác,-Đời sau chê cười.
Vò tơ ngàn mối rối bời,
Đứng trên đống lửa, lại ngồi lò than.
Thôi đành ngọc nát vàng tan,
Vuông tròn điều nghĩa, lỡ làng mối duyên.
Tri âm , dám phụ lời nguyền!
Vào ra phải lẽ, kinh quyền gồm hai.
Mực nghiên giấy viết kíp bày,
210-Tam ban trào điển phê ngay cho nàng.
211-Bút sa gà chết rõ ràng,
Mưa sầu ướt chiếu, lệ tràn đẫm mi.
Bốn tên giáp sĩ nể gì,
Giựt văng khỏi kiệu, bắt quì trước xe.
Sắn bìm, tùng cả khó che,
Phút giây tuyệt mạng gần kề một bên.
Rác bèo, nước giạt linh đinh,
Ôi thôi! Mặc sóng cuối gành cuốn xuôi.
Cồn dâu biển thẳm biến dời,
220-Xót chi sao lạc lưng trời đầu mây.
Dùn mình, lụa trắng cầm tay,
Cao xanh cay độc, rẽ hai lối tình.
Đồi cây dặm cát lặng thinh,
Ngùi thương nửa kiếp phù sanh má đào.
Gò hoang lạnh ngắt sậy lau,
Vùi nghiêng chôn sấp, mặc dầu gió mưa!
Quốc Trung nào hãn sự cơ,
Vừa dong cương tới, đâu ngờ tai ương.
Gươm trần, kích chĩa, nõ giương,
230-Đâm ngang sả ngược rộn ràng kiếm đao.
Cát vương bụi vấy áo bào,
Ộc vòi máu phún, đỏ đầu cỏ sương.
Phân minh đen trắng đã tường,
Kỵ binh sải vó rút đường Thành đô.
Mây vần, gió giục, sóng xô,
Lạnh căm lạc ngựa, bụi mờ đồng hoang.
Vọng lâu, nom rõ tàn vàng,
Phát hồi pháo lịnh, trải đàng chiếu hoa.
Điếu kiều, hào rộng gác qua,
240-Tiếp nghinh xe trận, long xa nhập thành.
Cắt quân gác đại bổn dinh,
Đúc rèn khí giới, luyện binh làm đầu.
Râu mày thoả mộng cung dâu,
Gót Văn bến Vị tìm cầu Tử Nha.
Hịch truyền muôn dặm bay qua,
246-Non gần tướng trấn, sông xa sáo hàn.

CHÚ THÍCH:

-thuý hoa: cờ hiệu trong quân.
-Gia Cát: tức Gia Cát Lượng, tự Khổng Minh, phò tá Lưu Bị dựng nhà Thục Hớn.
-chích (từ NB): chếch, nghiêng lệch.
-Vương thượng: tứ của các quan gọi nhà vua.
-Riêng tây: riêng tư.
-Oanh đề: tiếng chim oanh hót.
-chén hà: chén ngọc có màu đỏ tía, giống màu ráng mây.
-thất tịch: đêm mùng 7 tháng 7, Ngưu lang và Chức nữ gặp nhau trên cầu ô thước bắc ngang sông Ngân hà, nước mắt rơi xuống thành mưa ngâu.
-Nghê thường: tức khúc hát Nghê thường vũ y,khúc múa hát của tiên nga mặc áo lông màu sắc cầu vồng.
-Vành ngân: vành trăng bạc.
-Hoa gãy bình trầm , lấy trong Tình sử:
Nhứt phiến tình châu phương đáo ngạn,
Bình trầm hoa chiết dĩ đa thời.
(Một mảnh thuyền tình vừa tới bờ, thì bình chìm hoa gãy đã lâu rồi).
Nguyễn Du mượn ý đó viết thành:
Thuyền tình vừa ghé đến nơi,
Thì là trâm gãy, bình rơi bao giờ.
-Chung nhành liền cánh: lấy ý trong "tị dực, liên chi" của Bạch Cư Dị diễn tả lời nguyền của cặp tình nhân trên trời làm chim liền cánh, dưới đất làm cây liền cành.
-Dòng Tương: do các câu thơ trong Tình sử:
Quân tại Tương giang đầu,
Thiếp tại Tương giang vĩ,
Tương tư bất tương kiến,
Đồng ẩm Tương giang thuỷ.
(Chàng ở đầu sông Tương, thiếp ở cuối sông Tương,
Nhớ nhau mà chẳng thấy được nhau, cùng uống nước sông Tương)
Lại nữa, hai nàng con gái vua Nghiêu là Nga Hoàng và Nữ Anh tới sông Tương khóc chồng là vua Thuấn đi tuần du, chết ở Thương Ngô.
Vậy, hình ảnh sông Tương chỉ sự ngăn cách của đôi tình nhân.
-tào khang: tấm mẳn và cám. Vua Hán Quang Võ có người em gái goá chồng là Hồ Dương công chúa. Thấy Tống Hoằng là người tài giỏi lại có đức độ,vua ngỏ ý muốn Hoàng bỏ vợ lấy Hồ Dương công chúa. Hoằng trả lời:" Tào khang chi thê bất khả hạ đường, bần tiện chi giao mạc khả vong" (Vợ cưới lúc nghèo hèn, phải ăn tấm cám thay cơm, không thể bỏ được. Bạn bè lúc nghèo khó, không thể quên.)
-kinh quyền: tức chấp kinh và tòng quyền. Chấp kinh:theo khuôn phép đã qui định; tòng quyền:uyển chuyển du di xử sự cho phù hợp hoàn cảnh.
-chiếu: lời phán truyền của vua.
-tam ban triều điển: ba lối bức tử dành cho hoàng hậu, phi tần và các công thần:bình thuốc độc, kiếm vắn để tự tử, đoạn lụa trắng để thắt cổ.
-giáp sĩ: lính mặc áo giáp hầu cận vua hay vị tướng soái.
-sắn bìm: do chữ cát đằng, lấy ý trong Kinh Thi;" dây cát đằng là dây leo quấn quít theo bóng cây tùng để nhờ bóng mát chở che,-ý nói đàn bà con gái nương nhờ chồng.
-Hản: hiểu rõ.
-Vọng lâu: chòi cất cao để leo lên nhìn có thể quan sát địch từ xa.
-điếu kiều: bửng gỗ lớn, kéo lên thì dùng làm cửa thành,hạ xuống gác qua hào thì làm cầu cho xe, ngựa và binh lính ra vào.
-long xa: xe rồng, xe vua đi.
-đại bổn dinh: (Đ.ng:đại bản doanh): nơi đại quân đóng trấn.
-Râu mày: do chữ tu mi, chỉ người con trai.
-cung dâu: do chữ tang bồng hồ thỉ (cung bằng cây dâu, tên bằng cỏ bồng):chí vẫy vùng ngang dọc trong năm châu bốn biển của người con trai.
-gót Văn: Văn vương nhà Châu đem xe tới Bàn khê, sông Vị rước Khương Tử Nha làm nguơn soái hưng binh phạt Trụ, dựng nghiệp nhà Tây Châu.
-Hịch: bài văn dạy răn binh sĩ hay kể tội giặc.
-Sáo:hàng rào tre bên, đặt giữa dòng sông để ngăn tàu thuyền giặc.
Chẻ tre bện sáo cho dày,
Ngăn ngang sông Mỹ, có ngày gặp nhau.
(ca dao)

NhàQuê
13-11-2011, 12:59 AM
D-ẢI ĐỒNG QUAN - GIA THẾ HỌ CHÂU.


247-Ải Đồng diệu vợi quan san,
Đối đầu giặc cỏ Khiết Đan trùng trùng.
Cột rường danh rạng anh hùng,
250-Phơi gan tuấn kiệt, vẫy vùng chiến y.
Xông vào lửa, cứu nước nguy,
Lịnh nghiêm quân sĩ, thành trì kim thang.
Đường đường chủ soái Thiên Lương,
Tài văn đức võ tiếng vang giang hồ.
Dọc ngang non Sở trời Ngô,
Ngăn biên ải vững, hoàng đô Đường trào.
Thông minh thiên bẩm dành trao,
Rèn tinh trận pháp, luyện làu binh thơ.
Lẫy lừng muôn trận dưới cờ,
260-Trải ba đời chẳng phai mờ lòng trung.
Phước lành ấm đức gia phong,
Hạ sanh con trưởng má hồng Nam Vân.
Hà Châu làng cũ nương thân,
Dưỡng nuôi bà nội tảo tần nông tang.
Chồng con nhà cửa đã an,
Cày sâu cuốc bẵm thanh nhàn thú quê.
Thứ hai, Mạnh Đạo tên đề,
Hồn theo gác khói, vẹn thề núi sông.
Cuối cùng đẻ muộn Trọng Thông,
270-Mày thanh mắt đẹp nối dòng Nho gia,
Rồng bay phụng múa tài hoa,
Sớm hôm đạo cả bên cha hầu kề.
Phòng văn lửa đóm mải mê,
Sân Thi nền Lễ đi về sớm trưa.
Nghề riêng tao nhã cầm thơ,
Ban Siêu nét viết, Tương Như giọng đàn.
Thần cơ diệu toán ai đang,
280-Dưới thông địa lý, trên tường thiên văn.
Ngọn mây, vút mút cánh bằng,
Lợi danh ràng buộc gạt phăng đâu màng.
Hạc đồng nội rộng thinh thang,
Non xanh in dấu, mây vàng theo chơn.
Ngại gì áo mỏng mền đơn,
Trăng theo dặm liễu, mây vờn trúc hiên.
Quận châu nức tiếng côn quyền,
288-Tài lành đường kích gia truyền bấy nay.


CHÚ THÍCH:

-Kim thang: do chữ" kim thành thang trì" -thành vững như đồng, chắc như kim loại, hào ao xung quanh không thể qua được, thang là nước sôi.
-Đức võ: tức là võ đức, đức độ người cầm quân.
Sách Binh thơ của Tôn Võ tử có câu:" Trước khi luận chiến thuật, thì phải xét võ đức.
-Thiên bẩm: tánh khí trời ban phát cho mỗi người.
-Cột rường: tức lương đống,-quan to giữ vai trò trọng yếu trong triều đình.
-Âm đức: đức của ông cha để lại do ăn ở hiền lành, người ngoài khó thấy.
-Gia phong: nề nếp tốt, việc giáo dục con cái theo đúng luân lý lễ nghi của gia đình.
-Nông tang: việc làm ruộng và nuôi tằm.
-Gác khói: tức Lăng Yên các, do Đường Thái Tôn lập ra để thờ các công thần.

NhàQuê
13-11-2011, 01:00 AM
E-RƯỚC SỨ


Cỏ non sè cánh én bay,
290-Bông đào lấm tấm, hoa mai trắng ngần.
Đua chen trai gái tưng bừng,
Lam Kiều dẫn lối, hội Xuân chật đàng.
Kết hoa cuối ấp đầu làng,
Thiên Lương đoái cảnh ngổn ngang tấc lòng,
Trách người không cạn đục trong,
Đua đòi trau lục chuốt hồng mà chi.
Hận chung, đền báo được gì,
Quần điều áo tía, pháo đì đùng reo.
Nhục vui vui nhục trăm chiều,
300-Sao chưa thức tỉnh, đắm điều mê say?
Ủ ê án sách hương đài,
Xảy nghe có sứ,-thành ngoài bẩm tin.
Thay xiêm đổi áo tiếp nghinh,
Phân ngôi chủ khách, trần tình khúc nôi.
Rằng:"Câu răng lạnh hở môi,
Rủi may vận nước nằm nơi ải Đồng.
Trăm năm xin chớ phụ lòng,
Giữ gìn hoa gấm thuỷ chung trọn niềm.
Địch kia mở thế gọng kềm,
310-Bủa vây bốn mặt, nhận chìm Thành Đô.
Cẩm Thành,đất dựa ban sơ,
Kén binh chọn tướng chờ giờ phản công.
Ví bằng tay trắng hoàn không,
Nghiệp ngàn năm hết, núi sông còn gì!"
Lễ bày tiếp chỉ tức thì,
Dọn bàn hương án, cúi quì nghe qua.
Chiếu ban, ngự bút giở ra,
Long phù ấn tín phương xa gởi về.
Truyền rằng:" Vận nước nhiêu khê,
320-Bụng phơi hùm sấu, lưng kề sói lang.
Mồ hôi đẫm áo giáo trường,
May ra đánh đổi bước đường thương vong.
Sửa sang vách sắt thành đồng,
Dàn binh bày trận giao phong tranh cường".
Vó câu lướt cỏ sũng sương,
Hoa ngàn trải nhị đưa hương ngạt ngào.
Trướng huỳnh tim lụn dầu hao,
Thành nghiêng, nước sụp, lẽ nào ngủ yên.
Một mình trằn trọc gối nghiêng,
330-Thẩn thờ trở gót, khuê triền quạnh mây.
Vòm Đông đêm nuối mộng dài,
Lét leo lửa bấc, hao gầy mắt môi.
Lơ mơ ngửa mặt dòm trời,
Trán nhăn, má cóp,-Đổi dời biển dâu.
Niềm riêng, rượu cạn mấy bầu,
Trắng canh bạc tóc xua màu xuân xanh.
Đêm tàn, trống thúc vọng canh.
Bồi hồi đếm bước mai đình ngẩn ngơ.
Mây hường rựng lợt núi mờ,
340-Bầu trời xám, vạc lửng lờ kêu thương.
Bình minh bươn bả thăng đường,
Họp bàn tướng cạnh liệu phương ngăn phòng.
Tập tành thao duợt tinh thông,
Cất chòi gác nhặt, rải chông đặc hào.
Tuốt trần thép lạnh gươm đao,
Ba quân hào khí ào ào như sôi.
Sao trời, hăm hở nuốt trôi,
Không dung lũ hái trái rồi đốn cây.
Đặt quân kỳ chánh trong ngoài,
350-Lưới giăng, bẫy mở rập loài tinh ma.

CHÚ THÍCH:

-Rồng bay phụng múa: do "đằng giao khởi phụng" chỉ văn tài hơn người.
-Đạo cả: do chữ" thần hôn trọng đạo" hoặc " hôn định thần tỉnh" ( tối đưa cha mẹ vào đúng chỗ nằm nghỉ ngơi, sáng sớm tới thăm hỏi và đánh thức cha mẹ dậy. Đó là bổn phận lớn của con cái đối với cha mẹ.
-Lửa đóm: tức huỳnh hoả,-Xa Dận đời Tống nhà nghèo không có đèn, dùng lửa đom đóm để đọc sách,-chỉ gương hiếu học.
-Thi Lễ: tức Kinh Thi và Kinh Lễ, hai pho sách lớn và có giá trị của cổ đại Trung quốc,-chỉ tài học rộng và lối cư xử phải đạo.
-Ban Siêu: danh tướng đời Hán, một danh sĩ tài hoa, có nét chữ rất đẹp.
-Tương Như: tức Tư mã Tương Như, quê ở Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, đàn giỏi, tác giả khúc hát Phụng cầu hoàng.
-Thần cơ: đoán biết cơ số, biết việc xảy ra như thần.
-Diệu toán: tính toán giỏi.
-Bằng:loại chim lớn sải cánh rộng, bay cao và xa,- chỉ người có chí khí lớn.
-Côn quyền: (Nam bộ đọc là côn quờn):
*-côn:gậy, roi. Có hai loại côn: trường côn (gậy dựng đứng thẳng từ mặt đất đến mút ngón giữa của bàn tay vói thẳng), đoản côn (gậy vắn, còn gọi là tề mi côn, cao từ mặt đất đến đỉnh đầu người).Cả hai còn được gọi là roi trường, roi đoản.
*-quyền / quờn: bàn tay nắm lại. Lối đánh võ bằng tay không, chẳng dùng binh khí.
-Lam kiều: dẫn tích Bùi Hàng gặp tiên nữ Vân Anh.
-Long phù: phù hiệu có in hình rồng, tượng trưng nhà vua.
-Ấn tín: cái triện, cái ấn đóng vào giấy,-cái dấu ngọc tỉ đóng trong tờ chiếu.
-Khuê triền: đường đi của sao Khuê.
-Rựng: (từ NB): rạng, sáng ửng lên.
-Bươn bả (từ NB): vội vã.

NhàQuê
13-11-2011, 01:02 AM
F-AN LỘC SƠN ĐÁNH ĐỒNG QUAN


351-Hận tình tan Mã Ngôi Pha,
Lộc Sơn huy động trảo nha rửa hờn.
Tấn binh đá chạy cát vờn,
Thây chồng tối mắt cao hơn đầu người.
Vó câu hốt bụi mịt trời ,
Voi bầy xông lướt lạch ngòi vỡ toang.
Trốt bồng, lửa xoáy ải quan,
Lũ dưng suối thấp, bão đàn nhành cao.
Huỳnh hôn tím ngắt hơi sầu,
360-Kỵ binh, bộ tốt bào hao tranh hành.
Giương binh khí, múa vút nanh,
Lung lăng coi dưới mắt mình không ai.
Lập loè đom đóm ma trơi,
Chòm cây lối tắt ẩn rồi hiện ra.
Binh triều nhóm bảy tụ ba,
Dáo cờ thưa thớt, mâu qua ngại ngần.
Quân Yên giục ngựa bén chân,
Rần rần đuổi giết lính tuần ải quan.
Tra roi, cướp lối, chận đàng,
370- May vần vũ nổi, sương vàng cuộn bay.
Nửa chừng rẽ quặt truông mây,
Đưa đoàn mao nhẫn nạp thây Tân Hồi.
Ngựa chồn lê bước lôi thôi,
Dây chằng vướng vít, sóng nhồi mưa tên.
Khó lui, chẳng thể tiến lên,
Máu loang đỏ giáp, tiếng rên thấu trời.
Đồng lầy đùa với lửa chơi,
Giữa vòng tên đạn,-khóc cười biết sao!
Trùng vây chèn kín gươm đao,
380-Lưỡi câu móc sắt xuông vào thịt da.
Vận xui tưởng đã thoát qua,
Đường mòn dẫn lối rừng già gian nan.
Chim say lịm giấc sương ngàn,
Quạnh hiu lá rụng canh trường cuối thu.
Cỏ đan, rơm lợp xây cù,
Hầm sâu, bẫy sập làm mồ giặc An.
Thê lương lạnh gót sa tràng,
Núp khe gươm tuốt, len tàn tên bay.
Bàn cờ thế, phút sa tay,
390-Rớt tòm hố thẳm, chông dài đâm xiên.
Đốc quân thị sát trận tiền,
Hang beo trỏ kích, Long tuyền cầm tay.
Bập bùng đuốc rực trời mây,
Thét oai sấm động, ra tài hùng anh.
Vai gầy, dáng dấp thơ sanh,
Áo bào trắng, Bạch hổ tinh hiện về.
Ngựa hồng giậm cẳng bên khe,
Công đầu ắt hẳn đã về tay Châu.
Ém hơi chờ chực rừng sâu,
400- Hiệp đồng mai phục, đón đầu dăng cây.
Siết dồn khoá chặt vòng vây,
Xương vùi mương rãnh, hồn hoài cố hương.
Vọng canh nguyệt lạnh mờ gương,
Giáp vàng mũ trụ, Thiên Lương thăng đường.
Đầm đìa cành muộn đọng sương,
Tít xa núi lợt vấn vương đêm dài.
Đương cơn lửa đỏ cháy mày,
Họp cùng tướng sĩ liệu bày mưu cơ.
Nắng hoe, hoa cỏ dật dờ.
410-Mây đùn trời thẳm, khói mờ non xanh.
Toán quân canh gác vào thành,
Báo tin giặc rải đại binh mấy vòng.
Bủa vây không lọt mảy lông,
Nhổ từng rễ cỏ ải Đồng mới nghe.
Quân triều thét một lời thề,
Gan đồng dạ đá chẳng hề núng nao!
Nước non nghĩa nặng tình sâu,
Dân đen khổ cực, nỡ nào khoanh tay.
Trăm viên hổ tướng dững mày,
420-Quyết gìn chánh khí dẫu dài gian nan.
Ngọn thành gươm lợp dáo đan,
Thiên Lương mão sắt giáp vàng oai nghi.
Kích giương, mắng chẳng nể vì:
-" Bầy sâu lũ bọ biết gì ngỡi nhơn.
Tịu tằng với ả Thái Chơn,
Rình mò ăn vụng tiên đơn khác gì!
Mặt mo giở thói vô nghì,
Mưu đồ phản nghịch, bọn mi một loài.
Khá khen bộ vó anh tài,
430-Chồn mang lốt cọp, khéo bày trêu ngươi!"
Lộc Sơn gằn giọng cả cười:
-"Khá khen cho đó biết người biết ta.
Bạc đầu, mỏi gối, dùn da,
Còn ham quờn tước vinh hoa nhơ hình.
Hươu Tần thiên hạ giựt giành,
Long Cơ dâm đãng, bất minh vô tài.
Mắt che, ngựa chạy đường dài,
Ngu trung cam kiếp, kẻ cười người chê.
Biết điều cởi giáp theo về,
440-Cúi đầu hàng phục, đề huề chúa tôi.
Diệt Đường, ta quả xứng ngôi,
Dẹp tan châu quận, thâu hồi hai kinh.
Móc mưa rưới xuống sẵn dành,
Con sang vợ trọng,- bất bình nỗi chi?
Ví bằng cạn nghĩ, vụng suy,
Đồng quan bình địa, một khi san bằng".
Thiên Lương điểm mặt mắng rằng:
-"Trèo thang cóc muốn lăng nhăng đua đòi.
Ngốc như mi cũng dạy đời,
450-Răng thưa, môi mỏng bày lời lố lăng.
Hang cùng nào biết lễ văn,
Luông tuồng cẩu hợp, thói gần chim muông.
Gian tham ngu ác một xuồng,
Đổi ơn làm oán, tìm đường quay lưng.
Ta đây trượng ngãi chuộng nhơn,
Giá trong tiết sạch, nát thân đâu nài.
Sá gì chớp giựt mưa bay,
Chỉ nguyền sống thác một hai dưới cờ.
Về hang ổ, rửa cổ chờ,
460-Binh trời hỏi tội, định giờ phanh thây".
Lá vàng run rẩy hơi may,
Nắng chiều úa sắc, trời Tây bóng tà.
Đầu mây phớt điểm ráng pha,
Chim hôm chiu chít nhánh sà mặt sông.
Vượn đơn kêu thảm não lòng,
Rã rời thưa thớt trống thùng vọng canh.
Gió cuồng rứt lá lìa cành,
Đại kỳ gãy tốt, mặt thành đưa tin.
-" Ô hô! Trời chẳng thương tình,
470-Cung rơi đạn lạc cũng đành mạng căn.
Cao dày nỡ bẻ cánh bằng,
Ép người vào cuộc lăng nhăng sắp bày".
Kíp truyền tướng sĩ trong ngoài,
Sửa sang hầm hố, dàn ngay trận đồ.
Chiến trường đã ước hẹn giờ,
Nực cười giặc khéo giở trò trẻ con.
Nửa đêm, pháo lớn nổ giòn,
Tường rung sấm động, sóng cồn vượt mây.
Mặt thành ném đá quăng cây,
480-Lửa lan giáp đất, tro bay mịt trời.
Nổ ầm quả lựu mấy hồi,
Pháo bầy ong nện bời bời bủa quanh.
Mở then cửa đột phi hành,
Đức Tâm rút soạt hai thanh kiếm trường.
Đột xông ngang dọc tranh cường,
Chém người như chuối, Đơn Dương chẳng tày.
Lợi Trinh phóng ngựa cửa Tây,
Điều quân mã kỵ hiệp ngoài Châu Thông.
Trùng vây vòng lại siết vòng,
490-Kích gươm loảng xoảng, địch trong giặc ngoài.
Đeo tường nhún ngọn thang bay,
Sói muông cầy cáo chắp dài dáo lan.
Nơi nơi hỗn độn dọc ngang,
Hào nào ngăn nổi lớp hàng Phiên binh.
Da dê quấn chặt quanh mình,
Dao con giắt bụng, lưng thành đu dây.
Pháo thần vạn hoả đặt ngoài,
Đạn như mưa bấc rót ngay xuống thành.
Kho lương lửa dậy thình lình,
500-Chống ngăn gắng gượng đua tranh sống còn.
Binh triều phút mỗi hao mòn,
Tường bay, đất sụp,-luỹ đồn tan hoang.
Quân Yên ngây máu sa tràng,
Nghinh ngang binh khí, rộn ràng nõ cung.
Đuốc rà hang hố sục lùng,
Quyết lòng bôi sổ ải Đồng mới thôi.
Nặc nồng mùi bốc tanh hôi,
Thấy nguy, Châu vội phản hồi dinh trung.
Giục cha liệu nước cờ cùng,
510-Vượt tầm dáo mác, thoát vòng tử sanh.
Sức dùng thần khiếp quỉ kinh,
Cản quân đuổi gấp liều mình cứu cha.
Thiên Lương gót thúc roi tra,
Mở ra đường máu, tràn qua biển người.
Kích quay xé gió lưng trời,
Rồng thiêng tung sóng giữa vời biển xanh.
Bất thần hét tiếng thất thanh,
Ôm hông,-Bão cuốn ghe mành ngửa nghiêng.
Châu Thông lướt tới đỡ liền,
520-Xốc bồng lên để ngồi yên ngựa mình.
Chật chen lớp lớp tướng binh,
Nặng nề chơn bước, hành trình gian nan.
Đục trầm va sắt chạm vàng,
Phóng phi nước đại cướp đàng ruổi giong.
Quanh co ngỏ tối mịt mùng,
Ngửa tay chẳng thấy,-Quân không đuổi dồn.
Lách luồn, len lỏi truông mòn,
Lần men dặm thỏ, dò con suối rừng.
Trời Đồng quan ửng lửa lừng,
530-Tro đùn thành lạnh, mắt trừng hờn căm.
Máu tuôn thấm áo ướt dầm,
Giọt châu dài vắn, khôn cầm đau thương.
Ngại ngần rón rén cỏ sương,
Gà rừng gáy rộ đêm trường lũng xa.
Từng không vụt ánh sao sa,
Dựa lưng gốc lớn, đặt cha tạm ngồi.
Mũi lòng, tấc dạ bùi ngùi,
Thuốc thầy đâu biết rước mời trị thương.
Xé toang vạt áo buộc choàng,
540-Thiên Lương nửa tỉnh, nửa dường hôn mê.
Khều con, má áp tai kề,
Phều phào giọng nói, giải giề tâm tư:
-" Tuổi năm mươi đã có dư,
Lòng vui làm tướng dưới cờ qui tiên.
Một mai phách lạc cửu tuyền,
Ngậm cười giữ trọn lời nguyền quân thân.
Sóng đưa bèo bọt phù vân,
Bóng đèn, tia chớp,-Gẫm thân đáng gì!
Mồ hoang mưa đọng trăng đi,
550-Xương tàn, huyệt lạnh,- kể chi mạng già.
Báo ơn nước, giữ tình nhà,
Bủa nhơn đức, luyện tài ba khuông phò.
Phận trai, trung hiếu, phải lo,
Đường xa gánh nặng sao cho vẹn toàn,
Giàm danh khoá lợi buộc ràng,
Đừng tham bổng lộc, gác vàng lầu son.
Tình người, coi nặng bằng non,
Cắn răng chịu đựng, lo toan việc đời.
Minh mông biển học mù khơi,
560-Biết như giọt nước, vậy thời mới khôn.
Ngô nghê, vụng dại làng thôn,
Quê mùa cũng dạy được con ít nhiều.
Sử kinh làm mốc, làm nêu,
Luân thường đạo lý làm điều tu thân".
Nghẹn lời, lẩy bẩy tay chân,
Mắt lờ đờ khép, ngưng thần đứt hơi.
Tim đau lói, dạ rối bời,
Vùi sâu hài cốt lưng đồi Huỳnh sa,
Hỏi chưa cặn kẽ tin nhà,
570-Cội huyên sóng giạt biết là về đâu?
Ngán thay con tạo cơ cầu,
Đất bằng xui hoá biển sâu làm gì?
Rừng hoang cỏ tối rậm ri,
Từng cơn gió trút, lá vì vèo bay.
Núi đồi rờn rợn lạnh vai,
Ngôi sao xa lắc cuối trời buồn tanh.
Lẻ đơn đèo dốc lặng thinh,
Cú sầu điểm một ngồi rình canh thâu.
Đi đây, nào biết về đâu?
580-Dặm mây thăm thẳm một màu bao la.
Bẽ bàng thay, cõi người ta,
Trán hằn vất vả, mắt loà lo âu.
Gương nga xô ngã bóng sầu,
Bình minh thoáng điểm hường đầu non Đông.
Biển trời khó sánh được công,
Hứng hoa, nâng trứng, ẵm bồng chắt chiu.
Nồi kê quán trọ đìu hiu,
Tóc mai tơ mướt, đầu chiều tuyết pha.
Gối quì, lạy giã biệt cha,
590-Thay xiêm đổi áo, bôn ba đăng trình.
Hang sâu, giấu dạng tăm kình,
Hoà thân cát bụi, gởi mình ngàn phương.


CHÚ THÍCH:

-trảo nha: móng vuốt và răng,- chỉ bọn bộ hạ của kẻ xấu.
-kỵ binh: lính cỡi ngựa.
-bộ tốt: lính đánh bộ.
-bào hao: với oai thế hung hăng, dữ dội.
-mâu qua: (mâu:binh khí có mũi nhọn cán dài để đâm; qua: cái mác để chém):chỉ binh khí.
-mao nhẫn: đoàn quân thám thính.
-Long tuyền: tên thanh gươm quí,-chỉ binh khí.
-dăng cây: (từ NB): rặng cây ở xa.
-Bạch hổ tinh: tên một ngôi sao trong thiên văn TQ, tương trưng tướng giỏi.
-Ngỡi nhơn(từ NB):nghĩa nhân.
Ngỡi nhơn mỏng dánh tợ cánh chuồn chuồn,
Khi vui nó đậu, khi buồn nó bay.
(cd NB)
-tịu tằng: (cn: tằng tịu),-trai gái có quan hệ bất chính, không được xã hội chấp nhận.
-Hươu Tần: nước Tần sẩy mất con hươu, thiên hạ đua nhau đưổi bắt, ai được thì làm chủ. Chũ này dùng để chỉ đất nước, mọi người cứ đua nhau tranh đoạt để giành quyền làm bá chủ.
-Long Cơ: tên tộc của Đường Minh Hoàng.
-Ngu trung: kẻ trung thành ngu si mù quáng.
-Trượng ngãi: (phát âm theo NB): trọng nghĩa.
-Lợt: (từ NB): nhạt.
-quả lựu: hoả cụ chứa thuốc nổ để ném.
-Pháo bầy ong: pháo bắn tung ra những viên đá nhỏ.
-Cửa đột : cửa thấp và nhỏ ngoài cửa lớn của thành trì. Cửa này dùng để ra vào lúc nguy cấp.
-Phi hành: đi lẹ như bay.
-Đơn Dương: nhắc lại chuyện Triệu Vân, tự Tử Long, anh hùng Hớn Thục thời Tam quốc, xông pha trận Đơn Dương để bảo vệ ấu chúa Lưu Thiện.
-Cửu tuyền: chín suối,-chỉ cõi chết.
-Quân thân: đạo vua tôi và đạo con cái với cha mẹ.
-Giàm danh khoá lợi: (giàm: dây xỏ mũi trâu bò),- do chữ danh cương lợi toả, ý nói sự ràng buộc của danh lợi.
-cội huyên: (cn: huyên thào, huyên đường): chỉ người mẹ.
-đã năm mươi tuổi có dư: lấy ý trong câu:
Tam thập nhi lập,
Tứ thập bất hoặc,
Ngũ thập tri thiên mạng.
(Khổng tử)
(Ba mươi tuổi thì đứng vững, tuổi lập thân; bốn mươi tuổi không còn nghi ngờ; năm mươi tuổi biết được số mạng của trời)
-Nồi kê: do chữ huỳnh lương mộng (giấc mộng kê vàng): Lư sanh rớt khoa thi hội ở kinh về nhà.Bụng đói, đường xa, chàng ghé vào quán xin ngủ trọ. Chủ quán biểu Lư sanh nằm nghỉ, xuống bếp nấu nồi hột kê vàng. Lư nằm thiếp đi, thấy mình thi đậu làm quan to, được vua gả công chúa cho, giàu sang oai quyền đến tột bực. Sau đó, nước có loạn, vua sai Lư dẹp giặc. Chẳng may thua trận, vợ chết. Về triều, chàng bị lột hết chức tước bổng lộc. Giựt mình tỉnh dậy, thấy nồi kê của chủ quán vẫn chưa chín. Mộng huỳnh lương hay mộng kê vàng chỉ đời là mộng ảo và ngắn ngủi.
-tóc mai tơ mướt, đầu chiều tuyết pha: lấy ý trong thơ Lý Bạch:
Triêu như thanh ti, mộ như tuyết.
(Buổi sáng sớm, tóc xanh mướt như tơ, tóc buổi chiều trắng như tuyết)
Chỉ cuộc đời ngắn ngủi, thời gian qua mau.

NhàQuê
13-11-2011, 01:06 AM
HỒI THỨ NHÌ

NƯƠNG CỬA PHẬT, CHÂU THÔNG LÀU TRẬN PHÁP,
CẢN QUÂN YÊN, GIÁC HẢI THỌ TAI ƯƠNG.

A-NƯƠNG BÓNG CỬA THIỀN.

593-Gót qua dặm nứa truông bương,
Nhành khô mưa áy, cỏ lan lối sầu.
Chùa xưa nom rõ trên cao,
Phất phơ ngọn phướn lụa đào gió mai.
Mái rêu xanh ẩn tàn cây,
Khói hương tịnh độ ngát ngoài tam quan.
Lỗ loang thếp nếp chữ vàng,
600-Linh sơn cổ tự bạt ngàn gió mưa.
Sân thiền đêm quạnh còn lưa,
Bóng người vắng ngắt, dật dờ thảo hoa.
Bước liều bực đá vôi nhoà,
Chờ coi động tĩnh lăng già am mây.
Lặng trang cửa ních then gài,
Ngăn đôi,-tịch mịch trong,-ngoài lợi danh.
Ghé dòm khe hở phên tranh,
Xếp bằng thanh thản, niệm kinh chuỗi lần.
Hững hờ, khép mắt ngưng thần,
610-Dĩa dầu tam bảo cạn lần, trắng canh.
Từ bi sức cả minh minh,
Mười phương tế độ mặc kinh Đại thừa.
Bè hồng bát nhã qua bờ,
Siêu linh pháp tướng, khói mờ không gian.
Chuyển xây võ trụ tuần hoàn,
Lục trần, tứ khổ mê đàng trầm luân.
Cúc vàng hực nắng đầu sân,
Lao xao trúc động, lâng lâng bóng lồng.
Nhìn quanh sơn tự một vòng,
620-Xanh um chóp ngọn, chập chùng rừng hoang.
Sư già rời nệm bồ đoàn,
Lần then hoa, sịch mở toang cửa sài.
Châu Thôngsụp lạy hiên ngoài,
Chút thân lưu lạc giải bày đôi câu:
-"Rộng thương phận mỏng ảnh bào,
Bước chân tục luỵ lạc vào thiền môn.
Đẩy đưa lớp lớp sóng cồn,
Nép bèo bến đục, nương hồn sông mê.
Bủa vây kinh khiếp bốn bề,
630-Mắt cay bão lửa, nẻo về xa khơi.
Đắm chìm biển khổ đầy vơi,
Linh đinh hột bụi cuối trời tang thương,
Chướng căn oan trái còn vương,
Thành tâm nguyện được Phật đường tạm dung"
Cả cười:" Cá nước tương phùng,
Cơ duyên đã tới lạ lùng chi đâu!
Rủi may đưa đẩy lựa cầu,
Đất người vầy bạn, dễ đâu chuyện thường".
Dắt tay nhau xuống hậu đường,
640-Ngôn từ mở rộng dặm trường gian nguy.
Rằng:" Xem tướng mạo phương phi,
Chẳng tay cung kiếm cũng bề bút nghiên.
Phong tư tài bộ thiếu niên,
Sân che đào lý, phước truyền trâm anh.
Cớ chi gió bãi trăng gành,
Gác Đằng đưa lối rừng xanh cửa thiền?
Khá bày tơ tóc căn nguyên,
Biện minh hư thiệt, trắng đen cho tường!"
Thưa rằng:" Nặng gánh thơ hương,
650-Rớt khoa thi Hội, lỡ làng kiếp trai.
Kinh kỳ bụi cuốn tro bay,
Ngập đầu binh lửa, giăng dày tanh hôi.
Hành trang khăn gói phản hồi,
Nước non cách trở, trải mùi phong sương.
Trông vời mây phủ cố hương,
Cầu hoang quán lạnh, giọt thương giọt sầu.
Quê nhà xa lắc Hà Châu,
Chim ngàn bạt gió biết đâu lối về.
Những mong bảng hổ tên đề,
660-Nào hay phận hẩm,-não nề tay không.
Phòng văn mới được tin hồng,
Cha già cỡi hạc non Bồng dạo chơi.
Trêu ngươi, vật đổi sao dời,
Ngùi trông non Thái mây trời che ngang.
Sách đờn thâu xếp vội vàng,
Dầm mưa dãi nắng qui hoàn cố viên.
Đường đi gặp cảnh ưu phiền,
Đầu non cướp đón, của tiền còn chi.
Cúi xin đức lớn từ bi,
670-Rưới cho giọt nước dương chi tịnh bình.
Nguyện lòng kết cỏ ngậm vành,
Hải hà chi lượng đoái tình xót thương".
Sư rằng:" Phật pháp hoằng dương,
Dang tay tiếp dẫn mười phương muôn loài.
Số phần trót đã an bài,
Con chim bay mãi không ngoài khuôn thiêng.
Kệ kinh nguôi mối ưu phiền,
Giong buồm biển giác, lánh miền mê tân.
Mịt mù sóng hoạn phù vân,
680-Bôn ba mỏi gối mòn chân ích gì!
Đắm vòng tham muội sân si,
Gẫm câu:" Bạng duật tương trì " mà đau.
Hương hoa đàm ngát trời cao,
Vun bồi cội phước, tiêu dao lâm tuyền,
Mái Đông đơn bạc thơ hiên,
Kiểng trồng trăm loại, Xuân riêng bốn mùa.
Qua cơn mưa đẩy gió đùa,
Chuyện về quê cũ, khá tua đợi ngày ".


CHÚ THÍCH:

-Bương: loại tre rừng cây lớn và cao.
-Áy: hư mục.
-Tịnh độ: (Phật),-cõi bờ yên tĩnh.
-Lưa: còn kéo dài
-Lăng già: chỉ nhà Phật.
-Tam bảo: ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
-Từ bi: lòng yêu thương rộng rãi đối với vạn vật.
-Minh minh: mờ tối, khó thấy rõ.
-Tế độ: cứu giúp.
-Mặc kinh: kinh điển có ý nghĩa sâu xa khó hiểu.
-Đại thừa: (Phật),-(cg: Đại thặng) có mục đích tu hành để tự cứu mình và sau đó cứu độ kẻ khác (tự giác nhi giác tha). Quả vị cao nhất của Đại thừa là Bồ tát. Phái Tiểu thừa chủ trương tự tu tự độ nên quả vị cao nhất chỉ là A La Hán.
-Siêu linh: vượt lên trên những cái mà người ta có thể nhận thức được.
-Pháp tướng: (Phật),-chỉ những gì hiện hữu trên thế gian.
-Lục trần: (Phật),-sáu thứ bụi bặm:sắc (màu sắc), thanh (tiếng), hương (mùi thơm), vị (mùi), xúc (sự đụng chạm) và pháp (cái mà người ta dùng tâm trí suy tưởng được).Lục trần xâm nhập vào con người do lục căn (sáu cội rễ): nhãn (mắt), nhĩ (tai), tỉ (mũi), thiệt (lưỡi), thân (thân mình) và ý (tâm trí).
-Sơn tự: chùa trên núi.
-Bồ đoàn: nệm đươn bằng cỏ.
-Ảnh bào: bóng và bèo bọt dễ tan dễ mất,- chỉ xác thân tứ đại giả hợp của con người.
-Cửa sài: cửa gỗ, cửa bằng cây.
-Tục luỵ: cảnh khổ não của cuộc đời.
-Sông mê: (cg: bến mê) do chữ mê tân của nhà Phật, nơi đó con người đắm đuối trong ngu muội, thần trí bị vô minh che lấp, không tìm được lối giải thoát.
-Chướng căn: những cội rễ, nguyên do ngăn trở, làm cho con người đau khổ, đắm đuối trong vòng luân hồi.
-Oan trái: nhửng oan khiên, nợ nần từ kiếp trước mà mình phải gánh chịu trong kiếp này.
-Lưa: (từ NB): còn kéo dài.
-Đào lý: nhà quyền quí.
-Trâm anh: (trâm:cây cài vào búi tóc; anh: cái giải cột mão): chỉ con nhà quyền quí.
-Gác Đằng: do chữ Đằng vương các. Vương Bột đời Đượng, đi thăm cha ở Giao Chỉ (tên nước ta ngày xưa), bị gió đưa đi lạc đến gác Đằng vương, làm bài Đằng vương các phú, nổi tiếng một thời. Gác Đằng chỉ vận may.
-Biện minh: giải bày ra rõ ràng.
-Thơ hương: (cn: thư hương): nghiệp học hành thi cử của giới Nho sĩ ngày xưa.
-Bảng hổ: Bảng vẽ hình con rồng (long bảng), bảng có hình cọp (hổ bảng), bảng vàng (kim bảng) đều ghi tên người thi đậu.
-Tin hồng: (cg: tin nhạn / tin sương): đều chỉ tin tức.
-Non Bồng: theo Thần tiên truyện: có ba hòn đảo tiên ở là Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu. Cỡi hạc non Bồng hay lên tiên đều có nghĩa là chết.
-Trêu ngươi: chọc tức, chọc giận.
-Non Thái: Đông nhạc Thái sơn, ngọn núi lớn trong Ngũ nhạc, ở tỉnh Sơn Đông, Trung quốc,-thường được ví với người cha.
Mây giăng non Thái: do Vân tế Thái sơn: chỉ cha mất.
-Qui hoàn cố viên: trở về quê cũ.
-Dương chi tịnh bình: Bình nước cam lộ có nhành dương liễu của Phật bà Quan Âm. Bà rải nước để hoá giải khổ ách, khổ nạn cho sanh linh. Cho nên trong kinh Phật có câu:
" Nam mô Quan Âm Như lai cam lồ sái tâm nguyện".
-Kết cỏ ngậm vành: Nguỵ Khoả không nỡ chôn nàng hầu của cha khi cha chết. Sau này, Nguỵ Khoả đi đánh giặc, gặp tướng Đỗ Hồi. Chân ngựa Đỗ Hồi bị cỏ quấn chặt nên Đỗ Hồi bị Nguỵ Khoả chém. Thành ngữ này chỉ sự đền ơn đáp nghĩa.
-Hải hà chi lượng: (cg: lượng hải hà): lượng to lớn như sông biển.
-Đoái: quay lại, nhìn lại, nghĩ tới mà thương.
-Phật pháp hoằng dương: Phép Phật mở ra rộng khắp.
-An bài: đã được sắp đặt sẵn.
-Khuôn thiêng:
a)- chỉ bầu trời.
-(ngh.r): lẽ huyền diệu của trời đất.
-Biển giác: do chữ giác hải, chỉ sự thức tỉnh, giác ngộ giúp ta nhận ra chân tướng của cuộc đời.
-Sóng hoạn: hoặc biển hoạn do chữ hoạn hải, con đường làm quan.
-Tham muội sân si: (Phật): lòng tham lam, sự u mê của tâm hồn, sự giận dữ. Sự say đắm. Tham, sân, si là ba cái làm cho con người đằm đuối trong mê muội, đoạ lạc trong vòng luân hồi.
-Bạng duật tương trì: do câu:" Bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi" (con trai, con cò kéo níu nhau, ông già đánh cá được lợi).
-Hoa đàm: tức Ưu đàm hoa, một loại hoa quí, cứ ba ngàn năm mới nở một lần,-tượng trưng cho nhà Phật.
-Tiêu dao: (Lão Trang); sống tự do thong thả theo bản tánh tự nhiên.
-Lâm tuyền: rừng suối,-chỉ phong cảnh thiên nhiên.
-Khá tua: từ cổ, có nghĩa là hãy nên.

NhàQuê
13-11-2011, 01:08 AM
B-TRỞ LẠI HUỲNH SA


Nâu sồng hẩm hút mì khoai,
690-Ngày đi chớp mắt đã ngoài ba trăng.
Gió đưa liễu yếu mai oằn,
Ngổn ngang núi chận, trắng ngần mây đi.
Hồn nương cõi mộng phân kỳ,
Nơi chôn nhau rún, biết gì tin sương.
Thái Hàng mưa ám ngăn đường,
Mồi da bạc tóc, muôn ngàn thương mong.
Huỳnh sa nắng héo cội thung,
Bơ vơ truông bụi, lạnh lùng khói hương.
Dọc ngang cung kiếm mười phương,
Trường văn trận bút chi nhường cho ai.
Bó tay khom gối đi đày,
Gà què ăn quẩn cối xay lần quần.
Sư già lầm lũi một thân,
Non xa tầm thuốc trót gần tuần qua.
Đìu hiu lẻ bóng vào ra,
Vọng đều mõ sớm, ngân nga chuông chiều.
Dưng hoa cúng trái chắt chiu,
Công phu thí thực mọi điều thay sư.
Song thưa hắt ánh nguyệt mờ,
710-Mài nghiên mực cũ, dỡ tờ sách xưa.
Giấc hồ,-khép cánh bụi mưa,
Hương thoang thoảng nụ, gió lờ lững qua.
Trầm thơm khói tỏa la đà,
Nến soi chữ nghĩa nở hoa thánh hiền.
Ngát mùi lan cúc sân hiên,
Nhành giao ngọn lợp, nghiêng nghiêng gương lồng.
Khẳng khiu thân thẳng cội tùng,
Lá dầu lửa hạ, mưa đông,-xanh rì.
Nhớ từ mẫu, đọc Kinh Thi,
720-Thấy trong linh cảm sự chi khác thường.
Khêu đèn soi rạng quyển vàng,
Có gì cồm cộm gò làn giấy tơ.
Phong thơ nét mực chửa mờ,
Rành rành tuồng chữ còn lưa đây rồi.
Cố ngăn mà lệ cứ rơi,
Mơ hình tưởng dáng, nghe lời di ngôn.
Hoa tiên gởi tấm lòng son,
728-Mây che bóng hạc, tiếng còn thoảng lâu.



Thơ rằng:


“ Thiên Bảo, năm thứ…,
Giác Hải hiền huynh nhã giám,


Từ độ:


1-Anh em cầm tay chia biệt, bạn bè nuối mắt phân kỳ,


2-Liễu rũ đôi bờ, ai đi phương nấy,
Mây giăng muôn lối, kẻ ngóng chốn này.


3-Uống cạn mấy bầu rượu cúc, luyến lưu mây ngụ đảnh Huỳnh mai,-
Nhắp ngon đôi chén trà lan, ngậm ngùi trăng mờ dòng Xích Bích.


Thế rồi,


4-Không hẹn mà nên cuộc tao phùng, đủng đỉnh gành Nam chèo quế,-
Sẵn duyên thì có ngày hội ngộ, thung thăng bãi Bắc thuyền mây.


5-Ráng ửng chiều hôm,-khói mờ cây sớm.


6-Lời khí tiết in hằn ngọn bút, nghĩa kim bằng ghi đậm tấc son.


7-Lần tay bấm đốt, lòng lại nhủ lòng,-Tính tháng đếm ngày, mặt chưa tạn mặt.


8-Kỷ niệm quẩn quanh gang tấc, mộng hồn vương vấn canh gà.


Nhớ xưa,


9-Chừa vá trái đào, mài nghiên viện sách.


10-Óc non dại ước cá rồng đổi dạng, cửa Võ nên công,-
Tuổi thơ ngây đè sóng gió giong buồm, trường văn khởi nghiệp.


11-Biển thẳm muôn trùng nào phỉ chí, kình ngạc giương vi,-
Trời cao ngàn trượng chửa thỏa lòng, hạc hồng sải cánh.


12-Chung bóng tập tành,-châu đầu rèn luyện.


Khi lớn lên,


13-Ven mây bắn nhạn, trả nợ hiếu trung,-
Biên ải trừ hung, giúp dân no ấm.


Thế rồi,


14-Vật đổi trời Nam, sao dời cung Bắc.


Nay hiền huynh:


15-Biết lẽ hợp tan,-Rõ tuồng suy thạnh.


16-Gót ẩn sĩ không vấy màu bụi bẩn, nước khe rau núi, tám tiết thong dong,-
Dạ cao tăng nào hoen sắc bùn nhơ, chuông sớm kinh chiều, tư mùa thanh thản.


17-Giếng trong vằng vặc trăng đầy,-trúc biếc làu làu lóng thẳng.


Còn tiểu đệ:


18-Bày tỏ khúc nôi thẹn mặt,-Phân trần nguồn cội ngại lời.


19-Chẳng phải đắm mê danh lợi mà lặn hụp vũng hẹp vinh hoa,
-Không vì tham luyến đảnh chung mà vui đùa ao nông sĩ hoạn.


Đó chẳng qua là:


20-Nỗi lo dân chưa vẹn,-Niềm thương nước chưa tròn.


Giựt mình nghĩ lại:


21-Trán lỏng gối mòn,-Chí cùn trí lụt.


Thôi thì:


22-Liều nhắm mắt theo cơn lốc dữ,-Dại xuôi dòng dấn bước đường mê.


23-Nơi gác phụng thèm dấu hài Huỳnh Thạch,-chốn cửa viên mơ khóm liễu Đào Tiềm.


Song ngặt vì:


24-Nước non nặc mùi binh lửa,- Rẫy nương đẫm máu gươm đao.


Có việc này xin thưa:


25-Dạ những ước thầm,- Lời chưa trút cạn.


26-Cõi quân lữ cận kề hổ trướng, vợ chồng tôi còn lại một trai,-
Cửa song hồ mài miệt bút nghiên, tuổi tác nó vừa tròn đôi chín.


27-Bác Lãng giương ngọn chùy trí mạng, xe Tần Vương hăm hở đập tan,-
Tinh vệ ngậm đá sỏi quên thân, biển Đông hải lăm le lấp cạn.


28-Thuyền con sóng cả, ai dám liều lĩnh cầm lái ra khơi,-
Tài thấp sức hèn, ai lại ngông cuồng giong cương xông trận.


Hơn nữa:


29-Đạo dân nước muôn vàn hệ trọng, tài Phạm Tăng khó dựng nghiệp Sở bang,-
Nợ kiếm cung lắm nỗi đa đoan, mưu Bàng Thống khó vượt truông Lạc Phụng.


Dám xin hiền huynh:


30-Ban oai đức góp tay rèn trẻ, nên tôi hiền giúp nước phò vua,-
Dạy binh cơ điều tướng cầm quân, rành mưu giỏi an dân dẹp loạn.


31-Ngàn vàng khôn đổi, nghĩa trượng ơn sâu,-
Muôn thuở khó quên, tình nồng đức cả.


32-Dầu da ngựa bọc thây,-dầu đường gươm nát mạng,


Thiên Lương này vẫn:


33-Làm Tử Kỳ nhớ đức độ Bá Nha,- làm Bảo Thúc khắc ân tình Quản Trọng.


Kính mong vậy thay,
Châu Thiên Lương cẩn chí.



Nhịp thời gian chảy xuôi mau,
730-Giang hồ chán bước nghêu ngao núi rừng.
Trăng ngà vằng vặc giữa lừng,
Gót chai sỏi đá ngập ngừng về đây.
Châu Thông đón tận lối ngoài,
Nghẹn ngào giọt vắn giọt dài tuôn rơi.
Rằng: “Thân tên lạc cung rơi,
Thuyền con sóng đuổi nửa vời linh đinh.
Biển sâu đâm sấu chém kình,
Đồng quan ngươn soái vốn tình cha con.
Lòng trung chăm chắm chẳng mòn,
740-Gãy cờ giữa trận, gởi hồn Huỳnh sa.
Ghé đây chưa rõ tin nhà,
Thầy cùng tiên phụ lại là đồng song.
Bèo trôi gió dập long đong,
Kiếm lời giấu giếm để hòng tạm nương.
Hờ cơ bóng lẻ đêm sương,
Khêu đèn đọc sách mới tường đục trong.
Ơn người sâu tợ biển Đông,
Rộng thương tha thứ, con lòng chẳng quên.”
Sư rằng: “ Hỉ xả làm nền,
750-Bụi hồng phiền não, ơn trên hộ trì.
Sen vàng nở đức từ bi,
Sắc không, chơn giả, có gì khác đâu!
Mấy tuần chung đụng với nhau,
Tướng đi dáng đứng, làm sao chẳng ngờ?
Đương khi thất thế sa cơ,
Cao bay xa chạy bơ vơ lánh nàn.
Họ tên dẫu chửa hản tàng,
Liếc sơ diện mạo biết trang anh hùng.
Tới nay, con tỏ sự lòng,
760-Cội khô ướm trổ chồi bông khác gì!
Đế kinh gặp cảnh hiểm nguy,
Cẩm Thành khó tránh vận thì gian nan.
Lũ kên kên uống máu tràn,
Trông tìm bạn cũ, bặt khan tin hồng.
Đầu cành quyên giục đêm ròng,
Non Càn ruột thắt, thơ phòng châu rơi.
Tang thương cát lở bùn bồi,
Đất bằng ngập lũ, biển khơi hóa cồn.
Thành tâm vẹn đạo thần hôn,
770-Theo thầy len lỏi truông mòn vượt qua.
Nửa ngày, chắc tới Huỳnh sa,
Nách mang lưng nước bầu hoa lên ngàn.”
Gà rừng vọng nhặt râm ran,
Trăng tà gác núi, tơ vàng vương cây.
Lối mòn sương sũng canh chầy,
Truông xa vắng vẻ, rừng dày thâm u.
Tàn xanh bụi rậm, chim gù,
Hương thơm dẫn lối, mây mù vướng chân.
Nhắm sao xa, lội suối gần,
780-Huỳnh sa đồi cũ dò lần tới nơi.
Tạnh mây, cảnh sắc sáng ngời,
Bông đùa giỡn gió, gió lay lắc nhành.
Buông rèm, lá mịn liễu xanh,
Cội thông bóng ngã, thác gành nước reo.
Lau già vàng úa buồn theo,
Đất pha sỏi cuội đìu hiu một gò.
Châu Thông bước đến bên mồ, :
“ Trời Tây sao rụng, trăng mờ nơi đây!”
Hoa chưng, nhang thắp, trái bày,
790-Nỗi niềm u uất một hai tự tình:
-“Đôi ta xưa, bóng với hình,
Ai cơn hoạn nạn lại đành bỏ sao!?
Vẽ duyên, tạo hóa hiểm sâu,
Phút lìa đời chẳng thấy nhau một lần.
Người vì nghĩa lớn nát thân,
Còn ta bùn bụi bám chân sông hồ,
Người vai nặng gánh cơ đồ,
Ta mong giải thoát qua đò sông mê.
Một đi, đâu đã hẹn về,
800-Ngắm trăng sương, nhớ chén thề, mà thương.
Hiền lành mắc phải tai ương,
Ai xui đây đó âm dương cách vời.
Đôi ta sanh chẳng gặp thời,
Chí lăm luyện đá vá trời được đâu!
Than ôi! Thỏ chết chồn rầu,
Sụt sùi giọt thảm thâm bâu canh dài.
Ghi tâm khắc dạ câu này,
Gươm thiêng tuốt vỏ, ra tài kình côn.
Bạn vàng khắn khít keo sơn,
810-Xin vì ai, đáp tiếng đờn tri âm.
Mưa cuồng, gió loạn, tối sầm,
Huơi thương thúc ngựa, sanh cầm Yên binh.
Nhận làm nghĩa tử minh linh,
Dưỡng nuôi dạy trẻ sử kinh từ rày.
Đợi thời, cuốc nguyệt cày mây,
Tóc bay gió lộng, hươu nai bạn cùng.
Bàn khê, cần trúc ven dòng,
Tỉnh say hồn bướm gởi lòng Kỳ sơn.
Nắng chan, bạc mảnh áo đơn,
820-Đầu trần lửa đổ, đâu sờn chí cao.
Sợ gì bắt cọp hang sâu,
Kiếm vung, thủy quái rụng đầu doành khơi.
Thương dân là thuận ý trời,
Dáo đâm giặc dữ, tay dời đẩu tinh.
Giập tàn dông bão đao binh,
Cấy mùa lúa mới, ấm tình đất xưa.”
Im hơi, thôn thở khói mờ,
Mong manh gió gợn, vàng mơ ráng chiều.
Nằm dài, cây đổ bóng xiêu,
830-Thác ngàn tiếng vọng, lối tiều cỏ đan.
Huỳnh hôn len nhịp thời gian,
Quyện nhau chậm rãi, tỏa lan mọi miền.


