PDA

Xem phiên bản đầy đủ : Phùng Há - 100 năm bây giờ mới kể



TRUNGTRUNGNIEN
05-07-2012, 12:06 PM
.





Kỳ 1: TUỔI THƠ CAY ĐẮNG

Tròn ba năm từ ngày NSND Phùng Há ra đi (5-7-2009, 13-5 âm lịch), cuộc đời gần trọn thế kỷ của bà trở lại với bạn đọc qua câu chuyện kể của NSƯT Nam Hùng - người được Phùng Há nhận làm con nuôi năm 1950.



http://www.thanhnien.com.vn/Pictures20127/CongDong/030712/NSND-Phung-Ha-d.jpg

Nghệ sĩ nhân dân Phùng Há thời trẻ - Ảnh tư liệu gia đình


"Những chuyện tôi viết ra đây do má tôi kể hoặc do bà con trong gia đình kể lại, cũng có chuyện do tôi chứng kiến", NSƯT Nam Hùng viết vậy khi gửi cho Tuổi Trẻ tập bản thảo 14 trang đánh máy. Tuổi Trẻ trích đăng.

Như một ngày hội lớn, bà con của hai gia đình, bạn bè thân hữu, chòm xóm thân quen cùng nâng ly chúc mừng ngày thôi nôi của bé Trương Phụng Hảo.

Sinh ngày 30-4-1911, Phụng Hảo là con thứ sáu của ông Trương Nhơn Trường ở làng Hạt Sơn, Quảng Đông, Trung Quốc, và mẹ là bà Lê Thị Mai, người làng Điều Hòa, Mỹ Tho. Hai ông bà chung sống với nhau có được bảy người con, ba trai bốn gái: Trương Tích Kỳ (con trai trưởng), Trương Ngân Hảo (nữ), Trương Liên Hảo (nữ), Trương Tích Hoa (nam, mất lúc còn nhỏ), Trương Tích Trung (nam), Trương Phụng Hảo (nữ), Trương Nguyệt Hảo (nữ).

Lễ thôi nôi được ăn mừng lớn hơn các anh em khác trong nhà cũng vì một lẽ: từ lúc mang thai bé Phụng Hảo, gia đình bắt đầu làm ăn khấm khá, từ một tiệm bán thịt bò nho nhỏ mà chỉ trên một năm đã mở lớn hơn và thêm một trại cưa lớn. Gia đình mới mời một thầy bói người Hoa đến xem tướng mạo cho bé Phụng Hảo, ông thầy xủ quẻ bảo rằng: "Cô bé mặt mày rất sáng, đẹp như nàng tiên trong tranh vẽ, mà tiên thì ở trên trời, tiên trốn xuống trần tiên sẽ bị đọa". Quẻ báo rằng: "Bé Phụng Hảo tương lai sẽ là một tài nữ được sống trong vinh hoa phú quý, nhưng lại nhiều khổ lụy trong cuộc tình".


Vượt ngàn dặm thọ tang cha

Cuộc sống gia đình yên vui, công cuộc làm ăn càng ngày càng sung túc. Khi bé Phụng Hảo được 7 tuổi thì ông Trương Nhơn Trường đột ngột từ trần chỉ sau vài ngày lâm bệnh. Bà Mai điện về Trung Quốc cho bên nội của các con hay. Đang chuẩn bị mai táng chồng thì bà Mai nhận được một bức điện tín từ Trung Quốc đánh sang: "Hãy hỏa táng ông Trương Nhơn Trường, bà Mai và tất cả các cháu phải đưa ông Trường về làng Hạt Sơn, Trung Quốc". Bà Mai vô cùng bối rối.

Đường đến làng Hạt Sơn, Trung Quốc xa xôi vạn dặm. Thôi thì đành nhắm mắt đưa chân cho tròn câu đạo lý... Bà cùng sáu người con mua vé tàu thủy ra đi. Ở lại Mỹ Tho chỉ còn người con trai trưởng là Trương Tích Kỳ và em trai của ông Trường cùng trông coi gia sản.

