PDA

Xem phiên bản đầy đủ : Giai thoại văn chương



thái thanh tâm
17-08-2012, 11:11 AM
1- Sao mày đối thiếu một chữ?

Trong các bậc văn nhân tiền bối nước ta như các cụ Mạc Đỉnh Chi, Nguyễn Hiền, Lương Thế Vinh, bà Đoàn Thị Điểm đều nổi tiếng thông minh, văn hay chữ tốt khi còn nhỏ và làm cho mọi người nể phục.
Nhưng kỳ lạ hơn hết, thật không ai bằng cụ Trạng Vũ Công Duệ, người làng Trình Xá, tỉnh Sơn Tây, mới ngoài 20 tuổi đã đỗ Trạng Nguyên làm quan đến chức Đô Ngự Sử cuối đời nhà Lê. Tính khí của cụ rất cương trực khiến các quan văn võ đều nể sợ. Khi nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, cụ cương quyết không theo phe nghịch thần, cụ mắng chửi Mạc Đăng Dung thậm tệ rồi ôm ấn nhảy xuống cửa Thần Phù tự tử chết.
Thuở nhỏ Công Duệ nhà rất nghèo, một hôm cùng mấy bạn đồng lớp trên đường đi học, Công Duệ lấy đất sét nặn thành con voi, bắt bốn con cua làm chân, bắt hai con bướm làm tai, bắt một con đỉa làm vòi. Thành ra con voi bằng đất sét biết đi, biết vẫy tai và co vòi lên xuống.
Lúc đó một vị quan đang cưỡi ngựa đi qua thấy lạ liền dừng ngựa lại xem. Sau khi hỏi Công Duệ một vài câu, thấy Công Duệ đối đáp trôi chảy chứng tỏ là một đứa bé có học và thông minh nên vị quan muốn thử tài mới bảo:
- Mày đã đi học rồi, vậy ta ra cho câu đối, nếu mày đối được ta sẽ thưởng tiền cho.
Công Duệ đồng ý và vị quan ra câu đối như sau:
- Đồng tử lục thất nhân, vô như nhĩ xảo.
(Trẻ nít sáu bảy đứa, không ai hơn mày khéo)
Trước khi đối, Công Duệ hỏi vị quan:
- Thế ông là gì đã?
Vị quan trả lời:
-Ta là Lang Trung, mỗi tháng lãnh hai ngàn thạch lúa.
Quan nói xong, Công Duệ liền ứng khẩu đối:
-Lang Trung nhị thiên thạch, mạc nhược công...
(Quan Lang hai ngàn thạch, không ai bằng ông...)
Nghe Công Duệ đối như thế, vị quan ngạc nhiên mới hỏi:
-Tại sao mày đối thiếu một chữ?
Cậu bé Công Duệ mỉm cười, trả lời một cách hóm hỉnh:
- Còn một chữ nữa tôi để dành, hễ quan lớn thưởng tiền thật thì tôi đối là “Liêm”, bằng không thì tôi đối là “Tham”.
Vị quan nghe nói phải phục tài bèn móc túi thưởng tiền cho cậu bé Công Duệ để lấy được chữ “Liêm”, nên câu đối thành:
Lang Trung nhị thiên thạch, mạc nhược công liêm.
(Quan Lang hai ngàn thạch, không ai bằng ông liêm)

st

thái thanh tâm
17-08-2012, 11:17 AM
2. Đều ở “chỗ đó” mà ra

Giai thoại truyền tụng rằng, nguyên bà Đoàn Thị Điểm, hiệu Hồng Hà nữ sĩ, người làng Giai Phạm, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, em gái ông tiến sĩ Tuyết Am Đoàn Luân. Nữ sĩ sinh năm 1705 dưới triều vua Lê cùng thời với các ông Cống Quỳnh (Nguyễn Quỳnh) và Đặng Trần Côn. Bà nguyên họ Lê, đến đời thân phụ là Lê Doãn Nghi mới đổi ra họ Đoàn. Kén chồng mãi đến năm 30 tuổi mới về làm thứ thất Thượng thư Nguyễn Kiều. Ông Nguyễn Kiều sinh năm 1695, đỗ tiến sĩ năm 21 tuổi. Đến năm 1746, ông Nguyễn Kiều được bổ đi trấn nhậm tỉnh Nghệ An, bà theo vào nhưng chẳng may nửa đường nhuốm bệnh nên vừa đến Nghệ An thì bà tạ thế năm 1748, thọ 43 tuổi.
Bà Đoàn Thị Diểm vốn tư chất thông minh, học một biết mười vì thế bà đã nổi tiếng về văn chương ngay từ khi còn nhỏ. Bà là tác giả áng Chinh Phu Ngâm diễn Nôm do Đặng Trần Côn tiên sinh biên soạn bằng Hán văn, theo thể trường đoản cú, có nhiều câu dài đến 11 chữ và cũng có những câu ngắn chỉ có 3 chữ, sau đó được bà Đoàn Thị Điểm diễn Nôm theo thể song thất lục bát. Chinh Phụ Ngâm là một trong những áng thơ tuyệt tác của nền văn học Việt Nam. Một áng Chinh Phụ Ngâm diễn Nôm cũng đủ nói lên sự nghiệp văn chương lỗi lạc của nữ sĩ tài hoa dưới thời Lê Trung Hưng. Tư chất thông minh nầy được truyền tụng qua nhiều giai thoại văn chương như sau:
Năm bà lên 15 tuổi, một hôm ông Luân xuống bờ ao ngắm trăng, chợt thấy em gái mình đang soi gương vẽ lông mày bên cửa sổ bèn ra câu đối để trêu em gái như sau: “Đối kính họa mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm” (Soi gương vẽ mày, một chấm hóa thành hai chấm). Chữ điểm có nghĩa là cái chấm mà cũng có nghĩa là tên của bà Điểm.
Bà liền ứng đối ngay: “Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân””. (Ý nói, đến ao ngắm trăng, nhìn xuống ao, một ông Luân hóa thành hai ông Luân). Chữ “song luân” của bà đối với chữ “lưỡng điểm” của ông anh.
Đến đời vua Lê Tuần Tôn, nhân dịp có sứ giả Trung Hoa sang nước ta, bà Đoàn Thị Điểm bèn dựng một cái quán nước bên đường với dụng ý thử tài văn chương của các sứ giả Tàu. Vì có dụng ý nên các cây cột trong quán bà cho dán đầy các câu đối khiến phái đoàn sứ giả Trung Hoa thấy lạ nên tò mò vào quán vừa uống rượu vừa xem các câu đối. Sau khi xem qua các câu đối, phái đoàn sứ giả Tàu biết bà chủ quán cũng là một bậc nữ nhi xuất thân từ Cửa Khổng Sân Trinh nên ra câu đối có ý trêu chọc cô hàng nước Nam Quốc như sau: “An Nam nhất thốn thổ, bất tri kỳ nhân canh” nghĩa là “Nước Nam bé một tấc đất, chẳng biết có mấy người cày” (xin hiểu theo nghĩa bóng).
Bà Đoàn Thị Điểm liền ứng đối: “Bắc Quốc chư đại phu, giai do thử đồ xuất”, nghĩa là “các vị đại phu Nước Bắc (Trung Hoa) đều từ đó mà chui ra cả” (xin hiểu theo nghĩa bóng).
Qua câu đối của bà Đoàn Thị Điểm các sứ giả Tàu vừa thẹn vì nghĩa bóng của câu đối vừa phục tài của cô hàng nước Việt Nam. Nhờ các cuộc đối đáp và thử tài văn chương nầy mà triều đình ta được các sứ giả Trung Hoa hết sức kính nể và cũng từ đấy tên tuổi của bà Đoàn Thị Điểm lừng danh khắp nước về tài văn chương.

st

thái thanh tâm
17-08-2012, 12:38 PM
3. “Nói láo” qua thi phú

“Nói láo” là đặt điều, là bịa ra mà nói, là nói điều không đúng sự thật, và nói láo là một sự xấu. Ngày xưa, bầy tôi nói láo với vua là mang trọng tội. Chiếu theo luật pháp của các triều đại phong kiến, nói láo với vua là mang tội “khi quân” có thể bị xử trảm. Thế nhưng trong kho tàng văn chương ta có kẻ dám nói láo với vua và chẳng những không bị tội mà còn được nhà vua ban thưởng như giai thọai sau đây:
Số là, ông Đinh Nhật Thận hiệu Bạch Mao Am, sinh năm 1815, và mất năm 1860, người làng Thanh Liên, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Ông thi đỗ Đình Nguyên Khoa Mậu Tuất năm Minh Mạng thứ 19, tức vào năm 1838 dương lịch. Ông được bổ làm quan ít lâu thì chán cảnh hoạn trường nên cáo quan về sinh sống bằng nghề dạy học và bốc thuốc.
Ông Đinh Nhật Thận là bạn thân của nhà thơ “ngông” Cao Bá Quát, vì thế đến đời vua Tự Đức ông bị bắt giải về kinh vì bị tình nghi có nhúng tay vào vụ Cao Bá Quát khởi loạn. Nhưng vì không có bằng chứng nên được tha. Vua Tự Đức mến tài ông nên giữ ông ở lại kinh đô để dạy cho các tôn thất học.
Khi ở kinh thành, một hôm ông cùng các quan đại thần được theo ngự thuyền ngoạn cảnh trên sông Hương, nhân lúc vua và các quan đàm luận về đạo đức thánh hiền, ông có nhắc đến câu: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ xử tử tử, tử bất tử bất hiếu” (Vua khiến tôi chết, tôi không chết không trung; cha khiến con chết, con không chết không hiếu) và cho đó là một câu chí lý mà mọi người phải theo.
Nghe ông nói vậy, vua Tự Đức mới phán:
- Thế bây giờ trẫm truyền cho khanh nhảy xuống sông này mà chết đi, khanh có làm không?
Nghe nhà vua phán, các quan ai nấy đều lo cho số phận của ông vì không nhảy thì mang tội bất trung còn nhảy thì chết một cách oan uổng. Thế nhưng ông vẫn bình tĩnh, lạy tạ nhà vua xong rồi lao mình xuống sông Hương. Giòng nước bắn tung tóe, mọi người đều nghĩ đây là nơi an giấc nghìn thu của ông Đinh Nhật Thận. Thế là kết liễu một đời tài hoa không tội lỗi...
Nhưng chỉ giây lát sau ông ngoi đầu lên bơi đến bám vào ngự thuyền, vua Tự Đức thấy vậy bèn hỏi:
- Sao khanh không ở dưới đó mà chết đi còn trở lên đây?
Ông đáp:
- Thần định ở nhưng vừa xuống tới đáy sông thì gặp ông Khuất Nguyên, ông ấy đuổi thần lên và mắng thần bằng hai câu thơ như sau:
“Ngã phùng ám chúa hàm oan nhẫn!
Nhữ ngộ minh quân nịch tử hà?”
(Ta gặp vị vua hắc ám nên phải chịu chết oan đã đành,
còn người gặp một vì vua sáng suốt cớ sao lại chết đuối?)
Thần nghe ông ấy mắng đúng lắm nên phải lên đây tâu bệ hạ rõ.
Vua Tự Đức nghe qua cả cười, sai thị vệ đón ông lên ngự thuyền, lấy quần áo cho thay, rồi đích thân rót một chén rượu để khen thưởng. Thưởng cho cái tài ứng phó mẫn tiệp mặc dù biết đó là một câu chuyện hoàn toàn bịa đặt, tức là nói láo. (Khuất Nguyên là một thi hào của Trung Hoa, nhà vua của ông ham mê tửu sắc không lo việc nước, ông bèn khuyên can nhưng nhà vua không chịu nghe nên ông buồn chán viết thiên “Ly Tao” và làm bài phú “Hoài Sa” rồi cột đá vào người nhảy xuống sông tuẫn tiết để cảnh cáo nhà vua).
Đó là nói láo đấy, nhưng nói láo mà nhà vua phải khen, các quan phải phục và người đời sau ca tụng mãi mãi. Lối nói láo đó không làm hại gì ai, trái lại còn tô điểm cho kho tàng văn học thêm phong phú. Ở đời mấy ai không nói láo, nhưng đã mấy ai nói láo có nghệ thuật để thiên hạ biết mình nói láo mà vẫn nghe, vẫn phục và vẫn có thiện cảm!

st

thái thanh tâm
20-08-2012, 08:45 AM
4. Hỗn với tôi thì tôi vả vào mặt bây giờ!

Chuyện kể rằng có cô hàng nước vừa trẻ lại vừa đẹp, giỏi về văn chương, làu thông truyện Kiếu. Các cậu cống, ông đồ, nho sinh nghe đồn kéo đến rất đông, ai cũng muốn khoe tài với hy vọng được lọt vào “mắt xanh” của người đẹp. Nhưng đã từ lâu mà chưa ai địch nổi “mồm mép văn chương” của giai nhân. Một hôm có anh thư sinh vào quán uống nước nghỉ chân, cô hàng nước cũng quen thói như mọi lần, giở giọng “đàn chị văn chuong” ra trêu chọc chàng nho sinh. Nhưng chàng đối đáp trôi chảy lại có phần cứng cỏi. Cuối cùng cô nàng bèn ngâm hai câu Kiều:
Khen cho con... mắt tinh đời,
Anh hùng đoán giữa trần ai mới già!
Khi ngâm cô nàng nhấn mạnh ba chữ “khen cho con”, nghỉ một lát rồi mới đọc tiếp ba chữ sau thành câu thơ có nghĩa: “Khen cho con đấy, con ạ!”. Chàng nho sinh hiểu ý bèn ngâm hai câu thơ cũng trong Kiều:

Vả... trong thần mộng mấy lời,
Túc nhân âu cũng có trời ở trong.
Lúc ngâm, chàng cũng nhấn mạnh tiếng “Vả...”, cũng nghỉ một lát rồi mới đọc tiếp những tiếng sau cho nên câu thơ có ý nghĩa: “Hỗn với tôi thì tôi vả vào mặt bây giờ!”
Thấy chàng thư sinh đối đáp lưu loát, hóm hỉnh, cô nàng vừa thẹn, vừa phục và từ đó người đẹp cũng bỏ luôn cái thói lên mặt “đàn chị” với mọi người.

st

thái thanh tâm
20-08-2012, 08:54 AM
5. Dùng Truyện Kiều điều khiển trâu

Giai thoại truyền tụng rằng có anh thư sinh nọ quanh năm học ở tỉnh thành, nhân dịp năm cũ sắp hết được nghỉ học nên về quê ăn Tết. Đi qua một cánh đồng thấy mấy cô thôn nữ đang cho trâu ăn vừa cười đùa vui vẻ, chàng thư sinh liền tẻ vào đến làm quen. Thấy anh chàng thư sinh lững thững tiến đến, một cô trong bọn ngâm một câu Kiều:
Trông chừng thấy một văn nhân...
Rồi cô bỏ lửng, chàng thư sinh hí hửng, vuốt vạt áo the đứng ngóng nghe câu tiếp theo. Chợt một cô khác cất giọng:
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao...
Tưởng mình được mấy cô ví là Kim Trọng không dè các cô cắc cớ lại ví mình với Mã Giám Sinh nên anh ta vừa thẹn vừa tức. Tuy nhiên thấy các cô xinh xinh lại ngâm Kiều mà Kiều là sở trường của mình, anh chàng liền lên mặt thách thức:
- Chà, các cô thuộc truyện Kiều lắm đấy nhỉ?
Một cô nhanh nhẩu đáp:
- Chúng em quê mùa, ít học đâu dám khoe tài. Còn anh chắc giỏi Kiều lắm nên mới hỏi thế chứ gì? Vậy nhờ anh đọc một câu Kiều bảo con trâu đang đi ở chỗ kia đứng lại dùm tụi em xem nào.
Chàng thư sinh hơi chột dạ, tự nhủ: “Chết chửa, xưa nay mình có dùng Kiều để điều khiển trâu bao giờ đâu?” Tuy thế anh ta cũng tìm được hai câu Kiều và tin chắc rằng sẽ điều khiển con trâu đứng lại nên anh chàng mạnh dạn đọc:
Tần ngần “đứng” suốt giờ lâu,
Dạo quanh chợt thấy mái sau có nhà.
Anh ta cố ý đọc to chữ “đứng” để con trâu đứng lại nhưng con trâu vẫn lững thững bước đi khiến các cô cười ầm. Tưởng con trâu chưa nghe, anh lại đọc hai câu khác:
Trong vòng tên đá bời bời,
Thấy Từ còn “đứng” giữa trời trơ trơ.
Lần này anh thư sinh hét to chữ “đứng” nhưng con trâu vẫn tiếp tục đi.
Một cô liền nói:
- Thôi, anh chả bảo nó được đâu, để em bảo dùm cho. Đoạn cô ngâm:
“Họ”... Chung có kẻ lại già,
Cũng trong nha dịch lại là từ tâm.
Cô đọc to và kéo dài chữ “Họ”, quả nhiên con trâu đứng lại ngay. Kế đó, một cô khác lại thách:
- Bây giờ đố anh bảo con trâu đi rẽ sang phải đấy?
Bị “xệ” quá, muốn gỡ thẹn, anh thư sinh liền đọc luôn:
Nàng rằng: Phận gái chữ tòng,
Chàng “đi” thiếp cũng một lòng xin “đi”.
Chàng thư sinh nhấn mạnh hai tiếng “đi”, con trâu đi thật nhưng lại đủng đỉnh đi thẳng chứ không rẽ bên phải. Anh ta bèn chạy theo con trâu đọc lại lần nữa nhưng nó cũng cứ đi thẳng. Chợt nhớ ra một câu khác, tin chắc lần này thế nào cũng có kết quả, anh chàng dõng dạc ngâm:
Rẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha.
Chàng ta cố ý kéo dài chữ “rẽ”, nhưng con trâu vẫn chậm rãi đi thẳng khiến các cô lại ôm bụng cười một lần nữa. Anh chàng tiu nghỉu, thẹn tím cả mặt. Bấy giờ một cô trong bọn mới cất giọng ngâm:
Một vùng cỏ mọc xanh rì,
Nước ngâm trong “vắt” thấy gì nữa đâu.
Cô nhấn mạnh chữ “vắt”, quả nhiên con trâu ngoan ngoản rẽ sang bên phải. Tiếng “họ” và tiếng “vắt” là những tiếng mà người miền quê dùng để điều khiển trâu bò, “họ” là đứng lại, còn “vắt” là rẽ sang phải.

st

thái thanh tâm
22-08-2012, 08:29 AM
6. Câu thơ nên nghĩa:

Vua Lê Thánh Tông (1442-1497) có tên thực là Tư Thành,lúc còn niên thiếu thường gọi là hoàng tử Hiệu. Ông rất thông minh và chăm học. Các môn kinh sử , luật, lịch, thi, họa, ông đều tinh thông. Đặc biệt ông rất chuộng văn học.
Tương truyền, một buổi chiều mùa hạ,hoàng tử Hiệu đi hóng mát trên bờ sông đào vùng Tống Sơn (Thanh Hoá) tình cờ gặp một cô gái đang vo gạo ở một bến nọ . Cô gái nhan sắc tuyệt vời , khiến hoàng tử không sao bỏ đi được. Đứng tần ngần hồi lâu, hoàng tử liền đọc bỡn một câu thơ rằng :

Gạo trắng nước trong, mến cảnh lại càng thêm mến cả ...
Câu văn của hoàng tử tuy còn bỏ lững,nhưng ý nghĩa đã quá rõ ràng. Cô gái nghe xong vẫn cứ cúi đầu làm thinh. Mãi lúc cắp rá gạo ra về, cô mới ngoái cổ đáp lại:

Cát lầm gió bụi, lo đời đâu đấy hẵng lo cho …
Câu này cũng bỏ lững, thiếu chữ như câu trên nhưng nghĩa cũng rõ lắm. Ý nói đời đang loạn lạc, làm thân nam nhi nên ra tay giúp đời trước đã, rồi sau có nghĩ đến chuyện mình hay chuyện ai hẵng hay.
Nghe lời cô gái, hoàng tử càng thêm yêu mến bội phần. Sau đó, hỏi dò mới biết đó là cô Ngọc Hằng con một vị quốc công,mẹ vì bị tình phụ nên đưa cô đến ở vùng này làm ăn. Từ đó, hai người thường gặp nhau luôn.
Sau này, khi hoàng tử lên ngôi thì Ngọc Hằng trở thành hoàng hậu của nhà vua.
st

thái thanh tâm
22-08-2012, 08:31 AM
7. Hồn bướm mơ tiên:

Nhân dịp đầu xuân, vua Lê Thánh Tông ngự thăm nhà Thái học (Văn miếu), lúc về ghé qua chùa Ngọc Hà ở thôn Thanh Ngô gần đấy (1).
Tới nơi, vua thấy cảnh trí u nhã, hoa cỏ xanh tươi, lại nghe tiếng ni cô tụng kinh vang vang trong chùa. Giọng ni cô trong như nước suối,mà du dương uyển chuyển lạ thường , khiến người nghe dường như cũng phiêu diêu trong thế giới cực lạc. Nhà vua hứng tình, nguồn thơ lai láng, liền
đề ngay lên vách chùa hai câu thơ :

Tới nơi thấy cảnh thấy người,
Tuy vui đạo Phật chưa nguôi lòng trần !