CHÚ THÍCH:

-Nâu sồng: màu áo nâu nhuộm vỏ cây dà,- chỉ cuộc sống đạm bạc của các tu sĩ Phật giáo.
-Thái Hằng: dãy núi Nam Trung quốc, có Tần Côn lãnh là đỉnh cao nhất. Địch Nhơn Kiệt, danh tướng đời Đường, đi đánh giặc xa nhà, chỉ đám mây trên ngọn Tần Côn lĩnh mànói với tướng sĩ: “ Ngô thân xá ư kỳ hạ.” ( Nhà mẹ ta ở dưới đó). Vì vậy, mây Thái Hằng hay mây Tần được dùng chỉ người mẹ.
-Cội thung= cội xuân: chỉ người cha.
-Công phu: thời kinh cúng Phật lúc sáng sớm hoặc chiều.
-Thí thực: thí cơ hồn.
-Giấc hồ: (cg: giấc bướm), tức hồ điệp mộng. Trang tử nằm mơ thấy mình hóa bướm. Giấc hồ chỉ giấc ngủ.
Ta nhớ tiền thân phòng bỏ ngỏ,
Giấc hồ thơm tóc gái liêu trai.
(Vũ Hoàng Chương).
-Quyển vàng: do chữ huỳnh quyển, chỉ quyển sách.
Một ngọn đèn xanh, một quyển vàng,
Bốn con làm lính, bố làm quan.
(Trần Tế Xương).
-Di ngôn: lời nói còn để lại của người đã khuất.
-Hoa tiên: tờ giấy có vẽ hoa, dùng để viết thơ.
-Thiên Bảo: niên hiệu của Đường Minh Hoàng.
-Nhã giám: xem,-từ dùng cho người mà mình kính trọng.
-Xích Bích: tên con sông ở tỉnh Hồ Bắc, nơi xảy ra trận thủy chiến ác liệt giữa Châu Do và Tào Tháo đời Tam quốc.
-Khí tiết: sự cứng cỏi, lòng ngay thẳng của tâm hồn người chánh nhân quân tử.
-Kim lan: do chữ kim bằng (bạn vàng),- lan hữu (bạn quí như hoa lan).
Kim lan từ thuở nhỏ chơi bời,
Bè bạn như ta được mấy người.
(Nguyễn Khuyến)
-Tạn mặt: gặp giáp mặt.
-Hóa rồng: cá chép hóa rồng sau khi vượt Võ môn tam cấp,-ý nói sự thành đạt.
-Ẩn sĩ: kẻ không muốn đua chen với đời nên tìm chỗ vắng vẻ để an nhàn.
-Cao tăng:tu sĩ Phật giáo ngộ được đạo, có đức hạnh cao cả.
-Tư mùa: (từ Nb): trải hết bốn mùa.
Biển Đông sóng dợn tư mùa,
Ai cho em uống thuốc bùa, em mê?
(ca dao)
-Tám tiết: do chữ bát tiết (tám giai đoạn thay đổi thời tiết trong năm): lập xuân, lập hạ, lập thu, lập đông, xuân phân, thu phân, hạ chí, đông chí.
-Đảnh chung: (cg: chung đảnh),-(Đ.ng: đỉnh chung) ,- đảnh:cái nồi lớn, cái vạc lớn để nấu cơm; chung: cái chuông để gọi các môn khách về ăn cơm. Ngày xưa, các nhà quyền quí thường nuôi nhiều môn khách để sau này có dịp dùng tới khi mưu đồ việc lớn. Đảnh chung chỉ bổng lộc mình nhận được.
-Lụt (từ Nb): không sắc bén.
-Gác phụng: (cg: phụng khuyết, phụng các): chỉ triều đình.
-Huỳnh Thạch: tức Huỳnh Thạch Công, ẩn sĩ đời Tần đã trao cho Trương Lương bộ bimh thơ giúp Lưu Bang dựng nghiệp Hớùn.
-Đào Tiềm: tự Uyên Minh, hiệu Nguyên Lượng, phò vua Tấn. Sau Tấn bị Tống thôn tính, ông lui về ở ẩn, trồng năm cây liễu trước nhà. Người đời thường gọi ông là Ngũ Liễu tiên sinh. Liễu và cúc vì thế tượng trưng người ẩn dật.
-Lữ: một đơn vị trong tồ chức quân đội ngày xưa, có quân số chừng 5000 người gồm có nhiều cơ và đội.
-Hổ trướng: màn có hình con hổ, nơi tướng soái làm việc.
-song hồ: cửa sổ có dán giấy, nơi thư sinh đọc sách.
Mưa hoa khép kín song hồ,
Sớm khuya có bức họa đồ làm đôi.
(Bích câu kỳ ngô
-Chùy Bác Lãng: Trương Lương đời chiến quốc, người nước Hàn. Hàn bị Tần thôn tính. Trương Lương muốn trả hận cho nước, mướn một lực sĩ cẩm chùy núp ở gành Bác Lãng. Đợi Tần Thủy Hoàng đi xe ngang thì xông ra hành thích. Mưu không thành, Lương bỏ trốn, sau giúp Lưu Bang dựng nghiệp nhà Tây Hớn rồi theo Huỳnh Thạch Công đi tu tiên.
-Tinh vệ: con vua Viêm Đế, vượt biển, bị cheat đuối. Hồn hóa thành chim ngậm đá sỏi để lấp biển.Ý chỉ việc làm khó thành công do suy nghĩ không chin chắn.
-Phạm Tăng: mưu thần của Tây Sở Bá vương Hạng Võ, tài giỏi nhưng không gặp thời vận.
-Bàng Thống: tự Phụng Sồ, có mưu lược cao, nhưng không nghe lời Khổng Minh nên bị bắn chết ở truông Lạc Phụng.
-Da ngựa bọc thây: do câu “ mã cách khỏa thi” (lấy da ngựa bọc thây chết người lính),-ý nói chết trận.
-Tử Kỳ: tức Chung Tử Kỳ, bạn tri âm của Bá Nha thời Chiến quốc.
-Bảo Thúc:tức Bảo Thúc Nha được Quản Trọng giúp đỡ và thông cảm hoàn cảnh nhiều nhất. Bảo Thúc nói “ Sinh ra ta đã có cha mẹ, hiểu biết ta chỉ có Quản Trọng”. Họ là bạn tri kỷ với nhau.
-Hờ cơ: (từ Nb): ngẫu nhiên, tình cờ mà gặp, không hẹn trước.
-hản tàng: tức hản tường, hiểu rõ mọi việc.
-Tiên phụ: (cn: tiên nghiêm),-từ để gọi người cha quá cố.
-Đồng song: bạn học.
-Hỉ xả: vui vẻ mà bỏ qua tất cả.
-Sắc không: (Phật): cái có và cái không.
-chơn giả: cái thật và cái không thật.
-Anh hùng: (anh: vua loài hoa; hùng: vua loài thú). Tào Tháo, khi luận về anh hùng có nói: “ Phù anh hùng giả, hung tàng đại chí, phúc hữu lương mưu, bao tàng vũ trụ chi cơ, thôn thổ thiên địa chi chí” ( Phàm làm người anh hùng, ngực chứa chí lớn, bụng có mưu cao, bao gồm then máy của vũ trụ, mang chí cả nuốt trôi cả trời đất).
-Vận thì: vận thời.
-Non Càn: tên một ngọn núi tưởng tượng.
-Trời Tây: tức Tây thiên, chỉ cõi chết.
-Giải thoát: (Phật): cởi bỏ mọi phiền não để lòng được thanh tịnh.
-Luyện đá vá trời: theo thần thoại, bà Nữ Oa luyện đá vá trời,-ý nói làm việc lớn.
-Thỏ chết chồn rầu: do câu “ thố tử hồ bi”, chỉ lòng cảm thương đối với đồng loại.
-Thâm bâu: nước mắt đọng làm thâm cổ áo.
-Huơi: (từ Nam bộ),-< HV: huy: quay tít.
-Sanh cầm: bắt sống.
-Nghĩa tử minh linh: con nuôi.
-Hai câu 817-818 lấy ý trong hai câu thơ cổ:
Vị thủy đầu can nhựt,
Kỳ sơn nhập mộng hồn.
(Khương Tử Nha ban ngày gieo cần câu trên sông Vị, hồn đi vào giấc mộng Kỳ sơn. Kỳ sơn là tên ngọn núi ở phía Tây Trung quốc, nơi vua Châu Võ vương Cơ Phát hưng binh phạt Trụ, dựng nghiệp nhà Tây Châu.

NhàQuê
13-11-2011, 01:10 AM
C-TRAO TRUYỀN VÕ NGHỆ


Trăng liềm vòm lá chiếu xiên,
834-Lờ mờ trãng cỏ, mây biền biệt bay.
Đèn nhang hương án kíp bày,
Lạy thầy tạ lễ công dày võ môn.
Đỉnh trầm hơi ngát khói tuôn,
Đài sen nến rạng, giọt luồn chảy quanh.
-“ Bẻ tên, thề tấc lòng thành,
840-Gìn lời giao phó vẹn tình sắt son.
Điêu tàn tám cõi nước non,
Trong làng gươm giáo, mất còn: Người, Ta.
Thề xưa, chứng có trăng già,
Quyết truyền con trẻ nghiệp nhà kinh luân.
Cước quờn, miếng mọn phòng thân,
Trận đồ biến hóa mười phần công phu.
Điều hòa uyển chuyển cương nhu,
Kê vai gánh vác cơ đồ ngửa nghiêng.
Hiếu trung khắc một lời nguyền,
850-Luyện nghề cung kiếm giữ yên quê nhà.
Phơi gan trải mật sức già,
Những mong chồi mọn trổ hoa kịp thời”.
Rằng “ Con nương náu đúng nơi,
Tiết Đông lạnh lẽo đã dời sang Xuân.
Cúi đầu cảm đội thâm ân,
Những lời gia huấn mười phần ghi tâm”
Rằng “ Cân nhắc kỹ chớ lầm,
Tính suy mực thước khi cầm ba quân.
Trui rèn thao lược cho thuần,
860-Miệt nào trận nấy, con đừng lãng quên.
Được thua, lấy đức làm nền,
Xót người số vắn dựng lên thành dài.
Kiếm vung che kín trong ngoài,
Đối đầu cung nỏ, tên bay khó vào.
Mưa dầm, nước mới thấm sâu,
Vuốt ưng, tay khỉ duợt lâu mới nhuần.
Trụ như ngọn đảnh Côn Luân,
Đi như bão cuốn sóng thần biển xa.
Đá, thoi hiệu quả chẳng qua,
870-Bộ, thân, cước, chỉ, thủ là cơ nguyên.
Con nên trọng thế hơn quyền,
Tùy cơ ứng biến, mới nên tay già.
Nhược bằng ham múa mỹ hoa,
Mua vui trẻ nít chẳng ra trò gì.
Tới lui ảnh hoán hình di,
Mau như lá rụng, lanh bì tên bay.
Lẹ làng dai dẽo chơn tay,
Mười hai thế đá không sai tơ hào,
Giữ mình là sách lược cao,
880-Bàng long cước giải địch bao giáp vòng.
Gậy tre đuổi cọp chạy cong,
Khăn đầu nắm chắc để hòng thoát nguy.
Dưới làu thế đất chi li,
Trên rành thiên tượng, các vì đẩu tinh.
Rạch ròi kỳ chánh phân minh,
Đánh đồn lượng sức, giữ thành mưu cơ.
Thủy, sơn, địa chiến, ngày giờ,
Lũy dinh Lý Tịnh, trận đồ Ngọa Long.
Sớm trưa sách vở nằm lòng,
Văn ôn võ luyện cho thông mọi đường.
Ngoắt tay sấm động mười phương,
Rồng phun bão lửa, cọp giương móng ngà.
Lấy can qua dẹp can qua,
Cứu dân thoát ách máu hòa thây phơi.
Theo lòng người, thuận mạng trời,
896-Hoa thêu gấm dệt đời đời nước non.



Chú thích:

-Kinh luân: (kinh: việc kéo tơ; luân: việc quay tơ vào guồng): tài khéo léo sắp xếp việc chánh trị, quân sự.
-Cước: gót, thế võ dùng gót để đá.
-Quờn (từ Nb): quyền: nắm tay,-thế võ đánh bằng tay không.
-Thâm ân: ơn sâu.
-Gia huấn: lời dạy dỗ của cha mẹ trong gia đình.
-Miệt: (từ Nb)-vùng, miền, không kể rộng hẹp.
-Thao lược: (thao: gồm có lục thao: văn thao, võ thao, long thao, hổ thao, báo thao, khuyển thao; lược: gồm tam lược: thượng lược dùng nhân, trung lược dùng trí, hạ lược dùng dũng): Thao lược chỉ cách cầm quân.
-Vuốt ưng: hay móng chim ưng, tức ưng trảo công,-một thế trong chỉ pháp của võ thuật, gồng cứng bàn tay, các ngón tay co vào lòng bàn tay như móng vuốt chim ưng.
-Tay khỉ:thủ pháp nhanh lẹ và mềm dẽo như tay con khỉ,-thường được dùng trong hầu quyền.
-Duợt (từ Nb): duyệt, làm đi làm lại, xem lại để khi làm đạt hiệu quả cao.
-Trụ: đứng.
-Côn Luân: ngọn núi lớn ở phía Tây Trung quốc.
-Đá thoi: tức dùng cước và quyền, dùng gót để đá, dùng bàn tay nắm lại để thoi đấm.
-Bộ: tức bộ pháp,- phép di chuyển từng bước.
-Thân: tức thân pháp,-phép cử động thân mình.
-Cước: tức cước pháp,-các nguyên tăc sử dụng gót chân.
-Chỉ: tức chỉ pháp,- cách dùng các ngón tay.
-thủ: tức thủ pháp,- phép sử dụng hai tay.
-cơ nguyên: nguồn gốc, căn bản.
-tùy cơ ứng biến:tùy tình thế mà thay đổi cho phù hợp.
-mỹ hoa: rực rỡ, đẹp đẽ.
-ảnh hoán hình di: (cn: hoán ảnh di hình):thay hình đổi bóng,- ý nói lanh lẹ khó lường.
-Khăn đầu: tức đầu cân pháp,- dùng khăn vải quấn đầu để tấn công, đỡ đòn hay bắt lấy binh khí của địch.
-Thiên tượng: vẻ đẹp, hình thể và những biến động thay đổi của bầu trời.
-Đẩu tinh: chòm sao và ngôi sao.
-Kỳ: tức kỳ binh, phép rải quân từng đơn vị nhỏ họat động rải rác khắp nơi.
-Chánh: phép điều động đại quân.
-Thủy chiến: trận đánh trên mặt nước.
-Sơn chiến: trận đánh vùng núi non hiểm trở.
-Địa chiến: trận đánh trên đất liền, trên đồng bằng.
-Lý Tịnh: danh tướng đời Đường, đóng quân lập dinh trại hình bán nguyệt.
-Ngọa Long: tức Khổng Minh Gia Cát Lượng nổi tiếng với Bát trận đồ, vây Đô đốc Đông Ngô là Lục Tốn.
-Can qua: (can: ngọn dáo; qua: cái mác),-chỉ binh khí hay chiến tranh.

NhàQuê
13-11-2011, 01:13 AM
D-TRỞ LẠI TRƯỜNG AN


Sân thông hứng cảnh trăng tròn,
Bầu nghiêng rượu cúc, giọng giòn ca ngâm.
Trời trong xanh, cỏ sương dầm,
900-Cây mù ngọn quạnh, thác gầm lũng xa.
Chuyện trò môi ấm hương trà,
Châu xin một chuyến dạo qua đô kỳ.
Liếc xem thần thái tiểu nhi,
Trầm ngâm bấm đốt can chi một hồi:
-“Vận con còn lắm lôi thôi,
Nếu như rạng sáng diễn khơi kinh thành,
Mãng xà trong bộng nằm khoanh,
Tháng giêng sát chủ, rành rành chẳng sai.
Phải chờ gà gáy khuya mai,
910- Xét trong tám cửa, môn khai lên đàng.
Tới ngày, nai nịt gọn gàng,
Củi khô nặng gánh băng ngàn bước mau.
Nắng chan phỏng mặt rát đầu,
Mồ hôi muối bạc áo nâu vai sờn.
Màn sương phủ bóng chập chờn,
Mong manh vải mỏng, lạnh rờn rợn da.
Khói vương mặt đất la đà,
Nghiêng vai góc phố tạm qua đêm này.
Tỉnh mê hồn bướm giấc mai,
920-Đèn leo lét đóm thôn ngoài lim dim.
921-Lặng trang cây cỏ im lìm,
Mây trời vần vũ người thêm não lòng.
Sao lần lợt sắc trời Đông,
Chim di chuyền hót, ráng hồng rựng lên.
Vật người hỗn độn chợ phiên,
Xe quan bụi hốt, ngựa biền trốt bay.
Xô bồ tòa rộng dãy dài,
Đưa chơn theo lớp sóng người vô trong.
Ngũ Lăng thanh lịch cạn dòng,
930-Xác xơ lều lá, sạch không quán hàng.
931-Phèng la mãi võ ầm vang,
Thượng vàng hạ cám, bày hàng dáo khiên.
Âu sầu bó gối mé hiên,
Co ro gió lạnh vài tên ăn mày.
Thị thiềng hoang phí ăn xài,
Ngàn trùng cách biệt đất dài trời xa.
Xọp ve bụng trống đêm qua,
Miếng cơm chợ lạ biết là tìm đâu!
Một già áo bạc quần nâu,
940-Cong tôm mang chiếu, gối đầu cánh tay.
941-Mới đây, lãnh án đi đày,
Bồng con dắt vợ ra ngoài rừng thiêng.
Nghiệp chung dẫn lối sầu riêng,
Mòn tay cuốc đất đào tiền nuôi thân.
Sơn lam chướng khí hai lần,
Cướp đôi trẻ dại,- Bạc phần thương ôi!
Ở, về?-Khó đứng khôn ngồi,
Trao thân beo cọp, tái hồi quê xưa?
Của tiền, giặc vét chẳng chừa,
950-Túm đùm nương náu nắng mưa chái ngoài.
951-Trát đòi gia quyến bữa nay,
Hành trang khăn gói nội ngày rời kinh.
Mới mờ mờ đất bình minh,
Kẻ dao, người gậy, quân binh rộn ràng.
Nhận đầu lão chiếc già giang,
Quất roi lôi xển, lạy van được nào
Rằng: “ Xin mở lượng trời cao,
Thương thân hèn mọn dãi dầu đắng cay.
Vợ nhà bịnh ngặt nằm dài,
960-Tiền nong đâu có rước thầy thuốc thang.
961-Hai con nhỏ dại cơ hàn,
Món thừa canh cặn quán hàng hảo tâm.
Tơ đồng mượn giọng ngũ âm,
Đờn rong hát dạo mong cầm tấc hơi.
Phố phường chợ búa đông người,
Nắn cung so phím lựa lời ca ngâm.
Lưng cơm nước mắt chan dầm,
Sớm xin bố thí, tối nằm mái hiên”
Hét rằng: “ Phép tắc cửa quyền,
970-Cầm cân chẳng vị, không thiên chút nào.
971-Lẽ ra làm quỉ cụt đầu,
Hoặc đày trọn kiếp ngựa trâu bọn mày.
Lớn gan, lẽo lự đặt bày,
Trưa nay căng nọc, ngày mai vô rừng.
Đòn thù đá bụng thoi lưng,
Đầu gông ngã úp, mắt trừng tay xuôi.
Ôm thây, bà vợ sụt sùi:
-“ Mất còn, thoắt đã tách rời đôi phang.
Gởi thân hùm sói sài lang,
980-Mẹ con cui cút tấc đàng rủi may.
Ức oan chi bấy cao dày!
Lết la sống mọn tháng ngày nổi trôi.
Phận bèo phó mặc sóng nhồi.
Linh đinh bờ bến, phương trời nào đây?”
Thở than lời vắn tình dài,
Kẻ qua đường cũng chau mày lệ sa.
Lá chằm nát gói qua loa,
Nương hoang bươi huyệt khiêng ra chôn vùi.
Khăn tang quấn trán ba người,
990-Mang xiềng, lãnh án lưu dời bữa sau.
991-Đám đông bu kín giờ lâu,
Sai nha lính lệ giải hầu quan trên.
Mắng rằng: “ Thằng giặc đê hèn,
Cứng đầu ương ngạnh, tội đền mới xong.
Bọn bây quần kiến tụ ong,
Rắp tâm làm phản, a tòng đứa gian.
Châu Thông bị giải theo đoàn,
Giữa đường tật ách vương mang nào ngờ.
Ồn ào lộn xộn hàng giờ,
1000- Đứng ngồi nóng ruột, ngóng chờ vào sân.
1001-Nghinh ngang lính tráng lưng trần,
Mắt hừng hực lửa, tay phần phật roi.
Chòi canh ậm ọe thét còi,
Giọng loa khó dễ, nặng lời chanh chua.
Dáo xô, khiên đẩy, tay đùa,
Người vô tội, kẻ già nua, đi cùng.
Ngã nghiêng cờ lọng lụa hồng,
Cai tù, chúa ngục đặc trong chật ngoài.
Tay chơn bộ hạ hàng hai,
1010-Hét hò vẹt lối quan lai công đường.
1011-Khí trời ngột ngạt khác thường,
Rào ngăn, vách cản, lũy tường vượt cao.
Hỏi dò, cật vấn từng câu,
Vo tròn bóp méo, chận đầu lung tung.
Gạn tra vụn vặt lòng vòng,
Ai ai cũng thấy phập phồng đâu yên.
Chữ rằng: “ mọi sự do tiền”,
Lịnh đòi bước tới cửa quyền khổ thay!
Dẫu cho dạ thẳng lòng ngay,
1020-Không tù cũng tội, rủi may khó dời.
Cẩu quan làm đất làm trời,
Buộc ràng, bắt bẻ cho lòi bạc ra.
Luật ban chẳng kể trẻ già,
Dần nhừ mười trượng, phạt ba quan tiền.
Mò lưng, chẳng đủ nộp liền,
Tống giam ngục tối, chơn xiềng cổ gông.
Hầu bao lép xẹp sach không,
Bán buôn chắt mót, gánh gồng gian nan.
Đánh mùi biết mối giàu sang,
1030-Nặng tay tra tấn,-Đòi vàng cũng ưng.
1031-Mớm cung, buộc tội phải xưng,
Gớm ghê thay! Luật sói rừng kên kên.
Tay còng, Châu ngước dòm lên,
Thấy đầu chó sói xâm trên ngực trần.
Mấy tên tiểu tốt đứng gần,
Bắp cơ cuộn khúc, đường gân nổi vồng.
Quấn trùm hạ bộ, che mông,
Da dê vận khố, búa đồng cầm tay.
Sói đương hung hãn ra oai,
1040-Nhăn răng nanh nhọn khoe tài hùng anh.
1041-Mặt mo giở giọng lôi đình:
-“ Thầy chùa sao lại đành hanh việc người?
Đã mang tiếng đoạn tình đời,
Lại xen thế tục, xỏ nơi gian tà.
Tên ăn mày chẳng ruột rà,
Đậu tiền chôn cất, nghĩa là làm sao?”
Nhớ lời thầy dặn đã lâu
Cắn răng nhịn nhục, ngỏ hầu thoát nguy.
Rằng: “ Từ thọ giới sa di,
1050-Học câu hỉ xả từ bi nằm lòng.
1051-Củi rừng gánh bán chợ đông,
Thấy người hoạn nạn đem lòng tương liên.
Đồng rơi, xu rụng góp quyên,
Những mong vơi bớt ưu phiền chúng sanh”
Lửa thù tròng mắt long lanh,
-“ Biết gì thằng giặc hôi tanh ăn mày!
Trước kia trấn ải Hình Đài,
Giết quân chém tướng, tội này khó tha.
Tới khi thất thủ trào ca,
1060-Cải trang hành khất lân la xóm riềng.
1061-Khổ sai đày miệt Tứ Xuyên,
Lộn nài bẻ ống về liền Trường An.
Sờ sờ chống lịnh bổn quan,
Manh tâm tụ đảng, hợp đoàn dấy binh”
Thưa rằng: “ Gã nọ cùng đinh,
Tay không tấc sắt tranh hành với ai?
Đói nghèo, áo vải quần gai,
Tiền cho vung ném, hiên ngoài tạm dung.
Cầm ca bến bãi vàm sông,
1070-Cháo rau hẩm hút sống cùng thê nhi.
1071-Gây chi sóng gió bất kỳ,
Đá đè búa nện, còn gì xác thân?
Tội kia dẫu nặng ngàn cân,
Cũng chưa đến nỗi gánh phần tử vong.
Thương tâm ai chẳng động lòng?
Giúp cơn khốn khó nằm trong luân thường.
Bần tăng khách lạ tha phương,
Xót người phận mỏng chưa tường đầu đuôi”
Mắng rằng: “ Sâu bọ lằng ruồi,
1080-Bu thây sình thúi, tưởng mùi thơm tho.
1081-Chống trời bẻ nạng,-Gan to,
Già mồm lẽo mép quanh co gian tà.
Kíp căng dùi nọc roi da,
Đập cho bò lết, giam nhà lãnh lao.
Cãi chày cãi cối ồn ào,
Khố te áo tét, tưởng cao bằng trời!”
Trọc trằn đoạn thảm đầy vơi,
Lạ chưa! Họa giỡn tai chơi giữa đàng.
Tréo tròng nạn ách vương mang,
1090-Đè đầu chụp tội,-Quân gian khéo bày.
1091-Đau như dần, nhức cả vai,
Nhìn ra sương đục, mây cài liềm trăng.
Cây mờ, lợt lạt bóng ngân,
Chồi lan nụ hé, bãi tần hương xông.
Quẩn quanh trong đám bụi hồng,
Nhục vinh sướng cực, do lòng nghĩ thôi!
Vứt đi! Đeo đẳng chi đời,
Cởi gông phiền não, thảnh thơi tâm hồn.
Đục trong, thua được, mất còn,
1100-Coi như nắng tắt đầu non chiều tàn.
1101-Ngày kia, sương lạnh chưa tan,
Nhà tù thức giấc, tán bàn xôn xao.
Khóa khua lách cách đề lao,
Có viên ngục tốt cúi đầu thưa qua:
-“ Tiểu binh vưng lịnh đại gia,
Mời người dời gót ngọc qua thơ phòng”
Lối đi mát rượi lụa hồng,
Thơm lừng trà cúc, rộ bông mai đình.
Cửa to mở hoác tiếp nghinh,
1110-Trầm bay phưởng phất, quyện mành khói vương.
1111-Lung linh lệ sáp nến hường,
Huyện quan ngời giữa ghế trường kỷ cao.
Đôn ngà bọc gấm hoa đào,
Chuyện trò khách, tóc nhuốm màu sương pha.
Thời gian chậm chạp trôi qua,
Ngại ngần quan huyện phân qua mấy lời:
-“ Sai nha làm chuyện lôi thôi,
Hiếp dân vô tội, bắt người hiền lương.
Đêm qua, viên ngoại họ Vương,
1120-Qua thăm tệ phủ, mới tường gian ngay.
1121-Nghe cao tăng với người đây,
Vốn cành cùng cội, chung cây, họ hàng.
Còn thơ, nương ánh đạo vàng,
Bịt tai chuyện thế, dẹp tan lụy phiền.
Mười năm giủ sạch nghiệp duyên,
Bụi hồng chẳng ố gót tiên một đời.
Ngày lành phố chợ ghé chơi,
Quân hầu có mắt không ngươi mới lầm”
Vương viên ngoại dáng trầm ngâm:
1130-“ Việc qua xin gác, bận tâm ích gì!
1131-Mấy năm chú cháu phân ly,
Buồm căng gió thuận, mây đi lại gần.
Gặp nhau, thơ thới tinh thần,
Nhành khô mưa gội trắng ngần điểm hoa.
Nhạn Nam én Bắc một nhà,
Ơn dày ban xuống, lòng già dám quên!”
Châu Thông nhìn thấy dáng quen,
Tướng đi giọng nói, sực liền nhớ ra.
Giáo đầu tập luyện binh gia,
1140-Kiếm côn khiếp chúng, tài hoa hơn người.
1141-Kiếu từ, viên ngoại phản hồi,
Ký tờ bảo lãnh Châu rời dinh trung.
Cỗ xe tứ mã thẳng giong,
Cây ngàn chìm lớp bụi hồng dặm mai.
Kẻ ăn người ở đông vầy,
Gò cương đẩy cửa thơ trai tự tình.
Một trời liễu biếc trúc xinh,
Tiệc hoa dọn sẵn vườn quỳnh hiên trăng.
Ân cần mời mọc đãi đằng,
1150-Giủ đi thôi! Lớp phong trần bấy nay.
1151-“ Từ hồi lửa hốt tro bay,
Lang thang biển nọ sông này, linh đinh.
Nẻo đời mòn gót chông chinh,
Vùi chôn gươm báu, tập tành bán buôn.
Bạn bè bạc vạn tiền muôn,
Giúp giùm vốn liếng, lách luồn kinh dinh.
Của chìm của nổi dụm dành,
Bỏ ra mua đứt tướng khanh đương quyền.
Lạ gì bầy ngốc tham tiền,
1160-Bạc vàng trám miệng, xích xiềng tháo bung.
1161-Mấy hôm thằng cháu Vương Hùng,
Cho hay công tử mắc vòng ngục lao.
Ra tay nào sợ tốn hao,
Sợ đày ải chốn rừng sâu núi dài.
Lê thê tháng lụn ngày chầy,
Lộ ra lai lịch, dạ này sao yên.
Chữ rằng gặp biến tòng quyền,
Đút lo chạy chọt, chích nghiêng công bằng.
Đồng tiền giữ thế vạn năng,
1170-Thay đen đổi trắng, lẽ hằng xưa nay.
1171-Dầu cho chớp giựt mưa bay,
Bén hơi đồng cũng mê say thẩn thờ”
Vườn khuya vương vất hương mơ,
Trắng bông bưởi rụng, song mờ sương lan.
Chòm sau xóm trước lạnh tràn,
Gió day phơ phất mấy hàng ba tiêu.
Ngủ lim dim cảnh đìu hiu,
Vẳng đưa quốc gọi ít nhiều thôn xa.
Hiên mai đôi bóng trẻ già,
1180-Tâm tình chưa cạn, trống đà điểm tư.
1181-Nhét vào tay áo tờ thơ,
Hỏi thăm Giác hải thiền sư đôi dòng.
Kề tai nhủ hết sự lòng,
Tóc tơ dặn bảo Châu Thông mọi đường:
-“Kíp mau lướt bụi băng sương,
Kẻo am mây vẫn chưa tường rủi may.
Ngóng tin nhạn lẻ dặm dài,
Liềm trăng ba điểm sao cài thương mong.
Vận thời chưa lúc hanh thông,
1190-Nên dò sâu cạn, nên phòng trước sau.
1191-Sẵn đây mớ nhắm vải nâu,
Áo thô quần xấu,- biết đâu sẽ cần.
Tiền nong chút đỉnh hộ thân,
Giắt lưng dằn túi theo chân giang hồ.
Hẹn ngày núi lở sông khô,
Nước non đứng dậy, cơ đồ vẻ vang.
Vẹn lời nguyền, mát tim gan,
Thuồng luồng giãy chết, máu tràn biển Đông.
Mây cao nghiêng sải cánh hồng,
1200-Dưới trời, thỏa chí tang bồng,-Gặp nhau.
1201-Dùng dằng chia biệt giọt sầu,
Vẫy tay nhau, khuất bờ dâu mới về.


CHÚ THÍCH:

-Thần thái: sắc mặt, dáng vẻ.
-Tiểu nhi: từ của cha mẹ gọi con mình.
-Can chi:
-thập thiên can: giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quí.
-thập nhị địa chi: tí, sửu, dần, mẹo, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi.
-Mãng xà: rắn lớn.
-Tám cửa: tức Bát môn. Theo Bát môn đại độn, việc lành dữ được qui ra tám cửa: Sanh, Thương, Đỗ, Cảnh, Tử, Kinh, Khai, Hưu. Tùy ngày giờ xảy ra vụ việc mà đoán lành dữ, mất còn.
-Chim di: loài chim nhỏ bằng ngón tay, ăn lúa, bay từng bầy. Nam bộ gọi là chim sắc: chim sắc mọi ức màu đen tuyền, chim sắc bông ức có đốm trắng đen.
Giương cung mà bắn phụng hoàng,
Chẳng may gặp phải một đàn chim di.
(ca dao)
-Ngựa biền: ngựa đi từng đôi.
-Ngũ lăng:
a)-năm gò đất ở Trường An: Trường lăng, An lăng, Dương lăng, Bình lăng và Mậu lăng.
-chỉ đất kinh thành.
-Mãi võ: múa võ để xin tiền người xem.
-Thị thiềng: (từ Nam bộ)-cách người Nam bộ xưa đọc chữ thị thành.
Mảng lên non tìm con chim lạ,
Chớ chốn thị thiềng, chim chạ thiếu chi.
(ca dao Nam bộ)
-Sơn lam chướng khí: khí độc vùng rừng núi.
-Xọp ve: (từ Nam bộ)-lép xẹp vì không có gì chứa đựng bên trong.
-Già giang: chiếc gông bằng gỗ.
-Cơ hàn: đói và lạnh.
-Ngũ âm: năm cung bậc trong nhạc ngày xưa: cung, thương, giốc, chủy, vũ.
-Lẽo lự: (từ Nam bộ): bẽm mép, lẽo mép, già mồm, tìm mọi lý lẽ để cãi quanh co.
-Căng nọc: hình phạt ngày xưa,- Dùng nọc gỗ cắm xuống đất, căng dây cột tay chân phạm nhân để đánh đập.
-Cao dày: do chữ “ thiên cao địa hậu” (trời cao đất dày,-dùng để chỉ trời đất.
-Bươi: (từ Nam bộ)-lấy tay quào, đào cạn trên mặt đất.
-Công đường: nơi quan lại làm việc hay để xét xử phạm nhân trong các vụ kiện.
-Hạ bộ: phần dưới của thân thể.
-Lôi đình: sấm sét,-chỉ cơn giận dữ.
-Đành hanh: làm chuyện trái ngược, kỳ quái.
-Đậu: (từ Nam bộ)-chung góp lại.
-Thọ giới sa di: (Phật)-mới bắt đầu tu hành.
-Tương liên: thương xót nhau.
-Cải trang: thay đổi quần áo, cách ăn mặc để giả làm người khác.
-Lộn nài bẻ óng: (thành ngữ Nam bộ)-(Nài: sợi dây to và chắc để mắc cày, bừa, trục vào cái ách. Óng: Sợ dây choàng qua cổ trâu bò buộc vào cái ách). Lộn nài bẻ óng chỉ việc không chịu ép mình vào khuôn phép, chỉ hành động trái ngược của kẻ dưới nhằm chống báng người trên.
-Đề lao: nơi giam giữ kẻ có tội.
-Rựng: (từ Nam bộ)-rạng sáng ửng lên.
-Tiểu binh: tiếng tụ xưng của người lính cấp bậc nhỏ.
-Mai đình: sân trồng mai.
-Trường kỷ: ghế dài.
-Đôn: loại ghế ngồi không có miếng gỗ dựa lưng.
-Thơ thới (từ Nam bộ)-thư thái, dễ chịu.
-Tệ phủ: từ nói khiêm tốn của người làm quan, chỉ chỗ làm việc, nơi ở hoặc chính cá nhân mình.
-Cao tăng: từ chỉ nhà sư với vẻ tôn trọng.
-Ánh đạo vàng: chỉ đạo Phật.
-Giáo đầu: người giỏi võ nghệ, rèn luyên quân sĩ.
-Hốt: (từ Nam bộ)-bốc lên, bay lên.
-Kinh dinh: đọc theo kiểu Nam bộ chữ kinh doanh.
-Day: (từ Nam bộ): lay động.
Anh về giồng dứa qua truông,
Gió day bông sậy để buồn cho em.
- Liềm trăng ba điểm sao cài: tức chữ tâm (tấm lòng) như Nguyễn Du đã viết trong truyện Kiều:
Đêm khuya gió lọt song đào,
Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời.
- Mớ nhắm: (từ Nam bộ)-chỉ số lượng ít ỏi, nhưng không chính xác là bao nhiêu.
- Chút đỉnh: (từ Nam bộ)-chút ít.
-Hộ thân: đem bên mình phòng khi túng ngặt.

NhàQuê
13-11-2011, 01:15 AM
E- VỀ CHÙA LẬP THẾ TRẬN, CƯỚP TÙ XA.

1203- Vực sâu dốc dựng mỏi mê,
Rách hông giày cỏ chơn tê tái chồn.
Ố mây rũ bức huỳnh hôn,
Khói vờn lũng xám sơn thôn nắng tà.
Sắc phai lá lục cây già,
Xóm xa leo lét trổ hoa đèn vàng.
Chùa xưa mây ngủ mê man,
1210- Ngân nga chuông muộn mơ màng trong không.
1211- Bước dồn lòng rộn rã lòng,
Dạo qua thăm mấy cội tòng xanh xanh.
Lắc lay, hắt bóng mành mành,
Chuỗi lần mắt khép niệm kinh Đại thừa.
Vén rèm đẩy cánh phên thưa,
Hầu thăm sư phụ gió trưa nắng chiều.
Hương trà ấm khói hậu liêu,
Ngọt bùi ấm lạnh muôn điều xảy ra.
Trình rằng: “Giặc cướp trào ca,
1220- Giả nhơn giả nghĩa, chẳng qua tham tàn.
Lưỡi trâu, miệng méo một đàn,
Tài sơ ôm mộng gác vàng đảnh chung.
Tin loan chánh sự rối bòng,
Tên An Khánh Tự lộn sòng giết cha.
Chín châu mười quận kêu ca,
Tiếng than dậy đất, oán pha ngất trời.
Chim mèo cú vọ nơi nơi,
Giựt tiền đoạt của giết người hiền lương.
Thịt xôi náo loạn hí trường,
1230- Gươm thay lẽ phải coi thường mạng dân.
Vận cơ ắt đã kề gần,
Thiên thời, địa lợi cộng nhơn tâm này.
Mưa dông nào trọn một ngày,
Bốn phương hào kiệt sắp bày giáp nhung.
Chuyển xây đất lở trời long,
Cọp mài móng nhọn tranh hùng một phen.
Túc Tôn về ngự Bành Nguyên,
Tử Nghi thống lãnh binh quyền đặc sai.
Năm này Chí Đức thứ hai,
1240- Ra oai chinh phạt định ngày hồi loan”
Sư rằng: “ Chuyện giặc Khiết Đan,
Xe tù áp giải qua ngang Vân Đài.
Ra tay mới rõ cao tay,
Nghỉ ngơi lại sức,-ngày mai đồng hành.
Hơi tàn còn chút mong manh,
Cũng liều hết sức bình sanh cứu nàn”
Chóp cây cao ửng nắng lan,
Hoa tươi bướm ghẹo, mây vàng gió đưa.
Lau già úa sắc lưa thưa,
1250- In nghiêng vóc dáng buồn xưa lưng đèo.
1251- Chơn lần đá nhọn cành eo,
Khói lam thức giấc thôn nghèo xa xôi.
Núi đồi đứt,- nối núi đồi,
Quanh co lối hẹp, non cơi hai hàng.
Đường biên đặc gật cây đan,
Đồi thông gió rú, thác ngàn nước reo,
Bên khe dựng tạm mái lều,
Che mưa đỡ gió sớm chiều có nhau.
Dang lưng làm mấy ngày thâu,
1260- Diễn đi tập lại cho làu mới ưng.
Đêm đêm, dụi lửa canh chừng,
Lóng tai động tĩnh mấy lần cành rơi.
Sáng lòe sương chiếu mặt trời,
Nước khe cơm ống mới rồi bữa mai.
Tù và lảnh lót thôn ngoài,
Ngọn cây nhìn rõ một bầy Phiên man.
Xét xem vật dụng sẵn sàng,
Im hơi hố kín lợp ngang lá rừng.
Vài tên dáo dác ngó chừng,
1270- Gần nom xa ngóng, ngập ngừng đường hoa.
1271- Giờ lâu tháo bước lộn ra,
Rồi quân binh rộn rịp qua cầu sài.
Vật người lên dốc Vân Đài,
Uốn lưng mãnh hổ, vươn dài giao long.
Mấy tên lính bộ sau cùng,
Bước ngang chửa khỏi, một vòng cầu xây.
Uỉp nghiêng cả bọn lăn quay,
Vực sâu vùi xác, cọc dài xiên thân.
Sườn non sấm chuyển rần rần,
1280- Muôn cây súc nặng ngàn cân ép dồn.
1281- Quân Yên tan mật nát hồn,
Quày lưng chạy ngược bồn chồn đạp nhau.
Điểm tra sĩ tốt lúc đầu,
Mười phần hao bảy, chuyện sao lạ lùng.
Ngất cao mây ngự mấy trùng,
Hố khe hun hút đùng đùng nước sôi.
Đường đi khó quá lên trời,
Chim ngàn xếp cánh chẳng tài vượt truông.
Viên đầu lãnh sợ cuống cuồng,
1290- Rối nùi khó gở được guồng tơ ra.
1291- Lẹ như chim cắt xớt gà,
Lá rơi đầu gió, sao sa lưng trời.
Châu Thông áo bạc quần gai,
Hét dài, tiếng vọng núi ngoài đồi trong:
-“ Sức trâu có chém được rồng,
Dấn thân đất chết đừng trông thoát nàn.
Sa tràng nợ máu trót mang,
Khó chui nhủi trốn tìm đàng uổng công”
Nhẹ như gió thoảng nhành thông,
1300- Phi tiêu bay vụt từ lòng bàn tay.
Trúng thương, ngã gục cả hai,
Phụt đôi vòi máu giữa ngay yết hầu.
“ Còn người ta sẽ tính sau,
Nếm cho trải vị sơn hào nhà ta”
Bỏ yên, ngựa vọt chạy xa,
Viên đầu lãnh tuốt kiếm ra sáng ngời.
Nhìn Châu chằm chặp chẳng rời,
Mày cau hực lửa, nhếch môi cười gằn.
Châu Thông bình tĩnh mười phần,
1310- Khí thiêng núi Sở non Tần,-giáp công.
1311- Giỡn đùa, lượn múa hai rồng,
Lại qua chín hiệp cầm đồng kiếm côn.
Gồng tay, máu nóng chuyển dồn,
Nhón chơn, Châu nhảy lượn tròn từng cao,
Quay côn nhắm thẳng đỉnh đầu,
Gầm lên một tiếng giáng vào tam tinh.
Tướng Yên vùng vẫy tung hoành,
Nghiêng vai né khỏi, lách mình tràn qua.
Ướm chừng thanh thảo lạc hoa,
1320- Lia thanh trường kiếm quét qua một vòng.
1321- Châu Thông vốn đã dự phòng,
Côn quay vun vút mảy lông khó vào.
Trang dõng sĩ, khách anh hào,
Hai dòng thác lũ cuộn trào sườn non.
Kiếm ngân sang sảng chạm côn,
Côn vung vùn vụt đỡ đòn dưới trên.
Giá côn, nhảy trái hét rền,
Đốc roi nhắm huyệt Liêm tuyền tạt ngang.
Tướng Yên lui tới lẹ làng,
1330- Thâu, giương ngọn kiếm chận đường côn qua.
1331- Kiếm huơi chém phập côn ngà,
Kéo trì hai gã, sút ra được nào!
Châu Thông trí sáng kế cao,
Co chơn gót trái đạp vào Quan nguyên,
Tay côn xoay vặn liền liền,
Cương đao phạt mộc chém xiên Ấn đường.
Phát chiêu tinh luyện lạ thường,
Làn tơ kẽ tóc, điểm dường không sai.
Tướng Yên binh khí rời tay,
1340- Thuận đà, Châu đá kiếm bay xuống gành.
1341- Rút Long Toàn lóa thép xanh,
Cả cười: “ Cái chết hẳn dành cho ngươi,
Sợ e miệng thế nhiều lời,
Đường đường danh tướng giết người tay không.
Được thua một cuộc tranh hùng,
Thấp cao một trận Mai thung bên này.
Cho ngươi lăn lóc đọa đày,
Trò mèo giỡn chuột kéo dài thương đau!
Phóng mình vận khí nhảy vào,
1350- Rập ràng kẻ trước người sau đối đầu.
1351- Châu Thông chấp chỉ Khô lâu,
Đứng Kim kê tấn, khấu đầu phương Đông.
Hiệp tiên, Phiên tướng khắc bông,
Long thăng hổ giáng hiệp đồng chơn tay.
Nghịch lân cước giải nguy ngay,
Châu tràn gạt đỡ phát hai đòn liền.
Chưởng vung đất lở trời nghiêng,
Bước theo chín bộ thẳng xiên thưa dày,
Cứng mềm uyển chuyển đôi tay,
1360- Phụng hoàng sè cánh che mây rừng tòng.
1361- Tướng Yên lừa thế phản công,
Loạn điên cuồn cuộn trốt lồng qua đê.
Mắt và chớn thủy nhứt tề,
Giương đôi song chỉ xỉa về như tên.
Nhắm ngay hạ bộ thốc lên,
Vung hông tả cước điểm liền đúng nơi.
Sá gì ngón mọn đồ chơi,
Dễ đâu thua thắng đổi dời mà mong!
Bình lâm hạc lập dụng công,
1370- Nhẹ nhàng hóa giải thoát vòng hiểm nguy.
1371- Tràn ngang bắt ngón tức thì,
Lòn qua nhắm huyệt Phong trì chém sâu.
Độc chiêu phải dốc kế mầu,
Đà đao trá bại ngỏ hầu nên công.
Giả đò khí huyết chẳng thông,
Dáng như thở gấp đứng không vững vàng,
Tướng Yên vung chưởng phạt ngang,
Nhón chơn chảo mã bước tràn phát chiêu.
Châu đà liệu trước mọi điều,
1380- Gồng tay điểm mạnh hạ tiêu một quyền.
1381- Tướng Yên lùi bước lách nghiêng,
Châu Thông tấn hữu bộ liền bên hông,
Giương nanh cọp múa móng rồng,
Cuồng phong xô đổ cội tùng khó chi.
Cạnh tay chém thẳng Đại chùy,
Thuận đà thộp cổ kéo ghì ngã ngang.
Thế tình đến quá vội vàng,
Tướng Yên té ngửa trên giàn mai thung.
-“ Khá khen tài bộ anh hùng,
1390- Kiếm côn trăm hiệp cầm đồng bổn gia.
Cước quyền gẫm cũng tay già,
Khơi dòng kinh sử, nếp nhà trâm anh.
Lạ chưa?- Quì gối khom mình,
Thờ tên dâm loạn, ô danh muôn đời?”
Rằng: “ Suy thấu đáo kiếp người,
Mất còn trời định, ấy lời ngàn xưa.
Chiếc thân mảnh lá sa cơ,
Rớt gươm giữa trận là giờ nát thân.
Trước hồi phách lạc non thần,
1400- Ngọn ngành cội rễ mười phân tỏ bày.
Cố hương mưa tối bão ngày,
Máu loang ngập rẫy, tro bay khắp dồng.
Giặc đương chiếm cứ cả vùng,
Lớp trai vô tội gánh gồng nghiệp chung.
Dồn vào thế bí nước cùng,
Phải mang cung nỏ, buộc dùng dáo khiên.
Lót vàng mua chữ bình yên,
Không lo tiền của, sung liền trong quân.
Gió đưa lạc chốn bụi hồng,
1410- Mặc con sóng vỗ, mặc dòng nước đi.
Ngàn dâu bóng xế ai bi,
Sợ con nát giáp, lấy gì gói thân!
Mẹ già mái lạnh một thân,
Đầu hiên vò võ trông lần tin con.
Ngọt bùi chữ hiếu chưa tròn,
Mây non Tần ngóng những mòn con ngươi.
Miệng đời biếm nhẻ mấy mươi,
Làm trai hổ đất thẹn trời bởi đâu?
Trót vương mắc nợ máu đào,
1420- Ơn đền oán trả,-cơ mầu hóa công.
Cớ chi dùng trận Mai thung,
Giữa đường gặp gỡ giao phong?,-Khá bày!
Lời hay rót mật vào tai,
Nỗi niềm trút cạn, cảm hoài xiết bao.
Hơn thua đã định thấp cao,
Thương tài tiếc phận, nỡ nào chẳng dung.
Chống gươm, đầu óc rối tung,
Giận hờn nghiệp chướng, đau lòng trái oan.
Lấy ơn báo oán cho an,
1430- Kết chi cho rối tới ngàn kiếp sau.
1431- Cũng đồng hoạn nạn như nhau,
Sân Lai khuất nẻo đã hầu mấy trăng.
Làng xưa thăm thẳm sầu giăng,
Phủ trùm núi Dĩ mấy lần nước mây.
Tình này dễ mấy riêng ai,
Trói chung cảnh ngộ,-Cao dày khéo trêu.
Chạnh thương xóm nhỏ một chiều,
Mắt lòa chân chậm tiêu điều mái hoang.
Tin đâu vụt đến ngỡ ngàng,
1440- Đứa con nhờ cậy chiến tràng gởi thây.
1441- Cheo leo đồi núi rậm cây,
Xác phơi truông lạnh, chim bầy rỉa ăn.
Mũi lòng tre cỗi khóc măng,
Nghĩ thôi, Châu lại dùng dằng gươm buông.
Dạy rằng: “ Cám cảnh huyên đường,
Đây tha cho, kíp hoàn hương cày bừa.
Sớm hôm đạm bạc muối dưa,
Cháo rau dền muống, phụng thờ từ thân”
Lau già gió ríu tiếng ngân,
1450- Nước xô đá dựng chim rừng líu lo.
1451- Ngàn hoa nội cỏ thơm tho,
Hương trinh nguyên, nụ mấy giò lan xinh.
Tiếp lời: “ Chưa rõ tánh danh,
Không đồng trang lứa, chẳng tình bút nghiên.
Trời xui cá nước bén duyên,
Bá Dương sương ấm, Tập Hiền trăng trong.
-“ Giấu chi, tên họ Vu Đồng,
Theo đòi cử nghiệp, nối dòng thơ hương.
Kê vàng tỉnh mộng canh sương,
1460- Nhát gươm đoạn mạng, sa trường vùi thân.
1461- Thong dong phủi sạch bụi trần,
Non Đoài treo kiếm, sông Ngân rửa đòng.
Cất cung, lánh đục tìm trong,
Thơ vương khói trúc, trăng lồng mành hoa”
Tức thì nghiêm lịnh ban ra,
Truyền quân mở cửa tù xa ngay liền.
Nặng nề lạch cạch xích xiềng,
Hai người gầy yếu, gông riêng chung cùm.
Bơ phở, cổ mỏi lưng khum,
1470- Oai phong đâm sấu bắt hùm còn đâu!
1471- Ngỡ là làm quỉ không đầu,
Hay nằm ngục hẹp, đếm sầu qua tay.
Đời không quen, ngự cõi ngoài,
Ngày ngồi tù, tính ra dài trăm năm.
Vây quanh bóng tối âm thầm,
Bên trời vạc lẻ, tiếng cầm canh thưa.
Thềm rêu tí tách hột mưa,
Vắt tay qua trán, thức thừa trắng canh.
Ao vườn nghiêng bóng bông chanh,
1480- Tấc gang,- mình lại vô tình. Xót xa.
1481- Hết lưu lạc lại chung nhà,
Chồi mai năm cũ trổ hoa đúng tuần.
Trời trong xanh, nắng trong ngần,
Hạc giương cánh rộng ôm vừng mây cao.
Châu rằng: “ Bốn biển kết giao,
Gót trần muôn nẻo, anh hào bốn phương.
Đâu cần cùng sách chung trường,
Cỏ bồng gió cuốn, bước đường rủi may.
Ta cùng với họ Vu đây,
1490- Đọ so đao kiếm, vui vầy tình thân”
1491- Vu Đồng bẽn lẽn tới gần,
Cúi đầu ra mắt tỏ phân sự tình:
-“ Lụa, vàng chở thẳng Yên kinh,
Giao anh em cứ mặc tình định phân”
Châu rằng: “ máu tủy lê dân,
Giặc kia quào hốt, giành phần tư riêng.
Sống quen đơn bạc cửa thiền,
Ta không tham đắm những phiền lụy đâu.
Chia cho lính tráng đều nhau,
1500- Làm tiền lộ phí quay đầu về ngay.
Thôn làng, mái ấm dựng xây,
Hái rau bắt ốc, tháng ngày náu nương,
Chớ đem thân bỏ chiến trường,
Đừng khơi sông máu núi xương từ rày.
Bao nhiêu da ngựa bọc thây,
Gan vàng mạng bạc trận này vừa xong.
Gót đầu phủ đắp lụa hồng,
Sang hèn chẳng kể, chôn cùng một nơi.
Lúc còn, dọc đất ngang trời,
1510- Ai thờ chúa nấy, chuyện đời trớ trêu.
1511- Vô thường hồn quỉ réo kêu,
Trút tàn hơi thở, thảy đều như nhau.
Liệm khâm chôn cất gò cao,
Cắm bia, vun núm, vẹn câu ân tình.
Mai kia, tàn lụi lửa binh,
Nắm xương cải táng di hình đất quê”
Vu Đồng cảm đức muôn bề,
Dùng dằng chưa muốn dứt về cố hương.
Châu rằng: “ Sốt nắng lạnh sương,
1520- Mẫu từ giọt nhớ giọt thương từng giờ.
Ruổi giong gặp gỡ ai ngờ,
Di Ngô, Bảo Thúc, hẳn chờ một mai”.
Nắng nghiêng nghiêng đổ bóng dài,
Đầu non bịn rịn chia hai lối đời.
Ngập ngừng chiếc lá vàng rơi,
1526- Tơ mành nương gió,- Phương trời nào đi?


