PDA

Xem phiên bản đầy đủ : 汉语 - 梁南昌



TRẦN THỊ THANH LIÊM
31-01-2012, 10:40 AM
汉语 - 梁南昌

汉语永芳传,
孔道万古鲜。
赤心忠品发,
熊胆智勇坚。

人生深有道,
世哲广无边。
若培高资质,
汉语应在先。

HÁN NGỮ

Hán ngữ vĩnh phương truyền,
Khổng Đạo vạn cổ tiên.
Xích tâm trung phẩm phát,
Hùng đờm trí dũng kiên.

Nhân sinh thâm hữu đạo,
Thế triết quảng vô biên.
Nhược bồi cao tư chất,
Hán ngữ ứng tại tiên.

Tác giả LƯƠNG NAM XƯƠNG

TIẾNG HÁN

Tiếng Hán mãi mãi sáng tươi,
Tiếng thơm đạo Khổng muôn đời chẳng phai.
Lòng son trung thực miệt mài,
Gan hùng anh dũng trí tài bền kiên.

Lẽ sống đạo lý thánh hiền,
Hàm triết sâu rộng thiên niên, muôn thời.
Trau dồi tư cách ở đời,
Học tiếng Hán để thấu lời cổ nhân.

Trần Thị Thanh Liêm dịch

TRẦN THỊ THANH LIÊM
28-04-2012, 06:30 PM
Thơ Lê Xuân Khải

登山松文齋
登入文齋俗念平
笑容可掬主身迎
斑鳩鳴卻繁華鬧
宛若林泉景致生

Dịch nghiã:
Lên phòng sách của Sơn Tùng
Bước vào phòng văn vơi hẳn nghĩ ngợi
Nụ cười hái được chủ thân đón
Tiếng chim gáy làm quên phồn hoa náo nhiệt
Tựa như nơi này là cảnh lâm tuyền
1995

Phiên âm:
Đăng sơn Tùng văn trai
Đăng nhập văn trai tục niệm bình
Tiếu dung khả cúc chủ thân nghinh
Ban cưu minh khước phồn hoa náo
Uyển nhược lâm tuyền cảnh trí sinh

Dịch Thơ:
Lên tới phòng văn nghĩ ngợi vơi
Nụ cười hái được chủ thân mời
Tiếng chim gáy giữa bao ồn ã
Lại ngỡ đây nơi cảnh núi đồi

Lê Xuân Khải dịch

TRẦN THỊ THANH LIÊM
16-05-2012, 11:02 AM
你永远装在我心头

阿妹若是一棵大青树,
我就变成彩云绕枝头。
阿妹若是一汪清泉,
我就变成鱼儿水中游。
阿妹若是一棵金竹,
我就取来作笛不离口。
阿妹若是一只甜菠萝,
我就取来酿成喜酒。
勤劳美丽的姑娘啊!
你永远装在我心头。
不管你变成什么?
我都要把你追求。

Dân ca Trung Quốc

MÃI MÃI BÊN EM
.
Nếu em là tán cây xanh,
Anh thành mây biếc lượn quanh bềnh bồng.
Nếu em là suối nước trong,
Anh làm cá lội cho lòng xốn xang.
Nếu em là cây trúc vàng,
Anh làm sáo để hồn nàng đắm say.
Nếu em là dứa chín cây,
Anh hái ủ rượu đợi ngày sánh đôi.
Hỡi em đẹp nết đẹp người,
Trong tim anh đó, trọn đời có em.
Em là gì cũng đừng quên,
Hồn anh mãi mãi theo liền bên em.
.
Trần Thị Thanh Liêm (dịch)

Lương Nam Xương
08-07-2012, 07:28 PM
四喜

久干逢甘雨
他鄉遇故知
洞房花燭夜
金榜挂名時

TỨ HỈ
Khuyết danh
Cửu can phùng cam vũ
Tha hương ngộ cố chi
Động phòng hoa chúc dạ
Kim bảng quải danh thì

TỨ HỈ
Nắng lâu trời đổ cơn mưa
Quê người bạn cũ chuyện xưa dài dòng
Mừng đêm hoa chúc động phòng
Gì bằng khi thấy bảng vàng ghi tên
(Lương Nam Xương dịch)

BỐN NIỀN VUI
Nắng lâu được đón mưa rào
Xa quê gặp bạn thuở nào thủy chung.
Gì bằng đêm cưới động phòng
Vui nào xem bảng được trông tên mình.
(Đào Phong Lưu dịch)

