PDA

Xem phiên bản đầy đủ : Thi pháp thơ Đường - Quách Tấn



Trần Vũ
09-03-2012, 05:17 PM
THI PHÁP THƠ ÐƯỜNG



http://www.trasonthidan.com/imgupload/im12122484651.jpg
Bức Thư thứ Ba

Thi luật xuất phát từ đời nhà Ðường bên Trung Quốc cho nên gọi là đường luật.

Ðường Luật không phải do một cá nhân hay một nhóm thi nhân cao hứng đặt ra theo sở kiến, sở thích của mình, mà chính là sự đúc kết những kinh nghiệm kỹ thuật lâu đời đã thành công, và điển chế những thành công ấy làm khuôn phép chung cho làng thơ . ...

Thật như vậy: từ đời Xuân Thu đến đời nhà Ðường, trên 1. 000năm, thơ Trung Quốc lần lần biến chuyển từ giản dị đến phức tạp, từ tự do đến câu thúc. Thơ trong bộ Kinh Thi do Khổng Phu Tử san định thời Xuân Thu (722- 479) trước Kỷ nguyên Thiên Chúa, số câu trong mỗi thiên, số chữ trong mỗi câu, đều không nhất định, cách hạ vần cũng tùy nghi. Ðến đời Tấn (265-420), thơ mới bắt đầu khép vào khuôn là mỗi câu 5 chữ, nhưng số câu thì dài ngắn tùy hứng tùy thích của thi nhân. Sang đời Lục Triều (420- 621), thi nhân lại tìm thêm một khuôn nữa là mỗi câu 7 chữ. Thời ấy văn học lại xu hướng thể biền ngẫu . Thẩm Ước lại xướng thiết tứ thanh, bát thể (bát bệnh) đem áp dụng vào thơ ngũ ngôn. Từ ấy, thi nhân phải theo những quy tắc về âm thanh về đối ngẫu; nhưng quy tắc không mấy chặt chẽ, ngòi bút vẫn tung hoành được tự do. Thi sĩ đời Ðường (618-907) phát huy phép đối ngẫu và thuyết thanh bệnh của Thẩm Ước. Âm vận và cách luật được giảng cầu tinh tường : Thi Luật được sáng chế và được phần đông thi nhân hoan nghênh. Người có công lớn trong việc chỉnh đốn Thi Luật là Tống Chi vấn và Thẩm Thuyên Kỳ thời Sơ Ðường . Rồi từ đời Ðường đến đời Thanh (1616- 1911), trên 1.000 năm, thể thơ Ðường luật rất được phần đông thi nhân ưa chuộng.

Nước Việt Nam chúng ta có thơ từ nghìn xưa . Và thể thơ thông dụng nhất lá thể Lục Bát và Thể Vè 3, 4 và 5 chữ giản dị và tự do . Mãi đến đời nhà Trần (1225-1400), Hàn Thuyên mới dùng thể Ðường luật để làm thơ Nôm. Thi nhân đương thời nhiệt liệt hưởng ứng và từ đời Trần, sang đời Lê đến đời Nguyễn, thể Ðường luật được thịnh hành trong làng thơ Quốc âm, cũng như trong làng thơ chữ Hán và trong trường khoa cử . Thơ quốc âm, cũng như trong làng thơ chữ Hán và trong trường khoa cử. Thơ quốc âm làm theo thể Ðường luật, cổ nhân gọi là thơ Hàn Luật .

Và để phân biệt với thơ có trước đời Ðường, thơ Cổ Thể, người ta gọi thơ làm theo thể Ðường luật là thơ Cận Thể .

Quy tắc thơ Cận Thể rất tinh mật. Muốn sử dụng thể Ðường luật được hữu hiệu, tưởng chúng ta nên biết rõ mọi chi tiết, ít nhất là phải rành những điểm cốt yếu, về chương pháp, về cú pháp, về hài ngẫu, thanh điệu...

Chương pháp là phép tắc trong toàn bài .

Như trên đã nói, phép tắc thơ Cận Thể, tức thơ Ðường luật, rất chặt chẽ. Mỗi thiên có định số câu, mỗi câu có định số chữ, mỗi chữ có định tiếng bằng Trắc, và câu nào đối với câu nào, câu nào niêm với câu nào v. v... người làm thơ phải tuân thủ nghiêm chỉnh .

Luật thi lấy tám câu làm chính. Mỗi câu gồm có hoặc 5 chữ hoặc 7 chữ. Thơ 7 chữ 8 câu gọi là Thất Ngôn Bát Cú, hay là Thất Ngôn Luật Thi, gọi tắt là Thất Luật. Thơ 5 chữ 8 câu gọi là Ngũ Ngôn Bát Cú, hay Ngũ Ngôn Luật Thi, gọi tắt là Ngũ Luật.

Khi Luật thơ mới ra đời, các câu thơ trong bài không có tên. Ðường nhân chỉ gọi là câu NHẤT NHỊ, câu TAM TỨ, câu NGŨ LỤC, câu THẤT BÁT mà thôi. Ðến đời Tống (960 - 1297), Nghiêm vũ mới đặt tên : câu Nhất Nhị gọi là Khởi Liên hay Phát Cú (cũng gọi là Phát Ðoan), câu Tam Tứ gọi là Hạm Liên, câu Ngũ Lục gọi là Cảnh Liên, câu Thất bát gọi là Lạc Cú hay Kiết Cú. Qua đời Nguyên (1234 - 1368), Dương Tải đổi tên câu nhất nhị gọi là Phá Ðề và chia bài thơ làm 4 phần là Khởi (hay Khai), Thừa, Chuyển, Hiệp (*) và dạy : “Khởi như mở cửa thấy núi, đột ngột tranh vanh, hoặc như mây nhàn từ trong hố bay ra, nhẹ nhàng thong thả. Thừa như con rắn cỏ, sợi dây chuyền, chẳng đứt chẳng rời. Chuyển như sóng lớn muôn khoảnh, tất có nguồn cao đổ xuống . Hiệp như gió quanh khí tụ, ngậm chứa sâu thẳm. (Khởi như khai môn kiến sơn, đột ngột tranh vanh, hoặc như nhàn vân suất hát, khinh vật tự tại, Thừa xứ như thảo xà trắc tuyến, bất tức bất ly. Chuyển xứ như hồng ba vạn khoảnh, tất hữu cao nguyên. Hiệp xứ như phong hồi khí tụ, huyên vịnh hàm súc). Vương Ngư Dương thời Thanh (1634 - 1711) nói rõ thêm rằng : Khởi, Thừa, Chuyển, Hiệp là phép chung trong việc làm văn. Trong một câu có khởi thừa chuyển hiệp của câu, trong một thủ có khởi thừa chuyển hiệp của thủ, trong 10 thủ có khởi thừa chuyển hiệp của 10 thủ, chớ không thể ấn định câu thứ mấy, đối thứ mấy là khởi thừa là chuyển là hiệp. Tức là Vương Ngư Dương không muốn người làm thơ phải ép mình trong sự phân chia cứng nhắc. Nhưng một khi luật được đem vào trường thi để làm khuôn thước chọn nhân tài, thì khuôn khổ bài thơ luật lại chặt chẽ thêm một bậc nữa. Tên của các câu thơ trong bài đều được thay đổi. Câu Thứ nhất gọi là Phá Ðề, câu nhì gọi là Thừa Ðề, cặp tam tứ gọi là Thích Thực hay Trạng, cặp ngũ lục gọi là Dẫn Luận hay Bồi Thấm, câu bảy gọi Thúc Kiết hay Chuyển, câu tám gọi là Hoàn Kiết hay Kết.

Những câu 1- (Ðề) và 7- 8 (Kết) không phải đối nhau. Chỉ có cặp 3 - 4 (Trạng) và cặp 5 - 6 (Luận) là phải đối nhau, cặp nào đối với cặp nấy, và phải niêm với nhau: câu 1 với câu 8, câu 2 với câu 3, câu 4 với câu 5, câu 6 với câu 7. Ðó là luật nhất định .

Nhưng từ khởi thủy, thi nhân mới định vị cho các câu trong bài chớ chưa phân nhiệm cho từng câu. Nguồn thơ theo nguồn hứng mà đi, không cần phải sắp xếp ý nào trước ý nào sau, miễn sao cho nhất khí quán hạ, cho thủ vỹ tương ứng, miễn sao mạch lạc được liên tiếp, ý tứ đừng trùng điệp... là hay. Khi đã dùng vào trường thi, thì nhiệm vụ của Ðề, Trạng, Luận, Kết đều được ấn định rõ ràng. Quy tắc phải được sĩ tử tuân thủ triệt để. Ðó là luật thơ cử nghiệp .

Về vấn đề này cũng như các vấn đề về luật bằng và Trắc trong câu, phép đối ngẫu... tôi sẽ nói rõ trong khi bàn về Cú pháp .

Tôi xin nói tiếp về Chương .

Chương dùng ở đây là bài thơ, chớ không phải một bộ phận trong bài văn, lớn hơn tiết. Nói một chương tức là một thủ, và thủ cũng thường gọi là Thiên. Nhưng Thiên trong thơ Liên Hoàn, lại dùng để gọi cả nhóm hoặc 10 thủ, hoặc nhiều hơn hoặc ít hơn. Còn chỉ để chỉ từng bài một thì dùng tiếng Chương hay Thủ. Cùng một đề mục mà phải dùng nhiều bài nối nhau để diễn đạt cho hết ý, mà không theo lối liên hoàn (nối nhau bằng ý chớ không bằng lời) thì cả nhóm cũng gọi là Thiên, từng bài một thì gọi là Chương, là Thủ, như trong thơ liên hoàn. Song đó là danh xưng chớ không phải là quy tắc .

Ðể làm mẫu về chương pháp, xin dẫn một trong những bài thơ được truyền tụng, bài GỞI PHAN SÀO NAM của Trần Kế Xương :

Mấy năm vượt bể lại trèo non
Em hỏi thăm qua bác hãy còn
Mái tóc Giáp Thìn đà nhuốm tuyết
Ðiểm đầu Canh Tý chửa phai son
Vá trời gặp hội mây năm vẻ
Lấp bể ra công đá một hòn
Có phải như ai mà chẳng chết
Dang tay chống vững cột càn khôn

Bài thơ nhất khí quán hạ. Nêm luật chặt chẽ sít sao .