CHÚ THÍCH:

-Sơn thôn: làng xóm vùng rừng núi.
-Hậu liêu: phòng nghỉ ngơi của sư trụ trì phía sau chùa.
-Chánh sự: việc chánh trị diễn biến trong nước.
-Hí trường: nơi mọi người vui chơi.
-Thiên thời: thời cơ do sự vận hành của vũ trụ đưa đến.
-Địa lợi: những thuận lợi do đất đai, hoàn cảnh xã hội.
-Nhơn tâm: lòng người.
-Giáp nhung: áo giáp và binh khí; chỉ việc quân sự.
-Mưa dông nào trọn một ngày: lấy ý trong hai câu trong Đạo đức kinh của Lão tử:
“ Phiêu phong bất chung triêu,
Sậu võ bất chung nhựt”
( Gió mạnh không kéo dài hết buổi sáng, mưa rào không kéo dài trọn một ngày),-ý nói thời gian qua mau, mọi việc xảy ra sẽ kết thúc mau lẹ.
-Chinh phạt: kẻ có chánh nghĩa đi đánh dẹp giặc.
-Hồi loan: (vua) trở lại kinh đô.
-Sức bình sanh: sức lực có sẵn lúc còn sống,
-Cơi: (từ Nam bộ)- nâng cao lên.
-Dụi: làm cho tắt.
-Cửa sài: cầu gỗ.
-Xây: (từ Nb)- quay tròn.
-Lóng tai: (từ Nb)- lắng tai để nghe rõ.
-Điểm tra: coi lại, đếm lại.
-Tùy tướng: các tướng thuộc cấp đi theo tướng soái.
-Cắt: (cg: chim bồ cắt)- loại chim ăn thịt sống, lanh lẹ trong việc săn mồi, thường
sà xuống bắt gà con.
-Phi tiêu: loại ám khí có cạnh sắc bén, dùng để quăng ném, sát thương địch thủ.
-Cầm đồng: ngang ngửa, chưa phân thắng bại.
-Tam tinh: ngay giữa trán.
-Thanh thảo lạc hoa: hoa rơi trên cỏ xanh,-ý nói rơi nhẹ xuống đất.
- Giá: giáng xuống nhưng không đánh.
“ một cái gía bằng ba cái đánh” (tục ngữ)
-Đốc roi: cán roi, cán cây côn.
-Liêm tuyền: huyệt nằm dưới cuống họng.
-Quan nguyên: huyệt nằm dưới rún (rốn)
- Cương đao phạt mộc: dao cứng róc vỏ cây,- một lối chỉ pháp sè các ngón tay
gồng cứng, chém vào địch thủ bằng cạnh bàn tay.
- Ấn đường: huyệt nằm chỗ hai mi mắt giao nhau.
-Long toàn: tên thanh gươm quí, cùng một cặp với Thái A.
-Tinh luyện: khéo léo, chính xác tối đa.
-Mai thung: tức Mai huê thung, một lối đánh võ của hai người trên giàn cột gỗ chôn đứng.
-Chỉ Khô lâu: một lối chỉ pháp gồng cứng và co các ngón tay lại nhưng không nắm chặt vào lòng bàn tay.
-Kim kê tấn: một lối đứng tấân trụ bộ trên một chân, còn chân kia co lên.
-Rập ràng: (từ Nb)-ăn rập, nhịp nhàng với nhau.
-Hiệp tiên: hiệp đầu.
-Khắc bông: tấn công trước.
-Nghịch lân cước: đòn đá ngắn, từ dưới thốc lên.
-Long thăng hổ giáng: tên một chiêu thức trong Mai hoa quyền.
-Chưởng: lòng bàn tay.
-Song chỉ: một chỉ pháp giương hai ngón tay trỏ và giữa ra để đâm vào các huyệt trọng yếu của địch thủ.
-Chớn thủy: chỗ lõm phía dưới ngực.
- Nhứt tề: cùng một lúc, cùng một lượt.
-Bình lâm hạc lập: tên một thế võ đỡ đòn gồm có:
-gạt tay trái từ phía phải qua ngang mặt,
-gồng cứng và giương thẳng tay phải, gạt mạnh từ trái qua phải ngang qua bụng và hạ bộ.
- Lao cung: tên một huyệt đạo nằm trong lòng bàn tay.
- Phong trì: huyệt nằm ngay hành tủy, phía sau sọ đầu.
- Độc chiêu: đòn ác hiểm.
-Đà đao trá bại: một chước dùng trong binh, giả thua bỏ chạy. Nếu địch thủ đuổi sát theo, thì xuất kỳ bất ý quay ngược trở lại, vung đao chém chết địch thủ.
-Chảo mã: một thế đứng tấn, một chân trụ bộ còn chân kia nhón lên.
-Phụng hoàng sè cánh: (cg: phụng hoàng triển dực)- lối thủ hai tay dang rộng.
-Hạ tiêu: một trong tam tiêu: thượng tiêu: phía trên cuống bao tử; trung tiêu: phần giữa bao tử; hạ tiêu: phần dưới bao tử.
-Tấn hữu bộ: tiến về phía trước, bước chân phải về trước.
-Đại chùy: tên một huyệt nằm sau ót (gáy).
-Bổn gia: tiếng tự xưng.
-Phách lạc non thần: chết.
-Ngàn dâu bóng xế: do chữ: “ Nhựt lạc tang du (dịch: bóng ngã nhành dâu),-chỉ người lớn tuổi hoặc cha mẹ già yếu.
-Mây non Tần: (cn: mây núi Tần Côn lãnh ),-chỉ người mẹ hoặc lòng nhớ mẹ (đã dẫn tích Địch Nhơn Kiệt phần trước ).
- Cơ mầu: máy trời mầu nhiệm.
-Cảm hoài: lòng thương cảm.
-Nghiệp chướng: (Phật)- những trở ngại khó khăn mà kiếp người phải gánh chịu.
-Núi Dĩ: chỉ người mẹ,-lấy ý trong Kinh Thi.
-Muối dưa dền muống: chỉ cuộc sống đạm bạc.
-Bá Dương: tức gành Bá Dương, nơi Bá Nha gặp Chung Tử Kỳ lần đầu.
-Cải táng di hình: hốt xương cốt dời đi nơi khác để chôn lại.
-Di Ngô, Bảo Thúc: tức tình tri kỷ giữa Quản Trọng (tên chữ là Di Ngô) với Bảo Thúc Nha.

NhàQuê
13-11-2011, 01:18 AM
F- VỀ CÀN LÃNH


1527- Dựa lưng nhắc phút phân kỳ,
Ngày trôi chẫm rãi, bóng đi la đà.
Xuống đồi lửng thửng đường hoa,
1530- Lối mòn cỏ cụt, hương hòa bước khoan.
1531- Chim hôm tíu tít kêu đàn,
Cây thoi thóp nắng, lau vàng gió ru.
Non chiều sẫm nét âm u,
Đêm giăng màn phủ mịt mù thấp cao.
Rằng: “ Sông núi vạn nẻo sầu,
Gió tanh mưa máu cuộn trào bùn nhơ.
Thước gươm mài ánh trăng mờ,
Tâm rèn chí luyện, rồng chờ lên mây.
Hùm thiêng bó gối trói tay,
1540- Gan moi giữa chợ, voi giày Yên kinh.
1541- Quẩn quanh vũng cạn bọn mình,
Ao lầy giấu mặt, linh đinh phận bèo.
Chua cay ôm phận gieo neo,
Lưng kề nanh sói, cẳng đèo xích gông.
Son kia nghiền nát vẫn hồng
Trúc ngay dẫu cháy vẫn không đổi hình.
Đường vô đất Thục gập ghình,
Vách cao đá dựng, hành trình gian lao.
Biển sâu trời thẳm một màu,
1550- Dẫu bao nhiêu rộng, ôm vào vòng tay.
1541- Đảnh mây Càn lãnh chốn này,
Cây xanh bóng mát, tháng ngày tạm dung
Ba đào sấm động đùng đùng,
Cỡi đè sóng dữ,-lòng chung một lòng.
Mất còn quyết trận nên công,
Xăn tay đuổi cọp, diệt dòng Khiết Đan.
Cào bằng muôn ngọn Thiên san,
Ngựa thù bặt dấu ải lang ra vào.
Khí hùng sánh Thái sơn cao,
1560- Quên thân vì nghĩa, anh hào mới đang”
1561- Đường dê lối thỏ dọc ngang,
Gió mơn đầu cỏ, sương choàng ấp vai.
Đỡ lòng, cá suối măng mai,
1564- Thân nằm lều gỗ, hồn ngoài biên cương.



G- CỬA THIỀN SANH BIẾN.


1565- Đói no dầm dãi dặm trường,
Ruổi mau dặm thẳng, gió nhường bước chân.
Tới chùa, chưa cạn lời phân,
Sư già bấm đốt, ngón lần can chi.
-“ Cứ theo hình tướng mà suy,
1570- Sắc thần u ám, giao mi tối sầm.
1571- Đánh tay tám cửa chẳng lầm,
Tử môn giờ Tí ngày rằm bữa nay.
Mười phần rủi, một phần may,
Kiếp người chắc gánh chịu dài gian nan.
Quảy bầu, xách gói hành trang,
Đông Nam nhắm hướng lên đàng ruổi giong.
Thấy chùa bốc ngọn lửa hồng,
Tiếng tru lang sói, mây lồng tàn tro.
Là con mau lẳng lẹ giò,
1580- Cao bay xa chạy, mặc cho phận thầy.
1581- Gốc tàn mong lá xanh cây,
Sum sê chồi nụ, đợi ngày đơm bông.
Từ nay, ghi khắc vào lòng,
Bước ra cẩn thận, vào trong giữ gìn.
Dao con giắt gọn theo mình,
Đội khăn đạo sĩ, thay hình lái buôn”.
Ôm chơn thầy, nước mắt tuôn:
- “Trốn đi để lại cảnh buồn nào an.
Xin cùng trải mật phơi gan,
1590- Dẫu cho khổ lụy muôn ngàn cũng ưng.
Báo đền ơn nặng ba xuân,
Công lao nuôi dạy chín từng mây xanh”.
Sư rằng: “ Lời dạy đinh ninh,
Gánh gồng việc lớn, mới đành dạ ta.
Đeo mang tánh nết đàn bà,
Khóc than kể lể ắt sa lưới chồn.
Vui sau, lo trước mới tròn,
Nghe đây lời cuối, mới còn ngày mai.
Cõi đời chướng mắt trái tai,
1600- Không cam chịu nhục, ắt hoài thân danh.
1601- Mong manh một sợi tơ mành,
Chiếc thân tứ đại, bèo gành mê tân.
Bùn nhơ lem ố gót trần,
Có không, không có, chớp lưng trời tà.
Sáu mươi tuổi, kể đã già,
Lá vàng nguyền ấp ủ hoa đương thì.
Tránh xa tai họa mau đi,
Cáo bầy khó chọi,-ích gì cho ta.
Lại thêm rắc rối khó mà
1610- Biện minh vụ cướp tù xa vừa rồi”
Giọt buồn cay mắt mặn môi,
Bóng thơ thẩn bóng lưng đồi trăng cao.
Thoắt rồi giờ Sửu đêm sau,
Quân binh đầy nẻo, xôn xao giáp vòng.
Bầy vò vẽ, lũ bọ hung,
Kích chong, mâu chĩa vào trong Phật đài.
Lăm lăm kiếm tuốt cầm tay,
Đạp bung phên cửa, bủa vây thơ phòng.
Sư già ngước mắt lên trông,
Tướng Yên mày xếch dáng dong dỏng người.
Da ngăm, trạc phỏng bốn mươi,
Râu rìa quai nón, mắt ngời hung quang.
Hét hò chỉ dọc trỏ ngang,
Thò tay nắm cổ hỏi quàng hỏi xiên:
-“Ẩn thân, núp cảnh chùa chiền,
Mưu ma chứa chấp một tên gian tà.
Giả danh dựa bóng Di Đà,
Giết quân chém tướng máu sa thây chồng.
Cướp tù xa, đoạt của công,
1630- Ngoài mồm niệm Phật, trong lòng gươm đao”
1631-Sư già lặng lẽ cúi đầu,
Rằng: “ Lòng ngay thiệt, dám đâu vạy tà,
Rộng thương bãi cát Hằng hà,
Lượng trên bớt giận, nghe qua đôi lời.
Xin truyền lục soát mọi nơi,
Vạch tìm tung tích của người tình nghi.
Bần tăng chịu án lăng trì,
Luật vua phép nước dám gì kêu oan.
Ví bằng chẳng có quân gian,
1640-Để cho đây được an toàn mạng căn”
1641-“Bày trò nói cuội nói trăng,
Vòng vo Tam quốc lằng nhằng đâu đâu”
Ngoắt tay, quân sĩ ùa vào,
Giở tung thiền viện, bới đào phòng trai.
Lôi sư ra trước hiên ngoài,
Oang oang xuống lịnh bày ngay cực hình.
Roi da túi bụi vấn mình,
Máu tuôn thịt nát, mới đành chịu đi.
Mỏ giỏ giảnh, giọng khinh khi,
1650- “ Nạp giao tội phạm tức thì lên quan.
Điêu ngoa giữ thói ương gàn,
Bổn quan há để bình an chùa chiền”
Ồn ào tốc thẳng ra liền,
Sư lim dim mắt tham thiền giữa sân.
Đắn đo thôi lại cân phân,
Bó tay chịu nhục cũng gần ngu si.
Cờ cùng phải chọn nước đi,
Bỏ mình theo nghĩa, oai nghi trận tiền.
Thắp hương, quì lạy khấn nguyền,
1660- “ Con nay chưa dứt oan khiên bụi trần.
Cây im, gió lấn lướt lần,
Ao sen tĩnh lặng, rần rần lửa sôi.
Nhớ xưa phát nguyện trọn đời,
Gởi thân cội phước, lánh nơi bụi hồng.
Nương thuyền Bát nhã một lòng,
Dẹp ma lục dục, thoát vòng vô minh.
Nặng nề duyên nghiệp phù sinh,
Họa tai chờ chực bên mình biết đâu!
Ngửa trông Tam bảo nhiệm mầu,
1670- Chứng con tu xuất, hồi đầu thế gian.
Cà sa, y bát, chuỗi tràng,
Rày xin trân trọng giao hoàn Phật gia.
Lòng thành niệm chữ Di Đà,
Ban mười tinh tấn độ qua cơ cầu”
Giọt rồng chậm chạp đêm thâu,
Xếp bằng nhắm mắt tới đầu canh tư.
Hạ tuần trăng lợt màu tơ,
Vấn vương song quạnh, lờ mờ sương bay.
Chênh vênh đơn chiếc sao mai,
1680- Non Đông đậm bóng, chơn mây tỏa hồng.
1681- Chỉnh trang võ phục vừa xong,
Dung nghi lẫm liệt, oai phong dường đường.
Giắt mình thép lạnh Can Tương,
Nhẹ nhàng nhón gót ngọn tường nhảy qua.
Lù mù truông vắng hiện ra,
Ngựa người rón rén dò la bước thầm.
Núi rừng lặng tiếng trầm ngâm,
Đục mờ mây lạnh ôm chầm đồi hoang.
Hai tên hộ vệ mở đàng,
1690- Sư già máu cuộn buồng gan hận thù.
1691- Nhắm đầu côn sắt bay vù,
Võ quan bên trái lăn cù khỏi yên.
Bay vèo, ngọn dáo phóng xiên,
Bổ nhào, tên khác chết liền theo sau.
Khiếp kinh dựng tóc xuôi râu,
Văn Toàn chưa biết lẽ nào liệu toan.
Lôi thôi vừa tới tam quan,
Nghe dài tiếng hú lửng ngang lưng trời.
Ngân xa đồng vọng núi đồi,
1700- Ngàn sao giá lạnh vượt ngoài Thái hư.
1701- Trên đầu tháp cổ phất phơ,
Tuyết pha sắc áo, trăng mờ ngọn côn.
Ấm hơi, dõng dạc ôn tồn,
Sấm gầm giọng nói, sóng dồn cỏ hoa:
-“ Bọn bây quen thói gian tà,
Đêm hôm dẫn xác làm ma không đầu.
Sá gì một mảnh áo nâu,
Lùa quân vô tội dãi dầu dặm sương.
Hai tên dẫn lối ngông cuồng,
1710- U mê chết bụi, chết đường nát thây.
1711- Chồn gian sói ác lũ bầy,
Chó nào chủ nấy, tớ thầy khác chi.
Bày trò dâm loạn cung vi,
Lung lăng tiếm vị kể chi đất trời,
Manh tâm thay bực đổi ngôi,
Đảo điên phong hóa, suy đồi lễ văn.
Quê nghèo cực khổ nào bằng,
Mang chài mang lưới, miếng ăn tồi tàn.
Cao lương mỹ vị mỡ màng,
1720- Sâu dân mọt nước, tham quan cửa quyền.
1721- Của chung chèn nhét túi riêng,
Lửa châm sách vở thánh hiền ra tro.
Nực mùi giọng lưỡi côn đồ,
Dáo gươm giết kẻ thế cô hiền lành.
Giàu sang vinh hiển riêng mình,
Chết còn trối kệ, mặc tình dân đen.
Ngôi cao lũ mọi ương hèn,
Học đòi cờ quạt, trống kèn, ngựa xe.
Non Nam đốn rụi nứa tre,
1730- Cũng chưa chép hết tội bè Khiết Đan.
1731- Biển Đông nước xoáy sóng tràn,
Gụt đâu sạch thói tham tàn bọn bây.
Áo tơi quần mướp xưa nay,
Khuất tròng danh lợi, bịt tai chuyện đời.
Thong dong, chùa ẩn mây trời,
Công phu chuông sớm, rong chơi ban chiều.
Vừa rồi, giặc cỏ lắm điều,
Chùa chiền bươi nát, đơn biều đập tan.
Ỷ đông, hại kẻ quả quan,
1740- Chó bầy háu cắn,-nghĩ càng thương thân.
1741- Nay ta phát nguyện một lần,
Giúp dân trừ bạo, diệt quân phản loàn.
Mày râu chí cả trót mang,
Sợ chi giữa trận, Long toàn gãy đôi.
Lòng tong cá chốt mê mồi,
Tham ăn rốt cuộc thây trôi theo dòng.
Bốn phương nhen nhúm lửa hồng,
Dang tay góp gió, bão dông sẽ tràn.
Là ngày hùm rũ xương tàn,
1750- Thuồng luồng mục xác trong hang âm thầm.
1751- Lằng ruồi, ong kiến bặt tăm.
Non chờ nước đợi,-ngàn năm thái bình”.
Văn Toàn xuống lịnh Yên binh,
Lui ra trống trải, tự mình ứng cơ:
-“ Bổn quan nóng ruột trông chờ,
Đọ so cao thấp nước cờ tranh tiên.
Mựa đừng múa mỏ nói điên,
Long tranh hổ đấu một phen mới là”
Nhẹ nhàng thân pháp lạc hoa,
1760- Lão sư đáp xuống cách ba trượng ngoài.
Mày thanh, mắt phụng, hình mai,
Tiên phong đạo cốt, râu dài trán cao.
Nắng vàng ửng mặt hồng hào,
Trường côn lạnh thép, bạch bào in sương.
Văn Toàn cao ngạo dương dương,
-“ Gần chun xuống lỗ, tranh phuông nỗi gì?
Biết điều, đầu mọp gối quì,
Rước chi cái chết thây thi chẳng toàn?”
Sư già dõng dạc hiên ngang:
1770-“ Tuổi cao tác lớn cũng trang anh hùng.
Xỏ xâu đầu giặc Tây nhung,
Tiếng đêm hạc vọng chạy ùng quân Liêu.
Ngã màu bông, tóc Ban Siêu,
Vung ba thước kiếm đạp xiêu lũy thành.
Biên thùy bọn phỉ nghiêng mình,
Bốn phương Triệu Kiệt oai danh ngất trời.
Nay ta nói gọn một lời,
Giết mi rửa hận, cứu đời mới an”
Văn Toàn lửa giận dẫy tràn,
1780- Kiếm vung bổ dọc chém ngang mấy đường.
1781- Lung linh thép ánh lồng gương,
Vèo vèo gió rít, đẹp dường hoa bay.
Lão sư cử nhẹ côn dài,
Nhún mình nhảy trái ra ngoài tầm gươm.
Tướng Yên long mắt lườm lườm,
Múa tròn binh khí nhảy chồm giao phong.
Vực sâu, sấu dữ lộn lồng,
Cũng đâu dễ bắt chim hồng mây cao.
Nghiêng mình xao động áo bào,
1790- Phi tiêu một ngọn vụt ào khỏi tay.
1791- Thổi làn hơi nhẹ heo may,
Nửa thanh kiếm gãy văng ngoài nằm phơi.
Vội vàng cẳng sải tay bơi,
Văn Toàn chụp ngọn kích nhồi sau lưng.
Của tay tùy tướng nạp dưng,
Mím môi cười gượng muôn phần hổ ngươi:
-“ Sắt non dám sánh vàng mười,
Bao lăm tài bộ coi trời bằng vung?”
Ầm ầm sấm động mây đùn,
1800- Răng beo dưới thấp, vuốt rồng trên cao.
1801- Côn dài đùa ngọn sóng trào,
Mưa tuôn cội liễu, gió gào rừng thông.
Sư già qua lại, thủ công,
Tay côn thoăn thoắt lượn vòng cương nhu.
Gậy vung đánh đỡ vù vù,
Thích vào giữa trán Phiên nô mấy lằn.
Nhặt thưa, tay điểm hoa văn,
Viết thành chữ “ cẩu” in hằn máu hoen.
Tai mèo cắt đã hai phen,
1810- Tía tai đỏ mặt nổi điên đùng đùng:
-“ Hiểm sau thay! Lão trọc khùng,
Tu hành dối trá, dạ lòng gian ngoan.
Thù sâu muôn kiếp nào tan,
Giết mi mổ mật móc gan rửa hờn.
Chùa đâu ngách sói hang chồn,
Một bầy ma quỉ, một phồn hổ lang”
Kíp truyền thuộc hạ dàn ngang,
Xôn xao nỏ kéo, rộn ràng cung giương.
Liều thân dốc chí tranh cường,
1820- Sống hùng nào quản bước đường chông gai.
1821- Thâu toàn sức lực vào tay,
Ngọn đao trủy thủ vụt bay lộn vòng,
Văn Toàn sơ ý chẳng phòng,
Trúng thương, ngực đẫm máu hồng, ngã lăn.
Chống kình mỗi phút nhọc nhằn,
Tới lui chậm chạp, rào ngăn vụng về.
Am mây lửa dậy bốn bề,
Phủ dày cả cội bồ đề khói cay.
Tan hoang chánh điện, lễ đài,
1830- Tàn tro theo gió đồi ngoài lũng trong.
Mũi lòng, lụy nhỏ ròng ròng,
Liếc ngang đoái cảnh, tấc lòng vò tơ.
Đương cơn giựt dáo cướp cờ,
Sa tay, sểnh miếng, hẳn giờ tử vong.
Thờ ơ đạn sắt tên đồng,
Hồn nương cánh hạc non Bồng đi xa.
Đền xong nghĩa nước tình nhà,
Vuông tròn Đời, Đạo,-Vẹn ta vẹn người.
Mắt thanh thản ngắm nhìn đời,
1840- Chống côn ễn ngực giữa trời như không.
1841- Trắng tinh mây mây nổi bình bồng,
Thời gian nuối,- vẫn xuôi dòng, ai hay.
Cội thông vóc thẳng lá dày,
Cúc vàng mấy đóa lạc loài bờ hiên,
Đức Từ bi đã chứng miêng,
1846- Nước Cam lồ rưới, nghiệp duyên an bài


CHÚ THÍCH:

- Thiên san: Trung quốc có hai dãy Thiên san:
1-dãy núi cao giáp giới Trung quốc và Triều Tiên, có ngọn Ma thiên lãnh.
2-dãy núi cao ở Tân Cương.
-Tứ đại: nhà Phật quan niệm thân thể con người do tứ đại giả hợp. Đó là: địa (đất), thủy (nước), hỏa (lửa) và phong (gió).
-Cáo bầy khó chọi: lấy ý trong câu: “ Mãnh hổ nan địch quần hồ” (Cọp mạnh khó chống lại bầy chồn).
-Có không, không có chớp lưng chiều tà: lấy ý trong câu thơ thiền đời Lý:
“ Thân như điện ảnh hữu hoàn vô”
( Thân như ánh tia chớp, có rồi lại không).
- Hằng hà: tức sông Gange, tên con sông lớn ở Ấn Độ. Kinh Phật có chữ “Hằng hà sa số” (số hột cát của sông Hằng ), ý nói nhiều vô kể.
-Lăng trì: lối hành hình bằng cách lóc thịt.
-Cực hình: hình phạt khảo tra nặng nề như dùng gậy đánh, kẹp ngón tay, bắt đi trên củi lửa đang cháy hoặc căng tay chân bằng giùi nọc để đánh.
-Oan khiên: gánh nặng ức oan.
-Lục dục: Phật quan niệm có sáu thứ bụi bặm: sắc (màu mè), thanh (tiếng), hương (mùi thơm), vị ( cái mà lưỡi nhận được), xúc (sự sờ mó ), pháp (điều cảm nghiệm được nhờ trí suy nghĩ ).Mong muốn được lục trần là lục dục. Lục dục thâm nhập vào người do lục căn (sáu cội rễ): nhãn (mắt), nhĩ (tai ), tỉ (mũi ), thiệt (lưỡi ), thân (cơ thể), ý (tư tưởng).
-Vô minh: sự u tối, không sánh suốt, không nhận ra chân lý của cuộc đời.
-Chánh tinh tấn: sức mạnh huyển bí của đạo pháp, một trong Bát chánh đạo.
- Cơ cầu: cảnh ngang trái.
-Lăn cù: (từ Nam bộ)- lăn tròn như quả cầu.
-Câu 1700: lấy ý trong hai câu thơ của Sư Không Lộ đời Lý:
“ Thương thời trực đáo cô phong đảnh,
Trường khiếu nhứt thanh hàn Thái hư”
( Ta thường đi thẳng lên ngọn núi cô độc,-
Hú một tiếng dài lạnh cả bầu trời )
- Cung vi: cung cấm của nhà vua.
-Tiếm vị: chiếm lấy ngôi vị một cách bất hợp pháp,
- Lung lăng: hung dữ, ngang ngược.
-Mang chài mang lưới: (từ Nam bộ)- áo quần rách tả tơi.
- Rụi: (từ Nam bộ)- tàn lụi, không còn gì.
-Gụt: (từ Nam bộ ), (Đ.ng: gột)- giặt sạch chỗ lấm dơ.
-Quả quan: ( quả: đàn bà góa chồng; quan: đàn ông góa vợ )- ý nói kẻ cô thế, không chỗ dựa nương, không người giúp đỡ.
- Lòng tong cá chốt: hai loại cá nhỏ,- chỉ hạng người đáng khinh chê.
-Ứng cơ: đối phó với tình thế.
- Long tranh hổ đấu: cuộc đọ sức giữa rồng và cọp.
-Mựa đừng: (từ cổ)- đừng nên.
- Trượng: đơn vị đo chiều dài ngày xưa.
- Tranh phuông: cách phát âm của người Nam bộ khi đọc chữ tranh phong (tranh thắng bại trong cuộc chiến).
- Phi tiêu: loại binh khí nhỏ, bằng kim loại có cạnh sắc bèn dùng để phóng ném sát thương địch thủ.
-Trủy thủ: dao ngắn.
- Thủ công: giữ mình và tấn công.
-Cương nhu: cứng và mềm.
-Ngách: lối thông nhỏ để thoát khỏi hang ngoài cửa hang chánh.
-Ễn: (từ Nb)-ưỡn ra, nẩy ra.
-Chứng miêng: cách phát âm của người Nam bộ xưa khi đọc chữ chứng minh.
- Nước Cam lồ: tức nước Cam lộ (giọt sương ngọt) trong bình tịnh thủy của Phật bà Quan Âm dùng nhành dương rưới để tiêu trừ nghiệp chướng cho chúng sanh.

NhàQuê
13-11-2011, 01:20 AM
HỒI THỨ BA

ĐẤT THẠNH HÒA, TƠ ĐÀN VẦY NGHĨA NẶNG,
ĐỒI HUỲNH MAI, THƠ PHÚ KẾT TÌNH SÂU.

A- CUNG CẦM HUYỀN DIỆU.

1847- Rừng xanh nắng nhuộm đầu cây,
Lâm râm bóng đổ loang đầy lối qua.
Chim chuyền ríu rít ríu ra,
1850- Ánh vàng nhuộm đóa sương hoa trong ngần.
1851- Giữa trưa, khói ngất mấy từng,
Tàn rơi lả tả, lượn vần tro bay.
Thót lên mút ngọn lóng tai,
Rõ ràng chùa Phật phương Đoài lửa thiêu.
Lòng đau thắt thẻo chín chiều,
Thương thầy dông bão đánh liều ra khơi.
Nghĩa ơn đọ biển sánh trời,
Tuồng tan hợp, những bồi hồi giấc Xuân.
Nhớ xưa trăng giải hiên sân,
1860- Vịnh đề lan cúc, họa vần phú thi.
1861- Hiểu lòng, non nước Chung Kỳ,
Đức so Quan Vũ, tài bì Khương công.
Duyên ưa bèo bọt chung dòng,
Tưởng siêu ba cõi lại trong Vô thường.
Rủi may, thầy đã liệu lường,
Một mình ngăn giặc, nửa đường bỏ thân.
Hồn vương mây Sở gió Tần,
Vực ma vía lạc, đảnh thần phách xiêu.
Buồm nghiêng đậu bến đìu hiu,
1870- Xác xơ cành cội, phiêu diêu thác gành.
1871- Phẳng bằng đá mướt rêu xanh,
Tùng che mát rượi, trúc xanh la đà.
Rèm mây say uống nắng tà,
Âm thầm nát vụn, rã hòa sóng xô.
Chiều lam, nước vẽ non tô,
Gió thông rủ rỉ mơ hồ đồi xa.
Dòng nghiêng núi dợn ráng pha,
Ngại ngần nhạn lẻ lướt qua thác ngàn.
Thân cò lầm lủi bước hoang,
1880- Cồn cào bụng đói, bàng hoàng nỗi riêng.
1881- Ngày về, bạc phận rủi duyên,
Biết đâu lá mục, lời nguyền trôi xuôi!
Cỏ non thong thả tạm ngồi,
Tưởng vơ nghĩ vẩn, ngắm trời chiều hôm.
Mơ màng động nhẹ lá thơm,
Hương thoang thoảng phất mấy chòm vô danh.
Mơn man bướm muộn lượn vành,
Có không?- Vẳng tiếng tính tình đâu đây.
Phấn thông ngào ngạt tỏa dây,
1890- Màu chiều sâu lắng, trầm bay ngón ngà.
1891- Tàn sim lả ngọn trải hoa,
Nhạc lồng lá thấp, bóng sa nửa vời.
Sà len lá, chết chân đồi,
Ngàn Tây thăm thẳm tiếng rơi bông cà.
Chim hôm oải cánh non xa,
Im hơi,-tiếng quyện la đà khói tuôn.
Tơ chùng, rời rã giọt buồn,
Trong veo âm hưởng, thoắt luồn tre xanh.
Ngổn ngang, xác rữa xây thành,
1900- Thời gian lắng đọng vô tình lướt đi.
1901- Héo xàu bờ vắng rậm ri,
Vàng pha núm đất bến Phì bơ vơ.
Ướt nhành sương sớm tinh mơ,
Lệ con bướm trắng đẫm tờ hoa tiên.
Tiếng khoan như rót ưu phiền,
Đầu môi tri kỷ tình riêng giải bày.
Thì thầm lách tách hiên ngoài,
Mưa đêm quạnh bóng trăng cài sườn non.
Thẩn thờ tim lụn hao mòn,
1910- Khăn tang ly phụ tươi dòn nét Xuân.
1911- Dựa song dõi bóng chinh nhân,
Vùi nghiêng manh giáp, tử phần bặt tăm.
Điệu dời, giọng đổi thanh âm,
Vó câu biên ải thoắt rầm rập qua.
Vèo đầu ngựa, tách cung ngà.
Phăng phăng xé gió bay xa tên đồng.
Bãi hoang muôn dặm trăng lồng,
Mảnh buồm khát gió, cánh hồng lùa mây.
Hơi dồn dập, nhịp mê say,
1920- Rung ngân vàng sắt cõi ngoài quan san.
1921- Đường tơ rộn rã băng tan,
Ngàn xe xông trận giẫm toang sông hồ.
Hơi may phớt nhẹ cành ngô,
Vút cao, trốt vặn cơ hồ giữa mây.
Lưng trời réo vọng năm dây,
Mong manh còn lạc một hai phách thừa.
Sật sừ mộng mị còn lưa,
Tỉnh say say tỉnh hương xưa diệu huyền.
Tiếng đờn giá lạnh lặng yên,
1930- Chiều lên vắng vẻ, rừng thiêng bồi hồi.
1931- Thời gian núm níu không trôi,
Mây đờ đẫn xám, sao trời bâng khuâng.
Đưa hồn mê hoặc ảo chân,
Cõi lòng thay đổi mấy lần giác mê.
Đờn ngưng, người hóa ngô nghê,
Không gian chết đứng giữa bè ngũ cung.
Thoát ra khỏi giấc mơ mòng,
Cây cao đặc gốc, chập chùng núi hoang.
Đè lau băng dọc lách ngang,
1940- Tới gian nhà nhỏ có giàn dây leo.
1941-Màn đêm đen bủa mái nghèo,
Lá đưng chằm lợp, tranh pheo bện dừng.
Đơn sơ đồ đạc dọn chưng,
Đương khuôn bàn ghế, kết từng phên tre.
Gió lay lắc nến lập lòe,
Phòng ngoài tĩnh mịch bốn bề im hơi.
Không ăn uống, chẳng nghỉ ngơi,
Mỏi mê đầu óc, rã rời chơn tay.
Vịn nương vỗ nhẹ cửa sài,
1950- Mắt hoa đóm đỏ, quỵ ngay xuống thềm.
1951- Nhà trong nghe động mái rèm,
Hiên mai cầm chắc đang đêm có người,
Vội vàng chưa kịp nửa lời,
Khêu cao thêm ngọn, sáng ngời đèn thông.
Kíp truyền đưa gã vào trong,
Vớt chim gãy cánh dưới dòng nổi trôi.
Khắp mình chẳng chút mồ hôi,
Da hâm hấp nóng, đôi môi thâm sì.
Mê man khép chặt làn mi,
1960- Mặt mày tái lét, mạch đi động huyền.
1961- Hàn tà xâm nhập chơn nguyên,
Khí dương khô kiệt, bịnh liền phát sanh.
Giữa đường gặp chuyện chẳng lành,
Trái tai gay mắt bất bình chi đây.
Nhẹ nhàng giựt mớ tóc mai,
Gõ quanh mắt cá cả ngoài lẫn trong.
Gừng già chà cạo đuổi phong,
Bóp quanh Hiệp cốc, khai thông Đại chùy.
Cạy răng đổ thuốc tức thì,
1970- Khu hàn phương dược, Hi Di ninh thần.
1971-Xông hơ, thay áo đổi quần,
Ngực, mền đắp ấm, tay chân thoa dầu.
Hoa lê sáng trắng rõ màu,
Ngỏ tre sương mỏng, bóng ngâu nắng lồng.
Bướm vờn nụ đỏ chồi hồng,
Cụm lan hương ngát, nhành thông chim chuyền.
Giường trong động tiếng trở nghiêng,
Tay lần màn vải, lão liền hỏi han:
-“Chắc người rày đã bình an?
1980- Thôn nghèo có việc đi ngang canh trường.
Nhọc nhằn cảm gió nhiễm sương,
Tình sầu cảnh muộn, tổn thương tinh thần.
Tạm dùng thuốc mọn đỡ đần,
Giải cơn túng ngặt, lần lần sẽ hay”
Mắt lờ đờ, tỉnh mộng dài,
Vị thơm hớp cháo tiêu cay ấm lòng.
Nghe liền phân cạn đục trong:
-“ Ơn sâu ngàn biển trăm sông chưa vừa.
Cánh chuồn phận mỏng sống thừa,
1990- Có đâu đoán được nắng mưa sớm chiều.
Một đi năm bảy lần liều,
Chìm thuyền Thái Thạch, buồm xiêu gác Đằng?
Gặp cơn sóng dậy đất bằng,
Tái sanh nghĩa lớn, so gần cội thung.
Bước đường lưu lạc tạm dung,
Phương danh mỹ tánh, thủy chung chưa tường?”
-“ Họ Huỳnh, tên thiệt Phước Trường,
Bạn bè cúc liễu, quê hương yên hà.
Uống ăn đạm bạc muối cà,
2000- Lơiỉ danh khuất mắt, rừng già tung tăng.
2001- Rong chơi bến Vị, nội Sằn,
Sào Do kết nghĩa, Thang Văn khước lời.
Uyên ương lạc lối đôi nơi,
Trăng chìm vực Bắc, sao dời non Tây.
Tòng trơ cành, sắn héo dây,
Phòng đơn khói quạnh, then cài bấy lâu.
Bến hoa mây kết năm màu,
Chồi mai, gái mọn tuổi đầu tròn trăng.
Thêu thùa, may vá kiếm ăn,
2010- Cháo rau hẩm hút, xích thằng chưa trao.
Quê mùa, lời chẳng đón rào,
Chẳng hay danh tánh, nơi nào thôn lân?
Gẫm rằng đáp tạ lòng nhân,
Tánh ngay dạ thẳng, chẳng cần giấu quanh.
Châu thưa: “ Binh biến kinh thành,
Ngửa nghiêng đồn lũy, tan tành kim thang.
Nhăn nanh lũ sói bầy lang,
Cha già chết thảm giữa làn tên giăng.
Thầy ban đức lớn dạy răn,
2020- Tay vun phước huệ, lòng ngăn vạy tà.
Chùa tan, nát cội đàm hoa,
Liều thân cản hậu nên đà mạng chung.
Chân non hoen vấy bụi hồng,
Xin cho lánh tạm mưa dông đôi ngày”
-“ Tái ông mất ngựa mà hay,
Thuyền trăm bến đậu, trời bày gặp nhau.
Bỏ phiền muộn, dẹp lo âu,
Anh em bốn biển nào cầu tương tri.
Niềm riêng đã tỏ ngại gì,
2030- Lạnh chiều bão rớt, buồn khi thu tàn.
Bay cao, giương cánh đại bàng,
Rủi may thường sự, cưu mang làm gì.
Khuất thân tạm ổ chim di,
Lánh khi nắng hạ, tránh kỳ giá đông”


CHÚ THÍCH:

-Quan Vũ: tức Quan Vân Trường, danh tướng của nhà Thục Hớn đời Tam quốc.
-Khương công: tức Khương Tử Nha, nguơn soái thời Tây Châu, giúp Võ vương Cơ Phát hưng binh ở Kỳ sơn diệt Trụ lập nhà Tây Châu.
-Bến Phì: bến sông Phì Thủy ở tỉnh An Huy (TQ), nơi binh Tần đại bại, quân sĩ mười phần chết hết chín.
-Âm hưởng: tiếng phát ra và dội lại
-Hoa tiên: tờ giấy in hoa để viết thơ ngày xưa.
-Ly phụ: người đàn bà xa chồng.
-Tử phần: cây tử và cây phần,- chỉ quê hương.
-Quan san: (cn: quan sơn)-cửa ải và núi non.
-Cơ hồ: dường như.
-Lưa: (-< HV: dư (thừa)-(từ Nb): còn dư ra, còn kéo dài.
-Hàn tà: khí lạnh bên ngoài nhập vào cơ thể con người sanh ra bịnh tật.
-Chơn nguyên: cái nguyên khí trong mỗi người.
-Bất bình: khó đè nén được tình cảm.
-Hiệp cốc: tên một huyệt đạo nằm trên mảnh thịt nổi gồ bên dưới hổ khẩu.
-Đại chùy: huyệt đạo nằm sau ót.
-Khu hàn phương dược: phương thuốc trị bịnh, dùng để đuổi cái lạnh trong người ra khỏi cơ thể.
-Hi Di ninh thần: ( Hi Di: tên chữ của Trần Đoàn, người đời Tống, thấy đời loạn lạc vào hang núi ngủ say năm năm. Khi tỉnh dậy, thời Ngũ đại: Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hớn, Hậu Châu đã chấm dứt và Triệu Khuông Dẫn đã lên ngôi, mở nghiệp nhà Tống). Vì vậy, người ta thường dùng Hi Di ninh thần để chỉ thuốc an thần làm cho ngươi bịnh ngủ lâu.
-Thái Thạch: tên một gành đá ờ TQ, nguy hiểm cho thuyền bè qua lại,- ở đây chỉ sự rủi ro nguy hiểm.
-Gác Đằng: tức Đằng vương các, tức gác của Đằng vương ở Nam Xương, tỉnh Giang Tây. Vương Bột, danh sĩ đời Đường, đi thuyền thuận gió mà tời bến Mã Dương, tới gác Đằng vương làm thơ, nổi tiếng với bài Đằng vương các tự, trong đó có câu:
“ Lạc hà dữ cô vụ tề phi,
Thu thủy cộng trường thiên nhứt sắc”
( Ráng chiều rơi xuống cùng bay với con le le đơn lẻ; sắc nước mùa thu cùng với chân trời xa một màu ).
Gác Đằng vì vậy chỉ vận may.
-Tái sanh: sanh một lần nữa hoặc sống lại sau cơn hoạn nạn.
-Tạm dung: tạm nương náu.
-Phương danh mỹ tánh: tên thơm họ đẹp; từ trang trọng dùng để hỏi tên họ kẻ khác.
-Cúc liễu: Đào Tiềm dời Tấn cáo quan về hưu, trồng hoa cúc và năm cây liễu trước nhà, nên người đời thường gọi ông là Ngũ liễu tiên sanh. Cúc liễu chỉ người ẩn dật.
-Yên hà: (yên; khói; hà: ráng mây): chỉ cuộc sống nhàn nhã của người ở ẩn.
-Bến Vị: bến sông Vị thủy nơi Khương Tử Nha ngồi câu ở Bàn khê. Sau Châu Văn vương Cơ Xương cho người tới rước phong làm nguơn soái cầm quân phạt Trụ, dựng nghiệp nhà Tây Châu.
-Nội Sằn: cánh đồng Sằn, nơi Y Doãn cày ruộng. Sau vua Thành Thang rước về lo việc nước.
-Khước: từ chối.
-Sào Do: tức Sào Phủ và Hứa Do. Vua Thuấn muốn truyền ngôi cho Sào Phủ. Phủ xuống dòng nước khe rửa tai, ý muốn nói không cho tiếng lợi danh lọt vào tai. Hứa Do không cho trâu mình uống nước đó. Sào Phủ, Hứa Do tượng trưng lớp người không ham danh lợi phú quí.
-Câu 2004: Trăngchìm xuống vực thẳm phương Bắc, sao dời qua bầu trời phía Tây,- ý nói vợ chết.
-Câu 2005: nhắc câu “ dây cát đằng (sắn bìm ) nương dựa bóng tùng quân. Ở đây, sắn héo dây chỉ còn cây tùng trơ trọi,- chỉ vợ chết chồng còn.
-Câu 2007: bến sông kết hoa ngũ sắc là điềm tốt sắp sanh con.

NhàQuê
13-11-2011, 01:21 AM
B-DẠO CHƠI ĐẦM LONG ẨN – XÓM HUỲNH MAI.

2035- Lắc lay nhành, tỉnh giấc nồng,
Suối tuôn hòa điệu lá tùng vi vu.
Sương che dốc thẳm dặm mù,
Châu cùng Huỳnh lão sông hồ rong chơi.
Huỳnh rằng: “ Bỉ thới một thời,
2040- Mong manh mây nổi lưng trời khác đâu.
2041- Sớm chiều gió cuốn mưa mau,
Bọt con nước lượn, bèo đầu sóng xô.
Sao bằng quần vải áo bô,
Thả cần bàn thạch, phơ phơ tóc bồng.
Non cao theo gót Xích Tòng,
Dấu chơn Huỳnh Thạch, thấy lòng thung dung.
Dắt tay nhau tới Long Trung,
Ráng pha liễu rũ, hương xông cúc vàng.
Cõi trăm năm, hớp rượu nhàn,
2050- Dẫu muôn xe ngựa, bạc vàng dám so”.
Bờ lau lác đác cánh cò,
Bến sông xóm nổi, con đò băng ngang.
Thưa dày, ngọn trúc gie đan,
Lỗ loang bóng rập, nắng lan đá gành.
Đường hun hút gió mơn cành,
Quẹo qua một nếp nhà tranh sơ sài.
Vắng tanh im ỉm then cài,
Phên tre vỗ nhẹ, khách ngoài lóng tin.
Vọng qua: “ Sao khéo dưỡng sinh,
2060- Mặt trời xỏ mũi, quấn mình ngủ say?”
Từ trong vang tiếng cười dài:
-“ Võng đưa đọc sách, ngủ ngày chi đâu?
Quen hơi bén tiếng tìm nhau,
Chim hoàng tìm phụng, cúc cầu gặp mai.
Thức từ vừa ló Sao cày,
Mù tăm bóng nhạn, lòng đây luống chờ.
Rau non mểu, cá đơn sơ,
Rượu quỳnh hâm nóng,-lặng tờ đò giang.
Hôm rồi, Kim Hạc ghé sang,
2070- Cảnh thanh bầu bạn, tơ đàn hòa dây”.
2071- “ Mảng chơi nước nọ non này,
Tâm tư trộm gởi cánh mây giang hồ,
Trễ tràng gót lạc bến mơ,
Bầu men đợi chán, nguồn thơ cạn dòng”
Vòng vèo len lỏi ngàn thông,
Đầm thăm thẳm rộng, mây lồng nước xanh.
Bước lần lên Thưởng mai đình,
Chạnh tình giàn mướp, cây chanh quê nhà.
-“ Mùa này mai chửa ra hoa,
2080- Rộ bông chưa chắc người xa đã về.
2081- Tang bồng trót nặng lời thề,
Tình nhà nghĩa nước đeo nghề kiếm cung.
Lánh mình vực tối hang cùng,
Rồng vàng có lúc vẫy vùng sóng khơi”.
Châu rằng: “ Khó gặp được thời,
Giam thân dặm tối, một đời tiêu ma.
Đuổi mau sòng sọc cái già,
Hao mòn khí phách đời ra quái gì?
Buộc ràng mạng xấu vận suy,
2090- Gạo con tiền vợ, nằm ì một nơi.
2091- Trí cùn, uất ức tàn hơi,
Sổ phong trần xóa kiếp người vô danh.
Uổng thay mạch đất trong lành,
Cũng dang tay đón thứ cành rong rêu”.
Dựa lưng buồn thỉu buồn thiu,
Mắt lơ đãng ngắm màu chiều ráng phai.
Huỳnh rằng: “ Xuân hẳn còn dài,
Sợ chi trốt xoáy một ngày không tan.
Kìa xem non ráng nạm vàng,
2100-Chẳng bao lâu lợt sắc, tràn bóng đêm.
2101-Đường tơ đã dẽo lại mềm,
Mới gay gắt điệu, êm đềm thanh âm.
Bình yên, mặt biển âm thầm,
Vùng lên hung hãn ầm ầm bủa lan”
Bơ vơ mảnh vụn nắng tàn,
Giong thuyền đuổi ánh trăng tan giữa vời.
Chèo cầm lái nhẹ tay lơi,
Buồm xa tít bóng đất trời bao la.
Chập chờn khói sóng giao hòa,
2110-Ẩm sương áo bạc, đậm đà men cay.
2111-Khơi nguồn thơ, hớp ngà say,
Hồn mê tỉnh mộng năm dây tính tình.
Không gian thâu hẹp dạng hình,
Bước thời gian, bướm Trang sinh mơ màng.
Nửa đêm nghe lóm cung đàn,
2116-Luyến lưu hạc lẻ bàng hoàng biếng bay.


CHÚ THÍCH:

-Bướm Trang sinh: Trang Châu nằm mơ thấy mình hóa bướm. Tỉnh dậy, không biết mình là bướm hay bướm hóa ra mình.
-Nghe lóm: (từ Nb)- lén nghe không được người ta cho phép.

NhàQuê
13-11-2011, 01:23 AM
C- CUNG CẦM NGƯỜI CON GÁI HÒA CHÂU.

2117-Ráng hồng rạng ửng đầu mây,
Tiếng còi ruộng thấp vang dài lũng xa.
Nắng tươi choàng ấp ngàn hoa,
2120-Túi đeo, Huỳnh lão giã nhà đăng san.
2121-Rừng sâu hái thuốc tìm lan,
Bạn xưa chung chén rượu nhàn xướng ca.
Chiều xuôi mỏi cánh la đà,
Lim dim lá khép, chén trà sân mai.
Song thưa ủ bóng trăng cài,
Luận bàn võ nghệ, gái trai tự tình.
Châu rằng: “ Ngoạn cảnh Mai đình,
Buông chèo Long Ẩn linh đinh trăng rằm.
Duyên lành may được thưởng âm,
2130-Tay tiên Kim Hạc, ngón cầm Bá Nha.
Trộm nghe noi dấu nghiệp nhà,
Cung thương vọng tiếng tài hoa cõi ngoài.
Bước phiêu bồng nẻo dặêm dài,
Chiều hôm, tai lạc một hai tiếng vàng.
Dây leo đan vấn núi hoang,
Tầm theo hướng vẳng tiếng đàn dò ra.
Trúng sương nhiễm gió rừng già,
Vương mang bịnh ngặt nằm ba hôm liền.
Cơn mê, mơ thấy nàng tiên,
2140-Đờn che nửa mặt chữ điền thắm hoa.
2141-Đường tơ trầm ấm hiệp hòa,
Hồn chơi tám cõi, hương sa mấy từng.
Tỉnh ra, lại tiếc giấc Xuân,
Cõi trăm năm dễ một lần gặp đâu!
Song hồ ngơ ngẩn canh thâu,
Bơ vơ hồn mộng cuối đầu Tương giang.
Tưởng mơ mơ tưởng giọng đàn,
Du dương dìu dặt quyện làn trầm bay.
Đợi mong mới được một ngày,
2150-Xin cho lạm thưởng một vài phím loan”
Vân Anh sắc mặt nghiêm trang:
-“ Sá chi nghề mọn, bạn vàng bận tâm.
Dệt thêu gấm lụa tơ tằm,
Rảnh rang lỏm bỏm học năm ba bài.
Cha truyền bữa mốt bữa hai,
Khi trong giải muộn, khi ngoài xướng thi.
Nghe đờn biết chí, Chung Kỳ,
Tay thô ngón vụng dám bì Bá Nha.
Vã nay hôm sớm chung nhà,
2160- Luyện cung ôn kiếm vào ra sách đèn.
Xin dưng chút đỉnh đỡ phiền,
E quân tử chẳng phỉ nguyền ước mơ”
Rèm buông, ngọn bấc tỏ mờ,
Lòa xòa tóc liễu, lặng tờ gương nga.
Búp măng lướt nhẹ phím ngà,
Thoáng cung nhạc dạo, tình đà ngất ngây.
Trùng trùng tiếng đuổi hơi may,
Vút cao núi quạnh, non Đoài ôm trăng.
Biển xanh gọi nước sông Hằng,
2170- Mây vờn khói tỏa buồm Đằng sóng lan.
2171- Lý ngư hớp giọt sương tàn,
Lờ đờ đáy vực, mắt đan sợi buồn.
Trong ngần kẽ sậy gió luồn,
Qua khuôn lá ngủ chiều buông nắng tà.
Vụt vù dông cuốn nước sa,
Bọt tan vỡ vụn thác xa cuối đèo.
Dứt hồi ngựa hí binh reo,
Hơi may thoáng gợn mắt mèo trong xanh.
Mưa thu da diết bên mành,
2180- Từng không tiếng vẳng mong manh rã rời.
Châu rằng: “ Tài nghệ tuyệt vời,
Quá quan Ải Nhạn xấp mười Chiêu Quân”


CHÚ THÍCH:

-Đăng san: lên núi.
-Tự tình: bày tỏ tình cảm.
-Thưởng âm: thưởng thức âm nhạc.
-Bữa mốt bữa hai: (từ Nb)- thất thường, bữa có bữa không, không thường xuyên, không đều đặn.
-Chút đỉnh : (từ Nb)-một chút, một ít.
-Quân tử: theo Kinh Thi, quân tử được dùng như đại từ nhân xưng ngôi hai.
-Quá quan: qua ải, tên một bản đàn của Vương Tường tự là Chiêu Quân, thời Hớn Minh đế sáng tác lúc qua Nhạn môn quan, trên đường đi cống Hồ.
-xấp: (từ Nb)-gấp lên nhiều lần.