Rồi nhà vua lấy hai câu ấy làm đầu đề, bắt các quan tùy tòng ngâm vịnh. Lúc ấy, Thân Nhân Trung, một trong hai vị phó soái của "Tao đàn nhị thập bát tú" có thơ vịnh như sau :

Ngẫm sự truyền duyên khéo nực cười,
Sắc không tuy bụi, hẫy lòng người.
Chày kình một tiếng tan niềm tục,
Hồn bướm ba canh lẳn sự đời.
Bể ái ngàn trùng mong tát cạn,
Nguồn ân muôn trượng dễ khơi vơi.
Nào nào cực lạc là đâu tá?
Cực lạc là đây chín rõ mười!

Vua trao bài thơ cho ni cô xem, ni cô chê hai câu "thực" thiếu ý cảnh và sửa lại rằng:

Gió thông đưa kệ tan niềm tục,
Hồn bướm mơ tiên lẳn sự đời.

Nhà vua khen hay, rồi đưa luôn ni cô về cung. Nhưng kiệu đi tới cửa Đại Hưng (2) thi ni cô chợt biến mất. Lấy làm lạ, vua bèn sai dựng ở đó một cái lầu gọi là "Vọng tiên lâu" để lưu dấu người tiên.

(1) Tức đền Ngọc Hà ở phố Nguyễn Khuyến (phố Sinh Từ của Hà Nội bây giờ)
(2) Chợ cửa Nam bây giờ

st

thái thanh tâm
22-08-2012, 08:33 AM
8. Xanh vàng đỏ tía:

Tết Nguyên Đán. Ở kinh thành, nhà nào nhà nầy đều treo đèn kết hoa và dán đầy những câu đối lòe loẹt để mừng xuân.
Tối ba mươi, vua Lê Thánh Tông giả làm người học trò,đi chơi xem các câu đối ở phố phường . Chợt qua cửa nhà một người đàn bà làm nghề thợ nhuộm, thấy không có câu đối, nhà vua lấy làm lạ ghé vào hỏi. Người đàn bà bảo là góa chồng, con trai đi học xa; nhà vua liền bảo lấy giấy bút và viết hộ một đôi câu đối như sau :


Thiên hạ thanh hoàng giai ngã thủ,
Triều trung chu tử tổng ngô gia. (1)
Dịch :
Xanh vàng thiên hạ đều tay tớ,
Đỏ tía triều đình bỡi cửa ta.

Mấy ngày sau, ông thượng thư họ Lương (2) đi chầu qua nhà thợ nhuộm thấy câu đối có khẩu khí như vậy thì hoảng hốt vô cùng. Vào triều, ông ta vội vã tâu ngay với vua rằng nhà nọ có ý muốn làm bá chủ thiên hạ, cần phải cho người dò xét.
Lê Thánh Tông nghe xong, phì cười và nhận câu đối đó là do chính tay mình viết hộ, làm cho ông thượng họ Lương bị một phen tưng hửng.
Nhưng rồi, để bù vào sự bẻ bàng ấy, khi về nhà , ông thượng họ Lương nghĩ rằng nhà thợ nhuộm mà lại được thiên tử ngự giá đến nhà, chắc con cháu sau này sẽ giàu sang rất mực,bèn đem ngay con gái mình gả cho con trai nhà thợ nhuộm.

(1) Có sách ghi tác giả 2 câu đối này là vua Thiệu Trị và hơi khác :
Thiên địa huyền hoàng đô ngã thủ,
Triều đình chu tử tổng ngô môn.
(Đen trời, vàng đất nhờ tay mỗ,
Mũ tía, xiêm điều chật cửa ta.)
(2) Có lẽ là Lương Thế Vinh, người Vụ Bản, Nam Định, đỗ trạng nguyên
đời Quang Thuận (1463).

st

thái thanh tâm
22-08-2012, 08:35 AM
9. Tận thu lòng dạ thế gian:

Một dịp năm mới, vua Lê Thánh Tông ăn mặc giả làm thường dân ra phố chơi để xem xét tình hình dân chúng.
Đi tới đâu nhà vua cũng thấy la liệt những câu đối ca ngợi cảnh thái bình thịnh trị, nên trong lòng rất vui thích . Riêng nhà nọ,chẳng treo đèn, kết hoa mà cũng chẳng đối liễn gì hết . Vua ghé vào hỏi, chủ nhà trả lời rằng :
- Chả nói giấu gì bác, nhà cháu làm cái nghề hèn hạ quá, nên chẳng dám phô phang gì với ai cho thêm tủi !
Vua ngạc nhiên hỏi :
- Sao lại có nghề gì là nghề hèn hạ ?
- Dạ, nhà cháu chỉ chuyên đi hót phân người để bán thôi ạ !
Nghe xong, vua cười nói :
- Nếu vậy, nhà bác đây là sang trọng bậc nhất, mà nghề của bác cũng vẻ vang bậc nhất. Câu đối của bác nếu dán lên cũng hay bậc nhất,việc gì mà
lại kêu là hèn !
Rồi vua gọi lấy giấy bút, đề giùm cho một đôi câu đối như sau :


Ý nhất nhung y, năng đảm thế gian nan sự,
Đề tam xích kiếm, tận thu thiên hạ nhân tâm.
Nghĩa là :
Khoác một áo bào, đảm đang khó khăn thiên hạ,
Cầm ba thước kiếm, tận thu lòng dạ thế gian.
Khách qua lại nhìn thấy câu đối, ai cũng kinh ngạc xôn xao.

st

thái thanh tâm
22-08-2012, 08:37 AM
10. Sư sử sứ, phụ phù phu:

Vua Lê Thánh Tông đi kinh lý vùng Sơn Nam Hạ, ghé thăm làng Cao Hương , huyện Vụ Bản , quê hương của trạng nguyên Lương Thế Vinh, lúc bấy giờ cũng đang theo hầu vua.
Hôm sau, vua đến thăm chùa làng. Khi ấy sư cụ đương bận tụng kinh. Bỗng sư cụ đánh rơi chiếc quạt xuống đất. Vẫn tiếp tục tụng,sư cụ lấy tay ra hiệu cho chú tiểu cúi xuống nhặt, nhưng một vị quan tùy tòng của vua đã nhanh tay nhặt cho nhà sư .Vua trông thấy vậy , liền nghĩ ra một vế câu đối,rồi trong bữa tiệc hôm đó thách các quan đối. Vế ấy như sau:
Đường thượng tụng kinh, sư sử sứ.
Nghĩa là:
Trên bục đọc kinh, sư khiến sứ (nhà sư sai khiến được quan).
Câu này oái oăm ở ba chữ "sư sử sứ". Các quan đều chịu, chẳng ai nghĩ ra câu gì.
Trạng nguyên Lương Thế Vinh cứ để cho họ suy nghĩ chán chê. Ông ung dung ngồi uống rượu, chẳng nói năng gì. Vua Thánh Tông quay lại bảo đích danh ông phải đối,với hy vọng đưa ông đến chỗ chịu bí. Nhưng ông chỉ cười trừ.
Một lúc, ông cho lính hầu chạy ngay về nhà mời vợ đến. Bà trạng đến, ông lấy cớ quá say xin phép vua cho vợ dìu mình về.
Thấy Vinh là một tay tài ứng đối mà hôm nay cũng đành phải đánh bài chuồn , nhà vua lấy làm đắc ý lắm , liền giục: “Thế nào? Đối được hay không thì nói đã, rồi hẵng về chứ?”
Vinh gãi đầu gãi tai rồi chắp tay ngập ngừng:
- Dạ ... muôn tâu. Thần ... đối rồi đấy chứ ạ!
Vua và các quan lấy làm lạ bảo Vinh thử đọc xem. Vinh cứ một mực : “Đối rồi đấy chứ ạ!” hoài. Sau nhà vua gạn mãi,Vinh mới chỉ vào người vợ đang dìu mình, mà đọc rằng:
Đình tiền tuý tửu, phụ phù phu.
Nghĩa là:
Trước sân say rượu, vợ dìu chồng.
Nhà vua cười và thưởng cho rất hậu.
*****
st

thái thanh tâm
23-08-2012, 03:16 PM
11. Giai thoại về Nguyễn Trãi (1380-1442)


Nguyễn Trãi (阮廌), hiệu là Ức Trai (抑齋), quê ở xã Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương) sau dời về làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc nay là huyện Thường Tín, Hà Nội. Ông là con của ông Nguyễn Phi Khanh và bà Trần Thị Thái, là cháu ngoại của Tư đồ Trần Nguyên Đán.
Lúc còn ít tuổi Nguyễn Trãi đã tỏ ra rất ham học. Điều đó được thân phụ ông nói đến trong bài thơ "Gia viên lạc":

Cố viên loạn hậu hữu tiên lư,
Lục tuế nhi đồng phả ái thư.

(Sau loạn, trong vườn cũ còn mái nhà xưa,
Đứa trẻ sáu tuổi đã ham đọc sách.)

Thi đỗ Thái học sinh năm 1400, Nguyễn Trãi từng làm quan dưới triều Hồ. Sau khi Việt Nam bị rơi vào Bắc thuộc lần 4, Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại ách đô hộ của nhà Minh. Ông trở thành mưu sĩ của nghĩa quân Lam Sơn trong việc bày tính mưu kế cũng như soạn thảo các văn thư ngoại giao với quân Minh.

Ông từng đề xuất một diệu kế nhằm tuyên truyền thanh thế cho nghĩa quân Lam Sơn. Ông dùng nước cơm trộn mỡ viết vào nhiều lá cây tám chữ:
"Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần" (黎利為君, 阮廌為臣)
nghĩa là "Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi", với ý đồ khiến đàn kiến ăn mỡ khoét thành chữ trên mặt lá, rồi lá theo dòng nước trôi đi các ngả như tin báo từ trên trời xuống. Tuy vậy, một số tướng lĩnh khác như Lê Sát, Phạm Vấn, Lê Thụ bất bình vì cho rằng Nguyễn Trãi quá cao ngạo và coi thường họ, những người đã chịu nhiều lao khổ từ khi cuộc khởi nghĩa còn trong trứng nước. Đinh Liệt hoà giải mâu thuẫn bằng cách đề nghị Nguyễn Trãi đổi lại thành:
"Lê Lợi vi quân, bách tính vi thần" (黎利為君, 百姓為 臣), nghĩa là "Lê Lợi làm vua, trăm họ làm tôi".
Thế là tin Lam Sơn khởi nghĩa truyền đi khắp nơi, khiến cho mọi người hết sức tin tưởng vào tương lai của nghĩa quân.

Kháng chiến thành công, ông thay Lê Lợi viết bài "Bình Ngô đại cáo" nổi tiếng.

Ông là khai quốc công thần và là văn thần có uy tín ở thời đầu nhà Hậu Lê. Tuy nhiên, năm 1442, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho ông.

Nguyễn Trãi là một nhà văn hoá lớn, có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam. Ông được coi là anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá của Việt Nam.
Ông để lại rất nhiều trước tác văn chương, cả bằng chữ Hán và chữ Nôm, bao gồm các lĩnh vực văn học, lịch sử, địa lý, luật pháp, lễ nghi ... song đã bị thất lạc sau vụ án Lệ Chi Viên. Các tác phẩm còn lại đến nay của ông, phần lớn được sưu tập và tập hợp trong bộ Ức Trai di tập của Dương Bá Cung, được khắc in vào năm 1868 đời nhà Nguyễn.

Các tác phẩm chính khác:
Quân trung từ mệnh tập
Bình Ngô đại cáo
Lam Sơn thực lục
Vĩnh Lăng thần đạo bi
Dư địa chí
Băng Hồ di sự lục

Quốc âm thi tập là tập thơ bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi, gồm 254 bài thơ, chia làm 4 mục.

st

thái thanh tâm
23-08-2012, 03:17 PM
12. Thơ đùa ả bán chiếu :

Tương truyền một hôm Nguyễn Trãi dạo chơi bên Hồ Tây, trời đã sẩm tối, ông gặp người con gái đi bán chiếu, nhan sắc tuyệt trần, ông liền đọc bỡn bốn câu thơ quốc âm:

Ả ở đâu ta bán chiếu gon?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?
Xuân thu phỏng độ chừng bao tuổi?
Đã có chồng chưa, được mấy con?

Cô gái bán chiếu ấy tên là Nguyễn Thị Lộ, vốn xuất thân là con nhà gia thế sau vì cửa nhà sa sút phải đi bán chiếu, nên văn chương chữ nghĩa cũng không phải xoàng, lại cũng rất giỏi thơ Nôm bèn đọc ngay một bài tứ tuyệt đáp lại:

Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon.
Cớ chi ông hỏi hết hay còn?
Xuân thu tuổi mới trăng tròn lẻ,
Chồng còn chưa có, hỏi chi con!

Nguyễn Trãi thấy Thị Lộ đã có nhan sắc lại thao văn từ, liền lấy nàng làm thiếp.
Chẳng bao lâu, nàng lại được phong làm Lễ nghi nữ học sĩ trong triều và được Lê Thái Tông rất quý mến. Rồi cũng chính vì thế mà sau đó, gây nên tấn thảm kịch rất đáng thương tâm cho gia đình và họ hàng Nguyễn Trãi.
Nguyên sau hồi Lê Thái Tổ mất, Nguyễn Trãi bị bọn gian thần gièm pha nên đã phải xin về nghỉ ở Côn Sơn. Nhưng chẳng được bao lâu, ông lại bị triệu ra làm quan. Một hôm, Lê Thái Tông đi duyệt binh ở xứ Hải Dương về, dọc đường nhà vua ngủ lại ở Lệ Chi Viên, thuộc huyện Gia Định đất Kinh Bắc (nay thuộc thôn Đại Lai, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh). Hôm đó, Thị Lộ cũng được triệu tới hầu hạ nhà vua ở nơi hành tại (cung vua nghỉ tạm ở dọc đường). Sớm hôm sau, vua mất một cách đột ngột. Bọn gian thần nhân đấy tìm cách hại Nguyễn Trãi. Chúng vu oan cho ông tội xúi giục Thị Lộ giết vua, rồi đem tru di cả ba họ nhà ông. Đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông mới xuống chiếu giải oan cho ông.

st

thái thanh tâm
23-08-2012, 03:21 PM
13. Thơ ghen vẫn tình :

Tương truyền, Nguyễn Thị Lộ chẳng những có nhan sắc mà thơ phú văn chương cũng tài giỏi. Nàng sở trường về thơ quốc âm và Đường luật, thường cùng xướng họa với Nguyễn Trãi hàng trăm bài rất tương đắc. Sau khi về làm thiếp Nguyễn Trãi được ít lâu, vua Lê Thái Tông nghe đồn Thị Lộ có tài văn chương, đã cho triệu nàng vào cung, giao cho giữ chức Lễ nghi nữ học sĩ để dạy phép tắc cho các cung nữ. Vì mến tài, mến sắc, nhà vua thường cùng Thị Lộ đàm đạo văn chương. Có khi lại giữ Thị Lộ ở lâu trong cung, tỏ ý quyến luyến không nỡ rời xa. Chuyện đó không tránh khỏi lời dị nghị trong quần thần cùng đám cung nữ.
Rồi tiếng đồn cũng đến tai Nguyễn Trãi; ông vừa nhớ, vừa ghen, đã gửi Thị Lộ bài thơ, lấy chữ "tình" làm vận. Thơ như sau:

Thiên cao địa hậu tứ thời thanh,
Khả trách hà nhân đạo bất minh.
Kính diện tuy thanh trần dĩ nhiễm,
Đức tâm phương nhuệ dục tuỳ tranh.
Nhân thanh tằng hựu Chu vương đức,
Thệ chỉ tương đam Hán đế tình.
Hạnh đắc thiên nhân tương bán trợ,
Tất nhiên xã tắc cánh xuân sinh.

Dịch thơ:

Trời cao đất rộng bốn mùa thanh,
Đáng trách cho ai đạo chẳng minh.
Mặt kính gương trong nhơ đã vấy,
Đức cao dù đẹp dục còn tranh.
Chu vương từng học lòng nhân đức,
Hán đế còn đam chuyện ái tình.
May được trời người cùng hiệp trợ,
Nước nhà ắt hẳn lại hồi sinh.

Thị Lộ đọc thơ, biết Nguyễn Trãi có ý nghi ngờ mối quan hệ giữa nàng với nhà vua, nhất là câu “Kính diện tuy thanh trần dĩ nhiễm” (Mặt kính gương trong nhơ đã vấy) khiến nàng vô cùng đau lòng, nàng đã theo nguyên vận gửi cho Nguyễn Trãi bài thơ rằng:

Đan tâm khẩn khẩn sự do thành,
Thuỳ vị cương thường đạo bất minh.
Nhật hỏa hà ưu vân thốn điểm,
Mộc cù khởi phụ cát tuỳ tranh.
Anh hùng miễn đại anh hùng chí,
Nữ tử phi nhi nữ tử tình.
Phúc quyến thiên duyên cầm sắt hợp,
Nghiệm chư tôn tử thánh hiền sinh.

Dịch thơ:

Lòng son khăn khắn việc mong thành,
Ai bảo cương thường đạo chẳng minh.
Ngày nắng sao lo mây chút gợn,
Cây cao há ngại sắn leo tranh.
Anh hùng gắng giữ anh hùng chí,
Phận gái đừng theo phận gái tình. (1)
Phúc luyến duyên trời cầm sắt hợp,
Nghiệm xem con cháu thánh hiền sinh.

(1) Cả câu nầy ý nói, tuy phận gái nhưng không theo thói nữ nhi thường tình.