早秋山中作
王維
無才不敢累明時,
思向東谿守故籬。
豈厭尚平婚嫁早,
卻嫌陶令去官遲。
草間蛩響臨秋急,
山裡蟬聲薄暮悲。
寂寞柴門人不到,
空林獨與白雲期。

Tảo thu sơn trung tác
Vương Duy
Vô tài bất cảm lụy minh thì,
Tư hướng Đông Khê thủ cố li.
Khởi yếm Thượng Bình hôn giá tảo, (1)
Khước hiềm Đào Lịnh khứ quan trì. (2)
Thảo gian cung hưởng lâm thu cấp,
Sơn lý thiền thanh bạc mộ bi.
Tịch mịch sài môn nhân bất đáo,
Không lâm độc dữ bạch vân kỳ.

Dịch nghĩa:
Cảm tác trong núi sáng mùa thu
Mình bất tài không dám phiền lụy thời thịnh trị
Muốn về đất Đông Khê để giữ bờ dậu cũ
Đâu dám chán đời, cưới gả con sớm như Thượng Bình
Lại chê mình cáo quan về muộn so với Đào Tiềm
Trong cỏ có tiếng dế kêu, mùa thu mau đến
Trong núi có tiếng dế kêu trong chiều tối buồn
Cổng tre tĩnh mịch không người đên
Một mình trong rừng vắng kết bạn cùng mây trắng

Chú thích:
(1) Thượng Bình là Thượng Tử Trường sớm lo dựng vợ gả chồng cho con để đi du ngoạn.
(2) Đào Lệnh tức Đào Tiềm nhà Tấn làm huyện Lệnh Bành Trạch coi nhẹ

Dịch thơ:
Kém tài, đời thịnh, chẳng đòi hơn
Về đất Đông Khê giữ giậu vườn
Nào sánh Thượng Bình con cưới sớm
Đâu bì Đào Lệnh bác hưu non
Dế ngân bụi cỏ, thu hiu quạnh
Ve vẳng rừng cây, tối trĩu buồn
Cổng đóng then cài, không khách đến
Bạn cùng mây trắng chốn thâm sơn.
Nguyễn Hữu Thăng dịch

Lương Nam Xương
03-08-2012, 07:33 PM
辛卯春感
梁南昌

辛卯重至气冲天
六十春秋庆花年
老当益壮力似虎
草堂满绿心不烦
兴奋摆怀仰春日
尽情举杯总向前
福年兴旺如东海
寿岁安康胜神仙

辛卯春

TÂN MÃO XUÂN CẢM
Lương Nam xương

Tân Mão trùng chí khí xung thiên
Lục thập xuân thu khánh hoa niên
Lão đương ích tráng lực tự hổ
Thảo đường mãn lục tâm bất phiền
Hưng phấn bài hoài ngưỡng xuân nhật
Tận tình cử bôi tổng hướng tiền
Phúc niên hưng vượng như Đông Hải
Thọ tuế an khang thắng thần tiên.
Xuân Tân Mão


CẢM TÁC XUÂN TÂN MÃO

Tưng bừng Tân Mão, hẹn rồi lên
Xuân chẵn sáu mươi buổi cánh niên
Sức hổ tuổi già, người vẫn trẻ
Vườn cây mái lá dạ đâu phiền
Ngắm trời thanh thản xuân tươi mãi
Nâng chén say sưa dạ sáng thêm
Phúc sánh Biển Đông, đời thịnh vượng
Sống lâu khỏe mạnh kém gì tiên!

Nguyễn Hữu Thăng dịch

TRẦN THỊ THANH LIÊM
19-08-2012, 11:04 AM
長相思之一
李白
長相思, 在長安。
絡緯秋啼金井闌,
微霜淒淒簟色寒。
孤燈不明思欲絕,
卷帷望月空長歎。
美人如花隔雲端,
上有青冥之長天,
下有淥水之波瀾。
天長路遠魂飛苦,
夢魂不到關山難。
長相思, 摧心肝。

Trường tương tư kỳ I
Lý Bạch
Trường tương tư, tại Tràng An
Lạc vi thu đề kim tỉnh lan
Vi phong thê thê đàm sắc hàn
Cô đăng bất minh tứ dục tuyệt
Quyển duy vọng nguyệt không trường thán
Mỹ nhân như hoa cách vân đoan
Thượng hữu thanh mạc chi trường thiên
Hạ hữu lục thủy chi ba lan
Thiên trường địa viễn hồn phi khổ
Mộng hồn bất đáo quan san san
Trường tương tư
Tồi tâm can