NhàQuê
13-11-2011, 01:24 AM
D- CHÂU THÔNG TỎ TÌNH


2183-Hoa đầu ngõ ngóng người thân,
Gót chân hoang vắng ngót tuần trăng nay.
Phên tranh khép lỏng then gài,
Lưa thưa bóng trúc ngã dài lan can.
Lặng thinh thông biếc mơ màng,
Chờ hơi gió thoảng phất làn mong manh,
Trà tươi búp nụ chén sành,
2190- Đọc kinh Bát nhã, xem tranh Thất hiền.
2191-Nàng rằng: “ Trăng gác sương hiên,
Chim bằng gãy cánh truân chuyên rừng già.
Người xa phút hóa ruột rà,
Mười phân kính trọng, vui hòa tình thân.
Thước gươm nắng Sở mưa Tần,
Xe tơ kết tóc đã lần nào chưa?”
Chàng rằng: “ Chẳng ý lọc lừa,
Vườn xuân trót khóa ngày trưa một ngày.
Trẻ thơ núm níu gót thầy,
2200- Ngày tròn cung kiếm, đêm dài bút nghiên.
2201-Nước suy, nặng dạ thề nguyền,
Buông tên múa dáo, cửa viên ứng hầu.
Cội thung che áng mây sầu,
Đất chôn nhau, mẹ quấn đầu khăn sô.
Sống mòn kiếp mọn giang hồ,
Quê người vất vưởng, cùng đồ trắng tay.
Duyên ưa, mong những có ngày,
Cho chim liền cánh, để cây liền cành.
Ba chìm bảy nổi linh đinh,
2210- Ăn nhờ ở đậu gẫm mình mà thương.
Dám dâu nghĩ mối tơ vương,
Dám đâu đem sợi chỉ hường buộc ai!
Rời chùa mười rủi một may,
Nẻo đi hướng tốn, lời thầy khắc ghi.
Gặp nhau đây, hẳn duyên gì,
Lời quê xin được một khi phân bày.
Một mai, gió bụi dặm dài,
Lòng sao quên nổi những ngày muối dưa.
Nhớ người mong giấc mơ xưa,
2220-Bãi hoang gối trống, trăng mờ ôm yên.
2221-Buông tên muôn vạn trận liền,
Bông quì dành trọn tình riêng một người.
Xót nhành thương cội nào nguôi,
Chim đơn bão cuốn xa rời rừng xưa.
Cách chia cảm mấy cho vừa,
Thà như chẳng gặp bao giờ cho cam.
Chút bèo đầu ngọn sóng lam,
Sáng gành chiều vực, ngày vàm đêm doi.
Đài gương, gác tía có soi,
2230-Hoa phong nhụy, bướm lạc loài gặp nhau?”
Vân Anh e thẹn cúi đầu,
Mặt xoan ửng cánh hoa đào thêm tươi.
Thưa rằng: “ Quân tử chớ cười,
Mẹ hiền khuất núi có mười năm dư.
Mồ côi từ tuổi còn thơ,
Mì khoai rau cháo nương nhờ phụ thân.
Xa thiềng thị, sống cơ bần,
Cửa nhà kém cỏi, lễ văn sơ sài.
Gót mòn củi nặng oằn vai,
2240-Rổ tre cá mọn, chợ mai đông người.
Khòm lưng thêu sắc hoa tươi,
Màn loan trướng phụng bán người giàu sang.
Lầu son, nào dám mơ màng,
Sẻ đâu dám ước đại bàng đầu non.
Quê mùa,-Tuổi tác hãy còn,
Dại khờ,-nào biết mực son cho tường.
Dám đâu trộm lịnh nghiêm đường,
Gieo cầu, hẹn lửa hò hương với người.
Niềm riêng, tỏ thiệt chín mười,
2250-Nỗi u hoài, biết mặt trời thấu chăng?”
2251-Rằng: “ Duyên Nguyệt lão xích thằng,
Tiền tài phấn thổ, nghĩa bằng thiên kim.
Thờ cha ngay thảo trọn niềm,
Hai mươi bốn hiếu, khó tìm người hơn.
Cảnh nhà gió kép mưa đơn,
Tay chai khó nhọc, áo sờn long đong.
Một thân lo liệu ngoài trong,
Tấm lòng nhơn hậu, thơm nồng thức hương.
Làu làu sáng nguyệt trong gương,
2260-Điểm son phái nữ, dễ thường có ai!
2261-Lòng không cân sắc đo tài,
Tình không liễu ép hoa nài chi đâu.
Thấy người ý hiệp tâm đầu,
Giọt Ngâu Ô thước, bắc cầu Ngân giang.
Xưa nay, nối nghiệp tông đường,
Chọn dâu Nam giản dưng hương mới là.
Núi cao biển cả là nhà,
Quản chi lửa đỏ xông pha dẹp loàn.
Non sông hoa dệt gấm đan,
2270-Mái nhà xưa kiếm kim lan dạo nào.
2271-Keo sơn gắn bó duyên đầu,
Binh tàn lửa lụn, hát câu tương phùng.
Gìn tròn tình thủy nghĩa chung,
Chờ nhau tới mái tóc bồng hết xanh”
Làn thu gợn khóe long lanh,
Ngượng ngùng nàng mới bày tình thiết tha:
-“Chớm Xuân cành mọn sương nhòa,
Chồi non vẫn chửa ra hoa kịp thì.
Ngây thơ vừa vụt bóng đi,
2280-Dại khờ, non dạ biết gì ngày mai.
2281-Chưa lường được lối chông gai,
Mười hai bến nước vơi đầy đục trong.
Gót non lỡ vấy bụi hồng,
Xuồng con sóng dữ,-Phụ lòng tri âm.
Vưng lời kết dải đồng tâm,
Nguyện cùng trời đất, sắt cầm hòa dây.
Thầm mong có được một ngày,
Sân hồng xác pháo, khói bay khắp làng.
Giờ đây giữ lễ đoan trang,
2290-Coi nhau bầu bạn gươm đàn mà thôi.
2291-Thương nhau quí trọng cả đời,
Tiếng nhơ, tiết xấu, kẻ cười người khinh.
Xưa nay, biển ái non tình,
Đày thân lặn hụp, lụy mình ích chi?”
Tùng nghiêng bóng lả xanh rì,
Chim đêm trở giấc, thầm thì lau xa.
Mong manh gió phất rèm hoa,
Từng cao mây thẳm, Ngân hà giăng ngang.
Vi vu gió lượn thông ngàn,
2300-Chàng Ngưu ả Chức thênh thang lưng trời.
2301-Chàng rằng: “ Giao ước nhớ lời,
Bản tình ca chẳng đổi dời nhịp cung.
Biết đâu lở núi cạn sông,
Dấn thân khổ nhục, vướng vòng lao đao.
Nhớ từ chừa vá trái đào,
Mẹ cho đôi ngọc đeo vào cổ tay.
Nước về biển cả có ngày,
2308-Bến xưa thuyền cũ, vật này nhận nhau”


CHÚ THÍCH:

-Ngót: (từ Nb)-gần bằng.
-Bát nhã: (Phạn: Pragna): sự giác ngộ hoàn toàn chân lý nhà Phật.
-Thất hiền: tức Trúc lâm thất hiền (bảy người hiền ở ẩn trong rừng trúc ) đời Đông Tấn TQ.
-hướng tốn: trong bát quái, hướng tốn tọa vị ở Đông Nam thuộc sanh lộ, con đường sống.
-Vàm: (từ Nb)-cửa sông thông ra biển hoặc cửa sông nhỏ thông ra sông cái.
-Doi: (từ Nb)-mõm đất gie ra sông lớn.
Bảy lanh để bảy đưa đò,
Lên doi xuống vịnh, giọng hò con bảy lanh.
-Thị thiềng: phát âm theo Nb chữ thị thành.
Mảng lên non tìm con chim lạ,
Chớ chốn thị thiềng, chim chạ thiếu chi.

NhàQuê
13-11-2011, 01:26 AM
HỒI THỨ TƯ

HỢP BẠN LỨA, TÒNG QUÂN BÌNH NAM NGẠN,
THẤT NGHIỆP THÀNH, BÃI CHIẾN THỦ LẠC DƯƠNG.


A-TIỄN ĐƯA

2309- Trà thơm môi ngấm bông đào,
2310-Mưa phùn se lạnh, chớm vào tiết Xuân.
2311-Cành đơm nụ búp ngại ngần,
Đồi pha nắng dịu, ngọn tần sũng sương.
Châu rằng: “ Dốc thẳm hí trường,
Máu pha kỷ niệm bước đường rủi may.
Cánh hồng chí gởi ngàn mây,
Nằm co hốc đá mơ xây non đồng.
Bắt hùm, vật lộn giao long,
Thiên san bóp nát, biển Đông lấp bằng.
Tháng giêng đúng hẹn tròn trăng,
2320-Đau lòng giã biệt đất Sằn tòng quân”
2321-Huỳnh rằng: “ Cá vượt mấy từng,
Hóa rồng vùng vẫy nửa lừng trời cao.
Hút luồng khí mạnh trăng sao,
Quày gươm chém sấu, giương lao phóng kình.
Lúa vàng sẽ rợp đồng xanh,
Kiến ong tan ổ, công thành buông cung.
Chẳng còn rẽ núi ngăn sông,
Đem về một mối chung cùng xa thư.
Muôn nhà vui nghiệp an cư,
2330-Sống theo đạo nghĩa, hiếu từ, khoan dung”
2331- Vàng sương lụa mỏng mông lung,
Đèn hiu hắt bóng, nghiêng song nguyệt tà.
Te te gà thúc canh ba,
Hành trang dồn đãy, rời nhà bước đi.
Mũi lòng thay, phút chia ly,
Ai cầm được lệ phân kỳ ướt bâu.
Châu rằng vực dẫu mấy sâu,
Cũng chưa sánh kịp tiễn nhau tình này.
Gió mừng mây đón hạc bay,
2340-Đoái nhìn cội cũ lòng này sao quên”
2341-Huỳnh rằng: “ Đường sá chông chinh,
Cheo leo hố thẳm, gập ghình đá cao.
Vân Anh dầu phận má đào,
Hang cùng ngõ hẹp ra vào hằng quen.
Đưa người tắt nẻo Trang Xuyên,
Lòn truông Phật Tánh, vô miền Nho Lâm.
Non Càn giáp giới Chơn Tâm,
Hướng phương Nhơn Ái hơn năm dặm dài.
Giữa trưa trở gót về ngay,
2350- Tối tăm rừng bụi, dạ đây đeo phiền”.
2351-Gió xao cành hé bóng xiên,
Buồn vương vấn tóc, truân chuyên phận bèo.
Thoảng hơi, gió động leo heo,
2354-Tay che nắng lóa, mắt nheo giọt sầu.


CHÚ THÍCH:

-Chung mối xa thơ: xe có cùng một ổ trục, cùng chiều ngang đòn xe; sách vở viết cùng một thứ chữ. Ý nói nước nhà thống nhứt.

NhàQuê
13-11-2011, 01:28 AM
B-VÂN ANH NHỚ CHÂU THÔNG.


2355-Đứt dây héo bí úa bầu,
Đôi bờ xa lắc, nhịp cầu bơ vơ.
Người đi biết đến bao giờ,
Để riêng ai luống mong chờ một ai.
Nhớ xưa, mưa vạy gió may,
2360-Trà lan ấm khói, hiên ngoài lạnh căm.
2361-Xót chiều ly biệt ruột bầm,
Lệ rơi mềm đá, chảy ngầm lòng đau.
Trái ngang đôi lứa duyên đầu,
Đố ai đếm xiết giọt ngâu qua mành.
Ai làm lá phải xa cành,
Cho thuyền xa bến cho mình xa ta.
Tưởng người chiến trận xông pha,
Gối tay mơ bóng trăng tà quê hương.
Tưởng người bãi ngập cây hoang,
2370-Mắt sâu mất ngủ đợi đàn tanh hôi.
2371-Ngựa buồn mất chủ bồi hồi,
Nắm xương lấp vội lưng đồi quạnh hiu.
Nguyện làm tấm ván điếu kiều,
Quân qua rầm rập giẫm tiêu quách thành.
Nguyện làm bóng thỏ năm canh,
Theo người đầu núi cuối gành quản đâu.
Bao giờ chôn kiếm bỏ đao,
Bỏ công danh, giủ chiến bào về quê.
Nghĩa sâu tấm mẳn vẹn thề,
2380-Bờ tre mái cỏ đi về có nhau.
2381-Má xưa còn thắm hoa đào,
Duyên xưa vẫn giữ một màu trung trinh.
Một duyên hai nợ ba tình,
Quẩn quanh mộng mị, bóng hình còn lưa.


CHÚ THÍCH:

-Điếu kiều: tấm gỗ to lớn, dài và chắc chắn, khi treo lên thì dùng để đóng kín cửa thành, lúc hạ xuống thì dùng để xe ngựa và lính tráng ra vào thành.

NhàQuê
13-11-2011, 01:30 AM
C- BA NGƯỜI TÒNG QUÂN GẶP QUÁCH TỬ NGHI.


2385-Dãi dầu rày gió mai mưa,
Băng đêm lạnh, ngủ rừng trưa bao ngày,
Quần ôm áo túm ăn mày,
Mồ hôi xót mắt, canh dài mỏn hơi.
Đại dinh, dáo dựng sáng ngời,
2390-Cờ giong trống giục, chiêng hồi inh tai.
2391-Lũy thành quân mấy vành đai,
Ngiêm trang hàng ngũ, trong ngoài vọng canh.
Cửa viên đồng gởi thiếp danh,
Nán chờ sĩ tốt thượng trình Nguơn nhung.
Thấy tên quá đỗi mừng lòng,
Tử Nghi mời khách anh hùng vào trong.
-“ Hùm ngâm khơi nổi gió dông,
Ngàn sao hợp mặt lo chung trị bình.
Giương cờ nghĩa dẫn đại binh,
2400-Ngũ Lăng đạp đổ, Yên kinh san bằng.
2401-Hang chồn, ngách sói lăng nhăng,
Phá tan vách sắt, đẩy phăng tường đồng.
Trường An từ phủ bụi hồng,
Sa cơ, bước sẩy chơn cùng về đâu?”
Kể nghe cặn kẽ đuôi đầu,
Nổi chìm bao độ, lụy sầu bấy thân.
Dạy rằng: “ Máy tạo xây vần,
Dở hay, thành bại định phần thiên công.
Lưng mây vùng vẫy cánh hồng,
2410-Mày râu nợ nước trả xong mới mầu”
2411-Giờ lành ngày tốt tháng sau,
Lửa lan Nam ngạn, dìm sâu đế thành.
Phụng Tường khai pháo tấn binh,
Trường giang sóng bủa, nghê kình vi giương.
Châu Thông lãnh trấn Đức Lương,
2416-Ngoài ngàn mã kỵ chận đường địch lui.


CHÚ THÍCH:

-Thiếp danh: giấy có ghi tên họ để cầu xin gặp mặt.
-nguơn nhung: (cn: nguơn soái )- (Đ.ng: nguyên nhung; nguyên súy)-người đứng đầu và chỉ huy một đoàn binh mã
-Câu “ Hùm ngâm khơi nổi gió dông” : lấy ý trong câu: “ Vân tùng long, phong tùng hổ” ( mây theo rồng, gió dông theo cọp)

NhàQuê
13-11-2011, 01:32 AM
D- ĐÁNH TRƯỜNG AN.


2417-Mặt trời trốn lạnh bồi hồi,
Núi non tiếp núi, cây đồi nối cây.
Đóm lòe hun hút lưng mây,
2420-Gối tay ấp kiếm sương dày giáp nhung.
2421-Nhớ người trăng ấm bóng tùng,
Mày thanh nét liễu, môi hồng điệu thơ.
Ai ơi! Có biết bao giờ,
Biết ai chặt dạ đợi chờ ai chăng?
Cội xuân chiều ngã sầu giăng,
Lạnh hương vắng khói đã hằng lâu nay,
Quê nghèo, khô xọp mai gầy,
Cỏ huyên một nắm biết rày gió mưa.
Mong ngày trở lại làng xưa,
2430-Vùa cơm lưng nước phụng thờ từ thân.
2431-Đồi hoang cải táng mộ phần,
Nắm xương đất khách được gần tổ tiên.
Trăng già khéo đẩy đưa duyên,
Tóc xanh mong kết phỉ nguyền tơ loan.
Một đêm thiêm thiếp mơ màng,
Huỳnh hà bão động, Vũ quan lửa lồng.
Tử Nghi xuống lịnh giáp công,
Lạc Dương nhắm hướng nỏ cung đánh tràn.
Thiểm Thành trúc chẻ ngói tan,
2440-Hoằng Nông, Hàm Cốc đen tàn tro bay.
2441-Dẹp xong, ngựa trở gươm quày,
Huê Dung mác nhọn, thương dài đồn quân.
Hành cung đặt tại Thừa Ân,
Phục binh bảo giá ngóng lần âm hao.
Nguơn Hanh chỉ ngọn sóng trào,
Lũy đồn chọc lủng, ập vào Liêm Khê.
Vượt truông Diệu Đế, Thanh Nê,
Gọng kềm khép chặt tư bề Đồng quan.
Yên binh vỡ mật kinh hoàng,
2450-Gượng tay chống chỏi tìm đàng nhủi chui.
2451-Nhỏ nhoi lũ muỗi bầy ruồi,
Trâu bò sanh sự phải vùi xác oan.
Đường cùng, bít ngách nghẹt hang,
Dầu sôi máu hận, lửa lan tình thù.
Đeo đầy thang chắp dây đu,
Mặt thành, gỗ đá vụt vù ném lăn.
Thế cô khó nỗi đỡ ngăn,
Cong đuôi bầy chuột ham ăn chạy dài.
Rừng hoang xác mục xanh cây,
2460-Kên kên quà quạ cả bầy liệng không.
2461-Đức Tâm dẫn đạo Hà Đông,
Xuồng phao gọn nhẹ vượt dòng đại giang.
Hỏa công đè ngọn cuồng lan,
Đốt tiêu thủy đội bạt ngàn Bồ Lôi.
Bại binh bẩm báo từng hồi,
Tham quan bụng mỡ đứng ngồi không an.
Phân vân tham sống tiếc vàng,
Tính sao lợi cả đôi đàng mới hay.
Nghiêm Trang cùng lũ tay sai,
2470-Hốt gom của cải nhét giày lộn lưng.
2471-Giả thường dân, đổi áo quần,
Nửa đêm qua mắt quân tuần lẻn đi.
Bịt tai tiếng bấc tiếng chì,
Một phường mặt mốc kể gì danh nhơ.
No mồi, ở bẩn ăn dơ,
Giờ không quyến thuộc cậy nhờ tấm thân.
Nghĩ men đường tắt cho gần,
Nào lường vận rủi dắt lần cõi âm.
Gươm trường tay tuốt lăm lăm,
2480-Châu Thông bủa lưới sanh cầm
họ Nghiêm.
2481-Sẵn sàng móc sắt câu liêm,
Lôi lên khỏi hố trói kèm cùng nhau.
Kíp truyền cạo tóc cắt râu,
Tù xa đóng kín giải mau lên đường.
Mấy vòng xiềng xích vấn vương,
Tàn rồi giấc mộng huỳnh lương một thời.
Gian manh chẳng thoát lưới trời,
Biển dâu chớp mắt đổi dời đa đoan.
Bắt bầy con giặc tôi loàn,
2490-Cộng đồng xử án, luận bàn tội căn.
2491-Tần Châu hạn mấy mùa trăng,
Làng quê không đủ hòm săng chôn người.
Chẳng còn chút gạo cầm hơi,
Tan hoang mái ấm, rã rời thây thi.
Chỉ ban chẩn tế tức thì,
Mở kho lẫm lúa đem đi cứu bần.
Ba năm miễn thuế muôn dân,
2498-Nhà nhà hồi phục lần lần nếp xưa.


CHÚ THÍCH:

-cỏ huyên: (cn: nhà huyên; huyên thảo ) chỉ người mẹ.
-hành cung: nơi dựng tạm cho vua ở khi tuần du hoặc thân chinh dẹp loạn.
-bảo giá: bảo vệ nhà vua phòng lúc lâm nguy.
-mộng huỳnh lương: (x: giấc mộng kê vàng).
-hai câu 2451-2452: lấy ý trong câu tục ngữ: “ trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết”
-cộng đồng xử án: mở phiên tòa công khai có sự tham gia của nhiều người để xét xử.
-chẩn tế: cứu giúp.

NhàQuê
13-11-2011, 01:33 AM
E-ĐÁNH NGHIỆP THÀNH LẦN THỨ NHỨT


2499-Nhọc nhằn chải gió xông mưa,
2500-Chỉ nhen đóm lửa mới vừa cháy lan.
2501-Bước đầu chiếm ngự Trường An,
Dựng xây nền móng chỉnh trang trận đồ.
Mún manh xẻ nát cơ đồ,
Cát say vó ngựa, bụi mờ ải lang.
Ngụy Châu trống trận còn vang,
Sử An khơi máu chảy tràn phân tranh.
Hôi tanh nhẩm dấu Nghiệp Thành,
Khô cây héo cội, nát cành úa hoa.
Đau thương bỏ cửa lìa nhà,
2510-Trẻ thơ móc ruột, đàn bà phanh thây.
2511-Già nua, ngựa xé voi giày,
Dã man no mắt lũ bầy yêu tinh.
Kết liên mười vạn Liêu binh,
Đeo chân mọi rợ, giựt giành vinh hoa.
Hịch vang vọng mãi đầu loa,
Thôn gần uốn nỏ, làng xa họp đoàn.
Lòng son nguyện với gan vàng,
Thái san phải định, Trường giang phải bình.
Xe rồng cuốn bụi Nam chinh,
2520-Ngựa Kỳ sải vó, điều binh kịp giờ.
2521-Quân đi, sóng cuốn đôi bờ,
Khí thiêng lở núi, dáo cờ rợp sông.
Cẩm nang Trù bút đeo hông,
Châu Thông lãnh ấn tiên phong lên đàng.
Thư Dương tay vẫy bão tràn,
Ầm ầm quân mã băng ngàn như dông,
Nghiệp Thành tướng giỏi binh đông,
Hổ đầu Trung Chí bố phòng rất nghiêm.
Quân triều len lỏi bóng đêm,
2530-Non Tây tắt ánh trăng liềm ra tay.
2531-Hèn lâu mới gặp một ngày,
Cánh hồng thỏa nguyện trổ tài kình nghê.
Thủ Trung thấy chết cận kề,
Cải trang thương khách trốn về Sài Tang,
Im hơi ém tiếng quân dàn,
Ngậm tăm cất lạc, lặng trang dáo cờ.
Lý Quang Bật đã hẹn giờ,
Dẹp tan chốt chặn, chực chờ mạn Đông.
Đương cơn pháo đột tên xông,
2540-Hùm beo múa vút, thần long chuyển mình.
2541-Kề tai ra hiệu lui binh,
Khơi dòng sông, lũ nguồn trên đổ về.
Mây đùn, mưa nặng dầm dề,
Nghiệp Thành ngập lụt như bè giạt trôi.
Bơ vơ bốn phía đất trời,
Thủy triều đương vượt, lũng đồi nước dưng.
Xuồng con ghe nhẹ rần rần,
Qua hào phá cửa, liều thân công đồn.
Trương Trung Chí dạ chẳng sờn,
2550-Chắc tay cung kiếm đột môn canh tuần,
2551-Súc lăn đá chọi tưng bừng,
Tường long vách rỉ, sai quân trám liền.
Mười ngày thành chẳng chuyển nghiêng,
Uổng công tốn sức, lương tiền hụt hao.
Mấy phen bày trận đánh vào,
Mấy phen rước lấy máu đào thây phơi.
Sông dài nước vực sóng vơi,
Vừng dương chói rạng, mây trời thinh thang.
Kế mưu sâu độc luận bàn,
2560-Muối đem đổ biển nghĩ càng thêm đau.
2561-Chần chờ gì nữa,-Lui mau,
Náu mình truông thẳm, non cao quanh vùng.
Rắp tâm beo cọp tranh hùng,
Giành phần béo bở để dùng nay mai.
Vòng dây bủa kín đêm ngày,
Cắt đường tiếp tế trong ngoài Yên binh.
Sáng ngày, hoa đậm hương trinh,
Đoàn quân thám mã vào trình sự cơ:
-“ Tư Minh thừa lúc trăng mờ,
2570-Xua quân thần tốc băng bờ Trường giang.
2571-Thế công xô ngã Cửu Quan,
Vó câu ngựa chiến giẫm tan Ô Đề.
Say mồi, no máu chán chê,
Nghĩ đâu đất thảm trời thê sa tràng.
Đọa đày nhau ngục trần gian,
Hai bên bỏ mạng trăm ngàn có khi.
Tướng Yên dùng rặc quân kỳ,
Dò la tin tức rải đi khắp vùng.
Canh khuya trống nện thì thùng,
2580-Lỏi len khuấy rối lục lùng khắp nơi.
2581-Rạng ra thanh thản nghỉ ngơi,
Âm thầm bụi rậm, im hơi non ngàn.
Binh triều đứng thở ngồi than,
Ngóng chờ thắp thỏm tấc đàng rủi may.
Khiếp kinh mộng dữ đêm dài,
Quầng thâm đôi mắt, mặt mày trỏm lơ.
Một tuần trăng, lặng như tờ,
Trá gian chước quỉ, ai ngờ được đâu!
Xót thân chinh chiến dãi dầu,
2590-Co ro đất lạnh, trên đầu mưa rơi.
2591-Dẫu không quen, đã hứa lời,
Quyết không để dưới mặt trời thấy nhau.
Một đêm gió động ào ào,
Voi gầm ngựa hí, gươm đao bốn bề.
Tử Nghi truyền rải tật lê,
Chắn rào lừa gỗ, xe kê chận đường.
Liều mình,-túng thế cùng phương,
Tranh quyền sống sót, vùi xương sá nào!
Liên huờn mã, rõ mưu cao,
2600-Gắn thương ức ngựa, chĩa đao cạnh sườn.
2601-Bão dông, móng nện mặt đường,
Xông pha như sói lọt vườn bỏ hoang.
Kề hàm răng nhọn hổ lang,
Bầy cừu bất ý tan đàn như chơi.
Quân triều hàng ngũ rối bời,
Lửa thiêu Xích Bích, thây phơi non Kỳ.
Chì quăng, đá ném trả đi,
Lưỡi liềm móc sắt giải nguy thế cờ.
Tranh mồi béo, nước đục lờ,
2610-Rủi may kẽ tóc chơn tơ sống còn.
Ráng vàng hé ửng đầu non,
Quân triều cứu viện bon bon chạy về.
Lửa thêm dầu, cháy càng mê.
Dìm nhau trong giấc tái tê kinh hoàng.
Xuyên hông, Châu, Lý thốc ngang,
Bị vây vào giữa, Sử toan thế nào?
Tử Nghi dùng thế đà đao,
Quày cương chém trả rơi đầu Sử Na.
Còn hai chống chọi với ba,
2620- Tư Minh liều dốc sức già hơn thua.
2621-Múa đao đâm đại chém đùa,
Nhìn quanh cảm phận như cua gãy càng.
Lý Quang Bật múa Thanh Cang,
Trúng thương, Trung Chí tìm đàng ruổi giong.
Quất roi, ngựa chiến lộn lồng,
Tư Minh vọt thẳng thoát vòng quân vây.
Châu Thông vụt phất bàn tay,
Phi đao cắm ngập bả vai kẻ thù.
Mật tan, Sử hoảng chạy vù,
2630-Dắt quân lếch thếch vào khu rừng già.
2631-Điểm quân còn bảy hao ba,
Cuộc cờ thế bại, tay sa thế này!
Châu rằng: “ Trỏ kiếm cõi ngoài,
Sợ chi da ngựa bọc thây biên đình.
Quân hơn hai vạn bỏ mình
Người còn vía lạc hồn kinh tháng ngày.
Đốt xe lương thảo Giang Hoài,
Cướp tươi mễ cốc mạn Tây chở về.
Giả người làm mọi ngành nghề,
2640-Thay xiêm đổi áo gây bề khó khăn.
2641-Lừa khi mây phủ sương giăng,
Mồi rơm đốt trại Đại Lăng, Thạch Hào.
Gân gà, mưu lược họ Tào,
Ba mươi sáu kế, chước nào thượng phong?
Lui về đất hiểm bố phòng,
2646-Lạc Dương cố thủ, yên lòng ba quân.


CHÚ THÍCH:

-trỏm lơ: (từ Nb): tiều tụy xanh xao quá đỗi, mất hết thần sắc.
-liên huờn mã: (cn: liên hoàn mã)-bốn hoặc ba ngựa bắc kế thành một hàng ngang kéo một cỗ xe trận cột chặt vào một khuôn gỗ chắc chắn, bốn bề gắn thêm đao bén nhọn. Trên xe là những tay cung nỏ thiện xạ.
-ngậm tăm cất lạc: người ngậm tăm để không nói chuyện; ngựa không mang lục lạc . Tất cả có ý giữ im lặng.
-thám mã: lính cỡi ngựa đi dò xét tình hình.
-rặc: (từ Nb)-thuần nhất một thứ, không pha trộn.
-quân kỳ: tức kỳ binh, loại lính chia ra thành từng toán nhỏ rải ra hoạt động lẻ tẻ khắp nơi.
-tật lê: loại chông sắt có nhiều mũi nhọn giương ra lởm chởm tứ phía.
-Xích Bích: nơi quân Bắc Ngụy của Tào Tháo bị kế hỏa công của Khổng Minh Gia Cát Lượng đánh bại.
-Non Kỳ: tức núi Kỳ Liên, nơi danh tướng nhà Hán là Hoắc Khứ Bệnh đánh bại quân Hung Nô.
-Câu liêm móc sắt: tức Câu liêm pháp, một trận pháp dùng câu liêm tra cán dài giựt tiện chân ngựa, phá thế Liên huờn mã.
-Lý: tức Lý Quang Bật, danh tướng nhà Đường.
-Thanh Cang: tên loại gươm quí.
-Sử: tức Sử Tư Minh, kẻ đã hợp sức với An Lộc Sơn dấy lên cuộc bạo loạn đời Đường Minh Hoàng. Sử TQ gọi là vụ án Sử-An.
-Sử Na: tức A Sử Na, tên một tướng Yên.
-mễ cốc: lúa gạo.
-Gân gà: lấy chữ kê cân. Tào Tháo thấy cứ đóng quân mãi chẳng lợi gì, mới bảo “ gân gà”,có ý muốn nói khó nuốt. Tùy tướng là Dương Tu hiểu ý, cho rút quân..

NhàQuê
13-11-2011, 01:35 AM
HỒI THỨ NĂM:

DƯNG BIỂU CHƯƠNG, TẤN CỬ CHÂU THÔNG.
THẮNG NGHIỆP THÀNH, TRÙNG PHÙNG MAI TRƯỚC.


A-QUÁCH TỬ NGHI ĐỀ CỬ CHÂU THÔNG.


2647-Phiên chầu tới lệ đầu Xuân,
Tử Nghi dưng sớ điều trần điện loan.
Kế khơi nước lũ Trường giang,
2650-Tưởng bình Nam ngạn, vẫn hoàn tay không.
2651-Tâu lên tấn cử Châu Thông,
Nắm quyền thống lãnh binh nhung đối đầu.
Hỏi qua khanh tễ đương trào,
Đức tài tánh hạnh thế nào cho minh.
Lời tâu thấu lẽ đạt tình,
Nhà vua ban chiếu sứ tinh lên đường.
Lịnh thay người thủ biên phương,
Châu Thông phụng chỉ giong cương ứng hầu.
Phán rằng: “ Chận chốt bấy lâu,
2660-Nay giao Quang Bật trước sau sắp bày.
2661-Ngự triều dò hỏi sáng nay,
Đôi bên xáp trận, dở hay đã tường.
Nam chinh, nguơn soái thọ thương,
Sức người hao kiệt, khó đương thế tình.
Mất còn trong cuộc giao tranh,
Khá tua đắp lũy bồi thành chống Yên.
Xét trong tướng giỏi tôi hiền,
Mừng khanh thao lược bút nghiên con dòng.
Đặc sai chưởng quản binh ròng,
2670-Ấn vàng gươm lịnh tiện dùng trong quân”.
2671-Tâu rằng: “ Cao thẳm chín từng,
Ơn mưa móc gội sánh vừng thái dương.
Nhọc nhằn lung nước đồi sương,
Mười phần vắn số, một phương sống còn.
Gió dông sóng dữ, thuyền con,
Phải tay lấp biển dời non mới là.
Ý thần chờ đợi Soái gia,
Phục hồi khí lực dần dà sẽ hay”.
Tử Nghi quì trước kim giai:
2680-“ Cứu binh như cứu hỏa tai khác gì !
2681-Tướng quân tài ít kẻ bì,
Non đồng vách sắt phải kỳ ngửa nghiêng.
Ra tay tướng mạnh Kỳ Liên,
Gỡ dân đen khỏi xích xiềng phong ba.
Thuấn Nghiêu, thánh đức rạng xa,
Xây nền lễ trị, quốc gia thới bình”.
Châu thưa: “Tự lượng sức mình,
Khó đưa vận nước vượt gành chông gai.
Rủi ro lỡ một lầm hai,
2690-E không đáp nổi mảy may thâm tình.
2691-Soái gia cùng với thân sinh,
Bút nghiên chung lứa, lửa huỳnh sánh đôi.
Thương mình gặp phận cút côi,
Nguyện hầu dưới trướng qua hồi gian nan.
Nghiệp Thành, xe ngựa địch càn,
Chơn trần dòng đục Sài Tang máu hòa.
Thân đơn đầm ấm tình nhà,
Cửa viên trăng gợn sóng trà đậm hương”
Phán rằng: “ Cân nhắc sở trường,
2700-Cắt người đúng việc, liệu lường mới hay.
2701-Hồn thiêng đất tổ an bài,
Quách trong then khóa, Châu ngoài hải ngung.

NhàQuê
13-11-2011, 01:37 AM
B-ĐĂNG ĐÀN BÁI TƯỚNG.


2703-Ngày lành luống đợi những mong,
Gấm năm màu dệt mây lồng Vị giang,
Xe rồng biệt điện Kim loan,
Cấm binh hộ giá thẳng đàng Liễu dinh.
Mối duyên cá nước mặn tình,
Đồi Long Trung bái Khổng Minh độ nào.
Thạch bàn trăng xế buông câu,
2710-Xe Văn tầm lối, lễ cầu Tử Nha.
2711-Đài chưng dị thảo kỳ hoa,
Cờ trương ngũ sắc, nhạc hòa bát âm.
Khua chiêng gióng trống ầm ầm,
Tướng đài cao, đội ngự lâm đứng dàn.
Kim khôi, giáp bạc, đai vàng,
Lên đàn, Châu bước giữa làn trầm bay.
Mặt nhìn hướng Bắc chắp tay,
Quì nghe Thái sử đọc bài chúc văn.
Cáo cùng hà bá, sơn thần,
2720-Minh minh sơn nhạc, sông gần biển xa.
2721-Đông cung Lý Xúc trao ra,
Ba Xuyên vân tiển, cung ngà Chấn thiên.
Khấn rằng: “ Thủy thổ sơn xuyên,
Ban ơn hộ độ sĩ hiền từ nay,
Trời xanh chín vạn, đất dày,
Núi cao dẫu mấy, sông dài bao lăm.
Trao người thề nguyện nhứt tâm,
Dãi dầu nắng sớm, ăn nằm chiều sương.
Phơi gan trải mật mười phương,
2730-Dấu lân hoa nở ngát hương thới hòa”.
2731-Cung tên gói bức khăn là,
Cúi mình đón tiếp đưa qua ngang mày.
Đi lên phủ phục từng hai,
Hướng cung Càn, vọng bên tai mấy vần:
-“ Chứng tri nhựt nguyệt linh thần,
Các vì vua trước trị dân nối đời.
Trời xui cồn hóa biển khơi,
Quyền giao tướng giỏi đáp lời non sông.
Dưới tay năm lộ binh hùng,
2740-Rộng ban đức lớn, khéo dùng mưu cao.
2741-Công bằng phép trọng làm đầu,
Cầm cân nẩy mực trước sau chẳng dời.
Tứ ban vật báu cho người,
Thẳng tay sáng suốt chế tài ba quân”.
Tử Nghi trao phủ ân cần,
Châu Thông lạy tạ lên từng thứ ba.
Áo rồng ánh sắc vàng pha,
Cửu long nạm ngọc, khăn sa hồng đào.
Mặt trông Nam nhạc cúi đầu,
2750-Tiêu thiều trổi khúc ngạt ngào khói hương.
2751-Cáo rằng: “ Theo nghiệp tiên vương,
Bao triều thạnh trị, biên cương vững vàng.
Vừa rồi, giặc cỏ Sử-An,
Dấy binh bốn cõi, gieo nàn muôn dân.
Dốc lòng noi dấu Thương Ân,
Chư hầu hợp bến Mạnh Tân dẹp loàn.
Nằm gai nếm mật gian nan,
Điều xe, khiển pháo Võ Thang về trào.
Trình lên đất thẳm trời cao,
2760-Gởi vàng chọn mặt, tin trao quyền hành.
2761-Châu Thông thống lãnh muôn binh,
Đặc sai trọng nhiệm Bắc bình phạt Yên”
Phán rằng: “ Oai đức cửa viên,
Nắm cầm quân pháp mối giềng kỷ cương.
Giao thanh bửu kiếm Thượng phương,
Hổ phù ngọc tiết, ấn vàng nguơn nhung.
Gìn non nước, vẹn lòng trung,
Đưa thuyền cỡi sóng hãi hùng can qua”.
Tâu rằng: “ Bồi đắp san hà,
2770-Xả thân đâu quản lệ hòa máu xương.
2771-Oằn vai gánh nặng cang thường,
Kiếm mòn, tóc điểm màu sương sá gì.
Lòng son nguyện giữa đơn trì,
Trên vì chín bệ, dưới vì muôn dân”.
Hỏi rằng: “ Phá Sở dẹp Tần,
Văn tài sử Mã, kinh lân thông làu.
Kén binh chọn tướng làm sao?
Dùng người xếp bực lẽ nào?-Khá phân!”
Trình rằng: “Thấu việc xa gần,
2780-Ung dung chiếu rượu, chỉ cần vẩy tay.
2781-Mưa tuôn, bão cuốn cõi ngoài,
Được thua ắt chắc, không sai tơ hào.
Tam tài một mối gồm thâu,
Xét trong võ đức, đứng đầu là nhân.
Khương công quả thiệt tướng thần,
Anh hùng chỉ một, dưới trần mấy ai.
Bàn qua hào kiệt hạng hai,
Sắp mưu dùng trí, giỏi tài điều quân.
Thắng muôn trận lớn lẫy lừng,
2790-Kế sâu nọc hiểm, không ngừng liệu toan.
2791-Đủ trò dụ gạt trá gian,
Điêu linh trăm họ, vẻ vang riêng mình.
Xương khô xây lũy đắp dinh,
Ép người vào rập, lấy hình làm căn.
Hoài Âm sát khí đằng đằng,
Lôi ngay Ân Cái chém phăng bêu đầu.
Nghinh ngang đeo ấn phong hầu,
Nhúng tay máu đỏ, người đâu nể vì.
Rốt hồi, loại tướng Trương Phi,
2800-Kế mưu chẳng có, xài khi phá thành.
2801-Khiêng cây, vác đá ai kình,
Kẻ chê thô bạo, người khinh ngu đần.
Dẫu như ruột thịt tay chân,
Hiểu câu “ dụng mộc dụng nhân” nằm lòng”
Hỏi rằng: “Khói cuộn lửa giong,
Khá bày thế thủ, thế công cho tường !”
-“ Địa hình hiểm trở Bắc phương,
Rừng già mút mắt Bộc Dương, Hình Đài.
Quân kỳ len lỏi mạn Tây,
2810-Ngựa xe, lính bộ đánh ngoài miền Đông.
2811-Âm thầm đêm tối vượt sông,
Ém quân hờm sẵn dìm rồng đáy sâu.
Ải xa Sơn Hải địa đầu,
Ghe thuyền tốc chiến để cầu thượng phong.
Xẻ khu, chia mảng, cắt vùng,
Giặc kia ngách bí hang cùng phải tiêu.
Giang Nam hồ lắm ngòi nhiều,
Đầm lầy chằm rộng, khó điều đại binh.
Rải người thay dạng đổi hình,
2820-Cải trang thương lái bồng bình bán buôn.
2821-Đó đây kiếm cách lách luồn,
Dò đường lớn nhỏ, coi truông vắn dài.
Dùng mưu bỏ một đánh hai,
Trường An cố giữ, chẳng nài hi sinh.
Lửa dồn chụp tới thình lình,
Nghiệp Thành khói bốc, Động Đình lửa lan.
Chực chờ bờ Bắc Trường giang,
Mở xem túi gấm băng ngang hiệp đồng,
Binh hùng tám vạn chung lòng,
2830-Ngàn cân đè trứng mới mong tranh cường.
2831-Dẹp rồi về cứu Lạc Dương,
Chận đường cứu viện Bắc phương kéo vào”
Phán rằng: “ Ý hợp tâm đầu,
2834-Mưa rào cứu hạn bấy lâu, thỏa lòng.


CHÚ THÍCH:

-Mai trước: (trước: cách phát âm của Nb khi đọc chữ trúc)-Mai trúc là hai loại tre, dùng để chỉ đẹp đôi xứng cặp vợ chồng.
-Khanh: tức Thượng thơ / thương thư, vị quan đứng đầu một bộ.
-Tễ: trong thần của triều đình.
-Ban chiếu: vua truyền chiếu chỉ xuống cho thi hành.
-Sứ tinh: sứ giả.
-Phụng chỉ: (quan hoặc dân làm theo chiếu chỉ của vua ban xuống.
-Tường: rõ ràng.
-Thao lược:
*-thao: gồm có lục thao: văn thao, võ thao, long thao, hổ thao, báo thao, khuyển thao. Lục thao là bộ sách 6 quyển, có người cho rằng do Thái công Khương Tử Nha soạn.
*-lược: tức tam lược: Thượng lược, dùng đức nhân để làm cho người tuân phục; trung lược dùng trí để đánh bại kẻ thù; hạ lược là dùng sức mạnh để làm cho người ta khuất phục.
Thao lược chỉ chung cách dùng binh.
-lung: (từ Nb)-trũng nước sâu giữa rừng hoặc đồng ruộng.
-tướng mạnh Kỳ Liên: chỉ dõng sĩ Hoắc Khứ Bệnh, danh tướng nhà Hán phá tan quân Hung Nô ở núi Kỳ Liên.
-Thuấn Nghiêu: tức Đế Nghiêu, Đế Thuấn, hai vị vua giỏi thời cổ đại Trung quốc, tìm người kế vị bằng cách truyền hiền.
-lễ trị: một phương lược chánh trị của các bậc vua chúa thời xưa, lấy lễ nghĩa đức độ để giáo hóa dân.
-lửa huỳnh: (do huỳnh hỏa ) lửa đom đóm. Xa Dận đời Tống nhà nghèo, không có tiền, gom đom đóm lại để học, đọc sách. Lửa huỳnh chỉ việc học hành.
-Sài Tang: tên một địa danh phía Nam sông Trường giang.
-Cửa viên: (cn: viên môn)-cửa vào chỗ đóng quân có hai càng xe hay hai cây dáo tréo nhau làm cổng.
Cửa viên trăng: lấy ý lối chiết tự của chữ NHÀN gồm chữ nguyệt và chữ môn tức là trăng chiếu vào cửa. Viên môn nguyệt (trăng chiếu vào cửa viên) ý muốn nói lúc nhàn rỗi trong quân ngũ.
-An bài: sắp đặt sẵn.
-Then khóa: việc chánh sự trong triều.
-Hải ngung: chỉ việc dùng binh bị trấn yên cõi biên cương.
-Dinh liễu: do liễu dinh, chỗ đóng quân của danh tướng Chu Á Phu thời Chiến quốc; ý nói chỗ đóng quân của tướng soái.
-Duyên cá nước: tức duyên ngư thủy, chữ của Lưu Bị dùng để nói với Khổng Minh; ý nói duyên gặp gỡ của vua giỏi tôi hiền.
-Tử Nha: tên chữ của Khương Thượng, người giúp Võ vương Cơ Phát khởi binh ở Kỳ Sơn, đánh bại vua Trụ nhà Thương Aân, dựng nhà Tây Châu.
-Đồi Long Trung: nơi Lưu Bị gặp Khổng Minh Gia Cát Lượng.
-Dị thảo kỳ hoa: cây cỏ lạ, hoa hiếm thấy.
-Bát âm: tám thứ tiếng do tám nhạc cụ thời xưa phát ra:
1-bào (tiếng gõ nhịp của sanh /sênh; 2-thổ: tiếng trống đất;
3-cách: tiếng trống da; 4-mộc: tiếng mõ cây;
5-thạch: tiếng khánh đá; 6-kim: tiếng chuông đồng;
7-ti: tiếng dây tơ; 8-trúc: tiếng sáo tre trúc.
-Ngự lâm: đội quân bảo vệ vua ở hoàng cung.
-Kim khôi: mũ trụ bằng kim loại mà các võ tướng đội để che đầu.
-Hà bá: thần sông.
-Sơn thần: thần núi.
-Đông cung: tức Đông cung thái tử, vị hoàng tử được chọn làm vua sau này.
-Xuyên vân tiển: mũi tên bắn xuyên qua mây.
-Chấn thiên cung: cây cung làm chần động cả bầu trời.
Cung và tên vừa kể là của danh tướng Tiết Nhơn Quí dùng lúc chinh chiến ở Cao Ly.
-thủy thổ sơn xuyên: nước đất núi sông.
-chứng tri: hiểu tấm lòng mà chấp nhận lời khấn nguyện.
-lộ: một đơn vị quân đội, tương đương cấp quân đoàn ngày nay. Vào thời đó mãi cho đến đời Tống, Trung quốc chỉ có năm lộ quân. Mỗi lộ quân do một võ tướng trọng thần cai quản, đóng rải rác khắp các miền biên ải hiểm yếu.
-chế tài: thưởng phạt.
-phủ: tức búa việt tương trưng cho oai quyền của tướng soái.
-áo rồng: tức long cổn, áo có thêu rồng năm móng của vua mặc.
-sa: lụa mỏng.
-Tiêu thiều: nhạc cung đình.
-Sử-An: các Tiết độ sứ An Lộc Sơn và Sử Tư Minh gây bạo loạn, chiếm cứ nhiều nơi, tự xưng là Yên đế. An Lộc Sơn bị con trai là An Khánh Tự giết chết,
Sau khi sử Tư Minh mất, thế quân Yên suy yếu. Con trai Sử Tư Minh là Sử Triều Nghĩa bại trận, bị bắt, chấm dứt vụ án An-Sử.
-Thương Ân: Vua Kiệt nhà Hạ bạo ngược, tàn ác. Vua Thành Thang hợp 800 trấn chư hầu lớn nhỏ tại bến Mạnh Tân, một bến nước trên sông Huỳnh hà chung sức đánh đuổi vua Kiệt lập nhà Thương Aân.
-nằm gai nếm mật: do chữ: “ ngọa tân thường đởm / đảm” (nằm trên củi gai gốc và nếm mật đắng ). Việt vương Câu Tiển làm như vậy để nhớ nước Việt mất về tay Ngô Phù Sai. Ý nói chịu đựng gian khổ.
-Võ: tức Châu Võ vương Cơ Phát, người đã diệt Trụ hưng Châu.
-Thang: vua Thành Thang, người đã diệt vua Kiệt dựng nhà Thương Aân.
-thống lãnh: gom về một mối để điều khiển.
-trọng nhiệm: nhiệm vụ nặng nề.
-Bắc bình: dẹp loạn phương Bắc.
-quân pháp: phép tắc luật lệ trong quân ngũ.
-kỷ cương: giềng mối cơ bản.
-hổ phù: huy hiệu có mang hình cọp, tượng trưng oai quyền của tướng soái cầm quân.
-ngọc tiết: cờ tiết mao của vua ban.
-nguơn nhung: (cg: nguơn soái ) tướng điều khiển quân binh trong trận chiến lớn.
-can qua: dáo và mác, hai loại võ khí thời xưa, tượng trưng cho chiến tranh.
-bệ đơn: do chữ đơn trì (bệ sơn đỏ)-chỗ vua ngự, triều đình.
-Sử Mã kinh lân: tức Sử ký của Tư Mã Thiên và lân kinh tức kinh Xuân Thu do Khổng tử viết. Sử Mã kinh lân chỉ sách vở và việc học vấn, văn tài của nho sĩ.
-tơ hào: (tơ: kẽ nhỏ sợi tơ lọt qua được; hào: khoảng cách rất nhỏ): chút đỉnh, nhỏ nhặt.
-tam tài: ba đầu mối, ba yếu tố trong vũ trụ quan Đông phương: thiên, địa, nhơn.
-Khương công: tức Khương Tử Nha.
-tướng: theo binh pháp ngày xưa, tướng có ba hạng:
*-thần tướng: áp dụng nhơn nghĩa, đức độ cho binh sĩ thuộc hạ và kẻ địch kính phục.
*-trí tướng: tướng áp dụng mưu kế để thắng địch.
*-dõng tướng: tướng chỉ dùng sức mạnh, không có mưu mô.
-hình: luật lệ chú trọng sự trừng phạt.
-rập: (từ Nb): cái khuôn mẫu có sẵn để theo đó tạo ra vật khác giống y kích cỡ.
-Hoài Âm: tức Hoài Âm hầu Hàn Tín, ngay hôm đăng đàn bái tướng đã lôi Ân Cái ra chém để thị oai vì Ân Cái có ý không phục.
-rốt hồi: (từ Nb)-cuối cùng.
-kình: (từ Nb)-so đọ, so sánh.
-cơ ngũ: đơn vị tổ chức nhỏ lớn trong quân.
-dụng nhơn như dụng mộc: dùng người như dùng cây gỗ; tức là phải biết phẩm chất từng loại gỗ cũng như tài năng của từng người mà sắp đặt đúng việc.
-Sơn Hải: tức Sơn Hải quan, ải địa đầu ở cực Bắc TQ, giáp với Cao Ly.

NhàQuê
13-11-2011, 01:38 AM
C-NỖI NHỚ NHUNG.


2835-Mài nanh cọp, giũa móng rồng,
Gọi thêm gió đỡ cánh hồng vút cao.
Giáo trường nung chí anh hào,
Giong xe xáp trận, ôm phao vượt dòng.
Đưa tin bắn mũi tên đồng,
2840-Mồi châm hỏa pháo, thuốc xông a ngùy.
2841-Ngày thao luyện vút qua đi,
Đêm sao chậm chạp,-Nhớ gì?-bâng khuâng.
Mộng lan man quẩn quanh thân,
Làng quê mây lạnh phủ lần lối thương.
Số từ chai mặt gió sương,
Đảo chao xác lá, gót vương bụi bùn.
Bao giờ tan lũ dế trùn,
Ải lang bặt bóng cát hồng ngựa say.
Về đi thôi!-Khóm mai gầy,
2850-Vó lừa cầu nhỏ, canh chầy trăng thanh.
2851-Cúc vàng chen sắc liễu xanh,
Ráng chiều khói sớm xây thành non tiên.
Ngặt vì khắc khoải tiếng quyên,
Giục trai cắp dáo mang khiên lên đàng.
Huỳnh sa hương lụn nhang tàn,
Tòa sen phách dựa, trái oan sạch rồi!
Hay là gió núi mây đồi,
Tay ôm yên ngựa, ngủ ngồi rừng hoang,
Theo con trăm trận dọc ngang,
2860-Đỡ che tên đạn nguy nan bao ngày?
2861-Mẹ già, áo mướp quần gai,
Cơm và lơi nhịp, đếm hoài lệ tuôn.
Phên thưa hắt bóng bấc buồn,
Chân trời xa, sợ sóng cuồng biển xanh.
Chị còn liếp cải bờ chanh,
Có hay đầu đã quấn vành khăn tang?
Mấy thu đợi cá trông nhàn,
Biết còn tần tảo lúa nương dâu tằm?
Nhớ người rừng lạnh căm căm,
2870-Nắng thiêu cho nón, mưa dầm giúp tơi.
2871-Nêu cao đạo nghĩa ở đời,
Dễ gì danh lợi đổi dời chơn thân.
Sân mai vằng vặc bóng ngân,
Thả tay lưới sớm, nhắp tuần trà trưa.
Chiều đi Long Ẩn nắng lưa,
Phách sanh sóng điệu đàn xưa Mai đình.
Biết còn mưa đượm mát nhành,
Hay khô héo cội, vóc hình xanh xao?
Tưởng người má ửng bông đào,
2880-Nói năng khuôn phép, ra vào lễ nghi.
2881-Quen hơi bén tiếng mà chi?
Mong hồng chờ nhạn, biết gì âm hao.
Ai xuông lưỡi mác đầu dao,
Để ai thui thủi giọt ngâu đêm trường.
Có còn rẽ tóc soi gương,
Ngâm câu đầu bạc, ngóng phương biên đình?
Hay giờ then lỏng vườn quỳnh,
Cài trâm tách bến để mình bơ vơ?
Gặp lại nhau,-những đợi chờ,
2890-Trăng thờ thẩn giọi cành hờ hững sương.
2891-Liễu buông cành rũ nách tường,
Xa hun hút đóm cuối đường đìu hiu.


CHÚ THÍCH:

-trùn: (từ Nb): Đàng ngoài gọi con giun.
-a ngùy: loại dược thảo khi đốt bốc lên khói cay.
-sanh: (Đ.ng: sênh)- dụng cụ cầm tay gồm hai miếng gỗ hay hai thanh tre dùng để gõ nhịp lúc đờn ca.
-sóng: sóng đôi; sánh vai nhau mà đi.
-điệu đàn: điệu của bản nhạc, bản đờn,-ở đây dùng như tiếng lóng Nam bộ theo lối chơi chữ với ý nghĩa là cách cư xử rất tốt đẹp của người có tình nghĩa.
-xuông (từ Nb):
a)-xông vào.
-trúng vào mắc phải.
-lão già xuông dịch.
-nhàn cá: tin tức.
-bặt tin nhàn cá.
-hồng nhạn: cũng chỉ tin tức.
-âm hao: tin tức.

NhàQuê
13-11-2011, 01:39 AM
D-ĐÁNH NGHIỆP THÀNH–THÂU PHỤC GIANG HẠ.