Nhưng đúng pháp thơ cử nghiệp, nghĩa là trạng, luận thật phân minh, thì bài VỊNH TRÂU GIÀ của Ðặng Ðức Siêu sau đây có thể dùng làm kiểu mẫu :

Một nắm xương khô một nắm da
Bao nhiêu cái ách cổ từng qua
Ðuôi cùn biếng vẫy Ðiền Ðan hỏa
Tai nặng buồn nghe Ninh Thích ca
Nương bóng rừng đào nơi lểu lảo
Nhìn gương cung quế thở phì phà
Bôi chuông nhớ thuở thân gần lụy
Ơn đội Tề vương mạng được tha .

Mới học làm thơ, các bạn nên học tập lối làm thơ cử trước. Tôi sẽ nói kỹ hơn sau khi đã lược giảng xong những điều thiết yếu. Và trong bước đầu của bạn, tôi chú trong đến thơ Thất Luật. Bởi kinh nghiệm bản thân cho thấy rằng một khi chân đã vững vàng trên đường thơ cử nghiệp rồi thì bước sang thơ tài tử rất dễ dàng, và hễ thơ bảy chữ đã thạo rồi thì thơ năm chữ không còn thấy bỡ ngỡ .

Và thơ Ngũ Ngôn cũng như thơ Thất Ngôn, đều lấy 8 câu làm luật. Nhưng phần đông thi nhân vẫn coi thơ Tứ Tuyệt là luật thi, bởi Tuyệt Cú là cắt luật thơ ra làm đôi mà lấy nửa. Phàm trong một bài tuyệt cú mà hai câu sau đối nhau, đó là cắt lấy 4 câu trước - cổ nhân gọi là tiền giải - của bài thơ luật; nếu hai câu trước đối nhau là cắt lấy phần hậu giải; bốn câu đều đối nhau là cắt lấy 4 câu giữa; còn toàn bài không có đối, là cắt lấy hai câu đầu và hai câu sau của bài thơ luật mà hợp lại . Số câu tuy có khác nhưng cách bố trí vẫn không khác nhau, cũng khởi, thừa, chuyển, hiệp , một bên từng cặp, một bên từng câu, mạch văn vẫn tiếp, khí văn vẫn nổi, không dứt không ngừng. Và tuy có 4 câu nhưng ý tứ phải sung mãn như 8 câu thì mới xứng danh là Tuyệt Cú, là Tứ Tuyệt. Bởi Tuyệt vừa có nghĩa là Tiệt (cắt) vừa có nghĩa là tuyệt diệu.

Xin cử mỗi loại một tuyệt để làm mẫu :

Hai câu đối nhau như bài DỆT CỬI của Lê Thánh Tông ;

Thấy dân rét mướt nghĩ mà thương
Vậy phải lên ngôi gỡ mối giường
Tay ngọc đẩy đưa thoi nhật nguyệt
Gót vàng dậm đạp máy âm dương

Hai câu đối nhau như bài SONG CHIỀU của TX :

Ngày trôi chậm chậm sông đưa lá
Thoi liệng xa xa én dệt mù
Mở rộng song thơ chờ ánh nguyệt
Nửa lòng xuân sắc nửa lòng thu

Bốn câu đều đối như bài TỨC CẢNH của Nguyễn Tư Giản làm lúc đi sứ sang Trung Hoa thời Tự Ðức :

Gió đưa dương liễu cành cành nguyệt
Khói tỏa ngô đồng khóm khóm sương
Thuyền mọn năm canh người Bích Hán
Ðịch đài một tiếng khách tầm dương

Bốn câu đều không có đối như bài MỜI TRẦU của Hồ Xuân Hương :

Quả cau nho nhỏ miếng trầu ôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Có phải duyên nhau thời thắm lại
Ðừng xanh như lá bạc như vôi .

Chỉ có 4 câu mà ý tứ phải đầy đủ, phải trọn vẹn thì bài thơ mới thật hoàn hảo. Bằng còn có thể thêm thắt, thì đó là một bài bát cú mới làm nửa chừng, Ví dụ bài DỆT CỬI của Lê Thánh Tông, đọc lên chúng ta cảm thấy thiêu thiếu như xem chưa hết lớp tuồng mà đã bị hạ màn. Do đó đời sau, nhiều người đã thêm hững câu sau thành một bài bát cú, như Tôn Thọ Tường là một :

Thấy dân rét mướt chạnh mà thương
Phải bước lên khung sửa mối giường
Tay ngọc lẹ đưa thoi nhật nguyệt
Gót son lần đạp máy âm dương
Xuân riêng hoa liễu canh dàn cuốn
Ý hiệp rồng mây chỉ vấn vương
Dâng gấm sân chầu mong có thuở
Sánh bường Tô Huệ bức văn chương .

Sửa đổi một vài chữ rồi thêm vào bốn câu thành một bài bát cú lời đẹp ý giàu, lại nói lên được chút tâm sự thầm kín .

Những bài Tứ Tuyệt có đối thường bị nối đuôi hoặc nối đầu, để ngầm bảo rằng chưa phải thơ Tuyệt Cú. Nhưng nếu ý tứ trong bài không được phong phú, thì loại không có đối cũng dễ biến thành thơ bát cú. Ví dụ bài VẤN NGUYỆT sau đây, tương truyền là của Hồ Xuân Hương :

Hỏi chị Hằng Nga đã mấy con
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn
Ba mươi mồng một đi đâu vắng
Hay có tình riêng với nước non

Cụ Tú Nguyễn Khuê đã biến thành một bài bát cú rất được thưởng thức :

Dì Nguyệt mình ơi ! Tớ hỏi đon :
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn
Hỏi con ngọc thố chừng bao tuổi
Hỏi chị Hằng Nga đã mấy con
Ðêm vắng cớ chi soi gác tía
Ngày xanh lại thẹn với vầng son
Ba mươi mồng một đi đâu vắng
Hay có tình riêng với nước non .

Bài VẤN NGUYỆT của cụ Tú cũng như bài DỆT CỬI của ông Tôn, tuy là thơ chắp nối, song theo đúng khuôn phép. Ý tứ trong toàn bài luôn luôn đi sát đầu đề. Những câu Ðề, Trạng, Luận, Kết, câu nào cương vị nấy, nhiệm vụ nấy, không chút sai lệch. Mạch thơ khí thơ, như nước suối cao, gió đồng rộng, không bị gián đoạn hay ngưng trệ. Nếu đi thi thì quan trường dù khắt khe đến đâu cũng không thể đánh hỏng .

Hai bài đó, nếu các bạn xem xét kỹ, sẽ giúp các bạn nắm vững thêm về Chương Pháp.
Con đường đưa đến diệu xứ của Thơ còn xa lắm .

Nhưng trong BẰNG HỮU KIM KÝ của Nguyễn Ðôn Phục có câu :

Ðất đã đắp cho nên núi, chín chày phải gắng công lao ;
Ðường dù đi đi dốc đến nơi, nghìn dặm chi nài khó nhọc .

Mong các bạn đừng chán nản

Quách Tấn

Trần Vũ
09-03-2012, 05:19 PM
Phép Dụng Tự và Thi Bệnh trong thơ Ðường


PHÉP DỤNG TỰ
(trích Thi Pháp Thơ Ðường của Quách Tấn)

Thơ Đường thường dùng thực tự ít dùng hư tự.
Các nhà thi học đời sau thường nhận xét rằng: "Thơ mà dùng hư tự không hay". Đó là lời của Triệu Mạnh Phủ đời Nguyên. Người đồng thời cùng họ Triệu là Phạm Phanh nói thêm: "Thơ dùng nhiều thực tự thì mạnh, dùng nhiều hư tự thì yếu". Tạ Trăn cũng nói: "Dùng nhiều thực tự thì ý giản mà câu mạnh, dùng nhiều hư tự thì ý phồn mà lời yếu".
Xét kỹ thì Cổ Thi thường dùng hư tự, Luật Thi thường dùng thực tự. Đường nhân hay dùng thực tự, Tống nhân hay dùng hư tự.

Nói là chuyên dùng, ưa dùng... là chuyên dùng nhiều, ưa dùng nhiều tự loại này hơn tự loại kia đó thôi. Hư tự dùng để đẩy đưa lời thơ, để gắn nối chữ này với chữ nọ. Dùng nhiều thực tự quá câu thơ thành nặng nề. Dùng nhiều hư tự quá câu thơ trở nên lỏng lẻo bên lời, cạn cợt bên ý. Phải sử dụng sao cho thích ứng, cho cân xứng. Như thế mới là diệu thủ.

Trong làng thơ Quốc âm, bà Huyện Thanh Quan hay dùng thực tự, bà Hồ Xuân Hương hay dùng hư tự. Tôn Thọ Tường thường dùng thực tự, Trần Tế Xương thường dùng hư tự.

Dùng nhiều thực tự thì thơ cô đọng chững chàng. Dùng hư tự vừa phải thì thơ nhẹ nhàng bay bướm. Xin dẫn chứng:

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
(Bà Huyện Thanh Quan)

Bát canh Quảng Võ ơn còn nhớ
Chén rượu Hồng Môn lệ khó ngăn
(Tôn Thọ Tường)

Tóc vướng hơi hương vườn thúy liễu
Lòng nương tiếng địch bến vi lô
(Tú Xương)

Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
(Bà Huyện Thanh Quan)

Nghi ngút tro tàn nền đạo nghĩa
Lờ mờ bụi đóng cửa trâm anh
(Tôn Thọ Tường)

Thà không trời đất không chi cả
Còn có non sông có lẽ nào
(Phan Sào Nam)

Chiếc bá buồn vì phận mỏng mênh
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh
Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh
Cầm lái mặc ai lăm đổ bến
Giang chèo thây khách rắp xuôi ghềnh
Ấy ai thăm ván căm lòng vậy
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh
(Hồ Xuân Hương)

Đó là những câu dùng hư tự nhiều mà hay, nhất là câu thơ của Phan Sào Nam thật là hy hữu.