Tang ma chu toàn nhưng lệnh của dòng họ là bà Mai và các con phải ở lại thọ tang ba năm. Ở lại Trung Quốc sống một cuộc sống ăn nhờ ở đậu với người vợ lớn của ông Trường và gia đình bên nội của các con, ngày ngày mẹ con bà phải đi làm ruộng, làm vườn cùng mọi người, cuộc sống hết sức vất vả và khó khăn.

Thấm thoát đã gần ba năm, ngày trở về sắp đến thì bất ngờ nạn dịch trái rạ hoành hành dữ dội, rất nhiều người chết. Loa truyền của chính quyền buộc tất cả những người có bệnh phải tập trung về một nơi để chữa bệnh, ai không tuân lệnh sẽ bị bắt.

Bé Nguyệt Hảo bị trái rạ rất nặng, bé Phụng Hảo cũng bị lây. Cuối cùng bé Nguyệt Hảo đã không qua khỏi. Sau khi chôn cất bé Nguyệt Hảo, bà Mai không muốn Phụng Hảo bị đưa vào nơi tập trung trị bệnh nên xin phép gia đình bên nội gửi các con ở lại và tìm cách chạy giấy tờ mua vé tàu đưa bé Phụng Hảo trở về Việt Nam. Trung Quốc lúc này là mùa đông giá rét, tuyết rơi trắng ruộng đồng. Bé Phụng Hảo được che kín mặt mày cùng bà Mai xuống tàu trở về Mỹ Tho.


Phút hãi hùng trên biển

Chiếc tàu chở hàng hóa và mấy mươi hành khách người Hoa, thuyền trưởng là một người Pháp. Sau vài ngày lênh đênh trên biển, người trên tàu tình cờ phát hiện Phụng Hảo bị trái rạ. Mọi người xôn xao sợ hãi. Một buổi họp liền mở ra ngay trên boong tàu, một số người nhất quyết đề nghị đoàn phải bỏ bé Phụng Hảo xuống biển trên một chiếc bè có lương thực và nước uống, một số người khác không đồng ý. Người ta nói nếu không bỏ bé xuống biển, tất cả mọi người sẽ chết vì bị lây trái rạ, phải hi sinh một người để cứu nhiều người vì còn lâu tàu mới về đến Việt Nam.

Đa số đã thắng thiểu số, mặc bà Mai lạy lục thuyền trưởng và van xin mọi người. Mở chiếc bè trong đó có lương thực và nước uống thòng xuống biển, hai người đàn ông to lớn chụp bé Hảo toan bỏ xuống chiếc bè. Trong khi bà Mai gào khóc quyết nhảy theo con, bé Hảo hét la khủng khiếp thì một tiếng thét thất thanh ra lệnh dừng lại. Một phụ nữ từ trong phòng thuyền trưởng bước ra cương quyết không cho quăng bé Hảo xuống biển. Đó là vợ người thuyền trưởng - một phụ nữ Việt Nam rất đẹp. Vị thuyền trưởng và nhiều người cùng người phụ nữ tranh luận rất dữ dội. Người vợ thuyền trưởng nói: "Không ai có quyền giết người khi luật pháp chưa luận tội. Đứa bé vô tội, chúng ta phải có bổn phận chăm sóc chu đáo cho đến khi tàu cập bến An Nam. Trừ khi đứa bé chết trên tàu ta mới có quyền quăng xuống biển, nếu đứa bé có bề gì thì tôi sẽ là người đứng ra tố cáo". Thuyền trưởng và mọi người cuối cùng cũng đành đuối lý. Hai mẹ con được đưa vào ở một phòng nhỏ cuối tàu, gần phòng máy, được chu cấp thuốc men và nước uống.


Trở về Mỹ Tho

Qua nhiều ngày lênh đênh trên biển, mẹ con bà Mai cũng về đến quê hương, lạy tạ người nữ ân nhân, hai mẹ con chạy nhanh về nhà.