Thị Lộ đã khéo léo, mềm mỏng, giãi bày lòng mình với Nguyễn Trãi. Nàng vì lo hoàn thành công việc trong cung nên ít về nhà, chớ chẳng có gì mờ ám. Ý thơ cũng nói rõ, mình trong sáng thì ngại gì những lời dị nghị. Lại tôn vinh ông là cây cao, là bậc anh hùng. Mong hai người hòa hợp sắt cầm, để chung hưởng hạnh phúc dài lâu mà xem con hiền cháu thánh …
Nguyễn Trãi xem thơ họa, chắc cũng đẹp ý, nên không trách móc gì Thị Lộ nữa. Rồi khi nhà vua ngự giá đến Lệ Chi Viên, ông cũng bằng lòng để nàng cùng thưởng ngoạn phong cảnh với đức vua. Đáng tiếc, chính tại Lệ Chi Viên, nhà vua đã mất một cách đột ngột, khiến cả Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ đều bị tội chết. Song, dư luận đương thời đều cho rằng Nguyễn Trãi bị hại, phải chết oan, cũng chính là vì Thị Lộ gây nên.

Có hai dư luận về việc này: Một là theo huyền tích dân gian, nói Thị Lộ chính là hóa thân của rắn, lấy ông cốt để báo oán, vì trước kia, ông sai học trò dọn cái gò để làm nhà học, đã xúc phạm đến một ổ rắn, làm con rắn mẹ bị thương. Để báo thù, sau khi vua chết, Thị Lộ đã khai là do Nguyễn Trãi xui nàng giết vua. – Hai là vì Thị Lộ có nhan sắc, để vua mê đắm, đêm ở Lệ Chi Viên, do nhà vua đã ngủ với nàng, nên bị cảm mà chết. Lỗi do vua, nhưng cũng có phần trách nhiệm của Thị Lộ.

st

thái thanh tâm
23-08-2012, 03:27 PM
14. Giai thoại một bài thơ của bà Cao Thị Ngọc Anh


Bà Cao Thị Ngọc Anh sinh năm 1877 người làng Thịnh Mỹ phủ Diễn Châu tỉnh Nghệ An, ái nữ của Đông các đại học sĩ Cao Xuân Dục. Bà lấy chồng năm 19 tuổi, chồng là cử nhân Nguyễn Duy Nhiếp, người tỉnh Hà Đông, con Cần chánh Nguyễn Trọng Hiệp, sau làm quan đến chức Án sát.
Hai họ Cao, Nguyễn đều là lệnh tộc nức tiếng về văn học và phầm cách. Bà được thân phụ rèn cặp bút nghiên từ tấm bé, lại sẵn có tài ngâm vịnh nên sớm nổi danh trong làng văn tự.
Chồng mất sớm, lúc bà mới 26 tuổi, có ba con còn rất nhỏ, bà không tái giá mà ở vậy nuôi con, đem tâm sự gửi vào văn thơ.
Nữ sĩ không những giỏi thơ nôm mà còn cả về thơ chữ Hán. Có người đã khen bài "Đào hoa khẩu chiếm" của bà không kém bài "Đề đô thành nam trang" của Thôi Hộ đời Đường.

Một lần, nhân giở lại tập thơ của chồng, bà cảm tác bài thơ sau:

Vong phu thi thảo

U uất thu tâm khổ bất miên,
Phần hương ngũ dạ độc di biên.
Thi từ vô hạn lăng vân tứ,
Bút thái do lưu hãn mặc duyên.
Nguyệt lãnh ngâm lâu không tịch mịch,
Đăng thuỳ lạp lệ cộng lưu liên.
Nghị hồn hà xứ như tương thức,
Ưng bổ hoa thi "Biệt hận thiên".

Bà tự dịch ra quốc âm:

Ấm ức lòng thu ngủ chẳng yên,
Đốt lò hương dậy đọc di biên.
Bao nhiêu lời hẹn tuôn mây gió,
Để chút duyên thừa dấu bút nghiên!
Trăng dọi lầu ngâm thêm lặng lẽ,
Đèn chong lệ sáp nhỏ liên miên.
Hồn thiêng đâu đó như cùng biết,
Thêm mấy vần thơ "Biệt hận thiên!"

Bà goá chồng trong cảnh nửa chừng xuân, tài sắc vẹn toàn, nên nhiều nhà thơ trong giới quan trường không khỏi có ý lân la, thường dùng văn thơ buông lời trêu cợt. Bà tuyệt nhiên không trả lời ai cả.
Một hôm, nhân nhà có giỗ, bà cho mời tất cả các vị ấy đến uống rượu. Sau đó bà mời lên cầu Hàm Rồng ngắm cảnh.
Đến nơi, bà nói:
- Đứng trước danh sơn thắng cảnh này, dám xin các vị thi nhân mỗi vị cho một bài làm kỷ niệm.
Một ông đáp:
- Xin vâng, chúng tôi đâu dám chối từ, vậy xin bà cho bài xướng trước, chúng tôi mỗi người sẽ hoạ lại sau.
Bà đọc rằng:

Hàm Rồng nô nức tiếng đồn om,
Rải rác nhà tranh ở mấy chòm.
Hỏi đá chờ ai ngồi nhấp nhổm,
Thương cầu vì nước đứng lom khom.
Sóng như chào khách chờn vờn nhảy,
Nguyệt cũng yêu ta lấp ló dòm.
Cửa động rêu phong mờ nét chữ,
Ai người mến cảnh chút trông nom.

Ý tứ bài thơ rất tế nhị. Câu "Hỏi đá chờ ai ngồi nhấp nhổm" và "Sóng như chào khách chờn vờn nhảy" có ý trỏ vào các vị thường gửi thơ văn đến trêu ghẹo bà. Câu "Thương cầu vì nước đứng lom khom" và "Cửa động rêu phong mờ nét chữ", bảy tỏ tâm sự mình, cảm thương số phận và quyết giữ tấm lòng thờ chồng.
Nhất là cái vần "om" lắc léo, thật khó tìm ra câu, chữ thích hợp.
Các vị thi bá tần ngần nghĩ không ra vần để hoạ lại, và cũng không dám trêu ghẹo trước thái độ đoan trang ấy, nên đứng chơi một lúc rồi xin lỗi chủ nhân, lẻ tẻ kéo nhau về. Từ đó không ai dám múa bút trêu bà nữa.
---------------------
st

thái thanh tâm
23-08-2012, 03:32 PM
15. Giai thoại về Nguyễn Trọng Cẩn (1900 – 1947)


Ông sinh năm 1900 tại tỉnh Quảng Bình, bút hiệu Hoài Nam, chuyên học chữ nho trong khi chữ quốc ngữ và chữ Pháp đã phổ biến. Năm Mậu Ngọ(1918) vào kinh đô Huế dự kỳ thi hương cuối cùng nhưng không đỗ, ông ở luôn đó làm nghề viết báo cho mấy tờ báo xuất bản ở Huế như Thần kinh tạp chí, Tràng An báo. Đến năm 1929 hai tờ báo đình bản, ông về quê bốc thuốc và dạy chữ Hán.
Ông có trí nhớ hơn người, văn viết lưu loát, có khuynh hướng trào phúng, thơ linh động và hồn nhiên chứ không cứng nhắc trong khuôn khổ.
Dưới đây là hai bài thơ đặc sắc của ông:

1/ Tự thán

Con tạo e khi cũng muốn đùa
Khiến anh hào phải chịu cay chua!
Văn đùa quỷ đói đi không nổi
Rượu đánh ma sầu vẫn cứ thua
Mối nợ đa tình vay chưa trả
Tấm thân vô dụng bán ai mua?
Của riêng còn có kho vô tận :
Tuyết nguyệt phong hoa đủ bốn mùa.


2/ Tự trào

Có bệnh chi mà tớ muốn điên
Chẳng tham quan tước chẳng tham tiền
Trăm khôn, e mắc trăm đường mệt
Một dại, là xong một mối phiền
Rắn rết, gớm ai lòng độc địa
Rồng mây, trối kệ chuyện huyên thiên
Người đời cười tớ là điên thật
Ta lại cười ai giả thánh hiền!

Có một giai thoại thú vị, đó là bài thơ "Năm cụ" rất được truyền tụng một thời.

Năm 1932, ở Huế có cuộc cải tổ nội các. Thực dân Pháp muốn dùng Phạm Quỳnh và một nhóm tay sai khác nên truất một loạt 5 ông thượng thư cựu học là: Nguyễn Hữu Bài thượng thư bộ Lại, Tôn Thất Đàn thượng thư bộ Lại, Phạm Liệu thượng thư bộ Hình, Võ Liêm bộ Lễ, Vương Tử Đại bộ Công. Tin này đưa ra làm xôn xao dư luận dân chúng ở kinh đô Huế. Thực dân Pháp muốn xoa dịu, nên bày ra một cuộc thi thơ theo hướng tâng bốc và biết ơn "năm cụ thượng" cũ để năm cụ vui vẻ lui về vườn. Không dự cuộc thi, nhưng Hoài Nam làm bài thơ sau đây:

Năm cụ khi không (1) rớt cái ình!
Đất bằng nổi sóng thảy đều kinh.
BÀI không đeo nữa đem dâng lại, (2)
ĐÀN chẳng ai nghe khéo dở hình. (3)
LIỆU thế khó xong, binh chẳng được, (4)
LIÊM đành giữ tiếng, lễ đừng rinh. (5)
Công danh, âu hẳn là hưu hĩ, (6)
ĐẠI sự xin nhường đám hậu sinh.

(1) Khi không: không có duyên cớ
(2) Năm cụ đã bị đuổi về thì cái bài vàng đeo ở ngực cũng phải đem trả lại cho
triều đình. Đây còn ám chỉ BÀI là thượng thư bộ Lại
(3) Các cụ đã về rồi thì nay có đàn bản gì người ta cũng không thèm nghe nữa.
Ám chỉ ĐÀN là thượng thư bộ Hình
(4) Cái thế của các cụ là phải về, không ai binh vực được. Lại ám chỉ LIỆU là
thượng thư bộ Binh
(5) Rinh: bê, bưng, thu nhận. Ý nói đã về rồi thì từ nay các cụ phải sống thanh
liêm, không còn dịp ăn hối lộ như trước, đừng nhận lễ của ai nữa. Lại còn ám
chỉ LIÊM là thượng thư bộ Lễ
(6) Hai câu chót ám chỉ thêm rằng ĐẠI là thượng thư bộ Công, nay phải về hưu

Bài thơ được truyền đi rất nhanh, làm cho cuộc thi thơ lừa bịp kia thất bại: nghe xong bài thơ, không còn ai nghĩ đến làm thơ ca tụng "năm cụ" nữa!
---------------------
st

thái thanh tâm
24-08-2012, 08:13 PM
16. Một thần đồng

Năm 1931, ở làng Thiện Vịnh, Vụ Bản, Nam Định, người ta đồn ầm lên là có một thần đồng! Đó là một cậu bé 13 tuổi được giải nhất trong cuộc thi hát trống quân đầu xuân ở hội làng. Mà oái ăm, người thứ nhì lại là một cụ bà ngoài 70 tuổi, đầu tóc bạc phơ. Cậu bé đó là Nguyễn Bính và cụ già là cụ Nguyễn Thị Chanh.
Chẳng là, từ mùng 6 đến 13 tháng giêng ta, cùng dịp hội Phủ, làng tổ chức thi hát trống quân ở ngay sân đình, một bên nam, một bên nữ. Cụ Chanh gà cho bên nữ. Bính gà cho bên nam. Hát hỏi đối đáp nhau suốt đêm. Cuối cùng bên nam thắng cuộc. Bên nam thắng là nhờ câu hỏi, đáp rất hay của Nguyễn Bính.
Ngày nay, các cụ tham gia hát hồi ấy còn nhớ mấy câu sau đây:
...Anh đố em này:
Làng ta chưa vợ mấy người?
Chưa chồng mấy ả, em thời biết không
Đố ai đi khắp Tây Đông
Làm sao kiếm nổi tấm chồng như chúng anh đây?
Làm sao như rượu mới say
Như giăng mới mọc, như cây mới trồng?
Làm sao như vợ như chồng?
Làm sao như thói má hồng răng đen?
Làm sao cho tỏ hơn đèn?
Làm sao cho bút gần nghiên suốt đời?
Làm sao ? Anh khen em tài
Làm sao? em đáp một lời, làm sao?
Câu đố mà như câu hát, thật trữ tình, thật mơ mộng, và thật khó trả lời, làm bên nữ chỉ biết cười rúc rích, đấm nhau thùm thụp, và rồi sau 5 phút, 10 phút, sau 3 hồi trống dài, bên nữ không đáp được! Thế là già làng chấm bên nam thắng. Bọn con trai sung sướng hò vang, kiệu Nguyễn Bính lên vai đi khắp vòng đình...

Theo VŨ NAM

thái thanh tâm
24-08-2012, 08:14 PM
17. THƠ NGUYỄN BÍNH ĐẮT NHƯ VÀNG

Đồng bào Nam Bộ rất mê thơ Nguyễn Bính, từ năm 1941 thi sĩ vào trong đó, nhiều tờ báo mời Bính tham gia. Ông Tế Xuyên (Hoàng Hữu Tiếp)là chủ một tờ báo đặt Nguyễn Bính làm một bài thơ cho báo mình. Lúc đầu định giá một hào một chữ, sau mặc cả mãi thành một đồng một câu.
Bính thấy Tế Xuyên cò kè hà tiện quá, mới nghĩ cách chơi lại một vố. Bính làm một bài thơ dài 40 câu nhưng chưa đưa vội, đến khi sắp in báo, Bính vẫn nói chưa xong. Chủ bút thấy lo, thay bài khác cũng được, nhưng thiếu thơ Bính thì không được, báo sẽ ế! Vả lại, đã giới thiệu quảng cáo rồi, độc giả họ chửi, họ tẩy chay thì báo chết! Đến ngày in báo, Tế Xuyên phải đế nói khó với Bính làm cho kịp, Bính mới đưa bài thơ ra. Bài thơ nói về xã hội đảo điên, lòng người điên đảo, trong đó có câu: "Thiên hạ đem thơ đọ với tiền" thì Tế Xuyên cho là Bính xỏ mình, đề nghị Bính sửa câu đó và phải sửa ngay mới kịp đưa in. Bính đồng ý sửa ngay, nhưng giá phải gấp đôi. Bí quá, chủ bút đành nhận lời. Bính sửa: "Thiên hạ bao nhiêu mặt chữ điền".
"Mặt chữ điền" tượng trưng người có tâm huyết. Câu thơ tỏ niềm tin vào xã hội còn có người tốt. Thế là được. Song ông chủ báo phải trả bài thơ 80 đồng. Nếu tính chi li, Bính chỉ phải sửa có 5 chữ. Xin nói ró năm đó ở Nam Bộ một xu một tô phở, cơm tháng của công chức là 2 đồng đến 4 đồng, và 1 chỉ vàng là 8 đồng. Vị chi nhuận bút của bài thơ là 1 lạng vàng. Một siêu kỷ lục về giá trị thơ vậy.

Theo Vũ Nam

thái thanh tâm
24-08-2012, 08:14 PM
18. Thử làm thơ tục

Hôm ấy ở nhà Việt Quyên, mọi người đang bàn luận ca ngợi Hồ Xuân Hương tục mà thanh, thanh mà tục, một hiện tượng độc đáo trong thi ca Việt Nam và thế giới. Nguyễn Bính đến sau, dáng điệu mệt mỏi lừ đừ, chắc đêm qua thức khuya.
Nguyệt Hồ nói:
- Đang bàn chuyện thơ Hồ Xuân Hương, mình làm một bài thơ tục, tả Nguyễn Bính, các ông nghe.
Mọi người tán thành và Nguyệt Hồ đọc:
Văn nghệ hay là văn gừng
Sao ông lửng khửng lừng khừng vậy ôi ?
Hay là tối đã tác rồi
Sáng không tác được mệt nhoài tứ chi ?
Mọi người khen hay vì chơi được chữ "văn nghệ, văn gừng", "sáng tác-tối tác" và bắt Nguyễn Bính phải trả lời.
Bính uống nước rồi đọc:
"Sáng tác" hay là "tối tác" đây ?
Tối không tác đủ tác ban ngày!
Xem ra sáng tác không bằng tối
Tối tác, ông ơi, sướng gấp hai...
Ai nấy đều cười, chịu Bính là ứng tác giỏi.

VŨ NAM

thái thanh tâm
24-08-2012, 08:15 PM
19. Xé thơ mình

Một lần Nguyễn Bính cùng Vũ Trọng Can đang đứng ở nhà số 20 phố Hàng Ngang Hà Nội, thấy có một đám ma đi qua. Người ta nói đó là đám tang một cô gái mới 16 tuổi đẹp nhất phố Hàng Đào. Ai cũng xuýt xoa thương tiếc. Nhìn những cỗ xe tang trắng, vòng hoa trắng và những khăn xô trắng...đầy đường, hai nghệ sĩ rất xúc động.
Chiều, Vũ Trọng Can làm xong một bài thơ đưa Bính xem. Bính không nói gì. Hôm sau, Nguyễn Bính đưa bài thơ của mình cho Can xem. Đó là bài "Viếng hồn trinh nữ". Can bèn rút túi áo, xé bài thơ của mình đi và nói:
- Ngày xưa Lý Bạch không làm thơ vịnh Hoàng Hạc Lâu, vì đã có thơ của Thôi Hiệu rồi. Nay có bài thơ của cậu thì thơ mình nên xé đi! Cả bài đều hay, nhưng mình thích nhất câu:
...Có một chiếc xe màu trắng đục
Hai con ngựa trắng xếp hàng đôi
Đem đi một chiếc quan tài trắng
Và những vòng hoa trắng lạnh người.
Theo bước, những người khăn áo trắng
Khóc hồn trinh trắng mãi không thôi...
Cũng là một chuyện nhỏ về biết mình, biết người ngày xưa.

ST

thái thanh tâm
24-08-2012, 08:16 PM
20. Nguyễn Bính và việc dịch thơ Trung quốc

Nhà thơ Nguyễn Bính dịch thơ Trung quốc không nhiều lắm. Các bản dịch đều nhẹ nhàng, trong sáng. Dưới đây là mấy bài :

Bài I:

寄遠
李白

美人在時花滿堂,
美人去後餘空床。
床中繡被卷不寢,
至今三載聞餘香。
香亦竟不滅,
人亦竟不來。
相思黃葉落,
白露濕青苔。

Ký vìễn
Lý Bạch

Mỹ nhân tại thì hoa mãn đường,
Mỹ nhân khứ hậu dư không sàng.
Sàng trung tú bị quyển bất tẩm,
Chí kim tam tải dư văn hương.
Hương diệc cánh bất diệt,
Nhân diệc cánh bất lai.
Tương tư hoàng diệp lạc,
Bạch lộ thấp thanh đài.

Bản dịch của Nguyễn Bính:
Gửi đi xa

Em còn ở đầy nhà hoa ngát
Em đi rồi ngơ ngác giường xưa
Chăn khâu nếp nếp hững hờ
Ba năm hương mãi bây giờ còn bay
Thơm nào nghe quyện đâu đây
Người đi bữa đấy mai này còn sang
Nhớ nhau cho rụng lá vàng
Cho sương lạnh trắng mấy làn rêu xanh.