Dùng hư tự mà không khéo thì câu thơ thành non nớt, không truyền được cảm, mặc dù trong thơ có nhiều tình:

Trên đài hiu hắt ngọn đèn hoa
Gang tấc xem bằng mấy dặm xa
Một kiếp đã đành rằng để vậy
Chín trùng có thấu đến chăng là
Ỏi tai ngán nỗi đàn ve gảy
Tan mặt buồn tênh cái nhện sa
Ví biết thân này chi khó bấy
Quyền môn chen chúc chẳng bằng thà

Đó là một bài thơ được truyền tụng nhan đề CUNG OÁN.
Trong sách "Phép làm thơ" của Diên Hương chép là của Ôn Như Hầu. Theo Quách Tấn nhận xét thì không phải, vì bút pháp của Ôn Như Hầu rất già dặn, chải chuốt. Thơ trong Cung Oán Ngâm Khúc đã nổi danh là điêu luyện đến mức, và những câu sau đây, chỉ vài câu còn truyền tụng thôi, cũng đủ chứng minh rằng những câu thơ quá dễ dãi trên đây không phải là di sản của Ôn Như Hầu:

Cõi thế lênh đênh thuyền hạo kiếp
Lẽ trời lồng lộng võng huyền cơ
(Cảm tác - Ôn Như Hầu)

Man mác cảnh đâu ngoài vạn dặm
Bâng khuâng chuyện những mấy trăm năm
(Nghe ếch kêu - Ôn Như Hầu)

Lời thơ tự nhiên, lưu loát chớ không quê vụng như bài CUNG OÁN trên.

Bài CUNG OÁN có nhiều chữ dư, tức là những chữ không cần thiết, chỉ đem vào cho đủ vế mà thôi. Chúng ta nên tránh.
Chẳng những tránh dùng chữ thừa, mà còn tránh dùng một chữ đến 2 hoặc 3 lần, trừ khi cố ý nhấn mạnh, cố ý làm nổi bật một tứ thơ.

Lỗi bị trùng chữ rất thường xảy ra. Đến các bậc lão luyện vẫn nhiều khi vấp phải. Như Tố Như trong bài Vọng Phu Thạch.
Nhưng vì bài thơ có giá trị của viên ngọc liên thành, cho nên những vết nhỏ kia có thể bỏ qua. Tuy nhiên nếu viên ngọc toàn mỹ thì càng quý bội phần.

Tản Đà thỉnh thoảng cũng không tránh khỏi. Tiên sinh có bài THEO VOI ĂN BÃ MÍA cũng bị phạm lỗi này.

Chúng ta không phải như Tố Như, Tản Đà nên đừng bắt chước.
Huống nữa đã là lỗi thì dù là của bậc đại gia văn chương đi nữa cũng không nên lấy đó làm gương.

Tránh những chữ vô dụng, tránh những chữ trùng điệp.
Lại còn phải tránh:
1. Điệp thanh.
2. Điệp âm.
3. Điệp vận.

(copy nguyên văn trong sách)
Trong bài PHÉP DỤNG TỰ có đề cập đến việc bài thơ phải tránh:
1. Điệp thanh
2. Điệp âm
3. Điệp vận

Hôm nay xin được tiếp tục bàn về ba điểm trên. Trong phạm vi bài này chỉ bàn về Thơ Thất Ngôn Luật Thi mà thôi (Thơ Ngũ Ngôn Luật Thi sẽ bàn vào một dịp khác).

1. Điệp thanh:
Chữ thứ 4 và chữ thứ 7 trong các câu luật trắc vần bằng. Hai chữ ấy đều bình thanh thì thượng đoản hạ trường, hoặc ngược lại (thượng trường hạ đoản), chớ đừng dùng cả hai hoặc đều đoản hay đều trường.
Thí dụ 1 (cả hai đều cùng đoản bình thanh):

Thành Loa vừa thấy xây vua Thục
Ải Lạng quanh coi đuổi giặc Ngô
(Nguyễn Đỉnh Ngọc)

Câu thơ không có tiếng ngân, hơi thơ đọc xong là đứt không đủ sức đi vào lòng người đọc người nghe.

Tuy vậy vẫn còn đỡ hơn chữ thứ 4 và chữ thứ 7 đều cùng trường.
Thí dụ 2 (cả hai đều cùng trường bình thanh):

Nõn nà sắc nước nhờ ơn nước
Ngào ngạt hương trời ngát dặm trời
(Lê Thánh Tôn)

Câu thơ quặp ở giữa lưng như bụi chuối bị gió thổi gãy, âm hưởng nghe chìm lỉm như tiếng trống bị đùn da. Lỗi này nên tránh.

Thượng đoản hạ trường hoặc thượng trường hạ đoản thay đổi nhau thì câu thơ mới hài hảo.

Tuy nhiên nếu chữ thứ 4 có một trường bình thanh đứng kề thì câu thơ lại đọc nghe êm tai.
Thí dụ:

Thay mười tám triệu người ăn nói
Mở bốn ngàn năm mặt nước non
(Trần Tế Xương)

Mấy hàng tóc bạc từng dâu bể
Một tấm lòng son giải núi sông
(Đặng Xuân Bảng)

Nói tóm lại trong một câu Thất Ngôn thì có hoặc 4 tiếng bằng 3 tiếng trắc, hoặc 4 tiếng trắc 3 tiếng bằng thì những tiếng bằng trắc ấy phải có thanh độ khác nhau, câu thơ mới giàu âm nhạc. Trong mỗi câu ít nhất là phải có 1 tiếng trường bình thì nghe mới êm. Nhưng chớ nên dùng nhiều trường bình quá. Nhiều trường bình làm cho câu thơ yếu ớt, giọng trầm trầm khó nghe. Trong một câu Thất Ngôn có 4 tiếng bằng thì dùng 2 tiếng trường bình là vừa. Nếu một câu có 3 tiếng bằng mà dùng trường bình cả 3, hoặc 4 tiếng bằng mà dùng đến 3 trường bình thì câu thơ nghe không được du dương trầm bổng, mặc dù không phạm lỗi gì cả.
Thí dụ:

Trời làm đá nát lại vàng sôi
Thiên hạ trông mưa đứng lại ngồi
Ngày trước biết gì ăn với ngủ
Bây giờ lo cả nước cùng nôi
Trâu mừng ruộng nẻ cày không được
Cá sợ ao khô vượt cả rồi
Tình cảnh nhà ai nông nổi ấy
Quạt mo phe phẩy một mình tôi
(Trần Tế Xương)

Chúng ta nhận thấy câu đầu có 3 trường bình thanh trên 4, âm thanh nghe không được hài mỹ bằng những câu mà thanh độ điều hoà là các câu dưới.
(copy trong sách)

2. Điệp âm:
(Chép trong sách ra)
Điệp thanh thì bằng vào thanh độ và chú trọng hai bình thanh là đoản bình và trường bình.

Về điệp âm thì lưu ý đến những tiếng cùng một âm căn, như ban bàn bán bản bãn bạn, thanh thành thánh thảnh thãnh thạnh... những chữ mà một hay nhiều mẫu tự đứng trước hoặc đứng sau giống nhau, như ba bốn bữa, mây man mác, núi nặng nề... bối rối mối, mây vây cây v.v... Những chữ đồng âm mà để gần nhau, nhất là ba hoặc bốn chữ cùng một lượt, thì nghe như nói cà lăm, nói lắp bắp, rất chướng tai (cacophonie).

Thí dụ:

Thượng toạ thiền trung sư sự sứ
Đình tiền túy tửu phụ phù phu

Đường về xóm cũ mây man mác
Nhớ đến người xưa nặng nỗi niềm

Gặp mặt cô nàng tôi bối rối
May nhờ lúc ấy tối rồi thôi

Chúng ta cùng đọc và nhận xét bài thơ sau đây:

Vô Đề
Tiếng gà bên gối tẻ tè te
Bóng ác trông ra loé loẽ loè
Non mấy trùng cao chon chót vót
Hoa năm sắc nở lỏe lòe loe
Chim tình bậu bạn kìa kia kĩa
Ong nghĩa vua tôi nhẹ nhẻ nhe
Danh lợi không màng ti tí tị
Ngủ trưa chưa dậy khỏe khòe khoe

Nguyễn Thượng Hiền

3. Điệp vận:
Tương tự như điệp thanh. Điệp vận ở chữ thứ 4 và chữ thứ 7.
Nhất là ở những câu luật trắc vần bằng.

Thí dụ:

Người hỡi Nghiêm Lăng có biết chăng
Lòng ta ý gã mấy ai bằng

Thôi thôi dại sớm thời khôn sớm
Nhắn kẻ chưa què chớ vội khoe

Hai đứa chung dòng nước Cửu Long
Thương nhau chẳng gặp nát tan lòng

Bẽ bàng lối cũ hoa chào gió
Thổn thức canh trường nhạn khóc sương

Quyên rầu rĩ tiếng chùng dây sắt
Nhạn lẻ loi đường thẹn bóng gương

Đứng chéo trông theo cảnh hắt heo
Đường đi thiên thẹo quán cheo leo

Khi dang thẳng cánh bù khi cúi
Chiến đứng không thôi lại chiến ngồi

Trai đu gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng

Xiếu mai chi dám tình trăng gió
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh


Thơ Thất Ngôn chẳng những tránh điệp vận ở những câu có vần, mà phải tránh cả ở những câu không vần nữa. Và chẳng những phải tránh ở chữ thứ 4 thứ 7, mà còn phải tránh cả ở những chữ thứ 2 và thứ 6 nữa.

Thí dụ:

Tình quê ấp ủ mùi hương cũ
Tin bạn mơ màng bóng nhạn xa

Nghĩ mình vốn cũng đa tình lắm
Mà dạ người thương chẳng tỏ tường

Điệp vận ở chữ thứ 4 và thứ 7 gọi là Đại Vận.
Điệp vận ở chữ thứ 2 và thứ 6 gọi là Tiểu Vận.
Cả hai đều là bệnh của thơ.
Những điểm này sẽ được nói thêm trong phần Thi Bệnh sắp tới.

Trần Vũ
09-03-2012, 05:23 PM
Trong phần trước nói về PHÉP DỤNG TỰ, và bàn về làm thơ nên tránh những điệp thanh, điệp âm, điệp vận, tức là tránh những bệnh của thơ.
Thi bệnh không phải chỉ có bấy nhiêu, mà còn hàng chục bệnh khác nữa.
Sau đây là phần trích bàn về:




THI BỆNH


Từ đời Tấn trở về trước, làng thơ không nói đến thi bệnh mặc dù bệnh đã có từ xưa. Đến đời Lục Triều (221-581) sang đời Tùy (581-621), các thi nhân gây ra phong trào nghiên cứu thanh vận, Thẩm Ước đề xướng thuyết Tứ Thanh, Bát Bệnh, được phần đông tao khách hưởng ứng, đem áp dụng vào thơ Ngũ Ngôn.