Ngôi nhà nơi hai mẹ con trở về lúc này do Trương Tích Kỳ cùng em trai của ông Trường quản lý. Bà Mai kể cho gia đình nghe những niềm đau và nỗi khổ suốt mấy năm thọ tang ở Trung Quốc, những ngỡ nhận được sự chia sẻ của những người thân yêu ruột thịt, nhưng thật bất ngờ khi con trai và chú ruột của Phụng Hảo lại không muốn cho cả hai ở lại nhà mà còn định mua vé tàu đưa bà và Phụng Hảo trở lại Trung Quốc. "Mẹ phải về với các em!" - người con trai nói. Còn người em chồng thì bảo bà Mai phải về chăm sóc mộ phần của ông Trương Nhơn Trường. Đau đớn, tức giận, bà đành đưa bé Phụng Hảo rời khỏi căn nhà thân yêu mà suốt bao năm bà đã cùng chồng gầy dựng.

Bà Mai dẫn Phụng Hảo về tá túc với bà ngoại ở chợ Giồng Nhỏ, Mỹ Tho. Từ lúc bà Mai cùng các con về thọ tang ở Trung Quốc, bà ngoại của bé Phụng Hảo sau một cơn bạo bệnh đã bị mù lại rất nghèo khổ, phải sống nhờ sự giúp đỡ của dòng họ. Bé Hảo phải ngày ngày mò cua bắt ốc phụ giúp mẹ nuôi ngoại.

Theo NSƯT Nam Hùng / Tuổi Trẻ
(Nguồn: TTO)

TRUNGTRUNGNIEN
26-07-2012, 01:05 PM
.




Kỳ 2: Cô đào trong lò gạch

Năm 1923, phong trào đờn ca tài tử nổi lên khắp nơi ở Mỹ Tho. Bé Phụng Hảo sáng đi bán trái cây, chiều đi học thêm, tối xin phép mẹ đi nghe đờn ca tài tử...



http://images1.tuoitre.vn/tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=575756

Nghệ sĩ Phùng Há và Ba Vân trong vở Khi người điên biết yêu - Ảnh tư liệu gia đình


12 tuổi, Hảo thích thú khi được nhìn những nghệ sĩ, nhạc sĩ mặc áo dài đen, đầu đội khăn đóng, bốn người ngồi bốn góc hình chữ bát, người ca ngồi ngay chính giữa trên bộ ván gõ; nhạc thì gồm: kìm, tranh, gáo và cò. Năm Phụng Hảo 13 tuổi, công việc bán trái cây hết sức cực khổ nhưng gia đình cũng không đủ sống, hai mẹ con xin vào in gạch cho lò gạch của ông Bang Hoạch.

Có những trưa hè oi ả, tiếng hát thánh thót của bé Hảo đã giúp cuộc sống của công nhân lò gạch thêm vui. Có những đêm mưa rả rích, người ta nghe văng vẳng tiếng hát phát ra từ căn nhà lá của bà già mù ở xóm Chợ Giồng.


Tài hoa lộ diện

Có phải những đau thương ngang trái của cuộc đời mà tuổi thơ đã nếm trải khiến bé Hảo dù không biết nhịp của bài hát là gì, bài hát điệu gì, nhưng khi cô bé cất lên tiếng hát thì ai bi não ruột. Tiếng đồn bay xa, ông Hai Cu - chủ ban hát Tái Đồng Ban - tìm đến nhà xin được nghe bé Hảo hát.

Thật lạ lùng! Bé Hảo hát một số bài trong ba Nam sáu Bắc rất đúng điệu. Giọng hát lời ca trong trẻo ngọt ngào, có lúc lại hùng hồn, có khi lại bi ai thống thiết. Đoán được tương lai rực rỡ của cô bé, ông đề nghị ký bản hợp đồng với số tiền 20 đồng trong ba năm (một số tiền rất lớn đối với người nghèo vào thời đó). Vậy là Phụng Hảo về ban hát Tái Đồng Ban, bà Mai được theo con ăn ở khỏi tốn tiền.

Qua nhiều tháng luyện tập ca cho đúng nhịp, hát cho đúng điệu, Phụng Hảo được nghệ sĩ Tư Chơi vừa dạy đàn, vừa dạy ca. Còn về diễn xuất do nghệ sĩ Năm Châu hướng dẫn. Đến năm 14 tuổi, Phụng Hảo đã có tên trên bảng quảng cáo với nghệ danh Phùng Há. Tên Phùng Há do bà Mai đặt từ âm hưởng Phụng Hảo mà ra.

