PDA

Xem phiên bản đầy đủ : TẢN MẠN chuyện VÕ LÂM



Trang : [1] 2

Hansy
05-02-2013, 04:27 AM
TRI CHI VI TRI CHI, BẤT TRI VI BẤT TRI, THỊ TRI DÃ.
Luận ngữ

__________________________________________________ __________
http://t1.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcQcm4FnZbj1X282iTal9u3T9GvX7JtYV tJqQkY8NBr1yrm0DqVg8g


TẢN MẠN
CHUYỆN VÕ LÂM


CHƯƠNG I


PHẦN I: TẢN MẠN CHUYỆN VÕ LÂM - Huỳnh Ngọc Chiến
PHẦN II: KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI - Vũ Đức Sao Biển
PHẦN III: CHUYỆN TÌNH - Nhiều Tác giả
PHẦN IV: NHÂN VẬT - Trần Mặc
PHẦN V: TẠP LỤC - Nhiều Tác giả
PHẦN VI: TƯ TƯỞNG PHẬT HỌC - Thích Chơn Thiện



CHƯƠNG II

1. NÓI CHUYỆN TAM QUỐC - Vũ Tài Lục
http://vnthihuu.net/showthread.php?8285-T%E1%BA%A2N-M%E1%BA%A0N-chuy%E1%BB%87n-V%C3%95-L%C3%82M/page9
2. KHÔNG MÌNH GIA CÁT LƯỢNG - TRẦN VĂN ĐỨC
NGUYỄN QUỐC THÁI dịch
http://vnthihuu.net/showthread.php?8285-T%E1%BA%A2N-M%E1%BA%A0N-chuy%E1%BB%87n-V%C3%95-L%C3%82M/page9


http://i12.photobucket.com/albums/a209/anhtrandq/300ue8vv.jpg


Chào các bạn

Tiểu thuyết võ hiệp kỳ tình Trung Hoa là một thế giới loài người thu nhỏ, mà mỗi nhân vật trong đó - đều được xây dựng từ một hoặc nhiều nguyên mẫu ở ngoài đời - đại diện cho các nhân sinh quan đã và đang tồn tại.

Những cảm nhận về nhân vật võ lâm, trong các tác phẩm Võ hiệp kỳ tình Trung Hoa – nhiều nhất là ở tác phẩm võ hiệp của nhà văn KIM DUNG - sẽ giúp chúng ta có cái nhìn tương đối chính xác về các mặt của xã hội, của con người đang sống trong cùng một thế giới - để chiêm nghiệm về những biến ảo của cuộc đời này.

Đây là Topic gồm những bài sưu tầm được từ Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay (Phần I: Do Hansy tự đánh máy) và trên Net (Các Phần còn lại). Nhan đề Topic do Hansy chọn.

Hoa thơm, mỗi người thưởng thức một tí, không dám hưởng một mình.

Xin trân trọng giới thiệu cùng các bạn.

vnthihuu.net - 06:00 AM - 05.02.2013
HANSY

Hansy
05-02-2013, 04:31 AM
http://d.f11.photo.zdn.vn/upload/original/2012/08/20/15/55/1345452901236163_574_574.jpg



LỜI MỞ ĐẦU



Cõi giang hồ trong tác phẩm Kim Dung có thể được xem như một thế giới thu nhỏ, mà sự tồn tại, vận động và diễn biến của nó, ở một bình diện nào đó đều được phóng chiếu từ những quy luật lịch sử. Tranh bá xưng hùng, mưu toan thống nhất giang hồ, khát vọng làm võ lâm chí tôn. Danh vọng và quyền lực mãi mãi cuốn hút các cao thủ võ lâm vào cơn lốc cuống bạo của lịch sử.

Thỉnh thoảng có một môn phái lạ nổi lên hoặc một nhân vật tuấn kiết đột nhiên quật khởi, làm xáo động giang hồ và đem lại cho võ lâm những trận cuồng phong mới. Từ bối cảnh đó cũng nảy sinh ra ước mơ một giang hồ hết cảnh can qua. Hoặc bằng bạo lực và thủ đoạn. Hoặc bằng chân tâm và bản lĩnh.

Người Trung Hoa thường nhìn lịch sử như một biến cố chuyển động hình sin, cứ tuần hoàn theo chu kỳ: định loạn, ly hợp, tụ tán, thịnh suy. Điều này thường được nhìn rất rõ trong các loại tiểu thuyết chương hồi. Tam Quốc Chí mở đầu bằng đoạn: “Thoạt thuyết thiên hạ đại thể, phần cừu tắc hợp, hợp cừu tắc phân. Chu mạt thất quốc phân tranh, tịnh nhập vu Tấn. Cập Tấn diệt chi hậu, Sở Hán phân tranh hựu tịnh nhập vu Hán, Hán triều tự Cao Tổ trảm xà nhi khởi nghĩa, nhất thống thiên hạ; hậu lai Quang Vũ trùng hưng truyền chí Hiến Đế, toại phân vi tam quốc”. (Nói về đại thể trong thiên hạ, phân chia lâu tác hợp lại, hợp lại lâu tác phân chia. Cuối đời Chu bảy nước tranh hùng, bị Tần thâu tóm. Sau khi Tần bị diệt, Hán Sở phân tranh, thiên hạ lại về với Hán. Từ khi Hán Cao Tổ chém rắn khởi nghĩa, nhất thống thiên hạ. Đến đời Quang Vũ lại trùng hưng nhà Hán, truyền đến Hiến Đế lại chia thành ba nước).

Lịch sử cứ thế mà diễn tiến. Thống nhất và ly loạn. Chiến tranh và hòa bình. Hai mặt đối lập đó cứ đan xen mãi để thúc đẩy dòng chảy của lịch sử. Thống nhất thiên hạ cũng là ước mơ của bao kẻ hùng tài đại lược có tài kinh bang tái thế, từ cổ chí kim.

Tần Thủy Hoàng bình định sáu nước, mở đầu công cuộc thống nhất Trung Hoa từ khi nhà Chu suy vong. Nhưng máu đổ quá nhiều. Biết bao nhiêu âm mưu thủ đoạn đã diễn ra, biết bao nhiêu xác người đã ngã xuống, biết bao nhiêu chất xám đã tổn hao để dệt nên bức tranh thống nhất đẫm máu cuối thời Chiến Quốc. Lục vương tất, tứ hải nhất (Sáu vua chấm dứt, bốn biển thống nhất – A Phòng cung phú – Đỗ Mục).

Thế là nguy cơ của các quốc gia đối địch không còn, Tất cả mọi binh khí được thu hết, đem nấu để đúc thành chuông đỉnh. Thế là nguy cơ binh khí không còn. Những tưởng can qua sẽ vì thế mà chấm dứt vĩnh viễn, thiên hạ sẽ bình yên và nhà Tần sẽ cai trị đến thiên thu. Đâu hay chỉ vài năm sau khi Tần Thủy Hoàng băng hà, thiên hạ lại đại loạn và thuộc về nhà Hán.


http://img.tintuc.vietgiaitri.com/2012/10/18/cosplay-tieu-long-nu-trong-tan-kiem-hiep-the-gioi-bdf00c.jpg

Những kẻ hùng tài muốn dùng ý chí để điều khiển sự vận động của lịch sử vẫn không hiểu được rằng có một trật tự kỳ lạ luôn được tái lập giữa sự hỗn loạn. Lịch sử vẩn luôn trôi chảy theo con đường đi của nó và cứ âm thầm tái lập những giá trị giữa những mưu toan hùng bá của con người. Giấc mơ thống nhất châu Âu cùa Napoléon đã tan theo bọt sóng ngoài khơi đảo Saint Hélène. Viễn tưởng đế chế ngàn năm của Tần Thủy Hoàng đã chảy thành tro trong ngọn lửa đốt cung A Phòng và trong cảnh tan hoang của cửa quan Hàm Cốc.

Người ta mới thấy rằng lịch sử vẫn luôn lớn hơn ý chí và tham vọng của con người. Để thiên hạ thực sự thái bình thì không thề chỉ đơn thùân dựa vào bạo lực để trấn áp tất cả các lực lượng đối nghịch, mà phải có một mẫu người lý tưởng dùng đức để cảm hóa thì mới có thể cứ ung dung “thỏng tay mà trị yên thiên hạ”.

Truyền thống Trung Hoa cho rằng, chỉ có bậc “thánh nhân” như Nghiêu Thuấn mới làm được điều đó. Nghiêu thì đại từ, Thuấn thì đại hiếu, tấm lòng từ hiếu của họ đã cảm động được cả trời đất, nên dễ dàng cảm động được lòng người. Trang Tử gọi đó là bậc: “nội thánh ngoại vương” (trong có thể làm thánh mà ngoài có thể làm vua).

Sự yên tĩnh trong lịch sử chỉ là sự cân bằng tạm thời của một quả trứng được đặt dựng đứng trên một mặt phẳng nghiêng. Phải mất nhiều công sức mới làm được điều đó, nhưng sự cân bằng đó lại quá mong manh. Chỉ một cơn gió nhẹ là nó sẽ đổ nhào ngay, và tiếp tục lăn lông lốc. Trong suốt dòng chảy của lịch sử Trung Hoa thời phong kiến, người ta vẫn luôn mơ đến một Nghiêu Thuấn với viễn cảnh thiên hạ thống nhất. Đó phải là mẫu người nhân hậu khoan dung và tổng hợp được mọi cái hay, cái giỏi của mọi người khác. Tài phải đủ để thiên hạ bội phục, và đức phải thừa để thiên hạ nghiêng mình.

Vua Thuấn mồ côi mẹ, cha là Cổ Tẩu lấy vợ khác. Mẹ ghẻ cùng em đời sau là Tượng rất hung ác, tìm mọi cách để giết Thuấn. Mẹ ghẻ bắt Thuấn đi cày ở Lịch Sơn, Trời bèn sai voi đến cày, chim đến nhặt cỏ. Mẹ ghẻ sai Thuấn đào giếng rồi lấp giếng, rồng lại đưa Thuấn thoát nạn. Tượng đốt nhà để giết anh, Thuấn vẫn thoát thân. Bị ngược đãi tàn ác, nhưng Thuấn vẫn luôn khoan dung độ lượng tha thứ cho họ. Cuối cùng, tấm lòng đôn hậu đó đã cải hóa được cả hai mẹ con. Vua Nghiêu nghe tiếng bèn nhường ngôi cho Thuấn. Thiên hạ được hưởng thái bình. Nơi nơi đều vang tiếng âu ca.


http://res.vtc.vn/media/vtcnews/2013/02/08/top_1.jpg

Hansy
05-02-2013, 04:34 AM
1


TRƯƠNG VÔ KỴ

Người ấp ủ giấc mơ
thống nhất giang hồ bằng vương đạo.


http://image.tin247.com/kenh14/081013190538-828-864.jpg

Cha là ngũ hiệp Trương Thuý Sơn, phái Võ Đang, mẹ là "ma nữ" Ân Tố Tố của Thiên Ưng Giáo. Trương Vô Kỵ là đứa con mang haì dòng máu chánh tà, ra đời trong một bối cảnh nghiệt ngã, và số phận đưa đẩy phải đảm nhận vai trò hoá giải hận thù xung đột truyến kiếp giữa Minh giáo với Lục đại môn phái.

Sinh ra trên Băng Hoả đảo, Trương Vô Kỵ có được cái tâm đôn hậu của một "thánh nhân" kiểu vua Thuấn, có lẽ nhờ bẩm thụ được linh khí của trời đất. Về đến Trung Thổ, chứng kiến cảnh cha mẹ bị bức tử, và nhận di ngôn của mẹ là phải báo thù, trái tim trẻ thơ đó có lần thoáng lên ngọn lửa hờn căm, nhưng rồi nó dễ dàng bị dập tắt trong biển lòng nhân hậu.

Trên Quanh Minh đỉnh, Trương Vô Kỵ lần đầu tiên hiển lộ thân thủ, dùng tuyệt thế thần công áp đảo cả hai phe chính tà, cứu nguy cho phe Minh giáo trước sự tấn công của Lục đại môn phái, khiến mọi người đều kinh hãi lẫn thán phục. Lúc đó, dù đối diện với bao kẻ thù, và quá đủ điều kiện để rửa hờn, nhưng chàng thiếu niên Trương Vô Kỵ đã biết xóa bỏ mọi tư thù để xả thân hóa giải tất cả oán cừu giữa hai khối chính tà.

Không có ai bắt buộc, cũng không có động cơ riêng tư nào, mà chỉ đơn thuần vì tiếng gọi của lương tri muốn xóa bỏ mọi hận thù trong chốn giang hồ. Chàng thiếu niên trẻ tuổi đó tự nhiên đảm nhận sứ mệnh đem lại yên bình cho võ lâm. Phe chính giáo chấp nhận ra đi, với tâm trạng hân hoan và lá cờ sáng ngời chính nghĩa. Phe Minh giáo tránh được một thảm họa diệt vong, xung đột nội bộ chấm dứt và tất cả giáo chúng đều đồng tâm tôn Trương Vô Kỵ lên ngôi giáo chủ đời thứ ba mươi bốn.

Đó là hình ảnh ban đầu của “vua Thuấn võ lâm”.

Tại chùa Vạn An, Trương Vô Kỵ cũng không ngần ngại xả thân cứu tất cả các cao thủ của Lục đại môn phái thoát khỏi tháp lửa, trong đó không thiếu những kẻ đã đối xử hiểm độc và thô bỉ với mình. Dĩ đức báo oán, Trương Vô Kỵ đã thực sự chinh phục được cả hai phe chính lẫn tà.

Có lẽ không thể có nhân vật võ lâm nào lý tưởng hơn để thiết kế công cuộc thống nhất võ lâm. Vừa khoan dung nhân hậu, vừa thông thạo y thuật, võ công lại vô địch khi tổng hợp được hai môn tuyệt học của hai phe chính tà: Cửu dương thần công của phái Thiếu Lâm và Càn khôn đại na di của Minh giáo ở mức cao nhất. Thân thế cũng quá đổi đặc biệt: Mang hai dòng máu chính tà, cháu ngoại Bạch Mi Ưng Vương, đồ tôn của Trương Tam Phong, nghĩa tử của Kim Mao Sư Vương. Và điều quan trọng bậc nhất là Trương Vô Kỵ được cả hai phe chính tà mặc nhiên xem như là minh chủ võ lâm. Một sự tổng hợp quá đổi lý tưởng, quá đổi tham lam và quá đổi cường điệu, chỉ xuất hiện một lần trong mọi tác phẩm võ hiệp.

Cho nên, Trương Vô Kỵ chỉ là cái bóng để Kim Dung thử triển khai ý đồ của mình. Nói chung, đó là hình ảnh của một vua Thuấn chốn võ lâm, vừa sành y đạo của Kỳ Bá, vừa thấu triệt Cửu dương thần công lẫn Càn khôn đại na di!

Nhưng hình ảnh lý tưởng đó có đem lại sự thành công như mong đợi hay không?

Mọi mưu toan thống nhất giang hồ bằng thủ đoạn bá đạo như Tả Lãnh Thiền, Nhạc Bất Quần hoặc Nhậm Ngũ Hành đều đưa đến kết cục bi thảm cho kẻ thủ ác lẫn nạn nhân. Tả Lãnh Thiền bỏ thây giữa đám loạn kiếm trong thạch động. Nhậm Ngũ Hành bỏ mạng vì Hấp Tinh đại pháp, môn võ công bá đạo mà ông ta dùng làm phương tiện để xưng bá giang hồ. Nhạc Bất Quần trở thành một quái tượng sinh lý như Đông Phương Bất Bại.

Nhưng nếu từ bỏ con đường bá đạo để thống nhất giang hồ bằng con đường vương đạo như Trương Vô Kỵ cũng không thể thành công. Đó chỉ là giấc mơ ngàn đời của bao thế hệ phương Đông. Bởi lẽ, chắc gì Nghiêu Thuấn đã có thật, và cái xã hội “thời thái bình cửa thường bỏ ngõ” (Nguyễn Công Trứ) cũng chỉ là một “vùng đất hứa” muôn thuở của con người.

Mạnh Tử suốt đời giong ruổi để thuyết phục các vị vua đương thời trị nước theo vương đạo, nên đành chấp nhận thất bại. Tần Thủy Hoàng biết dùng tư tưởng pháp gia bá đạo của Hàn Phi Tử nên đã thành công.

Đó là lịch sử.


Con người đôn hậu Trương Vô Kỵ đó hoàn toàn không có thủ đoạn và tham vọng chính trị nên dễ dàng sa bẫy Chu Nguyên Chương.

Tên gian hùng này bày việc giết Hàn Lâm Nhi với bọn Tử Đạt và Thường Ngộ Xuân, nhưng lại âm thầm bố trí bối cảnh để Trương Vô Kỵ nghe lầm là hai vị đại ca kết nghĩa của mình đang mưu toan cùng Chu Nguyên Chương ám hại mình để mưu cầu công danh phú quý. Chỉ ngần đó cũng đủ để con người Trương Vô Kỵ trọng nghĩa quý tình kia ngán ngẫm cuộc “tranh bá đồ vương” để âm thầm mang Triệu Mẫn ra đi, nhường sân khấu chính trị lại cho tên gian hùng Chu Nguyên Chương dựng nên triều Minh.

Một phần dòng chảy giang hồ hòa nhập vào dòng chảy của lịch sử và tan biến trong đó. Phần khác vẫn cứ âm thâm trôi theo chu kỳ muôn thuở. Trong dòng chảy đó, sẽ tiếp tục có những Trương Vô Kỵ, ngày ngày kẻ lông mày cho hiền thê để giấc mơ “thống nhất giang hồ” của Kim Dung chìm trong ánh mắt hồ thu của giai nhân, sẽ tiếp tục có những Vi Tiểu Bảo lưu manh nhưng nghĩa hiệp, cũng như sẽ tiếp tục có những lãng tử Lệnh Hồ Xung đáng yêu bên cạnh những Nghi Lâm vướng lụy. Và còn mãi những mưu toan dùng thủ đoạn cùng bạo lực để thống trị võ lâm đan xen với những hoài bão thống nhất giang hồ bằng con đường vương đạo.

Cái nào sẽ thắng? Câu hỏi sẽ được bỏ lửng. Nhưng lịch sử giang hồ vẫn tiếp tục dòng chảy trong tác phẩm Kim Dung, dù Kim Dung đã ngừng bút từ lâu.


http://anh.eva.vn/upload/3-2012/images/2012-07-03/1341304074-truongvoky10.jpg

Huy Thanh
05-02-2013, 10:59 AM
VÕ LÂM NGŨ BÁ

Hoa Sơn hội ngộ ngũ anh tài
Sấm động vang rền ai chẳng hay
Tây Độc mô công sương khói tỏa
Đông Tà lạc chưởng gió mây bay
Thất Công thập bát thần long giáng
Nam Đế nhất dương quý tỵ say
Tranh đấu ba ngày chưa thắng bại
Trung Thần Thông đến sóng êm ngay

Huy Thanh

Hansy
05-02-2013, 09:36 PM
VÕ LÂM NGŨ BÁ

Hoa Sơn hội ngộ ngũ anh tài
Sấm động vang rền ai chẳng hay
Tây Độc mô công sương khói tỏa
Đông Tà lạc chưởng gió mây bay
Thất Công thập bát thần long giáng
Nam Đế nhất dương quý tỵ say
Tranh đấu ba ngày chưa thắng bại
Trung Thần Thông đến sóng êm ngay

Huy Thanh

VÕ HIỆP KỲ TÌNH

Kỳ tình võ hiệp lắm nhân tài
Tác giả Kim Dung thật quá hay
Mưu mẹo giở trò mây nước rụng
Nội công ra ngón gió hoa bay
Tửu thi ngâm ngợi muôn tim ngớ
Tình ái nồng nàn vạn dạ say
Hiền dữ thấp cao đều có mặt
Anh hùng luận chiến rõ gian ngay

HANSY

Hansy
05-02-2013, 10:10 PM
2.

TRÌNH LINH TỐ
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ (1)


http://seablogs.zenfs.com/u/f4suDv6WGRkNtAZM4i04BlnO/photo/20090106070207104.jpg.jpg

Trên đống đổ nát, bụi mù cuốn đi những dấu vết cuối cùng của thành Troy kiêu ngạo sừng sững phương Đông, vì người con gái đẹp nhất cõi đời Hélène mà tan thành cát bụi sau cuộc chiến vô nghĩa suốt mười năm ròng rã. Cô Tô đài trong đống tro tàn vẫn luyến lưu gót ngọc Tây Thi, những bước đi tha thướt tưởng chừng vô lực lại kéo theo sự sụp đổ của một vương triều. Giang sơn Đại Đường nghiêng ngã, Mã Ngôi pha chôn vùi cành hoa tươi thắm, sương móc đọng mùi hương “Nhất chi hồng diễm lệ ngưng hương”(2) Dương Quý Phi để Trường hận ca vang vọng mãi chốn nhân gian.

Hóa công ưu ái tặng thêm linh khí cho những đóa hoa tươi thắm tạo ra tuyệt sắc mỹ nhân để làm công cụ đắc lực cho cuộc bày phá của mình hay để cười nhạo sự si mê của con người?

Dù thế nhân có lạnh lùng gán cho mỹ nhân tiếng chua cay “Hồng nhan họa thủy", cái đẹp muôn đời vẫn được phụng hiến và tôn thờ trong nhạc họa thi ca.

Dòng lịch sử tiếp tục tuôn chảy, cuốn theo nó bao nhiêu định kiến, thị phi của con người để lấy lại công bằng cho giai nhân, để tội lỗi trả về cho những kẻ say hương đắm sắc. Dáng kiều thấp thoáng dệt nên màn sương khói lung linh, tô thêm muôn phần diễm lệ cho bao tác phẩm bất hủ xưa nay.

Tiểu thuyết võ hiệp kỳ tình cuốn hút người đọc bởi bên những chén rượu nồng say khướt không thôi, võ công quán tuyệt thiên thu, hào khí ngất trời, còn bao bóng hồng kiều mỵ.

Sự xuất hiện của mỗi giai nhân trong tác phẩm Kim Dung đều khiến ta phải xao xuyến ngẩn ngơ. Vương Ngữ Yên diễm lệ vô song như ngọc tượng cho anh đồ gàn Đoàn Dự hồn xiêu phách tán. Hoàng Dung cởi bỏ lớp áo ăn mày, xinh tươi khôn tả khiến chàng khờ Quách Tĩnh chấn động tâm thần. Nhan sắc mỹ miều của Triệu Mẫn, tú lệ của Chu Chỉ Nhược, rạng rỡ của Tiểu Chiêu đẩy Trương Vô Kỵ khốn quẫn trong vòng vây tình ái. Tiểu Long Nữ thanh thoát lướt đi với tà áo trắng tung bay trong gió, đóa hoa thiên giới hương thơm vượt lên mọi cỏ cây trần tục ấy đã xóa nhòa hết thảy khái niệm giai nhân trong kim cổ…

Ôi, rừng hoa sắc nước hương trời mới muôn màu muôn vẻ biết chừng nào!


Chỉ đến “Phi hồ ngoại truyện”, ta mới bắt gặp một nhân vật nữ không có dung nhan xinh đẹp. Ấn tượng đầu tiên của bạn đọc về Trình Linh Tố chỉ là một cô bé da dẻ vàng vọt, còm cõi, ốm yếu, mãi mê chăm sóc vườn hoa. Hẳn Kim Dung cảm thấy như vậy thật bất công nên dù không tặng nàng nụ cười hàm tiếu, chân dung của Trình Linh Tố vẫn được đểm tô bởi khóe mắt thu ba.

Em có đôi mắt như sầu xanh soi bóng
Hồ gương ơi! Sao sóng lục vô chừng!
Ly tao – Bùi Giáng

Nàng tựa hồ đóa cúc dại hương thơm nhẹ nhàng tỏa khắp Động Đình Hồ. Dù màu trắng thơ ngây có bị sắc màu rực rỡ của bao loài hoa đẹp khác lấn át, đóa cúc vẫn hài lòng với những gì tạo hóa ban cho, mãn nguyện xòe tung bộ áo như vầng thái dương thu nhỏ quanh mình.

Tại vườn hoa, gánh nước giúp nàng thôn nữ, Hồ Phỉ không biết mình vô tình khiến trái tim Trình Linh Tố rung lên những cung bậc đầu tiên của ái tình kỳ diệu. Ngay khi trao cho chàng đóa hoa Thất tâm hải đường, sợi tơ mỏng manh nhưng bền chắc của Nguyệt lão vĩnh viễn cột chặt Trình Linh Tố vào mối tình vô vọng đơn phương.

Phải đâu Hồ Phỉ vì dung nhan Trình Linh Tố không sánh được với Viên Tử Y mà không yêu nàng. Hồ Phỉ chẳng là hạng phàm phu tục tử chỉ biết đánh giá con người qua nhan sắc, huống chi chàng đã nghiêng mình thán phục trước sự thông minh tinh tế của nàng đệ tử Độc thủ dược vương. Nếu đem mấy chữ “trọng sắc khinh hương” gói trọn tâm linh Hồ Phỉ há chẳng phải quá bất công? Trái tim chàng không thể chứa thêm ai bởi vì trước mắt chỉ phất phơ bóng hình tà áo tím. Con ngọc phụng Viên Yên Tử để lại có khác chi vết sẹo Ân Ly mang theo từ thuở thiếu thời?

Vết thương đã liền da mà trong trái tim dạt dào một biển yêu thương, phụng hoàng tưởng vô tri lại chở theo đôi cánh ngọc một trời thương nhớ. Bên cạnh Nhậm Doanh Doanh dung nhan tuyệt tục, hết lòng yêu thương, Lệnh Hồ Xung vẫn quay quắt đớn đau, nhất dạ chung tình với Nhạc Linh San sư muội. Ân Ly ngoảnh mặt đi với Tăng A Ngưu Trương Vô Kỵ để tìm kiếm vô vọng bóng hình cậu bé bướng bĩnh ngày xưa.

Mối tình đầu tuyệt đích đã khiến con tim si mê, cố chấp đến nhường thế sao nỡ trách Hồ Phỉ không đáp lại tình yêu của Trình Linh Tố?


http://d.f5.photo.zdn.vn/upload/original/2011/04/14/1/55/130272091749192569_574_574.jpg

Sau này, Hồ Phỉ một lần nữa trái tim rung động trước người con gái của kẻ thù không đội trời chung Miêu Nhân Phương. Khác với mối tình đầu ngọt ngào nhưng kết thúc trong dang dở dành cho Tử Y, cảm xúc của Hồ Phỉ đối với Miêu Nhược Lan hẳn giống như một con thuyền bôn ba qua bao sóng to gió lớn chợt nhìn thấy một bến đỗ bình yên và muốn ngừng lại nương náu.

Ngọn khói bốc lên từ mái nhà thấp thoáng, sưởi ấm cõi lòng người lữ khách dày dặn phong sương, mỏi mắt ngóng trông nơi cố quận. Giọng hát thắm thiết ân tình của Miêu Nhược Lan khiến trái tim của kẻ hành tẩu giang hồ độc vãng độc lai ngân lên những giai điệu hạnh phúc tưởng đã xa vời.

Trước người con gái mỏng mai như khói, dịu dàng như cành liễu nương mình theo gió, có người đàn ông nào lại không động lòng, lại không muốn che chở yêu thương?

Trong ba tri kỷ bên cạnh Hồ Phỉ, Trình Linh Tố chưa bao giờ hưởng được mật ngọt tình yêu bởi chàng vĩnh viễn dành cho nàng tình thương trọn vẹn của người anh đối với cô em gái bé bỏng.Trình Linh Tố vẫn lặng lẽ chấp nhận đóng trọn vai “Nhị muội”, giấu đi tiếng lòng thổn thức không nguôi để kề cận người yêu dấu, hoan hỉ chấp nhận tất cả để ngày ngày cùng chàng hành tẩu giang hồ.

Nếu anh là chân trời xa xôi,
em sẽ là một cánh chim rong ruổi.
Nếu anh là mặt trời,
em sẽ là muôn đời làm một kiếp hướng dương”(3).

Trình Linh Tố không xinh đẹp nhưng tính cách tựa hồ không tỳ vết, khí chất cao nhã ấy trên đời liệu đã có mấy ai? Thông minh, cơ trí nhưng không kiêu ngạo, tính toán. Dụng độc thuần thục mà chẳng tàn ác nhẫn tâm. Sắc sảo, khôn ngoan vẫn mềm yếu, dịu dàng. Nếu người đọc chỉ vì dung mạo không cuốn hút mà quay lưng lại với nhân vật Trình Linh Tố há chẳng phài vô tình lắm ru?

Suy nghĩ của Trình Linh Tố như chiếc hộp khóa chặt, mọi hành động đều lặng lẽ, không khoa trương, nhưng sắp đặt vô cùng chu đáo, nghiêm mật. Cả khu vườn Thất tâm hải đường bị sói lang phá hỏng, Trình Linh Tố vẫn thản nhiên. Ba vị sư huynh sư tỷ hèn hạ ích kỷ, chỉ nghĩ đến pho Dược vương thần biên mà không quan hoài đến cái chết của sư phụ, nàng khôn ngoan giáo huấn. Nàng vừa trị độc cho Tiểu Thiết bằng phương pháp lạ kỳ vừa giúp tên thợ rèn Vương Thiết Trương trả được mối thâm thù. Mọi việc tưởng chừng như nắm gọn trong lòng bàn tay, mặc ý nàng sắp đặt, đùa bỡn, đưa người đọc đi hết bất ngờ này sang thú vị khác. Tư chất thông minh, Trình Linh Tố kế thừa toàn bộ kiến thức của Độc Thủ dược vương Tăng Vô Sân chữa bệnh cứu người.

Dụng độc tài tình, nàng nghĩ ra bao thủ pháp độc khéo léo khiến không ai đoán trước được mà đề phòng hay né tránh. Kề vai sát cánh bên Hồ Phỉ, nhiều phen ra tử vào sinh, không biết bao lần cứu chàng ra khỏi tử huyệt. Sự hiện diện của Trình Linh Tố tạo cho ta một sự an tâm kỳ lạ, có sự cơ trí của nàng hẳn Hồ Phỉ sẽ chẳng lúc nào bị dồn vào ngõ cụt.

Trong trang phục mới, đỏ mặt khi nghe Hồ Phỉ trêu mình giống như nương từ, trông thấy ngọc phụng sinh ra mối ghen tuông, hờn giận vu vơ… Trình Linh Tố giữ vẹn nguyên tính cách ngây thơ của người thiếu nữ.

Phải chăng Kim Dung sợ rằng nếu ưu ái thêm nhan sắc diễm tuyệt, Trình Linh Tố sẽ trở thành con người quá hoàn hảo?

Bánh xe số phận vẫn vô tình lăn những vòng quay nghiệt ngã nghiến nát hạnh phúc nhỏ nhoi của con người. Người con gái đáng yêu dù thông minh đến mấy cũng đành cúi đầu khuất phục trước số mệnh tàn nhẫn. Đứng trước mọi sự lựa chọn, kiều nữ đành phải dành lấy phần thiệt về bản thân mình, như A Châu ra đi tức tưởi, như Tiểu Chiêu ngậm ngùi gạt lệ đến xứ sở Ba Tư, như Kỷ Hiểu Phù chấp nhận cái chết, bất phục mệnh lệnh tôn sư, như Công Tôn Lục Ngạc đỡ cho Dương Quá nhát dao trí mạng…

Hồ Phỉ vì muốn cứu mạng của Trình Linh Tố khỏi bàn tay tàn ác của Thạch Vạn Sân không ngại lãnh lấy ba thứ độc dược đầu thiên hạ, nàng sao đành đoạn nhìn người mình yêu thương nhất ra đi? Chất độc các lang y trên thế gian lắc đầu bất lực nay đã tìm ra thuốc chữa bởi cuối cùng đã có một người dám hy sinh tính mệnh cho bệnh nhân. Hành động của Trình Linh Tố bí hiểm khiến người ta khó đoán cũng như tình yêu của nàng hệt dòng sông ít ai hiểu nông sâu.

Chỉ đến khi nàng kề môi hút độc trên tay Hồ Phỉ, người ta mới vỡ lẽ dòng sông ấy hóa ra mênh mông như biển. Chất độc ngấm vào cơ thể cũng chính là lúc nàng đặt chân lên bến bờ tình yêu đích thực sau cuộc lữ hành ngắn ngủi chốn trần gian.

Thanh Thạch Kiều ra tay ngộ sát, Tiêu Phong ôm xác A Châu gào khóc trong trận mưa phủ nhòa thân thể, nỗi khổ đau vô hạn tưởng ta tác đất trời. Trong miếu hoang, thuốc giải chưa tan, Hồ Phỉ bất lực bên xác Trình Linh Tố giữa màn đêm u tối, niềm thê lương cực điểm đến tái tê cây cỏ.

Thời gian chậm rãi rơi từng giọt thánh thót, ngọn nến Thất tâm hải đường leo lắt cháy, dường nhỏ lệ khôn nguôi xót thương người thiếu nữ đốt cháy sinh mệnh hiến dâng cho mối tình đầu. Trình Linh Tố thanh thản ra đi nhưng vẫn lo lắng chu toàn cho ý trung nhân, một lần nữa cứu chàng thoát khỏi bàn tay hung dữ của Độc thủ thần kiêu. Mối tình đằm thắm của nàng có khác chi con tằm đến chết mà tơ tình vẫn còn vương vấn, ngọn nến kia tàn rồi lệ đã hẳn khô chưa?

Xuân tâm đáo tử ti phương tận
Lạp chúc thành hôi lệ thủy can.
Vô đề - Lý Thương Ẩn

(Mùa xuân con tằm rút mãi đường tơ đến khi ruột tằm khô héo, ngọn nến cứ rỏ mãi bao nhiêu hàng lệ đến bao giờ nến cạn thành tro thì dòng lệ mới khô)

Viên Tử Y nhúng chân vào vũng bùn tục lụy, vì lời trọng thệ đành dứt bỏ tơ tình. Hóa công thật khéo trêu người, đẩy những người trong cõi thanh tu vào mê cung lẩn quẩn của tình duyên luyến ái. Mối tình của Viên Tử Y thiết tha, da diết chứ không man mác “hồn bướm mơ tiên” như Nghi Lâm, cô tiểu ni đáng yêu ngày ngày ở phái Hằng Sơn cầu nguyện cho Lệnh Hồ đại ca và người chàng yêu hạnh phúc.

Nàng và Hồ Phỉ trải qua biết bao nhiêu kỷ niệm ngọt ngào cùng cay đắng, trái tim nàng đã giương cờ trắng nhưng lý trí không dám quy hàng. Tử Y không đủ can đảm vì chàng mà rũ bỏ lớp áo ni cô dù một khi vướng vào lớp bụi trần ai, áo kia khó lòng thanh sạch như ngày trước. Đến khi biết sự hy sinh không oán than của Trình Linh Tố, Tử Y chỉ biết ngậm ngùi thương cảm và tự trách mình không thể bằng nàng.

Vẻ đẹp sáng trong thanh nhã của Miêu Nhược Lan làm mọi người choáng ngợp nhưng dần dần tính cách mờ nhạt khiến ta nhàm chán, và sinh lòng hoài cảm Trình Linh Tố. Thế giới nội tâm của Trình Linh Tố đến lúc ra đi không ai hiểu hết, độc giả thán phục sự thông minh, dũng cảm, thích thú trước mưu mẹo khôn ngoan để bảo vệ ý trung nhân, thương cảm cho tình yêu đơn phương tuyệt vọng và xót xa cùng cực vì cái chết nhẹ tựa lông hồng.

Một chiếc áo thêu rồng đính ngọc, ai nhìn cũng thích nhưng có làm ấm áp lòng người, có giúp người ta qua được cái giá rét của mùa đông như áo bông giản dị đơn sơ?

Sự hy sinh của Trình Linh Tố gần với Công Tôn Lục Ngạn biết mấy! Một đóa cúc trắng trong, một đài hoa xanh biếc, hỡi ôi, hy sinh cho người yêu dấu mà nhụy nát hương tàn, Lục Ngạn lớn lên trong thế giới khắc nghiệt chốn Tuyệt Tình cốc, chịu đựng sự nhẫn tâm, độc ác của người cha, trái tim vĩnh viễn trong suốt như pha lê, vì Dương Quá hân hoan rời xa cõi thế. Trình Linh Tố từ bé sống giữa muôn vàn chất độc nơi Dược Vương trang, chấp nhận sự ích kỷ, hẹp hòi của các sư huynh sư tỷ, tấm lòng vẫn là “nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ” vì Hồ Phỉ bước vào cõi vĩnh hằng.

Người đời khi mê mãi ngắm dòng sông mênh mông sông nước sẽ quên đi con suối nhỏ âm thầm chảy dưới chân, khi say sưa với hoa hồng, hoa huệ xinh tươi khoe sắc sẽ quên đi những bông hoa dại ngát hương nơi vệ đường, có vầng trăng vằng vặc chiếu soi sẽ quên mất những ngôi sao nhạt nhòa ánh sáng…

Ôi, trước sự vô tình của con người, sao tinh tú vẫn cố sức tỏa ánh sáng lung linh, suối lặng lẽ tuôn dòng nước mát, hoa dại miệt mài tỏa hương cho đời? Đâu phải sao muốn đua cùng nhật nguyệt, suối muốn tranh với giang hà, hoa sẽ mong mỏi có kẻ đoái thương?

Chúng vì thiên tính mà tự nguyện hiến dâng.

Và hy sinh vì người yêu không hề nuối tiếc phải chăng chính là thiên tính của bao kẻ si tình tự thiên cổ?
______
(1) Một tấm lòng băng tại hồ ngọc (Phù Dung lâu tống Tân Tiệm – Vương Xương Linh)
(2) Thanh bình điệu – Lý Bạch
(2) Muợn ý bài “Gọi em” của Nguyên Sa
“Nếu em là chân trời xa,
tôi sẽ là một cánh chim bằng rong ruổi.
Nếu em là mặt trời thì trên đường xích đạo,
tôi sẽ muôn đời làm một kiếp hướng dương”.


http://i3.tinypic.com/16023w2.jpg

Hansy
06-02-2013, 06:55 PM
3.

ĐOÀN NAM ĐẾ
Lụy phù danh


http://www.baoanhdatmui.vn/vcms/media/photos/2008/7/31.7/x2.jpg

Thố tủy vị hoàn tân đại dược
Báo bì nhưng lụy cựu phù danh
Nguyễn Du
(Tủy thỏ chưa xong liều thuốc mới
Da beo còn lụy chút danh hờ)

Tương truyền, khi vi hành vùng Giang Nam, có lần vua Càn Long cùng viên cận thần đứng ngắm cảnh trên một bến sông tấp nập, ông bảo: “Nhà người thấy có bao nhiêu thuyền bè qua lại trên sông?”. Viên cận thần tâu: “Tâu bệ hạ, thuyền bè qua lại nhiều quá, vi thần làm sao đến cho xuể”. Ông cười bảo: “Trong mắt ta, ta chỉ thấy có hai chiếc mà thôi!”. Viên cận thần ngơ ngác hỏi: “Vi thần ngu dốt không hiểu”. Nhà vua bèn giải thích: “Cả trăm ngàn con thuyền xuôi ngược nhưng thật ra chỉ có hai chiếc, một chiếc tên Danh, đó là thuyền của các quan lại, một chiếc tên Lợi, đó là thuyền của các con buôn!”.

Nếu giai thoại đó đúng thì ông vua nhà Thanh kia quả là người cực kỳ minh triết. Có thể nói hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả, các con thuyền đó đều vì Danh hoặc vì Lợi mà ngược xuôi trên sông nước. Thậm chí những kẻ thả thuyền trôi nổi trên sông để ngâm phong vịnh nguyệt, khinh thường quan chức biết đâu trong thâm tâm cũng vì chữ danh: “muốn mua được tiếng “cuồng sỹ” hoặc chữ “thanh cao”.

Câu nói không chỉ đúng cho bến sông lúc đó mà chắc chắn mãi mãi còn đúng cho khắp “cõi người ta”! Con người ta xuôi ngược lao lướt cả đời cũng chỉ vì hai chữ lợi danh. Lợi, nếu thực tình muốn tránh còn có thể tránh được, nhưng muốn tránh được chữ Danh thì quả thực đó là vấn đề vô cùng vi tế.

Tên gọi (danh) là cái phù hiệu để gọi và xác minh sự tồn tại của một đối tượng. Chữ danh trong tiếng Hán được cấu tạo bởi hai chữ “tịch” (buổi chiều) và chữ khẩu (cái miệng), nghĩa đen là “cái được gọi khi chiều tối”. Theo Thuyết văn giải tự của Hứa Thận thì: “Tên để tự xác định mình, từ miệng mà gọi. Gọi khi chiều tối, chiều tối thì không thấy nhau, nên mới dùng miệng để gọi tên”. Người ta khi chiều tối gặp nhau nhưng không thấy rõ mặt nhau, thì cần phải “dùng miệng để xưng tên”. Như vậy, xưng tên có nghĩa là xác định sự tồn tại, bằng thanh sắc hay bằng ý niệm, của một đối tượng.