Ngũ Ngôn ở đây là Ngũ Ngôn cổ thể.
Ngũ Ngôn và Thất Ngôn Luật Thi đến đời Đường, nghĩa là gần nửa thế kỷ sau mới sản xuất.

Cho nên tám bệnh của Thẩm Ước đưa ra không đem áp dụng vào thơ Ngũ Ngôn và Thất Ngôn Đường Luật được. Mà chúng ta giảng cứu đây là giảng cứu về Luật Thi. Tuy vậy tưởng chúng ta cũng nên biết qua để làm giàu thêm cho cái vốn học vấn.

Trước hết chúng ta nên biết rằng tám bệnh kia không phải Thẩm Ước đặt ra. Chính cũng như những bệnh dịch hạch dịch tả, bệnh phong bệnh lao... ở ngoài đời. Những thi bệnh đã có trong thơ từ khi mới có thơ và thơ càng phát triển, thi bệnh càng sanh thêm nhiều. Thẩm Ước chỉ có công phát hiện và đặt cho mỗi bệnh cái tên. Để cho khách tri âm dễ nhận thấy bệnh, họ Thẩm mới giải rõ bệnh lý, mới tả rõ bệnh trạng, mới thuyết rõ bệnh căn.

Nhận thấy được bệnh rồi thì tránh bệnh hoặc trị bệnh không đến nỗi khó khăn.
(chép trong sách ra)

Sau khi Thi luật được điển chế thi phần nhiều bệnh của Thơ Ngũ Ngôn không còn chỗ để xâm nhập. Song những bệnh này bị diệt trừ thì những bệnh khác lại sanh sản. Bởi hễ đời còn người, người dẫu đã văn minh tiến bộ đến đâu, vẫn còn bệnh; thì thơ còn chữ, dù chữ đã tinh luyện đến đâu, cũng vẫn còn bệnh như đời. Cho nên khách làng thơ Đường luật vẫn dùng những bệnh danh của Thẩm Ước để gọi những bệnh mới sanh trong thơ Cận Thể và tương tợ với những bệnh trong thơ Cổ Thể. Danh tuy đồng nhưng bệnh căn và bệnh trạng đều khác. Để bớt rườm rà, ở đây chỉ nói về những bệnh trong Thất Ngôn Luật Thi.
(chép trong sách ra)

Tám bệnh danh của Thất Ngôn Luật Thi là:

1. Bệnh Bình Đầu
2. Bệnh Thượng Vỹ
3. Bệnh Phong Yêu
4. Bệnh Hạc Tất
5. Bệnh Bàng Nữu
6. Bệnh Chánh Nữu
7. Bệnh Đại Vận
8. Bệnh Tiểu Vận

Trần Vũ
09-03-2012, 05:24 PM
Thi Pháp Thơ Ðường - Vận & Vần



Bức thu thứ năm
...
Thư trước đã nói : Thanh , Vận, Ðiệu là 3 yếu tố chính tạo ra thi nhạc, và nhạc là yếu tố làm cho thơ khác văn. Ðó là nói về tính chất, nói về nội dung. Còn nói về hình thức thì thơ khác văn do vận. Văn không vần nên gọi là Tản Văn . Thơ có vần nên gọi Vận Văn.
Do đó trong ba yếu tố Thanh, Vận, Ðiệu. Vận chiếm địa vị quan trọng hơn cả.

Vận là gì ?
Các cụ ta thường dạy:
Là những tiếng đồng âm với nhau, những tiếng nghe na ná như nhau .
Và Lưu Hiệp đời Lục Triều bên Trung Quốc, tác giả bộ Văn Tam Ðiêu Long, giải thích rằng:

Ðồng Thanh tương ứng vị chi Vận.
Giải như thế, Tàu cũng như Ta, có phần trửu tượng quá.
Thật chẳng khác hỏi một nữ thanh niên nhà cô ở đâu ? cô đáp :

Nhà tôi ở dưới đán dâu,
Ở trên đám mía, có cầu bắc ngang

Hoặc:

Nhà tôi trở mặt ra sân,
Ở xa có núi, ở gần có sông.

Ði tìm cho ra nhà cô ấy, tất phaiỏ mất nhiều công sức, nhiều thì giờ, và không tránh khỏi lạc đàng lạc nẻo.

Ðể giúp cho người Làm thơ khỏi lạc đường và tới đích mau chóng, học giả Trung Hoa đã soạn nhiều bộ Thi Vận Tập Thành, thường gọi là sách quan vận, là vận thư. Ðời Tùy có sách Thiết Vận; đời Ðường có sách Ðường vận, Quảng Vận; đời Tống châm chước những bộ sách đời trước, soạn ra bộ Lễ Bộ Vận Lược, được triều đình dùng làm chửan tắc cho thi vận trong việc khảo thí. Các đời sau cũng theo gương đời Tống, soạn ra những sách quan vận mới. Nhà Nguyên có sách Trung Nguyên Âm Vận; nhà THanh có sách Bội Văn Vận Phủ; Trung Hoa dân quốc có Trung Hoa Tân Vận ...Sách Trung Hoa Tân Vận chưa được đem ra áp dụng . Ðước thông dụng nhất là Bội Văn Vận Phủ.

Theo quyển vận thư này thì thi vận xếp theo ngũ thanh(thượng bình, hạ bình, thượng, khứ, nhập) và có tất cả 106 vận. Thượng bình có 15 vận là Ðông (phương Ðông). Dông (mùa Ðông), giang, chi, vi, ngư, ngu , tề,giai, khôi,chân,văn,nguyên,hàn,san. Hạ bình có 15 vận là tiên,tiêu,hào(hỗn hào),hào(hào kiệt),ca,ma.dương,canh,thanh,chưng,vưu,xâm, đàm, điêm,hàm. Hai thanh Bình hợp lại gọi là Bằng, vần Bằng. Còn vần Trắc thì gồm tất cả các vận trong các thanh Thượng, Khứ, Nhập, tất cả có 76 vận. Ðể khỏi bị lạc vận, cổ nhân thường học thuộc lòng những chữ xếp vào bình thanh và khi cần, mở sách ra tra cứu.

Nước Việt Nam chưa có sách quan vận. Các cụ ngày xưa đều dùng sách Tàu khi làm thơ chữ Nôm cũng như khi làm thơ chữ Hán.

Chúng ta ngày nay không còn làm thơ chữ Hán, và cũng rất ít người đọc thông chữ Hán, lại thêm nhiều chữ đã theo thời gian mà biến âm thanh. (Ví dụ Ðông là đông phướng, và Ðông là mùa Ðông, và hào là hào kiệt và hào là hỗn hào, chúng ta đều đọc là Ðông là Hào mà chưa chia ra thành những vận khác nhau, và Ðông này không áp vận cùng Ðông kia được, H àokia không hợp vần cùng Hào này được!.
Ðó là vì Ðông mùa và Ðông phương, Hào này và Hào nọ, xưa kia đọc khác hẳn nhau, mà ngày nay thì đọc giống nhau vậy). cho nên những vận thư của Trung Hoa kể ra chỉ để các bạn thấy rằng cổ nhân rất xem trọng Vận, chớ không thể đem ra áp dụng cho việc tìm vần được nữa.

Thơ Nôm xuất hiện từ đời Trần, nhưng trên 700 năm nay chưa chưa có một quyển sách nào nghiên cứu về thi vận. Các cụ ngày xưa thì dựa vào Vận Thư của Trung Hoa, chúng ta thì dựa vào những tác phẩm lưu truyền của các cụ. Đối với các cụ thơ Nôm chỉ là một món tiêu khiển trong chốc lát, nên Vận thơ có chỉnh hay không chỉnh, các cụ không mấy quan tâm . Do đó mà có nhiều bài thơ rát hay nhưng có đôi vần không “tương ứng” không “na ná”ù như nhau . Như :

Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn Vu hiu hắt khí Thu mờ ...

Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa
Người đồng châu trước biết bao xa

Trời Thu ngăn ngắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu ...

Ðọc nghe thật không sướng tai. Nhưng cũng lắm người bắt chước, vì xưa bày nay làm và tin các cụ học rộng tài cao đã làm tất trúng. Nhưng có trúng theo vận luật của Tàu không? Không sai . Nhưng đối với những kẻ thẩm âm bằng đôi tai nghệ sĩ, thì những vần gieo như thế nghe không hòa hảo bao nhiêu.

Ðã công nhận Vận là một yếu tố của thơ, thì vần thơ phải cho chỉnh đốn.

Ðể gieo vần được chỉnh đốn, làng thơ quốc âm đã có chuẩn tắc truyền miệng cho nhau , và ai theo ai không theo tùy ý . Tôi xin trình bày ra mặt giấy để cùng các bạn nghiên cứu thêm:

Ðể biết tiếng nào đồng âm với tiếng nào, chúng ta lấy những mẫu tự khời đầu làm tiêu chuẩn, và để biết tiếng nào đồng thanh với tiếng nào, chúng ta lấy những dấu Không, Huyền, Sắc, Nặng, Hỏi , Ngã làm tiêu chuẩn. Như trước đã nói, để biết những tiếng nào cùng một bộ vận với n, cố giáo sư Trần Cảnh Hảo đề xướng ra phép dùng Khuôn và dấu.

Khuôn là gì ?

Là một nhóm chữ do 1 hay 2 nguyên âm (voyelle) ráp với 1 hay 2 phụ âm(consonne) thành vần (syllabe), tự nó có thể thành một chữ.. Ví dụ trong chữ Ban, Kinh, Cương, luôn ... thì An, Inh, Ương,Uôn là khuôn.

Những chữ nào đồng 1 khuôn và đồng 1 thanh với nhau là đồng 1 bộ vận. Ví dụ những tiếng, Ban, Bàn, Bán, Bạn, Bản, Bãn là những tiếng đồng 1 khuôn, nhưng khác thanh. Nên Ban và Bàn đồng 1 bộ vận với nhau thuộc vần Bằng còn Bán Bạn Bản Bãn thuộc vần trắc, tuy khác thanh nhưng vẫn vần với nhau .