Bài II:

贈別傅生
齊錦雲

一呷春醪萬里情,
斷腸芳草斷腸鶯。
願將雙淚啼為雨,
明日留君不出城。

Tặng biệt Phó sinh
Tề Cẩm Vân

Nhất hạp xuân giao vạn lý tình,
Đoạn trường phương thảo đoạn trường oanh.
Nguyện tương song lệ đề vi vũ,
Minh nhật lưu quân bất xuất thành.

Bản dịch của Nguyễn Bính:

Tặng chàng Phó khi chia tay

Bài 1:
Chén xuân chan chứa bao tình
Cỏ thơm xơ xác, con oanh thẫn thờ
Sớm mai chàng đã đi chưa
Xin đem nước mắt làm mưa giữ chàng.

Bài 2:
Một chén tiễn đưa tình vạn lý,
Oanh buồn rầu rĩ, cỏ buồn phai.
Mong đem lệ tưới thành mưa lớn,
Ngăn bước đường anh buổi sớm mai.

Bài III:

約客
趙師秀

黃梅時節家家雨,
青草池塘處處蛙。
有約不來過夜半,
閒敲棋子落燈花。

Ước khách
Triệu Sư Tú

Hoàng mai thời tiết gia gia vũ,
Thanh thảo trì đường xứ xứ oa.
Hữu ước bất lai quá dạ bán,
Nhàn xao kỳ tử lạc đăng hoa.

Bản dịch của Nguyễn Bính:
Khách hẹn

Ao hồ tiếng ếch gần xa
Mai vàng tiết lạnh nhà nhà mưa rơi
Nửa đêm cái hẹn qua rồi
Quân cờ gõ nhảm làm rơi hoa đèn.

Bài IV:

南行別弟
韋承慶

澹澹長江水﹐
悠悠遠客情﹐
落花相與恨﹐
到地一無聲。

Nam hành biệt đệ
Vi Thừa Khánh

Đạm đạm Trường Giang thuỷ,
Du du viễn khách tình.
Lạc hoa tương dữ hận,
Đáo địa nhất vô thanh.

Bản dịch của Nguyễn Bính:
Đi Lĩnh Nam từ biệt em trai

Nước trường giang êm trôi
Tiễn khách lòng bồi hồi
Hoa buồn rơi thật nhẹ
Hoa cũng hận cho người.

st

thái thanh tâm
27-08-2012, 08:06 PM
21. Giai thoại Đào Duy Từ (1572 – 1634)


Đào Duy Từ người làng Hoa Trai huyện Ngọc Sơn, nay là huyện Tĩnh Gia tỉnh Thanh Hoá. Thân phụ là Đào Tá Hán.
Lúc còn là học trò nghèo, gặp lúc Lê Mạc đánh nhau, Tá Hán đầu quân theo giúp vua Lê. Nhân lúc Trịnh Kiểm thống lĩnh quan quân vừa chiếm được Thanh Nghệ làm căn cứ vững chắc cho nhà Lê, Tá Hán cao hứng làm bài ca kể công họ Trịnh, có những câu như sau:

Trang quốc sĩ ai bằng Trịnh Kiểm,
Tỏ thần uy đánh chiếm hai châu.
Thẳng đường dong ruổi vó câu,
Phò Lê diệt Mạc trước sau một lòng…

Viên Xuất đội đem bài ca ấy tố cáo Tá Hán đem tên huý của quận công đại tướng
ra hò hát. Tá Hán lo sợ vô cùng. Quan Trung quân nhận được giấy tố cáo, đòi Tá Hán vào hầu, thấy diện mạo khôi ngô, lại còn ít tuổi, nghĩ thương tình mới cho sửa lại hai câu đầu:

Trang quốc sĩ ai bằng họ Trịnh,
Tỏ thần uy bình định hai châu.

Dù vậy, Tá Hán vẫn bị phạt 20 roi và đuổi không cho làm lính. Không có kế sinh nhai, Tá Hán phải đi theo một gánh hát, sau mấy năm trở thành nghệ nhân hát chèo nổi tiếng.

Đào Duy Từ rất thông minh, học giỏi, lại có tài thao lược, nhưng khi nạp đơn đi thi với nhà Lê, bị phát giác là con nhà hát xướng nên bị đuổi khỏi trường thi, đau buồn thành bệnh nặng, nằm mê mệt ở nhà trọ, không về làng được. Ngay lúc ấy, Đoan quận công Nguyễn Hoàng trấn thủ Thuận Hoá, phụng mệnh vua Lê Thế Tông và chúa Trịnh Tùng về Thanh Hoá bàn việc nước. Nguyễn Hoàng đến thăm quan Thái phó Nguyễn Hữu Liêu, Hữu Liêu đưa cho xem văn bài của Đào Duy Từ và kể việc bị đuổi (Nguyễn Hữu Liêu là chủ khảo kỳ thi đó). Nguyễn Hoàng xem văn biết Duy Từ có tài kinh bang tế thế. Nguyễn Hoàng vốn có chí hùng cứ một phương, liền đến tận nhà trọ giúp đỡ tiền bạc cho Duy Từ uống thuốc và có ý định mời vào nam giúp mình.
Một hôm Duy Từ vừa khỏi bệnh, Nguyễn Hoàng đến chơi, nhân thấy trên vách có treo bức tranh ba anh em Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi dầm mưa dải tuyết vào Long Trung tìm Gia Cát Lượng; Nguyễn Hoàng và Duy Từ vịnh một bài thơ liên ngâm để bày tỏ chí mình.

Nguyễn Hoàng đọc trước:

Vó ngựa sườn non đá chập chùng,
Cầu hiền lặn lội biết bao công.

Duy Từ tiếp:

Đem câu phò Hán ra dò ý,
Lấy nghĩa tôn Lưu để ướm lòng.

Nguyễn Hoàng tiếp hai câu "thực":

Lảnh thổ đoán chia ba xứ sở,
Biên thùy vạch sẵn một dòng sông.

Duy Từ kết:

Ví chăng không có lời Nguyên Trực, (1)
Thì biết đâu mà đón Ngoạ Long. (2)

(1) Nguyên Trực: tức Từ Thứ
(2) Ngoạ Long: Gia Cát Lượng

Hai người hiểu ý nhau rất tương đắc. Nhưng Nguyễn Hoàng không dám đưa Duy Từ theo vào ngay, e tiết lộ cơ mưu, nên chỉ ân cần dặn:
- Lão phu về trước, xin đắp đài bài tướng chờ đợi tiên sinh. Năm nay lão phu hơn 70 tuổi, nếu có thất lộc, cũng để di ngôn lại cho con cháu sau nầy phải rước tiên sinh vào.
Duy Từ bái tạ nhận lời mà từ biệt.

Nguyễn Hoàng trở về Thuận Hoá và mất năm 1613. Mãi đến khoảng năm 1625, Duy Từ mới tìm cách vào Nam với ý định giúp chúa Nguyễn Phúc Nguyên chống họ Trịnh. Nhưng gặp lúc chúa đi kinh lý nơi xa nên không gặp. Duy Từ hết tiền lưng, phải xin vào chăn trâu cho nhà phú hộ ở làng Tài Lương tỉnh Bình Định để đợi thời. Con trai phú hộ mở Tùng Châu thi xã, lấy Duy Từ làm người hầu hạ các bạn văn chương. Thỉnh thoảng ông làm gà cho những hội viên trong thi xã những bài thơ rất hay, dần dần đến tai quan Khám lý Trần Đức Hoà. Biết ông là bậc tài cao học rộng, Trần Đức Hoà mời Duy Từ về nhà dạy học và gả con gái cho.

Trong thời kỳ ở Bình Định, Đào Duy Từ có làm bài "Ngoạ Long cương vãn",
tự ví mình với Gia Cát Lượng, nhưng chưa gặp thời:

Ngọa Long cương vãn ( trích )

Cửa xe chầu trực sớm trưa
Thấy thiên Võ cử đời xưa luận rằng
An, nguy, trị, loạn, đạo hằng
Biết thời sự ấy ở chưng sĩ hiền
Hán từ tộ rắn vận thuyền
Ba phân chân vạc, bốn bên tranh hùng
Nhân tài tuy khắp đời dùng
Đua chen trường lợi áng công vội giành
Nào ai lấy đạo giữ mình
Kẻ đua với Nguỵ, người dành về Ngô
Nam Dương có kẻ ẩn nho
Khổng Minh là chữ, trượng phu khác loài
……….
Hưng vong bỉ thái có thì
Chớ đem thành bại mà suy anh hùng
Chốn này thiên hạ đời dùng
Ắt là cũng có Ngoạ Long ra đời
Chúa hay dùng đặng tôi tài
Mừng xem bốn bể dưới trời đều yên.

Sau đó, do Trần Đức Hoà tiến cử Đào Duy Từ và dâng bài "Ngọa Long cương vãn" lên chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Chúa xem khen là có chí lớn, sực nhớ lời
thân phụ căn dặn nên trọng dụng Duy Từ, phong cho chức Nha uý nội tán, tước Lộc Khê hầu.

Năm Kỷ tị 1629, sau khi đuổi được nhà Mạc, Trịnh Tráng được vua Lê phong làm Thanh vương. Nhân đó, Trịnh Tráng muốn lấy danh nghĩa nhà Lê bắt chúa Sãi phải hàng phục.Chúa Trịnh sai sứ mang sắc phong Nguyễn Phúc Nguyên chức Thái phó quốc công, dụ chúa Nguyễn cho con ra chầu và nộp 30 thớt voi, 30 chiến thuyền.
Chúa Sãi tiếp sứ, nhưng không muốn thụ phong, cũng không muốn tuân theo yêu sách của chúa Trịnh. Chúa bèn hỏi Đào Duy Từ cách đối phó.
Duy Từ khuyên chúa cứ nhận sắc phong rồi sẽ có cách. Ông sai làm một cái mâm đồng có 2 đáy, để đạo sắc phong của vua Lê vào giữa 2 đáy, kèm theo một mảnh giấy viết một bài thơ. Chúa Nguyễn sai xếp lễ vật vào chiếc mâm và sai sứ là Văn Khuông mang ra Thăng Long tạ ơn vua Lê, chúa Trịnh.

Chúa Trịnh chỉ thấy có lễ vật mà không có biểu tạ về việc được vinh phong, lấy làm nghi ngại lắm. Sau có người quan sát thấy cái mâm dày và nặng, mới khám phá ra là mâm có hai đáy. Tờ sắc và mảnh giấy được lấy ra dâng lên chúa. Chúa Trịnh thấy trên mảnh giấy có chép 4 câu thơ như sau:

矛而無腋
覔非見蹐
愛落心腸
力來相敵


Mâu nhi vô dịch
Mịch phi kiến tích
Ái lạc tâm tràng
Lực lai tương địch.

Chúa và quần thần không hiểu nghĩa làm sao, mới triệu quan Thái uý Phùng Khắc Khoan vào hỏi. Khắc Khoan ngẫm nghĩ một lúc rồi bẩm rằng đây là ẩn ngữ cho biết rằng họ Nguyễn ở Nam trấn chẳng chịu nhận sắc phong. Ông tiếp tục giảng giải:
"Câu thứ nhất: Chữ Mâu 矛 mà không có nét phẩy ở bên nách là chữ Dư 予
Câu thứ hai: Chữ Mịch 覔 mà bỏ chữ kiến 見 đi thì còn lại chữ Bất 不
Câu thứ ba: Chữ Ái 愛 mà rơi mất chữ Tâm 心 ở trong ruột là chữ Thụ 受
Câu thứ tư : Chữ Lực 力 đứng ngang với chữ Lai 來 là chữ Sắc 勑

Cả 4 câu thơ ghép lại là 4 chữ 予 不 受 勑 : Dư bất thụ sắc, có nghĩa là 'Ta không nhận sắc mệnh'. Họ Nguyễn không chịu thần phục triều đình nên làm ra 4 câu thơ đó. Người soạn ra bài thơ phải là bậc hào kiệt của phương nam"

Chúa Trịnh tức lắm, sai quan quân đuổi theo bắt sứ giả lại, nhưng Văn Khuông đã đi xa rồi. Chúa Trịnh muốn cất quân vào đánh, nhưng ở Cao Bằng và Hải Dương đương có quân nhà Mạc lại rục rịch chực đánh phá nên phải hoãn lại.

Thực ra, giai thoại trên thiếu chính xác về mặt lịch sử, vì lẽ Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan mất năm 1613 và sự kiện chúa Nguyễn trả sắc xảy ra vào năm 1629.
Đó cũng là tình trạng của một số giai thoại văn chương khác.

Sau khi đã biết rõ chính Đào Duy Từ là tác giả 4 câu thơ, Trịnh Tráng bực tức lắm, nhưng cũng rất phục tài Đào Duy Từ, nên đã sai kẻ tâm phúc đem nhiều vàng bạc và một bức mật thư vào thuyết Duy Từ, để hòng thu phục ông về làm quân sư cho mình. Xem xong thư, Duy Từ mỉm cười, trả lại số vàng bạc và lấy giấy bút viết một bài ca, dặn đưa về cho chúa Trịnh. Bài ca như sau:

Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng, như cá cắn câu!
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thuở nào ra? …

Trịnh Tráng nhận được bài thơ, biết Từ không đổi ý chí, nhưng vẫn kiên trì phái người vào dụ dỗ Từ một lần nữa. Từ thấy vậy, lại nhờ người gửi ra cho Trịnh Tráng hai câu thơ nữa:

Có lòng xin tạ ơn lòng,
Đừng đi lại nữa kẻo chồng em ghen!

Dụ dỗ, mua chuộc mãi mà không được, Trịnh Tráng tức lắm; từ chỗ mến phục chuyển sang căm ghét Duy Từ. Chúa tôi họ Trịnh đặt ra những bài hát như sau để đả kích ông:


Có ai về tới Đàng Trong,
Nhắn nhe "bố đỏ" liệu trông đường về. (1)
Mải tham lợi, bỏ quê quán tổ,
Đất nước người dù có cũng không …

(1) Nói "bố đỏ" cũng có ý ám chỉ rằng Duy Từ họ Đào

hoặc:

Rồng khoe vượt gió tung mây, (2)
Biết đâu rồng đất có ngày xác tan …

(2) Duy Từ là tác giả bài văn "Ngoạ Long cương vãn", tự ví mình với con rồng nằm, có ngày sẽ vượt gió tung mây.

Duy Từ hay biết các câu hát ấy chỉ cười khảy và càng quyết tâm nghiên cứu kế hoạch phá Trịnh.

Đào Duy Từ có công mặt ngoài thì chống đánh Trịnh, mặt trong mở đất
Chiêm Thành làm cho dân giàu nước mạnh. Về mặt nghệ thuật, ông sửa lại các lối hát và các điệu múa cổ, đặt ra các điệu múa Song quang, Nữ tướng quân, Tam quốc, Tây du,… dùng khi quốc gia đại lễ.
---------------------

thái thanh tâm
27-08-2012, 08:08 PM
22. Giai thoại Phạm Thái (1777 – 1813)


Ông người xã Yên Thường, huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc; nay là phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Họ Phạm có tài làm thơ nôm và nổi tiếng về thơ tình yêu.
Khi Tây Sơn dấy lên, cha là Thạch Trung hầu, vốn đã làm quan với nhà Lê, có dự vào công cuộc cần vương, nhưng bị thất bại. Phạm Thái sau trưởng thành, quyết nối chí, thường kết bạn với những bậc nghĩa sĩ để mưu đồ khôi phục nhà Lê.
Phạm tài kiêm văn võ, thích uống rượu ngâm thơ, vì là con bậc đại thần nên được gọi là cậu Chiêu, lại hay say sưa túy lúy, mới có sước hiệu là Chiêu Lỳ. Chiêu Lỳ có bài thơ tự trào:

Có ai muốn biết tuổi tên gì,
Vừa chẵn hai mươi, gọi chú Lỳ.
Năm bảy bài thơ ngâm lếu láo,
Một vài câu kệ tụng a-ê!
Tranh vờn sơn thủy màu lem luốc,
Bầu giốc kiền khôn giọng bét be.
Miễn được ngày nào ngang dọc đã,
Sống thì nuôi lấy, chết chôn đi!

"Một vài câu kệ tụng a-ê", là bởi bị truy nã gắt gao, ông phải cạo đầu, vào tu ở chùa Tiên Sơn (huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh) lấy đạo hiệu là Phổ Chiêu thiền sư, để khỏi lộ tung tích.

Năm canh thân (1800) đến chơi nhà bạn ở kinh đô, nghe đọc bài Tụng Tây Hồ, ông hỏi ra là do Chương Lĩnh hầu Nguyễn Huy Lượng sáng tác. Lượng vốn là tôi nhà Lê, bấy giờ ra làm quan với Tây Sơn, viết bài tụng này cốt để tán dương công nghiệp vua Quang Trung. Phạm Thái nhân đó, cũng bày tỏ sự trung kiên của mình với nhà Lê, bèn họa lại một bài, đề là "Chiến Tụng Tây Hồ", lời văn phẫn nộ, trực tiết.

Phạm nay đây mai đó, vẫn ngấm ngầm mưu việc cần vương. Một hôm, nhân phò giá hoàng phi Nguyễn Thị Kim lên Lạng Sơn để định sang Tàu theo vua Lê Chiêu Thống, Phạm gặp trấn thủ Trương Đăng Thụ, một đồng chí, cùng bạn tính toan việc giúp Trần Quang Diệu để trừ Võ Văn Dũng hòng gây khó cho Tây Sơn, chẳng may lộ chuyện; Dũng sai thủ hạ là Phan Đình Hồng, bấy giờ làm hiệp trấn Lạng Sơn, tìm cách bỏ thuốc độc vào nước trà, giết Thụ. Phạm Thái thế cô, chỉ còn biết đưa xác bạn về quê, làng Thanh Nê, huyện Yên Tĩnh, tỉnh Nam Định.

Ở đây, Phạm gặp em gái Trương Đăng Thụ là Trương Quỳnh Như, một trang tài sắc kiêm toàn. Đôi bên dần dà thân nhau vì mối duyên văn tự, cùng nhau xướng họa rất là tương đắc.

Phạm đã tả mối tình trong sạch của mình đối với Quỳnh Như bằng mấy bài thơ:

I
Từ chốn thiềm cung trộm giấu hương,
Dễ xui tao khách mối sầu vương.
Gió thông réo rắt rong đàn oán,
Trăng hạnh chênh vênh rạng bóng dương.
Nếu phải tình duyên may chút phận,
Thì xin ân ái vẹn hai đường.
Phong lưu đôi lứa ai đà dễ,
Bụi tục chi cho bợn lóa gương!

II
Dẩy hoa, dun lá, bởi tay trời
Nghĩ lại tình duyên luống ngậm ngùi.
Bắc yến, nam hồng, thư mấy bức
Đông đào, tây liễu, khách đôi nơi.
Lửa ân, rập mãi sao không tắt,
Biển ái, khơi hoài vẫn chẳng vơi.
Đèn nguyệt trong xanh, mây chẳng bợn,
Xin soi xét đến tấm lòng ai.

Cha Quỳnh Như là Kiến Xuyên hầu Trương Đăng Quý rất mến Phạm, hai
người thường đàm đạo về thời thế và văn thơ.
Một hôm, nhân hai người ngồi uống ruợu, hầu trông vào bức tranh tố nữ,
bảo Phạm thử uống mười chén rồi vịnh một bài thơ. Phạm vâng mệnh, cất bút thảo luôn một thiên Đường luật theo cách "thuận nghịch độc" (đọc xuôi là thơ chữ Hán, đọc ngược là thơ nôm diễn ý bài thơ chữ Hán). Thơ như sau :

Bài đọc xuôi :

Thanh xuân toả liễu lãnh tiêu phòng,
Cẩm trục đình châm ngại điểm trang.
Thanh lãng độ liên phi phất lục,
Đạm hi tán cúc thái sơ hoàng.
Tình si dị tố liêm biên nguyệt
Mộng xúc tằng liêu trướng đỉnh sương.
Tranh khúc cưỡng khiêu sầu mỗi bạn,
Oanh ca nhất vĩnh các tiêu hương.