Lợi được dùng để bảo đảm và xác định sự tồn tại đã đành, mà Danh cũng vậy. Nhà cao cửa rộng, của cải đầy kho hiển nhiên là những yếu tố cơ bản để đem lại cảm giác bình yên cho sự tồn tại. Nhưng bên cạnh đó, con người ta muốn được nhiều người biết đến, nghĩa là muốn được “gọi nhiều”. Sự ham muốn đó ngẫm ra từ căn để chỉ là muốn tìm thêm cảm giác bình yên để xác định sự tồn tại của mình.

Không hiểu sao chữ danh trong một vài ngôn ngữ Đông Tây lại có điểm trùng hợp khi vừa có nghĩa là tên gọi (name) lại vừa được chuyển dần thành danh tiếng (fame; reputation). Nổi tiếng, có nghĩa là được nhiều người nhắc đến, điều đó củng cố ý thức bình yên về sự tồn tại của bản thân, từ đó con người tự cảm thấy một sự thỏa mãn và ổn định tâm lý.

Con người vẫn luôn sợ hãi cái trống rỗng hư vô vì sợ phải đối diện với sự đớn hèn, nhỏ nhoi, vô nghĩa của chính mình. Muốn nổi tiếng suy cho cùng cũng chỉ là cảm thức đớn hèn, muốn chạy trốn sự thực trần trụi và sự cô đơn. Càng muốn nổi tiếng là càng cảm nhận được sự đớn hèn của mình một cách vô thức, nên phải tìm cách khỏa lấp.

Xứ châu Phi có câu chuyện cổ rất đơn giản nhưng ý nghĩa lại vô cùng sâu sắc. Có một người thợ săn vào rừng rồi mất tích, để lại người vợ và ba đứa con trai còn nhỏ dại. Dân làng cho rằng anh ta đã bị sư tử ăn thịt, câu chuyện lâu rồi cũng bị lãng quên.

Đứa con đầu lớn lên và học thành nghề nặn tượng như thật, người con thứ hai học nghề phù thủy và có phép biến một vật chết thành một vật sống, người con út chỉ ở nhà làm lụng chăm lo cho mẹ.

Một hôm, cả nhà đang ăn cơm người con út bỗng hỏi: “Bố mất tích đã lâu, sao anh em ta không đi tìm bố?”. Ba anh em bèn vào rừng. Người con út tìm thấy một bộ xương và biết đó là xương của bố mình. Người con cả bèn lấy đất sét nặn lại thành người bố trông giống như thật. Cuối cùng, người con thứ hai làm phép cho bố sống lại. Bốn cha con ôm nhau mừng rỡ và cùng về nhà.

Cả nhà đoàn tụ, hai người con đầu tranh công với nhau về việc đã cứu bố sống lại, nhưng người bố ôn tồn bảo: “Chính con út mới có công lớn nhất vì đã nhắc đến bố. Khi ta còn nhớ đến ai thì người ấy vẫn còn sống!”.

Câu kết luận quả đầy minh triết và đẹp như một bài thơ. Chỉ có trí tuệ dân gian mới có thể đúc kết được ý nghĩa sâu sắc như thế trong một câu nói cùng cực giản đơn. Cỏ cây, sỏi đá… đều có thể tồn tại độc lập với ý thức con người, trừ chính con người, có lẽ bởi chỉ có con người mới có cảm thức về cô đơn, và xao xuyến trước cõi hư vô!

Con người chỉ cảm nhận một cách thỏa mãn về sự tồn tại của mình khi con-người-tồn-tại-trong-thân-xác tồn tại đồng thời với con-người-tồn-tại-trong-sự-nhớ-tưởng-của-người-khác . Bị lãng quên có nghĩa là không còn tồn tại trong ý thức của người khác, điều đó quả là một nỗi kinh hoàng, nhất là đối với những người đã “lỡ” nổi tiếng.

Tránh được hệ lụy từ cái danh là vấn đề vô cùng vi tế. Và chỉ có các bậc chân nhân mới có thể cảm nhận được sự tĩnh lặng mênh mông trong cõi vô danh, nghĩa là trong sự quên lãng của người đời.

Cụ Nguyễn Du nhà ta viết về ngôi chùa của Giác Duyên bằng hai câu bí hiểm, mà ngoài nhà thơ Bùi Giáng ra, chưa thấy ai quan tâm đến: “Chùa đâu trông thấy nẻo xa. Rành rành Chiêu Ẩn am ba chữ bài”.

Nghĩ cũng lạ, đã một mực “Chiêu ẩn” rồi, nghĩa là đã muốn gọi con người lánh xa cõi hồng trần rồi nhưng lại vẫn cứ phải mang cái sự “Chiêu ẩn” để “rành rành” bày ra đấy, cho cả bàn dân thiên hạ, dù ở thật xa cũng đều trông cho rõ! Tại sao cụ không viết là “Lờ mờ Chiêu Ẩn am ba chữ bài” hoặc “Chiêu Ẩn am thấp thoáng ba chữ bài”… hoặc những câu đại loại như thế để phù hợp với ý nghĩa của hai chữ Chiêu ẩn?

Câu thơ đó dĩ nhiên mang nhiều ý nghĩa mênh mông trên bình diện ontologique, mà chỉ có những tâm hồn thượng đạt không bị vướng víu vào cái trò tranh luận rối rắm và vô ích về ngôn ngữ truyện Kiều, như Bùi Giáng, mới cảm nhận ra. Ở đây chỉ mạn phép thiên tài Nguyễn Du xin dời hai câu lục bát kỳ diệu đó xuống bình diện ngữ ngôn.

Cõi người ta có biết bao nhiêu kẻ muốn sống bất cần đời, nhưng trong thâm tâm lại muốn đời cần đến mình. Rất cần nữa là khác. Lại có không ít kẻ luôn luôn muốn đám đông kia phải biết rằng mình là kẻ đang sống cô đơn, xa lánh đám đông để đắm chìm trong những nỗi cô liêu trầm mặc! Những kẻ đó thường phải “triển lãm” sự cô đơn vì e ngại rằng không có ai biết rằng mình đang cần cô đơn!

Đó cũng là loại: “Rành rành Chiêu Ẩn am ba chữ bài” vì ba chữ “lụy phù danh”


http://gamethu.vnexpress.net/Files/Subject/3B/9B/03/10/namde.jpg

Truyền thuyết Trung Hoa kể rằng, vua Nghiêu nghe tiếng Hứa Do là người hiền nên cho người mời đến bàn chuyện truyền ngôi. Hứa Do nghe xong bèn đi xuống suối rửa tai vì cho rằng những lời đó làm bẩn tai mình. Sào Phủ đang cho trâu uống nước, thấy vậy bèn hỏi. Sau khi nghe chuyện, Sào Phủ lặng lẽ dẫn trâu lên vùng nước cao hơn để uống vì cho rằng nước rửa tai đó làm “ô nhiễm” cho cả trâu mình!

Hứa Do, ngay ngôi vua cũng không màng, có lẽ tự cho rằng mình đã thoát khỏi danh lợi, nhưng thực ra vẫn còn vướng víu ở chữ danh một cách vô cùng vi tế. Không màng danh lợi nhưng vẫn để cho vua Nghiêu biết được rằng mình là người thanh cao không màng danh lợi (mà một ông vua biết có nghĩa là phải qua rất nhiều người trung gian!), há chẳng phải trong thâm tâm vẫn còn lụy vì danh hay sao?

Sào Phủ còn “chơi” cao hơn một bậc theo kiểu người nông dân chân chính bằng cách dắt trâu đi chơi chỗ khác.

Đoàn Nam đế trong Xạ điêu anh hùng truyện lại là một điển hình cho ba chữ lụy phù danh.

Trước kỳ Hoa sơn luận kiếm giữa các đại cao thủ võ lâm để chọn ra vị Thiên hạ đệ nhất nhân, bang chủ Thiết chưởng bang là Cừu Thiên Nhận đã lén dùng thiết chưởng, đánh tử thương đứa con tư sinh của Châu Bá Thông và Anh Cô, một ái phi của Đoàn Nam đế, với ý đồ buộc Anh Cô đem đứa bé đến nhờ Đoàn Nam đế cứu chữa. Như thế y sẽ loại bỏ được một tay kình địch vì vị vương gia kia sẽ phải tổn hao nội lực và không thể tham gia kỳ luận kiếm. Vị vương gia kia, do còn chút ghen và hận nhưng cũng chính là vì lòng háo danh còn quá bồng bột, nên đã kiên quyết khước từ khi người mẹ khốn khổ kia ôm đứa con sơ sinh đến khóc lóc xin ông cứu chữa. Kết quả là, Anh Cô như người điên loạn, rút kiếm đâm chết đứa bé với lời nguyền khủng khiếp sẽ trả thù.

Nếu tiếng khóc của hài nhi giữa đêm khuya thanh vắng trên Băng Hỏa đảo đã đánh thức lương tri của con hùng sư Tạ Tốn trong cơn túy sát, thì cái chết của một hài nhi vô tội khác đã “khai ngộ” cho vị vương gia họ Đoàn nhận chân ra thực tướng của chút hư danh mà xuống tóc quy y thành Nhất Đăng đại sư! Một kẻ cố sát hài nhi, một kẻ ngộ sát hài nhi cũng chỉ vì một chữ danh. Than ôi, lụy phù danh gây nên tội lỗi cho bao con người đâu khác gươm đao. Biết đâu, số người chềt vì chữ danh còn nhiều hơn số người chết vì gươm đao trên chốn giang hồ!

Cái chết của một hài nhi để trả giá cho cơn mê muội chữ danh chắc chắn có giá trị “khai ngộ” gấp ngàn lần những lời thuyết giảng của các bậc chân sư đông tây kim cổ. Hoát nhiên ngộ được chữ danh, phiêu nhiên thành vị chân tăng giữa đời, Nhất Đăng – Nam Đế mấy người? Đâu là đại sư Nhất Đăng, đâu là đấng vương gia Đoàn Nam đế? Hay tất cả cũng chỉ là cái hư ảo của phù danh? Hãy thử tĩnh tâm ngồi yên lặng mà ngẫm chữ danh đến chỗ rốt ráo, ta sẽ thấy nó cũng chỉ là cái hư không phù phiếm. Danh dùng để xác định cái thực, nhưng nếu cái thực đã thực-sự-là-thực rồi thì đâu cần gì đến cái danh nữa?

Cừu Thiên Nhận cũng được Nhất Đăng đại sư điểm hóa để quy y thành Từ Ân đại sư, nhưng vì nghiệp chướng quá nặng nên con đường đi đến giác ngộ còn tiệm tiến. Chỉ đến khi sắp chết thì vị đại sư đó mới tìm đến được những gì mà vị Nhất Đăng đại sư đã cảm thấy ngay sau cái chết của một hài nhi vô tội.

Trong tác phẩm Kim kiếm điêu linh của Ngọa Long Sinh (*), ba vị cao nhân Võ Đang là Trang Sơn Bối, Nam Dật Công và Liễu Tiên Tử tự ẩn mình tuyệt tích trong núi hoang, tu tập võ công để hàng năm lại tỷ thí tranh chức vô địch. Họ là những bậc cao nhân thực sự không muốn biết đến đời và cũng không cần ai biết đến mình, nhưng vẫn tranh giành nhau ngôi thứ chốn hoang sơn, bởi vì họ cũng còn bị hệ lụy bởi chữ danh, dù đó là cái danh không được một ai nhắc đến và không có kẻ tung hô.

Cái danh đã bủa một cái luới vô hình vây chặt bọn họ từ thuở tráng niên, cho đến khi tro tàn thời gian bay bạc trắng cả mái đầu. Chính cơ duyên đã đưa cậu bé Tiêu Linh (**) đến chốn hoang sơn để “khai ngộ” cho ba vị cao nhân tuyệt tục. Tiếng thở dài của Nam Dật Công chốn hoang sơn khi giật mình ngẫm lại, nghe thê lương như cơn gió lạnh thổi suốt cõi biển dâu.

Con báo vì lớp da mà bị chết, con người vì cái danh mà bị lụy. Những bậc tài hoa như Nguyễn Du muốn tĩnh tâm ẩn dật phải luôn hối tiếc vì đã lỡ bị đời khoác lên người “tấm da báo”, để phải than thở “Báo bì nhưng lụy cựu phù danh”. Nhưng lại có những kẻ bản chất là giun dế vẫn cố khoác lên người “tấm da báo”, ngẫm cũng đáng thương!

Chỉ khi nào con người có cơ duyên thấu triệt được thực tướng của chữ danh như Đoàn Nam đế thì có lẽ ngày đó cõi người ta mới thực sự là chốn lạc phúc trong cõi vô danh.

_____________

(*) Bản Việt dịch là Xác chết loạn giang hồ
(**) Bản Việt dịch là Tiêu Lĩnh Vu



http://farm6.static.flickr.com/5161/5247056552_aa1d551065.jpg

Hansy
07-02-2013, 02:49 AM
4.

TIỂU CHIÊU
Nàng Iphigenia của Kim Dung


http://files.myopera.com/x123456/blog/2000049634091278415_rs.jpg

Phái mày râu thường chê phụ nữ là hẹp hòi, nông cạn: “Đàn ông nông nổi giếng khơi. Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu”. Nhưng lịch sử nhân loại, và ngay trong cuộc sống đời thường, cho chúng ta thấy những khi đại cuộc gặp cơn khốn quẫn hay gia đình gặp cảnh ba đào cần đến sự hy sinh để cứu vãn tình thế bế tắc, thì chính người phụ nữ mới là người tiên phong tự nguyện. Dường như Thượng đế đã ban cho họ lòng vị tha nhẫn nhục để hướng đến hy sinh, nếu điều đó đem lại bình yên cho người mà họ yêu thương. Phái nam cứ bốc phét huênh hoang về phận mày râu, mà không bao giờ lường hết được tầm mênh mông trong những sự hy sinh thầm lặng đó.

Nguyễn Du đã vì Thúy Kiều mà đem hết tài hoa để dựng lên một tòa tân thanh lặng lẽ giữa bể dâu. Và mười lăm năm luân lạc của nàng đã đem lại cho đời hằng sa ẩn ngữ. Hơn hai ngàn năm trước, nàng Chiêu Quân Trung Hoa ôm tâm sự hận sầu ngược về phương Bắc để gá nghĩa với Hung Nô, và hơn một ngàn năm sau công chúa Huyền Trân nước Việt lại âm thầm giọt lệ để xuôi về phương Nam ngàn dặm. Hai phương trời, hai tâm sự và cách biệt nhau hơn cả ngàn năm, nhưng cái thê lương đau xót chỉ là một.

Đâu phương cố hương? Nào trời cố quận? Quay đầu nhìn lại chỉ thấy mênh mông mây trắng, và ở chốn xa xôi kia là quê hương vĩnh viễn không thể quay về. Mây nước mịt mùng, ngàn dặm tha hương, kẻ anh hùng còn chết điếng cả ruột gan, huống chi phận đào tơ liễu yếu? Rượu có thể tạm đốt cháy đi nổi sầu cô lữ, nhưng lấy gì để an ủi khách má hồng?

Thần thoại Hy Lạp kể rằng, vua Agamemnon đem đại binh tham gia cuộc viễn chinh đánh thành Troie, đoàn chiến thuyền bị gió bắc đánh dạt vào một bến cảng. Nghe lời một nhà tiên tri, nhà vua buộc lòng phải hiến đứa con gái yêu của mình là Iphigenia cho nữ thần Artemis, làm người hầu hòng cứu vãn tình thế.

Thần lại cho gió nổi lên, đoàn quân lại hân hoan giương buồm thẳng tiến, nàng Iphigenia kiều diễm đành một mình ở lại vùng Aulis xa lạ để làm trinh nữ thờ phượng thần linh.

Vì đại cuộc, vâng lại vì đại cuộc (!), phận nữ nhi lại phải hy sinh. Chiến binh các người hay cứ huênh hoang cùng máu lửa nơi chiến trận, và không bao giờ nghĩ đến nỗi se sắt lạnh của lòng ta. Từ đây, ngày ngày ta sẽ là nữ tư tế để chăm sóc đền thờ của Nữ Thần bất tử. Được bao người kính trọng, được gần gũi với cõi bất tử, nhưng đó là cõi bất tử không có tình yêu đôi lứa và sẽ cực hình cho người con gái đang sống với những “reo ái tình trong nhịp máu phân vân" (Xuân Diệu).

Cho nên Nguyễn Triệu, Lưu Thần phải bỏ cảnh thần tiên để quay về với trần giới. Cõi trần gian bụi bặm không thể sánh bằng chốn Bồng Lai, nhưng giữa cõi tam thiên đại thiên thế giới, đây là nơi duy nhất ta được sống trọn vẹn với bi hoan ly hợp của tình yêu, trong tủi nhục ta tìm thấy vinh quang và trong đau khổ ta tìm ra hạnh phúc.

Cái tâm sự hận sầu đau đớn đó của một trinh nữ của trời xưa Hy Lạp lại hiện ra một lần nữa trong tâm sự của Tiểu Chiêu. Hồn Hy Lạp xưa lại về vây phủ Ỷ Thiên Đồ Long Ký! Nếu có ai hỏi trong tất cả các tác phẩm của Kim Dung, người con gái nào xuất hiện ít nhất nhưng mang tâm sự thê lương nhiều nhất, thì chúng ta có thể trả lời không ngần ngại rằng đó là Tiểu Chiêu.

Mẹ nàng – Kim Hoa bà bà – là trinh nữ được Minh giáo Ba Tư cử sang Trung Quốc để tìm cho ra bí cấp trấn giáo là Càn khôn đại nã di tâm pháp. Người đàn bà được giang hồ tôn xưng là đệ nhất mỹ nhân đó đã nửa đường vướng lụy, nhiệm vụ lớn chưa thành thì đứa con gái là Tiểu Chiêu đã ra đời. Và như thế là phạm tội chết đối với luật lệ nghiêm khắc của Minh giáo Ba Tư. Đứa con gái xinh đẹp kia vừa lớn lên đã phải thay mẹ nối tiếp nhiệm vụ thiêng liêng, để mong chuộc lỗi lầm (?) cho mẹ, chỉ có thế mới mong tìm được một con đường quay về cố quốc.

Nàng phải hóa trang gương mặt xấu xí và vờ lạc giữa vùng hoang mạc để cho Quang Minh tả sứ của Minh giáo là Dương Tiêu đem về làm người hầu cho con ông. Chỉ có thế nàng mới đặt chân vào được Quang Minh đỉnh – vùng thánh địa của Minh giáo – để âm thâm dò xét chỗ giấu bí cấp.

Một cô gái xinh đẹp, giòng dõi quyền quý mà phải đóng vai một con hầu để người ta sai khiến mắng chửi nghĩ cũng não lòng lắm thay. Cơ duyên run rủi cho nàng và Trương Vô Kỵ tìm được bí cấp Càn khôn đại nã di viết trên một tấm da dê, trong một đường hầm. Nàng phải dùng máu mình thấm vào tấm da dê cho chữ hiện ra và dịch bản tâm pháp đó ra tiếng Trung Quốc để giúp Vô Kỵ, phối hợp với Cửu dương thần công, luyện thành bản lĩnh vô địch.

Người con trai chân chất vô tâm về từ Băng Hỏa đảo đó đã gieo vào lòng nàng bao ước mơ thầm kín, sau những tháng ngày chỉ biết chịu tủi nhục vì trách nhiệm và bổn phận. Mang tâm pháp về cố quốc Ba Tư để được tôn vinh là nữ thần giữ gìn Lửa Thiêng, hay để tâm pháp lại nơi Trung thổ? Xưa kia, mẹ đã nửa đường đứt gánh, thì giờ đây con cũng xin đứt gánh nửa đường cho trọn nghiệp chữ yêu.

Người con gái đã cúi đầu quy phục tiếng nói của trái tim, và dĩ vãng lại bắt đầu! Quê hương Ba Tư đành xem như đã ngàn trùng sương khói. Thôi thì ta xin chọn quê hương là đây, là nơi có người mà ta yêu đang sống. Làm thê thiếp không được thì làm người hầu cũng tốt, làm tôi tớ cũng xong, miễn sao được trọn vẹn gần gũi chàng để sửa túi nâng khăn.

Cho dù nước chảy có vô tình, nhưng hoa rơi lại hữu ý, cho nên hoa cứ hân hoan đợi chờ đến ngày nước cảm nhận được lòng hoa.


http://files.myopera.com/x123456/blog/12003921429964292817_rs.jpg

“Thần tiên gãy cánh đêm xuân, bước lạc sa xuống trần, làm tình nhân đứng giữa trời không khóc mộng không thành… Đường về quê xa lắc lê thê trót nghe theo lời u mê” (Tình khúc thứ nhất – Nguyễn Đình Toàn). Đúng là đường về quê xa lắc lê thê, nhưng không có lời nào khiến ta u mê cả, mà ta chỉ u mê bởi tiếng lòng đang say đắm mà thôi. Làm thần tiên mà chi nếu như người yêu còn ở nơi hạ giới? Tấm lòng đó trong thiên hạ có được bao người, và đã tô điểm thêm cho cõi đời biết bao là hương sắc?

Minh giáo Ba Tư lại phái sứ giả đi tìm người trinh nữ ngày xưa, giờ đây đã là Tỷ sam Long Vương, một trong tứ đại hộ pháp của Minh giáo Trung Quốc. Người con gái phải thay mẹ để chuộc lại lỗi lầm (?) xưa với bản giáo, với quê hương và chính là để giải cứu nhóm Trương Vô Kỵ đang bị đoàn tàu của sứ giả Ba Tư vây khốn giữa đại dương. Nàng quyết tâm hy sinh mối tình đầu vừa chớm nở để theo đoàn sứ giả quay về quê cũ làm thánh nữ của Bái hỏa giáo Ba Tư. Nếu được chết để giải cứu chàng ư? Điều đó quá dễ và hạnh phúc biết ngần nào. Người sẽ vì người yêu mà hân hoan chịu chết, để mộng đầu thành tựu trong kiếp lai sinh. Nếu như có chút ích kỷ thì nàng sẽ cùng Trương Vô Kỵ chống cự quyết liệt đến cùng để đại dương sẽ là nấm mồ cho tất cả. Như vậy là thành toàn tâm nguyện: được chết chung bên cạnh người yêu.

Nhưng không, tình chân chính đầu đời luôn khiến con người hướng thượng. Vì sao Thúy Kiều sẵn sàng hy sinh trong khi Thúy Vân vẫn hồn nhiên đến mức ù lì vô cảm? Đặt ra câu hỏi là đã tự tìm được lời giải đáp. Cho nên nàng Iphigenia của Kim Dung đã quyết định hy sinh là phải sống để cứu bạn tình chung. Sống, nhưng còn thê lương hơn cả chết. Bước lên ngôi thánh nữ là bước vào cõi địa ngục của thanh xuân. Về lại chính quê hương nhưng lại mang nặng nỗi sầu viễn xứ! Quay về cố quốc lại chính là cuộc ra đi biền biệt trong đời. Biển sóng mênh mông có chứng minh được tấm lòng kiều nữ?

Đi là đi mãi không em?
Ước nguyện mai sau có vẹn tuyền?
Nước có ngân lời hoài vọng cũ?
Gởi về cây bóng lá sơ nguyên?
Bùi Giáng

Vâng, kể từ đây là đi mãi, Nàng không được hạnh phúc như A Châu là gục chết trong tay người yêu để hình ảnh trở thành bất tử. Kể từ đây, nơi phương trời Ba Tư xa xôi ấy, suốt đời nàng, lửa sẽ bừng reo trong nghi lễ trang nghiêm. Và sẽ có vạn ngàn tín đồ cúi đầu trước nàng để tôn vinh vị nữ thần của Lửa.

Thần Lửa cần đến trinh nữ để giữ gìn cho ngọn lửa được thánh khiết đến thiên thu. Lửa muôn kiếp bừng reo. Lửa ngàn đời bùng cháy. Nàng phải đốt cháy cả tuổi xuân say đắm bên ngọn lửa thiêng, trong khi chỉ muốn làm một nữ tỳ thấp hèn để được trọn đời sống một đời bình dị.

Ngọn lửa thiêng thanh khiết kia có làm mờ nỗi hình ảnh ngậm ngùi của buổi chia ly trên sóng nước? Nước có ngân lời hoài vọng cũ? Hỏi phương nào còn xanh mãi bóng lá nguyên sơ? Thôi thì xin gởi lời ca vào trong mây nước để dư âm còn đồng vọng ngàn đời trên sóng gió trùng khơi. Gió sẽ mang lời ca lên Quang Minh đỉnh để “gởi về cây bóng lá nguyên sơ”. Dẫu nơi đó không còn màu nguyên sơ của bóng lá, thì nơi đó màu xanh của thời gian đã ngưng kết trong tâm tưởng. Dường như tiếng hát là lời kinh siêu độ cho những người phụ nữ chết trong sầu hận. Cho nên trước khi chết vì lưỡi gươm tàn nhẫn của Lâm Bình Chi, Nhạc Linh San vẫn hát bài Phúc Kiến sơn ca, trước khi chết dưới đôi tay oan nghiệt của Othello, Desdemona của Shakespeare vẫn cất tiếng hát bài ca thủy liễu. Lời ca thay cho tiếng lòng nên quá đỗi thiết tha:

The poor soul sat sighing by a sycamore tree
Sing all a green willow
Her hand on her bossom, her head on her knee
Sing willow, willow, willow
The fresh streams ran by her, and murmur’d her moans
Sing willow, willow, willow
Her salt tear fell from her and softn’ed the stones
Sing willow, willow, willow
(Shakespeare, Othello, Act 4, Scence 3)

(Mảnh linh hồn đau khổ ngồi thở than bên gốc tiêu huyền. Liễu rũ ơi, liễu rũ ơi, ngàn liễu rũ xanh reo. Tay ôm ngực, nàng gục đầu trên gối. Liễu rũ ơi, liễu rũ ơi, liễu rũ xanh reo. Những giòng suối mát chảy bên cạnh nàng, và thì thầm lời than van. Liễu rũ ơi, liễu rũ ơi, liễu rũ xanh reo. Giòng nước mắt mặn đắng kia đã làm mềm sỏi đá. Liễu rũ ơi, liễu rũ ơi, liễu rũ xanh reo)

Đó chẳng phải là nỗi lòng Tiểu Chiêu đấy ư? Không liễu rũ xanh reo mà là lửa hồng reo rực cháy, không là tử biệt nhưng phải sinh ly. Chia tay để vĩnh viễn đi vào cõi cô đơn giá buốt. Những giọt nước mắt nàng rơi giữa đại dương có làm mềm sỏi đá?

Và thử hỏi cái nào mặn hơn: nước đại dương hay nước mắt Tiểu Chiêu?


http://img.tintuc.vietgiaitri.com/2010/12/1/VietGiaiTri.Com-48183bb0.jpg

phamanhoa
07-02-2013, 05:35 AM
VÕ LÂM NGŨ BÁ

Hoa Sơn hội ngộ ngũ anh tài
Sấm động vang rền ai chẳng hay
Tây Độc mô công sương khói tỏa
Đông Tà lạc chưởng gió mây bay
Thất Công thập bát thần long giáng
Nam Đế nhất dương quý tỵ say
Tranh đấu ba ngày chưa thắng bại
Trung Thần Thông đến sóng êm ngay

Huy Thanh

VÕ HIỆP KỲ TÌNH

Kỳ tình võ hiệp lắm nhân tài
Tác giả Kim Dung thật quá hay
Mưu mẹo giở trò mây nước rụng
Nội công ra ngón gió hoa bay
Tửu thi ngâm ngợi muôn tim ngớ
Tình ái nồng nàn vạn dạ say
Hiền dữ thấp cao đều có mặt
Anh hùng luận chiến rõ gian ngay

HANSY

TIẾU NGẠO GIANG HỒ

Thuở võ công chưa luyện đủ tài,
Oan khiên ập xuống dạ nào hay.
Trông sư muội hát lòng đau quặn,
Nghe thánh cô đàn bệnh khổ bay.
Cửu kiếm phiêu diêu xui trí tỉnh,
Tịch tà ma mị khiến hồn say.
Phấn son ngụy trá rồi trơ mặt,
Tà chánh đôi đường hiển lộ ngay.

phamanhoa

Hansy
07-02-2013, 06:55 PM
VÕ LÂM NGŨ BÁ

Hoa Sơn hội ngộ ngũ anh tài
Sấm động vang rền ai chẳng hay
Tây Độc mô công sương khói tỏa
Đông Tà lạc chưởng gió mây bay
Thất Công thập bát thần long giáng
Nam Đế nhất dương quý tỵ say
Tranh đấu ba ngày chưa thắng bại
Trung Thần Thông đến sóng êm ngay

Huy Thanh

VÕ HIỆP KỲ TÌNH

Kỳ tình võ hiệp lắm nhân tài
Tác giả Kim Dung thật quá hay
Mưu mẹo giở trò mây nước rụng
Nội công ra ngón gió hoa bay
Tửu thi ngâm ngợi muôn tim ngớ
Tình ái nồng nàn vạn dạ say
Hiền dữ thấp cao đều có mặt
Anh hùng luận chiến rõ gian ngay

HANSY

TIẾU NGẠO GIANG HỒ

Thuở võ công chưa luyện đủ tài,
Oan khiên ập xuống dạ nào hay.
Trông sư muội hát lòng đau quặn,
Nghe thánh cô đàn bệnh khổ bay.
Chiêu kiếm Độc Cô xui trí tỉnh,
Đuòng gươm Bảo Điển khiến hồn say.
Phấn son ngụy trá rồi trơ mặt,
Tà chánh đôi đường hiển lộ ngay.

phamanhoa

ĐỒ LONG ĐAO

Văn ôn võ luyện hãy phô tài
Thập nhị huyền công ấy mới hay
Vô Kỵ nhân từ thu dạ lại
Ngoan Đồng diệu thủ cuốn mây bay
Đồ Long đao hiếm tung tăng lượn
Tạ Tốn sư hùng ngất ngưỡng say
Chiêu thế giang hồ muôn thức trạng
Khó lòng phân biệt giả cùng ngay

HANSY

Hansy
07-02-2013, 07:04 PM
5.

ĐỊCH VÂN
Kẻ lữ hành cô độc


http://www2.vietbao.vn/images/vie4/van-hoa/40049628-43261sm.jpg

Chịu đựng sự khổ đau, trong tâm hồn lẫn thân xác, là điều chúng ta không thể nào tránh khỏi giữa cõi đời. Nhưng nếu thân tâm đều mang bệnh mà được sống trong sự thương yêu và thông cảm của người thân thì con người vẫn tìm thấy được niềm an ủi. Điều đó sẽ giúp họ chịu đựng để chiến đấu và chiến thắng. Điều kinh khủng nhất là thân xác bị tàn phế, lại phải chịu đựng nhiều nỗi oan ức không thể biện bạch, bị vu hãm vào chốn lao tù, người thân nghi ngờ, xã hội khinh bỉ, không bạn bè, không người thân thích, không nhà không cửa, trơ trọi một mình.

Đó là cảnh ngộ thê thảm của Địch Vân trong Liên thành quyết.

Kim Dung quả đã có một bước đi táo bạo khi xây dựng nhân vật Địch Vân. Đó là một anh nông dân khù khờ chân chất, cục mịch thô lỗ, phải chịu bao thảm cảnh trần gian, hòan toàn không có một chút ưu điểm gì để người đọc có thể trông đợi từ “người hùng” trong tiểu thuyết võ hiệp, cho dẫu là bản chất quỷ quyệt lưu manh của một Vi Tiểu Bảo!

Đó thực sự là hình ảnh thuần túy của một “Hai Lúa võ lâm”.

Địch Vân mồ côi từ bé, được sư phụ là Thích Trường Phát nuôi dưỡng. Anh chàng nông dân khù khờ này sống hồn nhiên bên cạnh một cô sư muội xinh đẹp Thích Phương. Cuộc sống êm ả trôi bên bờ tre đồng lúa, nếu như không có chuyện một ngày kia Địch Vân phải theo sư phụ và sư muội đến thăm sư bá Vạn Chấn Sơn, một đại gia chốn kinh sư.

Từ đó, thảm họa liên tục đổ xuống đời anh ta.

Chốn phồn hoa đô hội vẫn luôn tiềm ẩn vô vàn hiểm họa đối với biết bao con người chân chất một lần bước ra khỏi lũy tre xanh. Nếu như cô thôn nữ của Nguyễn Bính: “Hôm qua em đi tỉnh về. Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều”, thì Thích Phương lại khác, cô vẫn hồn nhiên chân chất, nhưng lại là nguyên nhân gây thảm họa cho sư huynh mình.

Làm một anh nông dân cục mịch xấu xí lại dẫn một cô sư muội xinh đẹp thuở thanh mai trúc mã vào chốn kinh đô, thì có khác gì một đứa trẻ cầm vàng ròng đi vào giữa chợ. Không bị đánh cắp ắt sẽ bị trấn lột. Cũng không thể trách được cuộc đời. Cái cảnh cô thôn nữ xinh như đóa hoa đồng nội cứ xoắn tít bên anh “Hai Lúa” đã gây chướng mắt cho nhóm để tử của Vạn Chấn Sơn. Khi thấy một cô gái xinh đẹp sánh đôi với một anh chàng cục mịch, trong thâm tâm mọi người lại thấy uổng phí (!).

Đó là một suy nghĩ rất đỗi quái dị nhưng lại được xem là bình thường ở con người. Sao lại “uổng” nếu như họ thực sự tìm ra “một nửa” của nhau? Làm như chỉ có những kẻ lắm tiền nhiều của và có thế lực mới “xứng đáng” với các cô gái đẹp kia.

Đó cũng là suy nghĩ của gia đình Vạn Chấn Sơn. Sau khi ám toán Thích Trường Phát, bọn chúng bày ra một màn kịch vu cáo cho Địch Vân tội hiếp dâm và ăn cắp. Chú cừu non sụp bẫy một cách dễ dàng, bởi lẽ tâm hồn chất phát của anh ta không bao giờ hình dung nỗi trên đời lại có người tìm cách hãm hại nhau!

Địch Vân bị chặt một bàn tay để “cảnh cáo” và bị tống giam vào nhà lao. Chưa hết bàng hoàng thì anh ta lại thường xuyên bị một bạn tù tên Đinh Điển vô cớ đánh đập tàn nhẫn. Đúng là bỗng dưng gánh chịu thảm cảnh bởi hồng nhan.

Không hiểu tự bao giờ, trên trái đất này, từ đông sang tây, nhân loại bỗng dưng đồng loạt thi nhau lên án phụ nữ, xem như đó là nguồn gốc của mọi tai ương. Ở Hy Lạp, là câu chuyện về cái hộp Pandora(*). Trong Kinh Thánh là chuyện bà Eva. Ở Trung Quốc là quan niệm “hồng nhan họa thủy” (đàn bà đem lại tai họa như nước làm chìm đắm con người)! Có “đức” để có người đẹp, nhưng không có “tài” để giữ người đẹp đến nỗi phải mang họa vào thân. Người phương đông quả là khắt khe với khách má hồng.

Nguyễn Du có câu thơ vịnh Dương Quý Phi chan chứa sự cảm thông:

Tự thị cử triều không lập trượng
Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành.
(Do cả triều đình đều đứng như phỗng.
Ngàn năm nhan sắc chịu oan khiên)

Đó là sự cảm thông của một tâm hồn lớn đối với một dung nhan khuynh quốc.


http://t3.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcSJROUhBBw2-_NIp-agr320k2pFtwbCt7FgXSIwQQiygpmkpvGzPw&t=1

Dù sống trong cảnh đọa đày, Địch Vân vẫn tin rằng vị sư muội mình sẽ hiểu và cảm thông. Niềm hy vọng lớn của “cái hộp Pandora” dù hư ảo đi nữa thì vẫn có tác dụng giúp con người chịu đựng trong cảnh khổ đau. Cho đến khi nhận được bánh cưới của Thích Phương với con trai Vạn Chấn Sơn thì Địch Vân mới thực sự tuyệt vọng.

Dường như Shakespreare có nói: “Kẻ đau khổ nhất là kẻ hạnh phúc nhất, bởi vì trên đời này không còn gì có thể làm cho y đau khổ nữa”. Nhưng đó chỉ có thể là cách nhìn của những bậc đạt ngộ hiểu thấu chân tướng của trần gian,còn đối với hầu hết những ai mang bản chất yếu đuối của con người, khi cuộc sống là cơn bệnh nan y vô phương cứu chữa thì cái chết vẫn là vị lương y đem lại liều thuốc giải thoát tốt nhất!

Địch Vân cũng vậy, trong cơn khốn quẫn, anh ta đã tự tử, nhưng Đinh Điển đã cứu thoát vì nhận ra được bản chất chân thật của Địch Vân. Cũng chính nhờ Đinh Điển mà Địch Vân hiểu ra âm mưu của Vạn Chấn Sơn và mặt trái nhan hiểm của Thích Trường Phát, vị sư phụ mà anh hằng tôn kính.

Cuộc sống với “lắm nỗi lạ lùng khắt khe” bắt đầu mở ra trước mắt anh ta những hang hố đen ngòm, khác biết bao với cảnh đời êm đềm bình dị với làng quê, đồng lúa ngày xưa.

Đinh Điển bị ám toán chết sau khi cùng Địch Vân vượt ngục. Cái chết của người thân cuối cùng trên cõi đời, mà anh ta coi như kim chỉ nam của đời mình, đã khiến cho Địch Vân thực sự mất tất cả, hoàn toàn không còn một điểm tựa nào, “sans everything” (Shakespeare – As You Like It, II, Scence VII, 165)

Ôm xác Đinh Điển đi trốn, Địch Vân lại rơi vào tay tên ác tăng Bảo Trượng của Huyết Đao môn – một tông phái Tây Tạng bị giang hồ nguyền rủa vì những hành vi tàn ác và đồi bại. Bảo Trượng chết, anh mặc áo choàng của Bảo Trượng để che thân thì bị nhận lầm là tên “tiểu dâm tăng”. Lúc sắp bị đánh chết thì chưởng môn phái Huyết Đao là Huyết Đao lão tổ, lại tưởng anh ta môn đồ của bản phái, cứu thoát và bắt cóc luôn cô nàng Thủy Sinh xinh đẹp của nhóm Linh Kiếm song hiệp đem đi.

Đi theo Huyết Đao lão tổ thì mặc nhiên xác nhận mình là môn đồ của Huyết Đao môn, còn ở lại thì bị giết chết. Bản năng sinh tồn vẫn thắng, nên Địch Vân đi theo Huyết Đao lão tổ. Thế là tự nhiên Địch Vân trở thành một tên “tiểu dâm tăng” mà không còn cách gì biện bạch được.

Đôi khi, chúng ta cũng gặp những hoàn cảnh ngộ nhận trớ trêu như thế trong đời. Mở miệng giải bày thì không được, mà để trong lòng lại ray rức khổ đau. Nên đôi khi cứ phó mặc cho dòng đời, để thời gian đem lại lời giải đáp.

Nhưng gẫm ra thì đối với Địch Vân sự ngộ nhận của những người lạ kia nào có nghĩa lý gì so với sự ngộ nhận của Thích Phương? Người ta ngộ nhận ta, ta chỉ tức tối bực mình; còn người thân ngộ nhận mới là nỗi khổ.

Khi cùng Huyết Đao lão tổ và Thủy Sinh bị bao vây trong núi tuyết, Địch Vân lại càng mất niềm tin vào cuộc sống khi chứng kiến sự đê hèn của Hoa Thiết Can. Một kẻ mang thân phận danh sĩ trên giang hồ, đứng hàng thứ hai trong nhóm “Lục Hoa Lưu Thủy” được nhiều người ngưỡng mộ, vậy mà khi đối diện với cái chết lại bộc lộ hết bản chất thô bỉ của một nhân vật đầy danh vọng.

Kim Dung vẫn thường có những khám phá bất ngờ khi mở ra, trong những ngóc ngách u tối của chiều sâu tâm lý nhân vật, những điều mà ta chỉ thường gặp khi đọc Dostoieski hoặc Shakespeare.

Càng ngày, Thủy Sinh lại phát hiện tên “tiểu dâm tăng” cục mịch kia là một người thuần hậu, còn Hoa Thiết Can - người anh kết nghĩa của cha nàng – chỉ là một kẻ bỉ ổi táng tận lương tâm.

Khi tuyết tan, Hoa Thiết Can đã nhanh chóng dẫn quần hùng vào hang đá tìm giết hai kẻ “gian phu dâm phụ” kia, hòng che giấu những việc làm ti bỉ của mình. Y đã đánh một đòn tâm lý sâu sắc là bịa đặt những điều nhơ bẩn để vu cáo Thủy Sinh trước khi nàng kịp mở miệng.

Khi người ta đã có định kiến về một người rồi thì tiếng nói của người ấy sẽ không còn giá trị nữa. Đây cũng là một chiến thuật mà các luật sư trong Dostoievski hay dùng để “khóa miệng” các nhân chứng trước tòa.