Nói tóm lại là vận có hai loại : loại vần bằng và loại vần trắc. Những chữ đồng một khuôn và có dấu huyền cùng không dấu thuộc vần Bằng và cùng một bộ vận với nhau. Những chữ đồng 1 khuôn và có các dấu Sắc, Hỏi Ngã nặng là thuộc vần Trắc và cùng một bộ vận với nhau . Ví dụ : Ban, Bàn, Can, Càn, Dan, Dàn, , Ðan , Ðàn, Gan, Gàn, Han hàn, Khan Khàn, Lan Làn Man Màn , Phan Phàn, Quan Quàn, Ran Ràn, san sàn v... v... là đồng một bộ vận với nhau.

Ðó là nói về loại vần Bằng. Còn loại vần Trắc thì khuôn giống nhau mà chữ này Thanh Thượng, chữ kia thanh Khứ, cũng đều là đồng một bộ Vận. Như Bán Cán Cạn Ðản Ðạn ... đều đồng một bộ vận . Riêng những chữ về nhập thanh, tuy cùng thuộc loại vần Trắc, mà chữ có hậu phụ âm T tạo cho mình một bộ vận chữ có hậu phụ âm P tạo cho mình một bộ vận . Những chữ có phụ am C, CH cũng vậy . Những bộ vận này không thể lẫn nhau và không thể nhập với những bộ Vận về Thượng Thanh, Khứ Thanh.

Thơ Ðường luật ít khi dùng vần Trắc cho nên không cần đi sâu.

Trong nhiều bài thơ vần Bằng được truyền tụng, chúng ta lại thấy có nhiều bài không theo quy tắc “đồng một khuôn”.
Ví dụ bài Không Chồng mà chửa của Hồ Xuân Hương :

Trót lỡ ra rồi dám thở than
Riêng hiềm vì nỗi má hồng nhan.
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu ngược,
Phận liễu sao đà nảy nét ngang.
Gánh nợ trăm năm chàng trút cả
Khối tình ba kiếp thiếp riêng mang.
Chị em nhắn nhủ đừng chê trách,
Không có, nhưng mà có, mới ngoan!

Than, nhan, ngoan thuộc khuôn an, Ngang Mang thuộc ang, mà lại ghép vần với nhau, như thế là sái . cách gieo vần như thế không phải là hiếm Trần Tế Xương Cũng thường vấp phải :

Trời không chớp bể với mưa nguồn
Ðêm nảo đêm nao tớ cũng buồn
Bối rối tình duyên cơn gió thoảng
Nhạt nhèo quang cảnh bóng trăng suông
Khăn khăn áo áo thêm bầy chuyện
Bút bút nghiên nghiên khéo giở tuồng
Ngủ quách sự đời thây kẻ thức
Bên chùa thằng trọc đã hồi chuông

Những vận thuộc khuôn uôn ghép với những vận thuộc khuôn uông . Nếu chúng ta chịu khó “lắng tai Chung Kỳ” thì nhận thấy khi đọc lên, Ang cũng như Uông ngân dài hơn An va Uôn. Thi nhạc của những câu mà vẫn không có chữ G ở sau kém hơn các câu có G.

Nhưng thi vận chia làm hai thứ :

Vận Chính

Vận Thông

Vận Chính là những vận đồng một khuôn

Vận thông là những vận tuy không đồng một khuôn nhưng đọc lên nghe tương tợ. Như Nhan và mang, Buồn và Chuông, Huông, có nhiều địa phương đọc những chữ có G và không có G giọng in nhau. Chỉ những người từ Thanh, Nghệ, Tĩnh trở ra mới đọc đúng giọng và mới có thể phân biệt dễ dàng độ dài ngắn của những chữ có G và không G.

Do đó với những chữ có G và không G, làng thơ chia làm hai phái. Một phái nhận là Ðồng Vận, một phái cho là Lạc Vận.

Chúng ta không nên cứng rắn quá, cũng không nên dễ dãi quá. Chúng ta chỉ nên ghép những vần có G với những vần không có G, Những vần không G với những vần có G, trong trường hợp “bất khả kháng”, nghĩa là chúng ta chỉ ép vận khi nào nhận thấy làm như thế tuy có phần thất về mặt âm vận nhưng thêm phần đắc về mặt tình tứ. Song nếu có thể tránh được thì vẫn hơn .
Chúng ta nên tránh ghép những vần :UA, U, Ư vào Ô, O, Ơ như bài Than Thời Loạn của Vua Lê chúa Trịnh:

Lửa hồng từ dậy mái thành đô
Ðòi chốn lầm than chuyện được thua
Xanh biếc thú quê người ẩn dật
Bạc đen đường thế khách bôn xu
Suy tường mỗi mỗi đau lòng trí
Tính quẩn trần trần nát dạ ngu
Mong tới Vị Xuyên mà hỏi Lữ
Rằng Thương xưa cũng thế này ư ?

Bài thơ được truyền tụng là nhờ lời đẹp và phản ảnh thời thế, được các nhà làm sách thi tuyển thủ thứ là do ý thú, chớ không phải do âm vận. Những duyệt giả chuộng thanh điệu không thích bài này . Một bài thơ gồm được cả thanh điệu ý thú mới là hoàn hảo.

Chúng ta cũng thường gặp trong thơ xưa, những vần OAO, ÂU, IU, EO ... ghép lại với nhau. Như trong bài Thu Vịng của Nguyễn Khuyến:

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Ðào

Bài này là một danh tác, nên không mấy người dám chê vần Cao mà xuống vần hiu nghe thật “chói” tai. Chẳng những không dám chê mà còn khen hai vần đó đứng sát nhau gây nơi người đọc cái cảm giác “xa cách, rời rạc”, làm cho giác quan cảm thấy cảnh đã mênh mông thêm mênh mông, tình đã hiu quạnh thêm quạnh hiu. Cũng có người khen những vần ÐôÔ, Thưa, Xư, Ngư, ư trong bài Than Thời Loạn ở trên là làm cho người đọc thêm thấy rõ cảnh loạn thời Lê Trịnh. Thấy rõ là nhờ sự lủng củng của vần gây nên.
Khen như thế thật chẳng khác nào anh chồng si tình khen vợ mình nhờ chột một mắt mà trở thành tuyệt thế giai nhân.

Chúng ta không nên theo hùa.

Thơ là tiếng của lòng (tâm chi thanh). Thơ phải có nhạc mới dễ truyền cảm. Mà VẦN là một yếu tố quan trọng để tạo nhạc . Vậy chúng ta phải cố tránh những vần ép như những vần trên đây. nếu không dùng được những vần chính thì nên dùng những vần Thông gần nhau, cảng gần nhau bao nhiêu thì cảng quý bấy nhiêu.

Những Vần Thông gần nhau đi với nhữn vần sau đây :

Ai với Oai Ôi với Ơi – Ơi với Nơi – Au với Âu – Ay với Ây, Oay với IA – IA với Aya - Ui với Uôi – YÊU với Êu , iêu, iu, Âm với Ăm - Ong với Ông hay Ung - Anh với Oanh, ênh, inh, uynh - Yên với lên, Uyên ...v...v...

Chúng ta nên cẩn thận dùng những chữ đồng âm dị nghĩa như Trường là ruột và Trường là dài, Trường là chỗ nhiều người tụ họp (hội trường, trường học....) Bên Hán tự thì mặt chữ khác nhau, bên quốc ngữ thì khuôn giống nhau. Như thế bên Hán cũng như bên Việt đều là những chữ đồng vận và đều là Vận Chính. Nhưng không nên dùng gần nhau vì dùng gần nhau sẽ kém nhac, chẳng những kém mà còn hại là đằng khác :

Tầm phương bước lạc đến công trường
Thấy cảnh tình ai khỏi đoạn trường

Nghe thật không sướng tai !

Ðối với những tiếng đồng âm dị nghĩa trong thuần việt cũng thế. Nếu không để chúng ở một “ đầu sông tương”, một ở “cuối sông Tương” , như trong Thăng Long Thành Hoài Cổ của bà Huyện Thanh Quan, thì ít ra phải để cách nhau ở một bến đò, nghĩa là có chen một vần khác ở giữa . Ví dụ như bài Cảm Tác của T.X làm thời kỳ Ngô Ðình Diệm :

Mấy chục năm qua gió bụi mờ
Tưởng rày bớt đục hóa thêm nhơ
Mặt đành bôi mặt gà chung mẹ
Tay sẵn ngon tay gió phất cờ
Ruột đứt non sông trời Bến Hải
Sầu vương cây cỏ đất Cần Thơ
Ðêm Ðêm dưới nguyệt gươm mài hận
Ai nữa chung tay lật tế cờ ?

Nguyên tắc xếp vần về bên loại vần Trắc cũng như bên vần Bằng. Xin cử một bài thơ vần trắc làm mẫu :

Vành mâm xôi đề thằng Lạc
Nghĩ mình ti tiện không đài các
Văn chương vốn thiệt bợm mèo quào
Danh phận không ra cái cóc rác
Bởi thế bơ phờ thẹn núi sông
Dám đâu vúc vắc nhạo cô bác
các thầy nếu chẳng biết lòng cho
Trong có ông thần ngoài cặp hạc
Học Lạc

Thơ bỏ vần trắc nghe không du dương, uyển chuyển nên làng thơ ít ham thích, nhiều thơ vần trắc lưu truyền từ xưa đến nay không được bao lăm. Do đó các nhà thi học bảo rằng luật chỉ dùng vần Bằng, những bài dùng vần Trắc dù cho đúng niêm luật vẫn thuộc về cổ thể.

Thơ vần Bằng mà dùng chính vận còn lưu truyền không ít . Xin trích một bài Mùa Nực Mặc Áo Bông của cụ Tú Xương làm mẫu :

Bức sốt nhưng mình vẫn áo bông.
Tưởng rằng ốm dậy, hoá ra không!
Một tuồng rách rưới, con như bố
Ba chữ nghêu ngao, vợ chán chồng.
Ðất biết bao giờ sang vận đỏ,
Trời làm cho bõ lúc chơi ngông.
Gần chùa gần cảnh ta tu quách,
Cửa Phật quanh năm sẵn áo sồng

Bài thơ Tặng Vợ (Thương Vợ) của ông Tú sau đây vần gieo cũng thât là sướng :

Quanh năm buôn bán ở mom sông ,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo xèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng mười mưa, dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không

Vần bo đã dòn, tình lại thiết tha, giọng lại dí dỏm ! “Năm con với một chồng” có hai ý. Một là sáu miệng ăn, hai là năm con đó do một ông chồng sanh ra chớ không vì “buôn bán ở mom sông” mà có nhiều con đâu ! Bà Tú mà nhận thấy cái hóm hỉnh này thì cũng đấm cho ông ba cái đấm lưng là ít. Rồi lại nói “có chồng hờ hững cũng như không” . Cũng như không mà có đến năm con ! vậy nếu “không như không” thì bà Tú nuôi sao nổi ? Nội vẻ trào phúng kín đáo, và dễ thương đó, bài thơ cũng đủ có giá trị, huống còn tình tứ, còn văn chương mà vần chỉnh tề chiếm một phần quan trọng.