Vai hát đầu tiên của Phùng Há trên sân khấu Tái Đồng Ban là vai Giả Thị - vợ của Hoàng Phi Hổ (trong tuồng Hoàng Phi Hổ quy châu của soạn giả Nguyễn Công Mạnh). Khán giả Mỹ Tho đã đổ xô đến xem ban hát Tái Đồng Ban diễn tại nhà lồng chợ Mỹ Tho, chứng kiến cô bé nghèo ở lò gạch ngày nào hát trên sân khấu. Bà Mai nghẹn ngào xúc động nhìn con gái y quang rực rỡ, mỗi khi cất lên tiếng hát mọi người đều chắc lưỡi hít hà.

Năm 1926 khi Phùng Há được 16 tuổi, đã vững vàng trên sân khấu, để đền ơn đáp nghĩa người đã có công luyện tập giúp đỡ rất nhiều cho Phùng Há nên danh, bà Mai đã đứng ra gả cô cho nghệ sĩ Tư Chơi.


Vào chốn đoạn trường

Nghệ sĩ Tư Chơi là một nghệ sĩ tài năng, đẹp trai, hát hay, đàn giỏi. Ngoài Việt văn, Pháp văn ông còn giỏi Hán văn. Sau này ông sáng tác nhiều vở cải lương rất nổi tiếng với bút danh Huỳnh Thủ Trung - tên thật của ông.

Nhưng cuộc đời có mấy ai biết được chữ ngờ. Đôi trai tài gái sắc chỉ chung sống với nhau trên đôi năm, có được một bé gái bụ bẫm đặt tên là Bửu Chánh thì gia đình xảy ra những bất hòa, tranh cãi quyết liệt và cuối cùng là chia tay mỗi người mỗi ngả.

Cô Phùng Há về đầu quân cho ban hát thầy Năm Tú ở Mỹ Tho, kép Tư Chơi ở lại ban hát Tái Đồng Ban. Cô Phùng Há được đón tiếp nồng hậu, hợp đồng tốt, lãnh lương cao và là đào chánh đóng cặp với nghệ sĩ Năm Châu.

Hôn nhân tan vỡ, năm 1928 nhiều nỗi đau đớn khác còn dồn dập đổ xuống cuộc đời cô đào trẻ: bà ngoại mất do tuổi cao sức yếu và người mẹ thân yêu cũng qua đời tại nhà thương Mỹ Tho. Chơi vơi một mình giữa bao nhiêu chông gai khắc nghiệt của cuộc đời, cô Phùng Há 18 tuổi đành gom góp tiền bạc nhờ người đưa con gái Bửu Chánh về làng Hạt Sơn, Trung Quốc gửi cho các anh chị chăm sóc và lo việc học hành.

Đau đớn như ai cắt từng đoạn ruột khi nhìn người ta bồng bé Bửu Chánh xuống tàu. Nhớ lại ngày nào cô cùng mẹ trải qua cơn thập tử nhất sinh giữa muôn trùng sóng dữ. Giờ đây cô chỉ biết chắp tay cầu xin trời Phật cho con được bình an khỏe mạnh, ăn học giỏi giang. Rồi một ngày không xa, khi cuộc sống được ổn định cô sẽ đón con về quê mẹ thân yêu.


Làm dâu đốc phủ

Bạch công tử tên thật là Lê Công Phước (tự là Phước George) sinh năm 1901, quê quán Chợ Gạo, Mỹ Tho, con của ông Lê Công Xủng - đốc phủ Mỹ Tho. Ông đốc phủ có hàng ngàn mẫu ruộng cò bay thẳng cánh, hàng trăm tá điền, ghe bầu chở lúa gạo đậu chật cả một khúc sông, có cả một dãy phố mua bán cạnh chợ Mỹ Tho.

Phước George là con trai duy nhất của ông đốc phủ với người vợ trước. Mười mấy tuổi, Phước George đã được cha cho đi du học ở Pháp, gần 30 tuổi mới trở về nước, được ông bà đốc phủ giao cho quản lý gia sản. Công tử Phước George có dáng dấp của một thư sinh mũi cao, trắng đẹp; tính tình phóng khoáng, rộng rãi, bặt thiệp, có thể tung tiền bất cứ ở đâu, bất cứ nơi nào, thường họp mặt bạn bè ở các nơi như nhà hàng, vũ trường, sòng bạc, sòng me..., rất được tình cảm của nữ giới và bạn bè.