Bài đọc ngược :

Hương tiêu gác vắng nhặt ca oanh (1),
Bợn mối sầu khêu gượng khúc tranh (2).
Sương đỉnh trướng gieo từng giục mộng,
Nguyệt bên rèm tỏ dễ si tình.
Vàng thưa thớt cúc tan hơi đạm,
Lục phất phơ sen đọ rạng thanh.
Trang điểm ngại chăm dừng trục gấm (3),
Phòng tiêu lạnh lẽo khoá xuân xanh. (4)

(1) Nhặt ca oanh: Tiếng chim oanh hót luôn luôn
(2) Sầu khêu: Nỗi buồn khêu gợi tấm lòng. Gượng khúc tranh: Gượng đánh khúc đàn tranh
(3) Dừng trục gấm: Dừng việc dệt gấm
(4) Khoá xuân xanh: Nhốt người con gái trẻ

Hầu xem xong thích lắm, khen là “thanh quang thắng tuyệt” (trong sáng tuyệt vời).
Mến tài văn thơ, lại cũng biết chí cần vương và hoạt động bí mật của Phạm, nên hầu mời Phạm ở lại ngay nhà, cho trút lốt nhà sư mà khoác áo nho sinh, để dạy mấy đứa cháu. Ông cụ tình cờ một đọc thấy thơ văn trữ tình của Phạm, có ý muốn gả Quỳnh Như cho, mới lựa lời khuyên Phạm về tìm họ hàng mai mối để xử sự cho phải lễ. Nhưng mẹ Quỳnh Như lại không ưng cho con lấy một “nhà sư phá giới”, vả lại tham phú quý, nhất định gả con cho một công tử nhà giàu nhưng học dốt.

Quỳnh Như bị ép uổng, bực trí quyên sinh.

Khi ở quê trở lại nhà họ Trương, Phạm hay tin dữ, liền ra mộ Quỳnh Như, thắp hương khóc lóc rồi đọc bài điếu văn như sau:

Nương tử ơi! Chướng căn ấy bởi vì đâu? Oan thác ấy bởi vì đâu? Cho đến nỗi xuân tàn hoa nụ, thu lẩn trăng rằm!

Lại có điều đau đớn thế nhỉ! Nhà huyên ví có năm có bảy, mà riêng mình nàng đeo phận bạc, thì lửa nguội nước vơi còn có lẽ. Thương hại thay! Hoa có một cành, tuyết có một quãng, nguyệt có một vầng, mây có một đóa: thân là thân hiếm hoi chừng ấy, nỡ nào lấy đôi mươi năm làm một kiếp, mà nghim nghỉm chốn non Bồng nước Nhược, chút gì không đoái đến cõi phù sinh!

Ví dù mà tiên thù với tục, sao xưa kia vâng mệnh xuống trần chi? Nay đã nguyện một thân cho vẹn kiếp, thì ba vạn sáu ngàn ngày, sống cho đủ lệ: nọ xuân huyên, kia phu tử, góp với trần gian không chút hận, rồi sẽ rong chơi chín suối, cớ sao riêng bỗng vội vàng chi?

Ôi! Chữ mệnh hẹp hòi, chữ duyên suông sẻ, những như thân giá ấy, tình cảnh ấy, ngược xuôi kia cũng ngậm ngùi cho. Huống ta cùng nương tử, tuy chẳng thân kia thích nọ, như tình duyên chừng ấy, cũng là một chút cương thường: dẫu rằng kẻ đấy người đây, song ân ái bấy lâu nay, đã biết bao nhiêu tâm sự!

Ta hăm hở chí trai hồ thỉ, bởi đợi thời nên nấn ná nhân duyên: mình long đong thân gái liễu bồ, vì giận phận hóa buông xuôi tính mệnh.

Cho đến nỗi hoa rơi lá rụng, ngọc nát châu chìm; chua xót cũng vì đâu?

Nay qua nấm cỏ xanh, tưởng người phận bạc, sùi sụt hai hàng tình lệ, giải bầy một bức khốc văn, đốt xuống tuyền đài, tỏ cùng nương tử!

Đọc xong, Phạm châm lửa đốt bài điếu văn, rồi đứng nghẹn ngào, nỗi lòng dào dạt phả lên một bài thơ nối:

Trời xanh cao thẳm mấy từng khơi,
Nỡ để duyên ai luống thiệt thòi!
Buồn đốt lò vàng hương nhạt khói,
Sầu nâng chén ngọc rượu không hơi.
Lầu tây nguyệt gác mây lồng bóng,
Ải bắc hồng bay biển tuyệt vời.
Một mối chung tình tan mấy mảnh,
Suối vàng, ai nhắn hộ đôi lời!

Từ đó Phạm sinh chán đời. Vì mải chuyện tình mà mấy năm rồi bỏ lửng cả việc cần vương. Vả lại thời vận nhà Lê đã hết, nhà Tây Sơn, rồi đến nhà Nguyễn kế tiếp nổi lên, việc cần vương không còn mấy ai nghĩ tới nữa. Phạm chỉ còn biết uống rượu ngâm thơ cho qua ngày tháng.
Ông ngậm ngùi mãi về mối tình duyên lỡ dở:

Đưa lời cho tới cung mây,
Sầu này xin cởi cho đây với cùng !
Dây tơ hồng trách ai se mối,
Đến nửa chừng bỗng nới dần ra.
Căm vì một ả trăng già,
Trêu ngươi chỉ mãi chẳng tha, thế này…

Và những khi cảm khái về thời thế, về thân phận, ông thốt ra lời thơ ngán ngẩm, khinh bạc, cáu kỉnh:

Năm bảy năm nay những loạn ly,
Cũng thì duyên phận, cũng thì "thì"!
Ba mươi tuổi lẻ là bao nả,
Năm sáu đời vua thấy chóng ghê!
Một tập thơ đầy ngâm sang sảng,
Vài nai rượu kếch ních tì tì.
Chết về tiên bụt cho xong kiếp,
Đù ỏa trần gian sống mãi chi!

Những lúc say sưa, ông lại lên giọng cao ngạo, ngâm một bài yết hậu:

Sống ở nhân gian đánh chén nhè,
Chết về âm phủ cặp kè kè.
Diêm vương phán hỏi rằng chi đó?
Be!

Ông mất năm 37 tuổi.
---------------------

thái thanh tâm
27-08-2012, 08:09 PM
23. Giai thoại bà Phủ Ba Lưu Thị Hiên (1860 – ..)


Bà sinh khoảng năm 1860, người làng Phù Lưu phủ Mỹ Đức tỉnh Hà Đông. Vốn là một đào nương thanh sắc, có theo đòi bút nghiên, lại có tâm hồn khoáng đạt, nên bà hay ngâm vịnh, tài làm thơ rất mẫn tiệp. Sau mấy năm lưu lạc chốn giang hồ, bà làm lẽ thứ ba viên tri phủ Nguyễn Danh Kế nên bà thường được gọi là bà Phủ Ba, sinh được một trai một gái, người con trai chính là nhà thơ Tản Đà ( có sách lại ghi thân mẫu của Tản Đà là bà Nhữ Thị Nghiêm). Sau đó mấy năm, bà ly thân với ông Nguyễn Danh Kế, trở lại đời sống độc lập.
Trong thời gian làm bà Phủ Ba, bà kết bạn tâm giao với bà Nhàn Khanh, em ruột
của hai ông Dương Khuê và Dương Lâm ở Vân Đình. Hai bà đều là tài nữ, tâm đầu ý hợp nên thường cùng nhau xướng họa tâm đắc. Sau khi đã ly thân, bà thường về Vân Đình chơi với bà Nhàn Khanh, nên cũng thường gặp Dương Khuê, lúc đó đã luống tuổi.
Họ Dương vốn là một tài tử đa tình, không hiểu bỡn cợt gì bà, nên bà đã trách khéo:

Trách ông Nguyệt lão trêu ngươi,
Cho người đầu bạc gặp người tóc xanh!

Và họ Dương đã trả lời rất phong nhã mà cũng rất tự phụ:

Trăm năm ai dễ bạc đầu,
Mười điều ai có được đâu cả mười.
Trách trăng sao khéo nực cười,
Hờn hoa, mà nỡ nặng lời thế ư?

Thế rồi Dương Khuê đêm khuya ngồi buồn, đối ngọn đèn dầu, trước bàn cờ thế cuộc đấu sắp tàn, cao hứng ngâm hai câu thơ thống thiết:

Gặp nhau trót đã muộn rồi,
Cầm quân cờ, gõ cho ... rơi hoa đèn!

Nhưng hoa đèn có rơi tủa xuống bởi tay cờ run rẩy nỗi hận tình, người đẹp đâu có biết cho, mà dù có biết chăng nữa thì tóc xanh đầu bạc xưa nay vẫn khó dệt nên thơ!

Sau khi bà Nhàn Khanh kết hôn với tri huyện Trịnh Đình Kỳ, theo chồng lên ngồi huyện Bất Bạt tỉnh Sơn Tây, bà Phủ Ba gửi cho bạn bài thơ:

Mong mỏi tri âm

Đêm qua thơ thẩn chốn thư đường,
Mong mỏi tri âm chẳng thấy sang.
Sáu khắc mơ màng người hảo hữu,
Năm canh tơ tưởng chốn đình giang.
Trông trăng bát ngát thương người ngọc,
Thấy nước bâng khuâng nhớ bạn vàng.
Hai chữ tương tư khôn xiết kể,
Khối tình chi để một ai mang.

Sau đó, lên Bất Bạt ở chơi với bạn ít lâu, khi về gửi lại bài thơ:

Ai lên Bất Bạt nhắn nhe cùng,
Nhắn hỏi rằng ai có nhớ không?
Nửa bước, xa xa bằng mấy dặm,
Một ngày, đằng đẵng ví ba đông.
Giọng thơ tri kỷ say còn mệt,
Chén rượu ân tình nhắp chửa xong!
Khắc khoải năm canh lòng luống những … (1)
Thơ tình mở mở lại phong phong.

(1) Dị bản: Thao thức hôm mai dằng dặc nhớ,

Hai câu thực: Giọng thơ tri kỷ say còn mệt, Chén rượu ân tình nhắp chửa xong! nghe như có hàm cái ý cảm tình với quan huyện Trịnh, vì quan huyện cũng hay thơ thẩn ỡm ờ, nhưng có lẽ bà e thương tổn đến tình chị em nên ở chơi
chưa được bao lâu đã bỏ ra về.
Được thơ, bà Nhàn Khanh chừng cũng thấu tình, nhưng lại vẫn muốn cùng bạn tri kỷ đôi thuyền một bến, nên vội cho người về đón bạn, với bốn câu thơ:

Những đọc thơ mà luống ngẫn ngơ,
Đang em, đang chị, bỗng đôi bờ!
Nhị Hà, hỏi nước bao giờ cạn,
Bến đợi sông chờ đã biết chưa?

Nhưng bà Phủ Ba đã chán cái cảnh kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng, nên nghĩ bụng mặc dầu đối với bà Nhàn Khanh sẽ không đến nỗi như thế, song tình bằng hữu vẫn có thể suy giảm, nên gửi lại bài thơ từ tạ:

Dẫu rằng sông Nhị có dài,
Mà tình dằng dặc bằng hai ba phần!
Kể từ tiếp được thơ thần,
Mười phần sầu não, chín phần nhẹ không!
Quản bao cách núi xa sông,
Lòng riêng riêng những ước mong đợi chờ!
Cò khi buồn vịnh nên thơ,
Lời thơ nghe cũng ngẩn ngơ từng lời.
Có khi mượn bút vẽ vời,
Tương tư lại vẽ ra người tư tương.
Có khi cờ nước chiến trường,
Mã xa lạc lối, biết đường đâu đâu.
Có khi nhắp chén tiêu sầu,
Bầu tiên dốc cạn, ra mầu chửa say!
Tình riêng nào có ai hay,
Muốn đem tâm sự giãi bày cùng trăng.
Trách ai dứt mối xích thằng,
Tràch ai giở rói cát đằng đưa duyên …
Trách ai ngăn cấm hồ sen,
Chẳng cho Tây tử tới miền Bồng lai!
Đêm đông bóng giãi cành mai,
Biết rằng ai có như ai, nhớ mình ...

Từ đây, thấy rằng đi đến đâu cũng bị cái thanh sắc gây nên sóng gió trên tình trường, bà quyết tâm đóng cửa phòng thu, sống cuộc đời nhàn tản cho đến già, xa hẳn mùi tục lụy.
---------------------

thái thanh tâm
27-08-2012, 08:12 PM
24. Phùng Khắc Khoan 馮克寬 tên chữ là Hoằng Phu, hiệu là Nghị Trai 毅齋, sinh năm 1528, mất năm 1613, quê ở làng Phùng Xá, tục gọi làng Bùng, huyện Thạch Thất (nay thuộc Hà Nội). Ông đỗ Hoàng giáp năm Quang Hưng 3 (1580) đời Lê Thế Tông, nhưng nhân dân vẫn quen gọi ông là Trạng Bùng theo lối tôn xưng của dân gian.
Tuy Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm hơn ông đến 38 tuổi, nhưng tương truyền, hai ông là anh em cùng mẹ khác cha.
Thuở nhỏ, ông được cha rèn cặp, sau theo học Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tuy nổi tiếng là người có văn tài, kiêm thông cả thuật số, nhưng ông không đi thi và không chịu ra làm quan với triều Mạc.
Đầu đời vua Lê Trung Tông (ở ngôi: 1548-1556), ông theo Lê Bá Lỵ tham gia công cuộc phù Lê diệt
Trạng Bùng là người thông minh, có tài ứng đối nhanh nhạy, sắc bén, đã để lại khá nhiều giai thoại thú vị, nhất là trong khi đi sứ nhà Minh.

1/Làm thơ nhanh trong một vụ kiện

Bấy giờ ông vào khoảng năm hai mươi tuổi, nhà Mạc tuy đã nắm quyền bính trong tay, nhưng Trạng thì vẫn một lòng thần phục nhà Lê. Nghe tin con cháu nhà Lê trốn sang Lào, Trạng đã lặn lội theo tìm tới tận vùng Sầm Nưa. Dọc đường hết lương, Trạng phải đóng một thầy tướng số và địa lý để kiếm ăn.
Một lần đến vùng nọ, ông mở lớp định gọi trẻ đến học, nhưng trong làng đã có một ông đồ dạy ở đây từ lâu. Nhiều bận, ông lắng nghe ông đồ láng giềng giảng sách thì thấy ông ta giảng nghĩa lung tung, sai sót rất nhiều. Thế mà người ta cứ cho con đến học rất đông, mới là lạ.
Phùng Khắc Khoan bèn mua mật về nấu thành kẹo hình con chim con thú, hễ đứa nào đến học, ông đều thưởng kẹo. Ông lại dán ở chỗ học một bài thơ châm biếm :

Đô đô bình trượng ngã
Đệ tử mãn đường hạ
Úc úc hồ văn tai
Đệ tử bất kiến lai.

Nghĩa là:

Đô đô bình trượng ngã
Học trò đến chật nhà
Úc úc hồ văn tai
Học trò chẳng thấy ai.

Mấy câu thơ chế giễu rất sâu cay. Chữ Hán có một số chữ mặt chữ nhìn qua tương tự giống nhau, người học không đến nơi đến chốn thường đọc lầm. Bởi thế tục ngữ mới có câu “Chữ tác đánh chữ tộ, chữ ngộ đánh chữ quá". Sách Luận ngữ có câu: 郁郁乎文哉 Úc úc hồ văn tai, nghĩa là văn vẻ rực rỡ thay.
Nhưng về mặt chữ thì cả năm chữ này đều hơi giống mấy chữ: 都都平丈我 Đô đô bình trượng ngã, vốn không có nghĩa gì cả. Phùng Khắc Khoan có dụng ý chế giễu rằng: Thầy dốt đọc sách sai mặt chữ thì học trò đến học rất nhiều. Còn ông đọc đúng thì chẳng thấy đứa học trò nào đến.
Bọn học trò nhỏ được thưởng kẹo lại được học với ông thầy giảng hay nên dần dần bỏ thầy đồ cũ, kéo đến học với thầy mới Phùng Khắc Khoan.
Thầy đồ cũ tức lắm, làm đơn kiện lên quan huyện. Quan cho đòi cả hai người đến, bắt làm thơ để thử tài. Quan chỉ vào cái vỏ trai to dùng làm nghiên mực, bảo hai thầy đồ làm thơ vịnh. Đầu đề bài thơ là: Con Trai (chữ Hán là Bạng), và cho làm thơ Nôm hay thơ Hán tuỳ ý.

Phùng Khắc Khoan viết ngay một bài thơ thất ngôn bát cú chữ Hán như sau :

Hữu nhất giới lân phù thuỷ thượng,
Phi loa, phi cáp, kỳ danh bạng.
Tàng châu, đái giáp, võ văn tài,
Thổ vụ, thôn ba, hà hải lượng.
Ký đảo cuồng lan tận lực phù,
Tương thăng hồng nhật khuynh tâm hướng
Cửu châu tứ hải tổng tri danh,
Bỉ duật dung tài an cảm kháng?

Tạm dịch thơ:

Mặt nước lênh đênh vật có mai,
Chẳng sò, chẳng ốc, chính là “trai”.
Mù phun, sóng nuốt, biển sông lượng.
Giáp mặc, châu đeo, văn võ tài.
Gắng sức cản ngăn luồng sóng dữ,
Nghiêng lòng hướng đón ánh trời mai.
Chín châu bốn biển đều vang tiếng,
Tài mọn cò kia dám địch ai?

Tương truyền, dân gian có bài dịch ra thơ lục bát như sau:

Trên sông nổi một vật gì
Không ốc không hến ắt thì là trai
Hạt châu ngậm áo giáp ngoài
Miệng phun sóng dữ nào ai sánh bì
Quản gì mưa gió thị uy
Hướng đông lòng vẫn kiên trì hôm mai
Bốn phương nổi tiếng anh tài
Cò kia cô thế chỉ hoài đứng trông.

Còn thầy đồ già nghĩ mãi mới viết được bốn câu thơ chữ Nôm như sau:

Hùm hụp vừa bằng bàn tay doạng
Hỏi nó cái chi? Ấy cái bạng
Vỏ làm nghiên chép sử chép kinh
Ruột nấu cháo bổ tâm bổ tạng.

Phùng Khắc Khoan nghĩ bụng thế nào mình cũng thắng cuộc. Nào ngờ quan huyện xem xong hai bài thơ, lại nhìn vào Phùng Khắc Khoan mà phán:
- Cụ đồ học đã bạc đầu mới có thể làm thầy, còn anh đang trẻ giành sao được địa vị của bậc già cả được?
Rồi quan xử cho bọn học trò nhỏ về học với cụ đồ.