Ai còn thèm nghe anh nữa khi nhân cách anh đã “có vấn đề”?

Tên lưu manh Hoa Thiết Can trở thành người hùng. Thủy Sinh lại bị mọi người khinh bỉ, người yêu ngờ vực. Thị phi trong cuộc sống lắm khi bị đảo lộn, trắng đen bị đánh tráo mà con người, do ngu dốt hoặc bị bưng bít, vẫn cứ vô tình chấp nhận.

Khi quay về nhà, Địch Vân lại có dịp hiểu thêm bao sự thật phủ phàng nữa về sư phụ và các vị sư bá. Cả ba đều là những tên học trò tham lam bất nghĩa, vì hám lợi đã âm mưu giết thầy để đoạt Liên thành quyết. Anh muốn giết Vạn Khuê để trả thù nhưng không nỡ. Thích Phương lại bị Vạn Khuê giết chết, bỏ lại cô bé Không Tâm Thái. Địch Vân càng kinh hoàng hơn khi chứng kiến cảnh từ khách giang hồ đến tri thức, từ bọn phú hào đến quan lại đều điên cuống cấu xé, chém giết nhau để tranh giành pho tượng Phật bằng vàng.

Thich Trường Phát ám toán Địch Vân nhưng không thành, vì y không tin rằng trên cõi đời lại có người không cuồng điên vì châu báu, để rồi y cũng chết theo những người khác vì chất độc trong pho tượng Phật. Vàng và Máu. Ở cái thế giới điên đảo này thì hai từ đó sẽ mãi mãi đi chung.

Sống trong một xã hội mà tri thức thì thô bỉ, kẻ có tiền của thì lưu manh, quan lại thì tham lam, thầy tu thì dâm đãng, sư phụ thì lọc lừa thủ đoạn, anh chàng “Hai Lúa” Địch Vân chỉ là một kẻ lữ hành cô độc. Anh không thể hiểu nổi và hòa nhập nổi vào cái thế giới đó, cũng như anh chàng Charlot đôn hậu cứ mãi mãi đứng bên lề của xã hội công nghiệp tất bật chỉ biết tôn vinh vật chất.

Tâm hồn chất phác của Địch Vân sẽ mãi mãi ngỡ ngàng trước những tấn tuống nhơ bẩn của cuộc đời. Người nông dân phương Đông vẫn luôn mang tâm hồn đôn hậu chất phác mà sống giữa cõi tự nhiên. Điều đáng buồn cười là nền đạo lý – mà chúng ta thường dùng ngôn ngữ bác học để nghiên cứu, và trịnh trọng tranh biện nhau hòng khoe khoang kiến thức – lại chỉ được gìn giữ bởi những người dân quê hiền lành ít học.

Nếu không có những người mà chúng ta gọi là “Hai Lúa” đó, thì nền đạo lý con người sẽ có nguy cơ bị đổ vỡ bởi thói ma mảnh trong cuộc sống “văn minh”.


Tất cả đều đổ vỡ tan hoang trong tâm hồn anh “Hai Lúa” Địch Vân. Sau khi hợp táng nắm tro của Đinh Điển vào nấm mộ của Lăng Sương Hoa để hoàn thành tâm nguyện của một cặp Romeo và Juiliette phương Đông, Địch Vân quyết định dẫn bé Không Tâm Thái quay về hang núi cũ để làm lại cuộc đời mới, như anh nông dân Jean Valjean dẫn cô bé Cosette đi trốn, trong tác phẩm “Những người khốn khổ” của Victor Hugo. Trái tim thuần lương của anh không tìm ra chỗ trú giữa một xã hội đê tiện và bẩn thỉu.

Giữa những cảnh lọc lừa thủ đoạn được che đậy dưới lớp áo phù hoa, sự ngây ngô chân chất của Địch Vân nổi bật lên như sự tương phản gay gắt trong một bức tranh biếm họa. Điều bất ngờ và cảm động nhất là khi quay về chỗ cũ, Địch Vân được bỗng gặp lại Thủy Sinh đang đứng chờ ngoài cửa động, cười mà nói “ Muội chờ đại ca ở đây đã lâu rồi! Muội biết thế nào đại ca cũng trở lại mà”. (Ngã đẳng liễu nễ giá ma cửu! Ngã tri đạo nễ chung vu hội hồi lai đích).

Ắt hẳn khi cùng đoàn người quay về, Thủy Sinh cũng đã phải đối đầu với bao sự ngộ nhận, và ắt hẳn sự thô bỉ từ những người mà nàng tôn kính đã đẩy nàng vào sự cô độc. Chính trong tâm trạng đó Thủy Sinh mới thông cảm thêm sự cô độc của Địch Vân.

Những con người biết tự trọng như nàng hoặc đôn hậu như Địch Vân sẽ không bao giờ tìm thấy hạnh phúc trong một xã hội tồn tại trên sự lọc lừa và man trá. Cái hang đá cũ là chỗ quay về tất yếu cho cả hai người. Những lời nói đơn giản mà thắm thiết của Thủy Sinh đã kết thúc tác phẩm, nhưng nó lại mở ra một chân trời bao la cho những kẻ lữ hành cô độc…
____________________

(*) Chiếc hộp Pandora

Ngày xưa không có thần thánh chỉ có Trời và Đất thôi. Trời và Đất là bậc phụ mẫu đầu tiên sinh ra giống người khổng lồ Titans. Giống người này cai trị thế giới hằng bao nhiêu thời đại. Sau cùng các vị thần, con của giống khổng lồ Titans này nổi loạn và lật đổ họ. Thần Zeus làm chúa tể toàn vũ trụ, vợ và cũng là em của thần tên Hera trở thành hoàng hậu.

Vẫn chưa có người trên trái đất và cũng chưa có loài thú vật nào. Một người khổng lồ tên Prometheus được chọn để cai quản trái đất. Thế là Prometheus xuống hạ giới. Chàng lấy đất sét trộn với nước rồi nặn thành một hình người đứng thẳng vì chàng muốn loài người nhìn lên các vì sao chứ không nhìn xuống đất như loài vật vậy. Rồi Prometheus nghĩ:

“Ta sẽ cho sinh vật này đủ các tài năng để vượt được muôn loài”.

Nhưng không may, người em chàng tên Epimentheus, đã đem tất cả những tài năng đó ban cho loài vật: sức mạnh, lòng can đảm, sự khôn ngoan, lanh lẹ, lại cho tất cả cánh, móng, vuốt, sừng, vẩy… Chẳng còn giữ lại gì.

Chàng Prometheus nhanh trí bèn nghĩ tới lửa. Ồ một món quà vĩ đại và huyền diệu !

Prometheus nghĩ: với lửa con người có thể làm vũ khí áp chế được súc vật, làm các dụng cụ cày đất và thực hiện nghệ thuật. Con người không lông, không vẩy ư ? Lửa sẽ sưởi ấm chỗ ở, con người không còn cảnh phải lo sợ mưa, tuyết cùng gió bấc.”

Prometheus trở lại trời, châm ngọn đuốc ở xe mặt trời rồi đem lửa xuống cho loài người. Chàng cảm thấy thật sung sướng.

Nhưng trên trời cao ở Olympus, thần Zeus thấy vậy chau mày ghen tỵ với quyền lực của Prometheus. Thần Zeus nghĩ: “Sinh vật này đã biết cậy vào trời thì quả là nó hơn loài vật. Còn phải nói nó là địch thủ xứng đáng của chư thần, nhưng ta sẽ có cách kiểm soát quyền lực bất chính của nó.”

Chiếc hộp Pandora

Thế là thần Zeus dựng lên một người đàn bà đẹp như một nữ thần. Tất cả những vị thần khác đều ban cho nàng những tài năng. Tên nàng là Pandora, có nghĩa là tài hoa nhất bậc. Đích thân thần Zeus đem xuống tặng. Prometheus thấy vậy bèn lưu ý Epimetheus ngay: “Hãy coi chừng, tôi ngại quà của thần Zeus xảo quyệt này! Thần giận tôi lắm, vì tôi cả gan ăn cắp lửa đem xuống cho loài người.”

Nhưng Epimetheus đã say mê nàng Pandora và đem nàng về nhà.

Chàng Epimetheus còn giữ trong nhà một cái hộp đựng ít quà mà chàng chưa phân phát cho loài vật khi chàng tạo lên chúng. Chàng hết lời dặn Pandora đừng đụng đến chiếc hộp đó. Nhưng Pandora tính nết tò mò, vừa khi ở nhà một mình nàng bèn tới gần chiếc hộp, tự nhủ : “Ta chỉ ghé mắt nhìn vào xem có gì bên trong chắc chả sao đâu.” Rồi nàng mở nắp hộp, thế là một đàn bệnh dịch bay ra, Cùng là lòng đố kỵ hận thù, báo oán... tức khắc lan tràn khắp nơi. Pandora vội đậy nắp hộp lại, nhưng muộn mất rồi. Bình rỗng, chỉ còn sót lại một ít hy vọng. Và hy vọng không bao giờ rời bỏ loài người kể từ đó.

Bạn nghĩ gì về câu chuyện này?

Hansy
08-02-2013, 08:16 PM
6.

NỖI LÒNG A TỬ


http://tintuc.vatgia.com/kenh14/100831002643-608-955.jpg

J’ai rêvé j’allais t’épouser si jort que rien, rien ne pourrait nous séparer – que la mort
Je pense qu’elle peut rapprocher, au contraire… oui, rapprocher ce qui a été séparé pendant la vie
(-Anh mơ thấy anh sẽ cưới em, ước mơ mãnh liệt đến nỗi không có gì có thể ngăn cách được chúng ta – trừ cái chết.
-Em thì nghĩ ngược lại rằng, chính cái chết mới có thể nối kết, vâng, nối kết được những gì đã bị cách ngăn trong cuộc sống)
André Gide – La porte étroite

Trên đây là lời đối thoại giữa Jérôme và Alissa, hai nhân vật chính trong tác phầm nổi tiếng La porte étroite của André Gide. Tác phẩm này đã được ngòi bút tài hoa của nhà thơ Bùi Giáng chuyển sang tiếng Việt với tựa đề “Khung cửa hẹp”.

Alisa yêu Jérôme nhưng cô biết em gái mình là Juliette cũng yêu Jérôme, nên cô đã khước từ tình yêu để tìm đến Đấng Tối Cao qua “khung cửa hẹp” theo lời gọi thiêng liêng của tôn giáo. Cô đã đem cả tuổi xuân để làm chất phân bón cho loài cây chỉ nở những cành hoa cô liêu giữa vùng trời sa mạc, với ước vọng điên rồ rằng, cánh hoa của sự hy sinh sẽ tỏa hương thơm vào cõi Vĩnh Hằng huyền hoặc.

Có lẽ cô tin sẽ tìm lại được Jérôme trong cõi chết – nơi mà những cặp tình nhân sẽ gặp lại nhau để nối lại những cung đàn dang dở. Juliette lập gia đình, Alissa qua đời, để lại nhân vật Jérôme cô liêu trong ngậm ngùi bi hận.

Nào đâu là mộng hoài tuổi thanh niên, nào đâu là mùi hương xuân sắc, tất cà đều tan tác trong cơn lốc lặng lẽ của tình yêu ngang trái.

Đọc đoạn văn trên lòng lại nhớ đến cô bé A Tử trong Thiên long bát bộ. Nếu ai đã từng đọc Khung cửa hẹp và Thiên long bát bộ ắt hẳn có người cho rằng sẽ khiên cưỡng khi đem hình ảnh Alissa – một nhân vật dịu dàng cô độc – đề nói về A Tử - một nhân vật nữ tinh quái và ác độc nhất trong mọi tác phẩm văn học cổ kim. So sánh Alissa với A Châu còn có thể được, vì cả hai đều là những “linh hồn bao dung”. Dù biết thế, nhưng trong thâm tâm, vẫn thấy giữa Alissa và A Tử, trong tận cùng sâu thẳm của tâm hồn, vẫn có điềm tương đồng: Đó là sự thiết tha trong tâm nguyện.

Cuộc đời vẫn luôn có những người con gái đỏng đảnh và tai quái thường đem những kẻ yêu họ (mà họ không yêu lại, dĩ nhiên!) ra làm đối tượng chế giễu. Như một trò đùa và để thõa mãn cái tôi.

Thuở còn đi học, đâu phải thiếu những cậu học trò phải bao phen xấu hổ bởi những lá thư tỏ tình vụng dại mà họ âm thầm nhét vào gầm bàn học lại trở thành “đề tài nghiên cứu” cho cả lớp!

Nhưng tinh quái đến mức tàn ác như A Tử đối với Du Thản Chi có lẽ trên đời này chỉ có một. Cô đày đọa gã si tình kia đến thân tàn ma dại, chỉ để mua vui và đem gã làm vật hy sinh cho những trò luyện công tà quái.

Cô cho cột gã vào ngựa rồi kéo lên để làm trò “diều người”, bắt gã để tay cho rắn rít cắn để cô luyện công phu “Hóa công đại pháp”. Tàn nhẫn nhất là cô cho người hầu dùng cái khuôn sắt nung cháy trùm lên đầu Du Thản Chi và hủy hoại khuôn mặt của kẻ si tình khốn khổ.

Cô cũng không một chút động lòng khi biết Du Thản Chi đã hy sinh đôi mắt để đem lại ánh sáng cho mình. Cô không hiểu rằng trong tâm hồn cuồng điên si dại đó, máu và lệ của mối tình câm đã ngập tràn, như muốn nhận chìm cả mối hờn căm đã từng sục sôi thuở vượt Nhạn môn quan để trả mối phụ thù.

Với A Tử, Du Thản Chi hay tất cả mọi người khác để chỉ là những con sâu cái kiến. Chúng hoàn toàn vô nghĩa và chỉ có một lý do duy nhất đáng để tồn tại là được dùng để phục vụ cho tham vọng của cô.

Cô chỉ biết có Tiêu Phong. Cô dửng dưng tàn ác với tất cả mọi người, thậm chí với cả những người thân, nhưng với Tiêu Phong thì trái tim lạnh lùng và vô cảm kia lại sẵn sàng hy sinh tất cả. Hình ảnh người anh rễ đã chiếm trọn tâm hồn của cô bé mới mười mấy tuổi đầu. Càng tàn nhẫn với Du Thản Chi bao nhiều thì cô lại càng tha thiết với Tiêu Phong bấy nhiêu. Hai thái cực tàn nhẫn và đắm say cùng ở chung trong tim một thiếu nữ đã đẩy mối tình ngang trái vô vọng kia đến tận cùng thảm họa.

Trái tim tàn nhẫn vô tình
Chỉ chôn chặt mỗi bóng hình tỷ phu
Hận lòng máu nhỏ thiên thu.

Khi thấy Tiêu Phong luôn hờ hững với mình, cô từng ném độc châm vào Tiêu Phong để mong Tiêu phong sẽ bị thường, và sẽ ở mãi bên cô! Khi nghe cô kể chuyện Du Thản Chi hy sinh cặp mắt cho cô với giọng thản nhiên và giễu cợt, Tiêu Phong đã trách mắng cô bạc nghĩa, thì cô lại khóc òa lên và nói một câu mà mọi nam nhi trong thiên hạ đều phải động lòng: “Nếu như đại ca bị mù hai mắt thì muội cũng xin hiến đôi mắt mình để cứu đại ca”.

Câu nói chí tình và tha thiết đó có “cứu vãn” được những điều tàn ác mà cô đã gây ra? Quả chữ tình đã gây ra bao oan nghiệt cho cõi trần gian. “Tu là cội phúc, tình là dây oan" (Kiều). Tu có là cội phúc hay không thì chưa thấy, nhưng tình là dây oan thì quả là nhiều.

Sợi dây tình đã trói chặt số phận Tiêu Phong, Du Thản Chi và A Tử vào vòng tròn nghiệt ngã, mà các nhân vật đó chưa hẳn đã cắt đứt được, ngay cả khi họ cắp tay nhau đi về bên kia thế giới.


https://encrypted-tbn3.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcRsLJu3XnAXD2B-wCx1SeWc8qFT1MuOK92GsMlOAQq4dH87BYC_BA

Cõi chết vẫn là điểm tương phùng cho những cặp tình nhân bất hạnh. Không tin tưởng lắm về Ngày phán xét cuối cùng của mọi tôn giáo, hoặc sự cứu rỗi linh hồn nhờ vào một đấng Tối Cao, nhưng lại rất tin thuyết luân hồi, không phải theo nghĩa tôn giáo mà như là một hình ảnh của nghệ thuật.

Những tâm nguyện chưa thực hiện, những tình yêu dang dở, những hoài vọng không thành… sẽ khiến cho cuộc sống trở nên chua chát và cõi đời trở nên ngậm ngùi biết mấy, nếu như chúng ta không tạo được niềm tin rằng chúng ta sẽ được tựu thành ở kiếp lai sinh?

Trong bài thơ Adieu (Lời vĩnh biệt), Apollinaitre đã từng nói lên những lời tha thiết

J’ai cueili ce brin de bruyère
L’automne est morte souviens – t’en?
Nous ne nous verrons plus sur Terre
Odeur du Temps brin de bruyère
Et suoviens – toi que je t’attends

Ta ngắt đi một cành hoa thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tương phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó

(Bùi Giáng dịch)

Bài thơ của Apollinaire nghe ngậm ngùi man mác, nỗi sầu trong thơ nghe như bàng bạc nhẹ nhàng, nhưng nó lại đậy con người đối diện với nỗi trống vắng khôn cùng “Nous ne nous verrons plus sur Terre” Chúng ta sẽ không tương phùng được nữa. Mộng trùng lai không có ở trên đời. Và bao hoài mộng, người ơi, xin hãy chờ đợi nhau trong hương thời gian và hồn thạch thảo.

Trong khi đó, Nguyễn Du đã dìu chúng ta từ cõi lạnh giá về nơi ấm áp. Kiếp sau họa gặp, kiếp này hẳn thôi (Kiều). Lời thơ đó dù có đau thương nhưng vẫn còn nồng ấm vì nó mở ra cho chúng ta một khoảng trời, để ước mơ và hy vọng. Mộng trùng lai nếu không có ở trên đời thì còn có ở kiếp sau. Đó chính là lối về cho A Tử và cho cả Du Thản Chi lẫn Tiêu Phong.

Tiêu Phong vẫn luôn ở bên cô nhưng cô hiểu “dẫu trong gang tấc gấp mười quan san” (Kiều), vì hình ảnh của người chị A Châu. Cô bị hoàng hậu nước Liêu lừa để đem thuốc độc cho Tiêu Phong uống, vì cô ngỡ đó là “thuốc yêu”, Tiêu Phong uống vào sẽ yêu cô mãi mãi!

Liều “thuốc yêu” đó đã khiến Tiêu Phong mất hết nội lực, và bị bắt khi dẫn cô chạy trốn.

Trách sao được cô bé tai quái tàn ác kia, khi hiệu quả của liều thuốc yêu là điều cô luôn mơ tưởng? Cõi đời, từ thuở xa xưa cho đến cả thời hiện đại, vẫn đâu thiếu những thiếu nữ nhẹ dạ cho rằng có một loại thuốc thần diệu nào đó giúp họ níu kéo được những trái tim phụ bạc hoặc đang theo đuổi một hình bóng khác. Vô lý là thế, nhưng họ vẫn tin, bởi vì những tâm hồn yếu đuối đáng thương kia sẽ bám víu vào đâu khi mà mọi nỗ lực chiếm hữu tình yêu đều dẫn vào tuyệt lộ?

Chỉ đến khi Tiêu Phong ngả xuống tại Nhạn môn quan, cô mới thấy rằng, bây giờ vị tỷ phu mà cô trọn đời thương nhớ kia mới thực sự là của cô. Sẽ không còn ai tranh giành trái tim đó với cô nữa. Sẽ không còn những lời trách mắng, cũng như những lời răn dạy nghiêm khắc khi cô bày tỏ nỗi lòng, vì bị xem là đứa trẻ con.

Chỉ bây giờ cô mới có quyền ôm vị tỷ phu một cách đắm say mà không bị phản đối, cự tuyệt. Đó có lẽ là giây phút đớn đau nhưng hạnh phúc nhất trong đời A Tử. Chỉ giờ đầy, cái chết mới nối kết được cho cô những gì đã bị cách ngăn trong cuộc sống.

“…rapprocher ce qui a été séparé pendant la vie…” Cuộc sống đã đẩy mối tình trái ngang vào chốn tận tuyệt của thảm khốc, đoạn trường thì xin em hãy ghì siết lấy xác thân còn hơi ấm của người yêu để cung bậc trùng phùng được nối tiếp ở thế giới bên kia. O love! O life! Not life, but love in death! (Ôi tình yêu! Ôi cuộc sống! Không phải là cuộc sống, mà là tình yêu trong cõi chết – Shakespeare – Romeo & Juliet, Act 4, Scene 5).

Hình ảnh A Tử móc mắt trả lại cho Du Thản Chi, rồi ôm xác Tiêu Phong rơi vào vực thẳm, quả quá đủ để đẩy mọi trang sách viết về bi kịch tình yêu vào bóng tối.

Đứng bên hình ảnh đoạn trường kia, mọi cảnh tượng đau thương thảm khốc nhất của tình yêu trong mọi nền văn học đều trở nên mờ nhạt và ảm đạm.

Và tin rằng, từ vực thẳm đó tại Nhạn môn quan, một bài tụng ca thIêng liêng sẽ bay vút lên tận cõi trời Đâu Suất để làm hồi sinh một tình yêu dang dở trái ngang.


http://183.91.14.17/2010/09/13/19/07/f636acaf17d228897cd92a31.jpg

Hansy
09-02-2013, 07:50 PM
7.

DIỆT TUYỆT SƯ THÁI
Quái tượng chốn Thiền môn


http://t1.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcRp1j2b_PWsRuBq7fHonotmcV3HV9gOt e1au7O-EdlsIJbNdq6DLQ&t=1

Không ít người, do không hiểu được những yếu tố sơ đẳng trong Phật học, cho rằng đạo Phật chỉ đưa con người đến chỗ bế tắc. Họ quên rằng có quá nhiều kẻ trốn vào thiền môn chỉ vì một lý do đơn giản là bị bế tắc khi đối diện với cõi thế. Bế tắc trong tư tưởng, trong tình cảm, thậm chí trong cơm áo.

Thuở đức Phật còn tại thế, ngài đã từng cảnh báo có những kẻ quy y theo Phật chỉ để kiếm cơm! Thuở đó còn vậy, huống gì đến thời mạt pháp. Đối với những kẻ bế tắc đó thì Phật pháp, dù có quảng đại và nhiệm mầu đến mấy, cũng chỉ là một loại “cần câu cơm” giúp họ tạm thời làm ổn định những cơn quậy phá của cái bao tử rỗng, hoặc một loại “xi rô an thần” giúp họ làm dịu đi những cơn khủng hoảng thần kinh!

Hàng mấy ngàn năm qua, tinh thần bao dung của Phật giáo luôn mở rộng vòng tay đón nhận bao nhiêu bậc lợi căn pháp khí, xả thân cầu pháp, thì đồng thời cũng đón nhận không ít rác bẩn bay theo làm ô uế chốn Thiền môn.

Trong tác phẩm Kim Dung, bên cạnh môn phái Thiếu Lâm được xem như biểu tượng cho cái nôi võ học Trung nguyên và võ học Phật môn, còn có các môn phái của ni cô như Nga My, Hằng Sơn, hay phái Lạt Ma Tây Tạng hoặc Huyết Đao môn. Và trong những môn phái thờ Phật đó cũng có đủ dạng chúng sinh, đủ loại môn đồ. Bên cạnh những cao tăng đắc đạo cũng không thiếu những người muốn chạy trốn cõi nhân sinh hay những kẻ lưu manh thủ đoạn, vào cửa chùa để lợi dụng tấm áo cà sa.

Có người đến với cửa Thiền vì khát khao tìm cầu diệu pháp trong cõi thanh tĩnh Như Lai, cho nên ta có những bậc giác ngộ như Độ Nạn, Độ Kiếp, Độ Ách, hay những vị cao tăng xả thân vì đời như Không Kiến, bao dung như Phương Sinh, Phương Chứng, khoáng đạt như Vô Sắc, từ hòa như Định Nhàn, thần thông như vị vô danh tăng trong Tàng kinh các. Có kẻ đại trí đại dũng do “buông đao mà thành Phật” vì cơ duyên chín muồi để họ ngộ ra điều nhiệm mầu trong hai chữ “sắc không” mà quy y cửa Phật, như Tiêu Viễn Sơn, Mộ Dung Bác, Tạ Tốn.

Có kẻ tìm đến cửa chùa chỉ vì muốn lợi dụng của Thiền để thực hiện những thủ đoạn thâm độc như Viên Chân. Có kẻ gian hùng tìm đến cửa chùa để tạm trốn qua ngày đói rét, và theo đuổi giấc mơ trục lợi như Chu Nguyên Chương. Có kẻ tìm đến cửa chùa để chạy trốn quá khứ như Mục Niệm Từ. Có kẻ tìm đến cửa chùa chỉ vì muốn cưới ni cô (!) như Bất Giới hòa thượng. Có kẻ “bị đi tu”như Điền Bá Quang. Có người từ tấm bé do hoàn cảnh đưa đến với cửa Phật, nên đành phải âm thầm chấp nhận tấm áo nâu sồng mà gạt lệ làm ngơ trước cõi đời xuân sắc, như Nghi Lâm và Viên Tính.

Do có hàng ngàn lý do đưa đẩy con người đi tu, cho nên chốn cửa Phật cũng có vô vàn nhân cách. Có kẻ làm bậc quốc sư của một nước, hàng năm vào Đại tuyết sơn để đăng đàn thuyết pháp, nhưng tâm lại đắm chìm trong cõi tham sân si một cách bệnh hoạn như Cưu Ma Trí. Bên cạnh những bậc đại trí đại bi cũng có những đại sư gàn dỡ như Giác Viễn, ngớ ngẫn như Hối Thông, hậu đậu như Hư Trúc, hồ đồ như Viên Ẫm, ác độc như Hỏa Công đầu đà, dâm đãng như đám thầy trò Huyết Đao môn, cố chấp như các đại sư Đạt Ma đường…

Nhưng có lẽ chỉ có một con người quái dị đến với cửa Thiền bằng cả tấm lòng thành nhưng sát tâm còn nặng hơn cả những ma đầu ngoài đời. Đó là Diệt Tuyệt sư thái.

Không rõ Kim Dung khi xây dựng nhân vật Diệt Tuyệt sư thái, có dựa vào một nguyên mẫu nào ngoài đời hay không. Nếu có thì đó quả là một thảm họa cho Phật giáo.

Diệt Tuyệt sư thái là chưởng môn đời thứ ba của phái Nga Mi. Chỉ vì người yêu là Cô Hồng Tử chết về tay Dương Tiêu mà bà đem cả lòng phẫn hận đổ hết lên giáo đổ Minh giáo. Đối với giáo đồ Minh giáo, bà chỉ có một lập trường duy nhất là giết sạch. Diệt Tuyệt sư thái sáng tạo hai pho kiếm pháp “Diệt kiếm” và “Tuyệt kiếm” để thực hiện ý đồ của mình.

Cái sát tâm kinh dị đó hoàn toàn đi ngược lại nền đạo lý thông thường, chứ chưa nói đến việc làm tổn thương một tôn giáo lấy từ bi làm gốc như Phật giáo. Nếu kinh điển chép rằng đức Phật, qua vô số những tiền thân, từng hân hoan xả thân để cứu độ con người hay cứu những sinh vật bé nhỏ theo tinh thần bố thí Ba la mật, thì môn đồ ngài là Diệt Tuyệt sư thái lại có thể ung dung giết sạch những người mà bà tự xem là phe đối nghịch.

Cảnh tượng một ni cô cầm Ỷ Thiên kiếm lạnh lùng chém những giáo đồ Minh giáo giữa sa mạc mà không một chút băn khoăn, khi những người này không còn khả năng chống cự và thản nhiên ngồi tụng kinh siêu độ nói về cõi thế vô thường. Cảnh tượng đó nói lên toàn bộ sự bất lực của bạo lực trước đức tin.

Là môn đồ của Phật, lẽ ra chính Diệt Tuyệt sư thái phải hiểu điều đó hơn ai hết. Nhưng bà vẫn làm điều đó có lẽ vì tự trong thâm tâm bà hiểu rằng bà chỉ tiêu diệt “tà ma ngoại đạo” trên danh nghĩa, nhưng thực ra là để báo thù riêng. Thậm chí bà còn biến mối thù của mình thành tôn chỉ của môn đệ.

Thân nương nhờ cửa Phật mà tâm chỉ toan tính chuyện báo thù, đó quả là điều gây kinh hãi suốt cổ kim.


http://img1.qq.com/ent/pics/13821/13821870.jpg

Khi bà biết Kỷ Hiểu Phù có con với Dương Tiêu, bà vẫn không ngần ngại bỏ qua tất cả để truyền chức chưởng môn cho Kỷ Hiểu Phù. Và chỉ yêu cầu một điều là nàng phải tìm cách giết Dương Tiêu. Buộc đệ tử giết chồng để được truyền y bát, vị sư thái kia đã hành xử bá đạo hơn cả những kẻ đại ma đầu, nhưng bà vẫn ngang nhiên giơ cao lá cờ “tiêu diệt tà ma”. Khi tâm con người đã bám sâu vào định kiến thì họ vẫn thường có những sự cố chấp kỳ lạ đến mức ngu xuẩn. Khi Kỷ Hiểu Phù, vì tiếng nói chân chính của con tim, lắc đầu từ chối thì bà thản nhiên vung chưởng đập vỡ sọ môn đồ.

Bà vì muốn Nga My hiển danh trên chốn giang hồ mà không từ một thủ đoạn nào. Khi bị giam cầm tại chùa Vạn An, bà truyền chức chưởng môn đời thứ tư cho Chu Chỉ Nhược, chỉ để Chu Chỉ Nhược sẽ tiếp tục ý định của mình. Ngôi chưởng môn tôn quý từ khi sư tổ Quách Tường sáng lập, đến tay Diệt Tuyệt sư thái đã biến thành món mồi đem ra để nhử môn đồ.

Bà là người duy nhất biết được bí ẩn trong thanh đao Đồ Long và thanh kiếm Ỷ Thiên, nên căn dặn Chu Chỉ Nhược bằng mọi cách phải chiếm đoạt cho được. Bà biết giữa Trương Vô Kỵ và Chu Chỉ Nhược có mối tình thanh mai trúc mã nên đề nghị Chu Chỉ Nhược nếu cần thì dùng “mỹ nhân kế” dụ dỗ Trương Vô Kỵ để chiếm đoạt được đao Đồ long.

Bà mong muốn Chu Chỉ Nhược, sau khi học được hai bí kíp võ công trong đao lẫn kiếm, sẽ trở nên nhân vật vô địch trong thiên hạ, và do đó, Nga My sẽ là Thái sơn Bắc đẩu của võ lâm…

Dùng thủ đoạn “mỹ nhân kế” đã là hạ sách, mà đối với môn đệ Nga My thì việc đó lại càng hạ lưu thô bỉ, nhưng người đọc cũng có thế tạm cảm thông với bà, xem như đó là chuyện quyền biến tạm thời để thực hiện tâm nguyện muốn hoằng dương môn phái của một vị chưởng môn.

Điều kinh khủng nhất là bà bắt Chu Chỉ Nhược phải thề độc với bà là, nếu nàng lấy Trương Vô Kỵ thì cha mẹ chết dưới mồ sẽ không được yên, bà sẽ biến thành quỷ ám ảnh suốt đời. Nếu nàng sinh con trai thì con trai sẽ làm tôi tớ, sinh con gái thì con gái sẽ làm đĩ chốn thanh lâu.

Lòng thù hận thâm độc một cách quái dị và tàn nhẫn đến vậy, có lẽ cả đức Phật cũng phải không rét mà run!

Khi Trương Vô Kỵ dùng Càn khôn đại na di cứu mọi người nhảy ra khỏi tháp lửa thì bà là người duy nhất chịu chết để khỏi mang ơn tên “tiểu dâm tặc ma giáo” đó. Sự căm thù vô lý của bà khiến người đọc cũng không hiểu được bà nhận ra điểm xấu gì ở Trương Vô Kỵ. Có lẽ bà căm thù Trương Vô Kỵ chỉ vì anh ta là giáo chủ Minh giáo. Dưới mắt bà, giáo đồ phe Minh giáo đã toàn một loại xấu xa dâm đãng, huống gì giáo chủ còn sa đọa ghê tởm đến độ nào? Kết cục của chúng chỉ đáng kết thúc dưới thanh kiếm Ỷ Thiên của bà mà thôi.

Đó có thể là lý do, nhưng chắc gì trong thâm tâm bà lại không ganh tỵ với thân phận của Trương Vô Kỵ và phe Minh giáo, mà theo bà, lẽ ra là của Chu Chỉ Nhược với phái Nga My?

Là kẻ tu hành đứng đầu một môn phái lớn như Nga My, lẽ ra Diệt Tuyệt sư thái phải có được những sở đắc nhất định về Phật pháp để hiểu rằng chữ “ma” trong đạo Phật chỉ là khái niệm “ma chướng” che mờ Phật tính và ngăn cản con đường tu đạo, chứ nào phải là con người hay giáo phái cụ thể bị gán cho cái nhãn hiệu “tà ma”!

Chính cái sát tâm bệnh hoạn của Diệt Tuyệt sư thái mới thực là cái “tà ma” cần diệt tuyệt. Kinh Niết Bàn chủ trương đến cả hạng người chuyên phỉ báng Phật pháp vẫn có thể thành Phật, thì những người phe Minh giáo bị cho là “tà ma ngoại đạo” đó há chẳng phải là những hạt giống của Như Lai sao? Với một tôn giáo lấy từ bi làm gốc như Phật giáo thì làm gì có khái niệm “tà ma ngoại đạo”.

Chúng ta luôn bị lẫn lộn trong khái niệm và sự ngộ nhận đó đã gây ra biết bao thảm kịch trong suốt dòng lịch sự của nhân loại.

Chư Phật dùng vô lượng phương tiện thiện xảo để hiện ra vô lượng hóa thân, tùy căn cơ mà hóa độ vô lượng chúng sinh trong khắp tam thiên đại thiên thế giới.

Phẩm Phổ môn trong kinh Pháp Hoa bảo:

“Người đáng dùng thân Duyên giác để độ giải thoát, liền hiện thân Duyên giác vì người đó mà thuyết pháp…
“Người đáng dùng thân cư sĩ để độ giải thoát, liền hiện thân cư sĩ vì người đó mà thuyết pháp…
“Người đáng dùng thân tỳ khưu ni để độ giải thoát, liền hiện thân tỳ khưu ni vì người đó mà thuyết pháp…”

Nếu đức Phật xâm nhập vào chốn giang hồ thì, để hóa độ các nhân vật võ lâm, ắt hẳn ngài cũng sẽ có vô lượng hiện thân mà tùy nghi thuyết pháp.

Với Lệnh Hồ Xung sẽ hiện thân lãng tử, với Tả Lãnh Thiền sẽ hiện thân Đại lực sĩ, với Hoàng Dược Sư sẽ hiện thân trưởng giả, với Nghi Lâm sẽ hiện thân đồng nữ, với Cưu Ma Trí sẽ hiện thân Năng đoạn kim cương Bồ Tát, với Tạ Tốn, Tiêu Viễn Sơn hay Mộ Dung Bác sẽ hiện thân Đại Tuệ Bồ Tát…

Nhưng không hiểu đối với loại ni cô quái dị như Diệt Tuyệt sư thái, muốn thuyết pháp hóa độ thì đức Phật sẽ hiện thân gì?


http://i237.photobucket.com/albums/ff137/qingnan/f1f69890799515a4a877a4dc.jpg

Hansy
10-02-2013, 03:10 PM
8.

CHÂU BÁ THÔNG
Trăm năm còn vị thành niên!


http://a9.vietbao.vn/images/vn902/2010/5/20911686-images1969728_1157042985cs5fm9.jpg

Bảy mươi mới bước vào đời
Tám mươi ta mới sang chơi láng giềng
Tuổi mình còn vị thành niên
Há cớ gì phải buồn phiền như ri?
(Trần Văn Chánh)

Mỗi khi đọc câu thơ tự trào dí dỏm của người bạn gởi tặng từ vùng Bắc Ninh xa lắc, lại nhớ đến Lão ngoan đồng Châu Bá Thông.

Ở vào lứa tuổi mà Khổng Tử bảo là “tri thiên mệnh”, đã đủ dày dặn kinh nghiệm để hiểu được mệnh trời, ấy vậy mà vẫn thấy mình là kẻ “vị thành niên”! Cuộc sống vẫn luôn mênh mông đối với những người hồn nhiên lạc quan, luôn mang trong mình cái “xích tử chi tâm” của Lão ngoan đồng.

Khổng Tử bảo: “Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tòng tâm sở dục, bất du củ” (Ba muơi tuổi thì ý chí đã kiên định, bốn mươi tuổi thì không còn ngờ, năm mươi tuổi thì hiểu mệnh trời, sáu mươi tuổi thì tai thuận, bảy mươi tuổi thì có thể làm theo lòng ham thích mà không còn sợ vượt quá khuôn phép nữa – Luận ngữ - Vi chính II, 4).

Cho nên, “bảy mươi mới bước vào đời”! Lúc này đã có quyền “tòng tâm sở dục, bất du củ” rồi.

Ở cái tuổi “sang chơi láng giềng” thì người hàng xóm lọm khọm là láng giềng đã đành, thậm chí cái chết cũng là kẻ láng giềng. Lúc đó thì làm kẻ “sang chơi láng giềng” theo thể điệu “Être-pour-la-mort” (hữu thể hướng tử) của Heidegger!

Đối với nhà thơ Nguyễn Công Trứ, cái chơi “Tân nương dục vấn tân lang kỷ. Ngũ thập niên tiền nhị thập tam” (tạm dịch: Người đẹp muốn hỏi tuổi ta. Năm mươi năm trước mới hăm ba chứ gì!), ở cái tuổi bảy mươi ba, nghĩa là mới “vào đời” được ba năm, thì dĩ nhiên những đào nương xuân xanh hơ hớ trong tiếng ca và sênh phách luôn là kẻ láng giềng của vị Doanh điền sứ tài ba và “chịu chơi” nhất trong nền văn học Việt Nam này.

Cụ Nguyễn Công Trứ tựa như nhân vật Alexis Zorba của nhà văn Hy Lạp Nikos Kazanzaki, luôn thấy mình ở lứa tuổi đôi mươi, yêu mê đắm, sống say sưa, làm việc hết mình để tận hưởng hết cái thanh sắc của trần gian cho đến lúc xuôi tay nhắm mắt. Cái tố chất “chịu chơi” của Alexis Zorba hoặc của Uy Viễn tướng công dù hiếm, nhưng vẫn còn có thể tìm thấy ở một đôi người, chứ cái tố chất hồn nhiên như đứa trẻ con chơi đùa giữa đời của Châu Bá Thông thì chỉ có có thể tìm thấy trong chính Lão ngoan đồng!

Nếu chọn trong tất cả tác phẩn Kim Dung một nhân vật được mọi tầng lớp độc giả yêu thích, kể cả trẻ con, thì có lẽ đó chính là Châu Bá Thông. Một nhân vật suốt đời chỉ biết chơi đùa, luôn tìm cách trốn tránh mọi trách nhiệm trong đời mà lại được mọi độc giả yêu mến, điều đó mới là lạ lùng.

Người ta nói Lên ba thì cười, lên mười thì mắng, có nghĩa cùng một câu nói, nếu ở miệng đứa bé lên ba nói ra thì thấy ngộ nghĩnh đáng yêu, còn ở miệng đứa bé lên mười thì lại thấy hỗn xược vô lễ. Cái “thực” không đổi khác mà lại sinh ra hai tâm trạng yêu ghét, bởi vì câu nói của đứa bé lên ba hoàn toàn xuất phát từ trạng thái hồn nhiên vô tâm. Mà ở trên đời, những gì xuất phát từ cái tâm hồn nhiên đều dễ dàng tiếp cận và làm cảm động được lòng người một cách đằm thắm sâu xa.

Châu Bá Thông được độc giả yêu mến bởi ông luôn là “đứa bé lên ba” đó.

Sau khi vô tình gây nên mối tình oan nghiệt tại cung điện Đoàn Nam đế, Châu Bá Thông lại suốt đời chạy trốn Anh Cô, không phải vì ông là kẻ bội bạc vô tình, mà chỉ vì không muốn mang trách nhiệm với cõi đời, nghĩa là không có khái niệm “làm người lớn”.

Thân ở trong cõi đời, nhưng tâm lại hoàn toàn không muốn vướng bận lụy phiền của cõi nhân gian.