Chúng ta đọc thêm bài Thu Cảm của Tương An Quận Vương, một bài thơ gieo vần cũng thât khéo :

Bên cảnh bên tình khéo vấn vương
Sầu Thu đưa hạ chạnh trăm đường
Tiếng ve dày dặc nghe thêm thảm
Mặt nguyệt tròn hin ngó dễ thương
Vàng thếp giếng ngô sa lá gió
Bạc xuy dậu cúc nảy chồi sương
Sầu chong trắng đĩa không yên giấc
Lăm phá thành sầu đã hết phương

Xúc cảnh mà sinh tình, rồi mượn cảnh nói tình. Văn chương trang nhã, hàm xúc. không cần đi sâu vào nội dung chỉ đọc năm vần Vương , Ðường, Thương, Sương, Phương, cũng đã đủ khoái nhĩ. Thật là văn chương của bậc đại gia.

Xem những vần thơ được truyền tụng từ xưa tới nay, Tôi nhận thấy các nhà thơ chân chính đều chứ trọng sự gieo vần, và những bài thơ hay đều dùng chính vận.

Trần Vũ
09-03-2012, 05:26 PM
Thi Pháp Thơ Ðường - Canh Họa
Quách Tấn


Bức thư thứ hai mươi bốn

Các bạn thân mến,

Còn một lối thơ nữa cũng rất được thông dụng trong các thi xã thi đàn. Ðó là thơ CANH HỌA thường gọi là thơ HỌA VẬN .
CANH HỌA hay HỌA VẬN là đáp họa lại những vận ngữ (hay vận cước) được dùng trong một bài thơ khác, tức bài xướng. Vì vậy người họa trước hết phải xem bài xướng diễn tả sự gì, vật gì, ý cảnh như thế nào, thì mới đáp họa lại được .
Thơ CANH HỌA cũng là một lối thơ mà đề mục bị hạn chế như thơ Phú Ðắc .
Thơ CANH HỌA:

Về mặt hình thức thì có 3 thể là Thứ Vận, dụng vận và y vận.
Thứ Vận là dùng những vần mà theo đúng thứ tự của vần bài xướng . Ðây là lối phổ thông nhất xưa nay . Như thơ Ðông Hồ họa bài CÂY MAI của Tôn Thọ Tường đã dẫn trước đây, chẳng hạn.
Dụng Vận là dùng những vần bài xướng mà không cần theo thứ tự, có thể đem lên đem xuống tùy nghi. Như bài THƠ XUÂN của chủ nhân Diễm Diễm Thư Trang xướng .

Da ngọc ngà phô giấy nõn nường
Tóc huyền mun gợn mực yêu đương
Dịu thon lưng uốn đường sông núi
Trinh bạch lòng pha chút tuyết sương .
Xiêm áo phong phanh tờ lụa ngỏ
Phấn hồng thoang thoảng bụi hương vương
Nàng thơ kiều diễm Xuân kiều diễm
Chữ gấm lời hoa gửi bốn phương.

Vũ Hoàng Chương thứ vận :

Xuân mới ba mươi sáu nõn nường
Riêng cành mai cũ chiếm yêu đương
Dài sông nghĩa ấy tình cao núi
Pha tuyết thân này mặt nhuốm sương
Chẳng đợi đông quân làm đạo chủ
Vốn là hoa hậu sánh thi vương
Giang Nam mộng lẫn vào Giang Bắc
Trời bốn phương lòng chỉ một phương

Ðông Hồ dụng vận :

Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương
Tơ tình xưa để mối nay vương
Thơ lai láng khắp hồn kim cổ
Mực đậm đà thêm ý cỏ sương
Nhà ngọc mong treo vần diễm tuyệt
Lạng vàng dám đổi giá tương đương
Ơn nhờ son phấn duyên tri kỷ
Cho một lần Xuân một nõn nường

Bài họa này, Lộc Ðình Nguyễn Hiến Lê gọi là “gấm vóc đảo canh tơ” tức đảo lộn ngược 5 vần, dưới lên trên, trên xuống dưới . Tuy đảo ngược song vẫn theo thứ tự trước sau, trước sau theo chiều ngược. Ðó là theo ý thích của họa giả, chớ phép không buộc . Muốn để vần nào vào câu nào cũng được miễn là dùng những vần của nguyên xướng thì thôi .

Y Vận là dùng những vần cùng một vận bộ với nguyên tác chớ không theo những vần nguyên tác đã dùng . Ví dụ nguyên tác dùng những vần “phương, vương, sương, đương, nường” thì họa giả dùng những vần “tường, thương, hương, chương, dương” chẳng hạn. Những vần họa và những vần xướng nằm trong một vận bộ, bộ ương.

Lối Y vận không bó buộc, nhưng trong làng thơ quốc âm ít ai dùng ! Có lẽ thi nhân thấm lẽ ý nghĩa câu “nghệ thuật sanh nhờ nhờ bó buộc, chết vì tự do” (lárt nait de contrainte et meurt de liberté), nên mới đi tìm cái khó vậy !

Về nội dung thì có 6 phép : SONG HÀNH, SONG LẬP, TƯƠNG ỨNG, TƯƠNG PHẢN, KHAI TRIỂN, BỒ KHUYẾT .
Song Hành là đi song song với nhau, nghĩa là người xướng và người họa đứng trên một lập trường, cùng diễn tả một ý tưởng . Ví dụ bài của Phan Văn Trị họa vận bài TÔN PHU NHÂN QUI THỤC của Tôn Thọ Tường :

Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Ðông
Lìa Ngô bịn rịn vầng mây bạc
Về Thục trau tria phận má hồng
Son phấn thà cam dày gió bụi
Ðá vàng chi để thẹn non sông
Ai về nhắn với Châu Công Cẩn
Thà mất lòng anh được bụng chồng
Tôn Thọ Tường

Bài họa

Cài trâm sửa trắp vẹn câu tòng
Mặt giả trời chiều biệt cõi Ðông
Khói tỏa trời Ngô un sắc trắng
Duyên về đất Thục đượm màu hồng
Hai vai tơ tóc bền trời đất
Một gánh cương thường nặng núi sông
Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết
Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng
Phan Văn Trị

Song lập là đứng song song với nhau. Khác với Song Hành là xong hành ý đồng. Song Lập là ý không đồng nhưng không phản . Nghĩa là Xướng cùng Họa đứng chung một địa phận, nhưng mỗi bên diễn mỗi ý khác nhau. Song hành giống như hai con sông chảy song song, nước bên sông này, hoặc ẩn hoặc hiện, hoặc khi ẩn khi hiện, giao tiếp với nước sông bên kia. Còn Song Lập thì giống như hai ngọn núi đứng song song và ngó
mặt về một hướng, trên mặt đất không thấy mối liên lạc với nhau. Tuy khác ý, song ý không ra ngoài đề bài, cũng như trên mặt đất không thấy có mối liên lạc với nhau nhưng dưới đất vẫn cùng một sơn mạch . Ví dụ bài NGÀY XUÂN TƯƠNG TƯ của Tản Ðà xướng rồi tự họa ngược vần (dụng vận):

Trách cái tằm xuân nhả mối tơ
Làm cho bối rối mối tương tư
Sương mù mặt đất người theo mộng
Nhạn lảng lưng trời kẻ đợi thơ
Nghìn dặm dám quên tình lúc ấy
Trăm năm còn nhớ chuyện ngày xưa
Tương tư một mối hai người biết
Ai độc thơ này đã biết chưa ?

Hỡi giống đa tình đã biết chưa
Tơ tằm vương maĩ tự ngàn xưa
Gió mưa bốn bể hồn theo bạn
Vàng ngọc trăm năm túi nặng thơ
Lửa đốt lòng son câu thế sự
Gương soi tóc trắng nỗi sầu tư
Thuyền nan sóng đánh tàu than hết
Giương cột giăng buồm một sợi tơ (*)

(*) hai bài Ðông Hồ và Vũ Hoàng Chương họa THƠ XUÂN của Diễm Diễm thư trang trước đây, cũng thuộc về Song Lập.

Tương Ứng tức là xướng hô họa đáp; hoặc hưởng ứng từng câu, từng đoạn, hoặc dồn ý cả toàn thiên đáp ứng lại.
Phép trước như bài Nguyễn Khuyến hỏi thăm bạn mất cướp và ông bạn họa lại .

Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông
Nó lại lôi ông đến giữa đồng
Lấy của đánh người quân tệ nhỉ
Xương gà da cóc có đau không
Bây giờ mới thấy trầy da trán
Ngày trước đi đâu mất mảy lông
Thôi cũng đừng nên ky cóp nữa
Kẻo mang tiếng dại với phường ngông

Nguyễn Khuyến

Ông thăm tôi, tôi trả ơn ông
Nó có lôi tôi đến giữa đồng
Những tưởng vun thu phòng lúc thiếu
Nào ngờ ky cóp lại như không
Chém cha thằng quỉ đen tai mắt
Chẳng nể ông già bạc tóc lông
Ông nhắn khuyên tôi tôi biết vậy
Thương ông tuổi tác cháu thì ngông

Ông bạn

Phép sau như bài Xướng họa của Ngân Giang và Vũ Hoàng Chương

VÔ ÐỀ
Mây trắng lang thang mãi cuối trời
Gió chiều heo hút khắp nơi nơi
Cung đàn đã mấy dây chùng hẳn
Mái tóc bao nhiêu sợi lạnh rồi
Chốn ấy tờ hoa đành lẻ ý
Mùa này chim nhạn có chung đôi
Thương thay trên quãng đường chia ngả
Thì ngả nào không có lá rơi

Ngân Giang

Lửa khóa mây then bốn vách trời
Về đâu mộng cũng chẳng đành nơi
Vẫn chưa ý gởi vào thơ được
Mà đã dâu toan hóa biển rồi
Ngọn gió nghe chừng xoay mãi hướng
Vầng trăng ai nỡ xẻ làm đôi
Tin xuân lạnh lắm rồng ao cạn
Há chỉ phòng thu lệ nến rơi