Nghe xử xong, Phùng Khắc Khoan im lặng lần bậc thềm bước xuống sân. Quan huyện ngăn ông lại, nói:
- Xin ông hãy vào thư phòng, tôi có câu chuyện muốn nói.
Rồi quan huyện bảo cụ đồ về, mời Phùng Khắc Khoan vào trong. Rượu được vài chén, quan huyện nhìn Khắc Khoan nói nhỏ:
- Tiên sinh có biết loài sư tử không? Nó vồ được cả con hùm con beo, nhưng khi vồ con thỏ mà cũng dốc sức thì nó dại. Tiên sinh có hoài bão lớn lao nên nghĩ đến việc lớn hơn, há cần giành giật bọn trẻ con với ông già tầm thường như vậy làm gì?
Rượu tàn, quan huyện biếu ông mười lạng bạc và nói:
- Tôi mạo muội lấy chút tiền này thay lễ tết của học trò, mong giúp tiên sinh chút ít.
Phùng Khắc Khoan rưng rưng cảm động. Ông biết trên đời còn nhiều tài giỏi và có tình. Ông tỉnh ngộ và sắp xếp hành trang, tìm đường vào Thanh Hóa giúp nhà Lê. Người quan huyện về sau cũng có công lớn trong buổi đầu dựng lại cơ nghiệp nhà Lê.

thái thanh tâm
27-08-2012, 08:13 PM
25. 2/ Phùng Khắc Khoan và Liễu Hạnh công chúa

Lúc Phùng Khắc Khoan đi sứ từ Trung quốc về đến Lạng Sơn ông thấy một cô gái xinh đẹp ngồi dưới ba cây thông trước sân chùa, vừa đàn vừa hát. Ông bèn lên tiếng ghẹo:

Tam mộc sâm đình, tọa trước hảo hề nữ tử.

Câu này có nghĩa là: ba cây che sân, một cô gái đẹp ngồi đó. Nhưng chơi chữ lắt léo: Tam mộc 三木 là ba chữ mộc, mà ba chữ mộc ghép lại thành chữ sâm 森 . Chữ hảo 好 là do chữ nữ 女 và chữ tử 子 ghép thành.
Người con gái nghe vậy, đối ngay:

Trùng sơn xuất lộ, tẩu lai sứ giả lại nhân.
Câu này có nghĩa: núi non mở đường, người sứ giả đi đến là ông quan. Câu này chơi chữ ở chỗ: Trùng sơn là hai chữ sơn 山, hai chữ sơn ghép lại thành chữ xuất 出. Chữ sứ 使 là do chữ lại 吏 và chữ nhân 亻ghép thành.
Phùng Khắc Khoan hết sức kinh ngạc vì sự đối đáp thông minh, mau lẹ của cô gái. Ông bèn nói tiếp:

- Sơn nhân bàng nhất kỷ, mạc phi tiên nữ tâm phàm.
Câu này có nghĩa: cô sơn nữ ngồi ở ghế, phải chăng là tiên nữ giáng trần ? Nhưng lắt léo ở chỗ: chữ sơn 山 và chữ nhân 亻ghép lại thành chữ tiên 仙. Chữ bàng có bộ kỷ 几. Chữ nhất và chữ kỷ ghép lại thành chữ phàm 凡.
Cô gái không cần nghĩ ngợi, đáp ngay:

- Văn tử đới trường cân, tất thị học sinh thị trướng.
Câu này có nghĩa: ông nhà văn chít khăn dài, chính thị học sinh nhòm trướng. Câu đáp không những lịch sự, dí dỏm mà chơi chữ cũng hết sức tinh vi: chữ văn 文 và chữ tử 子 ghép lại thành chữ học 斈 . Dưới chữ đới 帯 có bộ cân 巾. Chữ trường 長 và chữ cân ghép lại thành chữ trướng 帳 .
Phùng Khắc Khoan vô cùng khâm phục cô gái.Ông cúi đầu làm lễ, lúc ngẩng đầu thì cô gái đã lẩn mất. Chỉ thấy trên thân cây gỗ viết bốn chữ:

Mão khẩu công chúa
kế bên đó, treo tấm biển cũng có bốn chữ:

Băng mã dĩ tẩu.
Những người đi cùng đoàn chẳng ai hiểu nghĩa hai câu đó như thế nào, hỏi Phùng Khắc Khoan. Ông từ từ đáp:
- Cây gỗ là bộ mộc. Mộc 木 thêm chữ mão 卯 là chữ liễu 柳. Mộc 木 thêm chữ khẩu 口 là chữ hạnh 杏, người con gái vừa rồi chính là Liễu Hạnh công chúa.
Còn bộ băng đi với chữ mã 馬 , chính là họ Phùng 馮 của ta. Chữ dĩ 已 nằm cạnh chữ tẩu 走, chính là chữ khởi 起 . Có lẽ Liễu Hạnh công chúa dặn họ Phùng ta phải khởi công sửa lại ngôi chùa này.
Sau đó,Phùng Khắc Khoan cho người tu sửa lại ngôi chùa khang trang. Trước chùa ông treo tấm hoành phi có bảy chữ:

Tùng lâm tịch mịch phất nhân gia

Mấy chữ này có nghĩa: Rừng thông vắng vẻ, không phải nhà người thường. Nhưng xem kỹ, câu này cũng chơi chữ tinh vi: chữ phất 弗 đi với chữ nhân 亻là chữ phật 佛. Phất nhân gia, tức Phật gia, nghĩa là nhà Phật vậy. Có lẽ ông muốn ghi lại một kỷ niệm đẹp đẽ trong lúc gặp gỡ lần đầu với Liễu Hạnh công chúa.

Về kinh đô Thăng Long, một lần Phùng Khắc Khoan cùng hai bạn là Ngô và Lý đi chơi hồ Tây.
Ba người tha thẩn đến một quán rượu bên hồ, ngoài cửa quán thấy đề bốn chữ lớn:

西湖風月

Tây hồ phong nguyệt

Có cô gái đẹp ra chào, nói:
- Đây là quán hàng mới của Liễu nương, xin các ông vào uống rượu, làm thơ tự nhiên.
Ba người đi vào, thấy trong nhà có dán bài thơ tứ tuyệt, nét mực còn tươi:

Điếm phương môn nội chiếu minh nguyệt
Thời chính nhân bàng lập thổ khuê
Khách hữu tâm tinh câu nguyệt đới
Huệ nhiên nhất mộc lưỡng nhân đề.

Bài thơ có nghĩa:

Cửa quán là đây trăng sáng soi
Bên mành ai đứng đợi chờ ai
Khách đến ba người thừa đội nguyệt
Một cây huệ mọc giữa hai ngài.

Phùng Khắc Khoan xem bài thơ, ngẫm nghĩ làm bộ không hiểu. Người bạn họ Lý nhanh nhẩu chiết tự:
- Đây là ý tác giả nói: Điếm phương nhàn tức “quán đương vắng”; Thời chính giai, tức “được buổi đẹp”; Khách hữu tâm, tức “khách có lòng”; Huệ nhiên lai, tức “mời vào chơi”.
Phùng Khắc Khoan đưa mắt nhìn mặt nước hồ Tây mênh mông, lấp lánh, hồi tưởng lại cảnh gặp gỡ Công chúa Liễu Hạnh lần đầu ở Lạng Sơn năm nào…
Ba người xúc cảnh muốn làm thơ. Bỗng người hầu gái thướt tha bưng đến một cái khay, trên khay có tấm thiếp viết câu thơ:

西湖別佔一壺天

Tây hồ biệt chiếm nhất hồ thiên

Ba người hết sức ngạc nhiên,biết đây là câu mở của một bài thơ liên cú. Lý, Phùng, Ngô liền theo câu đó, mỗi người lần lượt làm hai câu một, thành bài thơ liên cú như sau:

Tây hồ biệt chiếm nhất hồ thiên
Túng mục kiền khôn tận khoát nhiên
Cổ thụ nhiễu trang thanh tịch mịch
Kim ngưu khoát thủy lục quyên quyên
Hoạt kê thủy giả nhất chinh thuyền
Cách trúc sơ ly văn khuyển phệ
Phanh trà bại bích thăng trù yên
Khinh khinh quế trạo thứ trung đãn
Đoản đoản xoa y thân thượng xuyên
Phảng phất Động Đình du Phạm Lãi
Y hy Bích Hán phiếm Trương Khiên
Thiên tầm hiệu đãng ám thâm thiên
Tử cố vi mang diệt hậu tiên
Ái nãi vãng lai hồng liễu bạn
Ầu a xuất nhập bạch tự biên
Sa trung hiệp hỷ vong cơ lộ
Văn ngoại nhàn khan xuất tính điên
Kỷ khúc thương ca văn thủy quốc
Nhất song bạch nhãn ngạo trận huyền
Giao đầu đối thoại y hà cải
Thân thủ tương chiếu hỷ khiếm tiên
Lạp phong thiên gian lăng thái nộn
Lâm trận sao đề dưỡng ngư tiên
Hoặc tương đạm tửu hoa tùng chước
Thời chẩm trường cao liễu ánh miên
Túy hận linh tinh phao thủy điện
Dục dư hiệu tiễu bộc phong tiền
Ân hoa mục tử thân bằng kết
Thượng uyển tiều phu cựu ước kiên
Bão tất tử ngô quan bạng thế
Phàm hâm tiều bị một tòng uyên
Võng sơ mỗi tạ thê đồ hiểm
Câu trục tu tương lợi nhĩ huyền
Hận chư hạ lai đồ ái nhật
Trường An đông tận vị tri niên
Tâm vong khẳng bả yên hà hoản
Ban điểm ninh đang lục tự khiên
Vị thủy nhậm phù ban bá bốc
Đào nguyên hảo phỏng vũ tặng duyên
Văn chung sự giác tâm vi Phật

Lý, Phùng, Ngô làm đến đây, bỗng trong nhà có tiếng trong trẻo của chủ nhân họ Liễu ngâm :

Đắc nguyệt ưng tri ngã thị liên

Ba người không hẹn mà cũng vỗ tay khen ngợi câu kết. Nếu lấy câu mở đầu ghép với câu kết, hai câu thơ ấy sẽ là:

Tây hồ biệt chiếm nhất hồ thiên
Đắc nguyệt ưng tri ngã thị tiên.

Rõ ràng đây là hai câu thơ của một con người. Lời thơ, ý thơ, tâm tình nhà thơ đều rất nhất quán.

Cả bài thơ liên cú trên, đã được Phan Kế Bính dịch thơ như sau:

Hồ Tây riêng chiếm một bầu trời
Bát ngát tư mùa rộng mất coi
Cỗi ngọc xanh xanh làng phía cạnh
Trâu vàng biêng biếc nước vàng khơi
Che mưa nhà lợp vài gian cỏ
Chèo gió ai bơi một chiếc chài
Giậu thủng chó đua đàn sủa tiếng
Trời hôm bếp thổi khói tuôn hơi
Mơn mơn tay lái con chèo quế
Xàn xạt mình đeo chiếc áo tơi
Thuyền Phạm phất phơ chơi bể rộng
Bè Trương thấp thoáng thả sông trời
Đò đưa bãi lác tai giòn giã
Giọng hát bờ lau tiếng thảnh thơi
Cò xuống đua qua vùng cát đậu
Diều bay sẽ liệng đám mây chơi
Khúc ca trong đục ầm bên nước
Quầng mắt xanh đen sạch bụi đời
Đầu gối long hà lai láng chuyện
Tay soi tiền giáp lả lơi cười
Chốc sen ngả nón chứa rau búp
Đáy nước dìm phao bắt cá tươi
Có lúc kề hoa bày tiệc rượu
Họa khi tựa bóng đứng đầu mui
Say rồi cởi áo quăng dông mắt
Tắm đoạn xoay quần hóng gió phơi
Trẻ mục Yên hoa bày tiệc rượu
Lũ tiều Thượng uyển hẹn lời dai
Bắt cò cứ vững ngồi rình bụi
Mò ngọc khen ai khéo lặn ngòi
Tay lưới thế thân không mắc vướng
Lưới câu danh lợi nhẹ tham mồi
Hạ rồi bến mát còn yêu nắng
Đông hết thành xuân chửa thấy mai
Thú cảnh yên hà sang dễ đọ
Sóng lòng trần tục dạ đầy vơi
Xe săn Vị Thủy thu hồ hải
Thuyền tới Đào Nguyên mặc sức bơi
Chuông sớm dục thanh lòng Phật đó
Trăng tròn soi bóng một tiên thôi.

Bài thơ "Tây hồ quan ngư" ấy làm xong trong mùi rượu thoang thoảng thơm và mây nước Tây hồ bảng lảng.
Ít lâu sau, Phùng , Lý và Ngô lại đến thăm quán nàng họ Liễu. Nhưng đến nơi thì quán cũ đã không còn. Trên cây nơi ấy, ve sầu kêu ra rả. Ba người nhìn thấy ở thân cây có bốn câu chữ triện :

Vân tác y thường phong tác xa
Tiên du Đâu suất mộ yên hà
Thế nhân dục thức ngô danh tính
Nhất đại sơn nhân Ngọc Quỳnh hoa.

Lý và Ngô hỏi Phùng Khắc Khoan ý nghĩa bài thơ trên. Ông trầm ngâm một lúc, nói trong giọng buồn:
- Ba câu đầu của bài thơ thì các anh cũng đã rõ. Đó là : Lấy mây làm xiêm áo, lấy gió làm xe. Buổi sáng chơi vùng trời Đâu suất, chiều ngao du nơi mây khói. Người đời muốn biết tên họ ta. Ta là: “Nhất đại sơn nhân Ngọc Quỳnh hoa”. Chữ nhất 一 và chữ đại 大 là chữ thiên 天. Chữ sơn 山 và chữ nhân 亻là chữ tiên 仙. Cả câu thứ tư có nghĩa là: Ta là tinh hoa Ngọc Quỳnh của tiên trên trời.
Nói xong, ông kể lại chuyện gặp bà Liễu Hạnh công chúa ở Lạng Sơn cho hai ông bạn Lý, Ngô nghe.
Ba người lững thững ra về trong nỗi buồn nhớ mênh mông.

thái thanh tâm
29-08-2012, 09:49 PM
26. Giai thoại về Phan Văn Trị (1830-1910)

Phan Văn Trị sinh năm Canh Dần (1830), tại làng Hạnh Thông, tỉnh Gia Định. Hai mươi tuổi đỗ cử nhân (năm Kỷ Dậu,Tự Đức II, 1849) nên thường gọi là Cử Trị. Thang mây sẵn bước, có thể ruổi dong trên hoạn lộ dễ dàng, nhưng vì tính khí ngang tàng, ông không chịu bó buộc thân mình, mặc dầu gia đình thanh bạch. Ông lấy việc dạy học và bốc thuốc làm phương độ nhật. Khi quân Pháp gây hấn ở Gia Định (1862) ông tránh xuống Vĩnh Long, kết bạn với Nguyễn Đình Chiểu và Huỳnh Mẫn Đạt.
Phẫn uất trước sự bạo tàn của quân giặc, ông làm bài “Gia Định thất thủ phú khá dài (xem trong Thi viện).

Năm 1867, Vĩnh Long lọt vào tay Pháp, ông cảm khái thốt ra lời thơ đau đớn trước sự bất lực của nhà cầm quyền Việt Nam :

Vĩnh Long thất thủ

Tò te kèn thổi, tiếng năm ba,
Nghe lọt vào tai ruột xót xa.
Uốn khúc sông Rồng mờ mịt khói,
Vắng hoe thành Phụng ủ rầu hoa.
Tan nhà, căm nỗi câu ly hận,
Cắt đất, thương thay cuộc giảng hoà!
Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ,
Ngậm cười, hết nói nỗi quan ta!

Từ đó, ông thường mượn thi văn để tỏ lòng phẫn uất về cảnh nước mất nhà tan,chỉ trích những người hợp tác với chính quyền mới,lời lẽ đanh thép và ngạo nghễ.
Dưới đây là mấy bài thơ tả cái tâm sự kẻ sĩ phu đứng trước quốc nạn:

Cảm hoài

Cõi Nam chung hưởng cuộc thăng bình,
Trời đất gây nên cuộc chiến tranh,
Xe ngựa rộn ràng, xe ngựa khách,
Nước non vun quén, nước non mình.
Những trang dụng thế đành ngơ mặt,
Mấy gã trung quân nỡ phụ tình!
Bao thuở đem về cơ nhất thống?
Ngàn thu bia tạc đứng trung trinh.

Phong trần lắm lúc luống sầu riêng,
Biết mượn tay ai gỡ mối phiền?
Áo mũ ba đời, ơn rất trọng,
Can qua một cuộc, nghĩa chưa tuyền.
Trớ trêu, con tạo lòng đa xảo,
Tráo trở, anh hùng buổi thiếu niên!
Phất phới bụi hồng đà trải dấu,
Tâm tình chiều uốn thú hàn huyên.

Tay nâng, há dám một mình đây?
Kẻ Bắc người Nam bấn dạ nầy.
Thế sự lăng xăng cờ túng nước,
Nhân tình tráo chác gió rung cây.
Giao hoà, bởi sợ mưu mô cạn,
Cắt đất, vì kiêng trí lực dày.
Ướm hỏi những ai trên đất Việt,
Tấm lòng thiết thạch há như vầy?

Tài năng chi đó khéo trêu ngươi!
Cái phận nam nhi luống nực cười:
Ngược đậu, xuôi đi, hiềm thế nước,
Sâu dầm, cạn vén, thuận tình đời,
Quan san dặm thẳng đường liền bước,
Tùng cúc vườn xưa cảnh nhớ người.
Tạo hoá một bầu xoay khí vận,
Đông qua xuân lại trở màu tươi.

Tổng đốc Trần Bá Lộc nghe danh ông, nên khi qua Vĩnh Long cho lính đòi ông đến, ý muốn trừng trị thái độ ương ngạnh, Lộc bắt ứng khẩu làm một bài thơ. Ông xin cho đầu bài. Lộc vốn thô lỗ, buông lời tục tĩu:
- Cục c.. !
Ông đứng ngâm ngay bốn câu:

Đương cơn lộn xộn ló đầu ra,
Người thấy, ai mà chẳng sợ va!
Cậy thế, khom lưng ngồi dưới đít
Biết đâu sắp bị chó liền tha!

Thơ tả đúng đầu đề, nhưng mỉa mai bao nhiêu cho cái uy quyền vay mượn của viên tổng đốc mới! Lộc nghe xong mắc cở, đuổi Cử Trị về.

Cuộc xướng hoạ làm cho ông nổi tiếng nhất thời ấy, là cuộc bút chiến với Tôn Thọ Tường.

Cử Trị cùng các bạn Nguyễn Đình Chiểu, Huỳnh Mẫn Đạt,… đứng về phe bất hợp tác, còn Tôn ở phe hợp tác.

Tôn sinh năm 1825, cũng ở Gia Định. Thân phụ là Tôn Thọ Đức, nguyên làm tuần vũ Thuận Khánh (Bình Thuận - Khánh Hoà). Năm 30 tuổi, thi hương hỏng, ra Huế, xin tập ấm làm quan văn, bất đồ triều đình lại bổ sang ngành võ, Tôn bất mãn, bỏ về. Đến 1862,triều đình nhượng cho Pháp 3 tỉnh miền Đông , muốn lấy lòng dân , kêu gọi sự hợp tác của sĩ phu , Tôn vì sinh kế phải hưởng ứng, được Pháp trọng dụng, cho làm tri phủ Tân Bình, dần dần lên đến chức đốc phủ sứ.

Tôn ra hợp tác, cho mình là thức thời vụ. Thầm mong lôi cuốn bằng hữu vào một đường với mình , hay đâu các bạn từ đó đều quay mặt đi, ai cũng mỉa mai là tên bán nước.