Con người khi sinh ra là một đứa bé hồn nhiên, rồi lớn lên, vượt qua giai đoạn ấu thơ để vào đời, và từng bước khám phá ra những điều huyền ẩn. Nhưng chính trong quá trính khám phá để “trưởng thành” ấy, con người dần đánh mất tính hồn nhiên mà Thượng đế đã phú bẫm cho từ thuở ban sơ. Cái “xích tử chi tâm” dần bị chai sạn bởi những nghiệt ngã của cuộc sống.

Con người, để tồn tại và để cạnh tranh vượt lên cao hơn người khác bằng mọi thủ đoạn mưu ma chước quỷ, cứ ngày càng xa dần vườn địa đàng của tuổi thơ. Cái tâm hồn nhiên kia bị tập nhiễm quá nhiều điều thô bỉ, đê tiện cùng những thói quen dối trá lọc lừa mà chỉ khi có cơ duyên thoát khỏi những hệ lụy ấy, con người mới có thể sực tỉnh để chợt hiểu ra những trò nhảm nhí mà mình cứ mê mải múa may trên sân khấu đời.

Bộ sách Mạnh Tử gồm mấy vạn lời, suy cho cùng cũng chỉ là nỗ lực giúp con người khôi phục lại cái tâm hồn nhiên đó mà thôi. “Đại nhân giả bất thất kỳ xích tử chi tâm” (Bậc đại nhân không đánh mất đi tấm lòng con trẻ - Mạnh Tử, Ly Lâu hạ). Châu Bá Thông chính là bậc đại nhân “bất thất kỳ xích tử chi tâm” đó.

Hầu hết những cao thủ võ lâm đều xem võ học là phương tiện để thỏa mãn tham vọng bành trướng uy quyền và khoáng trương cái tôi. Chỉ có Châu Bá Thông xem võ học là mục đích tự thân. Thích học võ, vui học võ, say mê học võ. Hễ gặp ai có những tuyệt kỹ lạ lùng, như Dương Qua hay Kim luân Pháp vương là Châu Bá Thông sẵn sàng bái làm sư phụ để xin học. Như một đứa trẻ ham mê đồ chơi lạ.

Và chỉ có cái tâm hồn nhiên của trẻ thơ mới có thể sáng tạo ra những điều kỳ diệu từ những cái tưởng chừng rất đỗi tầm thường.


http://a9.vietbao.vn/images/vn902/2010/5/20911686-images1969726_CBT.jpg

Cậu hoàng tử bé trong tác phẩm Le petit prince của Saint-Exupéry luôn ngạc nhiên trước những trò bận rộn của người lớn. Mà chỉ có những đứa bé hồn nhiên mới thấy hết được cái vẻ trịnh trọng điên đảo của người lớn.

Ông Bùi Giáng có lẽ cũng đã dùng cái tâm trẻ thơ để chuyển ngữ tác phẩm trên thành Hoàng tử bé bằng một ngôn ngữ vô cùng hồn nhiên thơ mộng, khác hẳn những cuốn sách dịch cà rỡn khác của ông.
Châu Bá Thông cũng chính là cậu Hoàng tử bé đáng yêu kia.

Tô Đông Pha hỏi Tạo vật hà như đồng tử hý! (tạo vật sao lại giống như đứa bé chơi đùa đến vậy!). Tạo hóa với đại lực lượng, đại ý chí mà lại biết chơi đùa cũng chỉ vì có cái tâm hồn nhiên của trẻ thơ.
Châu Bá Thông suốt đời chỉ biết chơi đùa chỉ vì cái tâm đó.

Chỉ vì một lời thách thức vớ vẩn mà Châu Bá Thông phải vượt mấy ngàn dặm từ Trung nguyên cho đến vùng hoang mạc xa xôi để tìm một lá cờ, giống như đứa trẻ chơi trò cút bắt, Châu Bá Thông chính là “đồng tử hý” vậy.

Nhờ cái tâm hài nhi ưa đùa bỡn mà Châu Bá Thông không hề thù hận ai, kể cả Hoàng Dược Sư là người đã đánh gãy chân ông và bắt giam ông trên đảo hàng chục năm. Ngồi trong thạch động, không có bạn chơi thì tự mình chơi với mình bằng cách dùng hai tay đánh với nhau. Kết quả là ông sáng tạo ra môn tuyệt kỹ độc đáo nhất võ lâm: “Song thủ hỗ bác”. Hai tay vừa hỗ tương vừa công kích lẫn nhau, tạo thành uy lực vô lượng, như hai đối cực âm và dương cùng vận hành trong vòng tròn thái cực.

Để học được môn võ công kỳ diệu này thì bài học vỡ lòng là phải dùng hai tay để vẽ cùng lúc một vòng tròn và một hình vuông. Mới nghe thì tưởng chừng như đơn giản, nhưng không ai học được. Cái công phu “phân tâm nhị dụng” (chia lòng ra làm hai để ứng dụng vào hai việc khác nhau) đó chỉ có hai người là Quách Tĩnh và Tiểu Long Nữ tiếp thu nổi.

Quách Tĩnh học được là nhờ cái tâm đôn hậu chân chất, Tiểu Long Nữ học được là nhờ cái tâm hư tĩnh như mặt nước hồ thu, không hề vướng bụi trần.

Châu Bá Thông vai vế ngang với Hồng Thất Công, Hoàng Dược Sư lại nài nỉ kết giao tình huynh đệ với Quách Tĩnh, là kẻ lẽ ra phải kêu mình bằng sư thúc tổ. Về sau, ông lại kết giao với Dương Quá, hạng con cháu của Quách Tĩnh nữa.

Chỉ tiếc một điều, có lẽ tại Lão ngoan đồng “kỵ” phái nữ sau “sự cố Anh Cô”, nếu không có lẽ ông đã kết nghĩa huynh với cô bé Quách Tương rồi. Hai tâm hồn khoáng đạt như vậy mà không có cơ duyên để kết nghĩa thì quả là điều uổng phí của trần gian.

Phật giáo chủ trương tất cả chúng sinh đều bình đẳng trước Tam bảo, thì mọi khách giang hồ đều bình đẳng trước cái tâm của Châu Bá Thông.

Cuối cùng thì cuộc trốn chạy Anh Cô cũng phải chấm dứt, cùng với cái chết trong cơn sám hối của Cừu Thiên Nhận. Châu Bá Thông và Anh Cô về sống chung, làm người láng giềng của Đoàn Nam đế. “Tám mươi ta mới sang chơi láng giềng”. Nhưng dẫu cho đến lúc đó, vẫn cho rằng Châu Bá Thông vẫn là kẻ “vị thành niên”.

Mọi người chúng ta ai cũng đã có lần có được cái tâm Châu Bá Thông, rồi lại đánh mất đi. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là dường như không ai muốn tìm lại cái tâm đó, có lẽ sợ bị mang tiếng là “trẻ con”! Chúng ta say sưa xác lập những giá trị, rồi luôn tìm mọi cách để chiếm đoạt những giá trị do chính chúng ta dựng nên, trong cái “thế giới người lớn” đầy những lễ nghi phiền toái cùng những dối trá lọc lừa.

Chính trong tiến trình xây dựng và chiếm đoạt các giá trị đã làm nảy sinh biết bao xung đột, hận thù. Rồi chúng ta lại vắt óc tìm mọi cách hòa giải, cũng bằng kiểu cách khệnh khạng của “người lớn”, mà có khi nào chịu hiểu rằng, chính cái kiểu cách khệnh khạng đó lại là mầm mống đẻ ra thêm các xung đột khác.

Thiên Sơn mộc trong Nam hoa kinh của Trang Tử chép: “Thuyền lớn vượt sông, có con đò nhỏ không người trôi đến chạm vào, thì dù là người có bụng hẹp hòi cũng không giận. Nhưng nếu trên đò có người, tất thuyền lớn sẽ hô hoán lên. Nếu gọi một hai lần mà không nghe ắt sẽ gọi lần thứ ba, rồi buông lời thóa mạ theo ngay. Lúc trước không giận mà bây giờ giận, vì lúc trước là chiếc đó không (hư) mà bây giờ là đó có người (thực). Người ta nếu biết làm mình trở thành chiếc đò không để trôi giữa đời, thì ai mà hại được? (Nhân năng hư kỷ dĩ du thế, kỳ thục năng hại chi?)”.

Châu Bá Thông chính là “con đò không” đó để rong chơi trong cõi giang hồ, đã biết “hư kỷ dĩ du giang hồ”. Cái tâm “hư kỷ” của Châu Bá Thông là cái tâm tự nhiên, vượt trên cả chữ “năng”. Ông không cần tập “năng hư kỷ” mà tự nhiên đã là “hư kỷ’ rồi.

Có người hỏi thiên sư Triệu Châu: “Con chó có Phật tính không?”. Ông đáp “Vô!”. Tâm Châu Bá Thông cũng chính là chữ “Vô” đó.

Cái tâm hài nhi của Châu Bá Thông là điều mà mọi tôn giáo và triết học chân chính đều nỗ lực muốn tìm lại. Hình ảnh ngây thơ của Chúa Hài Đồng hay nụ cười hồn nhiên của đức Phật Di Lặc luôn nhắc nhở ta về cái tâm Châu Bá Thông mà ta vô tình đánh mất.

Và sẽ vô cùng hạnh phúc cho ai, ở những năm tháng cuối đời tìm được cái tâm Châu Bá Thông ngay giây phút cận kề của cõi không hư.


http://img.news.zing.vn/img/103/t103721.jpg

Hansy
11-02-2013, 03:58 PM
9.

LĂNG SƯƠNG HOA
Cái chết của nhành lục cúc


http://datichlau.files.wordpress.com/2011/05/1.jpg?w=604&h=453

Khi sáng tạo nên cái trần gian điên dại và đầy hương sắc này, thì vẻ hùng vĩ của biển rộng núi cao, nét xinh tươi của oanh ca liễu rũ, trăng hoa sương tuyết, tiếng róc rách của sông lạch suối khe… dường như chưa làm hài lòng Hóa công, nên ngài phải sáng tạo thêm người phụ nữ.

Dường như mọi phụ nữ trên cõi đời này hiểu rằng Thượng đế tạo ra họ là để điểm tô thêm cho cái trần gian vốn đã đầy hương sắc, cho nên tự ngàn xưa, đối với họ, giữ gìn sắc đẹp vẫn luôn là điều cực kỳ trọng đại.

Với phụ nữ, nhan sắc lắm khi còn quan trọng hơn cả mạng sống. Nhậm Doanh Doanh khi bị Nhạc Bất Quần dùng lưới bắt tại Hoa Sơn thi nàng hiểu rằng cái chết là điều tất yếu. Vậy mà khi Nhạc Bất Quần muốn hủy hoại nhan sắc nàng thì nàng lại hoảng kinh. Chu Chỉ Nhược khi bị giam cầm tại chùa Vạn An cùng bao nhân vật của Lục đại môn phái, thì chuyện sống chết đã sớm bỏ ngoài lòng, nhưng khi Triệu Mẫn dọa dùng dao rạch mặt thì cô lại xiêu hồn lạc phách. Cả cô nàng Triệu Mẫn bướng bĩnh tinh quái là thế cũng không khỏi đứng tim, khi Thanh dực bức vương Vi Nhất Tiếu cảnh báo sẽ hủy hoại khuôn mặt kiều diễm của cô, nếu như cô đụng tới Chu Chỉ Nhược. Khang Mẫn bị A Tử hành hạ dã man nhưng vẫn còn tỉnh táo để tỏ tình với Kiều Phong, cô nàng không chết vì vết thương trí mạng mà chết vì đau khổ và kinh hãi khi soi thấy khuôn mặt bị tàn phá của mình trong tấm gương đồng.

Chúng ta không thể cay đắng như Hamlet của Shakespeare: “God hath given you a face, and you make yourselves another” (Thượng đế đã ban cho ngươi một gương mặt, và ngươi đã tự biến mình thành một gương mặt khác – Hamlet – Act II, Scene 1, 153-154), bởi lẽ phụ nữ vẫn còn muốn làm đẹp ngay cả khi đi đối diện với Diêm vương!

Chả trách nền công nghiệp mỹ phẩm trên thế giới lại thu được những món tiền khổng lồ từ thói đỏm dáng đáng yêu của phụ nữ.

Giai thoại thiền tông Nhật Bản kể rằng, ni cô Ryonen, sinh 1797, là một người có nhan sắc quyến rũ và thiên tài về thi ca. Năm mười bảy tuổi, bà phục vụ cho hoàng hậu, tương lai rực rỡ đang chờ đón bà như một công nương của triều đình. Bỗng nhiên hoàng hậu qua đời, bà chợt ngộ ra lẽ vô thường của cõi thế, nên xuống tóc đi tu.

Bà đến thành phố Endo, xin làm đệ tử của thiền sư Tetsugyu, nhưng vị thiền sư này từ chối vì bà quá đẹp. Vị thiền sư đó hiểu rằng cái nhan sắc lộng lẫy đó tuy là vật báu của trần gian, nhưng lại không thể phù hợp với chốn thiền môn vốn luôn đạm bạc với cuộc sống nâu sòng. Ắt hẳn nó sẽ gây nên ba đào nơi cửa Phật. Tâm bà tuy không động nhưng sẽ làm lụy đến tâm người. Bà bèn tìm đến thiền sư Hakuo, nhưng vị thiền sư này cũng từ chối vì lý do trên.

Ryonen hiểu rằng chính nhan sắc đẹp đẽ của bà là vật chướng ngại ngăn cản không cho mình đạt được điều tâm nguyện, nên bà bèn dùng lửa nóng hủy hoại hết khuôn mặt xinh đẹp, nhờ đó bà được thiền sư Hakuo nhận làm đệ tử. Và cũng nhờ thế mà bà mới chuyên chú vào việc tu thiền và trở thành một thiền sư nổi tiếng.

Hủy hoại dung mạo để cầu đạo, ni cô Ryonen đã làm một việc còn kỳ diệu hơn cả việc nhị tổ Huệ Khả quỳ giữa trời tuyết, cắt một cánh tay dâng lên sư tổ Đạt Ma để xin truyền tâm ấn. Ni cô Ryonen có lẽ là hiện tượng hiếm hoi và kỳ lạ của thiền môn, bởi lẽ đâu phải người con gái nào đem thân bỏ chốn am mây cũng đều ngộ ra lẽ vô thường của hai chữ “sắc không”. Nhan sắc đó cũng là hư không đấy.

Chỉ có những tâm hồn thiết tha cầu đạo như Ryonen khi ngộ được lẽ “bất trụ sắc sinh tâm, ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” (1) và “nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai” (2) của kinh Kim Cương thì mới có thể thực hiện được điều kỳ diệu đó.

Cái tìm được sẽ lớn hơn hàng vạn lần cái nhan sắc mất đi: đó là thành toàn điều tâm nguyện. Việc xả thân cầu đạo đó dù kỳ lạ nhưng vẫn có thể xảy ra, vì khi tuệ kiếm vung lên thì trần duyên đứt đoạn. Cái thân xác này, khi được quán tưởng đến chỗ rốt ráo, cũng chỉ là cái túi da đựng bao điều dơ bẩn, thì nào sá gì một chút dung nhan?

Nhưng đó là chuyện chốn thiền môn, còn ở trần gian đầy sai biệt này thì con người vẫn cứ vĩnh viễn đội mũ triều thiên lên nhan sắc. Vì nếu không thế thì cuộc đời ắt sẽ u ám và buồn tẻ lắm biết ngần nào!

Vậy mà vẫn có một người con gái dám hủy hoại dung nhan kiều diễm của mình để giữ tròn sự thủy chung với người chỉ một lần gặp gỡ: Đó là Lăng Sương Hoa trong Liên thành quyết.

Đinh Điển là người mê hoa. Tình cờ trong một buổi dạo chơi hội hoa cúc, Đinh Điển gặp được đệ nhất mỹ nhân vùng là Lăng Sương Hoa, tiều thư của quan tri phủ Lăng Thoái Tư. Sự đồng cảm trong những giò lục cúc đã đem hai người lại gần nhau. Tình yêu âm thầm nảy nở giữa kẻ lang bạt giang hồ với một tiểu thư khuê các. Những cánh hoa tươi thắm và ngát hương đã chứng kiến cho mối tình của họ và làm băng nhân cho những lần gặp gỡ. “Tôi cùng em mơ những chốn nào. Ước nguyền chung giấc mộng trăng sao. Sánh vai một mái lầu phong nguyệt. Hoa bướm vì em nghiêng cánh trao” (Đinh Hùng – Phạm Đình Chương).

Lăng Thoái Tư là một người văn võ song toàn, y là một long đầu trong Long sa bang, lại thi đổ tiến sỹ, làm Hàn Lâm học sỹ. Y nuôi tham vọng tìm được kho tàng của Lương Nguyên đế và luyện được Thần Chiếu công. Biết được Đinh Điển đang giữ Liên thành quyết – bộ giải mã những bí ẩn về chỗ cất giấu kho tàng – và bí cấp Thần Chiếu công, nên Lăng Thoái Tư lập mưu chiếm đoạt. Y vờ cho Lăng Sương Hoa mời Đinh Điền đến để bàn chuyện tác hợp lương duyên. Rồi dùng hoa độc tẩm thuốc mê để bắt Đinh Điển.

Sống trong cảnh tra tấn dã man chốn lao tù, với xương tỳ bà đã bị xuyên thủng, nhưng Đinh Điển vẫn tìm thấy nguồn an ủi. Hằng ngày, anh ta từ cửa sở nhà tù nhìn lên mái lầu xa, vẫn luôn thấy được những chậu hoa đặt nơi cửa sổ của phòng Lăng Sương Hoa, như một biểu tượng của tình yêu.

Cảnh đưa tin của Đinh Điền và Lăng Sương Hoa giống như anh chàng Hời trong truyện Tô Hoài. Một người ngồi dệt vải, khi nghe mùi hương thoang thoảng lan trong cảnh đêm thanh tĩnh của cành hoa lài ném qua cửa sổ, là biết đã đến giờ hẹn với người yêu.


http://remote1.noi.vn/Uploads/ImgUpload/love_love_love/182c31c8-e9de-46c7-9c48-058673d46b1c.jpg

Lăng Sương Hoa sợ cha nàng ép duyên nên nàng quyết định hủy hoại dung nhan để không còn ai muốn cưới mình nữa. Chỉ có vậy nàng mới giữ trọn tình yêu son sắt với Đinh Điển. Một quyết định làm người đọc tê buốt tâm can, vì điều đó ngẫm ra còn kinh khủng hơn tự vẫn. Chỉ có một sự hòa điệu của cung bậc tri âm trong tình yêu chân chính mới có thể giúp người con gái xinh đẹp làm một điều mà ngay cả Thượng Đế cũng phải bàng hoàng. Nàng không muốn xuất hiện với khuôn mặt xấu xí, mà để những chậu hoa thay mặt cho mình ngỏ những lời yêu.

Hoa thay dáng người. Hoa còn là người còn, và tình yêu vẫn ngát xanh màu lục cúc. Gặp nhau và yêu nhau nhờ những cành hoa, truyền tin cho nhau cũng nhờ những cành hoa. Mối tình thơ mộng đó bị vĩnh viễn cách ngăn vì lòng tham ngu xuẩn của người cha. Mà tự cổ chí kim, có kẻ nào bị lòng tham chi phối mà lại không trở nên ngu xuẩn, và do đó dễ trở nên tàn bạo?

Khi Lăng Sương Hoa qua đời trong u sầu đau khổ, Lăng Thoại Tư còn âm hiểm rắc thuốc độc lên quan tài để đánh lừa Đinh Điển. Kẻ si tình đến ôm quan tài và trúng ngay chất độc của hoa Kim Ba Tuần. Nhưng Lăng Thoại Tư đã làm một điều thừa. Làm sao Đinh Điển có thể sống được nữa khi Lăng Sương Hoa đã vì mình mà qua đời trong sầu hận? Địch Vân hợp táng nắm tro tàn của Đinh Điển với Lăng Sương Hoa, và trồng hoa thật nhiều quanh mộ để đôi tình nhân được yên nghỉ giữa ngàn hoa.

Trong vở kịch Hamlet, khi hoàng hậu Gertrude rắc hoa lên nấm mộ của Ophelia đã nói những lời tha thiết, mà ta muốn dùng để khắc lên nấm mộ Sương Hoa. “Sweets to the sweet! Farewell!” (Những nhánh hoa dịu dàng xin gởi đến một cành hoa đằm thắm. Xin vĩnh biệt) (Shakespeare – Hamlet, Act V, Scene I, 239).

Chinh phục được trái tim của người mình yêu, chịu chấp nhận thiệt thòi để tìm thấy hạnh phúc. Điều đó dễ. Khi biết rằng trái tim người mình yêu đã vĩnh viễn thuộc về kẻ khác nên biến sự thất vọng thành hận thù, đem tang tóc gieo rắc khắp thiên hạ để trút nỗi hờn căm, như Lý Mạc Sầu hay Mai Phương Cô, điều đó tuy có quá quắt nhưng vẫn là chuyện thường tình.

Biết rằng người mình yêu đã tìm thấy hạnh phúc nơi người khác, nên chấp nhận hy sinh tình yêu và, trong nổi cô đơn đau đớn, cứ mãi âm thầm cầu nguyện cho họ được hạnh phúc bằng tất cả trái tim, như Nghi Lâm, điều đó khó.

Nhưng trong tình yêu đam mê vô vọng lại dám chấp nhận chết thay cho người mình yêu để họ được hạnh phúc với người khác, như Trình Linh Tố và Công Tôn Lục ngạn, điểu đó cực khó.

Nhưng càng khó hơn nữa khi một người con gái xinh đẹp dám hủy hoại dung nhan để giữ trọn chữ thủy chung. Sự hy sinh kỳ diệu đó chỉ xảy ra với những người phụ nữ dịu hiền có trái tim nhân hậu bao dung.

Tình yêu thuần khiết được nâng lên tầm một tôn giáo, và kẻ si tình như một kẻ hành hương tìm về tuyệt đích, trong hình ảnh của người thương. Du Thản Chi là kẻ si tình vĩ đại nhưng mối tình cuồng si dữ dội đó vẫn cứ quằn quại đớn đau trong nỗ lực chiếm hữu đầy tuyệt vọng. Nó thiếu đi một chút thanh thản của một tín đồ đã “giác ngộ”.

Tình yêu của Lăng Sương Hoa sẽ mãi mãi thắp sáng lên trong tâm thức nhân gian những ánh lửa nhiệm mầu, mà chúng ta đôi lần thấy thấp thoáng trong Gitanjali của Tagore. Và trong ánh lửa đó vẫn hoài ánh lên màu thắm tươi của một nhành lục cúc.
_______

(1) Thân không trụ vào hình sắc mà sinh khởi; không nên trụ vào đâu cả để sinh khởi tâm.
(2) Nếu thấy được các hình tướng đều là phi hình tướng, ấy chính là thấy được Như Lai.


http://cdn.sgame.com.vn/4uy/jwp/794137040_775137040_1370405312_dc78cf33ef4200fb9c4 d69a0bf0b0eda.jpg

Hansy
12-02-2013, 03:01 AM
10.

HOÀI CẢM A CHÂU


http://ladybjrd.files.wordpress.com/2010/08/ldhn3.jpg

Tại rừng hạnh, lần đầu sơ ngộ, khâm phục bản lĩnh chàng, vị anh hùng đỉnh thiên lập địa, chọc trời khuấy nước. Chùa Thiếu Thất, thêm một lần thọ ơn cứu mạng. Tụ Hiền Trang, cảm kích chàng không ngại xả thân bảo vệ cho một thiếu nữ không thân thích đã gần đất xa trời, đau xót thay con mãnh long từng được võ lâm kính phục trong chớp mắt đã thành kẻ thù số một của thiên hạ quần hùng. Nhạn môn quan, trùng phùng Tiêu Phong, bao nhiêu tình cảm biến thành tình yêu sâu sắc tự bao giờ. A Châu nguyện đem cả sinh mạng và cuộc đời đặt vào bàn tay Tiêu Phong, bàn tay của hán tử cả thiên hạ quay lưng, bị xem là Liêu cẩu, đổ vấy bao tội lỗi tày đình.

Nếu trần gian ai cũng biết ai
ai còn phải vì ai mà cảm khái.
(Tản Đà)

Giữa dương trần đâu dễ kiếm kẻ tri âm, khúc Dương Xuân Bạch Tuyết đâu phải ai cũng có thể họa cùng? Làm bang chủ Cái bang kiêu hùng, chỉ biết đến rượu và võ công, hay tên tội đồ bị cả võ lâm truy đuổi thì có ý nghĩa gì khi Tiêu Phong tìm được A Châu. Người anh hùng cuối cùng đã có một tri kỷ hồng nhan, cuộc đời này còn chi hối hận?

Hãy cùng vẽ nên bức tranh đời yên ả, phi ngựa như bay trên thảo nguyên bao la, vứt bỏ lại sau lưng ân oán tình thù, gió tanh mưa máu giang hồ, chỉ có bấy cừu, đàn dê, tiếng sáo du mục dìu dặt hòa cùng giọng cười vui vẻ, vô lo.

Tiếc rằng hạnh phúc vĩnh viễn chỉ lung linh và mong manh như chiếc bình pha lê đặt trên thành bậu cửa sổ. Dù người ta cố gắng trân trọng nâng niu, chỉ một cơn gió cố tình thổi qua, chiếc bình sẽ vỡ tan thành trăm nghìn mảnh.

Một đứa bé mồ côi chưa hề biết đến vòng tay mẹ, một thiên kim tiểu thư giòng dõi vương giả phải làm nữ tì Mộ Dung gia đến khi trùng phùng phụ mẫu, A Châu lại rơi vào nghịch cảnh éo le: phụ thân là kẻ thù không đội chung trời với người yêu!

Tuy chưa một ngày dưỡng dục nhưng công ơn sinh thành chưa lúc nào đến đáp? Mong ước trả thù lại là khát vọng nung nấu của người yêu, sao đành cản ngăn? Chỉ còn cách hy sinh tấm thân này, chỉ còn xem cảnh đuổi ngựa chăn dê, cuộc sống vô tư lự kia mãi mãi là mộng tưởng. Hiếu và tình đã bức người kiều nữ đến bước đường cùng.

Lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng A Châu báo hiếu, người con gái dịu hiền kia thay cha nhận lấy cái chết oan uổng trên tay Tiêu Phong. A Châu ra đi, mưa phủ nhòa nhân thế, cả bầu trời cùng vương hương ly biệt. Hỡi ơi, “Ai thương tử biệt, ai sầu sinh ly” (Tản Đà). Đến phút cuối cuộc đời, điều duy nhất nàng lo lắng chỉ là sợ Tiêu Phong quạnh quẽ cô đơn. Đáng trân trọng cho tấm lòng kiều nữ!

Màn sương mù mà Mã phu nhân trong cơn ghen tuông mù quáng cố tình giăng ra đẩy Tiêu Phong vào hiểu lầm oan nghiệt đã tan đi, hé mở một sự thật đau đớn, trần trụi cùng thi thể lạnh giá của A Châu, khóe mắt nàng hãy còn vương vấn ân tình.

Tiêu Phong và chúng ta chỉ biết ngậm ngùi thốt lên hai chữ “Giá như…”

Cái chết của A Châu nhẹ như lông hồng nhưng nỗi đau, niềm ân hận của Tiêu Phong lại nặng tựa Thái Sơn. Nàng để lại ông cùng trái tim tan nát và cõi lòng chết lặng. Mối ân tình sâu nặng của nàng biết lấy gì đền đáp? “Ơn em, hôm sớm ngậm ngùi. Kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau. Tạ ơn em, tạ ơn em…”

Tiểu Kính hồ, mai táng A Châu, chôn theo cả trái tim mình, Tiêu Phong bắt đầu những chuỗi ngày đày đọa, tiếp tục sống vì câu hỏi lớn về thân thế vẫn treo lơ lủng trên đầu, vì một lời hứa chăm sóc cô em vợ tai quái A Tử?

Bạn vẫn thường bắt gặp những chiếc lá hãy còn xanh mà đành rơi rụng. Và ngày mai sẽ có những lá khác sẽ mọc lên thay thế. Nhưng chỉ có cây mới hiểu chiếc lá mới, dù xanh đấy, dù đầy nhựa sống đấy, nhưng vĩnh viễn không phải là chiếc lá ngày xưa. Cũng giống như con người, có bao người đi ngang qua cuộc đời ta, dù chỉ là thoáng chốc nhưng vết thương họ để lại trong lòng thì khôn nguôi, chẳng bao giờ khỏi. Dù cho A Tử có cố gắng đến đâu, có si tình đến mấy nhưng nàng vĩnh viễn không thể thay thế A Châu.

Lòng cuồng điên vì nhớ
Ôi đâu người, đâu ân tình cũ
Chờ hoài nhau trong mơ
Nhưng có bao giờ thấy nhau lần nữa
(Hoài cảm – Cung Tiến)

Trái tim Tiêu Phong rộng lớn để cùng đau với thiên hạ bách tính nhưng cũng nhỏ bé chỉ đủ ấp ủ một bóng hình đến suốt đời. Lời bài hát cũng thê thiết như tâm sự Tiêu Phong. Đâu rồi mối tình khắc cốt ghi tâm, có bao lâu còn được nhìn thấy nụ cười nàng tươi hơn nắng sớm, ánh mắt nàng đằm thắm như sương mai?

Tất cả còn lại chỉ là những mảnh vụn ký ức đẹp đẽ mà Tiêu Phong trân trọng giữ gìn.

Tiết Thanh minh, Thôi Hộ quay lại nơi xưa, vẫn hoa đào tươi thắm cười trong gió xuân nhưng còn đâu đôi má hồng ngày trước?

Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong
(Đề tích sở kiến xứ - Thôi Hộ)

Bánh xe rồng lăn đến kinh thành. Ao cũ vườn xưa, Đường Minh Hoàng chỉ còn biết ngậm ngùi rơi lệ cho nàng phi tử mặt ngọc đẹp hơn phù dung, mày ngài tươi hơn dương liễu.

Quy lai trì uyển giai y cựu
Thái Dịch phù dung, Vị Ưởng mi
Phù dung như diện, liễu như mi
Đối thử như hà bất lệ thùy?
(Trường hận ca – Bạch Cư Dị)

Lưu Nguyễn trở lại non tiên, mây trôi nước chảy như ngày xưa nhưng đã mất rồi sinh khí, bóng hình tiên nữ vĩnh viễn tan biến vào hư vô, không còn được thấy dù chỉ trong khoảnh khắc mơ hồ.

Đào hoa lưu thủy y nhiên tại
Bất kiến đang thời khuyến tửu nhân
(Tái đáo Thiên Thai – Tào Đường)

Tâm trạng của con người trong nỗi sầu tương tư thì ngàn năm vẫn tha thiết như nhau.

Tiêu Phong dừng trước Nhạn Môn quan mà xót xa tưởng nhớ lời hẹn ước xưa. Tiếng sáo Nhạn Môn vẫn vang lên réo rắt như ngày trước mà sao nghe đầy đau thương tiếc nuối, “thiết tha ngân lên lời xưa”. Vẫn cảnh đuổi ngựa chăn dê yên bình nhưng thiếu mất bóng dáng của ai kia. Cảnh bình yên đến đâu cũng chỉ là trống rỗng? Cảnh vật vẫn đây mà người xưa đâu tá? Lối xưa cỏ cây tàn úa, đường phủ rêu xanh đợi chờ vô vọng bước chân ai?

Anh chầm chậm nghe tất cả buổi chiều
Vào chầm chậm ở trong hồn hiu quạnh
(Xuân Diệu)


http://files.myopera.com/sieunhanbo87/blog/normal_pic100-1.jpg

Tiêu Phong phải tiếp tục sống với linh hồn bị đầy đến tận cùng sự quạnh quẽ, cô đơn. Người xưa đã ra đi biền biệt, chỉ còn ta trơ trọi, giữa mênh mông đất trời. Từng khoảnh khắc thời gian chậm chậm héo tàn, thấm vào lòng người, gợi lên mối sầu thê lương, bi thiết. Năm tháng trôi qua, kỷ niệm ùa về giết chết hồn người. Nỗi niềm thương nhớ chỉ còn biết chôn chặt nơi đáy tim và âm thầm mang xuống tuyền đài mà thôi.

Thời gian tựa cánh chim bay
qua dần những tháng cùng ngày
Còn đâu mùa cũ êm vui
Nhớ thương biết bao giờ nguôi?
(Hoài cảm – Cung Tiên)

Người anh hùng lại mang nặng vào mình món nợ công danh, nễ mặt nghĩa huynh mà lên ngôi đại vương Nam Viện. Chén rượu Tiêu Phong lại tiếp tục uống, nhưng rượu hôm nay cũng đâu phải rượu ngày xưa, bởi ta cũng đâu còn con người ngày trước. Chén rượu ngày xưa nâng lên giữa bao bằng hữu, hào khí ngất trời, còn giờ đây lắng đọng lại sau mỗi giọt rượu cay chỉ là nỗi sầu đắng khôn nguôi? Sầu lại cánh sầu. Tự cổ chí kim “Nhi nữ tình trường, anh hùng khí đoản”.

Éo le thay, Nguyệt lão se chi sợi tơ oan nghiệt cột chặt A Tử vào mối tình tuyệt vọng với tỷ phu. Một cô bé xem mạng người như cỏ rác lại có thể yêu đắm say đến hy sinh bản thân, đến quay lưng với kẻ si mê cô ngây ngốc Du Thản Chi.

A Tử vô tình với Du Thản Chi, Tiêu Phong hờ hững mối tình A Tử. Vòng tròn tình yêu oan nghiệt lắm thay?

Tình yêu A Tử đã đưa Tiêu Phong vào tuyệt lộ. Trách nàng chăng hay phải trách tình yêu khiến con người mù quáng mà vô tình tổn hại người yêu? Nhưng chính những sai lầm của A Tử đã mang lại cho Tiêu Phong những giây phút đồng đạo, trùng phùng hai nghĩa đệ dù tất cả đã muộn màng.

Hai tiếng “bang chủ” giờ nghe sao quá nghẹn ngào, cay đắng. Hân hoan trong chớp mắt rồi lại đau đớn nghĩ đến sinh linh hai nước sắp máu chảy đầu rơi, vui mừng trong khoảnh khắc để trở lại với thực tại quần hùng đang bị vây khổn tại Nhạn Môn quan.

Lại là ải Nhạn Môn, tại đây mẫu thân Tiêu Phong vùi thân nơi vực thẳm, khơi lên mối thù khôn nguôi trong lòng Tiêu Viễn Sơn, để khi ông tìm thấy sự thanh thản chốn Phật môn, con trai ông phải tiếp tục vẫy vùng tuyệt vọng trong vòng tục lụy trần gian.

Hình ảnh A Châu lại trở về, để người anh hùng đau đớn ngẩn ngơ “Hỏi trời xanh có chăng định mệnh khiến đời tôi sao mãi lênh đênh?”. Ngày xưa, A Châu không còn cách nào khác khi đứng giữa Tình và Hiếu, hôm nay Tiêu Phong phải đứng trước lòng trung quân ái quốc, tình bằng hữu và cả thiên hạ sinh linh.

Đất Tống dù có bao ký ức đau thương nhưng chứa đầy tình cố cựu, là tình cảm yêu thương của nghĩa phụ nghĩa mẫu, là tình sư phụ truyền dạy võ công, nhân nghĩa trí tín, là tình bằng hữu, huynh đệ cùng vào sinh ra tử, là tình yêu sâu đậm duy nhất trong đời. Nước Liêu là Tổ quốc đích thực, là cội nguồn, là quê hương.

Một bên là công dưỡng dục, một bên là ơn sinh thành.

Giúp Tống, tiếng bất trung lưu đến muôn đời. Giúp Liêu, sao đành quay lưng với bao huynh đệ vì mình mà sẵn sàng hy sinh?

Để trọn vẹn đành tuẫn tiết. Dùng mũi tên để cứu lấy bách tính thiên hạ và giải thoát cho linh hồn bởi trái tim Tiêu Phong thực sự chết cùng A Châu.

Chiều tà phủ xuống Nhạn Môn quan, nhuốm màu máu lửa. Vẫn chưa đủ thảm thiết hay sao, bày thêm chi cảnh A Tử móc mắt trả lại Du Thản Chi rồi ôm Tiêu Phong nhảy xuống vực sâu muôn trượng? Không có được trái tim tỷ phu, ôm lấy xác chết Tiêu Phong trong tay, A Tử tìm được chút dư hương hạnh phúc úa tàn. Còn gì thê lương hơn cái chết của A Tử, còn gì tuyệt vọng hơn cảnh Du Thản Chi gào thét tên người yêu giữa Nhạn Môn? Cố chấp lắm vậy người ơi?

Xin lại dùng lời bài hát “Hoài cảm” để kết thúc đoản thiên này. Hoài cảm A Châu, Tiêu Phong suốt đời đợi chờ cố nhân nhưng tất cả xin hẹn kiếp sau.

Chờ nhau hoài cố nhân ơi
Sương buồn che kín nguồn đời
Hẹn nhau một kiếp xa xôi
Nhớ nhau muôn đời mà thôi
(Hoài cảm – Cung Tiến)

Vài năm hay vài trăm năm nữa, có lẽ cảnh Nhạn Môn vẫn nguyên vẹn như xưa. Tiếng sáo du mục vẫn ngân lên réo rắt giữa đàn gia súc hiền lành. Từng đàn hồng nhạn nam di vội vã vượt quan ải. Nước chảy mây trôi, tất cả đều không biết đến đôi tình nhân khổ mệnh mà cuộc sống bình dị nhất nơi Nhạn Môn quan chỉ là ký ức xa mờ…

Lệ sầu vương mắt ai…


http://files.myopera.com/BaoTranart/blog/Kieu%20Phong%20-%20A%20Chau.jpg

Hansy
13-02-2013, 05:01 AM
11.

QUÁCH TƯƠNG
Tiểu Muội


http://farm2.static.flickr.com/1436/1251759855_d3b98ede08_o.jpg

Không hiểu sao những nhân vật như Hoàng Dung và Triệu Mẫn lại hoàn toàn không để lại trong tôi một ấn tượng sâu sắc nào, dù có thể họ đã làm say mê nhiều thế hệ độc giả. Đôi phen muốn cầm bút viết về Hoàng Dung, theo lời đề nghị của bạn bè, nhưng không tài nào viết nổi.

Dường như luôn có một cái gì đó đè lên ngọn bút khiến cho cảm hứng cạn nguồn ngay từ dòng chữ đầu tiên. Người phụ nữ xinh đẹp dĩ nhiên là vưu vật của tạo hóa, nhưng một người phụ nữ vừa tài hoa vừa xinh đẹp, lại vừa thủ đoạn và mưu mẹo tinh quái, như Hoàng Dung và Triệu Mẫn, thì họ không còn là vưu vật nữa mà chỉ là sự sai lầm của hóa công!

Người Tây thường bảo “Do not to be too smart!” (Đừng có tinh ranh quá!).

Người phụ nữ đã xinh đẹp lại tinh ranh quá sẽ là hiểm họa. Họ hưởng quá nhiều từ hóa công, và khi họ đem những quà tặng quá đỗi hào phóng đó của hóa công để làm thành lợi khí trong những mưu mẹo thủ đoạn nhằm thủ lợi cho mình, thì điều đó chắc chắn sẽ bào mòn đi lòng vị tha đẹp đẽ của phụ nữ. Tâm hồn họ sẽ trở nên khô cằn và đầy nghi kỵ.

Hoàng Dung luôn ngờ vực và đề phòng Dương Quá, cho rằngchàng ta là một tên xảo quyệt nguy hiểm như Dương Khang. Chỉ đến ngày sinh nhật của Quách Tương thì người đàn bà tài sắc vẹn toàn, quá đổi vẹn toàn này, mới nhận ra được một điều mà cái tâm đôn hậu của Quách Tĩnh đã cảm nhận từ lâu. Cái đầu đầy thông minh của sự lý tính như Hoàng Dung sẽ khó lòng tiếp cận và cảm nhân được cái đẹp thuần nhiên trong tâm hồn.

Có lẽ Kim Dung đã giúp hóa công sửa lại sai lầm khi để Hoàng Dung sinh ra hai chị em Quách Phù và Quách Tương.

Giai thoại văn học Anh kể rằng, có một phụ nữ xinh đẹp đến gặp văn hào G. Bernard Shaw và đế nghị muốn được có với ông một đứa con, với lý do: “Đứa bé sẽ tuyệt với biết ngần nào nếu như nó có khuôn mặt của em và bộ óc của anh”. Nhà văn hài hước nổi tiếng thế giới này đã từ chối bằng câu trả lời hóm hĩnh: “Tôi lại e rằng cuộc đời nó sẽ là bi kịch nếu như nó mang khuôn mặt của tôi và bộ óc của cô!”.

Sản phẩm nhà văn muốn nói đến, qua câu chuyện hài hước trên, như là một biểu tượng di truyền những mặt hạn chế của cha mẹ, lại có thực trong tác phẩm của Kim Dung, qua nhân vật Quách Phù. Đã có bài viết về Quách Phù, nhưng dường như chưa có ai viết về Quách Tương, trong khi chính cô bé này mới là nhân vật nữ sảng khoái đệ nhất võ lâm.