Bạch công tử thích nhất là nhảy đầm, xem cải lương, nghe đờn ca tài tử. Ban hát thầy Năm Tú diễn ở đâu, cậu đều có mặt. Bạch công tử rất thích tuồng Mộc Quế Anh dâng cây mà người đóng vai Mộc Quế Anh phải là cô Phùng Há. Cậu thường nói: “Cô Phùng Há ở ngoài hiền hậu, nhu mì nhưng khi bước ra sân khấu cô sáng đẹp lạ lùng, lúc thì uyển chuyển khi uy nghi lẫm liệt như một tướng quân lâm trận”.

Khi ban hát thầy Năm Tú lên Sài Gòn diễn tại rạp hát Moderne gần chợ Bến Thành, ban hát diễn bao nhiêu đêm thì Bạch công tử có mặt bấy nhiêu đêm. Sau khi vãn hát, Bạch công tử thường mời cả đoàn ra nhà hàng ăn uống rồi lại trở về Mỹ Tho, hôm sau lại có mặt. Cứ đều đều như thế, khi cần ở lại đêm thì công tử thường ở khách sạn Continental.

Cách ăn chơi của Bạch công tử khiến ông bà đốc phủ rất lo lắng. Ông bà muốn cậu phải lấy vợ. Ông bà sẽ tìm những cô gái giàu sang quyền quý, môn đăng hộ đối hoặc đẹp nhất trong vùng nhưng Bạch công tử nhất quyết từ chối và xin cho cậu cưới cô đào hát. Ông đốc phủ quyết liệt phản đối, cương quyết không chấp nhận cô đào hát về làm dâu. Không được như ý muốn, Bạch công tử ăn chơi nhiều hơn, có khi nhiều ngày không về nhà, bà đốc phủ phải cho người đi tìm kiếm khắp nơi. Bà khóc lóc van xin ông đốc phủ cho Phước George được toại nguyện cưới cô đào hát.

Vậy là cô bé nghèo khổ ở xóm Chợ Giồng ngày nào nay nghiễm nhiên là dâu của ông bà đốc phủ, là vợ của Bạch công tử giàu sang nhất xứ. Cô đào hát về sống chung với gia đình ông bà đốc phủ, bà đốc phủ rất thương cô bởi tánh tình hiền lành chân thật. Năm 1928, Bạch công tử bàn với gia đình là ông sẽ lập một ban hát. Và năm 1929, sau nhiều tháng tập luyện, ban hát khai trương với bảng hiệu Huỳnh Kỳ tại nhà lồng chợ Mỹ Tho (Mỹ Tho ngày xưa chưa có rạp hát).

Một cuộc sống mới xán lạn mở ra trước mắt cô Phùng Há. Nhưng cũng từ đây, vinh hoa và cay đắng đeo bám cuộc đời cô...


-------------------------------


“Chuyện lạ lùng” ở Mỹ Tho

Ngày khai trương ban hát Huỳnh Kỳ như một ngày lễ hội, apphich, băngrôn treo rợp trời trên đường phố và chợ Mỹ Tho. Hai ghe bầu loại chở lúa lớn nhất được huy động để chở tranh cảnh, phông màn và nghệ sĩ, công nhân đậu tại bờ sông Mỹ Tho. Bạch Công Tử với bộ comlê màu trắng, đội nón màu trắng cùng cô đào Phùng Há trên chiếc xe hơi mui trần hiệu Fiat Sport từ bungalow (khách sạn) ở bờ sông chạy chầm chậm tới chợ Mỹ Tho - nơi ban hát Huỳnh Kỳ khai trương. Pháo nổ vang rền, người xem đứng chật hai bên đường, trẻ con thì hò reo inh ỏi, có người nói rằng: “Từ cha sanh mẹ đẻ đến bây giờ mới thấy chuyện lạ lùng như vậy”.

NSƯT NAM HÙNG
(Nguồn: TTO)