2893-Nghiệp Thành mây ố bóng xiêu,
Buốt tê vọng gác, buồn thiu lửa huỳnh.
Nửa đêm đánh pháo nổ ình,
Kho lương phựt lửa, quân binh xô bồ.
A ngùy rải mớ củi khô,
Mùi xông ngộp thở, khói lò thành trung.
Vọng lâu dòm xuống khắp vùng,
2900-Binh triều chen gót, đuốc thông sáng trời.
2901-Tỏa sao, thép lạnh ánh ngời,
Dập dồn diều lửa bời bời bay giăng.
Rắp đem cát đá sông Hằng,
Kêu mưa hú gió lấp bằng biển sâu.
Bất ngờ, dẫu sẵn mưu cao,
Dễ gì bắn sẻ vụt lao qua mành!
Nơi nơi nghiêm nhặt gác canh,
Tay liền cung nỏ, mặt thành cắt phiên.
Thế cờ tấn chốt tranh tiên,
2910-Giương xe kích pháo, giữ liền thượng phong.
2911-Đêm sâu đùn đặc mây lồng,
Tuyết tê bấc lạnh, giọt rồng điểm ba.
Ngại gì thây đổ máu sa,
Chiến trường tỏ được gan già mới hay.
Yên binh bày trận mặt ngoài,
Thủ Trung xáp tới, tuốt tay gươm trần.
Quyết tâm áp đảo tinh thần,
Đội Liên huờn mã rần rần xông lên.
Da dày phủ ngựa bốn bên,
2920-Giương đao chận lối, buông tên kín màn.
2921-Câu liêm trận pháp đã dàn,
Quần nhau cân sức ngửa ngang trận tiền.
Vỗ bờm ngựa, dạ đảo điên,
Đâu ngờ lâm bước truân chuyên khốn cùng.
Mồ hôi trán nhểu ròng ròng,
Hét hò sĩ tốt thoát vòng tử sanh.
Chật chen quân địch bao quanh,
Khóa đường lui tới, thế tình nguy nan.
Cả cười, Tuấn Đức chận đàng,
2930-Điều trăm mã kỵ, quay ngang ngọn chùy.
2931-Mật to gặp phải gan lì,
Hẹn đâu mà gặp, cương ghì gườm nhau.
Nửa cân tám lượng đương đầu,
Cầm đồng mấy hiệp, thấp cao chưa bày.
Thủ Trung trổ hết thần oai,
Roi da lén rút quất ngay mặt thù.
Đòn ra tay trái chưa thu,
Gươm trường bên phải lướt vù qua vai.
Khom mình, Tuấn Đức vọt ngoài,
2940-Xây lưng giương nỏ nhắm ngay yết hầu.
2941-Giặc già lanh mắt hụp đầu,
Đánh choang, tên sắt chạm vào kim khôi.
Nghiệp Thành khói cuộn lửa trôi,
Thủ Trung sốt vó sải hồi viên môn.
Phất cờ gióng trống đuổi dồn,
Chân không bén đất, Trung hồn phách bay.
Biết không tìm được vận may,
Mặt chai mày đá chạy dài cho xong.
Lũy dài sụp đổ mạn Đông,
2950-Quân triều thả ván đè chông vượt hào.
2951-Mỏi mòn sĩ tốt tiêu hao,
Trương Trung Chí vội phá rào bôn ba.
Ngựa đừ, biếng ngọn roi tra,
Lôi thôi cờ xí, rườm rà tàn quân.
Cây buồn lả ngọn rưng rưng,
Đắng cay khóe mắt, ngập ngừng lối qua.
Hẳn chừng ngót chục dặm xa,
Gặp binh An Thủ Trung ra hợp đoàn.
Lòng mừng, chuyện vản hỏi han,
2960-Tính sơ tổn thất, luận bàn mưu cơ.
2961-“Mấy ai lường được chữ ngờ,
Thời xui vận rủi, thế cờ sa tay.
Đọ so chiến trận mới hay,
Châu Thông sáng trí cao tài khó đương”
Trung rằng: “Trúng trật chưa tường,
Thầy đồ học lóm mấy đường kiếm cung.
Vắng mèo, chuột lắt vẫy vùng,
Thứ ương gàn sánh anh hùng,-ai hơn?
Thiên Lương xưa cũng một phồn,
2970-Muống bèo chen đứng vào bồn quế lan.
2971-Lửa nung biết đá biết vàng,
Mang tên bỏ ải Đồng quan chạy dài.
Vùi chôn xương nát đồi cây,
Vóc chồn cheo, sức cáo cầy,-kể chi!
Châu Thông, con lão ra gì,
Mài mò bắt chước Trương Nghi, Võ hầu.
Nghiệp Thành, lưng mật bấy lâu,
Luống lo bỏ xác rừng sâu âm thầm”.
Chí rằng: “ Nghĩ vậy là lầm,
2980-Giành tranh thiên hạ, nhơn tâm đứng đầu.
2981-Ngựa Yên xưa giẫm phụng lâu,
Đất trời mù mịt một bầu hỗn mang.
Là do chánh sự nát tan,
Tham quan nhũng nhiễu, trào đàng tranh phân.
Thuế xâu đổ ập đầu dân,
Ngôi cao thiên tử lạt lần mùi hương.
Thừa cơ, nuôi mộng bá vương,
Đập cho xã tắc nhà Đường tiêu tan.
Huyền Tôn trốn sảng chạy hoàng,
2990-Lui về Ba Thục chỉnh trang thế tình.
2991-Dậy oai thần võ anh minh,
Dỗ an trăm họ, thanh bình một phương.
Thôn quê cho đến phố phường,
Trên hòa dưới thuận, yêu thương chung lòng.
Đừng coi nhẹ gã Châu Thông,
Nếp nhà đào lý, giống dòng binh gia.
Còn thơ, tiếng đã nổi xa,
Vẫy vùng trận bút, xông pha côn quyền.
Tầm nhìn đạt địa thông thiên,
3000-Tuổi non nhưng trí sánh liền Ngọa Long.
3001-Cuộc đua chém cọp bắt rồng,
Tử Nghi ra sức hiệp đồng Châu lang.
Chuyển xoay thế trận chiến tràng,
Phép khuôn chắc chắn, đáng trang anh hào.
Nhơn nhơn tự đắc làm cao,
Không người dưới mắt, trước sau lụy mình”.
Gian nan lên thác xuống gành,
Ngược xuôi đưa đẩy buồn tanh theo dòng.
Trũng sâu đèo dốc chập chùng,
3010-Chông chinh đá dựng, lạnh lùng thâm nghiêm.
3011-Cựa mình trở giấc chim đêm,
Đường mòn thoai thoải, cỏ mềm vờn quanh.
Nhìn lâu, Trung Chí dùn mình,
Rắn khoanh hổ núp, phục binh chưa tường.
Rối lòng trăm mối vấn vương,
Mất còn gang tấc, liệu lường được đâu.
Đóng quân, gác ngọn cây cao,
Bụi lùm giấu dạng, bấm nhau canh phòng.
Chen mây, rạng mặt trời hồng,
3020-Rừng ào lá động, mấy vòng quân vây.
3021-Sương tan, cờ phất phơ bay,
Nguơn Hanh xuất trận với vài trăm binh.
Cười rằng: “ Con tạo công bình,
Cao bay xa chạy, giấu hình mãi sao?
Lưới trời lồng lộng trên cao,
Bàn tay nhơ nhớp máu đào,-khó chui.
Rã thây khao thưởng lằng ruồi,
Cọp lôi quạ rỉa, xác vùi xanh cây”
Hai bên thế thủ trận bày,
3030-Sấm gầm ngọn kiếm, sét bay đầu chùy.
3031-Lợi Trinh chung sức Quán Chi,
Điều quân thiện xạ tay ghì nỏ cung.
Càn Chơn, Trung Chí, Thủ Trung,
Thế cô đất hiểm buộc lòng giao chinh.
Ngăn luồng sóng dữ Đường binh,
Xe lương rắp nẻo, đá gành che quân.
Xơ rơ bộ kỵ hợp quần,
Mở thông đường máu băng chừng càn ra.
Càn Chơn cương giựt, roi tra,
3040-Múa đao xông xáo đuổi nà Quán Chi.
3041- Nắng chan trãng cỏ xanh rì,
Chén đưa chưa nhắp, tiếng tì thúc thôi.
Giàm danh khóa lợi tanh hôi,
Trái oan đã kết để rồi gặp đây.
Quê xưa lẻ bóng trăng đầy,
Khăn tang ngùi nhớ xác xây nên thành.
Vinh vang vài kẻ tướng khanh,
Biết chăng xương lính rừng xanh lớp hàng?
Binh Yên nát lối tan đàn,
3050-Sa cơ,-Gắng gượng, khó toan nước cùng.
3051-Thái sơn nhẹ tợ lông hồng,
Gan vàng chọi với tên đồng được sao?
Càn Chơn sểnh miếng rơi đao,
Phút giây làm quỉ không đầu nào hay!
Dấn thân vào chốn đọa đày,
Tâm hồn rối loạn, hai tay rã rời.
Thủ Trung dầu muốn đổi dời,
Én đơn đâu dễ kéo trời vào Xuân.
Chỉ mành treo nặng ngàn cân,
3060-Giữa vòng tên đạn, non thần phách bay.
3061-Nhìn quanh nào thấy còn ai,
Não lòng, Trung Chí thở dài lặng thinh.
Hà Nam sáu vạn tinh binh,
Cuốn trong bão lửa, nát hình tan xương.
Được thua, hơn kém đã tường,
Lưng trời tiếng hạc kêu sương giựt mình.
Bước thầm đêm rợn hãi kinh,
Chơn qua đất lạnh, gập ghình truông sâu.
Ngại ngần lởn vởn mây sầu,
3070-Trời hừng hững sáng tới đầu ải quan.
3071-Tư Minh dẫn viện quân sang,
Thân chinh xông trận cứu an Nghiệp Thành.
Truyền rằng: “ Đưa trước kỵ binh,
Thuyền bè tập hậu thủy trình Ba Khâu”.
Giục dông thét gió đưa mau,
Dốc toàn sức đánh phủ đầu Châu lang.
Mông xung, khai lãng giăng hàng,
Phăng phăng lướt sóng Trường giang ngược dòng.
Trời mù dày đặc sương đông,
3080-Chèo lan khua mái minh mông sông dài.
3081-Chợt đâu pháo nổ inh tai,
Đầu người lố nhố, tên bay kín trời.
Trôi xuôi bè lửa khắp nơi,
Cháy bừng thuyền gỗ giữa vời chông chinh.
Tuốt gươm đỡ gạt bốn bên,
Hối quân lên bộ, bến ghềnh lựa chi.
Thót yên, thúc gót ngựa Kỳ,
Cương buông roi quất kể gì gian nan.
Đầu non thoáng bóng binh dàn,
3090-Quày lưng mang chạy tìm phang ẩn mình.
3091-Thấm mùi sướng khổ nhục vinh,
Tàn quân bại tướng đồn binh Ô Đề.
Chua cay chịu đã chán chê,
Đêm đi ngày lánh, lẻn về Bắc Yên.
Tin đưa thắng trận liền liền,
Châu Thông khẩn cấp lịnh truyền tấn binh.
Nhận chìm thủy trại Động Đình,
Diệt quân tiếp ứng cứu thành Du Giang.
Nhồi rơm nhét ngách đào hang,
3100-Đông dương Tây kích đánh tràn Giang Lăng.
Trừ Trung sóng nổi đất bằng,
Liên quân thủy bộ đạp phăng Giang Hoài.
Võ Xương lũy rộng thành dài,
Thế cờ nghiêng lệch co tay hàng đầu.
Trời xui biển hóa cồn dâu,
Nồi kê chưa chín, sông sâu nên đồng.
Khói un đốt rụi bầy ong,
3108-Mừng lên khóe mắt, giọt nồng chảy quanh.


CHÚ THÍCH:

-lò (từ Nb): luồn vào.
Đêm khuya, ngọn gió thổi lò,
Sương sa lác đác mưa tro lạnh lùng.
(Lục Vân Tiên – NĐC)
-ngót (từ Nb): gần hết.
*-ngót vài tháng: gần vài tháng,
-trúng trật (từ Nb): đúng sai.
-chuột lắt (từ Nb): (Đ,ng: chuột nhắt): loại chuột nhỏ con chui rúc trong nhà, phá phách luc lạo rất dữ.
-Trương Nghi: nhà biện thuyết giỏi thời Chiến quốc,
-Võ hầu (cg: Vũ hầu): tức Võ hương hầu, tước hầu của Khổng Minh Gia Cát Lượng,
-phụng lâu:Lầu có hình chim phụng, chỉ hoàng cung.
-hỗn mang: lộn xộn, không trật tư.
-sâu (cv: xâu)-< HV: sưu, số ngày lao động mà dân phải bỏ ra để làm việc công ích, không được trả tiền.
-đào lý: chỉ các quan có tài ba lỗi lạc. Đời Đường, Địch Nhơn Kiệt tiến cử 3o người ra làm quan đều là những người tai ba xuất chúng, cho nên có người nói: “ Thiên hạ đào lý tận tại công môn” (những kẻ tài giỏi trong thiên hạ đều ở cửa nhà ông mà ra),
-trâm anh: (trâm: cây cài đầu lúc đội mão; anh: dây vải thả lòng thòng sau mũ học trò đội ngày xưa ở TQ. Trâm anh vì vậy chỉ con nhà quyền quí.
-tám lượng nửa cân: (lượng= 37,5gam; cân=600gam).Vì vậy tám lương nửa cân chỉ tài sức ngang ngửa.
-không người dưới mắt: do câu: “ mục hạ vô nhơn” (dưới mắt mình thấy không có ai cả) chỉ người kiêu căng, coi thường kẻ khác.
-Ngọa long: tức Ngọa long tiên sanh, biệt hiệu của Khổng Minh.
-Câu 3042 lấy ý trong bài Lương châu từ:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi,
Dục ẩm, tì bà mã thượng thôi,
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu,
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
Dịch ra văn xuôi:
Rượu bồ đào ngon đựng trong chén ngọc dạ quang,
Muốn uống nhưng đờn tì bà đã thúc giục lên ngựa,
Say nằm giữa sa trường, bạn đừng cười,
Xưa nay chinh chiến , có mấy người đi trở lại.
-Thái sơn lông hồng: Tư Mã Thiên trong Sử ký đã viết: “ Nhân cố hữu tử, hoặc trọng ư Thái sơn, hoặc khinh ư hồng mao” (Người ta ai cũng phải chết, có cái chết nặng như núi Thái sơn, cũng có cái chết nhẹ tợ lông chim hồng).
-thủy trình: đường thủy.

NhàQuê
13-11-2011, 01:41 AM
E-LỄ HẠ CÔNG – CHÂU THÔNG GẶP LẠI NGƯỜI XƯA.


3109-Thuồng luồng sút móng gãy nanh,
3110-Ngựa phi báo tiệp tin lành trào ca.
3111-Quên đi bùn bụi quan hà,
Tạm nhàn nhã nhắp chén trà vọng lâu.
Nhớ công bổi lũy dào hào,
Thưởng người sống chết cùng nhau chiến tràng,
Trại dinh lụa đỏ buông màn,
Vẳng xa kèn sáo, giăng hàng huê đăng.
Kép đào ca múa Ngũ Lăng,
Ngóng cây qua núi, chèo trăng xuôi dòng.
Nhường nhau nửa hớp rượu nồng,
3120-Chia bùi sẻ ngọt giữa lòng quân quan.
3121-Tiệc hoa canh lụn gần tàn,
Tuần phiên dắt một nữ lang tới hầu.
Vóc mai nhuốm nửa trời sầu,
Đứng chờ rón rén đôi câu tự tình.
Gởi rằng: “ Chút phận linh đinh,
Vàm sông trôi nổi, bến đình bơ vơ.
Ngô nghê tài mọn dây tơ,
Hát rong độ nhựt đến giờ ba thu.
Cong đuôi beo cọp chạy vù,
3130-Rồng đoanh trời thẳm, mây mù bay đi.
3131-Lịnh ban nào dám huỡn trì,
Xông sương lướt bụi quản gì tấm thân.
Gió mưa hao tổn tinh thần,
Đường xa nấn ná thôn lân chầy ngày.
Lễ mừng coi hãy còn dài,
Đờn thô hát vụng đôi bài mà chơi”
Quân truyền thềm dưới tạm ngồi,
Dạo dây tấu khúc đệm lời xướng ngâm.
Ngón ngà gọt chuốt ngũ âm,
3140-Phím tơ ruột đứt, cung cầm máu loang.
3141-Ca rằng: “ Chiều đổ non ngàn,
Phân vân nắng úa, bàng hoàng nẻo quê.
Êm êm niềm nhớ lén về,
Song thưa lẻ bóng, sao Khuê cuối trời.
Buồng không, giọt thảm đầy vơi,
Lá khô ngập lối, nửa vời huỳnh hôn.
Gió may chớm lạnh cõi hồn.
Vào mưa sấm động, lũ dồn miên man.
Chuyển mùa, lả cánh sen tàn,
3150-Cột xiêu phên đổ,-một gian tiêu điều.
3151-Nhớ người lối lạc bước xiêu,
Hành trang dường gói ít nhiều buồn thương.
Mai gầy, mặt dạn gió sương,
Trán in núi sụp, mắt vương biển trồi.
Qua đây, đêm muộn lần trôi,
Sóng xa xô tới, nước nhồi lại đi.
Thềm rêu dấu cũ xanh rì,
Động Đình ngựa hí, Hợp Phì tên reo.
Ai đi gối kiếm mây đèo,
3160-Buồn se vóc liễu, trăng treo giang đầu.
3161-Đêm rằm trải chiếu bờ ao,
Ai ngồi đọc sách, mình hầu quay tơ.
“ Quay tơ phải giữ mối tơ,
Dầu năm bảy mối, vẫn chờ mối ai”
Mịt mờ tháng rộng năm dài,
Mắt đăm đăm hướng chơn ai tấc đàng”.
Tay tiên chuyền lượn sóng lan,
Thoắt đi, đọng giọt sương ngàn cô đơn.
Âm thanh keo kết chập chờn,
3170-Quyện quanh xoắn xuýt gió vờn liếp tre.
3171-Trầm sâu, dế thở than hè,
Trưa quê tĩnh mịch, tiếng ve kêu sầu.
Hàng cây tê dại gục đầu,
Nghe mưa lất phất trên tàu lá đan.
Lửng cao, non lợt trăng vàng,
Sơn ca vút thẳng, ráng loang sắc hồng.
Tiếng khoan, chinh phụ nhớ chồng,
Nghẹn ngào thổn thức, cánh hồng bay xa.
Ruổi mau, tiếng thúc giục hoa,
3180-Mận mai rộ cánh, liên hà đậm hương.
3181-Trong veo, hơi thoảng nách tường,
Nhặt thưa kẽ trúc, tiếng buồn chậm rơi.
Phổ âm, thay điệu đổi lời,
Phiêu diêu thanh nhạc, tuyệt vời giọng ca.
Rưng rưng khóe, ngấn nước sa,
Người nghe sao khỏi xót xa cõi lòng.
Tương Như há dễ sánh cùng,
Phụng cầu hoàng hẳn thẹn thùng dám so!
Khói khơi, hương lửa ấm lò,
3190- Chắp đôi nến trắng, bày giò phong lan.
3191-Châu Thông vén bức màn loan,
Lịnh viên hầu rượu mời nàng vô trong.
Bao nhiêu oan khổ gánh gồng,
Còn tươi vẻ mặt, còn cong nét ngài.
Bụi trần sạm liễu gầy mai,
Vẫn in vóc ngọc, vẫn dài dáng xuân.
Sững sờ, Châu hỏi áng chừng,
-“ Khá phân danh tánh, mựa đừng giấu ta.
Phải Huỳnh nương ở Thạnh Hòa?
3200-Vọng hình tưởng bóng người xa mắt mòn.
3201-Chơn trần chai đá sườn non,
Đói ăn khát uống, héo von tim sầu”.
Cắn môi, nàng chỉ cúi đầu,
Lời phân ngắt đoạn, giọt ngâu chan hòa.
Tay lần đãy gấm lấy ra,
Một viên ngọc bích, vuông là, mảnh gương.
Dặm muôn nẻo lạ mười phương,
Vắn dài lệ nhớ lệ thương khôn hàn.
Tang bồng ngựa dọc gươm ngang,
3210-Mạng treo đầu kiếm,-lụy tràn ướt bâu.
3211-Tìm trăng, trăng khuất đã lâu,
Gió khuya lành lạnh day đầu cành ngô.


F-TÂM SỰ VÂN ANH


3213-Nắng vàng ỏi giọng hít cô,
Liễu buông tơ mát song hồ mái Tây.
Tiêu Tương tám bức giăng ngoài,
Thả cần sông Vị treo bày bên trong.
Châu rằng: “ Trời cũng chìu lòng,
Đền bù chín đợi mười mong bấy chầy.
Phỉ nguyền tình trước duyên mai,
3220-Nhạn Nam én Bắc từ nay chung nhành.
3221-Lạnh luồn áo bạc mong manh,
Cơm chan giọt thảm riêng dành một thân.
Gót sen hoen vấy bụi trần,
Mây che lối hẹn, núi ngăn nẻo đời.
Sẩy chân ven biển góc trời,
Đêm đêm mộng mị trông vời cố hương.
Dặm dài, ngựa chiến giong cương,
Lòng đơn mơ dáng người phương trời nào!
Nỗi nhà gặp khổ sầu sao?
3230-Cánh hoa nắng lửa mưa dầu hôm mai.
3231-Cộâi xuân tốt nhánh xanh cây,
Hay dông bão nổi, rụng đầy lá hoa?
Mặn môi, tức tửi ậm à,
Tủi hờn ướt đẫm khăn sa, bày tình:
Trời kia bày chuyện trớ trinh,
Đày cho khổ nhục để mình gieo neo.
Sóng to ập gãy mái chèo,
Vận xui mải miết cố đeo suốt đường.
Một chiều cùng khách thập phương,
3240-Theo cha lên núi hành hương am thiền.
3241-Lối về gặp bước truân chuyên,
Viên quan huyện dẫn binh Yên một đoàn.
Chật đường cản lối chàng ràng,
Lình kình xe ngựa, nghinh ngang dáo cờ.
Đầu bầy ong kiến ngu ngơ,
Chó săn mặt sắt đen mò kiêu căng.
Giở trò hạ cấp làm xằng,
Xum xoe lưỡi mối miệng lằn tanh hôi.
Trêu hoa mồm chẳng ngượng lời,
3250-Cuồng phong chưa chắc đã dời được non.
3251-Nguyện trời tiết hạnh giữ tròn,
Phận bèo thịt nát xương mòn quản đâu.
Lằng nhằng sờm sỡ giờ lâu,
Dễ gì cú đậu trên đầu cành ngô.
Tên này dâm dật tham ô,
Bao nhiêu gái tốt xây mồ trong dinh.
Có người quyết vẹn chữ trinh,
Treo dây đầu vách, gieo mình đáy sông.
Mặc ai chuốc lục tô hồng,
3260-Khăng khăng dạ,-sống chết không lỗi thề.
3261-Hổ ngươi, bĩ mặt trâu dê,
Hồ đồ hỗn độn lẻn về cho xong.
Vạc kêu trời xám hừng đông,
Xôn xao thầy tớ khóm tòng cội mai.
Gia đinh lính lệ đông vầy,
Roi trường dựng ngược, dáo dài chĩa ngang.
Ngồi nghiêng dựa ngửa sỗ sàng,
Nghĩ mình kẻ cả, người sang nhứt đời.
Hất hàm biểu chủ nhà ngồi:
3270-“ Khá khen Huỳnh lão có chồi lan xinh.
3271-Gặp nhau ưng bụng thiệt tình,
Muốn đây với đó giao nhành trước mai.
Sính nghi rày đã sắp bày,
Đợi giờ huỳnh đạo, định ngày rước dâu”.
Cha rằng: “ Áo vải quần nâu,
Cách chi xứng đáng con hầu quan trên.
Sẻ chuyền nhành trúc sao nên,
Ai coi cỏ lác dựa bên lý đào?
Vườn Xuân đã mở khóa rào,
3280-Trao chìa phải lứa, gieo cầu đúng nơi.
3281-Dầu cha mẹ sánh biển trời,
Ai đâu lại nỡ nuốt lời với con?”
Liệu không lay chuyển lòng son,
Gã bèn hùng hổ giở đòn gian manh.
Hét truyền châm lửa mái tranh,
Bao nhiêu chắt mót phút đành phủi tay.
Cẳng xiềng, cổ ních gông cây,
Bước sa nước mắt theo bầy yêu tinh.
Chim sầu mất ổ thình lình,
3290-Đời cay nghiệt,-nghĩ thương mình mà thôi.
3291-Mật đường chót lưỡi đầu môi,
Cậy người mối lái, ngọt lời dỗ khuyên.
Cắn răng, lòng chẳng vạy nghiêng,
Vọt roi đòn bộng, lụy phiền cũng cam.
Then gài kín mít nhà giam,
Vo ve muỗi đói, lũ lam kiếp tù.
Mì khoai nào đủ đền bù,
Nọc căng phơi nắng, đòn thù nát thân.
Được tha, đọa kiếp gia nhân,
3300-Cơm thừa canh cặn, làm quần quật tay.
3301-Chết, không chiếu bó thi hài,
Giập đùa, chôn đại sơ sài cuối mương.
Sáng ngày chộn rộn công đường,
Họ tên hài rõ Huỳnh Trường sai đâu!
Trẻ già đưa tới sân hầu,
Bắt ra trước án, cúi đầu quì nghe.
Áo đơn da tái khô se,
Mặt xanh màu lá, vai đè xích gông.
Sai nha phe phẩy quạt lông,
3310-Hai hàng côn sắt, bố phòng khít khao.
3311-Mặt mo lão huyện to đầu,
Râu dê mấy cọng, mày chau hung tàn.
Mỏ dơi mặt thỏ ác gian,
Sống vô liêm sỉ theo đàn quỉ ma.
Bám vinh hoa, lũ mọi già,
Miễn thây căng mỡ, miễn nhà giàu sang.
Vỗ bàn đấm ghế oang oang,
-“Tên kia tội trạng khó toàn thây thi.
Học theo Khổng Mạnh làm gì?
3320-Văn chương đạo lý ích chi cho đời.
3321-To gan lớn mật bằng trời,
Lịnh trên dám chống, lắm lời điêu ngoa.
Bây đâu?!-Bày gậy roi da,
Cực hình đọ sức thằng già, ai hơn?”.
Đắng cay, thân phụ nào sờn,
Mắng liều một trận thỏa cơn lửa bùng.
Rằng: “ Mi là đứa gian hùng,
Cam tâm liếm gót Địch nhung chia phần.
Cúi lòn mua chữ vinh thân,
3330-Ngoác mồm nói chuyện nghĩa nhân cũng kỳ.
3331-Khom lưng bưng bợ man di,
Nhà tan nước mất, bỏ đi cho đành.
Đon ren đắng mướp chua chanh,
Ép ta bỏ đức chọn danh đặng nào!
Bạo quyền lũ ngựa bầy trâu,
Đày dân không thể ngóc đầu mới ưng”.
Tía tai đỏ mặt phừng phừng,
Thét quân đóng cọc căng thừng giữa sân.
Nặng tay trăm trượng đập dần,
3340-Cha già chết thảm trong lần khảo tra.
3341-Chiếu trùm bươn bả khiêng ra,
Đạp nghiêng, lấp cạn rừng già phía sau.
Lạnh tanh nhang khói bấy lâu,
Ngày đi nắng dãi, canh thâu trăng mờ.
Phận mình mang kiếp gia nô,
Giằn mâm xáng chén, xô bồ uống ăn.
Người hiền gặp cảnh khó khăn,
Phật trời sẽ đắp bù bằng phước sau.
Trong dinh có bác thương đầu,
3350-Cảm thương phận gái má đào oan khiên.
3351-Dạy rằng: “ Khuya có một phiên,
Chuyển trăm xe thóc về miền Thương Lang,
Che đầu cải dạng nam trang,
Thắng yên hộ tống theo đoàn quân lương.
Truông đêm rẽ lối giữa đường,
Nép vào rừng rậm tìm phương lánh mình”.
Y lời, trốn lúc bình minh,
Thương cha bạc phận, tủi mình đơn thân.
Hèn lâu, quê chẳng đặng gần,
3360-Thềm rêu mưa quạnh mấy lần Xuân qua.
3361-Châu rằng: “ Bước sẩy chơn sa,
Linh đinh một kiếp lệ hòa nắm cơm.
Đọa đày kiếp mọn rác rơm,
Gìn chung giữ thủy, tiếng thơm còn truyền,
Qua hồi vận nước ngửa nghiêng,
Mộ phần cải táng về liền quê hương”
Nàng rằng: “ Cảm đội lòng thương,
Lòng người biển rộng, má hường cưu mang.
Trèo non cũng nguyện theo chàng,
3370-Đói no sớt chén, gian nanchung phần.
3371-Giử cho trong sạch tinh thần,
Chữ trinh sao được thanh tân mới là.
Nghiêm trang, bướm lánh ong xa.
Chăm chăm theo đúng nếp nhà kỷ cương.
Thắp hương thờ phụng từ đường,
Cử mâm nàng Mạnh, soi gương họ Tào.
Lên dây đờn khúc Bạch đầu,
3378-Chia cay sẻ đắng, trọn câu chung tình”


CHÚ THÍCH:

-báo tiệp: báo tin thắng trận.
-tuần phiên: lính được cắt trong phiên canh gác.
-nữ lang: người con gái.
-vàm: (từ Nb)-cửa sông nhỏ chảy ra sông lớn hoặc chỗ sông lớn đổ ra biển cả.
-độ nhựt: sống qua ngày.
-huỡn trì: (Đ.ng: trì hoãn)-chểnh mảng, kéo dài ra.
-sơn ca: tức chim chà chiện, loại chim nhỏ xuất hiện nhiều vào mùa lúa chín, hót hay, từ dưới đất bay vút thẳng lên cao.
-Phụng cầu hoàng: tức khúc nhạc Phụng cầu kỳ hoàng ( chim phụng đi tìm chim mái của nó), tên khúc hát do danh cầm Tư Mã Tương Như quê ở Thành Đô (Tứ Xuyên ) vào đời Hán.
-hít cô: loại chim hút mật nhỏ con, mỏ dài cong, bộ lông sặc sỡ, thường sống cô độc, hút mật bông hoa, tiếng kêu lảnh lót.
Chim hít cô đậu dây bình bát,
Bươm bướm bà đậu cột chùa ông.
( ca dao Nam bộ)
-Tiêu tương tám bức: tám bức tranh nổi tiếng vẽ cảnh sông Tiêu Tương ( Tiêu Tương bát cảnh) do nhà danh họa Tống Địch vẽ.
-thả cần sông Vị: bức tranh vẽ Khương Tử Nha ngồi câu ở Bàn Khê, sông Vị thủy.
-Cội Xuân: (cn: cội thung)-chỉ người cha.
Cội Xuân tuổi hạc càng cao,
Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành.
(Kiều)
-trớ trinh: (từ Nb): có nghĩa như trớ trêu.
Võ công làm chuyện trớ trinh,
Chữ duyên tráo chác, chữ tình lãng xao.
(Lục Vân Tiên – NĐC )
-lình kình: (từ Nb): cồng kềnh, không gọn ghẽ.
-lưỡi mối miệng lằn: lưỡi rắn mối, miệng thằn lằn. Ý nói miệng lưỡi, lời nói của kẻ xấu xa.
-biểu: (từ Nb): bảo
Cây da trước miểu, ai biểu cây da tàn,
Bao nhiêu lá rụng thương nàng bấy nhiêu.
-ưng: chiu, đàn bụng.
Rắn không chưn đi năm rừng bảy rú,
Gà không vú nuôi chín mười con,
Phảụi chi nhan sắc em còn,
Anh vô chỗ đó chìu lòn cũng ưng.
(ca dao Nb)
-thiệt tình: (từ Nb): tình cảm thành thật trong lòng.
-khăn sa: khăn lụa mỏng.
-cú đậu cành ngô: (cn: cú đậu cành mai). Thường thì chim phụng đậu cây ngô đồng mới xứng. NĐC có viết:
Ngày nay, thánh chúa trị đời,
Nguyền cho linh phụng gặp nơi ngô đồng.
Ở đây, chỉ người con gái bị buộc lấy kẻ ngu đần không xứng đôi.
-gieo cầu: tục ngày xưa con gáikén chồng ném chiếc cầu thêu (tú cầu). Cầu rơi trúng ai thì cô gái lấy người ấy làm chồng.
-dâm dật: sống phóng đãng, chạy theo sự thỏa mãn khoái cảm xác thịt quá mức.
-huỳnh đạo: (phát âm chữ hoàng đạo theo Nam bộ ): giờ lành
-sẻ chuyền nhánh trúc: (sẻ: loại chim nhỏ, tượng trưng cho kẻ tiểu nhơn; trúc: tượng trưng cho người quân tử). Sẻ chuyền nhánh trúc ý nói kẻ tiểu nhơn sánh với người quân tử hoặc kẻ tiêu nhơn thắng thế đối với quân tử.
-chắt mót: (từ Nb)-(chắt: lấy cạn hết nước; mót: lượm lặt cái người ta đã bỏ hoặc cho là không đáng lấy ): gom góp để dành những thứ không có giá trị cao để dùng xài.
-giập: (từ Nb)- chôn sơ sài, lấp bằng lớp đất mỏng.
-địch nhung / man di: kẻ man rợ cõi ngoài. Xưa, người Trung quốc cho rằng đất nước của họ nằm giữa có những điều tốt đẹp (Trung Hoa). Phía Bắc là Bắc địch (kẻ cừu địch ở phương Bắc); phía Nam có Nam man ( bọn mọi rợ phương Nam); phía Đông có Đông di ( bọn man di mọi rợ phía Đông); Tây có Tây nhung (bọn hiếu chiến ở phía Tây).
-đon ren: (từ Nb)- dò hỏi quanh co với ác ý.
-bươn bả: (từ Nb): vội vã.
-thương đầu: kẻ quấn khăn xanh trên đầu. Ngày xưa, người đày tớ đội khăn xanh.
-thắng yên: tra yên ngựa để cỡi; mắc ngựa vào xe gọi là bắc kế.
-thanh tân: trong sạch mới mẻ.
-nàng Mạnh: nàng Mạnh Quang khi dọn cơm bao giờ cũng đưa mâm ngang mày ( Mạnh Quang cử án tề mi) để tỏ lòng kính trọng.
-họ Tào: người góa phụ trinh tiết họ Tào tự cắt mũi cho xấu đi để giữ vẹn tiết hạnh.
-Bạch đầu: nàng góa phụ trẻ tuổi tên Trác Văn Quân, quê ở Lâm Cùng, có nhan sắc rất đẹp. Vì mê tài hoa của Tư Mã Tương Như đang đêm lén bỏ nhà trốn theo Tương Như. Về sau, Tương Như muốn lấy thêm một người thiếp, nàng sáng tác khúc hát Bạch đầu ngâm ( khúc ngâm lúc đầu bạc). Tương Như nghe cảm động, bỏ ý định đó.

NhàQuê
13-11-2011, 01:43 AM
HỒI THỨ SÁU


CỬ HÙNG BINH, CHÂU NGUƠN NHUNG DẸP LOẠN,
LÂM CÙNG ĐỒ, SỬ TRIỀU NGHĨA THIỆT THÂN.

A-BÀI BIỂU XUẤT SƯ.


3379-Bóng câu thấm thoát qua mành,
3380-Gặp tuần đại lễ, tễ khanh ứng hầu.
3381-Châu Thông quì giữa sân chầu:
- “Nước non u ám mây sầu can qua.
Âm thầm canh lạnh lệ sa,
Trẻ thơ lìa mẹ mất cha muôn ngàn.
Giang Nam châu quận đã an,
Dưới vui nghề nghiệp, trên quan nhơn từ.
Dưỡng quân chín tháng có dư,
Xin dưng bài biểu xuất sư Bắc bình.




BÀI BIỂU RẰNG:


Thần là Châu Thông, được ân tứ búa việt cờ mao,
đặc nhiệm chinh thảo Bắc Yên,
mạo muội tấu trình, mong Thánh hoàng soi xét.


Thần trộm nghe:


1-Bốn cõi thanh bình,-muôn nhà an lạc.


2-Cao đế chém rắn Mang sơn, dựng nên Hớn thất,
-Thái tổ dẹp loạn Phản vương, xây nghiệp Võ Thang.


3-Ra quân quét Bắc,-nổ pháo dẹp Đông.


4-Dáo khiên ra sức cõi ngoài,
-nghiên bút góp tay trào nội.


5-Ngọt mưa hòa gió,-lặng biển trong sông.


6-Rừng xanh beo cọp bặt tăm,
-hang thẳm kiến ong giấu dạng.


7-Thổ Phồn khiếp vía cúi đầu,
-Tây Hạ mang ơn tha mạng.


8-Trung thổ lấy khoan dung dạy dỗ,
-ngoại di mong đức độ chở che.


Rồi:


9-Điên đảo nước non,-nát tan hoa gấm.


10-Tài cung kiếm kẻ bọc thây da ngựa,
khó giập ngọn lửa lừng,
-bầu tâm can người uốn lưỡi trường văn,
khôn ngăn luồng sóng dữ.


11-Bọn tàn bạo khó cùng ta chung hợp,
-dức nghĩa nhơn sẽ mở vận trùng hưng.


12-Đèn ân oai soi thấu chốn hang
cùng,-cờ chinh thảo đuổi phăng loài quỉ ác.


13-Xưa người người ly tán,
mịt mờ không ngọn đuốc soi đường,
-nay chốn chốn hội chầu,
đằm thắm đượm móc mưa khắp nẻo.


Thần cũng nghe:


14-Bọn An-Sử lòng tham không đáy,
bàn tay đen cố vơ vét dân đen,
-đám cùng đinh nỗi khổ khôn cùng,
mặt trắng vẫn hoàn về tay trắng.


15-Luật lệ bậy xằng,
- mối giềng nghiêng ngửa.


16-Bầy dơi chuột tranh giành đàn ruồi muỗi,
giựt của cươp tiền,
-mùi đảnh chung mê muội kẻ tham ô,
tranh danh đoạt lợi.


17-Quân vô sỉ xa rời phường áo vải,
- kẻ thức thời khinh miệt chốn quyền môn.


18-Tướng võ có dõng không mưu,
-quan văn non tài ít trí.


19-Thói đê tiện làm sụp toang nền xã tắc,
-dạ ngu si gây nát bét mối luân thường.


20-Triều nghi đổ nát,
đạo cha con cũng cắt đoạn tình thâm,
-Phong hoá suy vi,
nghĩa thầy tớ cũng rẫy ruồng ơn nặng.


Thần nghĩ:


21-Trường giang kia đà sóng nổi,
-Phụng Thiên nọ ắt lửa giăng.


22-Lũ chồn cheo đà máu nhuộm Động Đình,
-bầy lang sói ắt thây phơi non Thái.


23-Bọn buôn thần bán thánh,
cơ tận diệt khó trốn khỏi lưới trời,
-lũ dối nước lừa dân,
gươm biền tru khó thoát qua mạng số.


24-Khí giận ngất mây tám cõi,
- tiếng than dậy đất mười phương.


25-Thời trời đã thuận,
-lợi đất có dư.


26-Thêm nhơn tâm, nhắm Bắc đẩu người về,
- mừng vận hội, gặp Kỳ sơn phụng gáy.


27-Kẻ tài tuấn chung lo việc nước,
lưỡi gươm thiêng rạng sáng ngàn sao,
-Gương hùng anh nung nấu lòng quân,
nét son đỏ lưu truyền muôn thuở.


28-Lý ngư nọ đã hóa rồng cửa Võ,
theo tiên vương rải đức ban ơn,
-Kình nghê kia đà kiệt sức biển Đông,
xướng đại nghĩa cứu đời giúp nước.


29-Lấy can qua diệt hết lũ tham ô,
-Dùng oai đức đánh tan phường phản nghịch.


30-Rập đầu trình tấu, xin Thánh thượng chuẩn y,
-Dưng biểu xuất sư, nguyện Hoàng thiên hộ độ.


Châu Thông cẩn tấu.



3389-Phán rằng: “ bùn bụi Nghiệp Thành,
3390-Mồ hôi còn đẫm trên manh chiến bào.
3391-Bồi thành, đắp lũy, đào hào,
Nghỉ ngơi bù đắp chửa bao nhiêu ngày.
Gấp chi cung cứng dáo dài,
Cực trong lính tráng, khổ ngoài lê dân”
Tâu rằng: “ Thắng lớn tới gần,
Giặc đương túng nước, mười phần nguy nan.
Thuận đà, thừa thế đánh tràn,
Phá tan hang ổ diệt đoàn ma ranh.
Chầy ngày mãi mã chiêu binh,
3400-Sử An lại nghỉn, dễ kình được sao”
3401-Ngập ngừng ngẫm nghĩ giờ lâu,
Bút son phê chuẩn lời tâu giữa triều.


CHÚ THÍCH:

-bóng câu: (cn: bóng câu cửa sổ) do chữ bạch câu quá khích (bóng ngựa trắng con vụt qua cửa sổ,-ý nói thời gian qua mau.
Gẫm trong tám chín mươi năm,
Bóng câu cửa sổ dễ cầm mãi ru.
(Bích câu kỳ ngộ)
-tễ khanh: (tễ: trong thần trong triều; khanh: quan thượng thư đứng đầu một bộ): triều thần chức phẩm lớn.
-xuất sư: đưa quân ra đánh giặc.
-Bắc bình: đánh dẹp ở phương Bắc.
-ân tứ: (vua) ban cho bầy tôi.
-rắn Mang sơn: Hán sử có viết: “ Bạch xà đương đạo, Quí bạt kiếm nhi trảm chi” (Con rắn trắng đón đường, Quí,- tức Lưu Bang, Cao tổ nhà Tây Hớn, rút kiếm ra mà chém nó ). Lưu Bang dựng nghiệp kể từ đó.
-loạn Phản vương: cuối đời Tùy, 18 anh hùng chiếm cứ các địa phương tự xưng làm vua. Sử gọi là loạn Thập bát phản vương. Lý Uyên dẹp hết, dựng nghiêp nhà Đường.
-bọc thây da ngựa: do : “ mã cách khỏa thi” trong câu nói của Mã Viện, có nghĩa là kẻ chiến binh chết thì lấy da ngựa bọc lại.
-chinh thảo: đánh đuổi giặc.
-trùng hưng: hưng thịnh trở lại.
-vô sỉ: (cn: vô liêm sỉ )-không biết hổ thẹn, không biết mắc cỡ.
-Trường giang: (cg: Dương tử giang)- tên con sông lớn ở TQ.
-Phụng Thiên: thủ đô của Mãn Châu ngày xưa, căn cứ địa của Yên.
-non Kỳ phụng gáy: Phụng gáy ở Kỳ sơn báo điềm lành. Kỳ sơn là tên ngọn núi phía Tây TQ, nơi Võ vương Cơ Phát hưng binh phạt Trụ.

NhàQuê
13-11-2011, 01:44 AM
B-ĐÁNH ẢI ĐỊA ĐẦU SƠN HẢI QUAN.


3403-Nhâm Dần (762) vào tiết nguơn tiêu,
Binh phân bốn đạo, Châu điều ba quân.
Phát tờ lộ bố xa gần,
Rao truyền châu quận tội quân phản loàn.
Rập rình chèo quế nhặt khoan,
Đức Tâm tấn thẳng Hải quan công thành.
Chiến thuyền đẩy dạt sóng xanh,
3410-Lạc Dương phát pháo hải trình xôn xao.
3411-Buồm căng no gió mây cao,
Bèo trôi man mác chéo bào phất phơ.
Bờ kia xa lắc xa lơ,
Sương ôm thành lũy, đèn mờ giăng cây.
Dạy rằng: “ Phá địch lần này,
Nghĩa sâu là trượng, ơn dày là hơn.
Mai kia bão táp dịu cơn,
Xóa thù thây đổ, bỏ hờn máu sa.
Mười phương thân ái một nhà,
3420-Anh em chung mối ruột rà chơn tay.
3421-Lấy ơn trả oán mới hay,
Háo sanh đức ấy sánh tày non cao.
Dỗ binh dụ tướng hàng đầu,
Chớ nên gây thảm chuốc sầu cho ai.
Chỉ dùng sức đánh thị oai,
Thứ tha kẻ bại, nới tay rộng tình.
Đầu giờ Sửu phái kỳ binh,
Ra quân mau lẹ chiếm gành phía Nam.
Sắc quần màu áo pha chàm,
3430-Màn đêm ẩn bóng, sương lam giấu hình.
3431-Đốt ngòi hỏa cụ thình lình,
Cặp hông lợi dụng địa hình thốc qua.
Chiến thuyền đặc nước dàn ra,
Thiết đề chặt xích, tẩu kha phá rào.
Giăng bày trận, chớ đánh vào,
Để ta mượn chước Lưu hầu thuở xưa.
Trại binh quạnh quẽ như tờ,
Gối đầu triền núi lờ mờ ngủ mê.
Tỏa lan giá lạnh bốn bề,
3440-Thóp thoi lửa đóm đi về vọng lâu.
3441-Lưng trời hơi gió rao rao,
Tiếng đâu vẳng, gợi mạch sầu hoài hương.
- “ Thái Hàng ngất ngọn mù sương,
Lần nương gậy trúc, huyên đường ngóng mong”
Non xa mờ đục chập chồng,
Lạ chưa?-Sao sáo Tử Phòng đâu đây?
Giọt buồn vương vất đầu cây,
Đưa cao, vút thẳng cung mây mấy từng.
Trầm trầm, nhịp thở rưng rưng,
3450-Nghẹn ngào thổn thức úa vừng trăng quê.
3451-Âm thanh đứt nối não nề,
Lệ pha tiếng nức nở kề áo quan.
- “Ai mơ tưởng mộng gác vàng,
Phòng không, ai giấc mơ tàn lẻ đôi.
Đường mê chinh thú nổi trôi,
Không nghe ai nói,-dẫu lời trối trăng!
Ruộng vườn vui thú làm ăn,
Món ngon đất khách đâu bằng hoắc lê.
Cần chi ấm tử vinh thê,
3460-Dang lưng trâu ngựa hổ bề thân danh.
3461-Dễ gì áo tía lọng xanh,
Bôn ba cờ hiệu, riêng mình gian nguy.
Xông pha thôi thúc tiếng tì,
Tóc râu tê cóng, màu chì môi thâm.
Màn sương trướng cỏ ăn nằm,
Chưa tàn binh lửa, thây dầm máu loang.
Để ai điện ngọc vinh sang,
Tìm vui xác thịt giữa ngàn cung phi.
Tiệc tùng, rượu rót li bì,
3470-Biết chăng nước mắt sanh ly kiếp nghèo.
3471-Chồng đi biệt, vợ gieo neo,
Con chiu chít đợi cánh bèo đoàn viên.
Phập phồng trong dạ chẳng yên,
Lấy gì gỡ mối ưu phiền cho vơi”.
Khi sâu thẳm, lúc xa vời,
Len luồn mạch máu nối lời thê lương.
Réo cao đồng vọng đoạn trường,
Ngân nga phưởng phất giọt buồn chậm rơi.
Bơ vơ đá lở sông bồi,
3480-Hồn tan sĩ tốt lôi thô chán chường.
3481-Sức đâu giục ngựa cầm thương,
Tinh thần nào khiến nổi đường gươm vung.
Quân Liêu đầu óc rối bòng,
Cờ hàng giương ngọn, bác đòng rời tay.
Thâu xong lũy rộng thành dài,
Đức Tâm ban lịnh lo ngay chẩn bần.
Giúp người tứ cố vô thân,
3488-Đồng tiền, rá gạo phát phân khắp vùng.



CHÚ THÍCH:

-lại nghỉn: (từ Nb)- người bình dân đọc là lợi nghỉn,- phục hồi sức lực sau cơn đau hoặc nghỉ ngơi sau thời gian làm việc nhọc mệt.
-nguơn tiêu: (phát âm theo Nb ): Đng: nguyên tiêu,-ngày rằm đầu tiên trong năm tức rằm tháng giêng.
-địa hình: thế đất, thế lồi lõm hay bằng phẳng.
-thốc: tạt qua phía hông.
Vài tiếng dế, nguyệt soi trước ốc,
Một hàng tiêu, gió thốc ngoài hiên.
(Chinh phụ ngâm)
-háo sanh: (Đ.ng: hiếu sinh)-ham thích cuộc sống, không muốn hủy diệt mạng sống kẻ khác.
-hỏa cụ: dụng cụ gây cháy nổ.
-thiết đề: dụng cụ dùng lửa đốt và chặt dây xích giăng chận tàu bè ở thủy trại hay trên mặt sông.
-tẩu kha: loại chiến thuyền lớn dùng để càn sập hàng rào cản trong thủy trại.
-Lưu hầu: tức Trương Lương, tự là Tử Phòng, người nước Hàn thời Chiến quốc, mưu sát Tần Thủy hoàng ở Bác Lãng nhưng không thành. Sau theo giúp Lưu Bang. Tử Phòng đã thổi sáo ở Cửu Lý sơn làm cho tám ngàn tử đệ của Hạng Võ nhớ quê, bỏ trốn. Khi Lưu Bang được nghiệp đế, phong Tử Phòng tước hầu tức là Lưu hầu. Nhưng Tử Phòng theo Huỳnh Thạch công- người đã truyền cho Tử phòng ba quyển binh thư,-để tu tiên.
-gió rao rao: (từ Nb)-gió bắt đầu thổi rất nhẹ.
-mây Thái Hàng: (cg: mây Tần, mây trên núi Tần Côn lãnh )-Địch Nhơn Kiệt đi chinh chiến xa, chỉ mây trên núi Thái Hàng cho các tướng sĩ và nói: “ Ngô thân xá ư kỳ hạ” (Nhà của mẹ ta ở dưới đó),-mây Tần chỉ quê hương
-vinh thê ấm tử: vợ được vinh hiển, con được hưởng chế độ tập ấm.
-dây tì: dây đàn tì bà. Binh lính miền Bắc Trung quốc, bộ tộc người Hồ thường dùng tiếng đờn tì bà để thúc quân xông trận. (xem thêm bài Lương châu từ đã dẫn)
-bác đòng: cây mác và ngọn dáo, binh khí thời xưa.
-chẩn bần: cứu giúp người nghèo.
- loại rổ đươn bằng tre, nan khít, dùng để đựng cơm hoặc vo gạo.
-tứ cố vô thân: kẻ gieo neo cô độc, nhìn bốn phía không có người thân thích gần gũi.

NhàQuê
13-11-2011, 01:45 AM
C-VƯỢT HUỲNH HÀ – ĐÁNH SƠN TÂY.


3489-Huỳnh hà cuồn cuộn về Đông,
3490-Đêm ngày không nghỉ, một dòng chảy xuôi.
3491-Bóng tà dương mấy độ rồi,
Ửng hồng nhuộm cánh mây trôi thuở nào.
Xưa nay mấy mặt anh hào,
Trăng mờ nước lạnh, sóng xao lối mù.
Đầy vơi, thành bại, hiền ngu,
Giựt mình, xương gởi Diêm phù hư không.
Ngựa xe giẫm lớp thây chồng,
Trận cười điên dại nát lòng lệ khô.
Đêm kia, bóng tối mơ hồ,
3500- Nhắp nhem lửa đóm, lô xô sóng gành.
3501-Bè lau kết dáo đương cành,
Túi da dê thổi căng phình vượt sông.
Che nanh cọp, rút móng rồng,
Nép tìm len hốc đá chinh chông bày.
Im lìm dò bước chông gai,
Âm u lối lạ, lạc loài gót chân.
Rừng sâu núp bóng ẩn thân,
Chuyển quân đủ số lần lần sẽ toan.
Bao vây dùng thế liên hoàn,
3510-Phụng hoàng sè cánh đấu đàn diều hâu.
3511-Cố đeo bám bắc đầu cầu,
Đưa quân thiện chiến đánh vào lũy dinh.
Đọ so tài sức ngạc kình,
Nguơn Hanh hạ trại đồn binh quanh vùng.
Thình lình cát bụi bay tung,
Đánh tay, ngẫm nghĩ kiết hung thế nào.
Rằng câu: “ Dĩ dật đãi lao”
Thử chơi cho biết vàng thau đêm này.
Vụng mưu khôn một ngu hai,
3520-Ta nên gài bẫy bắt bầy hươu non.
3521-Trò đùa kế mọn trẻ con,
Thấp cơ thua trí mất còn sẽ phân.
Nằm im dẫu địch tới gần,
Ung dung để giặc tra chân vô tròng.
Phục binh hờm sẵn tên đồng,
Giương cung nhắm hướng bắn không hẹn giờ”
Nặng nề thay phút đợi chờ,
Mơ màng mây ngủ, lặng tờ gió hiu.
Nửa đêm, thành hạ điếu kiều,
3530-Điểm ba tướng cạnh, quân điều chín trăm.
3531-Bấm nhau cất lạc ngậm tăm,
Lướt mình theo gió âm thầm như bay.
Nghĩ rằng vất vả đường dài,
Quân triều vật dựa ngủ say chẳng phòng.
Nào ngờ vườn trống nhà không,
Rõ lầm độc kế,-rối bòng tim gan.
Mồ hôi đẫm áo sảng hoàng,
Điền Thanh dáo dác tìm đàng xuất bôn.
Chạm tên, hú vía hú hồn,
3540-Dáo chơm chởm chĩa, người xôn xao tràn.
3541-Thí thân gỡ nước cờ tàn,
Hét đoàn mã kỵ dàn ngang đương đầu.
Quân triều mác nhọn móc câu,
Giựt chân ngựa chiến đạp nhầu bủa vây.
Điền Thanh múa chẳng kịp tay,
Cụp đuôi bại tướng, chạy dài hãi kinh.
Qua cơn rởn óc rùn mình,
Tưởng như từ cõi u minh hiện về.
Lần dò băng suối lội khe,
3550-Mon men lối vắng liệu bề lẻn êm.
3551-Chua cay sỏi cứng gót mềm,
Cánh bằng gãy, lạc bến đêm sông hồ.
Cướp dinh phút hóa thế cô,
Bao nhiêu hổ tướng bấy mồ bình sa.
Hẳn chừng nép bóng rừng già,
Theo truông Đông Bích ắt qua hiểm nghèo.
Hang mây gió cợt thông đèo,
Dốc triền trật ót, trăng treo cuối ghềnh.
Đuốc soi bừng, pháo nổ rền,
3560-Hai đầu gặp địch, xuống lên đặng nào!
3561-A ngùy nồng khét lửa gào,
Phồng chơn than phỏng, sớt đầu tên buông.
Trèo đèo bỏ ngựa chạy cuồng,
Núp con trốt dọc, hùa luồng sóng ngang.
Một mình thiên khổ vạn nan,
Thân quen có bóng đóm tàn sườn non.
Âm u cỏ quạnh sương mòn,
Điểm tra sĩ tốt chỉ còn ngót trăm.
Lừng danh chiến trận bao năm,
3570-Ngỡ mưu cao lại chọn lầm nước đi.
3571-Giấc hòe sực tỉnh còn chi,
Tờ mờ bóng nguyệt, bờ mi lệ nhòa.
Trời hừng động, đậm cây xa,
Bướm chen lá biếc, chim sà tàn xanh.
Dẫn binh hối hả về thành,
Thấy quân triều đã gác canh trong ngoài.
Vọng lâu, Quang Bật cười dài,
- Biết thời cơ mới đáng tay anh hùng.
Làm trai quên hiếu bỏ trung,
3580-Đạp giày nhơn ngãi, phục tùng lẽ gian.
3581-Thẳng tay kiếm bạo gươm tàn,
Điêu linh khắp chốn, hờn oan ngập đầu.
Đường ngay nẻo chánh về mau,
Xóa tan ngang trái cơ cầu chiến chinh”
Đáp rằng: “ Lỡ thất cơ binh,
Vùi thây mấy vạn sanh linh trong thành.
Phận ta dầu chết đã đành,
Há đâu tiếc lợi tham danh thói thường.
Đền bù biển máu non xương,
3590-Nỗi đau trăm họ bằng phương xử mình”
3591-Xuống thành, lấy lễ tiếp nghinh,
-“Khoan dung đức cả triều đình xưa nay.
Ba quân mạo phạm trọng oai,
Ta cam thất lật, huynh đài bỏ qua.
Rộng tình, lỗi lớn thứ tha,
Chuyện xưa như ánh trăng tà sân hiên.
Máy trời đưa đẩy nên duyên,
Phẩm cao hạnh trọng, lòng riêng nể vì.
Xin cùng kết nghĩa tương tri,
3600-Chung lưng đưa nước qua kỳ long đong”


CHÚ THÍCH:

-Diêm phù: cõi diêm la địa phủ; ý nói cõi chết.
Thịt xương gởi đám Diêm phù,
Sinh sinh hóa hóa trong lò hồng quân.
(Bích câu kỳ ngộ)
-từ câu 3489 đến câu 3498, mượn vài ý trong bài tựa Tam quốc chí của La Quán Trung:
“ Từ viết:
Cổn cổn trường giang Đông thệ thủy,
Lãng hoa đào tận anh hùng.
Thị phi thành bại chuyển đầu không,
Thanh sơn y cựu tại,
Kỷ độ tịch dương hồng.
Bạch phát ngư tiều giang chử thượng,
Quán khan thu nguyệt xuân phong,
Nhứt hồ trọc tửu hỉ tương phùng,
Cổ kim đa thiểu sự,
Đô phó tiếu đàm trung”
Bản dịch theo nguyên điệu Tây giang nguyệt của Tử Vi Lang:
“ Ca rằng:
Cuồn cuộn sông dài tuôn biển Đông,
Sóng xô cát dập anh hùng,
Tàn mơ, thành bại cũng là không.
Non xanh trơ vẫn đó,
Lần lữa bóng chiều hong.
Đôi bạn ngư tiều phơ tóc bạc,
Gặp nhau gió núi trăng sông.
Mở vò rượu đục, chuyện thêm nồng,
Ngàn xưa đem kể lại,
Vang mấy tiếng cười ngông”
Bản phỏng dịch ra thơ lục bát cũng của Tử Vi Lang:
Sông dài cuồn cuộn ra khơi,
Anh hùng sóng dập cát vùi thiên thu.
Dở hay, thành bại nào đâu?
Bể dâu chớp mắt, ngoảnh đầu thành mơ.
Non xanh còn đó trơ trơ,
Tà dương lần lữa sưởi hơ ánh hồng.
Lão tiều lại gặp ngư ông,
Bên sông, gió mát trăng trong, kho trời.
Rượu vò lại rót khuyên mời,
Cùng nhau kể lại chuyện thời xa xưa.
Kể ra biết mấy cho vừa,
Nói cười hỉ hả, say sưa quên đời”
-dĩ dật đãi lao: lấy khỏe đánh mệt. Theo binh pháp, nên đánh địch từ xa mới tới, đương mệt mỏi vất vả vì đi đường.
-vật dựa: (từ Nb)- nằm lên nằm xuống, bạ đâu cũng nằm, gặp đâu cũng dựa lưng với vẻ mệt mỏi.
-trật ót: (từ Nb)-cao ngất,-cao đến nổi nghểnh cổ ngó lên nhìn phải trật gáy trặc cả cổ.
-bình sa: bãi cát bằng phẳng.
-giấc hòe: tích Thuần Vu Phần ngày xưa, thi rớt trở về, bụng đói, mệt mỏi, chàng nằm dưới gốc cây hòe ngủ thiếp đi. Chàng nằm mơ thấy mình đến nước Hòe An, thi đậu được vua phong cho làm Thái thú quận Nam Kha, vinh hiển tột bực. Về sau, bị thua trận, vợ chết, bị lột hết chức tước phẩm hàm, chàng đi lang thang. Giựt mình tỉnh giấc mới nhớ ra đó là giấc mộng. Cho nên, giấc hòe hay giấc Nam Kha đều chỉ là giấc ngủ hay giấc chiêm bao.
Lần trăng, ngơ ngẩn ra về,
Đèn thông khêu cạn, giấc hòe chưa nên.
(Bích câu kỳ ngộ)
hoặc:
Giấc Nam Kha khéo bất tình,
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không.
(Cung oán ngâm khúc)
-huynh đài:tiếng xưng hô ngày xưa, đại từ nhân xưng ngôi thứ hai với ý tôn trọng.