Sống ở đời chỉ để lai rai khoái hoạt thì trong các nhân vật chính của Kim Dung, nam có lẽ chỉ có mỗi một Lệnh Hồ Xung, và nữ chỉ có mỗi một Quách Tương. Trong khi Quách Phù quá đỗi phù phiếm hời hợt, giống như một “con gà công nghiệp” đúng với cái tên “Phù”, thì Quách Tương lại hào sảng đáng yêu biết bao.

Có lẽ khi vừa lọt lòng, cô bé “Tiểu đông tà” này đã phải gặp nhiều cảnh hung hiểm lỳ lạ, bị nữ ma đầu Lý Mạc Sầu bắt đi, được Dương Quá cứu thoát, lại phải uống sữa beo để sống nên tính tình mười phần cổ quái, khác hẳn cô chị nhạt nhẽo, vừa ngu đần vừa đỏng đảnh.

Cảnh ba chị em Quách Phù, Quách Tương và Quách Phá Lỗ ghé vào quán rượu ven đường đã làm nổi bật nét tương phản sâu sắc giữa hai chị em. Trong khi cô chị Quách Phù luôn muốn giữ phong cách lạnh lùng khinh khỉnh của một “đại gia chi nữ” giữa đám “phàm phu tục tử” trong một quán rượu bình dân thì cô em Quách Tương lại hào sảng cởi cành thoa ngọc đem cầm cho chủ quán để đãi tất cả thực khách xa lạ uống rượu giữa trời tuyết đổ.

Thử tưởng tượng khi đang rong ruỗi giữa một buổi chiều đông lạnh giá, bạn ghé vào một quán nhỏ bên đường để uống vài ly rượu cho ấm bụng, mà chỉ dám uống dè chừng vì túi tiền không cho phép. Bỗng dưng trong đám thực khách có một cô bé xinh đẹp đứng lên cầm cành thoa đưa cho chủ quán đổi thành rượu để đãi bạn cùng mọi người có mặt, xin mọi người hãy uống thoải mái để cùng vui, và xua đi cái giá buốt của chiều đông! Thử hỏi có gì trên đời thống khoái hơn thế, và có ly rượu nào ngon hơn, ấm lòng hơn?

Chỉ một chi tiết đó đã quá đủ xứng đáng để mọi anh hùng hào kiệt lẫn bọn tửu đồ trong thiên hạ nối đuôi nhau tới xin kết giao với cô bé Quách Tương!

Khi bình tác phẩm Tây sương ký của Vương Thục Phủ, Kim Thánh Thán nêu ra 33 điều thống khoái trong đời, trong có điều thứ hai rất cảm động mà mọi người vợ trên đời nên “khắc cốt minh tâm”(!):

“Người bạn xa mười năm, thình lình đến chiều hôm. Mở cửa chào nhau xong, chẳng kịp hỏi đi thuyền hay đi bộ, cũng chẳng kịp mời ngồi ghế hay ngồi giường!...
Hàn huyên qua loa, liền chạy mau vào nhà trong, sẻ hỏi mẹ đĩ: “Mình có được như bà Đông Pha, sẵn có rượu để dành không?”. Mẹ đĩ tươi cười, rút cành trâm vàng đưa cho…
Tính ra có thể thiết khách được ba ngày…
Chẳng sướng lắm sao?”
(Mái Tây, Nhượng Tống dịch, NXB Tân Việt, 1960, tr.313).

Đó quả là một điều thống khoái trên đời cho những đức ông chồng có tính quảng giao và là niềm tự hào của những bà vợ hiền suốt kim cổ đông tây!

Đem cành trâm vàng trên đầu đưa cho chồng đem bán để đãi bạn, điều đó dù cực kỳ tuyệt diệu và cực khó đối với phụ nữ trênđời, nhưng dù sao cũng còn chút giới hạn. Đó là đãi bạn. Mà lại là bạn cố tri mười năm gặp gỡ.

Đằng này cô bé Quách Tương lại đem cành thoa cực quý đổi rượu để đãi những người không hề quen biết chỉ để vui, và để truyền cái vui đó đến người khác trong quán rượu, thì cái tâm đó e còn vượt quá cái tâm chiều chồng của vị hiền thê kia nữa.


http://farm4.static.flickr.com/3078/2638108373_784c2ca949.jpg

Nhà văn Mai Thảo kể rằng, có lần gặp Bùi Giáng đi lang thang qua tòa soạn, bèn kéo nhà thơ này vào và xin bài thơ để kịp in số đặc biệt về ông. Họ Bùi bèn xin một chai bia rồi ngồi làm một mạch mấy chục bài thơ ngay tại chỗ, mà bài nào cũng là tuyệt bút. Trước sự kinh ngạc của nhà văn Mai Thảo, Bùi Giáng chỉ mĩm cười: “Vui thôi mà!” rồi mang khăn gói tiếp tục lang thang

Đó cũng chính là cái “Vui thôi mà!” của cô bé Quách Tương trong quán rượu. Một người dùng thơ giữa đời, một người dùng cành thoa ngọc trong truyện, những việc làm ngẫu hứng đó có chỗ giống như cái tâm “vô công dụng hạnh” của Phật giáo.

Làm mọi việc với cái tâm rỗng không, Tâm vô sở trụ. Vui thôi mà!

Lễ sinh nhật của cô bé Quách Tương có lẽ là cảnh tượng lạ lùng và hứng thú nhất trong bộ Thần điêu hiệp lữ. Trong khi bên ngoài đại hội quần hào đang diễn ra sôi nổi thì trong căn phòng nhỏ của mình, một cô bé mười mấy tuổi đầu lại ngồi uống rượu, cười nói đắc chí với biết bao kỳ nhân dị sỹ ẩn cư trên chốn giang hồ.

Cảnh tượng đó khiến Hoàng Dung ngẩn cả người nhưng lại khiến người đọc cực kỳ thống khoái, chỉ muốn xin ngồi vào bàn để nâng chén mừng ngày sinh nhật cô Quách Tương tiểu muội.

Đành rằng những người này theo lời mời của Dương Quá mà đến mừng sinh nhật cô, nhưng thử hỏi người tay quái kiệt chọc trời khuấy nước như Tuyệt hộ thủ Thánh nhân sư thái hay Chuyển luân vương Trương Nhất Manh làm gì có thể ngồi uống rượu vui vẻ với một cô nhóc theo thể điệu “bình bối luận giao”, nếu như họ gặp một cô nương phù phiếm và nhạt nhẽo kiểu Quách Phù?

Phàm đạo kết giao trong thiên hạ, gặp nhau lần đầu, chỉ cần nửa câu nói hay một ngụm rượu thôi cũng đủ để xác định người đó đáng là bạn hay không.

Mà là bạn để uống rượu lại càng khó. Đã uống rượu là phải nói chuyện. Tửu nhập ngôn xuất mà. Trong những cuộc gặp gỡ lần đầu đó, nếu có rượu ngon thì dĩ nhiên là điều thống khoái, nhưng khi câu chuyện đã thực sự vui thì rượu có nhạt một chút cũng không sao, niềm vui sẽ truyền hơi ấm để làm chén rượu nhạt thêm nồng.

Chỉ có người nhạt mới khiến cho rượu và câu chuyện nhạt theo. Mà uống rượu với người nhạt thì chán lắm. Lúc đó thì mọi loại rượu thượng hảo hạng trong thiên hạ có uống vào cũng đều nhạt hơn rượu gạo nước ba!

Chỉ trong quan hệ làm ăn giữa xã hội, con người mới chấp nhận uống rượu cùng người nhạt (mà những kẻ đã mê tiền thì phải là người nhạt!), để tìm mọi cách moi được số tiền không nhạt đằng sau con người nhạt, chứ những tay quái kiệt giang hồ, có cần gì đến bọn tục sỹ kia!

Trong bài “Tây Thi: từ Lý Bạch đền Kim Dung”, có nói rằng, trong tác phẩm Việt nữ kiếm, Kim Dung đã nối tiếp cung bậc Ô thê khúc của Lý Bạch để cực tả dung nhan tuyệt thế của Tây Thi bằng sự sững sờ của cô bé chăn dê A Thanh, chứ không tả trực tiếp sắc đẹp của người con gái đất Việt. Trong Thần điêu hiệp lữ, Kim Dung cũng dùng bút pháp đó để cực tả tính cách hào sảng đáng yêu của cô bé Quách Tương, bằng cách tả Hoàng Dung đứng lén nhìn cô con gái mới mười mấy tuổi đầu của mình uống rượu cực kỳ hàohứng cùng các nhân vật quái dị trong võ lâm mới gặp lần đầu tiên trong ngày sinh nhật. Vui thôi mà!

Sau những tháng ngày phiêu bạt giang hồ tìm Dương Quá trong vô vọng, Quách Tương xuống tóc đi tu để sáng lập nên phái Nga My. Điều đó quả là một thiệt thòi quá lớn cho bọn hào sỹ võ lâm, nhưng cũng là lẽ tất nhiên, bởi thử hỏi trong đám mày râu, có ai xứng đáng với cô gái đáng yêu đó? Trừ nhân vật Dương Quá mà cô thầm yêu thì trong cõi giang hồ họa chăng chỉ có Lệnh Hồ Xung!

Đọc xong Thần điêu hiệp lữ, chúng ta chỉ muốn dẫn Quách Tương đến gặp Kim Thánh Thán, để xin nhà phê bình hãn hữu cổ kim này thêm vào lời bạn của ông điều thống khoái thứ 34:

“Có được một tiểu muội như Quách Tương để cùng nhau rong chơi và “Lai rai chén rượu giang hồ”, chẳng cũng sướng sao?”.


http://binhdinhffc.com/diendan/download/file.php?id=690

Hansy
13-02-2013, 11:39 PM
12.

HOÀNG DƯỢC SƯ
Một cõi trời riêng


http://files.myopera.com/PTVDblog/blog/228332620011206204124ll4.jpg

Chính tà nguồn cội là đâu?
Độc tôn duy ngã chốn Đào Hoa chơi
Mênh mông tiếng sáo trùng khơi.

Cây dừa và cây thông là hai loại cây mà ai cũng biết. Cây dừa bình dị và dân dả quá, còn cây thông thì tự ngàn xưa đã được đưa vào văn học như là biểu tượng của người quân tử. Nhiều khi ngắm chúng, lại liên tưởng đến hai hình ảnh trái ngược nhau trong cuộc đời.

Cây dừa ở dưới gốc trơ trụi, nhưng khi đã lên cao thì rất nhiều cành lá và trái xúm xít bám vào, trong khi suốt từ gốc đến hết phần thân không hề có một lá nào.

Nó giống như hình ảnh của lợi danh và quyền lực. Con người thuở hàn vi chẳng ai ngó ngàng đến, nhưng hễ đã nắm được quyền lực hay tiền bạc thì lập tức có hàng trăm ngàn người vây quanh. Càng lên cao càng nhiều người xu phụ. Lắm kẻ lưu manh giảo hoạt như chiếc lá dừa vươn ra rất rộng, thường làm ra vẻ sẵn sàng liều mình che chở cho thân cây. Để rồi khi cái ngọn dừa cao ngất kia bị ngã xuống thì cành lá tua tủa đang xúm xít vây quanh lập tức tan tác hết, chỉ còn trơ lại cái gốc xù xì.

Con cóc sẽ phải trở về với chân tướng con cóc, dù có thể cuộc đời đã có lúc dùng tiền bạc và quyền lực để biến nó thành con thiên nga trong hoang tưởng.

Hình ảnh đó có lẽ không được nên thơ lắm, nhưng lại thấy nó phản ánh rất đúng một khía cảnh của cuộc sống. Đó có thể là trường hợp của Tinh túc lão quái Đinh Xuân Thu. Khi chiến thắng thì được đệ tử tung hô như thần linh, nào là “thần thông quảng đại, sánh ngang nhật nguyệt, uy vũ trùm đời”…, nhưng khi thất bại thì đệ tử trở mặt ngay để mạt sát như loài chó lợn!

Trái lại, cây thông thì phía dưới um tùm xanh tươi nhưng càng lên cao thì cành lá càng thóp lại dần. Cái xúm xít ở dưới thưa dần đi. Khi đến đỉnh chỉ còn trơ ngọn lá cô đơn, một mình đâm vút lên cao. Và nó vẫn kiêu ngạo đứng trơ vơ để chống chọi với cái giá buốt của mùa đông. Mặc cho gió thổi và tuyết phủ, cây thông vẫn sừng sửng để đắm chìm trong nỗi cô liêu trầm mặc. Đó là hình ảnh của nghệ thuật và phong cách tài hoa thực sự (đương nhiên là có những cái tài hoa nửa mùa!).

Ở mức độ càng thấp thì càng đông người phụ họa, càng lên cao thì số lượng người chia sẻ được càng vơi dần. Đến chỗ cao chót vót thì người nghệ sỹ sẽ phải đối diện với cô đơn, dù cái tâm của họ có thể ôm trùm cả thên hạ. Truyện Kiều đã đi vào lòng người cả mấy trăm năm, làm say mê mọi người là thế, nhưng tâm sự của Nguyễn Du vẫn là một ẩn ngữ thiên thu. Nó mãi mãi cô đơn, như ngọn thông lẻ loi đứng giữa trời.

Đọc Kim Dung, nhân vật Hoàng Dược Sư luôn làm liên tưởng đến hình ảnh cây thông, dù nhân vật cổ quái này chưa gợi lên trong lòng nhiều người những tình cảm mặn mà thật sự.

Không có nhân vật nào có kiến thức bách khoa và văn võ toàn tài như Hoàng Dược Sư, kể cả Tạ Tốn và Nhậm Ngũ Hành – hai tay quái kiệt võ lâm. Cầm kỳ thi họa, dịch lý, bát quái ngũ hành, trận pháp, võ công… tất cả đều đạt đến chỗ tột đỉnh của tinh hoa. Vậy mà không rơi vào chỗ tạp học như Tô Tinh Hà. Tô Tinh Hà vì ham mê tạp học mà võ công sa sút, bị sư đệ Đinh Xuân Thu làm tan vỡ cả môn phái.

Hoàng Dược Sư thì khác hẳn. Trấn pháp trên đảo Đào Hoa sẵn sàng vây khổn những kẻ nào liều lĩnh dám dặt chân lên đảo. Cây ngọc tiêu réo rắt trên sóng biển sẽ là vũ khí cực kỳ lợi hại để giao đấu nội lực với các đại cao thủ võ lâm. Võ công đủ trấn áp một phương với ngoại hiệu Đông Tà. Kiến thức uyên bác trùm đời đủ để “cưỡng từ đoạt lý”. Dung mạo đẹp đẽ uy nghi đủ để mọi người kính nễ kiêng dè.

Còn gì đáng thêm vào nữa cho nhân vật mang chứa trong mình hầu như toàn bộ tinh hoa của nhân loại?

Nhưng Hoàng Dược Sư gây được ấn tượng vô cùng sâu sắc đối với người đọc không bởi chỉ tại cái tài hoa mà chính ở chỗ tính tình cổ quái cao ngạo. Ông cao ngạo không phải chỉ vì giỏi, mà vì ông muốn đạp đổ thị phi, xóa nhòa mọi ranh giới chính tà trong cõi giang hồ để đẩy tự do và suy tưởng cá nhân đến chỗ tuyệt đối.

Chữ “tà” trong ngoại hiệu Đông Tà của ông không có nghĩa đơn giản là đối lập với “chính” trong phạm trù “tà chính”, mà nó có nghĩa rằng dưới mắt ông, mọi nỗ lực muốn kiến tạo một ranh giới rạch ròi giữa chính và tà chỉ là điều ngu xuẩn. Chính tà, thiện ác chỉ là sản phẩm được nhào nặn theo cái nhìn và ý muốn của những con người có ý chí hùng bá, như Hoàng Dược Sư hay Nhậm Ngũ Hành.

Nếu như Nhậm Ngũ Hành, sau khi cướp lại ngôi giáo chủ từ tay Đông Phương Bất Bại, muốn vạch lại dòng chảy của lịch sử theo ý chí của mình, thì Hoàng Dược Sư lại kiêu hãnh đứng một bên, hoặc đứng trên cái dòng chảy ấy, vì nó không thể hòa hợp được với tâm hồn của kẻ tài hoa tuyệt đỉnh như ông. Có lẽ chính trong những suy tưởng đó ông mới thực sự là kẻ cô đơn vì không có kẻ đồng thời nào chia sẻ được. Chỉ sau này ông mới gặp được một người bạn vong niên là Dương Quá, chỉ vì anh chàng này dám yêu và cưới sư phụ - một điều đại cấm kỵ của võ lâm.

Nhưng sự chia sẻ đó cũng chỉ mới ở một phần nhỏ: Vượt qua được định kiến của xã hội.

Cũng như Nguyễn Du làm quan cho triều Nguyễn luôn giữ thái độ buồn rầu mà hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng đó là tâm sự hoài Lê! Thật ra, đó chỉ là tâm sự cô đơn của những kẻ tài hoa tuyệt đỉnh không muốn để mình bị cuốn trôi theo dòng chảy của lịch sử mà không tìm được người đồng điệu.

Nếu Hoàng Dược Sư thiết kế một đảo Đào Hoa thơ mộng giữa đại dương để kiêu ngạo một mình rong chơi một cõi, thì Nguyễn Du lại đạm nhiên lễ nhượng xây nên một tòa Tân thanh lặng lẽ giữa cõi bể dâu để mở ra những trận du hí thần thông. Trong khi đảo Đào Hoa như thiên la địa võng vây hãm con người thì tòa Tân thanh lại lãng đãng sương mù để mở rộng vòng tay ôm lấy toàn nhân loại, nhưng cả hai đều là những “một cõi trời riêng” làm nơi trú ẩn của những cây thông xanh cô độc!

Hoàng Dược Sư cho cắt lưỡi và đâm thủng tai những kẻ nô bộc để biến chúng thành những người câm điếc, không muốn chúng đóng vai trò của những sứ giả thông tin vì ông gần như muốn cắt đứt mọi quan hệ với xã hội bên ngoài, không muốn cho những kẻ không xứng đáng đặt chân đến cõi riêng đó.

Dẫu những kẻ nô bộc kia toàn là những tên lưu manh đầu trộm đuôi cướp, giết người không gớm tay, đáng để giết đi. Nhưng việc làm đó của ông, dưới quan điểm đạo lý bình thường ta sẽ cho là man rợ. Ông trừng phạt bọn người gian ác kia có lẽ vì muốn “Thế thiên hành đạo”, muốn thay trời để xử lý tội ác, theo kiểu của riêng ông, vì rõ ràng ông không tin gì vào cái gọi là “đạo lý trần gian”. Nói theo ngôn ngữ của các nhà hiện sinh thì có thể Hoàng Dược Sư muốn làm điều ác vì điều thiện đã được con người từ thuở xa xưa tranh nhau làm cả rồi!

Nhưng nếu đạo lý “dĩ bạo dịch bạo” (dùng điều bạo ngược để thay cho điều bạo ngược) vẫn tràn lan trong cõi thế. Và bạo lực cùng thù hận vẫn là động cơ góp phần thúc đẩy dòng chảy của lịch sử nhân loại thì ngẫm ra, vị chúa đảo Đào Hoa kia chắc gì đã “tà”? Khi bị nghi oan là đã tàn sát những người trong đám Giang Nam lục quái, ông cũng chẳng thèm đính chính, vì cho rằng đó không xứng đáng với mình.

Như cây thông xanh hiên ngang reo trong ngàn cơn gió giá buốt mùa đông, Hoàng Dược Sư vẫn luôn lạnh lùng kiêu ngạo với cõi trời riêng.


http://www.mmo.vn/images/uploads/20100514_yttl04.jpg

Hoàng Dược Sư cực kỳ kiêu ngạo và có đôi phần tà quái thì đó cũng là lẽ đường nhiên, nếu quả như trên cõi đời có thể tồn tại một nhân vật tổng hợp được ngần thứ ấy nơi một con người.

Hình tượng Hoàng Dược Sư như muốn vượt cả những thiên tài khổng lồ thời Trung cổ Tây phương: Leonardo da Vinci hay Mitchelangelo Buonarroti. Nếu Leonardo vừa là họa sỹ, kỹ sư vừa là nhà soạn nhạc và nhà khoa học hay Mitchelangelo Buonarroti vừa là họa sỹ, nhà điêu khắc, vừa là nhà kiến trúc và nhà thơ, thì Hoàng Dược Sư còn hơn thế nữa: ấy là sở đắc về võ công!

Nhưng tự xưa đấng tạo hóa luôn “đồ toàn”, nên khi Ngài đem những chất liệu ưu mỹ nhất để tạo nên những con người tài hoa đủ điệu như Hoàng Dược Sư, thì Ngài lại bắt họ phải gánh chịu một bi kịch nào đó trong cuộc sống, để cho những tạo vật khác khỏi so bì.

Tưởng chừng như với bản lĩnh nghiêng trời như Hoàng Dược Sư, thì trên đời này không có gì lại không bị khuất phục dưới ý chí của ông. Và hai chữ “bất khả” có lẽ không thể tồn tại trong cuốn tự điển sống của vị đảo chúa Đào Hoa. Với Hoàng Dược Sư thì muốn là được, như lời nói của Caesar là luật lệ. Nhưng nếu đối với giang hồ, cái bóng khổng lồ của chúa đảo Đào Hoa bao trùm lên mọi cao thủ võ lâm như một tượng đài bất khả xâm phạm, thì nỗi khổ của ông lại bắt nguồn từ một chỗ tưởng chừng êm ấm nhất: gia đình.

Trong các tác phẩm võ hiệp, bi kịch gia đình của các nhân vật giang hồ thường là cảnh toàn gia bị thảm sát như Tạ Tốn, Lưu Chính Phương để đẩy những nhân vật đó vào chỗ tận cùng khổ lụy, thì đối với Hoàng Dược Sư lại khác. Người vợ hiền của ông vì vắt kiệt cả sức lực để ghi nhớ Cửu âm chân kinh nên phải sớm qua đời, để lại đứa con gái thông minh tuyệt đỉnh là Hoàng Dung.

Cô “con gái rượu” này làm ông phải bao phen lao đao vất vả vì cô mãi chạy theo Quách Tĩnh, một kẻ mà dướí mắt ông chỉ là một tên thô lậu ngu xuẩn, không đáng giá một xu.

Đó mới thực sự là nỗi thống khổ của bọn tài tử cổ kim!

Cuộc đời vẫn thường đem những thứ vớ vẩn như thế để chơi khăm khách tài hoa, bắt con kình ngư phải ngắc ngoải trong vũng nước bùn, như một lời răn đe giễu cợt. Cha tài hoa tuyệt đỉnh, con gái thuộc hàng cực phẩm nhân gian, thì chàng rễ lại lù đù như một anh “Hai Lúa”.

Khi Tây độc Âu Dương Phong đem cháu là Âu Dương Khắc, còn Hồng Thất Công dẫn đồ đệ là Quách Tĩnh đến đảo Đào Hoa cầu hôn, ông thấy thà chấp nhận Âu Dương Khắc còn hơn để Hoàng Dung kết thân cùng Quách Tĩnh, dù ông thừa biết Âu Dương Khắc là loại người bạc hạnh, bởi một lý do đơn giản là anh chàng công tử Bạch đà sơn dù sao cũng phong lưu nho nhã và có chút tài hoa. Có lẽ với ông, nhân cách còn có thể giũa mài chứ tục cốt thì khó lòng hoán cải, như bài thơ vịnh trúc của Tô Đông Pha:

Nhân khả thực vô nhục
Bất khả cư vô trúc
Vô nhục linh nhân sấu
Vô trúc linh nhân trúc
Nhân sấu thượng khả phi
Tục sỹ bất khả y

(Có thể ăn không thịt. Không thể sống không trúc. Không thịt khiến người gầy. Không trúc khiến người tục. Người gầy mập có ngày. Kẻ tục đành bó tay).

Tục cốt quả là hết thuốc chữa. Dù một kẻ kiến thức bác cổ thông kim hay tiền của trùm đời nhưng nếu bản chất là tục cốt thì vẫn là tục cốt, vì những kiến thức vay mượn hay ngọc ngà châu báu vẫn không thể che giấu nỗi cái cốt lõi của con người.

Dưới mắt những kẻ tài hoa thì đúng là “Tục sỹ bất khả y”.

Chính nổi cô đơn trong suy tưởng cùng với nỗi buồn về gia đình đã khiến cho con người tài hoa như Hoàng Dược Sư lắm phen phải ngớ ngẩn như một kẻ tâm thần.

Ông bố tài hoa tung hoành khắp thiên hạ, dưới mắt xem không có người, vậy mà đành lòng chấp nhận một chàng rễ lù đù lậu đậu. Tấm lòng của người cha đã đánh bạt sự kiêu ngạo ngất trởi. Hình ảnh Hoàng Dược Sư cuống cuồng tìm con trên biển là hình ảnh đáng yêu nhất của nhân vật này, chứ không phải sự kiêu ngạo lạnh lùng đôi khi vớ vẫn như bắt bọn cao thủ Hầu Thông Hải chui qua đáy quần mình mà đi. Hành động đó khiến Hoàng Dược Sư trở nên rẻ tiền như tên bán thịt bắt Hàn Tín lòn trôn giữa chợ.

Ở điểm này Hoàng Dược Sư thua xa Nhậm Ngã Hành, chưa nói gì đến Tạ Tốn. Nhưng chính hình ảnh dung tục đó, trong một sát na, đã kéo Hoàng Dược Sư ra khỏi “một cõi trởi riêng” mà về với “cõi người ta” vốn đầy những cái tầm thường dung tục.

Hình ảnh vị thanh y quái khách ẩn hiện thất thường với mặt nạ da người trơ lỳ vô cảm và cây ngọc tiêu vẫn là biểu tượng hấp dẫn người đọc vì sự lạnh lùng cao ngạo, vì tài hoa tột đỉnh và trên hết là sự cô đơn.

Và đảo Đào Hoa giữa đại dương mênh mông sóng nước kia sẽ không chỉ là của riêng của Hoàng Dược sư mà là một đảo Đào Hoa mang nghĩa tượng trưng trong tâm tưởng mỗi chúng ta, để những khi bị cuộc đời đẩy vào nỗi cô đơn cùng tột, ta sẽ quay về tìm lại chính mình trong “một cõi trời riêng”.


http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/3/32/HoangDuocSu.jpg

Hansy
14-02-2013, 01:46 PM
13.

Vài suy nghĩ về
VIÊN TÍNH


http://seablogs.zenfs.com/u/_tFhzcuWHyjRYt4IK_zp7GbIEVjkIA--/photo/ap_20110706055051790.jpg

Câu chuyện trong Phi Hồ ngoại truyện của Kim Dung xoay quanh bi kịch gia đình không hấp dẫn lắm, nhưng số phận của các nhân vật Trình Linh Tố cùng ni cô Viên Tính và các câu kệ trong kinh Pháp Cú ở cuối tác phẩm đã để lại trong lòng người một ấn tượng sâu sắc.

Trình Linh Tố mang trái tim đôn hậu về bên kia thế giới với nỗi ngậm ngùi của một A Tử với Tiêu Phong. Yêu một người mà trái tim người đó đã hoàn toàn về một kẻ khác, có lẽ không một nhân vật nữ nào đáng tội nghiệp hơn Trình Linh Tố.

Kim Dung đã viết về cô bằng những lời tha thiết ngậm ngùi, chắc là để an ủi linh hồn của cô thôn nữ thông minh tuyệt đỉnh, thấu hiểu hết mọi độc vật trong thiên hạ kia. Sự thông minh của cô hàm chứa sự chất phác đơn giản, khiến người đọc sinh lòng cảm mến. Nó khác hẳn lối thông minh ma mãnh, thủ đoạn và nặng phần trình diễn của Hoàng Dung.

Nhưng ở đây, chỉ xin ghi lại một vài cảm nhận từ nhân vật Viên Tính.

Viên Tính là một ni cô, nhưng cũng như Nghi Lâm trong Tiếu ngạo giang hồ, vị ni cô này đi tu chỉ vì sự nghiệt ngã của hoàn cảnh. Cả hai nhân vật nữ xinh đẹp này xuất gia bởi một lý do đơn giản là khi vừa lớn lên, họ thấy mình sống trong một ngôi chùa!

Mẹ Viên Tính là Ngân Cô, một cô gái làng chài xinh đẹp, bị tên cường hào Phụng Thiên Nam hãm hiếp mà mang thai. Cha Ngân Cô đến nhà tên cường hào phân trần thì bị đánh đập tàn nhẫn, về nhà uất ức buồn phiền mà chết. Gia tộc lại cho rằng Ngân Cô là nguyên nhân gây nên cái chết của cha, nên không cho cô mặc hiếu phục, không cho lạy quan tài và đòi bắt cô bỏ rọ thả sông!

Chi tiết này chỉ có một hai dòng trong nguyên tác, nhưng đối với người đọc lại có tác động mãnh liệt như một bản cáo trạng về thân phân nghiệt ngã của người phụ nữ Á Đông ngày trước.

Ngân Cô trốn khỏi thị trấn, sinh con xong, lang thang ăn mày và lần mò về lại quê nhà. Một thanh niên bán cá thương hại muốn dang tay bảo bọc hai mẹ con thì bị tên cường hào giết chết, ngay trong ngày cưới. Ngân Cô phải chạy đến nương nhờ nhà Thương Bái. Vị “ngụy đại hiệp” này thấy Ngân Cô xinh đẹp nên động lòng dục. Ngân Cô bị làm nhục phải treo cổ tự vẫn.

Một vị sư thái là cao nhân tiền bối của võ lâm xuất hiện, cứu Viên Tính mang về Hồi Cương, nuôi dạy nên người.

Đến tuổi trưởng thành, Viên Tính, với một thân võ công, bèn từ Hồi Cương tìm về Trung Nguyên để trả thù cho mẹ. Nhưng làm sao tìm ra một giải pháp báo thù trọn vẹn, khi mà kẻ thù của mẹ lại chính là cha mình, dù đó là một người cha đầy tội lỗi?

Đạo lý phương Đông không bao giờ cho phép người con trực tiếp lên án cha mẹ, đừng nói chi đến chuyện giết, cho dẫu đó là những người mang trọng tội. Đạo lý, nếu cần phải duy trì để giữ giềng mối cho sự vận động của guống máy xã hội, sẽ được thực hiện bởi trời, bởi phép nước hoặc bởi một người nào khác.

Trong sách Mạnh Tử, Đào Ứng đã đặt vấn đề cùng Mạnh Tử:

Ông Cổ Tẩu – cha vua Thuấn – là người cực ác giết người phải tội chết. Ông Cao Dao là người chấp pháp muốn bắt ông Cổ Tẩu thì vua Thuấn phải xử lý thế nào?

Đây là vấn nạn thường đặt ra trong nền văn hóa nhân loại để con người phải tìm sự điều hòa giữa đạo trời và đạo người, để làm sao cho xã hội vẫn tốt đẹp mà lương tâm con người vẫn thanh thản.

Vua Thuấn là con thì phải bảo vệ cho cha là đạo trời. Nhưng vua Thuấn lại là vua nên theo luật phải xử tội cha để duy trì trật tự xã hội là đạo người. Làm thế nào để điều hòa sự tương xung bất khả vãn hồi?

Giải pháp mà Mạnh Tử đưa ra là sự điều hòa mang ý nghĩa sâu xa đượm đầy tính nhân văn cao viễn trong bầu không khí cổ đại phương Đông, mà mãi đến ngày nay vẫn còn là bài học kinh điển về đạo lý làm người.

“Thuấn sẽ xem việc bỏ thiên hạ như bỏ một đôi dép rách, lén cõng cha đi trốn, lần theo bờ biển mà ở, suốt đời vui vẻ, vui mà quên đi thiên hạ”. (Thuấn thị khí thiên hạ do khí tệ sỉ dã, thiết phụ nhi đào, tuân hải tân nhi xử, chung thân hãn nhiên, lạc nhi vong thiên hạ) (Mạnh Tử, Tận Tâm thượng).

Nếu vua Thuấn cứ căn cứ theo phép nước để ông Cao Dao chiếu theo luật xử tử cha mình, cho đúng với nghĩa “minh quân” hay “thiết diện vô tư” thì trước mắt có thể duy trì được giềng mối xã hội đấy, nhưng chắc chắn sẽ để lại một vết thương trầm trọng không gì cứu vãn được trong đạo lý làm người cho thế hệ mai sau.

Thần thoại Hy Lạp cũng có một câu chuyện tương tự. Agamemnon, vua xứ Mycenae, khi dẫn đoàn quân viễn chinh Hy Lạp quay về sau chiến thắng thành Troy, thì bị hoàng hậu Clytemnestra cùng người tình là Aegisthus lập mưu giết chết.

Con trai Agamemnon và Clytemnestra là Orestes, với sự trợ giúp của chị là Electra, đã giết chết mẹ và Aegisthus để trả thù cho cha.

Tưởng rằng như thế là công bằng, vì nợ máu phải trả bằng máu. Nhưng ngay sau đó Orestes bị các nữ thần Eumenides trừng phạt, mãi cho đến khi có sự can thiệp của nữ thần Athena.

Đông hay Tây đều cho rằng việc giết cha hay mẹ để đòi lại sự công bằng cho người đã khuất phải là nhiệm vụ của thần linh, của trời, chứ không phải của con người.


http://d4.violet.vn/uploads/blogs/4182/duong_hoa_01.jpg

Theo lời sư phụ dặn, Viên Tính phải ba lần cứu Phụng Thiên Nam thoát chết dưới tay Hồ Phỉ, như để trả món nợ tình phụ tử, dù nàng chỉ là cái bào thai nghiệt oan của một tên dâm ác, và đến khi trưởng thành vẫn không biết đến cha.

Kim Dung quả thực sâu sắc khi để Phụng Thiên Nam chết thật đột ngột bởi những lưỡi “vô ảnh ngân châm” của một tên gian ác khác là Thang Bái. Rồi ông lại bố trí cho Viên Tính hạ sát Thang Bái. Thật không có giải pháp nào hoàn hảo hơn được nữa.

Nếu như Kim Dung để Phụng Thiên Nam giao đấu rồi chết dưới tay Thang Bái hoặc Hồ Phỉ, trước sự chứng kiến của Viên Tính, thì người đọc vẫn không lấy làm thỏa mãn. Mà có thể cả Viên Tính cũng cảm thấy ray rứt trong lòng, dù nàng đã lập thệ chỉ cứu Phụng Thiên Nam đúng ba lần.

Giải pháp của Kim Dung là sự điều hòa mang tính đạo lý rất sâu xa.

Và cũng chính trong bước đường tầm thù, khi gặp Hồ Phỉ, Viên Tính lại vướng vào chữ tình. Đối với Viên Tính là sự oan nghiệt, vì nàng đã lập lời trọng thệ sẽ kế thừa y bát của sư phụ, sẽ suốt đời làm bạn với thanh đăng cổ Phật, như để đền đáp ơn trùng sinh tái tạo.

Ở đoạn cuối tác phẩm, những lời bộc bạch tâm sự của nàng trước nấm mộ song thân Hồ Phỉ thật cảm động:

“Giá như ngày trước ta không lập lời trọng thệ trước sư phụ, thì có thể trọn đời theo y đến tận chân trời, hành hiệp trượng nghĩa, há chẳng hay ư? Hỡi ơi, Hồ đại ca! Đại ca đau khổ, nhưng có biết chăng tiểu muội còn thương tâm gấp mười?”.

“Giá như…”. “Phải chi…” vẫn luôn là câu nói tiếc nuối của con người, để hoài thương quá khứ hoặc nguôi đi một chút hận lòng. Cuộc sống là một cuộc thi mà mỗi thí sinh chỉ có một tờ giấy duy nhất để làm bài, không cho ai làm nháp!

Nếu như các chữ “Giá như…”. “Phải chi…” không còn trong tự điển của cuộc sống thì Nguyễn Du lấy đâu ra chỗ để viết “Đoạn trường tân thanh”?

Nỗi lòng Viên Tính là vậy, nhưng thái độ kiên quyết và dứt khoát của nàng trước lời tHỉnh cầu của Hồ Phỉ lại khiến người đọc bao xiết cảm thông. Cuộc đời nàng vốn đã đầy trầm luân khổ hạnh, mang ơn tái tạo của sư phụ thì làm sao nàng có thể phản bội lời thề để tìm hạnh phúc riêng tư? Đó cũng chính là tâm trạng phân vân của Thúy Kiều khi gặp lại gia đình ở chốn thảo am.

Trùng sinh ơn nặng bể trời
Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi.

Mười lăm năm lưu lạc bị đày đọa trong chốn phong trần, gặp lại gia đình và người yêu cũ có còn niềm vui mừng nào hơn nữa? Nhưng ơn trùng sinh tái tạo của sư Giác Duyên lấy gì để đền đáp? Nhiều nhà phê bình cho đó là thái độ không thực lòng của Thúy Kiều, thì nghĩ cũng thực lòng không hiểu họ đọc Kiều theo kiểu nào, và đọc để làm gì?

Một người đã mười lăm năm trầm luân lưu lạc, đã bị đẩy đến tận cùng nỗi thống khổ của nhân gian, phải nhờ dòng nước dìm sâu hết mọi tủi nhục của đời người, lại được một sư thái cứu lên và nương thân nơi cửa Phật, thì người đó có thể nhìn đời bằng đôi mắt hồn nhiên của ngày cùng hai em dạo chơi trong ngày lễ đạp thanh, hay đôi mắt đau buồn nhưng vẫn còn hy vọng của ngày phải lìa nhà theo Mã Giám Sinh?

Trùng lai quả là điều người đã mòn mỏi chờ đợi, nhưng còn ơn trùng sinh, lòng người sao nỡ?

Tìm mối điều hòa cho xuôi chéo mát mái giữa những xung đột, giữa hiếu và tình, giữa hạnh phúc và trách nhiệm… vẫn là những vấn đề muôn thuở của con người. Lắm khi thoát được ra khỏi vòng tranh chấp, con người đã thấy đời đổ tan hoang với những nổi lòng thê thiết.

Thúy Kiều theo cha mẹ về đoàn tụ với gia đình là một ách điều hòa, Viên Tính quay về lại Hồi Cương để vĩnh viễn chai tay Hồ Phỉ phải chăng cũng là một cách điều hòa? Bài kệ của nàng trước lúc chIA tay là để cảnh tỉnh Hồ Phỉ hay để nhắc nhở chính mình?

Nhất thiết ân oán hội
Vô thường nan đắc cửu.
Sinh thế đa ưu sự
Mệnh nguy ư thần lộ.
Do ái cố sinh ưu
Do ái cố sinh bố.
Nhược ly ư ái giả
Vô ưu hựu vô bố.

(Mọi ân oán đời này
Đều vô thường chóng phai
Cõi thế nhiều khổ não
Đời người như sương mai
Do ái sinh sợ hãi
Do ái sinh ưu phiền
Kẻ nào lìa chữ ái
Tâm mới được an nhiên)

Không có tác phẩm nào của Kim Dung để lại cho người đọc một cảm giác bâng khuâng như trong đoạn cuối của Phi Hồ ngoại truyện. Không vui tươi như Tiếu ngạo giang hồ, không thê thảm như Thiên long bát bộ. Người đọc không buồn đau mà chỉ có một cảm giác hụt hẫng và trống rỗng. Như tâm trạng Hồ Phỉ đứng bên nấm mộ song thân cùng bình cốt hôi của Trình Linh Tố, nhìn theo bóng Viên Tính xa dần.

“Viên Tính lắc đầu, cứ thúc ngựa đi. Hồ Phỉ nhìn theo bóng nàng. Tám câu Phật kệ vẫn còn văng vẳng bên tai.
Con bạch mã đứng bên cạnh chàng nhìn theo bóng Viên Tính đi mỗi lúc một xa, bỗng nhiên hý lên một tiếng bi thương. Nó không hiểu vì sao vị chủ nhân cũ của nó không hề ngoảnh đầu nhìn lại”.

Chi tiết Viên Tính “Thúc ngựa lặng lẽ bỏ đi mà không hề ngoảnh đầu nhìn lại” quả thật cảm động.