Dịch Nghĩa:
Nhớ nhau nhiều (Bài 1)
Nhớ nhau nhiều, ở Trường An
Tiếng dế kêu mùa thu bên giếng vàng
Sương mỏng manh lạnh lẽo chiếu tre
Đèn lẻ loi không sáng nỗi nhớ càng nung nấu
Cuốn rèm ngắm trăng ngửa mặt lên trời than dài
Người đẹp như hoa xa cách tận chân mây
Trên có dải xanh trời cao thăm thẳm
Dước có nước xanh sóng lô xô
Trời cao đất rộng hồn thêm khổ
Mộng hồn bay đến nơi quan san kia cũng khó
Nhớ nhau mãi
Đứt ruột gan

Dịch thơ:
Tương tư dằng dặc Trường An
Giếng thu tiếng dế kêu than não nề
Sương mong manh lạnh chiếu tre
Đèn côi leo lét, tái tê cõi lòng
Thở dài ngắm ánh trăng trong
Người như hoa cách trùng trùng chân mây
Trời xanh thăm thẳm có hay?
Sóng xanh vời vợi có đầy nhớ thương?
Lang thang vất vưởng dặm trường
Mộng hồn khó tới nẻo đường quan san
Tương tư héo hắt tâm can.
(Nguyen Huu Thăng dịch – 18/8/2012)

TRẦN THỊ THANH LIÊM
25-08-2012, 07:29 PM
THƠ THÁI THUẬN - NGUYỄN HỮU THĂNG dịch

LỜI GIỚI THIỆU

Thái Thuận, tên chữ là Nghiã Hoà, tên hiệu Lục Khê, biệt hiệu Lữ Đường, là một danh nhân thời Lê, sinh năm 1440, đỗ tiến sĩ năm 1475. Ông quê ở làng Liễu Lâm, phủ Siêu Loại (nay là huyện Thuận Thành), tỉnh Bắc Ninh, nhưng có thời gian dài sống và làm việc ở đất Thăng Long, nên có thể coi ông là danh nhân Kinh Bắc, đồng thời là danh nhân Thăng Long. Ông từng làm quan ở Viện Nội các hơn 20 năm, rồi được bổ nhiệm Tham chính tỉnh Hải Dương, về sau với tài thơ nổi tiếng, ông được vua Lê Thánh Tông đặc cách giữ chức Phó Nguyên suý Hội Tao Đàn.
Thơ chữ Hán của Thái Thuận được người đời sau ca ngợi không hề thua kém thơ Đường của các nhà thơ cổ đại nổi tiếng Trung Quốc. Nhà thơ Quách Tấn từng nhận xét: "Thơ Lữ Đường đủ loại: Thơ cảnh, thơ tình, thơ vịnh sử, thơ vịnh vật, thơ hoài cổ, thơ tức sự... Loại nào cũng nhã trí tinh công. Về thơ cảnh, từ Lý Trần đến Trịnh Nguyễn, phẩm cũng như lượng, tôi chưa gặp nhà thơ nào có thể vượt qua Lữ Đường".
Tác phẩm còn lại đến nay của Thái Thuận là tập “Lữ Đường thi di cảo” gồm hơn 200 bài thơ do con trai là Thái Khác và học trò là Đỗ Chính sưu tầm, biên soạn.
Người dịch thơ Thái Thuận trong cuốn sách này là người cùng quê Thuận Thành, Bắc Ninh với Thái Thuận. Các bài thơ dịch lần này đã cố gắng giữ nghệ thuật thơ Đường luật vốn có, đặc biệt là thể loại thất ngôn bát cú (100% thơ thất ngôn bát cú đều dịch theo đúng thể thơ này), đồng thời sử dụng từ ngữ tiếng Việt gần gũi với ngôn ngữ quê hương Thái Thuận; phần dịch nghĩa và chú thích điển tích được biên dịch ngắn gọn, dễ hiểu.
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc./.