Vũ Hoàng Chương

Tương Phản là Xướng và Họa đứng trên hai trận tuyến đối lập. Như bài của Ðông Hồ mượn lời Nhị Kiều họa vận bài TÔN PHU NHÂN QUI THỤC của Tôn Thọ Tường và 10 bài liên hoàn Phan van Trị họa 10 của Tôn Thọ Tường :

I
Giang sơn ba tỉnh hãy còn đây
Trời đất xui chi đến nỗi này
Chớp nhoáng thẳng bon dây thép kéo
Mây tuôn đen nghịt khói tàu bay
Xăng văng chậm tính thương đòi chỗ
Thấp thỏm riêng lo tiếc những ngày
Miệng cọp hàm rồng chưa dễ chọc
Khuyên đàn con trẻ chớ thày lay

II

Thày lay lại chác lấy danh nhơ
Ai mượn mình lo việc bá vơ
Trẻ dại giếng sâu lòng chẳng nỡ
Ðường xa ngày tối tuổi không chờ
Áo xiêm chán thấy xăn tay thợ
Xe ngựa nào toan gỡ nước cờ
Rủi rủi may may đâu đã chắc
Miệng lằn lưỡi mối hãy tai ngơ



BÀI HỌA

Hơn thua chưa quyết đó cùng đây
Chẳng đã nên ta phải thế này
Bến Nghé quản bao cơn lửa đỏ
Cồn Rồng đâu mặc bụi tro bay
Nuôi muông giết thỏ còn chờ thuở
Bủa lưới săn nai cũng có ngày
Ðừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ
Lòng ta sắt đá há lung lay

II

Lung lay lòng sắt đã mang nhơ
Chẳng xét phận mình khéo nói vơ
Người trí mảng lo danh chẳng chói
Ðứa ngu luống sợ tuổi không chờ
Bài hòa đã sẵn in tay thợ
Cuộc đánh hơn thua giống cuộc cờ
Chưa trả thù nhà đền nợ nước
Dám đâu mặt lấp lại tai ngơ
Phan Văn Trị

Khai Triển là nói thêm, bàn thêm những gì nguyên xướng đã nói đã bàn rồi nhưng chưa đủ, chưa trọn. Hoặc dựa vào nguyên xướng mà diễn thêm những ý mới làm cho ý nghĩa bài nguyên xướng thêm rộng rãi, rõ ràng .

Bổ Khuyết là bổ sung vào nguyên xướng những điều đáng nói mà nguyên xướng không nói vì quên hay không tiện nói ra .
Tức là Khai Triển là mở rộng ý nguyên xướng. Bổ khuyết là thêm ý vào cho nguyên xướng . Hai bên đều thêm, nhưng một bên thêm vốn vào (bổ khuyết), một bên lấy vốn cũ gây thêm lời mới (khai triển).
Xin lấy những bài xướng họa trong bữa lễ mừng thọ “Thất Tuần” của ông bạn La Dung cách đây chừng mười năm. Bài xướng của La Dung :

Non Hành sông Cấm hộ trì ta
Ngất nghểu trời Nam trẻ đến già
Bảy chục xuân rồi không lận bận
Bao nhiêu thu nữa chẳng bôn ba
Trăng lồng chén cúc hương say mộng
Mây trải đình lan bút trổ hoa
Lọ phải lên non tìm thuốc lạ
Linh chi sẵn cỏ mọc quanh nhà .

La Dung là một nhà giáo hưu trí, sính thơ, háo khách, cùng gia đình sống trong cảnh phú túc phong lưu. Bài thơ, văn chương tao nhã. Song đọc lên độc giả chỉ thấy là ông bảy mươi sung sướng từ nhỏ đến lớn, chớ không biết rõ thân phận hung hoài tác giả như sao. Thơ họa có trên 50 bài, song phần nhiều hoặc “cùng tác giả nắm tay nhau mà đi” (song hành), hoặc “đem mình ra đặt song song cùng tác giả để đọ thấp cao” (song lập). Cho nên thơ họa tuy nhiều mà không làm cho nguyên xướng sanh thêm hương sắc. Riêng lấy làm thích được hai bài, một của Hiểu Lam, một của Ðịnh Phong :

Rượu bảy tuần nâng chúc bạn ta
Bao nhiêu tuần nữa cũng chưa già
Song Nam dẫu gác roi Trình Tử
Trận bút còn hăng tiết Phục Ba
Chẳng bến Ðồng Giang phò chín đảnh
Cũng vườn Kim Cốc nhóm trăm hoa
Hỡi ai xa xứ tìm danh lợi
Chớ thấy phong quang đến lộn nhà
Hiểu Lam

Tiệc thọ Trung tuần mừng bạn ta
Vườn hưu cây kiểng thắm duyên già
Trăng treo viện bút hài tiên nữ
Hương rớt đàn xuân gió hạnh ba
Lầu phụng thanh thanh tiêu trổi ngọc
Tờ mây dợn dợn ráng in hoa
Diệu Trì nhón bước lên cao hái
Quả phước đem chia khắp mọi nhà
Ðịnh Phong

Bài của Hiểu Lam vừa khai triển vừa bổ túc . Bài của Ðịnh Phong vừa bổ túc vừa khai triển nghĩa là Hiểu Lam lấy việc khai triển làm chính . Ðịnh Phong lấy việc bổ túc làm chính .

Tác giả La Dung bảo từ trước tới giờ và từ nay về sau, mình không bị danh lợi làm bận rộn, nên trong đời mới hưởng được thú phong lưu . Hiểu Lam nói rộng ra : Nói là không bận rộn là không bận rộn về danh lợi, chớ trước kia bạn đã lo trọn đạo làn thầy được học trò quý mến chẳng khác thầy Trình ngày xưa . Bây giờ về vườn bạn lại hăng say trong nghề ngâm vịnh, hăng say chẳng kém Mã Viện đối việc chiến chinh . Ðó là không bận rộn trong chốn bận rộn một cách sinh động . Thú vui của bạn, thú vui nên thơ nên mộng kia, tuy không có ảnh hưởng đến nhân tâm thế đạo bằng thú đi câu của Nghiêm Tử Lăng đời Hán tại Ðồng Giang, song vẫn cho những hạng người say đắm vào nẻo lợi đường danh cam thấy rằng không phải chỉ có kim ngân và địa vị là quí . Bạn lại không ích kỷ hưởng thú một mình . Hoa viên của bạn là Tiểu Kim Cốc của Thạch Sùng còn để lại . Bạn thường nhóm thân hữu thân bằng lại để cùng bạn chung vui ... Vì vậy cho nên những người buôn danh bán lợi chớ thấy cảnh giàu sang của bạn mà tưởng lầm là “một hội một thuyền với mình”.
Bài của La Dung chỉ nói riêng về cá nhân tác giả, đọc lên chúng ta cảm thấy tác giả chỉ nghĩ đến mình, chỉ chăm hưởng thú một mình, không chút chú ý đến người chung quanh, cả đến những người thân cận nhất là vợ con ... Sợ người ta hiểu lầm bạn mình, Hiểu Lam mở rộng những ý “đã diễn tả chưa trọn” của bạn ra để thuyết minh với những bằng chứng cụ thể là việc làm quá khứ cùng hiện tại của bạn, hầu mong duyệt giả đừng hiểu lầm rằng bạn mình là một con người ích kỷ .

Hiểu Lam vừa khai triển vừa bổ túc là vậy đó .

Còn Ðịnh Phong thấy La Dung chỉ nói đến cái thú mình hưởng chớ không nói đến cái cảnh mình đã sống và đường sống, nên mới đem cảnh trước mắt và chảnh đã qua, bổ sung vào chỗ khiếm khuyết; Cảnh đẹp của đình hưu , danh thơm còn sót lại của bậc thầy học gương mẫu, cảnh hạnh phúc trong gia đình, tài văn chương của bạn. Và nhân bạn tự đắc về “cỏ tiên sẵn có” Ðình Phong lại khuyên nên bước thêm một bước nữa ... đừng nghĩ riêng một mình mình mà nên nghĩ đến “mọi nhà trong xã hội”, như thế mới là hoàn hảo .

Ðó là bổ túc và khai triển .

Những bài thơ thượng dẫn là những bài đã được nhiều người tán thưởng. Nhưng có phải là những bài theo đúng qui tắc thơ canh họa hay chăng ?

Muốn biết đúng hay sai, xin nói thêm về qui luật .

Họa vận phải theo 3 qui luật, ngoài những phép tắc đã nói trên , là :

1- Bài họa phải cùng một thể luật như bài xướng, nghĩa là hễ bài xướng thất ngôn luật bằng thì bài họa cũng vậy .
2 - Những vần của bài họa phải cùng một nghĩa với những vần bài xướng . Ví dụ vần bài xướng là đường là con đường thì bài họa cũng vẫn phải dùng vần đường với nghĩa con đường chớ không được dùng đường là đường mía, hay đường là nhà ... Vần bài xướng là vần châu là hạt châu thì không được dùng trong bài họa chữ châu là châu quận hay châu là thuyền
3 - Những chữ đứng trước vận ngữ bài họa, tức chữ thứ 6 trong câu bỏ vần, đều không được trùng với chữ đứng trước vận ngữ, tức chữ thứ 6 trong câu bỏ vần, bài xướng ...

Ba qui luật này được triệt để tuân thủ trong thơ chữ Hán. Nhưng trong thơ Quốc Âm, nhất là từ khi chữ Hán cáo chung, thì không còn được áp dụng một cách chặt chẽ nữa. Qui luật thứ 3 về chữ đứng trước vận cước, còn được phần đông thi nhân tuân theo. Hai qui luật trên, về thể luật và nghĩa của vần, không còn được mấy ai để ý. Chúng ta chỉ xem những bài thượng dẫn thì đủ thấy . Không mấy bài giữ đúng qui luật , bài thì phạm qui luật này bài thì phạm qui luật kia, có bài phạm đến hai qui luật, như bài Ðịnh Phong họa vận bài Thất Thập Tự Thọ của La Dung: bài xướng theo luật bằng (Non Hành: bằng bằng), bài họa theo luật trắc (Tiệc rượu: trắc trắc). Bài xướng hạ vần ba (trong bôn ba) chữ Việt, bài họa dùng vần ba (hạnh ba) là chữ Hán. (*) Bài của Hiểu Lam cũng bị lỗi ở vần ba. Bài Vũ Hoàng Chương và Ðông Hồ họa lại Thơ Xuân của Diễm Diễm thư trang, vừa lỗi ở vần (xướng: yêu đương ố họa: tương đương: xướng: hưng vương ố họa: thi vương) Vừa lỗi ở chữ đứng trước vần (xướng : nõn nường ố họa : nõn nường). Bài phan văn Trị họa bài TÔN PHU NHÂN QUI THỤC của Tôn Thọ Tường, bị phạm lỗi về thể luật (bài xướng : luật trắc - cật ngựa : trắc trắc; bài họa : luật bằng - cài trâm : bằng bằng), v.v...
Phạm luật nhưng sự vi phạm ấy không làm giảm giá trị bài thơ . Cho nên thi nhân không bận tâm là phải. Phạm luật mà hay còn hơn đúng luật mà dở . Nhưng vừa không phạm luật vừa hay thì mới thật là diệu thủ !