Đạo Phật chủ trương “Khổ hải vô biên, hồi đầu thị ngạn” (biển khổ mênh mông, quay đầu là bến). Nhưng trong trường hợp này lại khác. Nếu Viên Tính quay đầu nhìn lại thì nàng sợ rằng sẽ không thấy bến, mà chỉ thấy một biển tình, biển khổ, và nàng sợ những con sóng trong biển đó sẽ kéo nàng trôi dạt, không biết đến những bờ bến nơi đâu.


http://img100.imageshack.us/img100/2941/fann20wong411hk.jpg

phamanhoa
14-02-2013, 04:20 PM
TIÊU PHONG



Anh hùng cái thế vướng hàm oan,
Ôm nỗi ngậm ngùi bỏ Cái Bang.
Hồn gởi Trung nguyên, tình mãi nợ,
Thân về Quan ngoại, hận còn mang.
Chạnh nhìn Tống quốc mù binh lửa,
Đành chống Liêu vương gây tóc tang.
Giấc mộng cùng săn chồn đuổi thỏ,
Chôn vùi vực thẳm Nhạn Môn Quan.

phamanhoa

Hansy
14-02-2013, 08:11 PM
TIÊU PHONG



Anh hùng cái thế vướng hàm oan,
Ôm nỗi ngậm ngùi bỏ Cái Bang.
Hồn gởi Trung nguyên, tình mãi nợ,
Thân về Quan ngoại, hận còn mang.
Chạnh nhìn Tống quốc mù binh lửa,
Đành chống Liêu vương gây tóc tang.
Giấc mộng cùng săn chồn đuổi thỏ,
Chôn vùi vực thẳm Nhạn Môn Quan.

phamanhoa



MÊ CUNG ĐỊNH MỆNH

Tạo hóa cố tình giáng nỗi oan
Chàng Tiêu xất bất lẫn xang bang
Ai ra tay giết mình nên tội
Kẻ giấu mưu hèn nợ phải mang
Tình sử A Châu chìm sắc tận
Nối nguyền A Tử rướm màu tang
Khiết Đan Trung thổ thân đôi ngã
Một mũi tên đời lặng cửa quan

HANSY

Hansy
15-02-2013, 07:48 PM
14.

Tâm sự NGHI LÂM
Giọt lệ giữa trang kinh

http://images1.gamek.channelvn.net/Images/Uploaded/Share/2010/04/20/200410tngh2.jpg

Thật là cảm thấy bâng khuâng và ngại ngùng bao xiết khi cầm bút bàn đến Nghi Lâm, mặc dầu đã có lần nhắc đến cô tiểu ni xinh đẹp này trong một bài bàn đến tình yêu trong tác phẩm Kim Dung.

Viết về Tiêu Phong hay viết về Tạ Tốn, dẫu thấy đắng cay nhưng cũng không khó. Cuộc đời của các nhân vật anh hùng đó, dẫu là những bi kịch đẫm máu và nước mắt, nhưng ta vẫn còn chịu đựng được và thấy chưa hẳn là quá xa lạ với con người.

Ta không anh hùng như họ, nhưng ta vẫn có thể theo họ lặn sâu vào tận đáy của cuộc đời, để cùng nắm tay nhau, tìm chút hơi ấm cảm thông, an ủi trong tấn tuồng bi thảm của nhân sinh cũng như cái thê thiết của kiếp người. Nhưng bàn đến Nghi Lâm, ta thấy như có chút gì e ngại. Ngòi bút ta như sắp chạm đến một cái gì tột cùng cao khiết, ta sợ nó sẽ làm vỡ mảnh linh hồn quá đỗi mong manh.

Mà dường như Kim Dung cũng dành cho cô tiểu ni này rất nhiều ưu ái. Với một chút lòng thiên ái, dám khẳng định rằng không có nhân vật nữ nào của Kim Dung lại được độc giả dành cho nhiều cảm tình như Nghi Lâm. Kể cả hai nhân vật đáng yêu và gây được nhiều ấn tượng khác, là A Châu và Vương Ngữ Yên.

Những đoạn văn bàn đến cô, hay để người khác nghĩ đến cô, đều long lánh như pha lê, tỏa ngời ánh sáng của tình thương yêu thanh khiết. Tâm hồn cô như một viên ngọc toàn bích, không tì vết. Mà oái oăm thay, cô tiểu ni rực rỡ như thiên thần đó lại là kết quả của một mối tình quái gỡ của một gã đồ tể thô lỗ và một ni cô dở hơi!

Tấm lòng Nghi Lâm sáng ngời như thánh nữ, và ta hiểu vì sao Kim Dung lại cố tình hư cấu nên cái xuất thân gần như hạ tiện và kì quặc của cô. Có lẽ Kim Dung cũng sợ cái luật "Tạo hóa đố toàn", nên ông cố đem bụi bặm trần gian phủ lên viên ngọc đó, để tự trấn an lấy chính mình.

Nếu để cô tiểu ni đó xuất thân từ một dòng dõi quí phái thanh cao, hoặc từ một nguồn gốc vương quyền, thì có thể ông e ngại cô không còn thuộc về cõi trần tục nữa, mà hình ảnh cô sẽ trở nên bềnh bồng hư ảo, quá xa lạ với con người. Ông đã để cô xuất gia ngay từ tấm bé, vì tâm hồn đôn hậu đó hướng về cõi Đạo Thiện Chân là hoàn toàn tự nhiên và phù hợp với thiên tính của cô. Nhưng rồi dường như ông lại lo sợ cửa Không mầu nhiệm sẽ dành mất cô tiểu ni thánh thiện đó ra khỏi chốn bụi hồng, nên ông cố tình sắp đặt bố cục câu truyện, để cô phải vướng lụy trần gian.

Có lẽ ông muốn cô vẫn mang hình ảnh gần gũi của một con người. Bởi vì cái vưu vật của Tạo hóa đó, với dung nhan diễm kiều và tâm hồn thuần nhiên thanh khiết ngần ấy, nếu không nhuốm bụi trần thì nó chỉ có thể là chân dung của Bồ Tát Quan Âm! Nó sẽ theo mây trắng trôi qua vùng Nam Hải mà đi mất. Âu đó cũng là một cách điều hòa trong sáng tạo.

Nhiều người cho rằng truyện tiểu thuyết võ hiệp, rốt cuộc cũng chỉ là những sáng tạo hoang đường không mang tính hiện thực. Họ quên rằng các truyện thần thoại Đông Tây, với các sáng tạo hoàn toàn hư đản, lại hiện thực và gần gũi tâm hồn con người, hơn rất nhiều so với các tác phẩm văn học hiện thực thô thiển.

Tiếng nói tâm tình của nhân gian có rất nhiều con đường tiếp cận và biểu hiện. Văn học đâu phải chỉ mô tả những gì có thực trong đời mới có thể xem là giá trị về mặt nhân sinh. Câu nói "Bất dĩ từ hại ý" (đừng để ngôn từ làm hại ý tưởng) của Mạnh Tử vẫn đồng vọng như một lời nhắc nhở, trong suốt mấy ngàn năm văn học phương Đông.

Lần đầu tiên xuất hiện trong tòa sảnh của Lưu Chính Phong, sự hồn nhiên ngây thơ của Nghi Lâm đã khiến quần hùng thay đổi cái nhìn về gã tửu đồ lãng tử Lệnh Hồ Xung. Và độc giả cũng linh cảm được rằng cô đã bắt đầu vướng vào nỗi khổ lụy của tình yêu, với gã "Lệnh Hồ đại ca" đó.

Con chim sơn ca hồn nhiên của phái Hằng Sơn đã bất ngờ bị trúng mũi tên của vị thần tình yêu Cupide. Mũi tên đã xuyên qua tim vị tiểu ni, nhưng lại quá đỗi lặng lẽ vô thanh, nên cô chẳng hề hay biết. Đến khi hay được thì cô đã sầu thương héo hắt đến tiều tuỵ cả dung nhan!


http://t0.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcSoPSJTEpGC8th_1tYJoxDKJrHVZZ-7VWMiY_TS638O0nB9BTWZ

Kim Dung đã tỏ ra nhân đạo và sâu sắc biết bao, khi để cho cô vắng mặt trong lúc thảm cảnh xảy ra trong Lưu phủ: các cao thủ Tung sơn tàn sát toàn gia Lưu Chính Phong để nhằm thực hiện cho được tham vọng cuồng điên của Tả Lãnh Thiền. Nếu như tâm hồn cô xa lìa hẳn nhân thế, như các bậc cao nhân thế ngoại, thì thảm cảnh đó có thể là điều kiện trợ duyên để giúp cô thể hội thêm được tấn tuồng hư huyễn của nhân gian.

Nhưng có lẽ trong thâm tâm, Kim Dung muốn cô vẫn còn thuộc về cõi hồng trần, muốn cô không chỉ là khán giả mà còn là diễn viên trên sân khấu cuộc đời, nên ông đã cố tình che bớt đi những hình ảnh thê thảm khỏi đôi mắt của cô. Kim Dung không nỡ nhẫn tâm, và chúng ta phải cám ơn Kim Dung nhiều lắm, vì hiểu rằng trái tim nhân hậu và cực kì thanh khiết đó sẽ tổn thương biết mấy, một khi đối diện và nhận chân ra được những âm mưu thâm hiểm cùng những tấn bi kịch khủng khiếp của trần gian.

Kim Dung đã tạo nên một tình huống dỡ khóc dỡ cười, khi để cô tiểu ni đó phải chui vào trong chăn của một gã lãng tử, trong một kĩ viện thành Hành Sơn. Rồi vì Lệnh Hồ Xung, cô chấp nhận phải phạm giới: đi ăn trộm dưa giữa đồng vắng. Một việc làm thuờng có thể xảy ra đối với bất kì ai, nhưng với cô là chuyện tày trời. Lúc hái dưa, cô đã âm thầm khấn nguyện với Bồ Tát để tự minh oan cho hành động của mình, khiến ta vừa buồn cười vừa cảm mến cô biết bao nhiêu.

Cho dẫu có theo các đồng môn xuôi ngược giang hồ, dấn mình vào chốn thị phi đi nữa, thì trái tim nhân hậu của cô, như tâm hồn vị thánh Francis, vẫn mãi toả ngời ánh sáng, để làm cho hình ảnh cuộc đời bớt đi vẻ thê lương. Giữa cảnh kiếm đao đẫm máu chốn giang hồ, tiếng tụng kinh và niệm Bồ Tát của cô, như giọt nước cành dương, xoa dịu phần nào nỗi đau của nhân thế.

Khi cùng đồng môn theo Lệnh Hồ Xung nỗi trôi giữa giang hồ vì tai nạn của bản phái, thì những ánh mắt quan hoài thầm kín của cô dành cho gã lãng tử đó vô cùng đằm thắm và chan chứa biết bao sự thương yêu của một mối tình câm lặng. Như một hành giả Du già toạ thiền, quên đi ngoai cảnh mà chỉ chú tâm quán tưởng một đối tương duy nhất, thì tiểu sư thái Nghi Lâm dường như suốt đời chỉ "quán tưởng" mỗi một hình ảnh của Lệnh Hồ Xung!

Độc giả thông cảm xiết bao khi biết cô từng đêm vẫn âm thầm tâm sự cùng bà già, mà cô ngỡ là câm điếc, trên núi Hằng Sơn. Đó lại chính là mẹ ruột của cô. Nỗi lòng u hoài đó ắt hẵn cô không dám ngõ cùng Bồ Tát, nhưng cũng không thể chôn dấu mãi trong lòng. Một trong những bi kịch của con người là khi nằm xuống vẫn chưa thể nói được điều mơ ước trong tim, với người mà ta thầm yêu dấu.

Khi còn sống, triết gia F.Nietzsche dã yêu say đắm Lizt Cosima, vợ của nhạc sĩ Wagner, trong câm nín và tuyệt vọng đớn đau. Để rồi sau này Cosima mãi mãi là nàng Ariane thần thoại trong những giấc mơ của Nietzsche. Nhưng trước khi rơi vào tình trạng điên loạn, Nietzsche vẫn còn được hạnh phúc khi kịp nói những lời tha thiết "Ariane, je t''aime" với người thiếu phụ đó.

Kim Dung cũng thâm cảm được rằng "Nhưng cũng lạ mối tình đau khổ ấy. Để riêng tây như có chỗ không đành" (Xuân Diệu ), nên ông phải sáng tạo thêm một bà già câm điếc để cô tâm sự. Rồi ông lại bố trí cho cô được hồn nhiên tâm sự với bà già giả là Lệnh Hồ Xung hoá trang. Như một chút an ủi khi cô sắp phải chia tay vĩnh viễn với gã "Lệnh Hồ đại ca" giảo quyệt mồm năm miệng mười mà cô ngày đêm tưởng nhớ.

Nhân vật Nghi Lâm khiến ta liên tưởng đến hai nhận vật khác là Tất Đạt của Herman Hesse trong "Câu chuyện dòng sông" và Aleixei Karamazov của Dostoievski trong "Anh em nhà Karamazov".

Dostoievsky không muốn một con người thuần nhiên huớng thiện như Aleixei vào tu viện quá sớm, dù anh ta khát khao muốn tìm đến với Chúa, mà ông muốn anh ta phải trải qua "trường đời" trước đã. Cũng như Hesse phải để Tất Đạt lăn lộn với bụi trần, xẻ chia bao nỗi nhục vinh, rồi mới có thể dứt bỏ tất cả, để lắng nghe ra được tiếng nói minh triết của dòng sông.

Chưa nhập thế mà đã xuất thế, chưa đi trọn con đường ô trọc của cuộc đời mà đã vội từ bỏ nó để đem mình vào cõi đạo, thì sự từ bỏ đó không thể nào là sự từ bỏ chân chính được. Nên trong cõi thanh tu ấy, Nghi Lâm ắt hẵn phải bao lần đem tâm hồn mình ra làm bãi chiến trường tranh chấp giữa hai tiếng gọi của Đạo và Đời. Cõi Đạo thì thanh tĩnh nhiệm màu, nhưng cõi Đời dẫu đắng cay, vẫn đằm thắm quyến rũ với bao hương sắc của tình yêu.

Trong suốt tác phẩm Tiếu ngạo giang hồ, đã bao lần Nghi Lâm nhỏ lệ, mà chủ yếu chỉ vì Lệnh Hồ Xung. Sau này, khi cô tiếp chức chưởng môn phái Hằng Sơn, ta vẫn hiểu rằng vị tân chưởng môn đó sẽ rất nhiều phen phải tiếp tục khóc thầm. Vì chắc chắn cô chưa thể quên hẵn vị "Chưởng môn sư huynh" đang sống hạnh phúc và tiêu dao giang hồ cùng Nhậm Doanh Doanh, dù đó là điều mà cô nhiều phen thành tâm cầu nguyện cùng Bồ Tát. Ta tin rằng các Bồ Tát trên cao cũng sẽ chứng giám cho tấm lòng thành của cô, và sẽ nhìn vị đệ tử đang vướng luỵ trong cõi "Hồn bướm mơ tiên" kia bằng những tiếng thở dài thông cảm. Mỗi lần đọc đến những đoạn Nghi Lâm với đôi mắt long lanh lệ nhỏ, tôi thường nghĩ đến hai câu thơ của Bùi Giáng:

Anh quì xuống, hai tay bệ vệ
Để xin nâng một gịot lệ êm đềm

Trong tất cả những sáng tạo của Kim Dung, nếu có gì xứng đáng được với hai câu thơ "bệ vệ" trên, thì đó chỉ có thể là những giọt lệ của Nghi Lâm, trong đêm vắng, âm thầm rơi trên những trang kinh!


http://gamethu.vnexpress.net/Files/Subject/3B/9B/16/13/tieu-ngao-giang-ho-03.jpg

phamanhoa
16-02-2013, 07:25 AM
TRIỆU MẪN



Quận Chúa cao sang vướng lụy tình,
Mưu ma chước quỷ chẳng còn linh.
Bao phen chẳng nệ điều oan khuất,
Mấy lượt đâu màng chuyện tử sinh.
Vượt biển, cùng ai tìm nghĩa phụ,
Nhảy đèo, mình thiếp trốn hiền huynh.
Chàng Trương ngồi vẽ lông mày nhạt,
Ra khỏi giang hồ gió máu tanh.

phamanhoa

KIỀN ĐỨC -TRƯƠNG THẾ CÔNG
16-02-2013, 09:15 AM
5.

ĐỊCH VÂN
Kẻ lữ hành cô độc


http://www2.vietbao.vn/images/vie4/van-hoa/40049628-43261sm.jpg



CẢM ĐỊCH VÂN

Địch Vân ơi hỡi, Địch Vân ơi
Có phải lầm sinh một cõi người
Khờ khạo, thần tâm hay quỷ trạng
Ngốc ngây, phật tánh tặng riêng đời
Hàm oan bao nỗi, chua cay quá
Cô quạnh một đời đắng đót ơi
Thì đấy, đang sinh mà vẫn diệt
Độc hành hãn mã khóc như cười!!!

KIỀN ĐỨC - 16/02/13




http://t3.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcSJROUhBBw2-_NIp-agr320k2pFtwbCt7FgXSIwQQiygpmkpvGzPw&t=1

Hansy
17-02-2013, 12:38 AM
TRIỆU MẪN



Quận Chúa cao sang vướng lụy tình,
Mưu ma chước quỷ chẳng còn linh.
Bao phen chẳng nệ điều oan khuất,
Mấy lượt đâu màng chuyện tử sinh.
Vượt biển, cùng ai tìm nghĩa phụ,
Nhảy đèo, mình thiếp trốn hiền huynh.
Chàng Trương ngồi vẽ lông mày nhạt,
Ra khỏi giang hồ gió máu tanh.

phamanhoa


MỘT CHỮ TÌNH

Quyền uy chức trọng chẳng qua tình
Rung động tơ lòng quá diệu linh
Từ độ vung gươm nào ngán tử
Mà nay bỏ giáo lại hoài sinh
Dành lòng cô Triệu ngôi hiền muội
Để dạ chàng Trương chức nghĩa huynh
Bỏ mộng công hầu về quy ẩn
Lông mày thê rạng xóa mùi tanh

HANSY

Hansy
17-02-2013, 12:40 AM
CẢM ĐỊCH VÂN

Địch Vân ơi hỡi, Địch Vân ơi
Có phải lầm sinh một cõi người
Khờ khạo, thần tâm hay quỷ trạng
Ngốc ngây, phật tánh tặng riêng đời
Hàm oan bao nỗi, chua cay quá
Cô quạnh một đời đắng đót ơi
Thì đấy, đang sinh mà vẫn diệt
Độc hành hãn mã khóc như cười!!!

KIỀN ĐỨC - 16/02/13


KẾT CÓ HẬU

Thế sự não nề quá bạn ơi
Lòng tham không đáy hại bao người
Sư huynh trở mặt nên bầm xác
Sư bá thay tim khiến lụy đời
Môn phái còn gì khi nghĩa tận
Trúc mai đâu nữa thuở tình vơi
Thôi về động cũ tìm vui sống
Nơi ấy Thủy Sinh vẫn rạng cười

HANSY

Hansy
17-02-2013, 12:44 AM
15.

ĐOÀN DỰ
Kẻ phụng hiến trong tình yêu


http://a8.vietbao.vn/images/vn801/van-hoa/11056725-jimmy-07-4.jpg

Tục ngữ bảo: “Con gái đôi tai, con trai đôi mắt”, nghĩa là trong tình yêu, phái nữ thường vì đôi tai mà trái tim bị chinh phục, còn phái nam thường do đôi mắt mà thần hồn bị đảo điên. Cho nên có người nói rằng: người đàn bà suốt đời chỉ khao khát nghe được câu "Anh yêu em" từ người đàn ông mà họ thương yêu, còn người đàn ông thì ngược lại, suốt đời họ cứ trăn trở mãi với câu hỏi "Ta yêu ai?". Nếu ta đem câu hỏi này để chất vấn Kim Dung, ắt hẳn ông, với nụ cười hóm hĩnh, sẽ đưa ra hình ảnh đáng yêu của vị vương tử đa tình nước Đại Lý: Đoàn Dự!

Những nhân vật chính diện trong tác phẩm Kim Dung, cũng như trong các tác phẩm võ hiệp khác, thường là đối tượng thương yêu của nhiều trái tim kiều nữ, như Lệnh Hồ Xung, Trương Vô Kỵ.... Nhưng trong tình yêu của Đoàn Dự vẫn có chỗ khác biệt: đó là sự đắm say trong tất cả mối tình với những người con gái kiều diễm trên đời, mà chàng ta yêu ngay từ lần đầu gặp gỡ. Từ Chung Linh, rồi pho thạch tượng cho đến Mộc Uyển Thanh... Chỉ đến khi gặp được Vương Ngữ Yên thì tất cả hình ảnh giai nhân trên thế gian này mới thực sự bị xoá nhòa đi như không còn nữa. Tự tòng nhất kiến khanh khanh hậu. Trần thế giai nhân tổng thị vô. (Kể từ một lần gặp được khanh khanh, thì tất cả giai nhân trên đời này coi như không còn nữa).

Vị vương tử đa tình họ Đoàn đi đến đâu đều đắm say tình yêu đến đó, như một thỏi sắt cứ mãi mãi bị hút bởi từ lực của giai nhân. Chàng ta chỉ tôn thờ nhan sắc, chẳng thèm quan hoài chi đến võ công hay quyền lực. Được cầm cương ngựa cho giai nhân là nỗi khát khao suốt đời của chàng ta. Mà hồng nhan thì có khắp trong thiên hạ, cho nên tình yêu của chàng ta cũng bén rễ khắp chốn khắp nơi.

Đối với chàng ta thì chỉ có tình yêu là tất cả, như một Xuân Diệu thời trai trẻ "Tôi khờ khạo lắm ngu ngơ quá, chỉ biết yêu thôi chẳng biết gì". Nhưng trong tình yêu của Xuân Diệu "Yêu là chết trong lòng một ít" vẫn ngầm chứa nỗi khát khao được yêu lại, mà không đạt được nên đâm ra khổ đau và chết một ít trong lòng.

Còn Đoàn Dự thì hơn thế, chàng ta tìm đến với người đẹp dường như chỉ để chiêm ngưỡng tình yêu dưới quan điểm mỹ học thuần nhiên. Yêu chỉ để mà yêu, yêu chỉ để thoả mãn nỗi khát khao tôn thờ vẻ đẹp, yêu như một sự bột phát tuôn trào của những cảm xúc tự nhiên là muốn được phụng sự cho khách má hồng. Nhất là trong tình yêu chàng ta dành cho Vương Ngữ Yên.

Suốt đời cứ mê mẫn lẽo đẽo theo nàng ta rong ruỗi khắp giang hồ, như một kẻ tuỳ tòng hờ, chỉ ước mong nàng hạ tứ ban cho một nụ cuời, một ánh mắt nhìn là mãn nguyện. Cái thiết tha say đắm đã được đẩy tới chỗ tận cùng "Ta đâu biết cõi vô tình vô tận, nhưng tình ta ta biết tận vô biên" (Hồ Văn Thắng). Chàng công tử đa tình ấy như muốn tìm một chốn an tâm lập mệnh trong chút hương thừa của quốc sắc thiên hương!

Vương Sóc, một nhà văn Trung Quốc chuyên bài xích Kim Dung, đã phê phán rằng nhân vật Đoàn Dự chỉ là hình ảnh lặp lại của anh chàng công tử ẻo lả đa tình Gỉa Bảo Ngọc trong kiệt tác Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần mà thôi.

Nói thế không khỏi cho chỗ oan uổng và bất công. Đoàn Dự làm gì uỷ mị đến mức sướt mướt khóc gió than mây như Giả Bảo Ngọc ? Nhưng cả hai đều rất giống nhau ở điểm: xem nhan sắc, hay đúng hơn phái nữ, là biểu trưng cho những gì đẹp đẽ nhất trên cõi đời này. Giả Bảo Ngọc cho rằng cốt cách đàn ông được cấu tạo từ đất, còn cốt cách đàn bà thì được cấu tạo từ nước. Nước thì mềm mại, nhu nhuyễn, cho nên giai nhân thì mong manh và đáng yêu vô kể !

Khi Đoàn Dự nhìn thấy Du Thản Chi - đang là Bang chủ Cái Bang - chấp nhận quì lạy Đinh Xuân Thu và gọi lão bằng sư phụ để mong lão tha chết cho A Tỷ, một cảnh tượng làm tất cả các nhân vật võ lâm trong đương trường phải phẫn nộ vì xấu hổ cho "thân phận nam nhi", thì chàng ta lại thán phục và ngầm so sánh với mình.

Chàng ta cứ ngỡ rằng tấm lòng mình dành cho Vương Ngữ Yên tưởng chừng như đã đạt đến chỗ sơn cùng thủy tận của tình yêu, đã đến mức hoan hỷ tận hiến tất cả thân tâm, nhưng ngẫm ra hãy còn thua xa Du Thản Chi, là kẻ tình nhân đã đạt đến trình độ yêu đương quỷ khốc thần sầu. Và chàng ta thầm khen Du Thản Chi mới đích thị là "bậc hiền thánh trong tình yêu" (tình trung hiền thánh)!

Trong tình yêu của Đoàn Dự và Du Thản Chi không còn một chút dấu tích so đo tính toán của lý trí, còn "cái tôi" thì đã hoàn toàn biến mất để hoà tan trong đối tượng thương yêu. Hai ông "tình thánh" kia quả rất xứng đáng là những kẻ si tình vĩ đại nhất của mọi thời đại, suốt dưới vòm trời bốn bể năm châu!

Còn môn Lăng ba vi bộ kỳ tuyệt mà chàng ta học được, khi vô tình lạc vào thạch thất của phái Tiêu Dao sau núi Vô Lượng, cũng nhờ đắm say chiêm ngưỡng bức thạch tượng tạc một phụ nữ dung nhan tuyệt đại trông tợ thần tiên.

Những kẻ muốn đùa cợt hoặc xúc phạm bức tượng ắt phải chết vì những mũi tên tẩm độc ngầm dấu trong các cơ quan rồi. Chỉ có chàng ta vì mê mẫn bức tượng, xem đó là bậc thần tiên giáng thế, nên mới chịu khó cung kính quì lạy đủ 1000 lạy! Và chính tấm lòng đa tình lãng mạn đó vô tình cứu chàng ta khỏi hoạ sát thân.

Kim Dung đã cực tả cái thần trong đôi mắt của thạch tượng làm người đọc liên tưởng đến sự quyến rũ kỳ diệu trong nụ cười Mona Lisa của Leonardo da Vinci. Nhan sắc ấy và đôi mắt ấy thì trách sao anh chàng đa tình Đoàn Dự không điên đảo thần hồn, hân hoan quì lạy, gọi bằng "Thần tiên nương tử, Thần tiên tỷ tỷ", và hứa hẹn thời gian sau sẽ quay về đoàn tụ, dù vị "thần tiên nương tử" đó chỉ là pho thạch tượng! Cái tình yêu ấy đã được thăng hoa gần như thoát tục, và còn như muốn đi xa hơn cả cái khái niệm amor platonicus trong văn học phương Tây.

Dưới ánh sáng của tình yêu như thế, thì mọi vật dù vô tri giác cũng sẽ tràn đầy sức sống và được gán cho một linh hồn. Đó cũng là tình yêu mà sau này chàng ta mãi mãi dành cho người con gái diễm kiều thông tuệ Vương Ngữ Yên - một bản sao của pho thạch tượng thần tiên đó.


http://ngoisao.net/news/hau-truong/2011/07/172159-doan-du-tran-hao-dan-bi-mat-ket-hon/doan_du_2.jpg

Ngoài nhan sắc, chàng ta chẳng thiết tha gì với những cái mà thiên hạ sẵn sàng đổ máu để tranh giành nhau. Đường đường là vị hoàng thân quốc thích của nước Đại Lý, chuẩn bị kế thừa ngôi vua, nhưng vì không muốn học võ công, không ham chính trị, nên chàng ta dấn thân phiêu bạt giang hồ, kết bạn với anh hùng hảo hán.

Hễ thấy nơi nào có tranh chấp là chen vào can thiệp, bằng lý lẽ của anh đồ gàn, bất chấp họ có thèm nghe theo mình hay là không. Võ công thì siêu đẳng với tuyệt kỹ Lục mạch thần kiếm độc bá võ lâm, nhưng chàng ta chẳng thèm mơ màng chi cả, nên khi thì thi thố thần diệu tuyệt luân, lúc thì ngơ ngơ ngẩn ngẩn như đứa bé không biết võ công.

Chỉ có một môn võ công chuyên dùng để "chạy trốn" mà chàng ta luôn sử dụng thành công, đó là những bước Lăng ba vi bộ. Chàng ta học bộ pháp kỳ tuyệt đó rất dễ dàng bởi vì nó chỉ dùng để tránh đòn mà không phải sát thương một ai… Như vậy mới hợp với tấm lòng đôn hậu của chàng ta: muốn tất cả mọi người vất bỏ hận thù, và sống chan hoà với nhau như anh em.

Một anh đồ gàn rong ruỗi giữa cõi giang hồ đầy bất trắc và ân oán thị phi, để rao giảng thuyết "Tứ hải giai huynh đệ" của Khổng Tử bằng cái tâm trong sáng hồn nhiên, giống như một Don Quichotte ở phương Đông. Ấy vậy mà đôi khi những lời lẽ gàn gàn, tưởng chừng như dở hơi đó, lại cứu vãn được nhiều cục diện căng thẳng sắp đi đến chỗ bất khả vãn hồi, và võ công cũng không thể giải quyết được gì.

Kim Dung để cho Đoàn Dự kết nghĩa anh em với Tiêu Phong, Hư Trúc và mối giao tình của họ, như một dòng nước ngầm chạy suốt bên dưới tác phẩm Thiên long bát bộ, như để nêu lên những mối tư lường thâm huyền cho tư tưởng.

Nếu Tạo hóa đã dùng đại lực lượng, đại ý chí để sáng tạo nên những vưu vật hiếm hoi, những cảnh tượng thiên nhiên hùng vĩ, thì con người phải biết thưởng ngoạn chiêm ngưỡng để khỏi phụ tấm lòng Hóa công, cái mà thơ Lý Hạ gọi là "Nguyên hoá tâm". Cũng vậy, khi con người đã bỏ tâm huyết cả một đời người để sáng tạo nên những công trình trác việt, như một thể cách đáp ứng lại đức Sinh của tạo hóa, thì những kiệt tác đó của con người cũng không thể bị vùi chôn trong quên lãng được.

Đỗ Phủ đã từng cảm thán "Văn chương thiên cổ sự, đắc thất thốn tâm tri" (Văn chương là chuyện ngàn năm, được hay mất chỉ tấc lòng biết thôi). Nặn óc vắt tim, đẻo gọt gan ruột làm ra sách là để gởi lại cho hậu thế, mà không một ai biết đến, điều đó há chẳng đáng xót xa sao? Nhưng đâu chỉ trong văn chương, mà trong tất cả những công trình nghệ thuật do con người sáng tạo, đều là chuyện đem tấc lòng gởi vào thiên cổ cả, nên con người của vạn đại mai sau không có quyền để cho mai một.

Do đó, khi Đoàn Dự phát hiện ra bao võ công uyên áo của phái Tiêu Dao còn lưu trong thạch thất núi Vô Lượng, nhưng lại hờ hững bỏ qua không chịu học, (vì ấn tượng mạnh nhất đối với chàng ta là pho thạch tượng chứ không phải các bí cấp võ công), thì Kim Dung phải bố trí cho người anh kết nghĩa của Đoàn Dự là Hư Trúc hưởng được toàn bộ chân truyền của các tuyệt kỹ đó trên cung Linh Thứu. Đó cũng là cách để Hư Trúc, thay mặt anh chàng tam đệ si tình, mà tạ lỗi với cổ nhân!

Nào phải chỉ có những cái hợp nhau mới tìm đến với nhau theo lẽ "Thanh khí ứng cầu", mà những cái cực đoan cũng hay gặp gỡ nhau. Và chính hai cái thái cực đối nghịch, khi kết hợp lại, mới làm sáng tỏ thêm ý nghĩa đời. Ngạn ngữ phương Tây bảo "Les extrémités se touchent" cũng là ý đó.

Một Đoàn Dự không thiết tha chi ngoài nhan sắc, một Tiêu Phong không thích gì ngoài rượu và võ công, hai người tưởng chừng như khác nhau một vực một trời đó, ở chỗ thẳm sâu lại vô cùng gần gũi nhau trong tâm hồn quãng đại. Kim Dung đã sâu sắc biết bao khi sắp xếp hai người đại diện cho hai cực đoan đó gặp nhau trên Tùng hạc lâu và kết nghĩa anh em. Để khi đối cực bên này đổ vỡ thì đối cực bên kia đi đến chỗ tựu thành, như một sự điều hoà và cứu vãn cho nhau.

Người anh hùng Tiêu Phong lạc bước vào Mê Cung, và đã kết thúc cuộc đời trong bi hận. Mối tình ngậm ngùi đau đớn của ông với A Châu đã vỡ tan cung bậc, thì chút tâm nguyện xem như phó thác lại cho người em kết nghĩa là Đoàn Dự, để chàng ta tựu thành những gì ông để dở, bằng khối tình si đối với Vương Ngữ Yên. Tấm lòng đó của Đoàn Dự cho dẫu không cứu vãn được, thì cũng an ủi được rất nhiều cho những tình yêu ngang trái.

Đoàn Dự sinh ra chỉ để phụng hiến cho tình yêu, và đối với một kẻ đa tình như chàng ta thì có lẽ trong tình yêu, người đàn bà không bao giờ có tuổi và người đàn ông không bao giờ có mối tình đầu!


http://fs1.vn.cyworld.com/data2/2007/11/01/098/1193894098983527_file.jpg

phamanhoa
17-02-2013, 05:05 AM
NGHI LÂM



Ngây thơ,thanh khiết tiểu ni cô,
Trần cấu đời thường khó uế ô.
Ngọc sáng nào e chăn kỷ viện,
Sen thơm đâu ngại gió giang hồ.
Thân nơi Kiến Tính ngôi tôn quí,
Hồn gởi Hoa Sơn gã khí đồ.
Một kiếm xong đời tên ngụy tặc,
Đêm trăng trong vắt tiếng nam mô.

phamanhoa

Hansy
18-02-2013, 01:03 PM
NGHI LÂM



Ngây thơ,thanh khiết tiểu ni cô,
Trần cấu đời thường khó uế ô.
Ngọc sáng nào e chăn kỷ viện,
Sen thơm đâu ngại gió giang hồ.
Thân nơi Kiến Tính ngôi tôn quí,
Hồn gởi Hoa Sơn gã khí đồ.
Một kiếm xong đời tên ngụy tặc,
Đêm trăng trong vắt tiếng nam mô.

phamanhoa


TRONG NGẦN

Gia thế không làm xấu dáng cô
Hiền ngoan tinh sạch chẳng dâm ô
Khai kinh diệu ý lan tâm trí
Tiếp đạo vi ba vỗ mặt hồ
Phật pháp am tường lời thiện nguyện
Lệnh Xung mê mết gã hồ đồ
Trộm dưa run rẩy thương là thế
Chưa sạch bụi trần khó vãng mô

HANSY

Hansy
18-02-2013, 01:09 PM
16.

Ẩn ngữ
LIÊN TUYẾT KIỀU


http://vnexpress.net/Files/Subject/3B/A2/2A/D7/01.jpg

Một cô gái dung nhan tuyệt đại, tài năng và trí thông minh đáng được liệt vào hàng cực phẩm của nhân gian, mà đành phải bịt tai trước tiếng lòng thổn thức để gán duyên cùng một nhân vật nửa người nửa vượn. Một thanh niên thông tuệ tuấn tú phải chối bỏ tình yêu để người em kết nghĩa được tựu thành ước nguyện. Một kẻ nửa người nửa vượn - kết quả của một tấn thảm kịch não nùng giữa một con vượn và một cô gái đang tuổi thanh xuân - lại cứ hồn hồn ngạc ngạc giữa nhân gian, yêu say đắm người yêu của nghĩa huynh, mà không biết được rằng mình đã làm hai trái tim tan nát, cứ cuồng điên chiếm hữu cho được người ngọc theo sự sắp đặt của một nhân vật đa mưu túc trí.

Tất cả bi kịch đó xảy ra cũng chỉ vì cái gọi là "đại cục của võ lâm". Ngọa Long Sinh đã bài thiết một tình huống não nùng làm người đọc phải cháy bỏng cả tim gan. Nhưng chính sự tan nát lòng người đó lại là điều kiện để tinh hoa phát tiết. Đó có thể xem như là “chủ đề tư tưởng” trong tác phẩm Vô danh tiêu của Ngọa Long Sinh.

Không muốn tóm lược lại cốt truyện khi viết bài, vì điều đó chỉ thêm rườm rà vô ích đối với người đã đọc sách. Nhưng riêng đối với tác phẩm Ngọa Long Sinh, thì xin độc giả cho phép được “lung khởi” dài dòng đôi chút, vì các tác phẩm của ông ít được phổ biến ở Việt Nam. Phần tóm lược có thêm vài lời nhiếp dẫn, rất mong có thể giúp ích được chút gì đó đối với người chưa từng đọc qua Ngọa Long Sinh.

Nhân vật chính trong bộ Vô danh tiêu là Thượng Quan Kỳ - một thanh niên tuấn tú thông tuệ - sau một biến cố của sư môn, phải lưu lạc giang hồ với thương thế trầm trọng do trúng độc. Y lưu lạc đến một ngôi cổ tự hoang phế và gặp một dị nhân là Tiêu Tiên - người chấp nhận giam mình trong gác vắng gần hai mươi năm trời để luyện võ công thượng thừa thù thắng, muốn đem nội kình gởi vào tiếng tiêu để sát thương địch nhân ở xa hàng dặm, trong chỗ vô hình tích.

Tiêu Tiên tâm tính hỷ nộ bất thường vì ông có một tâm sự bi thương khôn tả: người nghĩa đệ mà ông yêu thương đã đầu độc ông để cướp cả vợ lẫn con. Do phát hiện căn cơ cốt cách của Thượng Quan Kỳ, ông chấp thuận truyền toàn bộ tuyệt nghệ cho Thượng Quan Kỳ mà không cần danh nghĩa thầy trò, chỉ với một yêu cầu là Thượng Quan Kỳ sẽ giúp ông tầm thù rửa hận, vì hai chân ông đã bị tàn phế do trúng độc, nên dù võ công tuyệt cao, ông không muốn rong ruổi giữa giang hồ.

Vốn bản chất quật cường, Thượng Quan Kỳ vẫn khăng khăng từ chối. Sau đó, Thượng Quan Kỳ gặp nạn và rơi vào một tuyệt cốc. Chính ở nơi đây, y đã biết được một thảm kịch nhân gian. Người cứu nạn cho y là một con vượn khổng lồ, và là“chồng” của một thiếu phụ đáng thương!

Thiếu phụ ấy, thuở còn là con gái, sống trong một ngôi làng bình dị ở vùng sơn cước với tất cả các ước mơ bình dị của một thôn nữ hiền lành. Một ngày kia tai hoạ bỗng đổ ập xuống làng khi một con báo từ đâu đến gieo hoạ cho gia súc lẫn người. Dân làng hiền lành mộc mạc đang đau khổ vì không có cách đối phó, thì bỗng nhiên xuất hiện một con vượn khổng lồ đánh chết con báo tai ác kia. Dân làng vô cùng mừng rỡ và hân hoan cảm tạ vị cứu tinh bất ngờ đó, đã đổ xô ra chứng kiến trận đánh kỳ lạ kia. Sổ đoạn trường lại chọn mặt người vô duyên: cô gái ra đứng xem đã bị con vượn bắt mang đi. Kết quả cuộc hôn phối đầy oan nghiệt ấy là Viên Hiếu - đứa con trai nửa vượn nửa người.

Dưới sự sắp đặt của người mẹ bất hạnh, Viên Hiếu theo Thượng Quan Kỳ về lại “cõi người ta”, với tâm hồn ngẩn ngơ của một người sơ thuỷ vừa thoát khỏi cuộc sống vượn người. Sau khi học được võ công kỳ đặc của Tiêu Tiên, hai anh em dấn thân vào giang hồ và gặp Liên Tuyết Kiều, trong bối cảnh cô này, dưới vai một cô gái có tang, đang tìm cách chi phối quần hùng.

Cô gái cực kỳ diễm lệ và võ công cao cường đó là con nuôi của một kẻ gian hùng tuyệt đại võ lâm đang nuôi mộng bá chủ giang hồ: Cổn Long Vương. Tài trí, dã tâm và thủ đoạn lẫn võ công của Cổn Long Vương còn cao gấp nhiều lần so với Tả Lãnh Thiền trong Tiếu ngạo giang hồ của Kim Dung. Y hiện thân như là Caesar giữa chốn giang hồ, và chỉ có một người đủ mưu lược và tài trí để chống đối lại y là Đường Toàn - sư đệ của chính y. Đường Toàn chỉ là một thư sinh trói gà không chặt, nhưng bằng trí thông minh kiệt xuất của mình, làm quân sư cho Cùng Gia Bang để đối đầu với vị sư huynh gian hùng đó.

Liên Tuyết Kiều dùng mê dược của Cổn Long Vương để thu phục Thượng Quan Kỳ làm vệ sĩ. Một lòng trung thành với nghĩa huynh, Viên Hiếu cùng đi theo Thượng Quan Kỳ để bảo vệ. Cõi giang hồ đầy biến động dưới mắt y chẳng có gì đáng bận tâm, ngoài người nghĩa huynh và cô nàng Liên Tuyết Kiều diễm lệ.


http://s2.thegioibongda.com/g/2010/06/20/dai-su-luc-mach-5.jpg

Viên Hiếu đối với Liên Tuyết Kiều như Du Thản Chi đối với A Tử. Trong tâm hồn yêu đương man dại đó, chân dung Liên Tuyết Kiều hiện ra như Bồ Tát Quan Âm! Còn Liên Tuyết Kiều càng ngày càng khám phá ra một đều: chàng vệ sĩ võ công cao cường, dưới lớp hoá trang bệnh hoạn và đang bị một thần trí vì mê dược, không biết tự bao giờ đã chiếm trọn trái tim nàng.