NhàQuê
13-11-2011, 01:47 AM
D- ĐẠI QUÂN XUẤT PHÁT TỪ TẾ NAM ĐÁNH HÀ BẮC.


3601-Dấn thân hang cọp động rồng,
Chém thuồng luồng, phải lặn dòng nước sâu.
Huỳnh hà rộng mấy mặc dầu,
Thiên San dẫu ngất trời cao mấy trùng.
Dễ ngăn cung kiếm tang bồng,
Dễ ngăn cánh hộc, cánh hồng tung mây.
Hịch bay dặm thẳng trời dài,
Châu Thông phụng chỉ đặc sai Bắc bình.
Trương cờ dẫn ngạc đưa kình,
3610-Bừng bừng hào khí, đinh ninh lời nguyền.
3611-Đêm ngày, ngựa chẳng rời yên,
Bão tràn lũ nổi tới miền Bộc Dương.
Châu rằng: “ Ám độ Trần Thương,
Minh tu sạn đạo là đường tấn binh”
Thành Hà Bắc vững lũy dinh,
Bố phòng nghiêm nhặt, giữ gìn khít khao.
Tổng binh Văn Mộc to đầu,
Quen dùng cặp giản thần sầu quỉ kinh.
Không mưu, chỉ cậy sức mình,
3620-Tài ba khiển trận bình bình hạng trung.
3621-Hay tin vỗ án đùng đùng:
-“ Giận bầy chuột bọ vẫy vùng chẳng kiêng.
Lũ quan già cóp tật nguyền,
Xúi thằng nít đẻn đem xiềng trói beo.
Ngu ngơ vô chốn hiểm nghèo,
Dại khờ đưa mạng sống treo chỉ mành.
Ta đà chận hẽm Lạc Tinh,
Bộ quân giáp sắt, kỳ binh da đồng.
Đi qua lối khác không thông,
3630-Vực sâu khiếp vía, núi trông liền trời.
3631-Bắt hùm đâu phải chuyện chơi,
Chẳng ra trò trống để đời chê bai”.
Vội vàng cung nỏ mang vai,
Lên yên hối hả dò ngay địch tình.
Rải người bám sát địa hình,
Giữ thành,-phó tướng Lưu Trình trông coi.
Âm u ráng đỏ lạch ngòi,
Lừ đừ nước lượn, loi thoi nắng tàn.
Xôn xao giáp sĩ giăng hàng,
3640-Hét rằng: “ Mọi rợ nghinh ngang một phồn.
3641-Lập đàn làm lễ chiêu hồn,
Quan quân mai phục, mồ chôn rừng tòng.
Đầu hôm cho chí rạng đông,
Đu dây đầu núi, lẻn lòng Lạc Tinh.
Ba muôn bộ tốt giao chinh,
Bộc Dương nát lũy, Đại Danh hạ cờ”.
Họ Văn chết điếng sững sờ,
Nửa tin lời thiệt, nửa ngờ kế gian.
Được thua quyết chẳng chịu hàng,
3650-Thà lông hồng ném sa tràng lãng quên.
3651-Gò cương, dồn sức hét rền,
Đạp chân nỏ trắc, mũi tên bay vèo.
Thuận đà quày giản bổ theo,
Ra đòn sát thủ hiểm nghèo vô song.
Lợi Trinh bình thản như không,
Nghiêng vai thúc gót, ngựa lồng tản ngang.
Chần chờ, mạng dễ gì an,
Vút roi, Văn Mộc băng ngàn như dông.
Tối sầm, sâu hút rừng thông,
3660-Giặc cùng đuổi miết,-sợ không nẻo về.
3661-Lạ chưa! Tử khí nặng nề,
Tan hoang thành quách, thảm thê lũy hào.
Trời bày biển mướt màu dâu,
Dáo nghiêng bêu chiếc đầu lâu Lưu Trình.
Quá mau, đổi dạng thay hình,
Kế mưu gì ?,- địch điều binh như thần.
Trốn đâu giờ?-luống phân vân,
Qua vinh quang, hẳn chuốc phần đau thương.
Lợi danh đắng vị chán chường,
3670-Thây phơi là chặng cuối đường đảnh chung.
3671-Trái oan chồng xếp điệp trùng,
Bó tay chịu trói, khí hùng còn đâu?!
Đuốc đèn thoắt phụt lửa cao,
Châu Thông giương kích cờ mao gió lồng.
-“Rạch kinh cạn sạch, nước ròng,
Sấu kình khó thể xuôi dòng ra khơi.
Vẫy vùng chỉ tổ mòn hơi,
Lượm viên sỏi vụn vá trời ích chi?
Thương dân ắt được gặp thì,
3680-Rộng thinh đường lớn, đại kỳ gió căng”
3681-Nước rong, đê mỏng khó ngăn,
Dẫu qua đất hiểm chịt chằng suối khe.
Lạch dài kết dáo thay ghe,
Đầm lầy bện sáo đươn bè ngựa qua.
Diều hâu sè móng quắp gà,
Lũ tràn cánh trái quét qua Hình Đài.
Nơi nào lũy chắc tường dày,
Chống kình có giỏi, một ngày cũng tan.
Ùng ùng bỏ ngũ về hàng,
3690-Gãy cờ chủ tướng sa tràng tranh phong.
3691-Sắp luồn hang bắt giao long,
Họp trăm tướng cạnh, Châu Thông luận bàn.
Rằng: “ Đây nồi gọ Sử An,
Chốt đầu ngăn ngọn cuồng lan Yên thành.
Điểm qua tướng giặc khét danh,
Lão già ma mảnh Hứa Bành đáng ghê,
Làm quan lòng chó dạ dê,
Của ăn xới bớt đem về cất riêng,
Quân binh hụt gạo thiếu tiền,
3700-Tìm tay nội ứng ắt liền nên công.
3701-Phải kiêng nể chiếc trụ đồng,
Là Trương Trung Chí cháu tông con nòi.
Bạn bè dẫu dạ hẹp hòi,
Vẫn không để bụng, thiệt thòi cũng cam.
Đứng đi ăn nói khác phàm,
Chuộng nhơn, trượng nghĩa, không ham tước quyền.
Cung là nghiệp, kiếm là duyên,
Mong tròn nợ nước ẩn miền non hoang.
Để ta đối trận khuyên can,
3710-Rạch ròi lời lẽ, dụ hàng khó chi.
3711-Còn bao nhiêu có ra gì,
Một bầy tong chốt kéo trì xác tanh.
Bình thời múa vút khua nanh,
Nạnh nhau lúc khó, tay khoanh đứng dòm.
Nhỏ nhen già kén chẹn hom,
Mặc dân đói khổ, cõi còm da xương.
Yên trào hết chốn dựa nương,
Tài sơ, trán thấp, lo lường bao lăm!
Ngặt vì hơi độc hồ đầm,
3720-Hắc tuyền ngăn lối, đen giầm nước trôi.
3721-Nực nồng mùi bốc tanh hôi,
Lòng sâu ngập ngựa, đá lồi tợ dao.
Kên kên vần liệng trên cao,
Quạ bu bờ cát trắng phau xương người.
Tới đây, lỡ khóc lỡ cười,
Cười ra nước mắt, hổ ngươi giọt sầu”
Đêm dài, lụn bấc, trắng đầu,
Kế cùng trí quẩn, ngồi lâu canh chầy.
Sương tan, lờn lợt màu mây,
3730-Có người hành khất chực ngoài cửa viên.
3731-Mời vào đại sảnh ngay liền,
Phân ngôi chủ khách, hàn huyên một hồi.
Rằng: “ Nguơn soái chắc quên tôi?,
Trận mai thung cũ, ngọn đồi lau xưa.
Chơn liều, gió tấp mây đưa,
Thân trần dãi nắng dầm mưa bao ngày”.
Châu rằng: “ Đôi ngả phân tay,
Quê xưa trở gót, rủi may ít nhiều?
Cớ sao cơ cực đến điều?
3740-Lưng trời tia chớp, sáng chiều khác xa.
3741-Ai xui chơn chậm mắt lòa,
Ai xui tháng sáu tuyết sa mất rồi!
Ai xui doi lở vịnh bồi,
Mảnh đời ngang trái, áo sồi quần gai?”
Đồng rằng: “ Con tạo sắp bày,
Mẹ già lánh tục, hạc bay non Bồng.
Vai gầy oằn nặng long đong,
Nhớ con, mỏi đợi mòn trông lệ mờ.
Trở trời trái gió bất ngờ,
3750-Lưng cơm vùa nước biết nhờ cậy ai?
3751-Mấy năm đói kém dằng dai,
Bạch đồng nương rẫy quận ngoài thành trong.
Cầm hơi một hột cũng không,
Góp gom thóc lúa gánh gồng nộp giao.
Phao tôi liên kết binh trào,
Bốn năm giam nhốt nhà lao nhục hình.
Hại cho đui tối đã đành,
Tịch thâu của cải công trình bao năm.
Đày thân cát vẩn bụi lầm,
3760-Ăn xin xuôi ngược, ruột tằm xót xa.
3761-Lang thang, đình miểu là nhà,
Ổ rơm ngủ tối, mò ra sáng ngày.
Đại Danh dẫn tới Hình Đài,
Sơn lam chướng khí, vận may không nhiều.
Suối đen chớ vội qua liều,
Cầu phao phải bắc để điều quân sang.
Ngọn nguồn phát tự núi hoang,
Qua truông Thất Bổn, tới ngàn Vong Nguyên.
Đôi bờ cây độc mọc liền,
3770-Lá rơi thúi nước, đen tuyền mực pha.
3771-Vô tâm để thấm vào da,
Tổn thương tạng phủ, hàn tà nhập vô.
Ba ngày phát bịnh thũng phù,
Xanh xao huỳnh đãn, mắt mù tay run.
Qua bờ gặp mạch giếng phun,
Rịn từ khe đá vô cùng mát trong.
Trong binh, tật ách phải phòng,
Gội đầu tắm giặt cho lòng được yên.
Người người gọi suối Giác Duyên,
3780-Giải trừ oan trái ưu phiền nhơn gian.
3781-Ngày thường lòng lạch khô khan,
Trăng tròn nước dẫy chảy tràn minh mông.
Thượng nguồn có cánh rừng tòng,
Đường đi tắt nối, lòng vòng ngách truông.
Mạng giao rắn rít chim muông,
Đu dây chuyền ngọn leo luồn vượt qua.
Kỳ binh phục sẵn ngoài xa,
Dao con giắt bụng, cung ngà cầm tay,
Đừng gây tiếng động mới hay,
3790-Hạ cây hàn suối đêm ngày cho xong.
3791-Châu rằng: “ Đa tạ tình nồng,
Nắng lâu may được ngày ròng rã mưa”
Thương người gió bụi sớm trưa,
Gót nương gậy trúc, bước lừa đá cây.
Châu Thông muốn giúp, ép nài,
Vu Đồng giữ mực một hai chối từ.


CHÚ THÍCH:

-hồng hộc: tên hai loại chim bay cao và xa,-thường dùng để chỉ chí lớn của kẻ làm trai. Tục ngữ có câu: “ Yến tước bất tri hồng hộc chí” (chim én, chim sẻ không biết chí lớn của chim hồng chim hộc; ý nói kẻ tiểu nhân thấp hèn không biết chí khí cao cả của trượng phu quân tử).
-minh tu sạn đạo, ám độ Trần Thương: (sạn đạo: đường lót bằng ván gỗ xuyên qua rừng rậm để ngựa xe đi vào đất Ba Thục (Tứ Xuyên- TQ). Sách lược của Trương Lương là giả bộ sửa đường sạn đạo nhưng có ý đưa quân theo đường đó nhưng trong thực tế lén đưa quân qua bến Trần Thương. Ý nói kế hoạch đánh lạc hướng địch.
-cuồng lan: làn sóng dữ.
-bỏ ngũ (cn: đào ngũ): rời bỏ hàng ngũ trong quân để trốn về nhà.
-tong chốt: (cn: lòng tong cá chốt): hai loại cá nhỏ. Nam bộ thường dùng để chỉ bọn bất tài hèn mọn, không đáng kể.
-nồi gọ: (từ Nb): (gọ: cái nồi nhỏ): chỗ phình to của hang rắn, chỗ ở cuối cùng của rắn độc.
-già kén chẹn hom: (th.ng Nb): lọc lừa một cách đê tiện.
-nực nồng: (từ Nb),-(Đ.ng: nặc nồng): mùi đậm đặc bốc lên rất dữ, lan tỏa trong một không gian rộng.
-liệng: bay lượn.
-câu 3726: lấy ý câu: “ Khóc hổ ngươi, cười ra nước mắt”
-tia chớp: do chữ điện ảnh, lấy ý trong câu: “ thân như điện ảnh hữu hoàn vô” (thân xác con người như tia chớp, có rồi lại không. Tia chớp ở đây dùng chỉ thời gian qua quá nhanh chóng.
-tháng sáu tuyết rơi: thành ngữ TQ chỉ việc xảy ra lạ thường.
-thất bổn: mất gốc.
-vong nguyên: quên nguồn cội.
-ngũ tạng: năm bộ phận quan trọng trong cơ thể con người: tâm (tim), can (gan), tì (bao tử ), phế (phổi), thận (trái cật).
-lục phủ: đại trường (ruột già), tiểu trường (ruột non), tam tiêu (thượng tiêu: cuống bao tử; trung tiêu: giữa bao tử; hạ tiêu: phần dưới bao tử), bàng quang (bọng đái).
-câu 3792: lấy ý trong câu cổ thi: “Cữu hạn phùng cam võ”(nắng lâu gặp cơn mưa rào)

NhàQuê
13-11-2011, 01:48 AM
E-VƯỢT HẮC TUYỀN

–DÙNG BÁT TRẬN ĐỒ BẮT SỬ TRIỀU NGHĨA.


3797-Tên đồng xé gió truyền thơ,
Định nơi đuổi giặc, hẹn giờ chuyển quân.
Dông đưa, bão nổi, mây vần,
3800-Chẹn non Thương Đãn, phục chân Hình Đài.
3801-Châu rằng: “ Sử đã chạy dài,
Đất cùng cố thủ chờ ngày tiêu vong.
Còn đây lũy sắt tường đồng,
Ra oai chẳng lợi, tấn công chẳng thành.
Dịu mềm khoan nhặt điều binh,
Khi lôi thôi tới, lúc trùng trình lui.
Vãi cơm giăng bẫy đập ruồi,
Bắt hùm,-đã nắm chặt đuôi,-khó gì.
Lịnh ra, phải cất mình đi,
3810-Đúng thời xông trận, kịp khi đánh thành”.
3811-Tơ căng càng lúc càng mành,
Vỗ tay sấm động, tan tành Ngư Dương.
Vồ mồi, sè cánh đại bàng,
Cờ bay gió lộng, liên hoàn đưa quân.
Binh Yên yếu kém mười phần,
Phơi kỳ đìa rọt, tinh thần rã tan.
Hạ gươm, xếp giáp, đầu hàng,
Mộng Nam Kha, giấc kê vàng còn đâu!
Chần chờ, ắt rụng mất đầu,
3820-Sử càn bão lửa bôn đào cửa Tây.
3821-Lờ mờ ẩn hiện rừng cây,
Lô nhô lính tráng phục ngoài Thượng san.
Hận cừu gặp gỡ giữa đàng,
Vân Anh trỏ kiếm hiên ngang trận tiền.
-“Bàn cờ thế, chiếm nước tiên,
Thủ, công quá dở, mất liền ngựa xe.
Khuyết luôn tượng đỡ sĩ che,
Về cung, ông tướng rụt rè một thân.
Xưa kia, ỷ thế cậy thần,
3830-Bẻ sừng tê giác, rút gân thuồng luồng.
3831-Giờ đây ngựa giẫm bóng suông,
Mưa đi mờ mắt,-giọt buồn cô đơn.
Tránh sao được lẽ tuần huờn,
Hung tàn đổi nghĩa thay nhơn đặng nào.
Luật trời quả rất nhiệmmầu,
Lừa thầy phản bạn ngóc đầu chẳng lên.
Mấy đời bá đạo vững bền,
Ai cho lang sói nằm trên chiếu ngà”
Châu Thông giục ngựa băng ra,
3840-Âm dương hai kiếm lượn qua một vòng,
3841-Cứng mềm,- lui tới, giáp công,
Hoa bay ửng sắc cầu vồng tỏa lan.
Êm êm suối hát, thông đàn,
Ghê tai, rít gió reo ngàn tên buông.
Dàn ngang bão giựt mưa tuôn,
Bao tròn khép kín trốt luồn hang mây.
Sợ đầu bêu ở nơi này,
Chỗ kia xác đãi chim bầy rỉa xương.
Day ngang, Sử vội cướp đường,
3850-Băng càn nước rúc, bụi hường mù bay.
3851-Bóng in bờ cát trải dài,
Thoắt còn chấm nhỏ ven mây ráng tà.
Chau mày, nàng vội hỏi qua:
- “Sao không trống giục quân nà rượt theo?”
Châu rằng: “ Mạng sợi tóc treo,
Gươm vàng giết chuột, hiểm nghèo có khi.
Kiến bò miệng tộ lo gì?,
Phục binh tóm giải đơn trì nay mai.
Ngọa Long bát trận đã bày,
3860-Bấm tay cửa tử, chánh Đoài Thượng san.
3861-Rừng tòng độc đạo xuyên ngang,
Không qua lối đó, lên ngàn được đâu.
Móc mồi thả lưới giăng câu,
Vuốt râu chờ cọp, hờm lao đâm hùm”.
Xuống yên, Sử lách chen lùm,
Gai đâm xễ gót, lưng khum vạch đường.
Chạnh lòng bi thảm cảm thương,
Đất chìm biển nổi,-nghĩ dường chiêm bao.
Thình lình lũng thấp đồi cao,
3870-Ầm ầm đá chuyển, ào ào cây rung,
3871-Dấn thân đất hiểm đường cùng,
Xuông pha gắng gượng, vẫy vùng rủi may.
Khắp nơi, binh bố trận bày,
Nẻo đi mổi phút mỗi thay khó lường.
Phong vân xà điểu bốn phương,
Biến hình đổi thế, cản đường đuổi vây.
Búa vung, mỏi rụng cánh tay,
Tư bề rạng sắc cờ bay người tràn.
Liều thân phóng ngựa hướng Càn,
3880-Dưới cờ Huyền võ pháo ran tên vèo.
3881-Biết lâm tình ngặt cảnh nghèo,
Giục bon hướng Chấn, băng đèo đào sanh.
Rừng xanh rơi cội rụng cành,
Cờ Thanh long hiện, Nguơn Hanh đứng chờ.
Sử dường nửa tỉnh nửa mơ,
Đường mê vía lạc, sững sờ phách bay.
Ngước lên, tốc thẳng non Đoài,
Đại kỳ Bạch hổ gió Tây thổi lồng.
Đoàn quân giáp trắng trùng trùng,
3890-Khí xô nghiêng núi, búa đồng nặng tay.
3891-Lao dài phóng tới như bay,
Gươm lia mất mật, kích quay lạnh hồn.
Vó câu Triều Nghĩa dập dồn,
Chạy về Nam nhạc bảo tồn mạng căn.
Rầm rầm đá đổ cây lăn,
Đồi cao hóa vực, đất bằng sóng xô.
Cờ Châu tước cắm giữa gò,
Giáp hồng triền núi, khó dò nẻo thông.
Quẩn quanh quanh quẩn lòng vòng,
3900-Đánh liều vô giữa, đục trong chẳng màng.
3901-Đoàn quân rặc chiến bào vàng,
Đức Tâm xuống lịnh giăng ngang chận đầu.
Bốn phương gai rắp đường rào,
Sục sôi nước lửa, thét gào bão dông.
Sấu kình ngòi lạch cạn dòng,
3906-Dễ gì luồn lách thoát vòng kiếm đao.


CHÚ THÍCH:

-lẽ tuần huờn: (phát âm theo Nb)-lẽ tuần hoàn, do câu: “ Thiên địa tuần huờn, cơ nhi phục thủy” ( trời đất vận hành theo vòng tròn, máy trời rồi cũng trở lại như lúc ban đầu).
-bá đạo: do câu: “ Dĩ lực phục nhân giả bá, dĩ đức phục nhân giả vương” ( lấùy sức mạnh bắt người phục tòng là bá, lấy đức độ thâu phục lòng người là vương. Bá đạo là đường lối của kẻ xây dựng sự nghiệp bằng bạo lực.
-nà: (từ Nb)-đuổi theo bén gót.
-hờm: (từ Nb)-cầm sẵn dụng cụ để chờ lúc thuận tiện; lăm lăm hướng về phía nào để hành động cho kịp lúc.
-xễ: (từ Nb)-rách tét, rách toạc ra.
-đơn trì: (Đ.ng: đan trì)-cn: bệ đơn, bệ sơn màu đỏ, chỗ các quan chầu vua,-ở đây chỉ triều đình.
-Ngọa Long bát trận: tức Bát trận đồ của Ngọa Long tiên sanh tức Khổng Minh Gia Cát Lượng, thế trận mà Khổng Minh đã dùng để vây Đô đốc Đông Ngô là Lục Tốn.
-Xuông pha: (từ Nb)-xông pha.
-Càn : hướng Tây Bắc.
-Chấn: hướng chánh Đông, hành mộc, màu xanh.
-Theo phép lập trận ngày xưa trong binh pháp cổ, bốn phương có cắm cờ như sau:
*-Đông: cắm cờ Thanh long, hành mộc, màu xanh, quẻ Chấn,
*-Tây: cắm cờ Bạch hổ, hành kim. Màu trắng, quẻ Đoài,
*-Nam: cắm cờ Châu tước, hành hỏa, màu đỏ, quẻ Ly.
*-Bắc: cắm cờ Huyền Võ, hành thủy, màu đen, quẻ Khảm.
*-Trung ương: cắm cờ vàng, hành thổ.
-Nam nhạc: núi phía Nam.
-Rặc: (từ Nb)-hoàn toàn, không pha trộn.

NhàQuê
13-11-2011, 01:50 AM
HỒI THỨ BẢY

(hồi chót)

NGOÀI CHÂU QUẬN, MỪNG DÂN LẠC NGHIỆP,
GIỮA TRÀO ĐÀNG, TREO ẤN TỪ QUAN.


A-TẾ CÁO TRỜI ĐẤT


3907-Nấu gươm đúc cuốc trồng dâu,
Vác cày dòng nghé dẫn trâu ra đồng.
Nắng đào sương ấm trời trong,
3910-Reo vui tiếng sáo mục đồng lưng mây.
3911-Dạy dân lễ nghĩa từ đây,
Hùm im sấu bặt, nước xây thái bình.
Muôn hồng ngàn tía vườn quỳnh,
Sao Khuê rạng mặt, học hành mở mang.
Nhà vua đai ngọc bào vàng,
Phẩm dưng Thái miếu, giao đàn tế thiên.
Cúng thần ngũ nhạc sơn xuyên,
Thảo bài đại cáo rao truyền khắp nơi.



B-TẾ SĨ DÂN


3919-Bấy lâu cung nỏ chẳng rời,
3920-Mái tranh bốc lửa, máu rơi đường làng.
3921-Sân chầu, chiếu chỉ đã ban,
Lính dân trăm họ, dựng đàn cầu siêu.
Chết rồi, nghiệp chướng đốn tiêu,
Không phân bạn nghịch, binh triều gì đâu.
Cảm thương quỉ đói cụt đầu,
Giựt giành cháo lú xôn xao Nại hà.
Tiết lành, trà quả hương hoa,
Đèn hiu hắt giọi, la đà trầm bay.
Sụt sùi quì trước lễ đài,
3930-Lòng thành, Nguơn soái đọc bài tế văn.




Bài văn tế rằng:


1-Phách lạc Tây trì,-Hồn vương trung thổ.
2-Trời đất muời phương mờ cát bụi,
dặm chông gai lận đận,
phận đói nghèo vướng mắc lắm oan khiên;
Biển dâu bốn phía dấy binh đao,
kiếp cung kiếm gian nan,
lớp trai tráng đeo mang nhiều lụy khổ.


Nhớ linh xưa:


3-Làng xóm chăm tằm nia lúa rẫy,
đồng tiền liền khúc ruột,
tánh thiệt thà lo chí thú làm ăn;
Cửa viên quen trận giáp trường nhung,
dáo khiên kết bạn bè,
bề trung ái theo hồi còi chiêu mộ.


4-Tấc đất ngọn rau gìn phải đạo,
dám mong điều phú quí vinh huê;
Nghĩa dân ơn nước sống trọn tình,
đâu sá cảnh cơ hàn gian khổ.


5-Biển lặng gió gầm; đất bằng sóng vỗ.


6-Ngàn trùng cách biệt kiếp vong gia;
Muôn mối âu lo người thất thổ.
7-Khói đen cuộn tan tành nơi nương náu,
thương mồ mả ông cha tổ phụ,
lòng chạnh tình khó bước chơn đi;
Lửa đỏ thiêu trụi lủi vốn dụm dành,
tiếc công lao nước mắt mồ hôi,
dạ đoái cảnh khôn cầm lụy nhỏ.


8-Gót lưu lạc nhớ vườn cà giàn mướp,
biết bao giờ đầm ấm tình quê;
Thân nổi trôi nằm góc biển ven mây,
thương bỗng chốc xa rời chốn cũ.


9-Dạ muối xát nẻo trời quen đất lạ,
nghĩa cù lao công hoạn dưỡng, đâu đã đắp bù;
Lòng kim châm nơi doi sáng vịnh chiều,
ơn cúc dục đức sanh thành, hẳn chưa báo bổ.


10-Xẻ đàn tan nghé, khó trọn đạo cha con;
Rẽ thúy chia quyên, khôn vẹn tình chồng vợ.


Khá thương thay:


11-Giặc giết dân nghèo;
Trận bày xóm nhỏ.


12-Buổi loạn lạc nào theo điều nhơn nghĩa,
đau đớn nghĩ người dân lương thiện,
mắc oan tình đành chôn xác rừng xanh;
Lũ bạo tàn đâu thiết chữ khoan dung,
ngậm ngùi thương trẻ ấu thơ,
chẳng nợ máu cũng vùi thây lửa đỏ.


Cho nên:


13-Anh hùng quyết dốc sức chém kình,
Hào kiệt lăm ra tay bắt hổ.


14-Hoặc là vướng cha thù anh oán,
mang cung kiếm đeo lòng cừu hận,
sức vẫy vùng nào kể tử sanh;
Hoặc là đền nợ nước ơn vua,
cắp mác dao trải mật trung trinh,
chí ngang dọc đâu màng yểu thọ.


15-Nghĩa cả nặng nề; thân trai năng nỗ.


16-Chim sè cánh xông vào cơn bão đạn,
lòng nôn nao quét sạch bọn sói lang;
Rồng giương vi lướt dưới trận mưa tên,
dạ hăm hở đánh tan bầy beo hổ.


17-Mòn mỏi cảnh nước khe cơm vắt,
kiếp vô phần mãi đeo đẳng kiếp tha hương;
Đắng cay nơi đầu kiếm mũi dao,
niềm bất hạnh chẳng buông tha đời viễn thú.


Thương ôi!


18-Cam đành căn phận định rủi may,
-Phó mặc đất trời ban lành dữ.


19-Thây rã rời nào kẻ xót thương;
Kiếp lao nhọc ai người che chở.


20-Cánh bằng lướt mây cao chín vạn,
gươm lạc hồn, gói da ngựa nào hay;


Sức kình đè sóng dữ muôn trùng,
kiếm đoạn mạng, nắm lông hồng vội bỏ.


21-Mộ bạc phần, vèo rít gió rừng hoang;
Xương vô chủ, mờ soi trăng bến cũ.


22-Xuân thu vắng lễ chưng thường;
Giỗ chạp lạnh hương tế tự.


23-Chiều xuống muộn mong người xa xứ,
chợt nhớ cảnh én Nam nhạn Bắc,
vô tình bốn bức sầu giăng;
Đêm về khuya thương kẻ vắng nhà,
chạnh nhớ câu chồng Sở vợ Tần,
bất giác hai hàng lụy nhỏ.


24-Tàn cổ thọ mưa thu buông buồn lạnh,
hương án ngọn đèn chong leo lét, vợ dại còn đây;
Giọng đề quyên canh hạ điểm nhặt thưa,
khăn tang bầy trẻ dại chít chiu, con thơ còn đó.


25-Dựa song quạnh im lìm tăm cá,
nét võ vàng mắt hướng tận trời xa;
Ngóng người đi vắng bặt bóng nhàn,
bước sờ soạng gậy nương lần ngỏ nhỏ.


Ô hô!


26-Một tướng danh thành,-Ngàn quân mạng bỏ.


27-Công hãn mã nặc nồng mùi tử khí,
trăng mơ màng kêu réo quỉ Vô thường;
Gác Lăng yên lố nhố bóng cô hồn,
đêm vắng vẻ khóc than ma uổng tử.


Bổn chức nay:


28-Chợt thấy kẻ xe rũ màn xanh;
Thầm thương người xác vùi hố nhỏ.


29-Mảnh da ngựa bọc thây người chí lớn,
xác xây thành trang sử vẫn chép ghi;
Lưỡi gươm vàng vấy máu kẻ thù chung,
lính chết trận lòng dân luôn tưởng nhớ.


30-Ngôi hoàng cực sẵn mến tài hào kiệt,
ngự phê truyền xuống chỉ thưởng ban;
Điện kim loan nay mở lượng biển trời,
chuẩn tấu dựng lên đàn siêu độ.


31-Hoặc nợ sẵn với non xanh động biếc,
lòng hư không phát nguyện tụng Huỳnh đình;
Hay duyên xưa cùng phướn đỏ sen vàng,
bè Tiếp dẫn đưa linh về Đông độ.


32-Tình người ấm áp, lể vãn vong rượu rót đôi bầu;
Trà quả đơn sơ, tuần úy tế phẩm dưng một cỗ.


33-Phá vô minh xa lánh nghiêp luân hồi;
Theo chánh đạo tìm cầu đường giác ngộ.


34-Phò đất nước cho mưa hòa gió ngọt,
thuận ý trời mở đức Thuấn Nghiêu;
Giúp non sông cho bão dứt mây tan,
hợp lòng người lập đời Thang Võ.


Có linh xin hưởng.




3931-Lời lời ý thánh câu thần,
Nên thiên hùng tráng, nên vần bi thương.
Tỏ mờ nến lạnh thê lương,
Gẫm vời vợi cách âm dương,-lệ nhòa.
Ai cầm được giọt châu sa?,
Một luồng gió lạ cuốn qua thình lình.
Nghe chừng tiếng vọng muôn binh,
Khua gươm mặt đất, in hình lưng mây.
Chén trà chung rượu trong ngoài,
3940-Hốt theo trốt xoáy vù bay ngút ngàn.
3941-Trời vần vũ phút tiêu tan,
Từng cao xanh thẳm, ráng vàng thắm pha.
Triều đình ngự bút ban ra,
Tứ hôn hai họ giao hòa Huỳnh Châu.
Xe tơ ả Chức chàng Ngâu,
3946-Pháo vui rộn rã đôi đầu cầu Ô.


CHÚ THÍCH:

-dòng: (từ Nb)
a)-kéo theo sau.
-chiếc tàu lớn dòng chiếc ca-nô.
-buộc mõm con trâu bằng một sợi dây dài, Mục đồng cầm đầu dây để dắt nó theo trong lúc mình đang ngồi cỡi trên lưng một con trâu khác.
Trâu anh con cỡi con dòng,
Lại thêm con nghé lòng thòng theo sau.
-vườn quỳnh: (cg: Quỳnh uyển)-Lê Thánh Tông có tập Quỳnh uyển cửu ca (9 bài hát vườn quỳnh ). Vườn quỳnh chỉ văn chương thi phú.
-sao Khuê: tức sao Khuê mộc lang trong Nhị thập bát tú (28 chòm sao) theo thiên văn cổ của TQ..Sao này chủ về việc học hành, văn chương khoa cử.
-Thái miếu: miểu thờ các vua đã băng hà.
-Giao đàn: tức đàn Nam giao, chỗ vua tế trời.
-Ngũ nhạc: năm ngọn núi lớn tượng trưng cho hệ thống núi non TQ:
*-Đông nhạc Thái sơn,
*-Tây nhạc Hoa sơn,
*-Nam nhạc Hành sơn
*-Bắc nhạc Hằng sơn,
*-Trung nhạc Tung sơn.
-Sơn xuyên: sông và núi
-cầu siêu: cầu cho được siêu thoát
-đốn tiêu: tiêu tan ngay tức khắc
-bạn nghịch: kẻ chống lại triều đình.
-cháo lú: loại cháo mà quỉ sứ ép người ăn để quên hết việc làm của kiếp vừa qua trước khi đi qua cầu Nại hà để đầu thai.
-Nại hà: cầu cao lắc lẻo mà các oan hồn phải qua để đi đầu thai.
-Tây trì: ao phía Tây. Ở đây, ao sen miền Tây phương cực lạc.
-trung thổ: đất Trung nguyên, đất liền của Trung quốc.
-trận giáp trường nhung: nói chung về binh bị
-trung ái: tức trung quân và ái quốc.
-chiêu mộ: kêu gọi về với mình.
-đoái: nhìn lại, nghĩ tới.
-cù lao, cúc dục, sanh thành: công lao khó nhọc của cha mẹ sanh đẻ va nuôi dạy con cái. Kinh Thi có câu:
“Ai ai phụ mẫu, sanh ngã cù lao”
( Sanh đẻ ra ta, cha mẹ lao nhọc biết mấy)
Chín chữ cù lao:
1-sanh (đẻ con),- 2-Cúc (nâng đỡ),-Phủ (vuốt ve),-
4-xúc (cho bú mớm),-5-Trưởng (nuôi lớn),-6-Dục (dạy dỗ),-
7-Cố (nghĩ tưởng tới),- 8-Phục ( săn sóc),-9-Phúc: che chở.
-quyên thúy: tên hai loài chim.
-chia quyên rẽ thúy: phân cách vợ chồng, làm cho họ xa nhau.
-tha hương: ở đất khách quê người.
-viễn thú: lính đóng đồn ở xa.
-lạc hồn: làm bay mất hồn.
-đoạn mạng: cắt đứt mạng sống
-chưng thường: lễ cúng vào mùa xuân và mùa thu.
-tế tự: thờ phụng cúng kiếng.
-cổ thọ: (Đ.ng: cổ thụ)-cây sống lâu năm.
-đề quyên: tiếng kêu của chim quyên, chim quốc.
-tăm cá bóng nhàn: tăm con cá, bóng con chim nhạn,-để chỉ tin tức.
Thơ Cửu khúc:
Trông thơ nhạn hời đà vắng bặt,
Đãi (cv: đợi) tin ngư, dị tặc dấy loàn.
-hãn mã: ngựa đổ mồ hôi,-chỉ chiến công của võ tướng.
-gác Lăng yên: do chữ Lăng yên các, (cg: gác khói)- do Đường Thái Tôn Lý Thế Dân dựng nên để thờ các công thần.
-uổng tử: chết oan uổng.
-bổn chức: tiếng tự xưng của các quan.
-vấy: (từ Nb): dính dơ bẩn.
-Hoàng cực: chỉ nhà vua.
-ngự phê: (vua) phê duyệt và chấp nhận lời thỉnh cầu của bầy tôi.
-điện Kim loan: triều đình của vua thiên tử là điện Kim loan. Triều đình của vua chư hầu gọi là Ngân loan điện.
-siêu độ linh hồn ) đoạn trừ mọi chướng căn phiền não để bước lên một cảnh giới mới.
-kinh Huỳnh đình: kinh nhựt tụng của người theo đạo tiên.
-phướn đỏ sen vàng: chỉ đạo Phật.
-Tiếp dẫn:
a)-nhận và đưa đi,
-tên vị Phật đón linh hồn người hiền lành về Tây phương cực lạc.
-Tịnh độ: bến bờ yên tĩnh của người đã giác ngộ chơn lý của đức Phật.
-vãn vong: thămviếng vong linh người quá cố.
-vô minh: (Phật): không sáng suốt. Vật dục che lấp làm cho tâm hồn con người tối tăm, không phân biệt được phải quấy, thiện ác.
-luân hồi: (Phật) - (luân: bánh xe chuyển động theo vòng tròn,- ở đây là pháp luân của nhà Phật; hồi:trở lại ). Do nhân quả của các kiếp liên tiếp, con người không thoát khỏi cảnh sanh lão bịnh tử, đắm đuối mãi trong vòng lẩn quẩn mãi như vậy hết kiếp này tới kiếp khác.
-chánh đạo: con đường đúng đắn.
-giác ngộ: biết được lẽ vi diệu của chơn lý mà tu hành đắc quả.
-tứ hôn: (vua) ban ơn cho kết hôn.
-ả Chức chàng Ngâu: tức Ngưu lang và Chức nữ.
-cầu Ô: tức cầu Ô thước, cầu do đàn quạ đen làm ra bắc ngang sông Ngân hà để Ngưu lang Chức nữ gặp nhau đêm thất tịch (mùng 7 tháng 7)

NhàQuê
13-11-2011, 01:52 AM
C-XIN TỪ QUAN


3947-Nao nao khói phủ sóng xô,
Chiều tà tơ tưởng mơ hồ bóng quê.
Nước nhà tình vẹn đôi bề,
3950-Rượu quỳnh bày tiệc vườn lê tẩy trần.
3951-Châu rằng: “ Trọn đạo quân thân,
Giúp dân thoát ách đâu cần đẩu thăng.
Ý ta noi dấu Nghiêm Lăng,
Mồ hôi mát áo, đất Sằn cày mây.
Gậy tre dựa cửa ngày ngày,
Nhớ nhung lớp lớp phủ đầy mái sương,
Quải đơm lạnh khói vắng hương,
Đất xưa đã mấy năm trường cách xa.
Bỏ quan vui thú yên hà,
3960-Ngắm tùng thưởng cúc, thoát ra mê đồ.
3961-Năm canh hồn mộng ngẩn ngơ,
Cố hương bóng cũ dật dờ chiêm bao.
Công thành trở gót về mau,
Giữa trường danh lợi bạc đầu như chơi.
Oai danh sụp đất nghiêng trời,
Nhát gươm Lữ Trỉ, miệng đời gièm pha.
Âm u vàng úa nắng tà,
Chũng sơn cát lấp, phù hoa sóng nhồi.
Mịch La đá lở bùn bồi,
3970-Cô trung chết lạnh, no mồi kình nghê.
3971-Sao bằng sống mọn nhà quê,
Bỏ vinh sang, giữ trọn bề thân danh.
Dịu hiền thay! Bóng tre xanh,
Trà lan sương sớm, chén quỳnh trăng thâu.
Thơ đầy túi, rượu lưng bầu,
Ba ngàn thế giới, cửa nào dám so!
Thảnh thơi doi vịnh con đò,
Thong dong sải cánh bóng cò chiều sa.
Mặc lòng, đi ở vào ra,
3980-An nhiên một cõi, vượt qua thế tình.
3981-Biển xa, núi thẳm, trời thinh,
Bước chơn thong thả, riêng mình tiêu dao”
Trống rền, vẳng giọng phụng lâu,
Gió xao đình liệu, phiên chầu mờ sương.
Lòng thành rổi tấu quân vương,
Khúc nôi ngành ngọn, tỏ tường thềm hoa:
- “ Ải mây ngựa chiến máu hòa,
Ôm vừng trăng quạnh quan hà bấy lâu.
Non sông rạng sắc thay màu,
3990-Ban ơn lui gót sớm hầu từ thân”
3991-Phán rằng: “ Phạt Sở diệt Tần,
Ơn mưa móc chửa hưởng phần mảy may.
Làng xưa vội trở gót hài,
Trăng hiên gió gác, nhẹ vai tang bồng.
Xưa nay, vui khổ chung lòng,
Mà nay nỡ để cánh hồng tung mây.
Minh mông trời rộng đất dài,
Mờ tăm cá lội, trùng lai khó tầm.
Qua cơn nước đục bụi lầm,
4000-Muôn nhà điêu đứng, nhơn tâm biến dời.
4001-Thuận lòng người, ứng cơ trời,
Dạy dân phong hóa, mở đời thuần lương.
Người nghèo còn lắm tai ương,
Lầu không riêng đứng, hạc dường xa bay.
Cầu hiền, kén đức, luyện tài,
Góp tay rường cột, xây đài gấm hoa”
Tâu rằng: “ Ơn trượng hoàng gia,
Móc mưa rưới xuống cả nhà hiển vang.
Qua hồi cơm lạnh máu chan,
4010-Nhớ đồi mai trắng nhị vàng quê xưa.
4011-Huỳnh Sa bặt mấy mùa mưa,
Bơ vơ mả lạn trăng mờ quạnh hiu.
Nhà huyên nhớ sớm thương chiều,
Ngóng tin con, sợ cánh diều đứt dây.
Qua cơn chiến loạn dằng dai,
Héo don lòng dạ có ngày nào yên.
Xin về giữ đạo con hiền,
Tình nhà nghĩa nước vẹn tuyền cả hai”
Khen rằng: “ Cá nước duyên may,
4020-Công đưa xã tắc lên đài quang vinh.
4021-Hùm beo rũ xác non xanh,
Mặt trời soi thấu bến gành, hang sâu.
Gẫm tình biển rộng núi cao,
Xét trăm đức hạnh, đứng đầu hiếu thân.
Vuông tròn ngay thảo mười phần,
Lòng nào xe chỉ buộc chân chim hồng.
Tưởng người pháo lướt tên xông,
Giong cương múa kích giữa vòng tử sanh,
Đài lân, gác khói hẳn dành,
4030-Đặc sai xây cất phủ dinh trong làng.
4031-Xuất kho gấm vóc bạc vàng,
Đền bù chút đỉnh so ngàn công lao”
Tâu rằng: “ Bão táp ầm ào,
Ngửa nghiêng thành quách, dãi dầu muôn dân.
Lửa binh dẫu giập tắt lần,
Nhà nhà còn chịu cơ bần nhiều năm.
Ruộng vườn thành chốn hoang lâm,
Ngập đầu cỏ mọc, cọp nằm rắn khoanh.
Kẻ nghèo vun xới đồng xanh,
4040-Xưa sung quân ngũ hiến mình quê hương.
4041-Tranh giành quyền sống sa trường,
Trở về được mấy?-Ruộng nương cấy cày.
Xóm làng vắng bặt bóng trai,
Song đơn lệ chậm chảy dài đêm sương.
Muôn ngàn cảm đức quân vương,
Tin yêu thuở trước, liệu lường ngày sau.
Ơn sâu vẫn đội trên đầu,
Dám đâu nghịch ý, dám đâu trái lời.
Ghi xương khắc cốt suốt đời,
4050-Coi như hưởng trọn lộc trời vua ban.
4051-Của này phát kẻ cơ hàn,
Thị thiềng cứu tế, thôn trang chẩn bần”.
Rằng: “ E nước đục dơ chân,
Dấu tiên hoang tịch, gởi thân giang hồ.
Sạch trong phụng đậu cành ngô,
Danh ràng lợi buộc, mơ hồ phù vân.
Đã mong chẳng bợn bụi trần,
Lòng đâu nông cạn ngại ngần chẳng ưng.
Đời người được mấy mùa xuân,
4060-Vua hiền tôi giỏi mấy lần gặp nhau?
4061-Sợ khi tắt lối động đào,
Thiên Thai há dễ ra vào tầm tiên.
Hẳn còn may,-một chút duyên,
Hãy cho trẫm một lời khuyên chí tình.
Lấy nhơn ngãi thế luật hình,
Chắc dân nước mạnh, thanh bình nơi nơi?”
Tâu rằng: “ Đức lớn sáng ngời,
Anh hùng hào kiệt giúp đời thiếu đâu.
Tài lành chẳng kém Y Châu,
4070-Phơi gan trải mật theo hầu thánh quân.
4071-Lời quê đường đột kính dưng,
Sợ điều phạm thượng, lo phần to gan.
Lẽ ngay thô vụng luận bàn,
Đền ơn tin cậy thánh hoàng đã trao”.
Rằng: “ Sao trên đón dưới rào,
Trẫm đà ngỏ ý, khanh nào tự chuyên”
Đêm dài thăm thẳm vô biên,
Khói mờ bóng lá, trăng nghiêng song là.
Trướng huỳnh nối sáp đài hoa,
4080-Châu Thông ngồi lóng tiếng gà thôn sương.
Ảo huyền hương tỏa mây vương,
4082-Tay mài nghiên, thảo biểu chương một bài.




Bài biểu rằng:


“Hạ thần Châu Thông, vưng lịnh điện Kim loan,
được các lương thần trung liệt hết dạ chở che,
nhờ chư tướng sĩ đệ huynh dốc tâm giúp đỡ,
đem thân báo đáp ơn vua, theo sắc chỉ ban tiễu trừ Yên tặc,
đem bình thanh cho sông núi, mưu an lạc cho lê dân.


Nay Hoàng thượng khẩu dụ cầu trực ngôn,
thần phụng tuân thánh ý, khấu đầu trước bệ,
mạo muội tâu bày, những mong thiên tử chí tôn hạ cố.


Thần trộm nghe:


1-Thiên, địa, nhơn quán xuyến tinh thông là bực Vương,
-nhơn, trí, dõng ( / dũng) hành sử điều hòa là bực Thánh.


2-Thánh vương thông tam đức,-Chơn chúa thấu tam tài.


3-Lễ trị hòa bình là lối đường ngay thẳng của bực Thánh vương,
-Lực phục nhơn tâm là ngỏ ngách quanh co của phường Bá đạo.


4-Dựng nghiệp Vương thì đời kiếp vững bền,
-Xây nghiệp Bá thì sớm chiều suy sụp.


5-Trụ vương không sửa mình nên mang tiếng độc phu,
-Vua Kiệt chẳng rèn nết nên mất nghiệp nhà Hạ.


6-Thiên tử, thứ dân lấy tu thân làm gốc,
- Thánh vương , chơn chúa chọn tín nghĩa làm đầu.


7-Gìn thuyết Chánh danh,-Vẹn câu Trung Thứ.


8-Sửa mình hoàn thiện,-Tề gia chỉnh nghiêm.


9-Nếu trị nước non tốt như xe săn sợi chỉ,
-thì bình thiên hạ dễ như lật ngửa bàn tay.


10-Mạnh tử dạy: quốc dân quí nhất,
-Triệu hậu hỏi Tề chúa sau cùng.


11-Ở ngôi vị kẻ bề trên, vua chúa thường:
-lo trước vạn dân,
-hưởng sau bá tánh.


12-Thứ, Phú, Giáo là chuyện triều chánh cần làm,
-Nhơn, Nghĩa, Lễ là việc lê dân phải học.


13-Học phong hóa để dân đen ở khéo nói khôn,
-Dạy lễ nghi để trẻ nhỏ kính trên nhường dưới.


14-Sách thánh hiền trau giồi đức hạnh,
-Đạo nghĩa nhơn cải đổi tánh tình.


15-Có học mới thấu đáo ngay gian,
-Có khôn mới biệt phân hơn thiệt.


16-Dân ngu tối tất chạy theo lợi nhỏ, mà bỏ phế việc chung,
-Dân khôn ngoan tất gác bỏ tình riêng, mà gánh gồng nghĩa lớn.


17-Cái khéo khôn của Khổng Minh làm Tứ Xuyên hưng thạnh,
-Cái hèn kém của Lưu Thiện làm Ba Thục suy vi.


Cho nên:


18-Thủy Hoàng chôn nhà nho phòng bạo loạn là sai,
-Văn Đế gom sách vở vào thạch cừ nào đúng.


Rốt cuộc:


19-Sĩ phu đời Hớn thấy gần nhìn cạn, gò bó theo khuôn,
-Quan lại nhà Tần làm điếc giả câm, dạ vâng nghe lịnh.


Ôi!


20-Cái học tầm chương vô bổ, có lợi gì cho kế an dân,
-Cái học trích cú đa đoan, có ích chi cho phương hưng quốc.


Còn số phận nhà Tần:


21-Làm cỏ Hàm Dương nào phải kẻ đọc sách uyên thâm,
-Châm lửa A Phòng là do tay chèo đò thất học.


22-Thiên hạ vốn thái bình,-Phiền nhiễu từ cung khuyết.


23-Vua theo gương Đế Nghiêu Đế Thuấn, cầm giữ mối giềng,
- Quan theo kế Ích Tắc Cao Dao vun bồi liêm chánh.


24-Gió lặng trời trong,-Sông bền núi vững.


Và dân tình sẽ;


25-Trời rạng ra làm,-trời lặn về nghỉ.


26-Đào giếng mà uống,-Cày ruộng mà ăn.


27-Rớt đồ vật, không người để ý,
-Vắng chủ nhà, không kẻ động tâm.


28-Dầu đất đai cằn cỗi nghèo nàn, mà muôn nhà hơn là ruột thịt,
-Dẫu phong thổ cay độc hiểm nguy, mà trăm họ như thể tay chơn.


Thì có sợ gì:


29-Dòng họ Loan hành thích Tề vương trả hận,
-Dân bổn sở khiếp sợ hà chánh trốn quê.


Còn ví như:


30-Kho Quỳnh Lâm đầy ắp lụa tơ, thôn xóm ngập tràn thây chết lạnh,
-Lẫm Ngô quận chứa tràn thóc gạo, làng quê la liệt kẻ đói nghèo.


Thì ôi thôi!


31-Nào lấy ai, dân tin tưởng,-nào lấy đâu, nước dựa nương.


32-Ngựa béo phì, áo cừu nhẹ, chẳng qua là máu tủy của muôn dân,
-Quyền rộng lớn, bổng lộc cao, cũng chỉ gây lầm than cho bá tánh.


33-Lũ ô lại mở miệng những vì dân vì nước,
-Bọn tham quan đút túi những vì của vì tiền.


34-Phường bất tài ngất ngưởng ngôi cao,
-Kẻ cô thế âm thầm ngục tối.


35-Vừng thái dương khó soi vào chậu úp,
-Tiếng cùng đinh khôn kêu thấu trời cao.
36-Lũy tre xanh cách núi ngăn sông, lúc rõ ra mới biết:
đứa gian tà hưởng miếng đảnh chung, nhờ mưu ma chước quỉ,
-Gác phụng tía cao tường kín lối, chừng nghe lại mới hay:
người ngay thẳng lâm vòng tù ngục, vì bọn ác lũ gian.


37-Lưỡi chồn cheo bầy bất nhơn thất đức, chuốt ngọc trau châu,
che đậy tinh vi niềm oan ức của muôn dân,
-Áo gấm lụa lũ vô sỉ bất lương, vẻ rồng thêu phụng,
lấp vùi kín đáo nỗi đau thương của trăm họ.