Nhà xuất bản Văn học


Thanh Liêm xin trân trọng giới thiệu cùng quý vị độc giả một số thi phẩm dịch trong cuốn sách dịch thơ Tiến sỹ Thái Thuận của dịch giả Nguyễn Hữu Thăng - một thành viên rất tích cực của thi đàn chúng ta:

征妇吟

庭草成巢柳又丝
征夫何日是归期
半帘残月伤心夜
一枕啼鹃落泪时
塞北云长孤燕影
江南春尽老蛾眉
昨来几度 相思梦
曾到 君边知不知

CHINH PHỤ NGÂM

Đình thảo thành sào liễu hựu ty
Chinh phu hà nhật thị quy kỳ?
Bán liêm tàn nguyệt thương tâm dạ
Nhất chẩm đề quyên lạc lệ thì
Tái Bắc vân trường cô nhạn ảnh
Giang Nam xuân tận lão nga my
Sạ lai kỷ độ tương tư mộng
Tằng đáo quân biên tri bất tri

Dịch nghĩa:

KHÚC NGÂM NGƯỜI VỢ CÓ CHỒNG RA TRẬN

Cỏ nơi sân đã um tùm, liễu lại buông tơ
Ngày nào là ngày về của người đi chinh chiến?
Rèm vén nửa, trăng tàn, đó là đêm thương tâm
Một gối đơn, chim cuốc kêu, đó là lúc rơi nước mắt
Bên kia ải Bắc mây trải dài, bóng nhạn đơn côi
Bên này sông Nam xuân hết chân mày nhợt nhạt
Từ trước đến nay giấc mộng tương tư đã mấy lần
Thường đến bên chàng, chàng có biết hay không ?


Dịch thơ:

Cỏ dại đầy sân, liễu rủ tơ
Chàng đi chinh chiến đến bao giờ?
Trăng tàn, rèm vén, lòng sao tủi
Cuốc gọi, gối mình, lệ chẳng khô
Ải Bắc mây dày, chim nhạn lẻ
Sông Nam xuân hết, nét ngài thưa
Chàng ơi có biết bao thương nhớ
Đằng đẵng theo chàng mỗi giấc mơ.

Chú thích:
- Tái Bắc (phía bắc biên giới): Xưa chỉ vùng biên giới Trung Hoa giáp với xứ Hung Nô, nơi hay xảy ra chiến tranh.
- Giang Nam: Vùng đất nam sông Trường Giang, có nhiều cảnh đẹp.

*
* *

望夫山

化石山头几夕曛
伤心无路更逢君
天涯目断年年月
江上魂消幕幕云
清泪一斑花露滴
离情万种草烟分
湘妃若识 相思苦
不惜哀弦寄与闻



VỌNG PHU SƠN

Hóa thạch sơn đầu kỷ tịch huân
Thương tâm vô lộ cánh phùng quân
Thiên nhai mục đoạn niên niên nguyệt
Giang thượng hồn tiêu mộ mộ vân
Thanh lệ nhất ban hoa lộ trích
Ly tình vạn chủng thảo yên phân
Tương phi nhược thức tương tư khổ
Bất tích ai huyền ký dữ văn.


Dịch nghĩa:

NÚI VỌNG PHU

Đầu núi hóa đá đã bao nhiêu đêm ngày rồi
Đau lòng không còn đường gặp lại chàng lần nữa
Mỏi mắt nhìn trăng cuối chân trời năm này sang năm khác
Chiều chiều hồn tan theo đám mây trên sông
Sương đọng trên hoa như nước mắt trong vắt nhỏ từng giọt
Khói tỏa trên cỏ mang theo vạn mối tình ly biệt
Nàng Phi bên sông Tương nếu biết được nỗi khổ vì nhớ nhau
Chớ tiếc dây đàn buồn não nuột, xin gửi đến cùng nghe.

Dịch thơ:

Đêm ngày hóa đá đứng đầu non
Đau đáu chờ ai, mãi chẳng còn
Mắt mỏi nhìn trăng năm lại tháng
Hồn tan theo nước sớm rồi hôm
Sương rơi lệ khổ hoa sầu thảm
Khói tỏa tình đau cỏ tủi hờn
Nhắn gửi Tương Phi cùng tiếc nhớ
Cho nghe khúc nhạc trĩu u buồn

Chú thích:

- Tương phi: Nàng Phi bên sông Tương. Theo tích cổ: Vua Thuấn băng hà, hai bà vợ là Hoàng Vũ, Nữ Anh khóc ở sông Tương. Nước mắt lẫn máu rơi vào thân trúc hóa thành những chấm lốm đốm, gọi là ban ban trúc.