Về sau, do khiếp sợ trước dã tâm và thủ đoạn của Cổn Long Vương, Liên Tuyết Kiều gia nhập Cùng Gia Bang để chống lại nghĩa phụ mình. Mê dược được giải, Thượng Quang Kỳ khôi phục thần trí và hỡi ơi, nghiệt oan cũng khởi đầu từ đó, khi chàng thanh niên tuấn tú thông tuệ kia tự hỏi lòng mình, và thấy rằng mình đã cùng Liên Tuyết Kiều "hẹn nhau từ muôn kiếp trước”.

Một bên nghĩa đệ, một bên người yêu. Làm thế nào để đôi đường đều trọn vẹn? Ở đây không khởi đầu cho một mối tình tay ba rẻ tiền, mà vấn đề tư tưởng được đẩy lên đỉnh cao chót vót.

Đường Toàn, với thân hoài tuyệt học nhưng thể trạng lại bạc nhược, đang muốn tìm người để kế thừa y bát. Chính thời điểm đó, Liên Tuyết Kiều hiện ra trước mắt ông như một môn đồ lý tưởng. Giống như Khổng Minh tìm được Khương Duy.

Vị quân sư thông minh trác tuyệt đó biết rõ tình cảm của Liên Tuyết Kiều với Thượng Quan Kỳ, nhưng ông cũng đã vô cùng sâu sắc để hiểu rằng một khi gái quốc sắc tìm được trai thiên tài thì mọi sự xem như chấm dứt. Nàng sẽ tự an phận với cuộc sống bình yên của một người vợ hiền, sẽ lo vá may nội trợ để chăm sóc hạnh phúc cho tổ ấm gia đình. Một thằng cu hay con bé ra đời nữa là xem như xong!

Cuộc sống gia đình êm ấm luôn là ước mơ của con người, nhưng oái ăm thay, đối với khách tài hoa, thì nó cũng là nguyên nhân làm lụi tàn đi tinh thể.

Ta biết ngày mai em cưới vợ
Ngày làm hai buổi tối về thăm
Cơm xong chén nước chờ bên cạnh
Em bế thằng con được mấy năm
Mới mấy năm thôi đủ phận chồng
Chàng trai ngày trước đã thành công
Không còn mộng ước thời trai trẻ
Mắt sáng phai rồi, má hóp không.
(Xuân Diệu).

Xuân Diệu đã từng chua xót cho bè bạn hào hoa thuở cũ, khi cay đắng nhận ra rằng cuộc sống êm ả đơn điệu của gia đình đã nhận chìm mất nơi họ bao hoài bão thuở thanh xuân.

Ta bước lên đường kêu gọi mãi.
Những người bạn cũ thuở anh niên
(Xuân Diệu)

Và lời kêu gọi đó của Xuân Diệu đã tìm được lời đồng vọng từ Ngọa Long Sinh.

Thôi thì từ đây, bao võ công bao tài trí từng làm khiếp đảm quần hùng, em xin gởi trả hết cho đời. Dầu gì đi nữa em cũng chỉ là phận nữ nhi "nghìn tầm gởi bóng tùng quân, nắng mưa che chở cho thân cát đằng”, rong ruổi làm gì nữa, đem tài hoa ra ganh đua xông xáo với đời làm gì nữa, khi Thượng Đế đã ban cho em một đấng lang quân như ý?

Chàng cứ tha hồ tung hoành đi nhé. Em sẽ lo toan mọi chuyện nhà, để mỗi khi quay về là chàng sẽ thấy một tổ ấm dịu êm. Đôi mắt từng áp đảo quần hùng từ nay sẽ mất hết thần quang để chỉ nhìn con nhìn chồng. Đôi tay từng chỉ huy nhiều trận huyết chiến từ đây sẽ tìm bình yên bên mâm cơm cái chén!

Trong khi đó? Cục diện võ lâm đang cần một con người tài trí nhiều cơ biến như Liên Tuyết Kiều. Cái bản lĩnh ấy không thể để mất chìm trong tiếng ru con, và cái thông tuệ ấy không thể vùi mất nơi góc bếp. Nàng phải thay vị quân sư yểu mệnh kia để tiếp tục cứu vãn sát kiếp cho võ lâm.

Và Đường Toàn bố trí để gá duyên nàng cùng Viên Hiếu. Mộng hoài thanh xuân đành đổ vỡ theo hình bóng ngậm ngùi. Thế thì từ nay ta sẽ đem hết tài hoa bạt tụy ra thi thố với đời để phát tiết cho hết mối hận lòng cay đắng. Trí tuệ bị ma chiết sẽ càng thêm sắc bén, khổ lụy đoạn trường sẽ càng làm thêm rõ nét tài hoa.

Ngọa Long Sinh giúp ta thể hội một điểm: để cho hai cái tài hoa tuyệt đại gặp nhau ắt tinh thể sẽ tan hoang. Rồng gặp mây đâu chắc sẽ thi thố được hết tài năng, mà lắm khi sự êm ấm lâu ngày sẽ biến nó thành con giun đất!

Con người chỉ khám phá được mình khi phải đương đầu với khổ đau và trở ngại.

Cảnh đoạn trường sẽ đưa con người qua muôn vạn cảnh đời dâu bể để con người triệt ngộ và có điều kiện phát tiết anh hoa. Tấm vải của mộng đời chân chính sẽ không được dệt bằng tơ lụa trưởng giả của gác tía lầu son, của ngọc đường kim mã, mà phải được dệt băng nước mắt và cát bụi của trần gian.

Ngọa Long Sinh cũng để Thượng Quan Kỳ và Liên Tuyết Kiều phải chia tay vĩnh viễn. Con người vô tâm Viên Hiếu phải kết duyên cùng Liên Tuyết Kiều để làm sáng tỏ thêm ẩn ngữ của nàng trong “cõi người ta”.

--------------
Trước 1975, tại Sài Gòn, Thương Lan đã dịch cuốn này với tựa đề “Điệu sáo mê hồn”. Song bản dịch lại bỏ một phần cuối là đoạn quan trọng nhất trong tác phẩm, thành thử bạn đọc có cảm tưởng bị hẫng khi đọc bản dịch này.


http://images1.gamek.channelvn.net/Images/Uploaded/Share/2009/09/03/3909lcmchthnkim3.jpg

Hansy
19-02-2013, 12:58 PM
17.

TIÊU PHONG
Người anh hùng
trong mê cung định mệnh


http://ninjacry.wap.sh/images/TieuPhong.jpg

Một chiêu cực kì cương mãnh trong Hàng Long thập bát chưởng tung ra, và A Châu - trong lốt cải trang Đoàn Chính Thuần - đã ngã gục dưới ánh sấm chớp lòe và cơn mưa đêm tầm tã. Kim Dung đã bố trí cái chết oan uổng của cô tì nữ thông minh A Châu trong một bối cảnh vô cùng thê lương và bi đát.

Tiêu Phong lặng người ôm xác chết người yêu do mình lỡ ra tay ngộ sát. Cùng với cái chết của A Châu, một Tiêu Phong chỉ biết rượu và võ công đã chết, sự thanh thản tâm hồn đã cáo chung và từ đây kẻ anh hùng kiệt xuất của Kim Dung bắt đầu cung bậc của đoạn trường khổ lụy.

Trong tất cả các nhân vật của Kim Dung, có lẽ chỉ có Tiêu Phong là nhân vật gây ấn tượng sâu đậm nhất về thân phận bi tráng của người anh hùng trong mê cung của định mệnh. Số phận của ông thật là nghiệt ngã.

Thoạt tiên ông ngỡ mình là người Hán, và với tư cách là Bang chủ Cái bang, ông đã vì xứ sở Hán mà phục vụ. Vốn bản chất sôi nổi anh hùng, cả đời ông chỉ giao du cùng hảo hán khắp giang hồ. Ông không hề biết đến tình yêu, chưa bao giờ biết rung động trước một khách má hồng nào, dẫu người đó có thuộc nòi thiên hương quốc sắc. Ông chỉ đam mê rượu cùng võ công. Và chính cái đó đã dẫn đến thảm kịch của đời ông, một thảm kịch cực kì bi tráng.

Mà cũng đúng thôi. Một trang hán tử vô cùng kiêu dũng, là niềm ước mơ của biết bao nhiêu khách má hồng thế mà ông cứ vô tình đi giữa cõi đời, cứ mãi mãi "Ví dầu trần gian có người quốc sắc, thì ta cũng chỉ dừng chân vuốt mặt rồi đi"(*), cứ hờ hững với tấm lòng say đắm của người ta, ông xem trọng rượu và võ công hơn nhan sắc, trách nào người ta không hờn dỗi.

Từ hờn dỗi biến thành hờn căm. Rồi từ hờn căm đi đến hận thù và tìm cách trả thù cũng không xa. Định Mệnh đã muốn thay mặt cho khách má hồng trả thù anh chàng Narcisse phương Đông. Và người được Định Mệnh chọn ra để làm công việc ấy lại là Mã phu nhân, vợ của Phó Bang chủ Cái bang.

Một phu nhân dung nhan tuyệt đại, luôn tự hào về sắc đẹp của mình, đã khiến biết bao nhiêu khách anh hùng điên đảo thần hồn chỉ bằng một khóe mắt thu ba hoặc một nụ cười hàm tiếu. Trong một buổi tiệc lớn của Cái Bang, khi các khách anh hùng dự tiệc đều ngây ngất trước sắc đẹp của Mã phu nhân, thì Tiêu Phong chỉ chào nàng chiếu lệ và say sưa uống rượu với quần hào. Tiêu Phong vô tình như xem phu nhân không có mặt trên đời!

Vì tình yêu vô vọng, và vì tự ái, phu nhân rắp tâm báo thù. Báo thù bởi vì người mà mình thầm yêu lại không quan tâm đến mình như bao người khác. Tìm mọi cách báo thù người mình yêu, khiến cho họ thân bại danh liệt dù điều đó làm cho trái tim mình thêm tan nát! Tâm lí người đàn bà khi yêu, khi ghen thực cực kì mâu thuẫn và phức tạp.

Có lẽ chỉ có thần thoại Hy lạp và các bi kịch của Shakespeare, Racine mới sánh kịp ông Kim Dung vễ lãnh vực này.
Khi tài liệu mật về Tiêu Phong được Mã phu nhân công bố trước quần hào Cái bang, với sự dàn dựng công phu của trưởng lão Cái bang Bạch Thế Kinh, người ta mới sững sờ phát hiện ra thân thế thật của Tiêu Phong.

Ông vốn là người Khất đan. Song thân ông, năm xưa khi đi ăn tiệc nơi Nhạn Môn quan đã bị quần hào Trung nguyên, tưởng lầm là những người có âm mưu xâm nhập Trung nguyên, nên phục kích vây đánh chết. Lúc đó ông mới chỉ là một hài nhi còn ẵm ngửa. Ông được quần hào đưa về chùa Thiếu Lâm nuôi dưỡng và rèn luyện võ công, xem như để chuộc lại phần nào lỗi lầm trong cuộc giết người vô tội. Vốn tư chất thông minh, đôn hậu và có khí độ trầm hùng, nên chỉ sau một thời gian, ông trở thành Bang chủ Cái bang.

Ông hồn nhiên sống như người Hán và xem người Khất đan như kẻ thù. Ông trở thành biểu tượng của hào khí và võ công, khiến tất cả các tay cao thủ của hai phái chính tà đều ngưỡng mộ. Thế mà đớn đau thay, khi thân thế ông bị phát hiện, dù còn đang là nghi án, thì số đông quần hào lại nhanh chóng quay lưng và phủ nhận tất cả những gì tốt đẹp của khách anh hùng.

Người anh hùng của Kim Dung từ nạn nhân của một trái tim hờn ghen uất hận tiếp tục biến thành nạn nhân của một mưu đồ chính trị: đó là âm mưu lật đổ ngôi vị Bang chủ của ông.

Tâm lí con người cổ kim xưa nay đều có một điều quỉ dị kì lạ, ấy là khi chứng kiến sự sụp đổ của một thần tượng hay một người đang được tôn vinh thì trong thâm tâm họ lại cảm thấy một niềm hoan hỉ và thỏa mãn ngấm ngầm!

Sau đó, Tiêu Phong bị xua đuổi khỏi cả hai phái chính tà.

Trong tâm trạng cực kì hoang mang đau đớn, ông quyết tâm đi tìm cho ra nguồn gốc thân thế của mình. Trên đường điều tra, ông lại tiếp tục bị ngộ nhận là giết cha mẹ nuôi Kiều lão, giết ân sư Huyền Khổ và chịu bao nỗi oan uổng khác. Khi ôm A Châu đến Tụ Hiền trang để cầu Tiết Thần Y chữa bệnh, ông mới biết quần hào đang tụ họp nơi đây để tìm cách đối phó với ông, một người giờ đây bị xem như là một tên cực gian ác, một kẻ thù chung của võ lâm!

Một trong những bi kịch của cuộc đời là nhiều khi vô tình tạo ra ngộ nhận và đẩy con người vào chỗ ngờ vực hận thù. Lắm lúc con người muốn làm việc thiện mà không được và muốn tránh việc ác cũng không xong.

Thôi được, các ngươi trước kia đã từng là bạn hữu của ta, có người còn mang ơn ta nữa, giờ đây Định Mệnh đã bôi mặt ta lem luốc không cho bạn bè võ lâm đồng đạo nhận ra ta nữa, lời ta nói không còn ai nghe ra nữa, đính chính không xong, biện bạch không được thì hào khí ta trỗi dậy trong huyết quản, ta sẽ cùng quần hào các ngươi uống cạn một chén rượu tuyệt tình rồi quyết tâm cùng nhau một phen sống mái để tỏ rõ mặt hùng anh!

Trong tất cả tác phẩm của Kim Dung, trận huyết chiến đơn thân độc đấu giữa Tiêu Phong với quần hùng tại Tụ Hiền trang có lẽ là trang sử bi tráng vào hào hùng nhất trong lịch sử võ lâm.

Trong Ỷ Thiên Đồ Long kí. khi Trương Vô Kỵ xuất hiện ngẫu nhiên trên Quang Minh đỉnh để một mình đánh bại tất cả quần hùng, cứu Minh giáo khỏi thảm họa bị tận diệt, thì chàng thiếu niên anh hùng đó dựa vào môn Càn Khôn Đại Nã Di siêu tuyệt và tấm lòng đôn hậu để hòa giải tình thế nguy cấp. Lúc đó, Vô Kỵ chỉ là một chàng thiếu niên hoàn toàn xa lạ với cả hai phe, người bị thua lại được chỉ điểm thêm võ công, ai cũng hân hoan cảm tạ. Phe chính giáo do phái Võ Đang đại diện không muốn lợi dụng thời cơ để tận sát phe Minh giáo, họ cùng quần hùng rời Quang Minh đỉnh ra đi trong tâm trạng hân hoan với là cờ sáng ngời chính nghĩa: Công đạo võ lâm vẫn được duy trì.

Nó khác hẳn cuộc huyết chiến của Tiêu Phong nơi Tụ Hiền trang. Đệ huynh đồng đạo không nhìn nhận ra nhau và gây nên thảm cảnh tương tàn. Bi kịch nối tiếp theo bi kịch, ngộ nhận chất chồng lên ngộ nhận. Máu càng đổ, hận cừu càng kết chặt, oan khiên càng nặng nề thêm. Cứ điên cuồng cùng nhau đem hết sức lực bình sinh quyết đấu, đem tính mạng phiêu bồng ra chơi trò chơi kì tuyệt của Định Mệnh, cứ tự cuốn trói nhau vào mới bòng bong rối mù của ân oán thị phi cực kì phi lí để rồi mai đây, khi tỉnh ngộ và dừng tay lại, nhìn ra nhau chân dung của đệ của huynh, thì buổi trùng lai cuối cùng nơi Nhạn Môn quan đã nhuộm quá nhiều sắc màu ngậm ngùi cay đắng!


http://images.yume.vn/blog/201101/22/1295714435_u2_uongruou.jpg

Rồi cuộc truy tìm thân thế đưa đẩy Tiêu Phong đến chỗ ngộ sát người yêu duy nhất trong đời là A Châu khi hai người đã ước nguyện sẽ từ giã giang hồ, cùng tìm về Nhạn Môn quan để sống cuộc sống thanh bình chăn dê trên đồng cỏ.

A Châu, do ngộ nhận, cứ ngỡ người cha mà mình không dám nhìn nhận - Đoàn Chính Thuần - là chủ mưu trong việc giết cha mẹ Tiêu Phong năm xưa ngoài quan ải. Còn Tiêu Phong cũng không biết người mà mình yêu thương hơn cả tính mệnh, nguồn an ủi duy nhất trong đời, lại chính là con của Đoàn Chính Thuần. Khi hội diện với Đoàn Chính Thuần nơi rừng trúc, Tiêu Phong hỏi về thân thế của một hài nhi là mình thì Đoàn Chính Thuần lại ngỡ là hỏi về một đứa con rơi ngày trước của ông. Cuộc đối thoại vô tình lại càng tăng thêm ngộ nhận.

Lời lạc điệu, tiếng lạc âm. Mọi mối cảm thông đều bị cắt đứt. Định Mệnh đã giăng một màn lưới oan nghiệt để không ai còn nhận ra nhau! Đối diện nhau mà cứ như lạc trong cõi sương mù. A Châu vì chữ Hiếu đã tự nguyện đem thân mình ra hóa giải mối oan cừu không có thực!

Hiếu Tình đôi đường không trọn thì chỉ còn có cái chết mà thôi. Người con gái thông minh, đáng yêu mang nặng tâm hồn phương Đông đó đã tìm cách điều hòa những mâu thuẫn trong đời bắng một giải pháp bi thương!

Tình yêu chân chính đầu đời luôn mở ra những chân trời vô biên và tuyệt đích khiến cho con người trở nên cao thượng. Và để đạt đến chân trời đó, đôi khi con người sẵn sàng khước từ cả đối tượng thương yêu và hân hoan chấp nhận hi sinh.

Trong dang dỡ, trong đau khổ, thậm chí trong cái chết, lòng người vẫn tự hào vì đã sống xứng đáng với tình yêu đó. Cái chết oan nghiệt của A Châu đã làm sáng tỏ những điều ngộ nhận nhưng tất cả đã quá muộn màng!

Mọi người lần lượt bỏ đi chỉ còn một mình Tiêu Phong ôm xác A Châu kêu gào giữa cảnh đồng không! Võ công quán thế, hào khí ngất trời. Tất cả những cái đó nào có nghĩa gì trước cái xác lạnh giá của người yêu? Bi kịch ngàn năm của con người vẫn hiện ra đấy trong các kiệt tác kim cổ Đông Tây. Đấng Tối cao vẫn cứ muôn đời lặng thinh trước những tiếng kêu trầm thống tuyệt vọng của con người.

Trong Le Malentendu của A. Camus, người câm đã bỏ đi khi người mẹ ra sông tự vẫn vì do ngộ nhận lỡ giết con trai, bỏ lại một mình Martha đang kêu gào, đối diện với sa mạc nhân gian!

Tiêu Phong không có được diễm phúc như Trương Thúy Sơn là được cùng chết với Hân Tố Tố để nối kết những gì còn để dang dở trong cuộc sống (Ỷ Thiên Đồ Long kí), mà chàng buộc phải sống để truy tìm thân thế trong khi chỉ muốn được chết để tạ tội với A Châu!

Cuối cùng, Tiêu Phong phát hiện ra phụ thân là Tiêu Viễn Sơn vẫn còn sống. Ông cũng chính là ân nhân đã cứu thoát Tiêu Phong ra khỏi Tụ Hiền trang trong cơn nguy khốn. Và đau đớn thay chính Tiêu Viễn Sơn đã tự tay đẩy con mình vào những cảnh ngộ oan uổng trớ trêu. Ông đã tự tay giết chết những nạn nhân rồi đổ họa cho con trai! Hai cha con nhận diện ra nhau ở giai đoạn cay đắng dị thường trong Mê Cung Định Mệnh.

Cùng với bi kịch thầy trò Thành Khôn - Tạ Tốn (Ỷ Thiên Đồ Long kí), Kim Dung đã dày công bài thiết thêm bi kịch cha con Tiêu Viễn Sơn - Tiêu Phong như một ngẫu hứng để song đôi về những oan nghiệt tồn sinh. Cuộc gặp gỡ hai phái chính tà trên đỉnh Thiếu Lâm tưởng chừng rơi vào chỗ bất khả vãn hồi thì nhà sư quét rác vô danh trong Tàng Kinh các xuất hiện, dùng võ công siêu tuyệt và Phật pháp vô biên để hóa giải mối oan cừu giữa Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác, đồng thời khai ngộ cho hai nhân vật kiêu hùng đó khiến họ tỉnh ngộ và qui y cửa Phật.

Một lần nữa Kim Dung lại nhờ đến Phật pháp để hóa giải oan cừu. Cõi đạo mênh mông Đông phương luôn có chỗ để con người hồi tâm quay về tìm cách hóa giải mọi ân oán thị phi khi chúng bị đẩy đến chỗ tột cùng và mọi biện pháp giải quyết tưởng chừng như bế tắc: Sơn cùng thủy phúc nghi vô lộ. Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn (Đến chỗ sơn cùng thủy tận cứ ngỡ như không còn lối nữa, thì lại thấy thấp thoáng có một thôn xóm trong những rặng liễu mờ và những cành hoa sáng - Lục Du).

Trong khi xưa nay quần hùng đều lên án và nguyền rủa Tiêu Phong thì nhà sư vô danh dị thường đó lại hết lời ca tụng!

Sách Kim Dung thường âm thầm mở ra những khoảng vắng lặng để ta có dịp suy ngẫm thêm về Đức Lí Uyên Nguyên.

Tiêu Viễn Sơn đã xuất gia, nhưng Tiêu Phong lại phải âm thầm sống để chăm lo cho A Tử theo lời trăn trối của A Châu, dù từ sau cái chết của người yêu, tâm hồn ông bắt đầu đối diện với sự trống vắng hãi hùng.

Tiếng sáo chăn dê mơ hồ trên đồng cỏ Nhạn Môn quan vẫn vọng về như một sự đọa đày của kỉ niệm. Kim Dung lại càng đẩy cái đoạn trường của tình yêu lên cao độ khi để cho nhân vật A Tử yêu người anh rể Tiêu Phong, bên cạnh đó lại bài thiết thêm mối thảm kịch của Du Thản Chi trong mối tình si dại cuồng điên đối với A Tử!

Suốt quãng đời còn lại, mỗi lần khuyên giải A Tử, Tiêu Phong rất ít khi nhắc đến A Châu, nhưng mỗi khi đọc, ta vẫn hình dung được tâm hồn ông và cảm thấy ngậm ngùi khôn tả.

Ở đoạn cuối tác phẩm, để cứu quần hùng bị kẹt tại Nhạn Môn quan và buộc vua Liêu lui binh không được xâm lược Trung Nguyên, Tiêu Phong đã dùng võ lực áp chế nhà vua bẻ tên thề trước ba quân, rồi ông dùng tên đâm vào ngực tự vẫn để giữ trọn chữ trung, thì ta hiểu đó chỉ là cái cớ.

Tiêu Phong đã chết thực sự từ sau cái chết của A Châu! A Tử móc mắt ném trả lại cho Du Thản Chi rồi ôm xác Tiêu Phong rơi vào vực thẳm để Du Thản Chi mù lòa kêu gào tên người yêu giữa cảnh trời chiều quan ải. Trong tất cả các tác phẩm Kim Dung có lẽ Thiên long bát bộ là bộ sách hay nhất và có lẽ chỉ có Thiên long bát bộ mới có cái chung cục đau thương nhường kia.

Và dường như định mệnh luôn luôn đem bi kịch vây quanh cuộc sống của những kẻ anh hùng?
___________
(*) Hai câu thơ này tác giả nghe từ trong một tiệc rượu từ lâu nên không nhớ người đọc.


http://files.myopera.com/BaoTranart/blog/TLBB%202.jpg

phamanhoa
20-02-2013, 05:52 AM
TIỂU CHIÊU



Cam mang xiềng xích,chịu đòn roi,
Phận số oan khiên đã định rồi.
Tình thắm dâng chàng , lòng thiếu nữ,
Công ơn trả mẹ,phận tôi đòi.
Thị tì một thuở ân tình mãi,
Thánh nữ trăm năm vĩnh biệt rồi.
Khói sóng hoàng hôn nhòa mắt lệ,
Nghìn trùng xa cách nhớ khôn nguôi.

phamanhoa

Hansy
21-02-2013, 02:44 AM
TIỂU CHIÊU



Cam mang xiềng xích,chịu đòn roi,
Phận số oan khiên đã định rồi.
Tình thắm dâng chàng , lòng thiếu nữ,
Công ơn trả mẹ,phận tôi đòi.
Thị tì một thuở ân tình mãi,
Thánh nữ trăm năm vĩnh biệt rồi.
Khói sóng hoàng hôn nhòa mắt lệ,
Nghìn trùng xa cách nhớ khôn nguôi.

phamanhoa



THÁNH NỮ CÔ TÌNH

Phận nữ trời đày phải chuốc roi
Tình si ghi dấu trái tim rồi
Ba Tư mãn kiếp làm cô nữ
Đất khách bao năm chịu tớ đòi
Bái biệt Trung Nguyên lòng lặng xót
Xa lìa Vô Kỵ máu thầm rơi
Về đi hai ngã niềm thương hận
Một biển cô tình khó thể nguôi

HANSY

Hansy
21-02-2013, 02:47 AM
18.

MẠC ĐẠI TIÊN SINH
Cánh độc hạc u hoài


http://images.ndthe.multiply.com/image/ij7blXiVsOgkJhxwMfQxaw/photos/1M/orig/127/7f58.jpg?et=ctZ3fnsh43SrU7GQq0Z2Ig&nmid=0

Cục diện đương trường đang hồi căng thẳng tột độ, khi đại cao thủ của phái Tung Sơn là Đại tung dương thủ Phí Bân chuẩn bị mở sát giới, thì bất ngờ tiếng hồ cầm vang lên, và một bóng người gầy gò xuất hiện dưới tàng cây. Tiếng hồ cầm đột nhiên dứt bặt, lưỡi kiếm mảnh đã tung ra như con bạch xà lấp loáng dưới ánh trăng thượng huyền.

Và Phí Bân ngã gục dưới các kiếm chiêu thần tốc. Kiếm quang vụt tắt, tiếng hồ cầm ai oán lại trổi lên, ảo não và mơ hồ theo từng bước chân xa dần của Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh. Một thảm họa được vãn hồi. Tấn kịch xảy ra chớp nhoáng và lặng lẽ trong đêm vắng. Vị kiếm khách bất ngờ đến rồi bất ngờ đi. Âm thầm và cô đơn. Như chính tâm sự u hoài của vị chưởng môn kì lạ ấy.

Trong suốt tác phẩm Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung chỉ phác họa một vài nét chấm phá đan thanh về Mạc Đại tiên sinh nhưng đã để lại ấn tượng lạ thường về vị chưởng môn phái Hành Sơn, làm người đọc bồi hồi khôn xiết. Ngày sư đệ ông là Lưu Chính Phong rửa tay gác kiếm, một sự kiện lớn làm xôn xao cả giang hồ, người ta chờ mong ông về nhưng ông vẫn biệt tích. Trong cảnh náo nhiệt của thành Hành Sơn ngày đó, nhiều người đang háo hức muốn hội kiến ông, thì có ai ngờ nỗi ông lão gầy ốm quê mùa, ôm cây hồ cầm ngồi hát trong quán trà, thản nhiên nhận những đồng xu bố thí như một ông lão ăn mày, lại là vị chưởng môn mà người ta đang ngóng đợi!

Người ta chỉ kịp nhận ra ông lúc ông đã đi khuất, sau khi tung một đường gươm tinh ảo chém đứt bảy miệng chén trà, để cảnh báo các khách giang hồ ba hoa hiếu sự. Như một kẻ "đại ẩn" giữa đời, con người cô độc kia lại lặng lẽ ra đi, nhưng đã để lại sau mình dư hưởng của tám chữ làm kinh động võ lâm "Cầm trung tàng kiếm, kiếm phát cầm thanh" (Trong đàn có dấu kiếm, kiếm phát ra như tiếng đàn).

Khi tấn thảm kịch xảy ra trong Lưu phủ, toàn gia Lưu Chính Phong bị giết sạch, khiến bao tay hảo thủ giang hồ phải chấn động tâm thần, vẫn không thấy ông xuất đầu lộ diện. Rồi bất ngờ, ông lại hiện ra như hồn ma giữa đêm khuya, giết chết Phí Bân để cứu sống năm mạng người: Lệnh Hồ Xung, Khúc Phi Yến, Nghi Lâm, và cả hai đại cao thủ chính tà Lưu Chính Phong và Khúc Dương trưởng lão.

Rồi ông lại tuyệt tích giang hồ. Cứ phiêu nhiên mà đến rồi phiêu nhiên mà đi. Như một cánh hạc cô đơn, Mạc Đại tiên sinh mãi ruỗi rong giữa cõi phong trần với cây hồ cầm vàng ố và một tâm sự ngậm ngùi khó hiểu.

Là chưởng môn một môn phái lớn mà cứ làm một người phiêu đãng lênh đênh. Không gia đình, không thân hữu. Sống giữa cõi đời, mà tâm sự cứ như mây bay, hạc lánh. Người ta cho rằng ông và sư đệ là Lưu Chính Phong không hợp tính tình nhau, dù cả hai đều là những nghệ sĩ thượng thừa. Điều đó dẫu có đáng tiếc chăng nữa, thì cũng là chuyện thường tình. Ở trên đời có biết bao nhiêu tâm hồn hoằng đại vẫn ngộ nhận nhau suốt cả bình sinh?

Giữa bao nhiêu sóng gió giang hồ, bỗng nhiên Mạc Đại tiên sinh lại xuất hiện, vẫn dưới lớp một ông lão quê mùa ngồi độc ẩm trong một quán rượu vô danh trên bờ sông Hoàng Hà, để nhắn nhủ Lệnh Hồ Xung nên làm minh chủ và dẫn quần hùng hắc đạo lên Thiếu Lâm tự cứu Nhậm Doanh Doanh. Trong khi một bậc cao nhân thế ngoại là Xung Hư đạo trưởng tìm cách ngăn cản không cho Lệnh Hồ Xung làm việc đó, thì thái độ và hành động của Mạc Đại tiên sinh tỏ ra ông có cái tâm nhân bản hơn rất nhiều.

Mặc dù Xung Hư đã biết rõ chuyện Doanh Doanh, vì tình yêu nên phải xả thân, hi sinh cứu Lệnh Hồ Xung, để chấp nhận cái giá phải trả là chung thân chịu giam cầm trong thạch thất, nhưng dưới mắt vị chưởng môn phái Võ Đang kia, Nhậm Doanh Doanh cũng vẫn chỉ là một "nữ ma đầu".

Ông còn khuyên Lệnh Hồ Xung nên quên Nhậm Doanh Doanh đi, để tìm một nơi "danh môn chính phái", cho xứng đáng với tài năng và phẩm hạnh. Làm như "danh môn chính phái" là cái gì đó ghê gớm lắm trên cõi đời này! Vị đệ nhất kiếm thủ đương thời đó, kiếm pháp đã cực cao ắt phải có được cái tâm cực tĩnh và đạo hạnh cực thâm, thế sao ông vẫn còn nặng định kiến về chính tà đến vậy!

Sự hi sinh của Doanh Doanh vì tình yêu đâu phải là điều dễ tìm thấy trên cõi đời này? Từ thân phận một "Thánh Cô" cực kì cao ngạo, thanh uy trùm cả võ lâm với hàng trăm ngàn người cầu cạnh, thế mà cô lại chấp nhận hi sinh vì Lệnh Hồ Xung. Điều đáng cảm động nhất là sự hi sinh đó lại diễn ra ngay tại thời điểm mà gã tửu đồ lãng tử kia đã thân bại danh liệt, như một thây ma vất vưỡng giữa cõi giang hồ.

"Sĩ vị tri kỉ giả tử", kẻ sĩ chịu đem cái chết để đáp đền tấm lòng tri kỉ, là chuyện rất nhân bản ở đời thường. Kinh Kha vì Thái tử Đan mà vượt sông Dịch sang Tần. Dự Nhượng vì cảm tấm lòng đãi ngộ "quốc sĩ " mà chịu hủy họai thân thể để báo thù cho Trí Bá. Khổng Minh nguyện "óc gan lầy đất" để đáp đền ơn tri ngộ của Lưu Tiên chúa. Bá Nha ngậm ngùi đập vỡ cây đàn trên nấm mộ Tử Kì. Giữa kẻ sĩ và tri kỉ còn vậy, huống hồ đây lại là một tri kỉ hồng nhan?

Antony đã vì Cléopâtre mà chấp nhận hi sinh cả cơ đồ, để về chết dưới một nụ môi hôn. Từ Hải đã vì Thúy Kiều mà hân hoan làm "người tử sinh", để sự nghiệp năm năm hùng cứ bị vùi chôn nơi thiển thổ. Cho nên Kim Dung có để Lệnh Hồ Xung khước từ tất cả, sẵn sàng chấp nhận cả cái chết, để quyết tâm cứu cho được Doanh Doanh, thì đó cũng chỉ là một cách tiếp theo cung bậc đa tình của bao thiên tài kim cổ.

Chốn suối vàng, Shakespeare ắt hẳn sẽ cùng Nguyễn Du nắm tay nhau mà nhắc chuyện Kim Dung!


http://images.wikia.com/tuhientrang/vi/images/e/e9/Mac_Dai_Tien_Sinh_2001.jpg

Người xưa cho rằng chỉ có bậc thánh nhân mới quên được tình, và chỉ có người ngu mới không biết đến tình. Thánh nhân thì vong tình, ngu phu thì vô tình. Bọn chúng ta, với trái tim huyết nhục, ắt hẵn không thể đạt nỗi đến cảnh giới vong tình, nhưng cũng không thể là những kẻ ngu xuẫn vô tình. Nên suốt đời cứ cưu mang mãi một chữ tình để đắm chìm giữa cõi trăm năm.

Câu nói của Trương Trào, một thi sĩ Trung Quốc, cách đây ba thế kỉ mà nghe ra vẫn còn vô cùng thắm thiết "Một chữ tình để duy trì thế giới, một chữ tài để tô điểm càn khôn". Ôi! cái tình là cái lụy, nhưng thử hỏi không có cái lụy ấy thì cõi đời sẽ buồn tẻ và đơn điệu biết bao nhiêu? Vị đạo trưởng khả kính được tôn xưng là Thái Sơn Bắc Đẩu của võ lâm đó, có lẽ do chỉ sống mãi với cõi đạo thanh tĩnh vô vi, nên không cảm thông được sự nhiệm màu của chữ "Tình". Hai chữ "vong tình" và "vô tình" sao mà gần nhau đến thế!

Khác hẳn Xung Hư đạo trưởng, Mạc Đại tiên sinh lại nhìn Doanh Doanh bằng đôi mắt đầy tính nhân văn của một kẻ hữu tình. Trong khi tất cả các nhân vật thuộc phe "chính giáo" xem chuyện giam cầm Doanh Doanh là một việc bình thường, thậm chí là đúng đạo lý và thích đáng với các việc làm của cô, thì chỉ có mỗi một Mạc Đại tiên sinh quan tâm và thôi thúc Lệnh Hồ Xung lên đường giải cứu Doanh Doanh.

Khi Lệnh Hồ Xung thỉnh cầu ông đảm nhận trọng trách, thay thế gã bảo vệ cho các ni cô phái Hằng Sơn, để gã an tâm lên đường, thì Mạc Đại tiên sinh chỉ đáp ứng bằng sự yên lặng và những tiếng hồ cầm ai oán.

Từ trạng thái hân hoan khi cùng Lệnh Hồ Xung đối ẩm, xem gã tiểu điệt kia như một người bạn vong niên, bỗng nhiên ông lại rơi vào trạng thái cô đơn cố hữu. Dường như trong đời, vị kiếm khách cô độc đó chỉ một lần hân hoan khi thấy Lệnh Hồ Xung, sau khi nghe ông kể rõ câu chuyện về Nhậm Doanh Doanh, đã nôn nóng lên đường đến Thiếu Lâm tự. Điều đó khiến người đọc cảm động xiết bao.

Dưới đôi mắt lạnh lùng cô độc của Mạc Đại tiên sinh, chân dung cô "nữ ma đầu" Nhậm Doanh Doanh đã hiện ra như một nữ thánh chịu khổ nạn đóng đinh trên cây thập giá của Tình yêu! Làm người, phải có cái tâm lớn mới cảm hết được cái tình sâu. Trong tất cả các bậc tôn trưởng phe chính giáo, có lẽ chỉ Mạc Đại tiên sinh mới có được cái tâm lớn để thấu hiểu được cái tình sâu của Nhậm Doanh Doanh.

Kim Dung đã sáng tạo nên một nhân vật kì lạ, cô độc khắc khổ là Mạc Đại tiên sinh. Và Kim Dung cũng không cho độc giả hiểu vì lý do nào mà ông mang tâm sự bi thương ấy. Thế nhưng chỉ qua một đọan ngắn hội kiến cùng Lệnh Hồ Xung trên quán rượu ven sông, tấm lòng quan hoài của ông đối với một "nữ ma đầu" phe đối địch, lại không có liên hệ gì đến ông, đã khiến chúng ta cảm mến ông bao xiết!

Dưới lớp vỏ cô độc khắc khổ đó lại là trái tim nặng trĩu tình người của một kiếm khách tài hoa. Có lẽ trong đời, ông đã có một tâm sự u sầu tột bậc. Vì tình yêu? Vì thân phận? Vì những mộng hoài dang dở buổi thanh xuân? Ta không rõ nhưng vẫn có thể cảm thông. Vì ở trong đời, có biết bao nhiêu kẻ mang tâm sự u oán hận sầu mà không biết tỏ cùng ai, và cũng không thể tỏ cùng ai.

Khách giang hồ như Mạc Đại tiên sinh thì làm gì có một Thượng Đế để cầu nguyện, nên suốt đời phải gởi tâm sự vào chén rượu và cung bậc hồ cầm ảo não thê lương. Cho dẫu khi, do gian mưu của Nhạc Bất Quần, ông cùng quần hào ngã gục giữa đám loạn kiếm trong thạch động sau núi Hoa Sơn, thì có lẽ tâm sự u hoài của Mạc Đại tiên sinh vẫn sẽ còn mãi mãi bay theo cánh hạc cô đơn giữa cõi giang hồ, cùng tiếng hồ cầm trong cung đàn Tiêu Tương dạ vũ.

Các tác giả có đỉnh cao của trí tuệ và chiều sâu của tâm hồn, thường dành ra những "khoảng không vắng lặng" lửng lơ trong tác phẩm mình, không lý giải, mà cứ để độc giả tự suy tư. Đó là Nguyễn Du với bi tâm của Từ Hải, là Kim Dung với tâm sự của Mạc Đại tiên sinh. Chính các "khoảng không vắng lặng" đó lại nói cho chúng ta rất nhiều về tâm tình của nhân gian và ý nghĩa đời!


http://khonggiangame.com/img_upload/content/image/201002/Tieu-Ngao-Giang-Ho-game-moi-cua-Perfect-World.jpg

Hansy
22-02-2013, 12:49 PM
19.

NHẬM DOANH DOANH


http://image.tin247.com/kenh14/080825092358-112-196.jpg

Ngôi vị đệ tứ đại mỹ nhân xin dành cho Nhậm Doanh Doanh, cô gái 17 tuổi đẹp như ngọc, con gái của giáo chủ Triêu Dương thần giáo Nhậm Ngã Hành, một thứ tà ma ngoại đạo trong Tiếu ngạo giang hồ.

Có lẽ Kim Dung đã đem hết tâm lực của mình ra để xây dựng nhân vật Nhậm Doanh Doanh: một nhân vật nữ tươi đẹp trong sáng, giỏi âm nhạc, võ công cao cường, mưu trí sâu sắc, cai trị bọn bàng môn tả đạo bằng trái tim thép nhưng rất mẫn cảm với tình yêu và sống với tình yêu bằng trái tim dịu dàng vô kể.

Cô gặp Lệnh Hồ Xung trong khi chàng trai lãng mạn này mất hết công lực, bị sư phụ và các đồng môn đạp xuống hố sâu của của sự nghi ngờ khinh bỉ. Trong ngõ Lục Trúc thành Lạc Dương, cô tiếp Lệnh Hồ Xung qua tấm rèm không cho chàng thấy mặt; nhận tặng vật của chàng trai là bộ nhạc phổ Tiếu ngạo giang hồ và lắng nghe chàng trai kể lại nỗi đau tình khi bị Nhạc Linh San phụ bạc đi theo "gã mặt trắng" Lâm Bình Chi. Vì không thấy mặt cô nên Lệnh Hồ Xung cứ gọi cô là "bà bà".