Tôn bị cô lập, lại bị mạt sát nặng nề, tự thấy hối hận, và bởi trót mắc vào vòng rồi, đành làm 10 bài thơ nhan đề là “Giang sơn ba tỉnh” , bào chữa cho mình, và thanh minh với dư luận.

Mười bài này phổ biến ra, Cử Trị liền làm mười bài hoạ lại. Dưới đây xin chép từng bài xướng hoạ, để thấy rõ lập trường của hai phái “hợp tác” và “bất hợp tác”.

Bài xướng I ( Tôn Thọ Tường )

Giang san ba tỉnh hãy còn đây,
Trời đất xui chi đến nỗi nầy?
Chớp nhoáng thẳng bon dây thép kéo,
Mây tuôn đen kịt khói tàu bay.
Xăng văng thầm tính, thương đôi chỗ,
Khấp khởi riêng lo, biết những ngày.
Miệng cọp hàm rồng chưa dễ chọc,
Khuyên đàn con trẻ chớ thày lay!

Tường khoa trương lực lượng Pháp: dây thép, tầu biển, khuyên chớ làm như con trẻ chọc vào miệng cọp hàm rồng.

Bài hoạ ( Phan Văn Trị )

Hơn thua chưa quyết đó cùng đây,
Chẳng đã, nên ta mới thế nầy.
Bến Nghé quản bao cơn lửa cháy,
Cồn Rồng dầu mặc bụi tro bay.
Nuôi muông giết thỏ còn chờ thuở,
Bủa lưới săn nai cũng có ngày.
Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ,
Lòng ta sắt đá há lung lay!

Cử Trị tả sự tàn bạo của kẻ xâm lăng “lửa thiêu Bến Nghé, tro bay Cồn Rồng”. Nhưng mặc dầu vậy, ta cũng cứ kiên chí nuôi muông bủa lưới , có ngày giết thỏ săn nai, ngươi đừng mượn hơi hùm , mà rung cây cho khỉ sợ ...

Bài xướng II ( Tôn Thọ Tường )

Thày lay lại chuốc lấy danh nhơ,
Ai mượn mình lo việc bá vơ?
Trẻ dại, giếng sâu, lòng chẳng nỡ,
Đường xa, ngày tối, tuổi không chờ. (1)
Áo xiêm chán thấy xăng tay thợ,
Xe ngựa nào toan gỡ nước cờ.
Rủi rủi may may đâu đã chắc?
Miệng lằn lưỡi mối hãy tai ngơ!

(1) Ngũ Tử Tư người nước Sở, cha anh bị vua Sở giết, chạy sang nước Ngô mưu việc báo thù, có nói : “ Nhật mộ đồ viễn, đảo hành nghịch thi” nghĩa là ngày sắp tối,đường còn xa, phải nên làm việc mau gấp đảo ngược cho chóng thành công.

Bày trò ra thì mang xấu, lo chuyện bâng quơ làm gì: ta thấy giếng sâu, không nỡ cho trẻ lao mình xuống, và đương xa ngày tối, đi sao cho kịp? Cứ xem các quan ta cố chống trả mà có gỡ được nước cờ đâu, vậy đừng nên nghe xui dại.

Bài hoạ ( Phan Văn Trị )

Lung lay lòng sắt đã mang nhơ,
Chẳng xét phận mình khéo nói vơ!
Người trí mảng lo danh chẳng chói,
Đứa ngu mới sợ tuổi không chờ.
Bài hòa đã sẵn trong tay thợ,
Việc đánh hơn thua giống cuộc cờ.
Chưa trả thù nhà đền nợ nước,
Dám đâu mắt lấp lại tai ngơ!

Tôn dụng tâm lung lạc người trí thức, ấy là xấu rồi: kẻ trí phải lo trọn đạo, đứa ngu mới hành động ăn xổi ở thì, bây giờ giảng hoà là ta thua rồi, nhưng đó đã chắc được chưa, chúng ta không thể làm ngơ trước thù nhà nợ nước.

Bài xướng III ( Tôn Thọ Tường )

Tai ngơ mắt lấp buổi tan tành,
Nghĩ việc đời thêm hổ việc mình.
Nghi ngút tro tàn nhà đạo nghĩa,
Lờ mờ bụi đóng cửa trâm anh.
Hai bên vai gánh ba giềng nặng,
Trăm tạ chuông treo một sợi mành.
Trâu ngựa dầu kêu, kêu cũng chịu,
Thân còn chẳng kể, kể chi danh!

Cũng vì tan tành nên không ngơ được: nền lễ giáo đã mất, ta vẫn phải cứu vãn lại, nhưng việc thật khó khăn; quả chuông trăm tạ đem treo bằng sợi chỉ. Thôi thì bảo ta là trâu ngựa ta cũng chịu, ta ra cộng tác thế này còn nghĩ gì đến thân danh nữa; cốt cứu được nước mà thôi.

Bài hoạ ( Phan Văn Trị )

Tai ngơ sao được lúc tan tành,
Luống biết trách người chẳng trách mình.
Đến thế còn khoe danh đạo nghĩa,
Như vầy cũng gọi cửa trâm anh.
Khe sâu vụng tính dung thuyền nhỏ,
Chuông nặng to gan buộc chỉ mành.
Thân có, ắt danh tua phải có,
Khuyên người ái trọng cái thân danh.

Muốn trách người phải trách mình trước. Đã cộng tác thì đừng nói đến đạo nghĩa, trâm anh, làm gì. Chúng ta đã trót vụng tính để thuyền nhỏ lọt vào khe sâu, thì phải có gan treo chuông bằng sợi chỉ, ấy là bảo trọng thân đấy.

Bài xướng IV ( Tôn Thọ Tường )

Kể chi danh phận lúc tan hoang,
Biển rộng trời cao nghĩ lại càng ...
Lên núi bắt hùm chưa dễ láo,
Vào sông đánh cá, há rằng oan.(1)
Người giương mắt ngạo đôi tròng bạc,
Kẻ ứa gan trung bảy lá vàng.
Chiu chít thương bầy gà mất mẹ,
Cũng là gắng gỏi, dám khoe khoang!

(1) Nhập giang nhi viết phi ngư, thuỳ kỳ tín giả: Lội xuống sông mà chối là không phải là đi kiếm cá, ai mà tin được!

Lúc này kể gì danh phận nữa, nhưng nghĩ vì Pháp bây giờ đương mạnh thế, mà tôi nói rằng lên núi bắt hùm, chưa ắt đã là nói láo, ngặt vì trót lội sông rồi mà bảo là không phải để đi bắt cá, thì chẳng ai tin cho! Các ông
chỉ trích tôi , thật đau đớn cho tôi: vì tôi thương gà con mất mẹ nên mới
gánh vác việc nước.

Bài hoạ ( Phan Văn Trị )

Thân danh chẳng kể, thiệt thằng hoang!
Đốt sáp nên tro lụy chẳng càn ...(1)
Hai cửa trâm anh xô sấp ngửa,
Một nhà danh giáo xáo tan hoang.(2)
Con buôn khấp khởi chưa từng ngọc,
Người khó xăng văng mới gặp vàng.
Thương kẻ đồng văn nên phải nhắc,
Dễ ta đâu dám tiếng khoe khoang.

(1) Càn: khô
(2) Vần oan họa vần hoang, theo âm miền Nam.

Thân danh mà không đếm xỉa đến, thật là vô liêm sỉ. Khá thương cho kẻ đốt sáp thành tro, làm điếm nhục đến gia thanh. Chỉ trông thấy ngọc đã loé mắt, không biết rằng có chịu khổ sở mới thành công . Vì ông cũng là trong mạch thư hương nên mới nói mà thôi.

Bài xướng V ( Tôn Thọ Tường )

Khoe khoang sức giỏi cậy tài khôn,
Múa mép khua môi cũng một phồn. (1)
Tơ vấn cánh ruồi kinh trí nhện,
Gió đưa hơi cọp khiếp oai chồn.
Siêng lo há đợi cơm kề miệng,
Chậm tính nào ngờ nước đến trôn.
Hay dở chuyện đời còn lắm lối,
Múa men xin hãy chớ bôn chôn.

(1) Phồn: bọn, lũ

Thôi đừng ba hoa nữa. Sức các ông như cánh ruồi mà định làm cho nhện sợ; như lũ chồn, ngửi thấy hơi cọp là run . Nếu biết lo thì chẳng nên đợi ai đưa cơm kề miệng cho mình; nước đến trôn lúc nào cũng không biết.

Bài hoạ ( Phan Văn Trị )

Khoe khoang việc phải, mới rằng khôn,
Kẻ vạy người ngay há một phồn!
Hồng dẫu hư lông đâu sợ sẻ,
Hùm như thất thế dễ thua chồn.
Ngươi Nhan xá ngại dao kề lưỡi,
Họ Khuất nào lo nước đến trôn.
Tháy máy gặp thời ta sẽ động,
Muốn nên việc lớn chớ bôn chôn.

Kẻ trái người phải sao lại vơ đũa cả nắm? Chim hồng tuy mất ít lông đâu có sợ chim sẻ, hùm mà thất thế há thua chồn. Nhan Cửu Khanh đời Đường bị giặc bắt, chửi giặc,giặc đem cắt lưỡi vẫn không hề sợ. Khuất Nguyên can vua Sở, biết vua sẽ ghét mình sẽ nguy, đã quyết nhảy xuống sông Mịch La còn sợ gì nước đến trôn! Hễ cơ hội đến là ta sẽ hành động.

Bài xướng VI ( Tôn Thọ Tường )

Hãy chớ bôn chôn việc cửa nhà,
Sau này còn ngại nỗi đàng xa.
Ma duồng cơn ngặt lung hai trẻ, (1)
Trời mỏn lòng thương xót một già.
Lái đã vững vàng cơn sóng lượn,
Thoi toan đan dệt lúc mưa sa.
Ở đời há dễ quên đời được,
Tính thiệt so hơn cũng gọi là ...

(1) Hai trẻ: nhị thụ đồng tử - bệnh nặng lắm đã vào đến mạng mỡ.

Đường xa , còn nhiều trở ngại lắm. Nước ta ví như người già trời còn thương, nhưng mà hai trẻ cứ giục chết cho mau . Cơn sóng lựơn nay ta đã cầm lái vững, ta lại lo dệt áo phòng mưa nữa. Phải suy hơn thiệt,chớ đừng mai mỉa, không công bằng.

Bài họa ( Phan Văn Trị )

Bôn chôn cũng bởi bận vì nhà,
Dám trách người xưa chửa tính xa?
Hăm hở hãy đang hăng sức trẻ,
Chìu lòn e cũng mỏn hơi già.
Mồi thơm cá quý câu không nhạy,
Cung yếu chim cao bắn chẳng sa?
Đáy giếng trông trời giương mắt ếch,
Làm người như vậy cũng rằng là ...

Đâu dám trách ông nông nổi: ông hăm hở vì tuổi trẻ hăng hái, còn tôi thì không thể nào chịu luồn cúi như ông được. Ông muốn dụ chúng tôi, nhưng mồi thơm không câu được cá quý,cung yếu không bắn được chim cao. Ông không biết ngó xa trông rộng, như thế không xứng đáng là kẻ sĩ.

(Còn tiếp)

thái thanh tâm
29-08-2012, 09:51 PM
27. Giai thoại về Phan Văn Trị (1830-1910)

(Tiếp theo)

Bài xướng VII ( Tôn Thọ Tường )

Cũng gọi là người ắt phải lo,
Có hay chịu khó mới nên trò.
Bạc mông mênh biển cầu toan bắc,
Xanh mịt mù trời thước rắp đo.
Nước ngược chống lên thuyền một mái,
Gác cao bó lại sách trăm pho.
Lòng này dầu hỏi mà không hổ,
Lặng xét thầm soi cũng biết cho.

Người ta phải thực tế, không nên viễn vông, bắc cầu trên biển, lấy thước đo trời. tiếc thay tình thế ngửa nghiêng mà một mái thuyền toan chống, thôi cái lối ngồi cao xem sách, các ông nên xếp đi thì hơn . Tôi tự xét không hổ với mình, đã có trời xét soi.

Bài hoạ ( Phan Văn Trị )

Rằng là người trí cũng xa lo,
Nhuần nhã kinh luân mới phải trò.
Ngay vạy nảy ra cho biết mực,
Thấp cao trông thấy há rằng đo.
Xe Châu nào đợi kinh năm bộ,
Níp Tống vừa đầy sách nửa pho.
Chuốc miệng khen người nên cắc cớ :
Đạo trời ghét vạy há soi cho!

Đã là người trí, thì phải lo xa, phải xử sự cho đúng đạo thánh hiền. Ai cong ai ngay, ai cao ai thấp, cần gì phải nói. Tôi học cũng nông nổi thôi, nhưng khuyên ông nên ở phải, đạo trời đâu có soi cho kẻ ở cong queo!

Bài xướng VIII ( Tôn Thọ Tường )

Đã biết cho chưa, hỡi những người,
Xin đừng tiếc hận, chớ chê cười!
Ví dầu vật ấy còn roi dấu,
Bao quản thân nầy chịu dễ ngươi.
Trăng giữa ba thu mây cũng tỏ,
Hoa trong chín hạ nắng càng tươi.
Khó lòng mình biết lòng mình khó,
Lòn lỏi công trình kể mấy mươi.

Xin đừng chê cười: các ông khinh tôi cũng chẳng ngại, miễn là nước vẫn còn. Rồi ra trăng sáng thì mây mờ; hoa tàn gặp nắng lại tươi,chỉ mình tôi
biết cho tôi có công trình luồn lỏi đã nhiều cũng vì thương nước thương dân.

Bài hoạ ( Phan Văn Trị )

Soi cho cũng biết ấy là người,
Chẳng tiếc thân danh, luống sợ cười;
Ba cõi may dầu in lại cũ,
Đôi tròng trông đã thấy không ngươi.
Ngọc lành nhiều vết coi sao lịch,
Thợ vụng ít màu nhuộm chẳng tươi.
Đứa dại chót đời, già cũng dại,
Lựa là tuổi mới một đôi mươi!

Ông kể cũng lạ, chẳng tiếc thân danh lại sợ chê cười! Nếu đất nước thu về được, thì chẳng ai thèm nhìn đến ông, vì ngọc lành đã nhiều vết, thợ nhuộm vụng tay. Thật là già đời còn dại.

Bài xướng IX ( Tôn Thọ Tường )

Kể mấy mươi năm nước lễ văn,
Rắn dài, beo lớn, thế khôn ngăn;
Bốn đời, chung đội ơn nuôi dạy,
Ba tỉnh, riêng lo việc ở ăn.
Hết sức người theo trời chẳng kịp,
Hoài công chim lấp biển không bằng.
Phải sao chịu vậy thôi thì chớ,
Nhắm mắt đưa chân lỗi đạo hằng.

Tôi cũng bốn đời gia thế, nay một mình phải lo liệu cho đời sống dân ba tỉnh, tiếc rằng việc nước khó gỡ lại. Chim tinh vệ hoài công tha đá mà lấp biển không bằng, thôi thì tôi nhắm mắt đưa chân, lỗi đạo thì đành chịu.

Bài họa ( Phan Văn Trị )

Một đôi mươi uổng tính xăng văng,
Đất lở ai mà dễ dám ngăn?
Nong nả dốc vun nền đạo nghĩa,
Xốn xang nào tưởng việc làm ăn.
Thương người vì nước ngồi không vững,
Trách kẻ cầm cân kéo chẳng bằng.
Gió mạnh mới hay cây cỏ cứng,
Dõi theo người trước giữ năm hằng.

Đã đành ngăn sao được đất lở, nhưng mà tính quẩn làm gì, lo gì việc làm ăn, hãy cốt giữ vững lấy đạo nghĩa. Ta những thương kẻ bôn ba lo việc nước và trách kẻ muốn kéo cân lại cho bằng mà chẳng nên. Cây cỏ tuy yếu nhưng có gió to mới biết là cứng; nên ở đúng đạo làm người thì hơn.

Bài xướng X ( Tôn Thọ Tường )

Đạo hằng chi trước thảo cùng ngay,
Lỗi đạo sao cho đáng mặt thầy.
Đất quét đã thành bia lỗ miệng,
Chén tràn e nỗi trở bàn tay.
Nghĩa đen dạy trẻ tranh còn lấp,
Mặt trắng xem trời cánh khó bay.
Chí muốn ngày nào cho được toại?
Giang sơn ba tỉnh hãy còn đây!

Ai chẳng biết đạo thảo ngay , song đi với kẻ thắng đã đành là xấu , nhưng để nước tràn ra ngoài chén thì còn cứu vãn sao kịp; đem lời thực bảo cho mà không nghe thì các ông khó có cánh bay đâu được . Chí muốn của các ông bao giờ thành được? Mà đất có mất đâu: giang sơn hãy còn đây mà.

Bài họa ( Phan Văn Trị )

Năm hằng vốn thiệt thảo cùng ngay,
Cuộc ấy ai xui khéo bận thầy.
Gặp lúc chẳng may nên ngậm miệng,
Chờ khi tháy máy sẽ ra tay.
Nổi chìm mặc thế tình dày mỏng,
Cao thấp dầu ta sức nhảy bay.
Một trận gió đưa xiêu ngã cỏ,
Hơn thua chưa quyết đó cùng đây.

Thật thế, đạo thảo ngay phần người ta giữ, ai khiến ông lo dùm? Chúng ta gặp bước không may thì ngậm miệng chờ thời cuộc xoay vần . Dân tộc lầm than nhiều ít hãy nán lòng đợi, ta có lúc sẽ đem toàn lực tranh cao thấp . Cỏ bị gió thì ngã xuống, nhưng sự hơn thua đã biết chắc là về ai?

Bạn của Cử Trị là Thủ khoa Nghĩa (Bùi Hữu Nghĩa), thấy Cử Trị hoạ 10 bài của Tôn Thọ Tường, cũng cao hứng làm bài thơ sau đây:

Anh hùng sàu tỉnh (1) thiếu chi đây,
Đâu để giang sơn đến thế nầy.
Ngọn lửa Tam Tần (2) phừng đất cháy,
Chòm mây Ngũ Quí (3) lấp trời bay.
Hùm nương non rậm toan chờ thưở,
Cáo loạn vườn hoang thác có ngày.
Một góc cảm thương dân nước lửa,
Đền Nam trụ cả dễ lung lay!

(1) Sáu tỉnh: 3 tỉnh miền Đông: Biên Hoà, Gia Định, Định Tường; 3 tỉnh miền Tây: Long Hồ, An Giang, Hà Tiên
(2) Tam Tần: thời kỳ các nước bị áp chế dưới bàn tay sắt Tần Thỉ Hoàng
(3) Ngũ Quí: Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu

Sau cuộc bút chiến hào hứng nói trên , họ Tôn không còn dám khoe lực lượng Pháp và coi nhân dân như trẻ nít nữa. Ông dựa vào hoàn cảnh để cãi tội : vì hoàn cảnh mà ông phải quyền biến chứ lúc nào cũng chỉ một lòng cứu nước cứu dân. Ông ngụ tình vào bài thơ sau :

Tôn phu nhân qui Hán ( Tôn Thọ Tường )

Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng,
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông!
Lìa Ngô, bịn rịn chòm mây bạc,
Về Hán, trau tria mảnh má hồng.
Son phấn thà cam rây gió bụi,
Đá vàng chi để thẹn non sông!
Ai về nhắn với Chu Công Cẩn:
Thà mất lòng anh, đặng bụng chồng.