Thần trộm nghĩ:


38-Tuần du xem xét dân tình,-Vi hành thẩm tra chánh sự.


39-Vương thượng mới nghe tận tai tiếng cười khóc nơi nước đọng bùn lầy,
-Bệ hạ mới thấy tận mắt kiếp đọa đày kẻ khố rách áo ôm.


Có người nói:


40-Dân muốn điều gì,-Trời chìu cái ấy.


41-Ưa chuộng điều sái quấy thì hơi đâu dân mến dân thương,
-Dung túng bọn bợn nhơ là cớ để dân khinh dân ghét.


42-Thương dân như hàng họ, cơn hoạn nạn dân sẽ đâu cật chung lưng,
-Coi dân như rác rơm, lúc hiểm nguy dân sẽ bịt tai ngoảnh mặt.


43-Lúc đó, lấy gì mà giữ yên bờ cõi,
-Lúc đó lấy gì mà chống vững giang san.


44-Lòng căm giận dồn ngọn chùy Bác Lãng,
-Lửa oán hờn ẩn khúc sáo Tiệm Ly.


45-Binh lực Tây Tần nuốt trôi lục quốc,
vì bỏ dân nên Nhị Thế nát thây,
-Oai danh Hạng Võ che rợp Giang Đông,
bởi bỏ nghĩa nên Ô giang ôm hận.


Suy kim luận cổ, mới thấy được rằng:


46-Dùng gươm khuất địch, ai kẻ nể vì,
-Ban đức trị dân, người người mến mộ.


Giả Nghị tâu lên Cao Tổ:


47-Ngồi lưng ngựa chiến, thâu phục Trung nguyên, chẳng khó gì,
-Chĩa ngọn dáo dài, trị an Trung thổ, không dễ được.


Tôn Võ tử cũng nói:


48-Lấy thành trì dễ lắm,-Thắng lòng người khó hơn.


49-Dõng ( /dũng ) là mấu chốt trị dân,
- Khoan là mối giềng trị nước.


50-Cái hay của khoan là được người hiểu biết tôn sùng,
-Cái dở của khoan là bị bọn u mê lạm dụng.


51-Phải lấy Dõng khắc chế Khoan để khỏi yếu mềm nhu nhược,
-Phải lấy Khoan điều hòa Dõng cho khỏi khô cứng khắt khe.


52-Trị hay loạn, luật phải nghiêm minh,
-Hưng hay suy, quan phải chánh trực.


53-Cầm cân nẩy mực, phải suy nghĩ đắn đo,
- Chấp chánh nắm quyền phải cân phân lo liệu.


54-Luận công, xét cùng tình đạt lý,
thẳng mực tàu chẳng nể chẳng kiêng,
-Định tội, xem rõ ngọn rành nguồn,
chiếu phép nước không thiên không vị.


Vậy thì, không còn cảnh:


55-Hình bất thượng đại phu,-Lễ bất hạ thứ dân.


Thần cũng nghe:


56-Một lời nói có thể hưng xã tắc,
-Một lời nói có thể nát cơ đồ.
57-Tướng mạnh phất cờ trỏ kiếm,
chỉ đắc dụng lúc xông trận giữ thành,
-Người hiền bóp trán vò đầu,
mới hữu ích khi giúp dân dựng nước.


58-Kẻ học rộng tất thấy rõ tiền đồ dân tộc,
- Người trí non khó nhìn thấu hậu vận non sông.


59-Cơ thạnh suy nằm trong bàn tay tính toán,
-Lẽ thành bại ẩn trong khối óc lo lường.


60-Mưu chước Ngọa Long làm thối lui thiên binh vạn mã,
-Miệng lưỡi Tô Trương làm khiếp kinh liệt quốc chư bang.


Cũng có người như:


61- Cơ Tử, Tỉ Can, vì lòng trung gián chúa mang tội khi quân,
đến nỗi sống cảnh điên khùng, mổ tim dưới bệ,
-Khuất Bình, Ngũ Viên, dùng lời thẳng can vua mắc oan thất sũng,
tới điều treo đầu trừng trợn, gieo xác giữa dòng.


Ôi!


62-Giọng cương trực chói tai chát óc,
chịu nghe sẽ bền vững san hà,
-Lời sàm nịnh nở ruột mát gan,
-không lánh sẽ lung lay cơ nghiệp.


63-Bao trang lương tướng tránh bọn gian tà,
phải náu thân nơi rừng sâu núi hiểm,
-Bao khách anh hùng khinh phường dối trá,
đành giấu mình nơi xóm vắng thôn hoang.


64-Vương thượng học gương sáng triều xưa,
mở khoa thi chọn văn thần đủ đức,
-Bệ hạ ôn điều hay vua trước,
mở võ trường chọn dõng tướng xứng ngôi.


Châu Công ngày xưa:


65-Đương uống ăn nhả cơm khỏi miệng,
chỉnh tề ra ngỏ, đón khách tài cao,
-Đương tắm gội quấn tóc lên đầu,
vội vã ra sân, tiếp người đức lớn.


66-Đãi sĩ phu, dùng Lễ và Khiêm,
-Xây vương đạo, chuộng Nhơn và Tín.


67-Tìm ngọc quí trong bùn,
giảm bớt đặc quyền bọn con quan vô học,
-Kiếm vàng ròng trong đá,
cắt đi tập ấm bọn thừa kế bất tài.


68-Ý vụng lời thô, thần hạ bạo ngôn rổi tấu,
-Trời cao biển cả, thánh thượng rộng đức khoan dung.


Châu Thông cẩn tấu.



CHÚ THÍCH:

-tẩy trần: rửa sạch bụi bặm.
-quân thân: đạo nghĩa đối với vua và cha mẹ.
-Nghiêm Lăng: tức Nghiêm Tử Lăng giúp Lưu Tú dẹp giặc Vương Mãng. Lưu Tú lên ngôi, tức vua Quang Võ nhà Đông Hớn. Nghiêm Lăng xin về cày ruộng ở Phú Xuân Sơn. Vua rất quí trọng tư cách của ông.
Nghiêm Lăng đã mấy đua bơi,
Cày mây cuốc nguyệt, tả tơi áo cầu.
(Lục Vân Tiên – NĐC)
-đất Sằn: chỗ Y Doãn cày ruộng trước khi ra giúp vua Thành Thang nhà Thương Ân.
-đẩu thăng:
a)-(cg: đấu, thưng): cái đấu to bằng cái lít; thưng hoặc thăng cũng dùng đong lường thóc gạo. Ngày xưa phát lương bằng lúa thóc đong bằng đấu, bằng thăng.
-(ngh.: lợi lộc do vua ban.
-quải đơm: cúng kiếng trong gia đình.
-mê đồ: con đường mê muội, không sáng suốt.
-cặp câu 3963-3964: lấy ý trong hai câu thơ cổ thường thấy in trong dĩa sành nhỏ:
Sự phùng đắc ý nghi hưu tức,
Danh lợi trường trung dị bạch đầu.
(xin tạm dịch: Ở đời gặp được việc đắc ý vừa lòng thì nên ngơi nghỉ; dễ bạc đầu giữa trường danh lợi ).
-nhát gươm Lữ Trĩ: Hoài Âm hầu Hàn Tín, sau khi diệt được Tây Sở Bá vương Hạng Võ, dựng nghiệp Tây Hớn cho Lưu Bang, được phong Tề Vương. Vì không nghe lời khuyên của Anh Bố, Bành Việt, nên bị Lữ hậu, vợ Lưu Bang lập mưu giết chết tại Vị Ương cung.
-Chũng Sơn: Văn Chũng, bạn của Phạm Lãi, mưu thần của Việt vương Câu Tiễn. Khi đã bắt được Ngô Phù Sai, Câu Tiễn đem lòng ngh kỵ, bức tử Văn Chũng bằng thanh đản kiếm Trúc Lâu, thanh kiếm mà ngày trước Ngô Phù Sai dùng để bức tử Ngũ Tử Tư. Chũng được đem chôn ở núi Chũng Sơn. Sau đó, chẳng bao lâu núi này bị sụp lở, mộ bị nước cuốn mất tích.
-Mịch La: Khuất Nguyên, tự Khuất Bình, tác giả tập thơ Ly Tao, được xếp trong Thất tài tử của văn chương Trung quốc. Sở Bình vương không nghe lời can gián của ông, lại nghe lời gièm pha sàm tấu của gian thần Thượng quan Ngân Thượng. Buồn tình, ông trầm mình ở sông Mịch La tự tử vào ngày mùng năm tháng năm. Người Tàu kỷ niệm ngày đó, gọi là Tết Đoan Ngọ (hay Đoan ngũ)
-Đi ở: tức triết lý “ tri chỉ” của Nho gia, dạy chúng ta nơi nào nên ở lại lâu, nơi nào nên đi ngay.
-Vào ra: tức lẽ xuất xử của Nho giáo, dạy ta khi nào nên ra cứu đời, khi nào nên lui về ở ẩn.
-tiêu dao: sống theo bổn tánh tự nhiên mà trời ban cho mọi người.
-đình liệu: ngọ đuốc thắp sáng cả đêm ở sân chầu.
-đứng đầu hiếu thân: lấy ý câu:
Thiên hữu tứ thời, xuân tại thủ,
Nhơn sanh bá hạnh, hiếu vi tiên.
( Trời có bốn mùa, mùa Xuân được kể đầu tiên; Ngươi có trăm nếtt tốt, chữ hiếu được kể trước hết).
-xã tắc: (xã: nơi tế thần đất; tắc: nơi tế Thần Nông). Ngày xưa, dựng nước, vua lấy dân làm trọng. Dân cần lúa, vua lập nề xả tắc để thờ Thân Nông, thủy tổ của nông nghiệp. Vua tế trời ở đàn Nam giao, vua chư hầu tế xã tắc. Mỗi khi chiến thắng địch, vua cho phá nền xã tắc cũ, chủ ý là phá nơi địch tôn thờ. Vì vậy, xã tắc dùng để chỉ đất nước.
-tình biển rộng núi cao: công ơn cha mẹ.
-Thiên Thai: tên một ngọn núi ở Chiết Giang (TQ), tương truyền có tiên ở.
-Châu, Y: Y Doãn, lương thần của vua Thành Thang và Châu Công Đán thời Tây Châu, bầy tôi giỏi của Châu Văn Vương Cơ Xương.
-phủ dụ: (người trên) dỗ dành kẻ dưới nhờ làm việc gì,-thường dùng cho vua đối với thần dân.
-lương thần: bầy tôi giỏi.
-khẩu dụ: lời nói miệng của vua
-cầu trực ngôn: cầu lời nói ngay thẳng.
-tam tài: ba yếu tố lớn theo vũ trụ quan Đông Phương: thiên (trời), địa (đất) và nhơn (người).
-tam đức:
a)- ba đức lớn của bậc thánh nhơn: nhơn (/ nhân): lòng thương người; trí: sự sáng suốt; dõng ( /dũng); sức mạnh.
-ba sách lược căn bản trong binh thơ (tam lược) cần thiết cho việc kén luyện tướng sĩ cũng như đối trận đánh địch.
-Vương đạo: trong sách lược chánh trị của Nho gia thì có hai đường lối:
a)-Vương đạo: dùng lễ trị, thể hiện cách cư xử, dựa trên căn bản nhân ái và nghĩa mà không chuộng lợi. Vương đạo chủ trương dùng đức để cảm hóa người khác (do câu: “ Dĩ đức phục nhân giả vương” ).
-Bá đạo: dùng hình pháp để trị, lấy sức mạnh để làm người khác sợ mà khuất phục mình (do câu: “ Dĩ lực phục nhân giả bá).
-độc phu: người đàn ông độc ác. Vua Tề Tuyên Vương hỏi Mạnh tử: “ Ta nghe Võ vương nhà Châu hưng binh giết vua thiên tử là vua Trụ, việc đó có không?”.
Mạnh tử đáp: “ Tôi chỉ nghe Võ vương hưng binh giết người đàn ông độc ác là Trụ mà thôi”
-tu thân: sửa mình. Có câu:“ Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bổn” ( Từ thiên tử cho đến người dân thường, ai ai cũng lấy việc sửa mình làm gốc).
-thuyết chánh danh: thuyết của Mạnh tử, chủ trương mọi người sống đúng với danh phận, địa vị cùa mình: vua ra vua, bầy tôi ra bầy tôi, cha ra cha, con ra con. Có sống đúng danh vị của mình mới có thể đòi hỏi bổn phận của người khác với mình. “ Quân minh thần lương, phụ từ tử hiếu” (Vua có sáng suốt, bề tôi mới giỏi giang, hết lòng hết sức; cha có hiền hòa thương con, con mới ăn ở với cha mẹ phải đạo.
-liên 10: lấy ý trong câu nói của Mạnh tử: “ Dân vi quí, xả tắc thứ chi, quân vi khinh” ( dân là quí nhất, đất nước giang sơn được quí trọng thứ nhì, vua bị coi nhẹ nhất ).
-thứ, phú, giáo: ba cương lĩnh quan trọng trong việc trị nước và đó cũng là những việc mà nhà cầm quyền có nhiệm vụ thực hiện cho dân:
a)-thứ: làm cho dân đông,
-phú: làm cho dân giàu,
c)-giáo: dạy dỗ dân chúng.
-bà Triệu hậu hỏi Tề chúa sau cùng: Sứ nước Tề sang thăm nước Triệu. Bà Triệu Uy hậu hỏi: “ Mùa màng thế nào?-Dân chúng có no ấm không?-Vua Tề có khỏe không?”.
Sau khi trả lời, Sứ Tề hỏi: “ Sao bà không hỏi vua trước mà lại hỏi theo thứ tự như vậy?”
Bà Uy hậu trả lời: “ Ta hỏi mùa màng trước vì có trúng mùa thì dân mới no ấm. Vua dựa nương vào dân ấm no thì ngôi vua mới vững bền. Ta hỏi thăm sức khỏe của vua Tề sau cùng là vì lẽ đó”.
-Lưu Thiện: con trai Lưu Bị, nối ngôi Lưu Huyền Đức làm vua Ba Thục thời Tam quốc, gọi là Thục Hán Hậu chúa. Lúc nhỏ, Lưu Thiện học văn với Khổng Minh, học võ với tướng Huỳnh Trung. Nhưng bản chất Lưu Thiện quá hèn kém. Sau khi nhà Hán Thục mất, Lưu Thiện bị bắt giải về kinh, làm quan tước công trong triều đình nhà Tấn. Có lần, vua Tấn là Tư Mã Viêm hỏi Lưu Thiện:
-Ở đây vui hay ở nước Thục vui?
Lưu Thiện trả lời: “ Ở đây vui, ở nước Thục không vui”.
Tư Mã Viêm lại hỏi: “ Có nhớ nước Thục không?”.
Lưu Thiện lắc đầu.
Tư Mã Viêm lại hỏi Tôn Hạo, con trai của Tôn Quyền, cũng bị bắt khi Đông Ngô bị Tấn đánh bại. Tôn Hạo trả lời những câu hỏi Tư Mã Viêm đặt ra với lời lẽ khẳng khái đanh thép và chỉ vào chiếc ghế của vua mất nước mà Hạo đang ngồi nói: “ Đông Ngô có sắm sẵn cái ghế như vầy mà đợi Bệ hạ ở đó. Nếu không tin, Bệ hạ cứ qua đó hỏi, già trẻ bé lớn đều biết việc này!”
-liên 18:
a)-Tần Thủy hoàng đốt sách chôn học trò (phần thư khanh nho) vì sợ Nho sĩ chống lại triều đình.
-Hớn Văn đế cho gom sách vở trong cả nước vào một nơi gọi là Thạch cừ, gọi những người có học vấn uyên bác (thời đó họ được gọi là bác sĩ) lại để diễn giải sách vở theo ý kiến của nhà vua.
-tầm chương trích cú: lối học ngày xưa tôn trọng từng chữ từng câu của thánh hiền.
-Hàm Dương: kinh đô nhà Tần ở tỉnh Thiểm Tây, TQ.
-Cung A Phòng: cung điện của nhà Tần ở núi Ly Sơn.
-tên chèo đò thất học: nhà Tần bị Hạng Võ và Lưu Bang tiêu diệt. Hai người này xuất thân là đình trưởng ( chèo đò và chuyển giao các công văn )
-Đế Nghiêu, Đế Thuấn: hai vị vua giỏi thời Cổ đại Trung quốc.
-Ích Tắc, Cao Dao: các bậc tôi hiền nổi tiếng về việc trị nước thời xưa. Cao Dao mô và Ích Tắc mô trong Kinh Thư là của hai ông này.
-câu 25-26: do các câu thơ cổ:
Nhựt xuất nhi tác,
Nhựt nhập nhi tức,
Tạc tỉnh nhi ẩm,
Canh điền nhi thực.
(Mặt trời mọc ra làm việc; mặt trời lặn về nghỉ ngơi; đào giếng mà uống; cày ruộng mà ăn ).
Toàn bộ các câu ca tụng cảnh sống tự do trong một nước thái bình thạnh trị.
-họ Loan: vua Tề Tuyên Vương qua sông. Các tướng sĩ tuốt trần gươm để đề phòng bất trắc. Vua Tề thấy vậy, sợ có người thuộc dòng họ Loan trà trộn để hành thích nhà vua để trả thù. Thừa tướng Yến Anh tâu: “ Nếu Bệ hạ hành động ngay thẳng được lòng mọi người thì có sợ gì một mình họ Loan”.
Làm việc đúng công tâm thì không sợ chống đối.
-Hà chánh: việc chánh trị hà khắc. Một hôm, đi qua một khu vực, Khổng tử nhìn thấy một người đàn bà ngồi khóc bên nấm mộ liền sai Tử Lộ đến hỏi. Người đàn bà thưa: “ Cách nay mấy hôm, cha chồng tôi bị cọp vồ, hôm qua, chồng tôi cũng bị cọp bắt”.
Tử Lộ hỏi: “ Sao không dời đi nơi khác mà ở?”
Người đàn bà thưa: “ Ở đây, việc cai trị của quan lại rất tốt nên tôi không muốn rời khỏi chỗ này”
Khổng tử nghe vậy, kết luận: “ Hà chánh mãnh ư hổ” (việc cai trị khắc nghiệt còn dữ tợn hơn cọp)
-tuần du: (vua) giả dạng đi chơi khắp nơi để tìm hiểu dân tình.
-vi hành: đi lén, đổi dạng thay hình, không cho người ta biết.
-liên 40: lấy ý trong câu: “ Dân chi sở hiếu, thiên tắc tòng chi” ( Trời sẽ theo cái mà dân mong muốn)
-ngọn chùy Bác Lãng: Tần Thủy hoàng tiêu diệt nước Hàn. Trương Lương là người nước Hàn, muốn trả thù cho nước. Trương Lương nhờ một tráng sĩ hờm sẵn chùy, núp ở gành Bác Lãng, chờ xe vua Tần đi qua thì xông ra đập xe, giết Thủy hoàng. Việc không thành, Trương Lương bỏ trốn, sau giúp Lưu Bang diệt được Tần.
-tiếng sáo Cao Tiệm Ly: Cao Tiệm Ly là bạn của Kinh Kha. Sau khi Kinh Kha vâng lịnh Thái tử Đan sang Tần, lấy cớ là dâng bản đồ nước Yên và đầu lão tướng Phàn Ô Kỳ, tìm lúc thuận lợi thích khách Tần Thủy hoàng. Mưu bại lộ, Kinh Kha bị giết ngay trên điện. Cao Tiệm Ly, danh sĩ đương thời, nổi tiếng nhờ tài thổi sáo. Tiệm Ly vào được trong thành nhưng giết Thủy Hoàng không được bị móc mắt.
-liên 47: nhắc lại câu nói của Lưu Bang. Vì xuất thân hàn vi ít học, khi dựng được nghiệp nhà Hớn ( / Hán ), Bang rất kiêu căng ngạo mạn, đã từng nói: “ Ta chỉ ngồi trên lưng ngựa cũng có thể chiếm được Trung nguyên”. Bầy tôi là Giả Nghị cãi lại: “ Bệ hạ ngồi trên lưng ngựa chiến, lấy được Trung nguyên, nhưng không thể trị được Trung nguyên”
-liên 54: Ngày xưa, bọn quan lại phong kiến có quá nhiều đặc quyền đặc lợi. Hình luật không áp dụng cho quan đại phu và người ta không dùng lễ nghĩa đối với dân thường.
-liên 56: lấy ý trong câu: “ Nhứt ngôn khả dĩ hưng bang, nhứt ngôn khả dĩ táng bang” ( một lời nói có thể làm cho đất nước hưng thạnh, mợt lời nói có thể làm cho đất nước mất)
-Tô Trương: Tô Tần, Trương Nghi thời Chiến quốc.
-Tỉ Can: công thần nhà Thương Ân, phò Trụ vương Ân Thọ, vì can gián vua nên bị xử mổ tim.
-Cơ Tử: công thần nhà Thương Ân, can ngăn vua Trụ không được, tức quá, bị bịnh điên.
-Khuất Bình: (xem Mịch La ở trước)
-Ngũ Viên: tức Ngũ Tử Tư, bầy tôi trung của Ngô Phù Sai. Ông can vua trong việc xây đài Cô Tô và thâu nạp Tây Thi vào cung. Phù Sai bức tử Ngũ Viên bằng thanh đoản kiếm Trúc Lâu. Trước khi chết, Ngũ Viên nói với Phù Sai: “ Tôi chết rồi, hãy lấy đầu tôi treo trên cổng thành để tôi được thấy quân binh Câu Tiển vào thành”.

NhàQuê
13-11-2011, 01:53 AM
D-VỀ QUÊ


4083- Mỏi mòn trông ngóng từng giây,
Thoi đưa thấm thoát tới ngày hồi hương,
Đầu cây gió thoảng vấn vương,
Phai vàng đóa cúc, ngậm sương nụ quỳnh.
Vòm cao, bóng nguyệt bồng bình,
Sóng cương vô điện, cáo trình qui lai.
Tâu rằng: “ Áo đỏ sân Lai,
4090- Thẩn thờ mộng mị, canh chầy đêm thâu.
4091-Ơn đồng trời rộng biển sâu,
Ruộng xanh cày cấy, phụng lầu lui chân”.
Phán rằng: “ Đuổi đặng hươu Tần,
Đưa thuyền non nước qua lần phong ba.
Dấu lân chớm rạng đường hoa,
Vội mơ cánh hạc, ngóng qua non Bồng.
Phủi tay, lánh đục tìm trong,
Đêm đêm, nhớ bóng chim hồng gió khơi.
Phong hoa tuyết nguyệt gọi mời,
4100-Rong chơi cùng áng mây trời thinh thang.
4101-Vui nghèo, ôm trọn chữ nhàn,
Công danh như sợi tơ vàng trăng sương.
Nơi nào sánh được cố hương,
Còn nhau đây,-một bước đường chung đôi.
Người về quê,- hẳn vui rồi,
Điện loan ngùi nhớ đêm thôi lại ngày”
Ngập ngừng lá rắc đồi cây,
Tâm tình trải rộng dặm dài chiến chinh.
Luyến lưu mấy đoản trường đình,
4110-Cuối sông, quằn liễu, bẻ nhành chia tay.
4111-Gió chiều thoảng khúc Lạc mai,
Khách Tiêu Tương vọng người Tây hướng Tần.
Giở roi, gắng gượng ngại ngần,
Ngựa đôi chầm chậm men lần lối quê.
Chàng rằng: “ Mờ mịt núi khe,
Trọn hai ngày nữa, chưa về tới đâu!”
Nàng thưa: “ Tóc ngã màu sầu,
Một ngày một xế nhành dâu bóng chiều.
Buồn đau, mẹ chịu đã nhiều,
4120-Mòn con ngươi,-ngóng buồn thiu một người”
4121-Mĩm cười, chàng vội ngắt lời,
- “Vợ hiền dâu thảo, vàng mười dám so.
Thương nàng sớm biết âu lo,
E sông chậm chảy, sợ đò biếng đưa.
Sợ người lao nắng khổ mưa,
Dẫu khô suối lệ,-còn chừa đôi ta.
Chừng nào bước cẳng tới nhà,
Đèn đoàn viên đậm hớp trà hỏi han”
Rêu phong đá chụm lớp hàng,
4130-Lung linh thóp ngọn mây vàng ấp cây.
4131-Trời hừng lất phất mưa mai,
Mành sương xám phủ giăng bày núi xa.
Hàng thông im khói la đà,
Cành dang tay, giọt nước sa nửa lừng.
Chàng rằng: “ Án bóng cây rừng,
Dìu nhau lên đảnh, trông chừng làng xưa.
Ngày đi,-cầu nhỏ vó lừa,
Mai gầy gội bảy mùa mưa mới về.
Cối trăng đổ bóng tre quê,
4140-Chày lơi đêm muộn, nặng nề nhịp tay.
4141-Chuyện trò rút ngắn đường dài,
Dòng sông Vô Ngại cây bày lối quen.
Đổi thay chinh chiến từng phen,
Nhớ gì đâu!-Đóm làm đèn ngày thơ.
Đò năm nao,-Bến vẫn chờ,
Cây da cũ đứng bơ vơ chiều tàn.
Đường quanh co mịn cát vàng,
Lửng lờ mây hiện kẽ tàn lá râm.
Đây rồi! Luống cúc âm thầm,
4150-Héo khô năm tháng, ướt dầm sương sao.
4151-Lỏng yên, ngựa cột cội đào,
Trẻ con ríu rít chạy ào ra sân.
Cùng tìm chào chị Nam Vân,
Liễu xanh nắng áp, mười phân héo xàu.
Ai đi dốc nước biển sầu,
Nhuộm cho trắng hết mái đầu gian nan.
Cầm tay, mắt lệ chứa chan,
Sợ chim đơn khó nhập đàn cùng bay.
-“ Em từ chinh chiến cõi ngoài,
4160-Phòng văn lửa lụi, hiên mai trầm tàn.
4161-Đoàn viên ấm khói trà lan,
Ruộng nương tình cũ, tằm tang nghiệp nhà.
Giàu sang đất lạ người ta,
Ví đêm tối mặc gấm hoa làm gì?”
Châu rằng: “ Em bước chơn đi,
Xuống yên, cởi giáp ngay khi công thành.
Hiềm vì lệ cũ triều đình,
Bạn bè bịn rịn, chưa đành chia tay.
Nhớ quê trằn trọc đêm dài,
4170-Thẩn thờ hồn mộng áng mây quê nhà”
4171-Đưa nhau ra mắt mẹ già,
Rưng rưng trĩu giọt sương hoa cuối mày.
Rằng: “ Ơn nuôi dạy cao dày,
Đỡ nưng bồng ẵm mảy may chưa đền.
Kể từ binh lửa dấy lên,
Phận con, lá mọn bến ghềnh ngược xuôi.
Rủi may, phó mặc tay trời,
Nằm vùng đất chết, lăn nơi pháo gầm.
Mười thu, dài tưởng trăm năm,
4180-Đày thân miệng cọp, ăn chằm ngủ hang.
4181-Sợ rừng gươm dáo thác oan,
Vùa hương bát nước, chưa an tấc lòng.
Tranh mây nổi, mấy mùa đông,
Mừng huyên đường tuổi thọ đồng non Nam”
Rằng: “ Nơi hổ huyệt long đàm,
Hoặc đành vắn số, hoặc cam khổ hình.
Giành nhau gang tấc phù sinh,
Ơn cơm nợ áo, lụy mình, thương ôi!
Biết đâu phần số định rồi,
4190-Kiếm buông giữa trận, cung rơi giữa đàng.
4191-Hơn thua nhau, thế cờ tàn,
Nẻo qua vinh hiển, nẻo sang Nại Hà.
Gạo thơm đậm vị muối cà,
Áo bô quần vải, mặn mà tình quê.
Mặc lời khen, mặc tiếng chê,
Coi như ngọn gió nhẹ về thoảng ngang.
Bỏ danh lợi, lấy thú nhàn,
Thóc đơm rẫy tốt, tơ vàng dâu xanh”.
Dịu dàng vuốt tóc Vân Anh:
4200-“ Quả đây phước lớn trời dành cho ta.
Giấc Xuân đượm giọt móc sa,
Nhành mai mong sớm trổ hoa đầu mùa.
Trẻ thơ rộn tiếng vui đùa,
Văn thơ viện sách, thêu thùa phòng loan.
Đầy nhà, tươi quế tốt lan,
Chung trà đơm quải, nén nhang phụng thờ”
Thưa rằng: “ Tai đợi mắt chờ,
Đinh ninh tấc dạ, ngóng mơ đêm ngày.
Thiệt thà, một một hai hai,
4210-Hòa vui công việc cấy cày nhà nông.
4211-Trăm năm, sau trước một lòng,
Đâm chồi nẩy tượt nối dòng Nho gia.
Hôm mai bên gối mẹ già,
Khay trầu canh lụn, kỷ trà sương khuya.
Trông nom lúa thúng tằm nia,
4216-Gánh gồng lao nhọc, sẻ chia ngọt bùi”



CHÚ THÍCH:

-áo đỏ sân Lai: Lão Lai ngày xưa, già 70 tuổi, muốn cho cha mẹ vui, buổi chiều mặc áo đỏ ra sân múa hát. Sân Lai chỉ quê nhà hoặc gia đình.
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử cũng vừa người ôm.
( truyên Kiều – ND)
-dấu lân: dấu con kỳ lân đi, chỉ đất nước thái bình.
-trường đình và đoản đình: Ngày xưa, vào đời Hán, cứ mười dặm thì đặt một trường đình, cứ năm dặm thì đặt một đoản đình, có cắt một người đình trưởng trông coi, đưa đò hay chuyển công văn đến đình khác.
-câu 4111-4112: lấy ý trong:
-“ Khứ khứ lạc mai thanh tiệm viễn” (Càng đi xa, tiếng khúc hát Lạc mai càng lần lần xa ).
-câu “ Sổ phong thanh địch ly đình vãn,
Quân hướng Tiêu Tương, ngã hướng Tần”
( Vài tiếng sáo thoảng mong manh trong gió, nơi chia tay vào buổi chiều tà; Người về nẻo Tiêu Tương, còn ta hướng về đất Tần )
-bóng xế nhành dâu: lấy ý trong câu “ Nhựt lạc tang du” ( Mặt trời lặn, bóng cây tang, cây du). Ý nói thời gian qua, người mỗi lúc một già hơn.
-sương sao: do chữ tinh sương, chỉ thời gian đi qua.
-đêm tối mặc gấm hoa: lấy ý trong câu: “ Phú quí bất qui cố hương như ý cẩm dạ hành” (Giàu sang phú quí mà chẳng về xứ cũng như mặc áo gấm đi ban đêm ).
-hổ huyệt long đàm: hang cọp và đầm nước có rồng,-ý nói nơi nguy hiểm.
-quế lan: do “ quế tử lan tôn” ( con đẹp như cây quế, cháu đẹp như hoa lan ).Quế lan chỉ con cháu.

NhàQuê
13-11-2011, 01:55 AM
E-CUNG CẦM QUÊ CŨ.


4217-Chim nương cửa ổ bồi hồi,
Giá đông e ấp núi đồi lùi xa.
Cỏ non trải mái thướt tha,
4220-Khẳng khiu cành nhánh, cội già rộ bông.
4221-Nguơn tiêu trăng ngọc xiên song,
Trời mây xao xuyến, người lòng lâng lâng.
- “Huỳnh hôn vừa rạng bóng ngân,
Tay đờn nách rượu, thưởng Xuân đôi mình.
Gò mai gần Bảo Chơn đình,
Cạnh Trung Tân quán, rộng thinh đất trời”
Nàng rằng: “ Bao độ lá rơi,
Sen tàn rồi nở vẫn đời tha hương.
Sầu tư hồn bướm vấn vương,
4230-Thương cây nhớ cội, mạch tương khôn cầm.
4231-Hoa đơm cành tuyết đêm rằm,
Gợi tình quê, luống tủi thầm lâu nay”
Chàng rằng: “ Cung kiếm luôn tay,
Thạnh Hòa xưa, há riêng ai vọng về.
Binh reo lửa nổi tư bề,
Ngày đi hẳn biết, ngày về e không.
Mấy năm ruột rối bòng bong,
Vuông tre bờ trúc, não lòng người ơi!
Nước non réo gọi bên trời,
4240-Nằm chưa ấm chiếu, chơn dời đi xa.
4241-Lục bình, bốn biển là nhà,
Trọ nhờ một tối cũng là quê hương.
Mất còn, gởi mạng mười phương,
Lòng quì vẫn hướng thái dương một vừng.
Cắn đôi hột muối, đã từng,
Quăng chài canh muộn, băng bưng nắng nồng.
Quê nàng nương náu mấy đông,
Cánh chim bạt gió gởi lòng cho ai?
Vẫn hồ đầm, vẫn đồi mai,
4250-Về đây mộng mị canh dài mông lung.
4251-Đôi nơi chung mối cảm thông,
Cõi Nam mòn mỏi mắt mong phương Đoài,
Sang năm, hứa tháng ngày này,
Giong thuyền Long Ẩn, ngắm mây Mai đình”
Gương nga len cội lỏi cành,
Sợi mây mảnh dẻ giăng mành che ngang.
Sương mơ nặng ngọn cỏ lan,
Lối qua in ngấn đá vàng long lanh.
Chàng rằng: “ Nhơn kiệt địa linh,
4260-Lòng người điên đảo, trị bình đổi thay.
4261-Đau thương dậy khắp cõi ngoài,
Cỏ hôi chẳng bén đồi mai quê nhà.
Tích truyền xưa có ông già,
Hạo Nhiên là hiệu, yên hà rong chơi.
Phanh thây lũ sói ăn người,
Chuyển xoay máy tạo, bứng dời non xanh.
Sự đâu chua ớt cay chanh,
Nước non Ba Thục phút đành tro bay.
Chôn danh vùi dấu chốn này,
4270-Chòi tranh nửa mái, tháng ngày tiêu dao.
4271-Thanh gươm ngang dọc thuở nào,
Bẻ đêm mưa lạnh,-mặc dầu thời gian.
Một đời trải mật phơi gan,
Tấm lòng son, núm đất vàng phui pha.
Đó đây, mây nổi trăng tà,
Văn chương cốt cách, kiểng hoa tinh thần.
Thong dong biển Sở rừng Tần,
Đền thiêng in gót, non thần đề thơ.
Tìm nguồn gởi mộng khơi mơ,
4280-Chiều lên bước mỏi quán bờ Giác Nhai,
4281-Tự mời, chén tỉnh chén say,
Lửa xao bấc lụn, lạc loài gió xiên.
Chập chờn bóng hắt ảo huyền,
Song thưa phất lạnh, giấc liền chiêm bao.
Nữ lang hé cửa cúi chào:
-“Mối duyên kỳ ngộ dễ đâu tương phùng.
Thuyền quyên mến mộ anh hùng,
Ly tao lựa vận họa cùng tri âm”
Xinh xinh mắt phụng mày tằm,
4290-Hương xông áo lụa, tuyết dầm gương nga.
4291-Xiêm y tha thướt gấm là,
Hài vàng gót ngọc, lược ngà tóc mây.
Hỏi rằng: “Quê chắc gần đây?
Đầu đuôi chưa hản, dạ này sao yên”
Đáp rằng: : “ Sẵn có cơ duyên,
Xui người lạc bước non tiên đêm này.
Ta là thần nữ Bạch mai,
Làu làu vóc ngọc giữa ngày giá đông.
Thương người khí tiết một lòng,
4300-Nghèo không để gợn bụi hồng,-mấy khi?
4301-Bèo mây hợp bến phải thì,
Chuyện trò,-Chẳng đọ so gì thơ văn!”
Ngẩn người ra, lão thưa rằng:
-“Mây đưa chở khẳm thuyền trăng dặm dài.
Ban lời chỉ dạy một vài,
Họa nguôi ngoai nỗi ai hoài bấy lâu!”
Búp măng tay điểm nhiệm mầu,
Bút thần thoăn thoắt tám câu năm vần.
Ngây nhìn thơ pháp tần ngần,
4310-Tài hoa điêu luyện, người trần dám so!
4311-Hương trầm thoang thoảng khói lò,
Hoa tiên sương đẫm, thập thò chồi mai.
Ý rằng: “ Con tạo sắp bày,
Nhỏ không trong, lớn không ngoài khuôn thiêng.
Trăm năm bia miệng còn truyền,
Bạo tàn đâu dễ cướp quyền hóa công!
Dầu ai vẽ rắn thêu rồng,
Giùi trong túi vải khó mong giấu đầu.
Vẩn vơ chuyện cũ đâu đâu,
4320-Giận hờn giảm thọ, buồn rầu thiệt thân.
4321-Tồn tâm, tịnh khí, dưỡng thần,
Sống tự nhiên,-kéo ngày Xuân mãi dài.
Trời cao thẳm, hạc vờn mây,
Tinh khôi bông trắng, đóa mai trong ngần”
-“Linh căn chắc đã có phần,
Duyên may mới được tiên nhân giải bày.
Vưng lời, lãnh ý từ rày,
Coi đời như giấc mộng dài đêm đông.
Lành thay! Vạn pháp giai không,
4330-Dẹp tham đắm, giải thoát gông lụy phiền.
4331-Kiếp trần vô sự là tiên,
Thơ nhàn gió gởi, rượu nghiêng trăng tàn.
Khen chê, mặc tiếng thế gian,
Như người khách lạ hỏi đàng rồi qua”
Trà đàm, vị hãy đậm đà,
Tiên nương vội tạ, bóng hoa khuất mành.
Gót sen thấp thoáng đoản đình,
Nuối trông theo, muốn lưu tình phút giây.
Chập chờn bướm mộng lầu Tây,
4340-Tỉnh thôi lại nhớ, tiếc hoài giấc Xuân.
4341-Rạng ra, dò hỏi thôn lân,
Rằng: “ Cô phong đảnh cũng gần đó thôi”
Tụ ngưng linh khí ngất trời,
Sương giăng tháng tháng, mây chơi ngày ngày.
Núi vòi vọi, ngọn xanh cây,
Có bông huỳnh điểm tố mai khác thường.
Nhị vàng, cánh bạc dịu hương,
Tâm tình, cốt cách tiên nương khác gì.
Ươm cành, chiết nhánh đem đi,
4350-Che cơn mưa lớn, đậy khi nắng chiều.
4351-Dày công vun bón nưng niu,
Cò bay ngựa chạy, mỹ miều sắc hoa.
Thời gian xô cỗi mai già,
Hạc mây bầu bạn, trăng ngà thân quen.
Giữa đồng cỏ nội hoa hèn,
Quên nghèo vui đạo, bon chen mặc đời”.
Nàng rằng: “ Thế chuyển tình dời,
Tiết ngay lóng trúc, tuyệt vời thanh cao.
Vẫy vùng, để tiếng anh hào,
4360-Quê mùa rẫy bái, sạch làu gương trong”.
4361-Ngượng ngùng bấm nhẹ tay chồng,
Màu hoa đào ửng má hồng bóng xiên.
Ấp e má lún đồng tiền,
Phù dung hé nhụy càng duyên đậm đà.
“Đầu mùa nặng ngọn mưa sa,
Tan mây, còn đọng ruột hoa vị nồng”.
Chàng rằng:“Nề nếp gia phong,
Hương sen giữ đức, vóc tòng làm thân.
Sống làm tướng, chết làm thần,
4370-Hiến mình cho nước, chẳng cần lợi danh.
4371-Yên làm ruộng, động theo binh,
Loạn ly vào trận, thanh bình treo cung.
Hạo Nhiên là đứng anh hùng,
Bẻ gươm quăng ấn, rừng tùng tìm tiên.
Lòng không, vượt biển lá thuyền,
Vành trăng tĩnh mịch, soi nghiêng Lăng già.
Mớm truyền hoài bão con ta,
Tố Quân là chữ, hiệu là Xung Hư”
Khoảng không sâu lắng trầm tư,
4380-Lưa thưa nhấp nháy sao lừ đừ xa.
4381-Nàng rằng: “ Phủi nợ can qua,
Gặp nhau đây, cứ tưởng là chiêm bao.
Sắn bìm nương bóng tùng cao,
Đêm thanh chuốc chút rượu hầu phu quân”.
Chàng rằng: “ Phơi phới lòng Xuân,
Đồi xưa, cội cũ gặp tuần đương hoa.
Qua vùng đất lạnh máu pha,
Nhởm chơn kinh khiếp còn ta với mình.
Thôn trang đổi dạng thay hình,
4390-Đồi mai lại thoảng hương tình ấu thơ.
4391-Hèn lâu bặt tắt đường tơ,
Cung cầm quê cũ đương chờ tay tiên”.
Liếc tình: “ Rõ khéo vẽ duyên,
Bày điều khách sáo để phiền cho ai!
Ruộng nương canh cửi rảnh tay,
Nghề riêng soạn sẵn một vài cung thương.
“ Mai khâu nguyệt lộ” nên chương,
Bồi hồi ôn lại quãng đường bôn ba.
Rổ may kim chỉ về nhà,
4400-Ấm tình cỏ mọn nở hoa bao ngày.
4401-Vì chàng nắn phím so dây,
Bù nhung đắp nhớ chuỗi ngày Sâm Thương”.
Rao đờn, lá cỏ nặng sương,
Sóng vương vất khói, mặt gương nguyệt lồng.
Len nhành, thắm nhụy từng bông,
Mát tươi cánh trắng mơ mòng hương bay.
Thờ ơ rượu bốc men cay,
Liễu phai dã dượi sàn đài Cô Tô.
Tiếc mà chi nắm xương khô!
4410-Phấn hương đạp đổ cơ đồ Ngô vương.
4411-Cảm thương phận mỏng má hường,
Rọ dìm sông nước Tiền Đường,-kiếp hoa!
Phù dung sánh bước Hằng nga,
Cá trầm đáy vực, nhạn sa lưng đèo.
Phím ngà tay lượn ngón leo,
Hắt hiu hơi lạnh lướt vèo cành mai.
Rồi như phương chuyển hướng xoay,
Ngựa bon đua gió, ruổi ngoài đồng hoang.
Bể tan, nát đá vụn vàng,
4420-Mưa sa gió táp cung đàn ai hay.
4421-Thưa rằng: “ Cổ bản khúc này,
Nhịp vui nào kém tiếng chày trăng quê”.
Tơ xe Ải nhạn khó về,
Nắng chan rát mắt, lòng đê mê sầu.
Ngó quanh, còn có ai đâu,
Đá trơ cát phỏng, héo xàu cỏ hoa.
Ai thương giùm cội thung già,
Tình phai cung Hớn, oán pha đất Hồ.
Nhụy tàn, bướm rũ bơ vơ,
4430-Nhớ nhung dài tới bao giờ mới tan!
4431-Nghe dường giọng khóc, lời than,
Ngày nương song quạnh, đêm tàn bóng đơn.
Trăng hè, quốc lẻ nuốt hờn,
Trời Ngô Quận, giấc chập chờn thê lương.
Lệ hoen mành trúc bến Tương,
Sóng xô vùi tiếng đoạn trường canh thâu.
Tay len lén vén rèm châu,
Liễu chen biêng biếc mút đầu đê xanh.
Ngựa hồng mỏi vó công khanh,
4440-Trễ tràng yên lạc, vắng tanh bóng người.
4441-Nẻo xa, mặt biển ven trời,
Mưa đêm, ai có nhớ lời nước non?
Trăm năm, lỡ cuộc vuông tròn,
Ai đi để kẻ ở mòn con ngươi!
Được thua dở cuộc khóc cười,
Niềm hoài hương vẫn cứ khơi lệ hồng.
Cõi Nam, viễn khách não lòng,
Lọt tai, muốn khóc,-nhưng không, chỉ sầu.
Rồi êm ả, gió thoảng xao,
4450-Sông dài trải lụa, lẫn màu mây khơi.
4451-Âm ba bực đổi cung dời,
Hào quang lan tỏa bóng người chinh phu.
Quê nhà, bỏ hận xóa thù,
Sương giăng vùng biến, mây mù vụt bay.
Nghiên khô, mực mới lại mài,
Lật trang sách nát, quên ngày dọc ngang.
Gương hồ vỡ ánh trăng tan,
Bẻ đôi kiếm liệng, sóng vàng lan xa.
Nước trong giếng cũ pha trà,
4460-Non nhành lúa sớm, thơm hoa sim ngàn.
4461-Tiếng tơ trầm ấm cài đan,
Quyện cơn gió lượn mơn man theo dòng.
Thoắt đâu trải rộng bình bồng,
Vút lên rực bóng ráng hồng non cao.
Ném đi mảnh ấn phong hầu,
Rẽ mây, hạc nhẹ cánh vào Thiên Thai.
Phím loan cảm nguyệt ngà say,
Thiếp đi, chợt tỉnh, nhỏ vài dư âm.
Khen rằng:“Điêu luyện ca cầm,
4470-Văn Quân tấu Bạch Đầu Ngâm,dám bì!
4471-Nghe đờn, tiếc gã Chung Kỳ,
Gởi vàng chọn mặt, quản gì xa xôi.
Cớ sao mọc nhánh đâm chồi,
Tách khuôn nhạc cũ, xa rời điệu xưa?”
Trình rằng:“Hết nắng rồi mưa,
Nhạc thay đổi sắc, có thừa ngàn năm.
Lại thêm thiên lý tòng tâm,
Ứng vào phách điệu sắt cầm nào sai.
Đạo trời từ một chẳng hai,
4480-Đi về, vận chuyển, vãng lai khôn cùng.
4481-Hóa sanh, sanh hóa điệp trùng,
Chi li phức tạp, theo dòng thời gian.
Rồi từ cảnh sắc đa đoan,
Kiếm nguồn tìm cội, qui hoàn ban sơ.
Quanh co vạn nẻo muôn bờ,
Ra vô chẳng lạc, cậy nhờ Chơn Tâm.
Rộng suy nhạc luật ngũ âm,
Lìa tâm nhập cảnh, hướng tâm quay đầu.
Biến ra cõi thế sắc màu,
4490-Trở vào, giữ gốc nhiệm mầu cơ nguyên.
4491-Hành tàng, xuất xử còn truyền,
Tùy thời theo thế, kinh quyền gồm hai.
Phép khuôn trước trót sắp bày,
Hòa chung nhịp sống, phải thay dạng hình.
Trời đày người cõi bất bình,
Buộc ràng lục dục thất tình đâu đâu.
Tóc xanh phút hóa trắng đầu,
Có gì mãi mãi bền lâu với đời?
Theo nguồn, chia mạch hướng khơi,
4500-Qua Tây, về Bắc, đâu rời biển Đông”
4501-Chàng rằng: “ Được cởi tấm lòng,
Trước sau đã thấy, ngoài trong đã tường.
Ngôi cao mở đạo đế vương,
Sửa mình rèn nết, dựa nương dân tình.
Ví như hôn ám bất minh,
Hôi tanh sắt máu, luật hình gớm ghê.
Bỏ nguồn bỏ gốc, u mê,
Dân đen ngoảnh mặt,-ắt kề ách tai.
Tinh thông nghệ thuật cầm đài,
4510-Từ căn cơ vững, tình ngoài phát sanh.
4511-Ngu si, theo ngọn chuộng cành,
Lãng quên chuẩn mực, âm thanh xô bồ.
Khư khư phép vụng khuôn thô,
Điệu đờn chai cứng, tiếng khô như sành”.
Chìa vôi vội báo tan canh,
Non Đông mờ đục, mong manh ráng vàng.
Ngủ đường, nội cỏ mơ màng,
Sông hây hẩy gió, sóng tan nửa vời.
Dặm về, cây đổ bóng rơi,
4520-La đà lá thấp, rã rời tàn nghiêng.
4521-Hồi chuông cảnh tỉnh nghiệp duyên,
Ngân nga điểm giọt diệu huyền lưng mây.
Vườn thơm hương bưởi ngất say,
Nhịp lơi kẽo kẹt, gió day tre già.
Cúc vàng tứ quí còn hoa,
4526-Đơm chen lá lục, nhạt nhòa sương chan.


CHÚ THÍCH:

-nguơn tiêu: (Đ.ng: nguyên tiêu )-rằm tháng giêng.
-bưng (từ Nb): đồng ruộng sâu ngập nước.
Chèo ghe sợ sấu cắn chưn,
Xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ ma.
(ca dao)
-nhơn kiệt địa linh: (cn: địa linh nhơn kiệt )-vùng đất linh thiêng sinh ra người hào kiệt.
-hạo nhiên: tức hạo nhiên chi khí,- cái linh khí tốt đẹp mà trời phú bẫm cho mỗi người.
-nữ lang: người phụ nữ.
-kỳ ngộ: cuộc gặp gỡ lạ lúng.
-thuyền quyên: (cn: thiền quyên)-gái đẹp người đẹp nết.
Bậu đừng khoe bậu thuyền quyên,
Cái khăn bậy bịt cũng tiền anh cho.
(ca dao Nb)
-Ly tao: tác phẩm bất hủ của Khuất Nguyên,-người ta thường dùng để chỉ văn chương nghệ thuật.
-ai hoài: ray rứt, sầu muộn trong lòng.
Du thần xem thấy ai hoài,
Xét trong mình gã có bài phù tiên.
(Lục Vân Tiên – NĐC)
-hoa tiên: giấy để viết thơ, có in hoa trên hình nền.
-khuôn thiêng: cái khuôn mà trời đã đúc sẵn, trong đó mọi số mạng đã được sắp bài, không thoát ra ngoài được.
-linh căn: gốc rễ có liên quan, dính dáng với phần thiêng liêng vô hình.
-vạn pháp giai không: (Phật)-mọi việc, mọi suy nghĩ trên đời này đều không có thật.
-trà đàm: cuộc uống trà để nói chuyện.
-lưu tình: lưu giữ chút tình cảm.
-cô phong đảnh: ngọn núi cao chót vót, đứng trơ trọi một mình.
-linh khí: cái khí chất linh thiêng của trời đất.
-huỳnh điểm tố mai: mai trắng có nhụy vàng.
-cò bay ngựa chạy: chỉ thời gian vụt qua mau.
-quên nghèo vui đạo: tức câu “ lạc đạo vong bần” ( vui sống với đạo nghĩa đúng danh vị con người, không màng đến cảnh nghèo khó của mình ).
-tiết ngay lóng trúc: do câu “ trực tiết hư tâm” ( lóng cây trúc ngay thẳng, ruột cây trúc trống không ) chỉ sự ngay thẳng trong sạch. Vì vậy, cây trúc được dùng như biểu tượng của người quân tử.
-hương sen: mùi thơm của hoa sen. Khi đề vịnh hoa sen, có người viết:
“ Liên xuất tại lục ba, hữu quân tử thanh đức,
Lan sanh ư u cốc, hữu vương giả chi hương)
( Sen phát xuất ở sóng xanh, có đức trong sạch của người quân tử; Lan sanh ra ở hang động thâm u, có mùi hương quí phái của bậc vương giả).
Sen còn được gọi là “ quân tử chi hoa” (bông hoa của người quân tử )
-tòng: (cg: tùng)-cây lá kim, thân thẳng, suôn to, sống lâu, bốn mùa lá vẫn xanh tươi. Tòng tượng trưng cho kẻ trượng phu cứng cỏi, không chịu đổi dời khí tiết.
-câu 4371-4372: lấy ý trong câu “ Tĩnh vi nông, động vi binh” ( nước bình yên thì làm ruộng, nước loạn lac thì vào quân ngũ đánh giặc ).
-câu 4375-4376: do câu thơ thiền của Sư Huệ Sinh đời Lý:
“ Tịch tịch Lăng già nguyệt, Không không độ hải châu”
( Lặng lẽ thay! Vừng trăng của nhà Phật, Chiếc thuyền qua biển lòng trống rỗng ).
-hoài bão: chí hướng ôm ấp trong lòng mong có ngày thực hiện được.
-hèn lâu: (từ Nb)- đã lâu rồi.
-khách sáo: (cn: khách khí )-chuộng hình thức bên ngoài, không thân mật, không thật lòng lúc đối xử với người khác.
-Mai khâu nguyệt lộ: trăng và sương ở gò mai,-tên một khúc đàn tưởng tượng.
-rổ may kim chỉ; vật dụng người con gái mang theo lúc về nhà chồng.
-câu 4407-4414: khúc Tây Thi,- tên một bản đờn trong nhạc cổ.
-Cô Tô: lâu đài do Ngô vương Phù Sai dựng lên để cùng Tây Thi yến ẩm hoan lạc. Sau khi phá tan nước Ngô, bắt Ngô Phù Sai, Việt Vương Câu Tiển đốt đài Cô Tô và bỏ Tây Thi vào rọ quăng xuống sông Tiền Đường.
-Cổ bản: tên một bản đờn trong nhạc cổ.
-câu 4423-4428: nhắc tên bản Chiêu Quân trong nhạc cổ. Nàng Vương Tường, tự Chiêu Quân, cung phi Hớn Nguơn Đế, vì mắc mưu Mao Diên Thọ phải đi cống Hồ. Tới Nhạn môn quan, nàng đờn hát khúc Quá quan (qua cửa ải).
Quá quan này khúc Chiêu Quân,
Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia.
(truyện Kiều – ND)
-câu 4430: nhắc tên bản Trường tương tư.
-Ngô Quận: Hai nàng Nga Hoàng và Nữ Anh là vợ vua Đế Thuấn. Vua Thuấn đi tuần du, chết ở quận Thương Ngô (cg: Ngô Quận), hai nàng ra bến sông Tương khóc than rồi nhảy xuống sông trầm mình.
-câu 4447-4448: tên bản đờn Nam Ai.
-câu 4450: bản Lưu thủy trường.
-câu 4464: bản Cao sơn.
-vùng hoặc vụt: (từ Nb): xảy ra nhanh chóng đột ngột.
-thiên lý tòng tâm: lẽ trời thuận theo lòng người.
-Đạo trời từ một: lấy ý trong câu Đạo đức kinh của Lão tử:“ Đạo sinh nhứt, nhứt sanh nhị, nhị sanh tam, tam sanh vạn vật” ( Đạo sanh ra có một, một sanh ra hai, hai sanh ra ba, ba sanh ra vạn vật muôn loài ).
-vãng lai: qua lại.
-điệp trùng: chồng xếp nhau nhiều lớp.
-chi li: nhiều chi tiết vụn vặt.
-qui hoàn: trở về chỗ cũ.
-ban sơ: lúc mới đầu.
Dạy con dạy thuở còn thơ,
Dạy vợ từ thuở ban sơ mới về.
(ca dao)
-Chơn tâm: tấm lòng ngay thẳng.
-nhạc luật: qui tắc, luật lệ của âm nhạc.
-hướng tâm: quay về tâm điểm, quay về lòng mình.
-ly tâm: từ trong hướng ra ngoài.
-nhập cảnh: hòa nhập vào cuộc sống, hòa nhập vào thế giới xung quanh.
-cơ nguyên: phần nguồn gốc, căn bản.
-hành tàng: (cn: xuất xử )-( hành: nhập cuộc, đi vào cuộc sống để làm bổn phận với đời người; tàng: che giấu, ẩn dật, không giúp đời nữa )
-lục dục: (Phật)- sáu ước muốn do lục trần nhập vào mỗi người qua lối của lục căn.
(lục trần: sáu thứ bụi bặm: sắc(màu sắc ), thanh (tiếng nói ), hương (mùi thơm), vị (cái ngọt, chua, cay, đắng, mặn mà lưỡi nếm được), xúc( cảm giác khi đụng chạm, rờ rẫm ), pháp (điều suy nghĩ )
lục căn: nhãn (mắt ), nhĩ (tai ), tỉ (mũi ), thiệt (lưỡi ), thân (cơ thể, thân xác ), ý (ý thức ).
-thất tình: bảy thứ tình cảm trong lòng người: hỉ (mừng), nộ (giận, ai (buồn ), lạc (vui ), ái (thương yêu ), ố (ghét ), cụ (sợ sệt)
-hôn ám bất minh: bị vật dục che khuất nên tâm trí không sáng suốt.
-nghiêm cẩn: có ý tứ, theo khuôn phép, chuẩn mực một cách đúng đắn.
-chìa vôi: loại chim cỡ trung bình ăn côn trùng, ức trắng, hót hay. Chìa vôi hót nhiều lần trong đêm vào lúc đầu canh, gọi là hót trở canh. Lúc gần sáng, chim hót một hồi dài để báo tan canh.
Chim chìa vôi bay ngang đám thuốc,
Cá bã trầu lội tuốt mương cau.
(ca dao Nb)

NhàQuê
13-11-2011, 01:56 AM
PHẦN KẾT THÚC

:


4527-Cõi trăm năm, giấc trần hoàn,
Dại khôn cũng núm đất vàng chon von.
Chết đi, hồn mất hay còn?
4530-Bước thời gian quạnh, lối mòn gò hoang.
4531-Mày râu nặng nợ sa tràng,
Trời nghiêng thước kiếm, biển loang máu kình.
Giương cao cờ nghĩa quên mình,
Chút thân bèo bọt, coi hình như không.
May còn, tóc trổ màu bông,
Phủi tay, giủ sạch bụi hồng bước đi.
Lợi danh danh lợi, ích gì.
Mão cao đai rộng trói chi hình hài.
Thoát vòng giành giựt mới hay,
4540-Sao sa chén rượu, trăng cài phên tranh.
4541-Giữ thân vẹn tiếng trọn lành,
Đời như sương đọng đầu cành ban mai.
Người khôn thông suốt tam tài,
Trở vô Trang Lão, ra ngoài Nho lâm,
Bao la mở đức từ tâm,
Rộng tay tha thứ mê lầm chúng sanh.
Thời nào cũng có hùng anh,
Đưa thuyền Tổ Quốc qua gành long đong
Khí thiêng sông núi Tiên Rồng
4550-Lắng vào nhịp thở chảy trong máu đào .
4551-Thơ thần văn thánh – Dám đâu
Sánh vai đối mặt trên lầu Ly Tao
Chong đèn, vấn thuốc, têm trầu,
4554-Nôm na mong giải chút sầu bạn lan


HẾT


Tác Giả: Huyền Hạc BÙI THANH KIÊN

NhàQuê
13-11-2011, 07:22 PM
http://i28.photobucket.com/albums/c238/trongbtran/BinhNgoDaiCao1-1.jpg


http://i28.photobucket.com/albums/c238/trongbtran/BinhNgoDaiCao4.jpg


http://i28.photobucket.com/albums/c238/trongbtran/BinhNgoDaiCao3A.jpg

NhàQuê
14-11-2011, 07:55 PM
THƠ ĐƯỜNG


Đi Ở Ẩn

Thôi nhé từ nay sống ẩn cư
Thưởng hoa đọc sách lúc nhàn hư
Khi buồn thăm viếng dăm thằng bạn
Ân oán từ đây quyết giã từ

Huyền Hạc, 1982


Mừng Bạn Như Anh

Ra Mắt Tập Thơ BẾNXƯA

Mừng thầm tri kỷ nhắn nhe sang
Bến ấm Ly Tao nước dẫy tràn
Xưa gió gác Đằng đưa vận hội
Nay dòng sông Mỹ kết kim lan
Trăng nghiêng sương quạnh chia bờ mộng
Sao rạng trời khuya tiễn tấc đàng
Sáng nhịp cầu duyên thi với phú
Tỏ niềm mơ ước xiết hân hoan

Chùa Sắc Tứ Linh Thứu
Tỉnh TiềnGiang, ngày 10-9-95

Huyền Hạc


Nhớ Cụ Cử Phan Văn Trị

Theo đòi cử nghiệp để mà chơi
Chẳng lụy công danh vẹn nghĩa người
Thép bút kinh hồn quân bán nước
Hồi chuông tỉnh mộng bọn mua cười
Tốt danh áo sá câu lành rách
Trọn đạo đời thây chuyện lỗ lời
Bơ sữa lợm mùi ngon mắm sống
Cao lương mỹ vị chớ mong mời

Kỷ niệm giỗ cụ Phan Văn Trị 22-6-95
do huyện GiồngTrôm tổ chức.
Sáng tác tại chỗ và đọc giao lưu thơ ca

Huyền Hạc

NhàQuê
15-11-2011, 09:20 PM
THƠ ĐƯỜNG


Buồn Tàn Thu

Tặng ThạchTrung, HắcSơn

Hơi may heo hắt tiết thu tàn
Úa sắc tre xơ xác lá vàng
Khóm trúc giao nhành con sẻ đậu
Cội tòng xanh lá giọt sương tan
Quản Ninh cắc chiếu lòng đau đớn
Tôn Tẫn nhìn chơn dạ ngỡ ngàng
Bèo nước sông hồ… đâu bến đậu!
Nơi nào! hay hạc mọn lang thang

Huyền Hạc, Thu 94


Nhiếc Đời

Đời sao nhiều đứa quá là gan!
Hơn cả đàn bà - thịt xẻ ngang **
Bốn đẳng đai đen, ghê chém lén
Năm châu trí rộng sợ phang càn
Chuột tanh dợm cẳng toan nồ hạc
Khỉ ướt bày mưu giận tím gan
Bóng nhỏ từng cao chim phụng lượn
Nép mình thấp thỏm dạ nào an


Huyền Hạc 11-2002


** Lấy ý câu văn chương bình dân:

"Đàn bà nghĩ lại quá gan
Thịt không để vậỵ xẻ ngang làm l..."