Thơ xướng họa là một lối thơ thù tạc, một lối thơ tiêu khiển.
Ðể mua vui với nhau, làng thơ còn bày ra nhiều lối thơ khác nữa . Thông dụng ngang ngang với thơ Canh Họa là thơ Phân Ðề .

PHÂN ÐỀ cũng gọi là thám đề, là chia ra để làm với nhau : người ta viết ra nhiều đề mục vào những mảnh giấy nhỏ gấp lại, mỗi người rút mỗi mảnh, ai trúng đề mục về sự gì, vật gì thì theo đó mà giải thích.
Vận thì hoặc để cho tự do lựa chọn, hoặc hạn một vần nào đó, hoặc dùng cách Phân Vận .

PHÂN VẬN:

Cách phân vận cũng như cách Phân Ðề. Người ta đưa ra một số chữ, mọi người rút lấy một chữ, ai rút trúng chữ nào thì dùng chữ ấy làm vần. Không phải chỉ riêng thơ Phân đề mới dùng cách phân vận. Cách này dùng chung cho mọi loại thơ tiêu khiển. Thơ khi ấy gọi là “phân vận đặc mổ tự” (mỗ là một chữ nào đó. Ví dụ rút được trong chữ hương thì nói “đắc Hương tự” chẳng hạn).

Nói tóm lại những loại thơ phân đề, họa vận cũng như thí thiếp, nghĩ tác, là những loại thơ mà đề mục bị hạn chế. Còn thơ làm ra do hứng, theo thích, thì đề tài được tự do lựa chọn, đề mục được tự do mệnh danh; tự do chọn đề, tự do đặt tên đề, song thân bài vẫn phải sát đề cũng không được lậu đề, phạm đề .

Nói về thơ mà đề bị hạn định, bấy nhiêu tưởng cũng đã tạm đủ. Hễ loại thơ này thông thạo, thì loại kia không còn khó khăn .

(*)Vần Ba(hạnh ba) ở đây, nếu nghiêm khắc thì bị đánh hỏng, vì ba tức là hoa mà vần họa lại dùng ở luận, bị lỗi điệp vận. nhưng vì theo vần quốc ngữ, ba là hoa khác âm khác mặt chữ, thêm văn chương bài thơ khả ái nên được duyệt giả thông qua .

QUÁCH TẤN

Trần Vũ
09-03-2012, 05:29 PM
Đối Ngẫu trong Thơ Đường luật.
Thi pháp thơ Đường- Quách Tấn


Ở VN cũng như ở Trung Hoa , đối ngẫu đã có trước khi Đường nhân đặt ra quy tắc và Hàn Thuyên du nhập quy tắc ấy vào VN.

Những câu phương ngôn, tục ngữ phần nhiều là những ngẫu cú, ngắn từ 2 chữ dài đến 7-8 chữ:
- Ao cá, Lửa thành
- Khôn nhà, dại chợ
-Liệu cơm, gắp mắm ....

-Đi đến nơi, về đến chốn
-Ăn coi nồi, ngồi coi hướng...

-Ăn trầu đỏ môi, ăn xôi ngọng miệng
-Canh một chưa nằm , canh năm đã dậy...

- Có ăn có chọi mới gọi là trâu,không trước không sau ai cầu chi xẻ...

Chúng ta gặp Đối ngẫu chẳng những trong tục ngữ phương ngôn, mà chính trong ca dao chúng ta cũng thường gặp :

- Lươn ngắn lại chê chạch dài
Thờn bơn méo miệng chê trai lệch mồm

-Khuyên chàng đọc sách ngâm thơ
Dầu hao thiếp rót đèn mờ thiếp khêu...

Từ nghìn xưa, Đối ngẫu đã có trong ngôn ngữ.Nhưng khách làng thơ Việt Nam không rút ra làm thành nguyên tắc để áp dụng vào văn chương. Sau khi Hàn Thuyên dùng luật thơ Đường làm thơ Nôm thì phép đối ngẫu mới thịnh hành trong nước.

Trong làng thơ Quốc âm, thịnh hành nhất là phép Chỉnh đối cũng gọi là Thiết đối.

Theo phép nầy, cổ nhân còn để lại rất nhiều giai tác như thơ Phạm Thái, Tương An, Hồ Xuân Hương,bà Huyện Thanh Quan...

Phép TÁ ĐỐI :

Phan Sào Nam tiên sinh có một bài dùng Tá Đối rất tài tình :

Vàng khè trắng toát khác đôi bên
Mặc kệ người chê mặc kẻ khen
Non nước lỡ làng màu lịch sự
Gió trăng chờn chợ mối nhân duyên
Chẳng long lay đến lòng son sắt
Há hổ ngươi vì miếng bạc đen
Ba bữa xong rồi ai ấy bạn
Một pho kinh Phật một cây đèn

Lẻ tẻ từng cặp một ,trong làng thơ còn truyền nhiều câu đáng yêu:

- Thi năm bảy khóa mà không đỗ
Dịch mấy mươi phen vẫn hãy còn

-Một thớt cùm lim ngồi thế đế
Hai vòng xích sắt bước thời vương

- Rượu thấm hơi bầu khôn cũng dại
Cờ lâm nước bí dưới quên trên

Chợ đối với Làng, Long đối với Hổ... đều mượn tiếng mà đối.Cả hai tiếng đối nhau đều " tiến bóng"
Thi và Dịch cả hai tiếng vừa thiệt vừa bóng : thi là thi cử, Dịch là dịch lệ(nghĩa thiệt) ,lại còn mượn đến hai bộ sách Kinh Dịch và kinh Thi để chọi nhau ( đối bóng ). Còn bầu và bí , đế và vương, một bên thiệt ( bầu là bầu rượu, đế là ghế ngồi),một bên bóng ( bí là bị kẹt,là bí nước, vương là vướng vấp, mượn làm trái bí làm tước vương )

Kể cũng lý thú,song thuộc hàng tiểu xảo,hàng hạ thừa, thỉnh thoảng dùng chơi thì được chớ lạm dụng thì không nên. Mà nên dùng phép LƯU THỦY ĐỐI ,phép nầy nếu thiện dụng thì lời thơ trôi chảy,nhẹ nhàng như nước đầu nguồn tuôn vào lòng suối.
Ví như bài :

ĐI THI TỰ VỊNH

Đi không chẳng lẽ lại về không
Gánh nợ cầm thư phải trả xong
Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Trót đem thân thế hẹn tang bồng
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Trong cuộc trần ai ai dễ biết
Rồi ra mới tỏ mặt anh hùng

Nguyễn Công Trứ

Cảm Tác

Tủi biết bao nhiêu hổ biết bao
Anh em ta phải tính làm sao
Thà không trời đất không chi cả
Còn có non sông có lẽ nào
Hãy xúm đôi tay chèo chống lại
Để cho muôn mắt ngóng trông vào
Dòng thần con cháu hăm lăm triệu
Cũng mái đầu đen giọt máu đào

Phan Bội Châu


Phép TIỂU ĐỐI tức Cú Trung Đối và ĐƯƠNG ĐỐI tức Tựu Cú Đối, làng thơ Quốc âm cũng thường dùng

Cướp của đánh người quân tệ nhỉ
Xương gà da cóc có đau không
Nguyễn Khuyến

Sớm đợi hôm chờ mòn mõi mắt
Năm lừa mười lọc nhọc nhằn công
Khuyết Danh

Cướp của- đánh người : đối với nhau
Xương gà, da cóc : đối với nhau
Năm lừa, mười loc : đối với nhau

Làm anh chị phải thương em út
Cho dưới trên thường được ấm êm
Khuyết Danh

Nếu quả trời xanh ghen má phấn
Đừng mong cưới vợ để sinh con
Khuyết Danh

Làm anh chị đối với Thương em út
Cho dưới trên đối với Được ấm êm

Quả trời xanh đối với Ghen má phấn
Mong cưới vợ đối với Để sinh con

Hai câu TIỂU ĐỐI đối với nhau thành một cặo ĐƯƠNG ĐỐI.
Hai bên chỉ khác nhau ở điểm là Tiêủ đối có đối trong từng câu một .ĐƯƠNG ĐỐI trong từng câu một không có chữ đối nhau.
Nhìn chung cả liên thì Đương đối cũng như Tiểu đối, một câu dùng một nhóm chữ trong tự loại nầy để đối với một nhóm chữ trong tự loại khác:

Bèo mây xuôi ngược nhiều sương nắng
Thương nhớ ngày đêm lẫn tủi hờn
Khuyết Danh

Đương Đối cũng gọi là Điệu Đối.
Cố thi sĩ Hư Chu có một cặp Điệu đối rất tài tình :
Rừng lại suối rồi khe lại suối
Đây là đâu nữa đó là đâu
Hai câu nầy cũng như những câu Đương Đối trên, nếu tách riêng từng chữ, từng nhóm chữ thì không thể đối nhau được vì tự loại bất đồng.Nhưng về cú điệu thì thật cân xứng từng nhịp.

Và Vũ Hoàng Chương có câu :
Kinh Phật chữ Không là chữ Sắc
Kệ người ai tiến với ai lui

Gồm 4 phép đối:
-Ảnh đối : Kệ đối với kinh
-Chỉnh đối : Người đối với Phật
- Tiểu đối :Vế trên Chữ Sắc đối với Chữ Không; vế dưới Ai lui đối với Ai tới
- Đương đối : Ai tiến với ai lui đối với Chữ Không là Chữ Sắc

(Sưu tầm)