Tôn phu nhân đi lấy chồng lúc nào cũng nhớ nhà, như mình theo Tây vẫn không quên nước: bịn rịn chòm mây bạc. Tường cũng như phu nhân thà chịu đau khổ, nhưng không thẹn với non sông, vì đã làm theo nghĩa vụ: Son phấn thà cam rây gió bụi, đá vàng chi để thẹn non sông. Tuy có mất lòng anh (phái bất hợp tác) song được bụng chồng (quốc gia) vì có thể đỡ đần được cho dân khỏi khổ.

Bài thơ này truyền ra, Cử Trị họa lại trả lời ngay:

Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng,
Một ngả trời chiều biệt cõi Đông.
Khói tỏa trời Ngô chen thức bạc,
Duyên về đất Thục đượm màu hồng.
Hai vai tơ tóc bền trời đất,
Một cánh cương thường nặng núi sông.
Anh hỡi, Tôn Quyền, anh có biết,
Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng!

Đại ý nói ông sắm sửa quần áo theo Tây, mặc kệ cảnh khói lửa lầm than, tìm đến chỗ màu hồng đẹp đẽ, quên rằng cương thường không thể nào bỏ được: trai ngay thờ chúa cũng như gái tiết hạnh phải thờ chồng.

Sau đó Tôn lại làm một bài ngụ ý nữa, tự ví mình như Từ Thứ bất đắc dĩ phải theo Tào , nhưng không theo thật lòng nên phải ngậm miệng , không giúp Tào một mưu chước nào:

Từ Thứ quy Tào

Thảo đâu dám sánh kẻ cày voi, (1)
Muối xác lòng ai, nãy mặn mòi.
Ở Hán hãy còn nhiều cột cả,
Về Tào chi sá một cây còi!
Bâng khuâng nhớ mẹ khôn nâng chén,
Bịn rịn trông vua biếng giở roi.
Chẳng đặng khôn Lưu đành dại Ngụy,
Thân này xin gác ngoại vòng thoi!

(1) Vua Thuấn đi cày, có con voi cảm lòng hiếu thảo của vua, ra giẫm nát đất để cày giúp

Tự mình đâu có dám bảo mình cũng yêu nước như ai, song nước nhà còn nhiều người xứng đáng (cột cả) thì một người xoàng như mình (cây còi) có theo Tây cũng chẳng đi đến đâu. Tuy theo, nhưng vẫn nhớ nước nhớ vua. Thôi thì chẳng được đua khôn với các ông thì đành về với Tây,nhưng về thì cũng chi xin làm kẻ dại mà thôi, từ nay xin đứng ra ngoài vòng quốc sự.

Cử Trị đáp lời ngay:

Quá bị trên đầu nhát búa voi,
Kinh luân đâu nữa để khoe mòi!
Xăng văng ruổi Ngụy mây ùn đám,
Dáo dác xa Lưu, gió thổi còi.
Đất Hứa nhớ thân sa giọt tủi (1)
Thành Tương mến chúa nhẹ tay roi!
Về Tào miệng ngậm như bình kín,
Trân trọng lời vàng đáng mấy thoi?

(1) Đất Hứa: tỉnh Hứa Xương

Các ông đã theo Pháp ùn ùn như mây kéo, tránh xa cái nước yếu này rồi. Tuy thỉnh thoảng cũng nhớ nước mà sa lệ,nhưng lúc ra đi sao mà tay roi đét ngựa lẹ đến thế? Ông hứa sẽ ngậm miệng không bầy mưu gì cho Pháp, nhưng lời ông liệu đáng tin đến mực nào?

Sau đó, Tôn lại nói tâm sự mình trong một bài thơ vịnh Thuý Kiều, cho là mình vẫn không quên tổ quốc, phải ra làm việc với Pháp chỉ vì lòng muốn nâng đỡ cho dân khỏi điêu linh và kết luận rằng mọi việc tại trời xui nên cuộc biến mà mình phải khổ lòng.

Vịnh Thuý Kiều

Mười mấy năm trời nhục rửa xong,
Sông Tiền Đường đục hoá ra trong.
Mảnh duyên bình lãng còn nong nả
Chút phận tang thương lắm ngại ngùng.
Chữ hiếu ít nhiều: trời đất biết,
Gánh tình nặng nhẹ: chị em chung.
Soi gương kim cổ thương mà trách,
Chẳng trách chi Kiều, trách hoá công.

Cử Trị lại đứng ra mắng Thuý Kiều, sao không học Đề Oanh dâng thơ cho vua, lại tham vàng họ Mã, mà phụ nghĩa chàng Kim, rồi đem thân cho thiên hạ mua cười:

Tài sắc chi mi, hỡi Thuý Kiều!
Cũng thương mà trách một đôi điều:
Ví dù Viên ngoại oan vu lắm,
Sao chẳng Đề Oanh sớ sách kêu?
Cái nghĩa chàng Kim tình đáng mấy,
Lượng vàng họ Mã đáng bao nhiêu!
Liêu Dương ngàn dặm xa chi đó,
Nỡ để Lâm Tri bướm dập dìu!

Cuộc bút chiến đến đây chấm dứt , vì từ đây , Tôn “miệng ngậm như bình kín”, mặc cho sự thế xoay vần, miễn sao mình được lên xe xuống ngựa.
Đại để sự xung kích của hai phe, cũng tương tự như cuộc đấu lý của Phan Đình Phùng với Hoàng Cao Khải sau này. Hai thái độ, hai tâm sự, dù kim cổ, lịch sử âu chỉ là một cuộc tái diễn.

Tôn Thọ Tường mất năm 1876, thọ 52 tuổi.
Cử Trị sau về ở Cần Thơ, vẫn theo đuổi việc dạy học và bốc thuốc, mất năm 1910, thọ 81 tuổi. Một thân hữu đi điếu bài thơ:

Một đời oan chịu đã mòn hơi,
Hà huống oan oan đến chín đời.
Văn học có thừa thương những kẻ,
Công danh chẳng toại tiếc cho người.
Doanh hư tiêu trướng đều nơi mạng,
Đắc túng cùng thông tượng bỡi trời.
Uổng đấng tài ba dòng thế phiệt,
Ra tuồng lưu lạc khắp nơi nơi.
----------------------
st

thái thanh tâm
29-08-2012, 09:52 PM
28. Giai thoại về Lê Quý Đôn (1726 – 1784)

Lê Quý Đôn tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường, người xã Duyên Hà, huyện Duyên Hà, tỉnh Hưng Yên, nay thuộc tỉnh Thái Bình. Con Trung hiếu công Lê Phú Thứ, thượng thư bộ Hình đời Lê Dụ Tông.
Từ thuở nhỏ, đã nổi tiếng thông minh lanh lợi, nổi tiếng thần đồng. Mới 14 tuổi đã đọc hết tứ thư, ngũ kinh, sử, truyện, và đọc đến cả bách gia, chư tử ; một ngày có thể làm xong mười bài phú.
Năm 13 tuổi theo cha lên học ở kinh đô. Mười tám tuổi, thi hương đỗ giải nguyên ; năm 26 tuổi (1752, Cảnh Hưng 13), thi hội đậu đầu, vào thi đình cũng đậu đầu, trúng bảng nhãn. Nước ta, đỗ tam nguyên bảng nhãn duy có ông về đời Lê, và sau này, triều Nguyễn, có Vũ Phạm Hàm.
Đầu tiên bổ Hàn Lâm Viện thị thư (Cảnh Hưng 14 – 1753). Đi sứ Tàu năm Cảnh Hưng 21 (1760). Cảnh Hưng 30 và 31 (1769 – 1770); dự việc đánh đồ đảng Lê Duy Mật ở Thanh Nghệ. Cảnh Hưng 36 (1775), làm Tổng tài Quốc Sử Quán coi việc tục biên quốc sử cùng Nguyễn Hoàn. Tiếp đó, vào Thuận Hoá, giữ chức Tham thị, cùng Bùi Thế Đạt, chống Tây Sơn. Sau, làm đến Công Bộ thượng thư.
Năm Giáp Thìn (1784) tạ thế, thọ 59 tuổi.

Lê Quý Đôn là một học giả xem nhiều, biết rộng, để lại những công trình rất uẩn súc:
1/ Quốc âm: bài kinh nghĩa "Về nhà chồng phải răn, chớ trái lời chồng", bài văn sách "Lấy chồng cho đáng tấm chồng", …
2/ Hán văn: Đại Việt thông sử, Vân đài loại ngữ (chia loại các lời nói), Toàn Việt thi lục (sưu tập các thi gia từ đời Lý đến Hậu Lê), Hoàng Việt văn hải (sưu tập văn hay), Kiến văn tiểu lục, Phủ biên tạp lục.
Lê Quý Đôn thông minh tột đỉnh mà cũng rất kiêu ngạo. Có mấy giai thoại văn chương liên quan đến hai cá tính đó của ông.

1/ Ba sông, bốn mắt:
Tương truyền năm mới lên 7 tuổi, một hôm có người bạn của cha đến chơi, thấy chú bé thông minh đĩnh ngộ, hỏi đâu nói được đấy thì rất lấy làm kinh ngạc. Nhân muốn thử thêm tài của Đôn, ông khách trỏ vào con sông chảy quanh sau vườn nhà, ở chỗ đó sông tự chia ra làm ba nhánh, bèn tức cảnh ra một vế đối: “Tam xuyên” (ba con sông). Vế đối này bề ngoài có vẻ khá đơn giản, nhưng kỳ thực rất “hóc búa”, vì 2 chữ “Tam xuyên”, 三 川, chữ nào cũng chỉ có 3 nét, hơn nữa chữ “xuyên” lại là chữ “tam” quay một phần tư vòng tròn (ngược chiều kim đồng hồ) mà thôi.
Chú bé 7 tuổi hiểu ngay cái lắt léo của vế đối, nhất thiết không chịu mắc lừa vì vẻ dễ dàng của nó. Đôn nhìn quanh để tìm ý. Chợt trông lên mặt ông khách, thấy ông ta đang đeo mục kỉnh, Đôn mừng quá, bèn tức cảnh đối lại ngay là “Tứ mục” (bốn mắt).
Vế đối lại này hết sức tài tình ở chỗ Đôn đã tìm ra 2 chữ cũng rất giản dị, “Tứ mục”, 四 目, mỗi chữ chỉ có 4 nét, nhất là chữ “mục” cũng chính là chữ “tứ” quay một phần tư vòng tròn ngược chiều kim đồng hồ mà thành. Vế đối tức cảnh lại còn nêu lên được một đặc điểm của ông khách già là đeo kính. Khách thán phục đứng dậy nắm lấy hai vai của chú bé mà nói: “Tài học của chú rồi sẽ dọc ngang một đời!”

st

thái thanh tâm
29-08-2012, 09:54 PM
29. Giai thoại về Lê Quý Đôn

(Tiếp theo)


2/ Thơ tự răn mình :
Tương truyền Lê Quý Đôn lúc nhỏ tuy rất thông minh nhưng tính khí rất ngỗ ngược, vì thế đã làm cha mẹ ông phải nhiều phen bực dọc.
Hồi tám chín tuổi, một hôm cởi truồng đi tắm. Tình cờ giữa đường gặp quan thượng hỏi thăm vào nhà cha mình là Trung hiếu công Lê Phú Thứ, ông liền đứng dạng hai chân ra và bảo quan thượng rằng: "Đố ông biết chữ gì đây? Nếu ông biết thì tôi sẽ đưa ông đi!" Ông khách thấy đứa trẻ hỗn xược, giận tím mặt không thèm nói gì cả. Đôn liền cười vang mà nói rằng: "Chữ thái, thế mà cũng không biết!"
(Chữ thái 太 trông giống người đứng dạng hai chân)
Thấy đứa trẻ quá ngỗ ngược, ông quan ngạc nhiên lắm, sau hỏi ra mới biết là con Trung hiếu công. Lúc vào chơi nhà, ông thượng đem chuyện ấy ra phàn nàn.
Trung hiếu công bèn gọi Lê Quý Đôn lên mắng rằng: "Mày là thằng rắn mày rắn
mặt, phải vịnh một bài thơ tự trách mình, nếu không làm được thì ta đánh đòn! "
Đôn đọc ngay tám câu Đường luật:

Chẳng phải liu điu, vẫn giống nhà.
Rắn đầu biếng học, lẽ không tha!
Thẹn đèn hổ lửa, đau lòng mẹ,
Nay thét mai gầm, rát cổ cha.
Ráo mép chỉ quen tuồng dối trá.
Lằn lưng, đành chịu vọt năm ba.
Từ nay Trâu Lỗ chăm nghề học, (1)
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia!

(1/ Trâu: nước thầy Mạnh Tử. Lỗ: nước đức Khổng Tử. Cầu này có ý nói, từ nay sẽ chăm học theo đạo Khổng Mạnh

Bài thơ vừa ra giọng tự trách mình, vừa có ý nêu tên một số rắn (liu điu, rắn, hổ lửa, mai gầm, ráo, thằn lằn, trâu, lỗ, hổ mang), vậy mà đọc vần không thấy gượng gạo chút nào. Ông thượng thấy Đôn mới tí tuổi mà đã tài như thế, bao nhiêu tức bực đều tiêu tan hết, tấm tắc khen mãi không thôi.

st

thái thanh tâm
29-08-2012, 09:55 PM
30. Giai thoại về Lê Quý Đôn

(Tiếp theo)


3/ “Nghi nhất tự lai vấn” :

Vốn có tính kiêu ngạo, tự cho mình là thông suốt thiên kinh vạn quyển, nên khi đỗ bảng nhãn rồi, ông sai treo ngoài cửa một tấm bảng:
天下疑一字來問
“Thiên hạ nghi nhất tự, lai vấn”
(Ai có chữ gì không biết, hãy cứ đến mà hỏi).
Bấy giờ gặp lúc thân phụ là Lê Phú Thứ vừa mất, trong nhà đang rộn rịp sửa soạn tang lễ, bỗng một ông già chống gậy tìm vào, Lê Quý Đôn nhìn không phải khách quen, bèn hỏi lai lịch. Ông già nói:
- Cháu còn nhỏ không biết, lão là bạn học với cụ nghè, nhưng vì nhà nghèo đường xa, tuổi già, nên ít đi lại. Hôm nay nghe tin cụ mất, lão mới đến để gửi câu đối viếng. Cháu đem giấy bút ra, lão đọc để cháu viết hộ, vì lão tay run không viết được.
Lê Quý Đôn vâng lời, cầm bút đợi viết. Ông già đọc:
- Chi.
Lê Quý Đôn không biết là chữ Chi nào, nên dùng dằng đợi xem chữ sau là gì đã, sẽ tuỳ theo nghĩa mà viết cho đúng chữ nào. Ông già lại đọc tiếp:
- Chi.
Lê Quý Đôn thưa:
- Bẩm, Chi nào ạ?
Ông già thở dài thườn thượt nói:
- Trời ơi, cháu đỗ đến bảng nhãn mà chữ Chi không biết viết ư? Thế có ai xem bảng treo ngoài kia mà vào hỏi chữ "Chi" thì cháu trả lời ra sao?
Lê Quý Đôn giận xám cả mặt. Lúc đó ông già mới đọc luôn hai vế:

Chi chi tam thập niên dư, xích huyện hồng châu kim thượng tại;
Tại tại sổ thiên lý ngoại, đào hoa lưu thuỷ tử hà chi?
Dịch nghĩa:
Cách hơn ba chục năm, xích huyện, hồng châu nay vẫn đó;
Xa ngoài mấy ngàn dặm, đào hoa, lưu thuỷ bác về đâu?
Thấy câu đối lạ tai, Lê Quý Đôn và cử toạ đều giật mình. Đọc xong, ông già lại phủ phục trước linh sàng cụ nghè mà khóc:
- Ới anh ơi, anh bỏ đi đâu, con anh đỗ đến bảng nhãn mà chữ “Chi” không biết, anh ơi ...
Rồi ông già chống gậy ra về, mời thế nào cũng không ở lại.
Dụng tâm của ông già là làm cho Lê Quý Đôn phải gỡ tấm bảng ngạo nghễ kia đi.
Cũng có thuyết cho là một dật sự của Cao Bá Quát. Song thân phụ họ Cao là một ông đồ, có lẽ không có dịp đi những “xích huyện hồng châu”. Vả lại có đỗ đến bảng nhãn cao nhất nước, mới dám treo bảng, chứ như Cao Bá Quát chỉ đỗ á khoa thi hương, ắt không dám nghênh ngang thế.
Họ Cao có một câu tuy không kém nghênh ngang nhưng chỉ là lời nói đùa: “ Có bốn bồ chữ, thì tôi hai bồ, anh tôi một, còn một mới đem chia cho cả thiên hạ!”.
Dù sao trong thoại này, tên người chủ động không quan hệ bằng bài học mà người sau có thể rút được về cái thói tự kiêu, tự mãn.

st

thái thanh tâm
29-08-2012, 09:56 PM
31. Giai thoại về lê Quý Đôn

(Tiếp theo)


4/ Lê Quý Đôn và nhà sư :
Sau bài học này, Lê Quý Đôn lại nhận được một lần nữa nơi một nhà sư trụ trì ở chùa làng và chú tiểu.
Nhân việc ma chay trên kia, Lê phải lui tới trên chùa làng để làm lễ cầu siêu. Một hôm Lê vừa bước vào phương trượng thì nhà sư reo mừng:
- A, quan bảng nhãn tới đây rồi. May quá, bần tăng đang có điều muốn nhờ quan lớn chỉ giáo. Số là chú tiểu của bản tự mới gặp một người ra câu đố mà chú không giải được, bần tăng cũng chịu nốt, bây giờ phải nhờ đến quan bảng mới xong: "nghi nhất tự lai vấn" mà! Câu đố như thế này:

Hạ bất khả hạ,
Thượng bất khả thượng.
Chỉ nghi tại hạ,
Bất khả tại thượng.
- Dưới không thể dưới, trên không thể trên, đúng nên ở dưới, không thể ở trên.
“Họ đố là chữ gì, chắc chỉ quan bảng là giảng được thôi!”
Lê Quý Đôn ngồi ngẫm nghĩ hồi lâu, chưa giải đáp được thì chú tiểu ở ngoài chạy vào:
- Bẩm quan bảng, ngài đã nghĩ ra chưa?
- Chưa chú ạ! Khó quá!
- Thế mà cháu vừa tìm ra rồi đấy!
- Thế thì chịu chú, nào chú giảng thử coi!
- Thưa đó là chữ nhất. Hạ bất khả hạ: trong chữ hạ 下 thì chữ nhất ở trên chứ không thể ở dưới; thượng bất khả thượng: trong chữ thượng 上 thì chữ nhất ở dưới chứ không thể ở trên; Chỉ nghi tại hạ: trong chữ chỉ 止 và chữ nghi 宜 thì chữ nhất nằm dưới; Bất khả tại thượng : trong chữ bất 不 và chữ khả 可 thì chữ nhất nằm trên. Dễ quá, quan bảng nhỉ!
Lê Quý Đôn biết mình bị lỡm vì cái bảng “Nghi nhất tự lai vấn” trong đó họ lấy ngay chữ nhất mà nhạo mình, nhưng không có cách gì đối phó lại được, đành nói vài câu chữa thẹn rồi cáo lui.
Từ đó, tấm bảng kia không còn treo ở cửa nữa.
---------------------
st