Gởi BẰNG GIANG TỬ **

Mấy độ sương sao vẫn cứ vui
Biển xanh dâu tốt lá còn tươi
Bóng tùng gió trúc trăng hiên tỏ
Rượu cúc trà sen bạn lứa chơi
Chuyện thế đổi dời coi chán mắt
Tình người ấm lạnh nghĩ mòn hơi
Một bầu trời đất trong vườn kiểng
Tỉnh tỉnh say say mặc chợ đời

Cung đàn nhịp phách để mà vui
Gối mỏi chồn lưng sắc vẫn tươi
Tùng biếc trúc xinh đêm nguyệt rạng
Rượu đầy điệu cũ bạn bè chơi
Đổi dời thế cuộc đà quen mắt
Nồng lạt nhân tình chẳng mỏi hơi
Mượn lấy tiếng tơ quên lãng hết
Bon chen chân giả kệ thây đời

Huyền Hạc 1994


** BẰNG GIANG TỬ tên thật là Nguyễn Văn Ngân
Quê Giồng Chùa, Thạnh Phú, BT. Chơi đàn giỏi (Bài dưới)
Trước tưởng đâu ông chỉ chơi kiểng (Bài Trên)


Vịnh Truyện CÕI MÂY

(Tặng tác giả Hắc Sơn, đồng điệu)

I - Đồ Cóc Rác


Họ cha bỏ đứt đổi thành Lê
Đội mão mang râu trút lớp hề
Giở thói lưu manh thơ bạn cuỗm
Bày trò ma mảnh chị dâu bê
Làng văn hình nộm toan vùng dậy
Biển thánh lòng tong muốn dựa kề
Cóc đớp sao trời đâu dễ đạt
Họ cha bỏ đứt đổi thành Lê



II –


Chồn ham danh cọp lết rồi lê
Nhứt điểm lương tâm, dạ chẳng hề
Bằng giấu trong rương, đà cướp giựt
Đồ chèn dưới bẹn cũng bưng bê
Nghề hèn đạo chích xua người lánh
Lưỡi ngọt lưu manh níu kẻ kề
Chẳng thấy đạt đâu trơ mặt mốc
Chồn ham danh cọp lết rồi lê


II – Tự Trách


Kẻ lầm Dái Ngựa ngỡ là Lê
Có mắt như đui - Quả thật hề!
Vị ngọt non cao trao “bạn ngọc”
Thịt dai heo nái tưởng đùi bê
Cháy nhà chuột lắc hang luồn trốn
Vỡ lẽ, dao phay cổ cận kề
Hảo hớn ra tay lành giải độc
Cứu thằng Dái Ngựa ngỡ là Lê


Huyền Hạc, SàiGòn 09-04-2002

NhàQuê
17-11-2011, 06:28 AM
THƠ ĐƯỜNG


Chửi Đời

Cõi thế nhiều con cũng lắm thằng
Bày trò ma mảnh chuyện làm ăn
Người hiền, gạt của chơi trò bợm
Nước đục buông câu, giở thói xằng
Vênh mặt Nho gia bàn chữ nghĩa
Lộ hình điếm đực trộm thơ văn
Này, ta chửi thẳng phường vô sỉ
Trộm cắp, mua xin cái mảnh bằng

Huyền Hạc, 11-2002


Con Voi Đất

Tặng Thạch Trung để họa
Tặng thợ thơ đạo chích

Quá hay! Lũ trẻ đắp con voi
Tính giá vàng ròng, đáng mấy thoi
Cánh bướm vàng, tai to tợ quạt
Đỉa trâu thun, mũi cuốn như vòi
Nhờ ngoe càng rạm, đi rồi đứng
Nhả bã bà trầu, liếc lại coi
Vênh váo tưởng mình voi thứ thiệt
Sượng sần cục đất sét mà thôi

Huyền Hạc 30-03-1996


Vịnh Hoạn Thư

Vườn mới ươm thêm một đóa hồng
Lửa tâm càng giập, thấy càng nồng
Chép kinh nguôi dục, tình chưa dứt
Ra cửa lầm mưu, nợ chửa xong
Cay ớt chua chanh, dày dạn mặt
Độc lời hiểm thói, trẻ trơ lòng
Lược gương đáng để mày râu khiếp
Xếp đặt trận đồ sánh Ngọa Long

Huyền Hạc, 1994 (13 Giêng âm lịch)

NhàQuê
18-11-2011, 05:33 AM
THƠ MỚI

http://1.bp.blogspot.com/_BikFt8eyeVY/Sb7ITjlurwI/AAAAAAAAABY/em_OiWPJK48/S269/NQ78YeuAoDai022.jpg


Nhớ Chiếc Áo Dài Xưa

(Tặng khách hành hương về nguồn)

Yêu em từ kiếp nào
Gặp em chừng lâu lắm
Nét tha thướt ấp ủ làn hơi ấm
Tà áo bay in đậm dấu thời gian
Gà gáy trưa, thôn cũ nắng tràn
Áo chẹt vá quàng - Giọng ầu ơ của mẹ
Gió thoảng lướt, nhịp võng trưa đưa nhẹ
Thế giới huyền mơ chợt ghé miên man
“Trầu lên nửa nọc trầu vàng
Thương cô áo chẹt, vá quàng nửa lưng”

Những mùa xuân tiếp nối những mùa xuân
Bước thơ ấu ngập ngừng hoa với mộng
Nẻo trước thênh thang – Dòng thời gian trải rộng
Cụm đất nghèo vắng bóng những niềm vui
Cuống rún lìa xa, tấc dạ bùi ngùi
Chiếc áo vá quàng, cuộc đời đen như đất
Cô thôn nữ mãi lũ lam đời chật vật
Tre sau nhà cao ngất đứng mỏi mòn
Đời xuôi mau - Người mất, áo chẳng còn
Bùn nước đọng, gót chân son là dĩ vãng

Tim rộn rã, muốn tâm tình trút cạn
Có người tìm cô bạn Gia Long
Cô gái trường áo tím ngày xưa
Trong nắng ấm má hồng
Giờ tóc dệt màu bông
Mà tà áo vẫn bình bồng trong tâm tưởng

Đã biết yêu mà hồn còn rất ngượng
Chiều hoài hương – Chân lạc hướng đất người
Nửa tháng cháo chợ cơm hàng –
Ròng rã đếm mưa rơi
Tay úp mặt – Ôm mảnh đời lưu lạc
Núi Ngự mờ sương – Dòng Hương trong vắt
Cầu Trường Tiền xa lắc sáu vại dài
Khói sóng hoàng hôn – Lòng chợt ấm chiều nay
E ấp nón bài thơ, thướt tha tà áo dài Đồng Khánh
Gót viễn xứ, chiều Cố Đô lành lạnh
Dạ nhuốm vui, khóe mắt rịn giọt sương
Gác trọ nghèo lóng gà gáy tha hương
Bóng nhòa nhạt hắt lên tường cô độc

Cuộc chinh chiến lê chuỗi ngày thảm khốc
Tình vù bay, cắt ngang dọc bạn, thù
Giữa trưa hè sụp bóng tối âm u
Lá lả tả dù ngày thu chưa tới
trời đất rộng bom cày đạn xới
Màu áo xưa bay vội đỉnh mây mù
Cấy đông ken đêm lạnh hoang vu
Nơm nớp sợ trận đổ dù, phục kích
Cô gái quê cầm lồng đèn, ôm tập sách
Lớp i tờ - Trường dừng vách lá chằm
Tai ngóng nghe đạn pháo réo gầm
Miệng lẳm nhẳm thì thầm bài mới học
Gọn trang phục, gọn chân tay đầu tóc
Có mơ gì cái hình vóc thướt tha
Bọc lụa nhung ngũ sắc của Hằng Nga
Chiếc áo dài là tinh hoa nét đẹp

Đã hết rồi hận thù và sắt thép
Nới rộng tay làm mà vẫn hẹp miếng ăn
Đời đương cần lưng thớt bắp tay săn
Thiên hạ nghĩ: “Đẹp đâu bằng có ích”
Quần chặm vá, mảnh áo thô nặng trịch
Dép kéo lê la thanh lịch đời người
Chóng qua rồi cái thập kỷ bảy tám mươi
Vũng nông hẹp, ta khóc cười lặn hụp
Xó bếp vắng, con chó già ẩn núp
Chường mặt ra sợ bị chụp, bị vồ
Cài chặt then, sợ ruồi muỗi bay vô
Gặm nhắm mãi khúc xương khô meo mốc
Cô giáo trẻ bước vào lớp học
Bận quần tây, áo cộc hở mông đùi
Chiếc áo dài ơi! Ta tiếc mãi khôn nguôi
Sống giữa đám mù đui nghệ thuật
Kẻ hiểu biết lặng câm – Mà nỗi lòng u uất
Người ngu si theo lốc trốt cuốn đi
Dạ, dạ, vâng lòng chẳng nghĩ suy
Dạ non nớt biết gì là nét đẹp

Óc hủ lậu, được một thời cũng đẹp
Bay xa rồi cảnh mắt khép tay che
Mở toang hoác cửa ra – Gió lộng tư bề
Bốn biển năm châu - Lối đi về muôn nẻo
Đã mười năm theo chân người lẻo đẻo
Nay rực rỡ hào quang thần diệu giống Tiên Rồng
Thổ Cẩm muôn màu, gấm Thái Tuấn, lụa Hà Đông
Đưa lên đỉnh chiếc áo dài của giống dòng Lạc Việt

Hải Chu 08-03-2002

NhàQuê
20-11-2011, 10:41 PM
THƠ LỤC BÁT


Bình Minh


Màu hoa chớm nắng đâu em
Đêm chưa tỉnh mộng – Còn mềm mắt thơ
Trong mê, chim bướm mơ hồ
Gió qua từ nẻo hư vô mới về
Đỉnh mù còn nuối mây che
Chưa vươn vai dậy gọi về nắng mai
Cành xanh lả ngọn còn say
Âm u còn đọng đường dài sũng mưa


Hải Chu, 1985


Dốc Mù Trước Mặt

(Tặng bạn đồng hành)

Con đò buồn nước trôi xuôi
Trăng nghiêng cây lệch, ngậm ngùi dáng mây
Sóng nhồi ươm mộng thuyền say
Ngày mai đã biết - Kiếp đày đọa thôi
Gác yên, ngựa luống bồi hồi
Giậm ngần ngại vó dốc đồi lãng du
Lạnh căm vách đá sương mù
U mê hiện tại – bay vù tương lai


Hải Chu, 1975


Về Quê

Ta đi như ngựa quên về
Chuồng xưa – Hơi lạnh còn tê tái sầu
Đêm dài sợ lắm chiêm bao
Đất quê, chắc cũng dạt dào dư âm
Chân dò lối cũ âm thầm
Sợ quên nẻo thuộc, sợ lầm đường đi
Phủ quanh mắt bụi đen sì
Mong manh áo mỏng - sống lì gió mưa

Hải Chu, cuối 1977

NhàQuê
23-11-2011, 03:52 AM
THƠ MỚI


Về Đây

Định mệnh chắc trao người bạc mệnh
Suy nghĩ buồn lo có được gì
Đất ruộng bạc màu, mùa mất trắng
Cao lương, rau rác trộn khoai mì

Về đây mọi thứ đều thay đổi
Tình cảm ngày xưa tắt lịm rồi
Đôi mắt xóm riềng xa lạ quá
Giường tre tay gối xót thân tôi

Đường dài trước mặt đầy mưa gió
Nền ẩm trùn giun đặc - Thở dài
Bầu bạn ngày xưa không đến nữa
Cỏ tràn thềm lạnh, giọt mưa bay

Bó gối đầu hiên manh chiếu vụn
Phì pha thuốc vấn, đợi trăng khuya
Áo cũ vá chồng năm bảy lớp
Cũng không ngăn nổi lạnh tư bề

Hải Chu, Quê nhà năm thất mùa, chạp 1978


Cuồng Ca I

Có người hỏi: Có muốn làm thi sĩ ?
Tôi khẽ lắc đầu: Tôi chẳng muốn mình điên!
Có người hỏi: Sao không làm thi sĩ ?
Tôi khẽ mỉm cười: Vì không thể nói chuyện điên

Vật lộn với áo cơm
Nửa mảnh đời oi nồng mùi cay nghiệt
Vồn vã bắt tay
Hay ngoảnh mặt đối đầu
Với người lạ quen không biết
Ao phù hoa lúc nhúc bọn vượn người
Muốn yên thân phải sống với đười ươi
Học tập lại cái khóc cười theo từng cảnh ngộ
Giả dối với mình lâu ngày đâm ra ngố
Sốt mê man trong dòng lũ loạn cuồng
Vứt tình người chẳng chút vấn vương
Đời là vậy - Người của phường sân khấu
Có thế có quyền, nên ông nên cậu
Áo vá chân trần – Hãy cất giấu mình đi
Ngước mắt trông - Bầu trời rộng xanh rì
Mừng vẫy gọi một vì sao xa lắc
Hạnh phúc đời người
Đâu giống con thuyền bỏ neo buộc chặt
Nhốt niềm vui trong chất ngất bốn tường vôi
Hãy ban phát cho tôi một cánh mây trời
Nguồn hạnh phúc là nơi chưa định trước
Sự hiểu biết là cái không nói được
Vườn địa đàng – Ôi! Vũng nước ao tù
Nét ngọc châu là màu nâu sạm da khô
Con thiêu thân chẳng có giờ ngơi nghỉ
Bổ cày giữa đường
Mãng nghe theo lời anh tiếng chị
Nhiều nắng mưa, thành chai đá vô tri
Ôi! Nhân luân cả khối chuyện vô nghì
Dòng nước đục mê ly cò giả trá
Làm thơ đâu phải uốn câu vừa miệng cá
Giọng quốc khàn ra rả tiếng kêu hè
Ta yêu người ít nói chỉ ngồi nghe
Biết đứng dậy ra về đúng lúc

Là thi sĩ phải lắng nghe lời thúc giục
Của tình ngườị nỗi uẩn khúc của con tim
Thấy xôn xao trong vũ trụ đà lắng chìm
Trong cổ mộ, nghe nỗi niềm của đá

Mực đã khô đôi tay giờ mệt lả
Nàng Ly Tao cũng rã cánh thiên thần
Hồn bay xa trong tám cõi phù vân
Đi xa lắm - Vượt mấy từng trái đất
Các thiên thể cùng Không - Thời hòa nhập
Trong vô biên của vũ trụ khôn cùng

Ngòi bút ta, ta không thể uốn cong
Ca ngợi lũ dế trùn
Bụng chướng to vì hút máu dân
Lũ chuột tham ô đêm ngày đục khoét
Thằng dân đen da xanh xao bệnh rét
Lục lọi tìm vơ vét sạch sành sanh

Hồn ta thâm, u sầu vời vợi xây thành
Có ai người sẳn khối óc tinh anh
Để thấu được điều ta muốn nói
Tay ôm ngực, nỗi đau lên vòi vọi
Biết bao giờ dừng lại những gian truân
Ngày đi xa, ánh sáng tắt lụi dần
Ta là hiện thân của niềm đau vô cớ đó
Linh hồn ta, ngôi nhà hoang bỏ ngỏ
Sợi đau thương gom bó lại mà thành
Đời phù du là tia khói mong manh
Nếu ta chỉ là cành chùm gởi
Thôi cứ nghĩ từ xa xôi ta tới
Sống vô tri như xác đợi người chôn
Túi đựng thịt xương, không ngự trị bởi linh hồn
Kể ta chết từ khi còn non dại

Kể như ta suốt một đời ăn hại
Như thằng câm ú ớ mãi chẳng nên lời
Cam sống mòn, thừa thải dưới mặt trời
Đầu thai xuống. trót đánh rơi ngòi bút
Lỡ mất trí đành lặng câm trong tủi nhục
Nhập cuộc đùa vui trong dòng đục tanh hôi
Ôi, giờ đây, ta thật sự chết rồi
Trên cây bút bẻ đôi, nằm co quắp

Ta đã chết vì cả đời chưa lần gặp
Lương tâm người với thân phận Con Người
Dưới mồ sâu ta tức tủi khôn nguôi
Môi cay đắng chưa thốt được lời cay đắng
Ôi vô vị một quãng đời dài dẳng
Mồm cuồng điên chưa nói trắng những điên cuồng
Đêm trăng đầy, tay ngửa hứng sương tuôn
Hồn thăm thẳm giữa muôn trùng nuối tiếc
Tiếc lúc sống đã làm câm giả điếc
Chuộng bình an - Dầu tha thiết với tình người

Thượng Đế ơi! Xin Người nhận lấy tôi
Ném địa ngục hay thiên đàng cũng được
Vì không muốn ăn ngang nói ngược
Kẻ vô liêm sỉ, lũ người láo xược
Giấu lưỡi gươm, lớp nhung mượt phủ chông gai

Néro ơi! Ta réo gọi Néron ơi!
Hãy đứng dậy đến gần nơi ta ngự
Đừng xấu hổ với miệng đời bia sử
Ta yêu người vì nghĩa cử kẻ mù lòa
Choàng giùm ta bọn thi sĩ một vòng hoa
Rồi tống cổ chúng ra xa thành phố
Tán tụng láo đáng muôn đời phỉ nhổ
Vần gấm hoa, thô lỗ tiếng cười điên

Hải Chu, 04-1979

NhàQuê
24-11-2011, 06:05 AM
THƠ LỤC BÁT


Nghe Đàn

Tàn cây xếp lá lim dim
Cơ hồ gió bụi lắng chìm vào xưa
Xa lìa cuốn rún ngày thơ
Nhớ sao tiếng gáy gà trưa quê nghèo
Trăng gầy bến cũ buông neo
Ngựa hoang tào cũ - Ruổi vèo thời gian
Ai buồn nắn điệu tơ đàn
Khói vương động cũ hoa vàng bơ vơ
Gục đầu mắt khép thờ ơ
Mưa ngâu ngọt giọng, mắt mờ tóc sương
Âm thừa đồng vọng đoạn trường
Chân chai đá nhọn, khiếp đường viễn chinh
Quyện sương lá thở líp mành
Nương song ly phụ ngóng vành trăng khô
Mắt hoen ngấn lệ nến mờ
Mùa xuân qua vội hững hờ hư không
Ta còn đây mớ tóc bồng
Gót gai đâm toạc bước hồng máu loang
Tiễn em về lối điêu tàn
Áo bao cát nặng, cơm chan tủi sầu
Phủ vàng cát bụi tóc râu
Lá theo gió cuốn thương sao mây trời
Dòng đời con nước cứ trôi
Trăm năm cát lở sông bồi, mặc ta

Hải Chu, 08-1979

NhàQuê
26-11-2011, 08:58 PM
THƠ ĐƯỜNG & THƠ ĐƯỜNG XƯỚNG HỌA


Quần Áo Anh Hề

Tặng Thạch Trung để xướng họa
Tặng thợ thơ đạo chích

Giày nón diện gì thấy phát ghê
Lôm côm bề bộn rõ ê hề!
Hở lưng, áo khỉ, đeo cà - vạt
Lòi nách, tay lông, diện gí – lê
Ốm nhách, ốm nhom, bày cốc - lết
Nhỏng nha, nhỏng nhảnh, vận xoa – rê
Rằn ri sặc sỡ, coi diêm dúa
Đúng thiệt xiêm y cái lão hề

Huyền Hạc, 30-03-1996


Con Lân Đá

Gởi Thạch Trung để xướng họa

Đẻo đá, tô chi giống quái kỳ
Trông ra nào giống cái chi chi!
Vãy rồng cậy được oai rơi rớt
Thân ngựa nhờ thêm sức đứng đi
Chẳng cánh lên trời, sao mỉa phụng
Không tài lướt dặm lại khinh qui
Đầu tà đít bổn, đồ lai giống
Một đống trơ trơ, cứ đứng ì

Huyền Hạc, 03-1996

NhàQuê
26-11-2011, 09:08 PM
THƠ LỤC BÁT


Lưu Đày

“Ôm mộng ảo, sống đời không có thật
Bao giờ ta yên nghỉ dưới mồ sâu”
Hải Chu


Thiêng liêng ngự giữa mây mù
Đẩy ta ra, tặng áo tù trăm năm
U mê giả tưởng ôm chầm
Hiện thân giọt nước rơi lầm bãi hoang
Bao nhiêu bùn bụi trần gian
Cố đeo bám riết để làm đục thân
Nổi trôi cõi tạm phù vân
Nghiệp duyên mỗi lúc lại dần nặng thêm
Gian truân xơ cứng tóc mềm
Lang thang lưu diễn hết đêm lại ngày
Kịch “Trò Đời” đã sẳn bày
Đổi vai thay lốt, chẳng nài hơn thua
Áo cơm đeo kiếp thầy chùa
Vụng tu oan tiếng cười đùa yêu tinh
Lên rừng sám hối cầu kinh
Mấy năm khổ hạnh, thay hình ngựa hoang
Roi da in dọc hằn ngang
Bơ vơ giữa bạn, họ hàng đất quê
Gục đầu tiếng nặng lời chê
Buồn riêng ai biết, bốn bề vắng tanh

Hải Chu, Cuối 1977

NhàQuê
26-11-2011, 09:11 PM
THƠ LỤC BÁT


Bãi Tha Ma

Mồ hoang sương lạnh ôm choàng
Cây bơ vơ đứng hai hàng đìu hiu
Thời gian ố sắc diễm kiều
Đợi đêm lên – Rộng muôn chiều không gian
Bóng đen cỏ tối lấn tràn
Mong manh sợi khói bia tàn lệch xiêu
Ai đi bỏ mộng một chiều
Dưới kia có thấy ít nhiều cô đơn


Hải Chu, 05-1996


Rời Chốn Thiên Đàng

Mây cao rớt hột không ngờ
Giữa đôi nơi cách bến bờ trăm năm
Giọt mưa mang kiếp phù trầm
Lăn theo dòng đục, cát lầm nhân gian
Rong chơi dưới ruộng trên ngàn
Dễ gì tìm dấu thiên đàng ngày xưa
Một đời quỉ dẫn ma đưa
Giấc mơ tiên vẫn lờ mờ chiêm bao


Hải Chu, 11-2000


Bao Giờ Trở Lại

Tặng những thằng bạn xa quê

Bao giờ trở lại hở em
Cuối mùa xuân rụng mùa sim trên ngàn
Đất người mòn gót đi hoang
Có nghe cô quạnh đêm ngàn trăng soi
Ồ em! Đâu biết lạc loài
Tai đương tưởng vọng hát bài hoan ca
Từ ta nâng tiễn quan hà
Tin hồng nằm chết đáy xa sóng cồn
Nằm khoèo ôm bóng trăng suông
Ta buồn mọt đục nửa hồn quạnh hiu


Hải Chu, 1980

NhàQuê
26-11-2011, 09:13 PM
THƠ LỤC BÁT


Thơ Gởi Chị

Kính gởi chị hai, người chị cực khổ với em nhiều nhất

Bơ vơ phố úa bóng chiều
Thơ cho chị gởi đìu hiu tháng ngày
Lăn cuồng một kiếp con quay
Tằm chưa hết kiếp đọa đày, chị ơi!
Đèn mờ bóng vách rã rời
Kim giờ tí tách giọt thời gian qua
Trở trăn, sang tóc bạc ra
Gió đùa bụi quét cho già kiếp trai
Mảnh đời khép lửng vòng tay
Gạo châu củi quế, ngày mai mịt mờ
Gù lưng đạp chiếc xe rơ
Lửa tay thuốc lá đêm quờ quạng đêm
Mùi hôi rác bốc trước thềm
Chậu thau hứng nước mưa đêm lại ngày
Áo cơm đeo thẹo luôn tay
Quên đi tên tuổi, mệt nhoài tâm tư
Ở đây hàng xóm thờ ơ
Người quen kẻ lạ hững hờ đi qua


Hải Chu, SàiGòn 07-1996

NhàQuê
26-11-2011, 09:15 PM
THƠ ĐƯỜNG & THƠ ĐƯỜNG XƯỚNG HỌA

Hỏi Trời

“Ta sinh lầm kiếp người
Trời muốn hay không muốn
- Ồ! Ta lỡ đánh rơi
Loài cỏ hoang xuống ruộng”

Hải Chu

Sanh lầm thế kỷ lại lầm nơi
Bó gối ngồi chơi cả cuộc đời
Con nước xuôi dòng, con nước dẫy
Cánh bèo, mắc gió, cánh bèo trôi
Thế cờ mất pháo sa tay mất,
Canh bạc rồi đêm, sạch túi rồi
Thân mọn như tôi, trời cũng ghét
Giận gì ? Ta chỉ cợt đùa thôi

Huyền Hạc, 25-05-2003

NhàQuê
28-11-2011, 06:26 AM
THƠ LỤC BÁT


Tặng CÙ VẤN THIÊN

Không người chuốt rượu để say
Ngoài em, còn có một ai trong đời
Đường trăng cứ mãi rong chơi
Tai đâu nghe được một lời dịu êm
Mai nầy, ngừng máu giữa tim
Ta, em cứ nghĩ cánh chim gãy rồi
Mình em đi biển mồ côi
Buồm xô gió lộng, mịt trời bão giông
Thương gì không? Nhớ gì không?
Thương em lận đận bụi hồng như ta

Hải Chu, 04-1994

NhàQuê
01-12-2011, 07:57 AM
THƠ MỚI


Vô Đề

Cây da đứng một mình
Bến đò xưa mất dạng
Dòng thời gian lặng thinh
Lấy ai làm bầu bạn

Thời gian không biến dịch
Nhịp đời không vắn dài
Mà sao hồn u tịch
Thấy đời khổ gắp hai

Đêm qua buồn quán khách
Nước mắt hòa men cay
Lăn lộn đời hết cách
Mà vẫn trắng đôi tay

Mềm môi câu thế sự
Nát lòng chuyện rủi may
Gót sông hồ xa xứ
Kéo lê kiếp lưu đày

Bàn chân còn chưa biết
Đưa mình đi về đâu
Đời hư, ta không tiếc
Sao hồn vẩn vơ sầu

Ơi! đời là gì vậy?
Chỉ một tuồng biển dâu
Thôi xem như khách trọ
Tóc xanh sớm bạc màu

Bóng quê – Vùng tuổi nhỏ
Hương thơ ấu trăng xưa
Mà ngỡ như đất lạ
Người qua dáng hững hờ

Hoa bướm thời bé dại
Cõi mơ giấc địa đàng
Qua rồi đâu trở lại
Héo úa như lá vàng

Mỗi nỗi buồn ghi dấu
Bằng giọt nước đêm trường
Mong tan trong hớp rượu
Bay hơi theo thời gian

Khói thuốc đan tay vàng
Bùn dơ tràn ngõ tối
Đèn mù bước dọc ngang
Chân bết bê cát bụi

Tình người đã khô cằn
Vô tư viên đá sỏi
Huênh hoang chuyện nghĩa nhân
Dầu lửa tim tàn lụi

Tiếng hát đà im bặt
Chẳng lưu một dư âm
Giờ tiếng chì tiếng bấc
Hãy thin thít lặng câm

Tìm rượu ta quờ tay
Còn rượu đâu để say
Thôi kê tay làm gối
Nỗi phiền muộn còn dài

Lạy trời mưa thêm nhiều
Ru buồn thêm trắng tóc
Hòn đá cuội thêm rêu
Cho đời bớt cô độc

Hải Chu,
Phú Hưng, Quê Nhà Năm 1979 Thất Mùa

NhàQuê
04-12-2011, 08:43 AM
THƠ ĐƯỜNG & THƠ ĐƯỜNG XƯỚNG HỌA


Xướng: Hai Gã Khù Khờ

Đá núi ngu mà hạc cũng ngu
Ân giao cốt cách, mắt như mù
Còng lưng những tưởng lòng trong vắt
Nạo óc đâu hay dạ tối hù
Độn thổ lòi đuôi loài đạo tặc
Đầu giang rõ mặt đứa phàm phu
Ngay lòng thiệt bụng sa hang cáo
Đá núi ngu mà hạc cũng ngu

Thạch Trung


Họa: Hai Lão Già Mù

Mang tiếng to đầu trót lỡ ngu
Lão đui cầm gậy dắt thằng mù
Sửa câu chọn chữ từ trưa xế
Thêm ý bình văn tới tối hù
Quẹt mỏ bỏ ơn, quên tín nghĩa
Vỗ đùi khỏi lỗ, phủi công phu
Cầm cu chó đái, sao không thẹn!
“Chữ nghĩa học trò”, rõ thật ngu

Huyền Hạc, 24-03-1996

NhàQuê
05-12-2011, 05:48 AM
THƠ MỚI


Con Nước Xa Bờ

Hạnh phúc đời người đà xa cành lìa cội
Bút nghiên xưa lưu vụng dại chút dư hương
Con thiêu thân theo dòng trôi nước lũ
Đêm vui xa nghe sóng cuốn ngoài khơi


Vầng sáng trên cao mây mù ngụ đặc
Thoáng đâu đây âm hưởng một trầm tư
Một vạn năm sau trời cao xanh còn điếc ngắt
Kêu van gì cảnh xếp đặt tự ngàn xưa


Bốn bức tường vây quanh vây hãm người vào ngõ cụt
Đêm hoang vu heo hắt lạnh sao khuya
Bước chân trần cô độc nẻo đi về
Ném thân phận vào rủi may không cần biết


Thật như đếm thì cả đời cam thua thiệt
Thằng đâm heo…, đừng tiếc một nhát dao
Ta chết đi, chẳng một tiếng kêu gào
Nỗi thống khổ ta đem vào đầy huyệt


Kiếp thừa thãi, ta nào luyến tiếc
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .


Huyền Hạc, 1979

NhàQuê
07-12-2011, 06:08 AM
THƠ LỤC BÁT


Bài Ca Độc Hành

“Nhập Thế Cô Thân Thiên Lý Mã”
(Thơ cổ)

Óc tàn chia vụn tâm tư
Mây trôi theo gió đau nhừ con quay
Tịt mù nẻo tới tương lai
Đàn cừu Panurge miệt mài xác thân
Ngục tù vướng mắc ống chân
Muốn siêu thoát cõi mê trần được sao
Mưa buồn giọt đọng sầu đâu
Chân hoen cát bụi, mái đầu sương chan
Sông sâu vắng bóng đò ngàng
Bến xưa chiều muộn rủ tàn cây da
Nét gầy lệch bóng trăng sa
Trông em vàng võ, thương tà áo xưa
Khóm mai gầy, mỏi vó lừa
Trăng hoàng hôn nuối, đêm vừa lên ngôi


Hải Chu, quê nhà Phú Hưng, những ngày buồn 1979

NhàQuê
08-12-2011, 06:08 AM
THƠ ĐƯỜNG & THƠ ĐƯỜNG XƯỚNG HỌA


Xướng: Chùm Gởi

Vít đốc gật gù ngự ngọn sao
Váo vênh liếc mắt chỉ mình tao
Thân nhờ đặc gật hoa, kiêu hãnh
Kiếp gởi xanh um lá, tự hào
Nhựa hút huênh hoang chê cội thấp
Cành đeo, xấc xược ngỡ mình cao
Ừ xem vút vắc chừng bao thuở
Cây chủ rời xa, sống được nào

Thạch Trung


Họa: Chùm Gởi Trả Lời

Sống nhờ thằng ngốc, có làm sao
Dõ mỏ vô chi chuyện của tao!
Khỏi động móng tay, người tán thưởng
Cũng dư nguồn nhựa, kẻ hô hào
Gốc thêm vẻ đẹp, ta càng đẹp
Cây vượt tầng cao, tớ cũng cao
Cố bám cố đeo mà rút rỉa
Lá tươi mơn mởn, sướng không nào

Huyền Hạc, 24-03-1996

NhàQuê
09-12-2011, 09:00 PM
THƠ LỤC BÁT


Quên

Thân ái gởi Cù Vấn Thiên

Buồn vương ngất đỉnh mây xa
Nhớ em ngày vội vã nhòa phấn hương
Áo về còn đọng bụi đường
Thăm nhau, ta đội mù sương hoa đèn
Lạnh lùng kẻ chợ người quen
Quén vun nấm độc, cỏ hèn mọc lên
Cao vời mây ngự bên trên
Kể chi cay đắng, hãy quên cuộc đời

Hải Chu, 03-1996

NhàQuê
11-12-2011, 09:29 PM
THƠ ĐƯỜNG & THƠ ĐƯỜNG XƯỚNG HỌA


Đầu Năm Khai Bút

Thơm tho bán hạ, ngất ngây xuân
Khai bút - ừ, “khai” - cốt đủ vần
Ý thánh cao siêu, ăn cậy miệng
Câu thần trác tuyệt, đứng nhờ chân
Rừng sâu hí hửng mai** đi guốc
Hang tối xênh xang, cóc diện quần
Đắc ý vinh râu, thơ thách họa
Thi lâm đâu sá cái trò “truân”

Tú Phang

** Mai : khỉ


Đầu Năm Khai Bút

Bút khai chuột chết cũng mừng Xuân
Mách qué nôm na ghép lựa vần
Thực luận chẳng ra trò thực luận
Chân đầu nào biết luật đầu chân
Nhái sùi đùn bọt kêu om giếng
Thầy sướng sần da, bận trái quần
Lên giọng thầy đời, nghe phát ghét
Mùi đâu khăm khẳm cái “quèo truân

Huyền Hạc, 03-1996


Mừng Lão Thợ Thơ

Bảy mươi tuổi vẫn rộn lòng xuân
Mở hũ văn chương ghép lựa vần
Rặn mãi phờ râu tìm đối chữ
Ngồi lì đứng buổi xót tê chân
Mãng ham danh hão toe mồm chó
Lỡ lạc đường mê, tét ống quần
Lá mít, lá đa bày mấy đống
Trâu già chi nệ bước gian truân

Huyền Hạc, 03-1996

NhàQuê
23-12-2011, 06:00 AM
THƠ MỚI


Dòng Sông Điên

( “Ít nhất trong người có một chút điên
mới có thể hiểu cái điên của người khác” )


CLAUDE BERNARD


Dòng sông điên miên man
Sụp toang vườn địa đàng
Cuồng quay cơn trốt lốc
Mờ mịt dặm tà dương

Hư vô là tiếng gọi
Sa mạc chận giữa đàng
Một mình ta – Viên sỏi
Rêu dầy dấu thời gian

Mấy chốc! Đời phi lý
Lối mù vắng ánh đèn
Ngăn nẻo về, vực thẩm
Đi trốn mắt thân quen

Ngày nao, ba tiếng khóc
Oa oa vẫy chào đời
Tơ xanh pha sương đục
Tay gầy sẽ buông xuôi

Nụ cười nhoẻn khóe môi
Che tiếng nấc bùi ngùi
Lăn quay theo dòng lũ
Đơn độc lệ trôi xuôi

Ôi dòng sông tuổi nhỏ
Bé bỏng quê con đò
Cội mai xưa còn đó
Giờ bơ vơ – Bơ vơ

Hải Chu

KIỀN ĐỨC -TRƯƠNG THẾ CÔNG
23-12-2011, 07:27 AM
THƠ ĐƯỜNG & THƠ ĐƯỜNG XƯỚNG HỌA


Xướng: Hai Gã Khù Khờ

Đá núi ngu mà hạc cũng ngu
Ân giao cốt cách, mắt như mù
Còng lưng những tưởng lòng trong vắt
Nạo óc đâu hay dạ tối hù
Độn thổ lòi đuôi loài đạo tặc
Đầu giang rõ mặt đứa phàm phu
Ngay lòng thiệt bụng sa hang cáo
Đá núi ngu mà hạc cũng ngu

Thạch Trung


Họa: CẦM ... CHÓ ĐÁI


Cay đắng làm gì, tự mắng ngu
Đời nay lắm cảnh sáng nên mù:
Giỏi khôn mà chịu nghe mắng chửi,
Ngu dốt lại to tiếng dọa hù.
Đau đớn cao nhân thành ẩn sĩ,
Vênh vang hạ tiện với phàm phu.
Hổ lạc bình nguyên cầm ... chó đái,
Cay đắng làm gì, tự mắng ngu?!

Kiền Đức Trương Thế Công

NhàQuê
06-01-2012, 07:47 AM
Cám ơn bạn ghé qua họa thơ




THƠ LỤC BÁT


Hơn Nửa Đời Điên

Nửa đời mang tiếng đại ngu
Nửa đời khép chặt ngục tù u mê
Gió đâu! Gọi mãi không về
Thổi tan đi bóng tối đè thân ta

Hải Chu, Mõ Cày 1993


Đến Rồi Đi

“Ý người sóng nổi mây trôi
Nẻo xa lại đến, đến rồi lại đi”
(Phạm Thiên Thư)

Vọng về từ cõi xa xăm
Vô duyên hạt bụi rớt nhầm hỗn hoang
Hồn say còn nuối thiên đàng
Hóa thân duyên kiếp theo đàn giả chân
Lăn mình trong cõi phù vân
Chân mù lối ảo ngại ngần bến mê
Quên vườn quỳnh nẻo đi về
Mong manh sợi khói tiếng thề trăng sương
Vươn tay ôm bóng vô thường
Gối tay – Hư ảnh ngủ giường bèo mây
Nằm nhờ quán gió đêm nay
Ngựa quen cỏ lạ rồi mai đăng trình
Gót thầm ngỏ cụt lặng thinh
Áo cơm đổi sắc tóc xanh ngày nào
Nhập nhằng giả thật chiêm bao
Hoàng hôn mòn mỏi xanh xao ráng chiều
Mặt trời mất sáng tịch liêu
Rong rêu chìm giữa ngọn triều phù sinh

Hải Chu, 03-2002

NhàQuê
13-01-2012, 07:52 AM
THƠ ĐƯỜNG & THƠ ĐƯỜNG XƯỚNG HỌA


Không Đề

(Bài thơ có thể đọc thuận nghịch)

Buôn bán phải đâu nơi phố hè
Chật đông qua lại nghẽn người xe
Run run bé lạc lề chen quán
Loạng choạng già xiêu gậy đá ve
Buồn thấy khách tham quan ngỡ ngỡ
Chán nhìn người chiếm lộ te te
Luôn làm đẹp rạng ngời thành phố
Xuân đón chào thanh sạch bạn nghe

Thạch Trung


Bài Họa

1

Gồng gánh bán buôn chốn phố hè,
Nép lề chèn nhét nghẹt người xe
Vun đầy mặt lộ giày chen dép
Ních chật lòng lề lọ với ve
Phồng má chuốt trau lời ngọt lịm
Thấy người bưng hốt chạy te te
Đồng tiền để cực thân cho lắm
Mong mãi trống đường có chịu nghe

2

Thành thị dạo chơi gắt nắng hè
Mát trời giong ruổi những người xe
Xanh cây mát gió vờn hoa lá
Mướt sắc cao cành rộn tiếng ve
Giành lối rú ga lao vút vút
Chớp đèn qua trạm vượt te te
Thanh bình phố chợ dân cư lịch
Xanh ngọc bích lừng nổi tiếng nghe

Hải Chu, 20-01-1994

NhàQuê
13-02-2012, 08:03 AM
THƠ MỚI


Bóng Nắng Chiều Hôm

Tay bỡ ngỡ đan cài làn tóc rối,
Gió qua cành, nghe nhịp nối bước thời gian.
Ngày vô duyên để nắng tắt vội vàng
Đêm khép lại giữa muôn vàn cô độc
Sương chẳng lạnh mà nghe sần gai ốc,
Cây lặng yên mà xoáy lốc quanh mình.
Ta cuối đầu, mắt khép lặng thinh,
Cố chờ đợi một bóng hình không hẹn đến.
Đêm đen rộng tưởng chừng không bờ bến
Bước mù lòa không ngọn nến soi đường
Bao người qua giẫm nát cỏ sũng sương
Ta vẫn thấy canh trường ta thui thủi
Mở tráo mắt bước xiên rừng bụi
Lẽ nào đây lần cuối ta đi
Đạn bom bay át tiếng gió thầm thì
Hỏa châu rọi cõi đen sì địa ngục
Mài sừng nhọn để gầm đầu hút
Điên tiết lên, quyết hạ gục lẫn nhau
Huy chương vàng long lánh giọt máu đào
Kẻ chiến thắng buông câu chờ hưởng lợi
Ngưng cuộc chiến, ngày non chờ nước đợi
Lòng buồn thiu vời vợi đỉnh mây xa
Những chàng trai thuở trước xa nhà,
Chẳng trở lại bên tách trà đoàn tụ
Chân mệt mỏi lê bước dài ủ rũ
Đời đang đen giữa muôn thú làm người
Ta tiếc đời, tiếc đến chín mười mươi
Sinh lầm kiếp đười ươi dân nhược tiểu
Có lúc nào dân mình chợt hiểu
Trò ranh ma bẩn thỉu bọn cuồng điên
Cái lạnh lùi xa, lòng sẽ ấm mọi miền
Bỏ thù hận - để nối liền sông núi

Hải Chu, Chương Thiện 01-69

NhàQuê
22-02-2012, 08:26 PM
THƠ ĐƯỜNG & THƠ ĐƯỜNG XƯỚNG HỌA


Đôi Cu

Trên tàu dừa ấy có đôi cu
Dưới ánh bình minh rủ rỉ gù ...!
Trống ọi mồi ra kề mỏ đút
Mái chồm ngực tới ghé mồm thu
Y liền nằm xuống phơi phơi đít
Hắn vội nhảy lên đánh đánh đu ...
Rồi rỉa lông nhau âu yếm quá!
Nắng vàng rạo rực, gió vi vu ...

Bạch Hạt


Đôi Cu

Cảnh buồn khéo vẽ chuyện chim cu
Con trống xù lông, cổ gật gù
Ong mật vòi xe buồng phấn nhị
Vành khuyên má ửng sắc mây thu
Khe sâu nước rỉ, choàng lưng ấp
Mô thấp rêu mòn, trải cánh đu
Bờ lá lao xao, mi chẳng chớp
Mơ màng tai thoảng gió vi vu.

Huyền Hạc, 08-1990


Phản Đối Tôi

Vợ nhà phản đối tôi chơi thơ
Rằng: chuyện mất công, chuyện vẩn vơ
Lép nhép lâm râm hình quẩn trí
Lờ đờ lững đững dáng bơ phờ
Mơ mơ tưởng tưởng quên ăn ngủ
Viết viết bôi bôi bỏ giấc giờ…!
Tiền gạo đủ đầy đời sống khỏe
Văn chương ọp ẹp, đói nghèo xơ.

Bạch Hạt


Một Phút Tâm Tình

Thơ thẩn vào ra, thẩn với thơ
Nửa đời ngang trái chuyện vu vơ
Canh chầy gối mộng, hình khô héo
Biển thẳm cồn dâu, tóc bạc phờ
Lộn mối tơ vương tằm mấy kiếp
Đè mây gió lộng, chuyện bao giờ
Giận đời bạc bẽo, trò ăn mít
Múi nuốt, hột lùi, chẳng ngó xơ.


Huyền Hạc, 08-1990

NhàQuê
01-03-2012, 08:45 PM
THƠ ĐƯỜNG & THƠ ĐƯỜNG XƯỚNG HỌA



Xuân Hy Vọng

Chào đón “Mai đồng” thay thế Kha
Ngàn mai lộng lẫy, rợp rừng hoa
Thương trường tấp nập, tăng hàng hóa
Công nghiệp rộn ràng sản phẩm ra.
Pháo nổ rượu nồng người phấn khởi!
Cờ bay điện sáng cảnh chan hòa.
Năm nay chuẩn bị sang năm tới,
Âu Á cộng đồng thịnh nước ta.

Bá Trung, Xuân Giáp Tuất


Theo vận “Xuân Hy Vọng”

Bèo bọt phù sinh kiếp lạng kha
Ham chi vật chất chốn phồn hoa ?
Tình vờ ngao ngán tìm phương lánh
Nghĩa giả chán chường kiếm nẻo ra
Cây đá anh em chơn tánh vẹn,
Cá chim bầu bạn phác tâm hòa
Hơn thua phó mặc theo dòng nước
Danh lợi không màng, bạn biết ta.

Thạch Trung, mồng Năm Tháng Giêng Giáp Tuất


I- Mừng Xuân

Giấc bướm mơ màng mộng bách kha
Pháo đâu nổ rộn giục ngàn hoa
Mới hay Trừ Tịch đêm nay tới
Nào biết Giao Thừa lát nữa ra
Hoa gấm lân đi kình ngạc lặn
Nước non phụng gáy nghĩa nhơn hòa
Chơn thành chúc phước mùa xuân đến
Thắm đượm tình nhau bạn với ta.

Huyền Hạc, 1994


II- Đáp Thạch Trung

Hồn Trang hóa bướm giấc Nam Kha
Có nghĩa gì đâu gió giỡn hoa
Lặn hụp ao tù không lối trốn
Giày vò chuyện tục chẳng đường ra
Cội tùng rêu mốc chơn Huỳnh Thạch
Cụm đá trăng in sáo Thể Hòa
Khương Tử bảy mươi đeo ấn soái
Lẽ nào vận bỉ bạn cùng ta

Huyền Hạc, 1994

NhàQuê
16-03-2012, 05:22 AM
THƠ ĐƯỜNG

Về Thăm Trường Cũ

Màn mây đổi sắc nắng rồi mưa
Bụi lấp thời gian nét mực mờ
Chân bước ngậm ngùi đường lối cũ
Lòng nghe vắng ngắt bướm hoa xưa
Lạnh lùng sương khói mây trời thảm
Hờ hững tàn cây giọt nước lưa
Bèo giạt sóng đùa tan với hợp
Trăng tròn rồi khuyết tự ngàn xưa

Hải Chu, 1982-Lần trở về đầu tiên sau 1975

NhàQuê
16-03-2012, 05:29 AM
THƠ ĐƯỜNG & THƠ ĐƯỜNG XƯỚNG HỌA


Hoa Tàn

Chớm nở vội vàng úa rủ luôn
Lời ai thổn thức nỉ non buồn
Ái ân lạt lẽo lơi chân bước
Tình nghĩa mỏng manh mỏi cánh chuồn
Nát ngọc phai hương vì đắm đuối
Chìm châu vữa nhụy bởi mê cuồng
Đời hoa tan tác trong mưa gió
Huyền ảo trăng mờ suối lệ tuôn

Anh Tài (Lê Dân)


Ảo Ảnh

Ngớ ngẩn vì sao quá lẳng lơ
Phấn son biếng vẽ vẻ thờ ơ
Gượng cười khôn giấu niềm u ẩn
Đi đứng chán chường dáng ngẩn ngơ
Ai khiến trầm tư theo lối mộng
Ai xui mặc tưởng đến trời mơ
Đam mê tài sắc quên duyên phận
Tũi mảnh hồng nhan cứ sững sờ

Anh Tài (Lê Dân)


Họa Bài: Hoa Tàn

Bước không bén đất vội vàng luôn
Trán đẫm mồ hôi nặng kiếp buồn
Rượu cốt dương nồng co cẳng vọt
Trà hương còn đậm lẹ chân chuồn
Cơm ăn áo bận lo đà đuối
Túi trống tiền lưng chạy phát cuồng
Tri kỷ xin thương mười bỏ chín
Đêm tàn tim lụn tóc sương tuôn

Huyền Hạc, 1993 (20 Giêng Quý Dậu)

NhàQuê
11-07-2012, 05:24 AM
THƠ MỚI


Hư Ảo

Ôi ! Xác bướm theo dòng mong cỡi sóng
Vươn vai lên mơ biển rộng trời cao
Vọng tưởng hư không một sớm đẹp nắng đào
Xây cao ốc trên sóng gào cát bỏng

Ngỡ tay vẫy là ầm ầm sấm động
Bước vào đời, đất trải rộng thênh thang
Nhưng em ơi ! Đời đâu phải thiên đàng
Mà em cứ miên man lầm lũi tới

Bầu trời thẳm cao xanh vời vợi
Ốc đảo xa ngoài tầm với đôi tay
Em đang mơ hạnh phúc ngày mai
Bụi bám mặt lớp dầy, trời nắng gắt

Mồm đựng cát, lưỡi em khô đặc
Tiếng thì thào, từng quảng ngắt mòn hơi
Tai em nghe tiếng vọng xa xôi
Lòng em tưởng một trời hạnh phúc

Con cò béo nhờ sống dòng nước đục
Em chỉ là con cá chốt nhỏ nhoi
Quẳng xa đi cái thú chơi chòi
Thuở bé dại mong bà tiên hiện đến

Hãy nhìn thẳng đâu là bờ bến
Mới thấy mình như ngọn nến canh khuya
Bóng tối thâm u trùm phủ bốn bề
Em tỉnh giấc, tìm lối về quá muộn

Hải Chu