Doanh Doanh có một nhận định khá lạ lùng về tình yêu: hễ ai không chung tình với quá khứ thì sẽ không chung tình với hiện tại và tương lai. Cho nên, cô gái 17 tuổi này đã rời bỏ ngõ Lục Trúc, ra đi để bảo vệ Lệnh Hồ Xung, đàn khúc Thanh tâm phổ thiện trú để xoa dịu những vết thương về thể xác và tâm hồn của chàng trai mà cô mới gặp đã cảm thấy yêu mến.

Giữa vùng hoang sơn dã lĩnh, cô bắt ếch nướng cho Lệnh Hồ Xung ăn. Cho đến khi Lệnh Hồ Xung kiệt sức, cô đành cõng chàng lên chùa Thiếu Lâm nhờ Phương Chứng đại sư chữa trị và tự đem thân mình cho phái Thiếu Lâm cầm tù để đổi lấy sinh mạng của Lệnh Hồ Xung.

Khi lành bệnh, hiểu ra được lòng thương yêu và đức hy sinh vô hạn của Doanh Doanh, Lệnh Hồ Xung đã thống lĩnh hết bọn hào sĩ bàng môn tả đạo, trống rong cờ mở, lên chùa Thiếu Lâm đòi thả Doanh Doanh ra. Chính hành động vô pháp vô thiên ấy của Lệnh Hồ Xung khiến Doanh Doanh cảm thấy được an ủi rất nhiều và thấy được sự hy sinh của mình là không uổng phí.

Họ yêu nhau nhưng trong lòng Nhậm Doanh Doanh biết chàng trai chưa phai mờ hình ảnh của Nhạc Linh San. Cô không hề ghen tức, ngược lại đối xử với Nhạc Linh San như người bạn tốt. Chính cô đã cứu Nhạc Linh San, chính cô đã động viên Lệnh Hồ Xung nghe tâm trạng sư muội trước khi chết. Trong con người Doanh Doanh nhỏ bé có trái tim nhân hậu vĩ đại của một phụ nữ công bằng.

Nhậm Doanh Doanh thật thông minh, bén nhạy. Nghe Lệnh Hồ Xung kể chuyện, cô biết ngay là chàng không phải là thủ phạm giết bạn đồng môn của mình, biết ngay là chàng bị sư phụ lừa dối. Chính cô đã khám phá ra chiêu số võ công của Nhạc Bất Quần giống như chiêu số võ công của gã lại cái Đông Phương Bất Bại; từ đó phán đoán ra Tịch Tà kiếm phổ còn có nghĩa là Quỳ hoa bảo điển, và biết Nhạc Bất Quần đã "Dẫn đao tự cung" (tự thiến bộ phận sinh dục).

Cũng chính cô chứ không ai khác đã nhắc bảo cho Lệnh Hồ Xung biết rằng Nhạc Bật Quần là một gã nguỵ quân tử. Và cũng chỉ có cô mới kiềm chế nổi Nhạc Bất Quần, bảo vệ mạng sống cho mình và tình lang: bóp mũi Nhạc Bất Quần cho lão uống Tam thi não thần đan, một loại độc dược mà ngoài cô ra, không ai ở trên đời có thuốc giải được.

Kết thúc Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung để cho Doanh Doanh nhường ngôi giáo chủ lại cho Hướng Vấn Thiên, làm đám cưới với Lệnh Hồ Xung và hai vợ chồng song tấu khúc Tiếu ngạo giang hồ. Họ đã hoàn thành tâm nguyện mà Lưu Chính Phong và Khúc Dương ngày xưa chưa làm được: hắc đạo và bạch đạo vẫn có thể sống với nhau trong một không khí hoà bình hạnh phúc thật sự, xoá đi biên giới của hận thù và nghi kị.

Tiếu ngạo giang hồ chính là khát vọng của tác giả Kim Dung đối với đất nước và đồng bào Trung Hoa của ông. Và Doanh Doanh chính là biểu tượng của cái đẹp Trung Hoa, một cái đẹp đi vào phạm trù tinh thần chứ không còn ở phạm trù vật chất nữa.

Doanh Doanh hoàn mỹ quá khiến đâm ra nghi ngờ, không hiểu khi xây dựng nhân vật này, Kim Dung có đặt cái gọi là “chủ nghĩa Đại Hán” của ông vào chăng? Định chọn Nhậm Doanh Doanh ở ngôi vị số một, trên cả Triệu Mẫn, nhưng vì sự nghi ngờ đó đã khiến xếp cô vào vị trí số bốn.

Đã bảo tôi là một người đầy cảm tính, không thể có sự khách quan, trung thực và khoa học của các vị giám khảo chấm thi hoa hậu nghiêm khắc và đầy kinh nghiệm ngày nay cơ mà. Cho nên tôi cứ liều mạng đưa cô gái Mông Cổ lên ngôi vị số một và đặt cô Doanh Doanh Hán tộc xuống vị trí số bốn. Mà số bốn thì cũng cực kì quan trọng rồi.


http://gamethu.vnexpress.net/Files/Subject/3B/9B/0D/AF/4.jpg

Hansy
23-02-2013, 11:09 PM
20.

Bi kịch
TẠ TỐN


http://www.xosothantai.com/attachment.php?attachmentid=16756&d=1338264806

Hãy tưởng tượng cảnh trời chiều trên Băng Hỏa đảo, một hòn đảo xa xôi hoang vắng vùng cực Bắc, giữa những làn gió lạnh cắt da, một trung niên thân hình khôi vĩ, râu tóc vàng rực, mặc áo khoác da thú, đôi mắt trắng dã mù loà, tay cầm thanh đại đao lấp lánh trong ánh trời chiều, đứng cô liêu trầm mặc như một nhà sư nhập định, rồi bỗng nhiên cất lên tiếng rú làm kinh động cả bầu thái hư lạnh buốt.

Không phải là tiếng hú giác ngộ Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư của một Không Lộ thiền sư [1] mà là tiếng rú cực kì đau thương và bi phẫn của con mãnh sư bị thương : Kim mao Sư vương Tạ Tốn.

Một tuyệt đại cao thủ với kiến văn vô cùng uyên bác, một con người văn võ kiêm toàn, Phó giáo chủ của Minh giáo, một tài năng hãn hữu trong võ lâm, chỉ vì một phút nông nỗi hồ đồ, bị biến thành vật hiến tế trong trò chơi tai ác của Định Mệnh. Ông đã trải qua cảnh đoạn trường trong cuộc sống: vợ bị hãm hiếp rồi bức tử, đứa con trai yêu duy nhất bị giết chết.

Oái ăm thay, kẻ gây ra thảm kịch cho gia đình Tạ Tốn không ai khác mà chính là vị ân sư mà ông đã hàm nặng ơn sâu và coi như cha đẻ: Hỗn nguyên Phích lịch thủ Thành Khôn. Gây án xong, Thành Khôn tuyệt tích giang hồ. Từ đó, để tìm ra tung tích Thành Khôn, Tạ Tốn lao vào những cuộc đồ sát phi lí điên cuồng. Mỗi khi giết người xong, ông lại đề tên Thành Khôn với hi vọng ngây thơ là Thành Khôn sẽ xuất đầu lộ diện để cùng mình tương kiến.

Trong khi đó, Thành Khôn lại âm thầm nấp trong bóng tối và tiếp tục gieo rắc ngộ nhận thương đau cho đồ đệ của mình, tiếp tục đẩy Tạ Tốn vào những cuộc sát nhân vô cớ. Và tội lỗi ngày càng kéo Tạ Tốn lún sâu vào tội lỗi.

Một nỗi đau sâu sắc khác của Tạ Tốn là cái chết của Không Kiến đại sư, một cao tăng chùa Thiếu Lâm, người tự nguyện đứng ra hoà giải mối cừu hận giữa hai thầy trò và hi vọng cứu vãn sát kiếp cho võ lâm. Hình ảnh Không Kiến đại sư, dù chỉ xuất hiện rất ngắn và chỉ qua lời kể của Tạ Tốn, đã để lại ấn tượng vô cùng cảm động trong lòng người đọc: đem tính mạng mình ra để điều hoà mối xung đột bất khả vãn hồi bằng tình yêu bao la và lòng dung nhẫn mênh mông. Một hình ảnh xả thân hi sinh phi thường với tinh thần vô ngã tuyệt đôí mà ta thỉnh thoảng chỉ thấy trong nền văn hoá phương Đông.

Thủ đoạn của Thành Khôn và cái mẹo vặt của Tạ Tốn đã đẩy vị thần tăng chùa Thiếu Lâm vào chổ chết. Môn Kim cương thần công hộ thân của Không Kiến chỉ bảo vệ được cho vị thần tăng đáng kính kia trước những ngọn Thất Thương quyền cực kì tàn độc nhưng lại không bảo vệ được ông trước mưu mô âm hiểm của con người!

Từ đó, cả hai phe hắc bạch đều xem Tạ Tốn là kẻ tử thù, khiến ông không còn đất dung thân dù giang hồ rộng bao la. Cái lí do tồn tại cuả Tạ Tốn trên cõi đời này, cái raison d’ être của ông giờ đây chỉ còn là sự hờn căm và rửa hận. Tạ Tốn có cái lí của mình trong những cơn đồ sát vô nghĩa và Thành Khôn cũng có cái lí của chính ông: trả thù cho một mối tình tuyệt vọng. Cõi giang hồ đầy dẫy ân oán thị phi đã đẩy dần hai thầy trò vào chốn tận cùng chốn diêu mang phi lí cõi tồn sinh.

Rồi vì để chiêm nghiệm cho ra cái điều huyền mật trong thanh bảo đao Đồ long nhằm tìm ra một môn võ công lợi hại để giết được kẻ thù là ân sư Thành Khôn, Tạ Tốn đã ép buộc vợ chồng Trương Thuý Sơn cùng mình lưu lạc trên Băng Hoả đảo. Do Tạ Tốn tâm trí thất thường nên đã giao đấu với Trương Thuý Sơn. Và Hân Tố Tố đã ném kim châm làm mù mắt Tạ Tốn để hổ trợ chồng. Vốn đã mang bao tâm sự u uất khổ đau, giờ đây sự cuồng điên trong tâm hồn Tạ Tốn lại lên đến cực điểm. Vì võ công ông quá cao siêu nên vợ chồng Thuý Sơn, dù là hai tay cao thủ, cũng phải luôn luôn trốn tránh Tạ Tốn trên hoang đảo chỉ có ba người.

Khi Hân Tố Tố chuẩn bị lâm bồn, Thuý Sơn, do lo sợ, phải đào sẵn một cái hố trước hang động đang trú ẩn để đề phòng Tạ Tốn. Qủa nhiên ông đã tìm đến và rơi xuống hố. Khi nhảy ra được khỏi hố với thanh kiếm do Thuý Sơn đâm sâu trên trán, Tạ Tốn giận dữ tột độ, toan xông vào hang để giết luôn cả hai vợ chồng Thuý Sơn thì đúng lúc Vô Kỵ cất tiếng khóc chào đời. Tiếng khóc hài nhi giữa đêm khuya thanh vắng như một tiếng chuông cảnh tỉnh bỗng nhiên đánh thức lương tri của con hùng sư cuồng điên trong cơn tuý sát: dĩ vãng lại hiện về với hình ảnh đứa con trai yêu bị thảm tử.

Một chi tiết dù rất nhỏ nhưng làm cho ta vô cùng cảm động. Nếu không thế thì ta sẽ vì đời mà giận dỗi Kim Dung biết mấy! Tính nhân bản, và chổ cao diệu của ngòi bút Kim Dung là ở điểm đó. Một tâm hồn hời hợt với bút lực tầm thường sẽ không bao giờ thể hiện nỗi những cái u uẩn khuất khúc vô cùng phức tạp trong tâm lí con người[**].

Hình ảnh hài nhi, trong truyền thống Viễn Đông, vẫn thường tượng trưng cho đức Sinh của Tạo hoá. Chỉ có những tác giả có cái nhìn sâu thẳm vào bản chất con người, những đôi mắt trông thấu sáu cõi, những tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời 3 mới có được bút lực tinh tế dường ki! Có khi chỉ vì một sự cố rất nhỏ vô tình trong đời mà cuộc đời ta lại chuyển sang hướng khác.


http://i275.photobucket.com/albums/jj285/AJlovelylady/yitiantulongji/yitian34.jpg

Đồ tể buông đao là thành Phật. Đọc đến đây ta chợt hiểu vì sao tác phẩm Kim Dung lại có sức cuốn hút độc giả đến thế trong bao năm qua. Hãy gạt bỏ đi những môn võ công không thực, hãy gạt bỏ đi những chiêu thức hoang đường, cái cốt lõi trong tác phẩm Kim Dung hiện ra vẫn là hình ảnh con người phù du tư diệt phải một mình khoắc khoải đối diện với bao ân oán thị phi rối răm chằng chịt giữa cõi đời phi lí mênh mông!

Con người, ngay cả bậc anh hùng, nhiều khi vẫn là trò chơi trong bàn tay tai quái của Định Mệnh mà mọi nỗ lực vượt qua đều dường như vấp phải một bức tường bất khả tư nghì! Đôi tình nhân hạnh phúc Trương Thuý Sơn và Hân Tố Tố phải cùng nhau tự vẫn ngay trước mặt bao vị tôn trưởng để thành tựu mộng đầu oan nghiệt và con hùng sư khổ đau Tạ Tốn lại phải tiếp tục sống để rửa sạch mối hờn căm.

Trên Băng Hoả đảo, Tạ Tốn nhận Vô Kỵ làm nghĩa tử và truyền thụ toàn bộ võ công siêu việt, với hoài vọng đứa con nuôi thông minh và đôn hậu kia sẽ thành toàn được những gì mà ông còn để dỡ dang trong tâm nguyện. Người anh hùng trong một phút nông nỗi hồ đồ đã để lại mối hận ngàn năm! Anh hùng di hận kỉ thiên niên (Nguyễn Trãi).

Trải qua bao gian khó, Tạ Tốn lại một mình tìm về được Trung thổ để tiếp tục tầm thù. Cuối cùng, ông cũng hội diện được với cừu nhân dưới lốt nhà sư Viên Chân trên đỉnh Thiếu Lâm và rửa được mối hận bình sinh. Thù xưa đã trả. Ân oán đã tan. Lẽ ra Tạ Tốn phải thấy lòng ung dung thanh thản nhưng giờ đây ông lại đối diện với những hang hố đen ngòm của cuộc tồn sinh: mọi sự việc trên đời bỗng trở nên hư huyền trống rỗng.

Trong cuộc đấu tranh tầm thù dài dằng dặc đó, kẻ thất bại đã bị chết, nhưng kẻ chiến thắng lại rơi vào sự cô đơn. Và chính trong nỗi cô đơn ấy, cái tận cùng phi lí của nhân gian lại hiện nguyên hình: Thị phi thành bại chuyển đầu không. Chuyện đúng sai hay thành bại ở trên đời, khi đã trải qua rồi và quay đầu nhìn lại, mới hay chỉ là hư không trống rỗng.

Không biết tự bao giờ, ở Viễn đông, con người thường đem bao nhiêu chuyện thương tâm trong suốt bình sinh hướng về cưa Không để mong nhờ Phật pháp tiêu giải [****] và những người anh hùng khi đến đường cùng lại thường xuống tóc đi tu. Anh hùng mạt lộ bán vi tăng.

Tạ Tốn dù không là anh hùng mạt lộ, nhưng cơ duyên đủ chín mùi để ông nhận chân ra được những tấn tuồng hư huyễn của nhân gian, nên ông tự phế bỏ võ công, xin qui y cửa Phật và tự nguyện chịu đựng mọi thứ đờm rã i nhơ bẩn khạc nhổ lên người và mọi sự thoá mạ của những người có người thân bị ông giết chết.

Ta tin rằng trong suốt bình sinh, có lẽ chưa bao gìơ tâm hồn Tạ Tốn lại thấy thanh thản bằng lúc quì gối để chịu đựng nỗi nhục hình ghê gớm đó, nỗi nhục hình mà bất kì một người học võ nào cũng đều thấy đau đớn hơn là cái chết. “Tạ Tốn hay đống phân bò cũng chẳng có gì khác nhau!”. Câu nói cuôí cùng đầy minh triết của con hùng sư một thời chọc trời khuấy nước, làm khuynh đảo cả giang hồ, đã khép lại tấn thảm kjch của một đại cao thủ kiêu hùng nhưng, trong tác phẩm Kim Dung, lại tiếp tục mở ra những trang bi kịch khác của võ lâm.

_____

[1] Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư
( Có khi lên thẳng đỉnh núi cô liêu
Cất tiếng hú dài làm lạnh buốt cả bầu trời


http://img.news.zing.vn/sport/341/t341627.jpg

Hansy
24-02-2013, 02:01 PM
http://t2.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcRTIa6oZQmOYMdQCfKtIf2YdR2IIsNf4 wLLhRuowra5-zCR136wCw

21.
NHẬM NGÃ HÀNHcái tôi và bản lĩnh


http://www.huyphong.com/downloads/kimdung/nhamngahanh.png

Ngạn ngữ phương Tây nói: Cái tôi là cái đáng ghét (Le moi est haïssant). Bản tính con người xưa nay đều luôn nghĩ đến mình trước hết, cho nên cái tôi tạo ra một lớp vỏ bọc kín tâm hồn và chận đứng mọi nẻo cảm thông giữa người với người.

Tôn giáo hay triết học phương Đông đều dạy con người tiêu trừ bãn ngã, vì xem đó là điều chướng ngại ngăn cản con người trên con đường tu học. Đức Phật thực hiện Từ Bi, Chúa Jésus rao giảng Bác Ái, đức Khổng Tử giảng dạy đức Nhân, cũng đều nhằm mục đích dẫn dắt con người đến chỗ thương yêu khắp cả chúng sinh như chính mình, hay xem tất cả mọi người đều đồng một thể.

Người nông dân Việt Nam nói đơn giản và ngắn gọn hơn: Thương người như thể thương thân. Không có phân biệt ta và người. Những ai sính loại triết học hàn lâm thì bảo đó là để Tiểu Ngã hòa tan trong Đại Ngã theo kiểu Ấn Độ, hoặc vạn vật dữ ngã vi nhất theo kiểu Trung Hoa, hoặc không còn phân biệt chủ thể với khách thể theo kiểu triết học hiện đại…

Những trò chơi ngôn ngữ rối rắm vô bổ và rỗng tuếch đó đã làm hao tổn bút mực lẫn trí não của rất nhiều học giả Đông Tây rồi, và của cả những người sính triết học. Chúng ta hãy học tập cách người nông dân chân chất là xếp chúng qua một bên để mặc cho các học giả bàn luận, rồi cứ ung dung dắt trâu đi theo con đường ruộng giữa cánh đồng bao la với bàn chân đất, chỉ để nghe tiếng nói sâu thẳm từ chính trái tim mình.

Xã hội có văn hóa thường buộc con người phải tìm cách giấu đi cái tôi. Người nào nói nhiều đến cái tôi có nghĩa là người kém văn hóa. Phải nói đến người ta và chúng ta hoặc chí ít cũng phải là chúng tôi.

Rõ khổ! Vì dù ít dù nhiều ai cũng muốn phô diễn cái tôi. Do đó, cái tôi lại luôn tìm cách xuất hiện lấp ló đằng sau những nghi thức xã giao, thông qua những câu nhún nhường khiêm tốn, thường có tính giả vờ! Chỉ có những thiên tài thực sự mới đủ bản lĩnh để không ngần ngại bộc lộ cái tôi bằng tất cả sự kiêu hãnh hồn nhiên.

Theo kinh điển Phật giáo ghi lại thì khi vừa mới sinh ra đời, đức Phật đã bước đi bảy bước trên tòa sen và cất tiếng như sư tử hống: Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn. (Trên trời dưới đất, chỉ có Ta là tôn quý). Đó có lẽ là ngày đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại, cái Tôi được khẳng định một cách minh triết và hùng hồn nhất. Một tôn giáo xiển dương quan điểm sắc tức thị không, không tức thị sắc và dùng một loạt mười tám loại Không từ Nội không cho đến Vô pháp hữu pháp không trong kinh Bát Nhã để đẩy toàn bộ cái thế giới hữu sắc này đến chỗ tận cùng của chân không, thì chính tôn giáo ấy lại khởi đầu bằng cách khẳng định một cách tuyệt đối cái tôi!

Bỏ qua một bên những ý nghĩa siêu huyền mang tính tượng trưng và ẩn dụ (dĩ nhiên) trong lời tuyên bố đó, ta chợt bắt gặp lại, ở một bình diện thấp hơn, câu ngạn ngữ phương Tây bảo "Les extrémités se touchent" (cái cực đoan thường gặp nhau) Cái cùng cực của phủ nhận lại chính là cái cái cùng cực của khẳng nhận. Cũng như chỗ sơn cùng thủy tận của khoa học phương Tây lại tiếp giáp với cõi bờ huyền học phương Đông, cho nên vũ trụ của Einstein lại hòa nhập trong lời thơ Tagore!

Lý Bạch là nhà thơ vô cùng kiêu ngạo. Trong một đêm khuya yên tĩnh, nhìn tinh tú lấp lánh chiếu sáng trên không, ông ngẫu hứng muốn làm thơ, nhưng lại không dám viết thành câu vì sợ các vì tinh tú nghe được sẽ rùng mình rơi cả xuống dòng sông lạnh :

Dạ tĩnh bất kham đề tuyệt cú
Đãn kinh tinh đẩu lạc giang hàn

(Đêm khuya không dám đề thơ
Chỉ e sao rụng lạnh bờ sông đêm)

Có một bài thơ tứ tuyệt của Lý Bạch, người ta thường cho rằng đó là bài thơ tả cảnh nhưng thật ra đó là bài thơ kiêu ngạo thượng thừa:

Chúng điểu cao phi tận
cô vân độc khứ nhàn
tương khan lưỡng bất yếm
duy hữu Kính Đình san

(Chim chóc đã bay về tổ hết; đám mây lẻ loi đang lờ lững trôi;
nhìn nhau mà không chán; chỉ có ta và núi Kính Đình).

Chỉ có núi Kính Đình là có thể nhìn ta giữa trời đất bao la để cảm nhận được sự hùng vĩ của nhau mà không chán! Đó là ngạo khí của kẻ khí thôn chư tử vô toàn mục (ngạo nghễ chưa xem ai vừa mắt) .

Beethoven từng phẫn nộ quát mắng bọn quý tộc: Các ông cần hiểu rằng quý tộc các ông đời nào cũng có, nhưng Beethoven này phải cả trăm đời mới có được một người!

Đó đều là niềm xác tín đầy kiêu ngạo về cái Tôi của những người hiểu rõ thiên tài của mình.


http://img.tintuc.vietgiaitri.com/2010/12/4/VietGiaiTri.Com-ee520002.jpg

Trong tất cả các tác phẩm của Kim Dung, có lẽ chỉ có ba nhân vật văn võ toàn tài, vừa có võ công tuyệt đỉnh lại vừa có trí huệ sắc bén, và là ba nhân vật kiêu ngạo bậc nhất. Đó là Hoàng Dược Sư, Tạ Tốn và Nhậm Ngã Hành.

Nếu Hoàng Dược Sư hấp dẫn người đọc bởi cái tài hoa cô độc, nếu Tạ Tốn khiến người đọc kính nể vì kiến văn uyên bác, thì Nhậm Ngã Hành làm người đọc khoan khoái vì chất lỗ mãng giang hồ. Và ông là bậc đại tôn sư võ học duy nhất không ngần ngại phô diễn cái tôi với tất cả cái xấu lẫn cái tốt của nó, đúng với cái tên Nhậm Ngã Hành (để mặc ý ta làm!).

Cái tài hoa của Hoàng Dược Sư dù sao vẫn còn mang chút màu mè của hạng quý tộc, sự uyên bác của Tạ Tốn vẫn có một chút từ chương của giới hàn lâm, chỉ có Nhậm Ngã Hành là hoàn toàn chất phác, giống như chưởng pháp của ông khi giao đấu với Thiên Thủ Như Lai chưởng của Phương Chứng đại sư. Người sao chưởng vậy. Không ly kỳ biến ảo, nhưng trong thô phác lại hàm chứa tinh hoa.
Chỉ những người có bản lĩnh thực sự và có sở đắc chân chính như Nhậm Ngã Hành mới dám vất bỏ mọi lớp vỏ văn hóa hoa hòe che phủ bản thân, để hiện ra một cách trần trụi với mọi cái xấu, cái tốt không thèm che dấu, như Một Con Người thực sự. Khi thì ăn nói cùng cực sắc bén đúng với phong độ của một đại tôn sư võ học, khi thì hành xử rất mực thô lỗ, thậm chí hạ cấp, như bọn hảo hán giang hồ.

Đánh mãi với Phương Chứng, liệu thế không xong thì vờ tấn công Dư Thương Hải để dùng mưu đánh ngã Phương Chứng. Không thích Tả Lãnh Thiền nhưng lại thành thật công nhận: Nễ võ công liễu đắc, tâm kế dã thâm, ngận hợp lão phu đích đảm trụ (Ngươi võ công có chỗ hơn người, lại có mưu kế sâu, điều đó rất hợp với tâm ý lão phu). Ông chỉ chê Tã Lãnh Thiền một điểm là đã có dã tâm thôn tính Ngũ Nhac kiếm phái thì cứ ngang nhiên mà làm, không cần phải dùng đến những thủ đoạn lén lút, những âm mưu quỷ kế đê hèn không xứng đáng với bậc anh hùng hảo hán. Nhậm Ngã Hành cũng không hề che dấu tham vọng bá chủ võ lâm của mình.

Hiếm có vị tôn sư võ học nào lại ngang nhiên tự nhận: Lão phu võ công ký cao, tâm tư hựu thị cơ mẫn vô tỷ, chỉ đạo phổ thiên hạ dĩ vô kháng thủ (lão phu võ công đã cao, tâm tư lại bén nhạy nhất đời, cứ cho rằng khắp thiên hạ không có đối thủ!). Và do đó ông phải vô cùng bội phục kẻ đã soán đoạt ngôi vị giáo chủ của mình là Đông Phương Bất Bại.

Đối với Xung Hư đạo trưởng thì ông ca ngợi nhân cách và Thái cực kiếm pháp của vị chưởng môn hết lời, nhưng lại khẳng định ngay: Nễ đích Thái cực kiếm pháp tuy cao, vị tất thắng đắc quá lão phu (Thái cực kiếm pháp của đạo trưởng tuy cao, nhưng chưa chắc đã thắng nỗi lão phu)!

Môn Hấp tinh đại pháp mà Nhậm Ngã Hành khổ luyện cũng có ý nghĩa riêng của nó: gom hết những tinh hoa trong thiên hạ để về phục vụ cho chính cái tôi. Đó cũng là môn võ công biểu hiện quan điểm cực đoan của Duy ngã độc tôn. Cái tôi của Nhậm Ngã Hành khi được khoáng trương đến cực độ thì tại điểm bách xích can đầu sẽ hoặc dược tại uyên (nhảy vào hố thẳm), như con rồng của quẻ Kiền trong kinh Dịch, để vỡ tan ra từng mãnh.

Bước nhảy đó sẽ là điều kiện tối hậu để Nhậm Ngã Hành với Hấp tinh đại pháp bắt gặp kịp Phương Chứng đại sư với Dịch cân kinh. Cái tâm đại bi vô lượng của một bậc đại tôn sư võ học sẽ hóa giải cái tôi cực kỳ bá đạo của một đại tôn sư võ học khác, cũng như cái Duy Ngã Độc Tôn sẽ cùng cõi Chân Không Diệu Hữu viên dung nhất thể. Cái Tôi được khẳng định đến cùng cực, khi gặp cơ duyên, sẽ dễ dàng tan biến vào cái đối cực của nó là cõi Man Mác Huyền Minh. Giá như Nietzsche sống lại, ắt hẵn sẽ trỏ vào Nhậm Ngã Hành mà nói Ecco Homo (đây là một con người)!

Nhưng muốn biểu hiện cái tôi như Nhậm Ngã Hành thì ta phải có bản lĩnh chân thực. Không có bản lĩnh chân thực thì cái tôi đó cũng chỉ là cái hình ảnh thảm hại của năm anh chàng võ nghệ mèo quào học đòi lên Hoa sơn luận kiếm!

Như Tây Thi nhăn mặt thì cả làng đều say đắm, Đông Thi bắt chước nhăn mặt thì cả làng đều bỏ chạy. Muốn học cách viết Sử Ký như Tư Mã Thiên thì phải học cách du sơn ngoạn thủy như Tư Mã Thiên, muốn kiêu ngạo và phô diễn cái tôi như Nhậm Ngã Hành thì tự xét mình đã có được cái bản lĩnh như Nhậm Ngã Hành không? Có dám ngang nhiên phơi bày mọi cái xấu lẫn cái tốt, vì hiểu rằng cái xấu hay tốt đó đều bất khả tư nghì đối với cao thủ cỡ Dư Thương Hải không? Và có thực dám nhậm ngã hành (cứ làm theo ý ta) không? Có dám tự thấy Lão phu võ công ký cao, tâm tư hựu thị cơ mẫn vô tỷ, chỉ đạo phổ thiên hạ dĩ vô kháng thủ chưa?

Phải học nói rất nhiều trước khi muốn im lặng, phải đọc sách rất nhiều để hiểu rằng kiến thức chỉ là trò điêu trùng tiểu kỹ vô cùng vụn vặt, phải Bao đêm thao thức thật thà rồi mới ngộ ra rằng Sưu tầm chân lý té ra tầm ruồng (Bùi Giáng).

Phải đẩy cái Tôi đến chỗ tận cùng rồi mới có cơ duyên để để trừ bỏ nó. Và đằng sau cái tôi đó phải là bản lĩnh chân thực. Vì đó chính là điều kiện để con người rủ bỏ tất cả và hoặc dược tại uyên!
[/B]


http://images1.gamek.channelvn.net/Images/Uploaded/Share/2010/11/19/gamek11206-.jpg

Hansy
26-02-2013, 10:40 PM
22.
HƯ TRÚC
Nhà sư vướng… mộng!



http://news.beelink.com.cn/20020916/ylxw018.jpg


Này Ðại Huệ, Bồ, bằng tâm đại bi (mahakaruna), phương tiện thiện xảo (upaya) và vô công dụng hạnh (anabhogacarya), Bồ Tát quán thấy chúng sinh như huyễn mộng, như bóng... Khi dần nhập vào từng địa (bhumi) thù thắng hơn, Bồ Tát đó đạt được Tam muội (Samadhi), hiểu rằng tam giới duy tâm (cittamatra). Tam muội đó được gọi là Như huyễn Tam muội (mayopama-samadhi)).(*)

Trên đây là đoạn trích dịch từ kinh Lăng Già, một kháng thư thâm áo của Phật giáo Đại thừa. Kinh Lăng Già cho rằng bậc Bồ Tát nào quán sát được thế gian như là huyễn, chúng sinh như là mộng sẽ đạt được Như huyễn Tam muội là trạng thái định cao nhất được liệt kê trong kinh. Có nhiều nhà sư vì mang tài hoa mà vướng lụy, nhưng có một nhà sư không vướng lụy mà lại vướng …mộng, và vì vướng mộng nên vướng lụy, đó là Hư Trúc trong Thiên Long Bát Bộ.

Nhà văn Trung Quốc là đại sư Tô Mạn Thù đã viết một cuốn sách não nùng Đoạn Hồng Linh Nhạn Ký (Cánh hồng cô lẻ), thuật lại câu chuyện của đời mình. Con người tài hoa mang hai dòng máu Nhật- Hoa đó từ thuở nhỏ đã xuất gia đầu Phật. Sau khi phương trượng qua đời, cảm thấy bơ vơ nên muốn quay về cõi tục, nhưng kẻ xuất thân tu hành không thể chen chân nỗi với cõi đòi ô trọc, mà tiếp tục tu hành cũng không trọn nghiệp, nên suốt bình sinh cứ chìm nỗi giữa biển dâu. Những mong nương bóng thiền môn để bước chân đi trong cõi Như Lai thanh tĩnh, nên cố làm ngơ trước những tiếng lòng tha thiết, đành quay mặt đi với hai người con gái thông tuệ diễm kiều.

Nhưng lòng kẻ tài hoa làm sao có thể dùng cõi Như Lai để xóa đi được hình bóng giai nhân vẫn luôn thấp thoáng trong từng trang kinh lời kệ? "Khuya về nhẹ mở tâm kinh, trang nào cũng thấy bóng hình của em, mở bờ sinh tử ra xem, em từ tiền kiếp là em bây giờ" (Hồ Công Khanh). Hẹn nhau từ trong tiền kiếp để bây giờ thị hiện giữa cõi Ta Bà trong từng sát na, gây vương vấn mộng hồn cho kẻ phân vân đứng giữa ngã con đường ngã ba của đời và đạo. Thi sĩ Bùi Giáng chuyển tác phẩm trên sang tiếng Việt thành Nhà sư vương lụy (NXB Văn Học, 2000) bằng ngôn ngữ ngậm ngùi cháy bỏng cả tâm can.

Trong Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung cũng để cho ni cô Nghi Lâm mang cả một khối u tình vào trong cõi thanh tu. Người nữ tu kiều diễm có tâm hồn như nữ thánh đó đã héo hắt cả dung nhan vì gã “ Lệnh Hồ đại ca” mang cốt cách giang hồ lãng tử. Từng giọt lệ vướng lụy của ni cô rơi trên trang kinh trong đêm vắng, làm tê buốt tâm tình của cả nhân gian. Chuông khuya dẫn mối sầu về. Giọt buồn ai để rơi nhòe trang kinh. Chao ơi! Sư nữ đa tình...

Hết nhà sư vướng lụy, rồi đến lượt ni cô vướng lụy khiến người ta hoang mang tự hỏi hương sắc cõi đời có mỵ lực gì hấp dẫn những tâm hồn đang muốn hướng đến tuyệt đích với vô biên, đến nỗi họ đành quay mặt với cõi đạo để chấp nhận nỗi chìm giữa cõi người ta đầy khổ lụy? Cõi thiện, cõi chân không gần bằng cõi mỹ, nên đôi lúc sắc hương đời thường che lấp bóng Như Lai!

Đã có lần viết về Giang Nam Tứ Hữu, xem đó là biểu tượng cho thảm họa của tài hoa. Mang tài hoa lánh đời nơi Cô sơn mai trang mà vẫn phải gánh chịu thảm kịch. Nhưng mang một khối tài hoa vào cửa thiền như Tô Mạn Thù vẫn là mang theo khổ não. Cho mình, cho đời và cho lẽ đạo. Đã tài hoa ắt phải đa tình, mà vì đa tình nên thường vướng lụy.

Nhà thơ tiền chiến J.Leiba có bốn câu thơ thật ngậm ngùi:

Trần thế đã nhiều duyên nghiệp quá
Lệ lòng mong cạn chốn am Không
Cửa Thiền một khép trần duyên đứt
Quên hết người quen chốn bụi hồng

Ông nói thế chắc để tự dối lòng, và để an ủi cho những kẻ tu hành tài hoa đang đắm chìm trong khổ lụy, vì thử hỏi làm sao có thể thực sự "quên hết người quen chốn bụi hồng" được, khi mà lưới tình bủa rộng khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, vây khổn những kẻ đa tình nương náu chốn cửa thiền trong từng trận chiêm bao?

Bất Giới hòa thượng đã làm chuyện ngược đời là vì yêu ni cô mà phải cạo đầu để khoát áo nâu sòng! Sá gì thân náu cửa Không, Cạo đầu bởi chút má hồng ni cô, Tam quy? Ngũ giới? Nam mô! Bất Giới hòa thượng tuy thô lỗ như lại đa tình. Nên ông không vướng lụy nhưng lại làm cho người ta vướng lụy.

Có lẽ chỉ có một người hiền lành chân chất, suốt đời chỉ biết kinh kệ rau dưa nhưng lại vướng lụy trong một hoàn cảnh oái ăm, đó là Hư Trúc. Con người chân chất đó không một chút tài hoa, cũng không một chút đa tình lãng mạn, và chắc chắn trái tim đó không hề biết rung cảm trước nhan sắc, cho dẫu đó là thần tiên giáng thế. Người đẹp Vương Ngữ Yên trước mặt chú cũng không khác gì tượng gỗ.

Cõi đời thực không có gì có thể cám dỗ nỗi chú, không phải vì định lực của chú cao mà chỉ vì chú cục mịch ù lì như gỗ đá. Từ bé chú chỉ biết gõ mõ tụng kinh, một lòng hướng về Đức Phật, tai như điếc trước thanh, mắt như mù trước sắc, lòng không bị quấy nhiễu bởi vật chất trần gian, thế thì con người giống như hòn đất đó làm sao vướng lụy được? Tâm hồn chú quả giống như pháp danh Hư Trúc, nghĩa là cây trúc rỗng.

Bút lực Kim Dung quả thật thâm hậu khi bố trí câu chuyện để chú phải vướng lụy trong một tình huống cực kỳ oái ăm! Chú bị Thiên Sơn Đồng Mỗ ép phạm sắc giới với một người đẹp xa lạ trong hầm tối om om. Mơ màng như trong cõi mộng. Cõi đời thực không làm cho chú vướng lụy thì cõi mộng thì sẽ kéo chú ra khỏi thiền môn!


http://files.myopera.com/ngsinh/blog/HuTruc.jpg

Trong một trường hợp tình cờ, chú cứu được chủ nhân của Linh Thứu cung là Thiên Sơn Đồng Mỗ, và nhằm để tránh sự truy sát của Lý Thu Thủy, cả hai phải chui vào một hầm trữ nước đá trong Hoàng cung Tây Hạ.

Hằng ngày, Thiên Sơn Đồng Mỗ lẻn vào vườn ngự uyển, bắt chim về buộc chú ăn để sống. Rồi đến một đêm khuya nọ, Đồng Mỗ lại mang về cho chú một cô gái. Bản năng khao khát sắc dục từ lâu bị chôn vùi dưới lớp tăng bào của cuộc sống tu hành khổ hạnh bỗng nhiên trỗi dậy, dù lúc dầu chỉ mới là cảm giác mơ hồ. Ban ngày thì phải vừa luyện võ nghệ với Thiên Sơn Đồng Mỗ, vừa lo cảnh giác Lý Thu Thủy.

Nhưng khuya về lại có một Mông Cô – cô nương trong giấc mộng - kề cận thâu đêm. Cả hai không biết mặt nhau và cứ ngỡ như mình đang sống trong cảnh chiêm bao, vì cứ đêm về là họ lại gặp nhau, như phép màu trong truyện Ngàn Lẽ Một Đêm. Nên họ gọi nhau là Mộng Cô và Mộng Lang. Tất cả "cõi mộng" đó đều diễn ra dưới sự sắp xếp của cao thủ tuyệt đỉnh Thiên Sơn Đồng Mỗ.

Khi quay về lại chùa Thiếu lâm với thân phận chủ nhân cung Linh Thứu, chú vẫn ngây thơ nghĩ rằng mình cần phải cầu kinh sám hối để có thể gột rửa sạch được 'tội lỗi" đã phạm. Nhưng thực ra, trong tận cùng sâu thẳm của tâm hồn, bản năng cơ bản đã được đánh thức.

Ngày trước khi phạm sát giới, chú đã kêu khóc ầm ĩ và xem đó là chuyện tày trời, nhưng đến khi phạm sắc giới, thì chú lại cứ man mác, bâng khuâng. Và hình ảnh Mộng Cô không ngừng ám ảnh trong tâm trí. Chú tiểu khờ khạo của chùa Thiếu Lâm đã biến thành một kẻ si tình mà chú không hề hay biết, dầu chú đang ở trong cảnh giới "dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng" (Kiều).

Giá như chú có đủ trí huệ để “ quan sát tất cả chúng sinh đều như huyễn, như mộng” thì rất có thể chú đã chứng đắc “Như Huyễn Tam Muội”! Và chú không hề hiểu rằng cõi đời đang giang tay đón chờ một người sắp sửa rời cổng thiền môn. Vì đó là con đường tất yếu cho những ai không đủ căn cơ mà lại đi thẳng vào chốn cửa “Không” thanh tĩnh, bỏ qua cửa “Hữu” đầy khổ lụy của trần gian!

Khi đi cùng Tiêu Phong để hộ tống vị tam đệ đa tình là Đoàn Dự sang Tây Hạ cầu hôn, có ai ngờ nỗi công chúa Tây Hạ lại là chính cô nương Mộng Cô ngày nào. Cô bày ra ba câu hỏi cho các người cầu hôn để thử tìm lại anh chàng Mộng Lang thuở trước, mà rẩt có thể cô cũng nghĩ chỉ là người trong cõi mộng.

Những ai tìm cách trả lời theo kiểu “ đao to búa lớn” đều bị loại. Chỉ có Hư Trúc trả lời ba câu hỏi đó một cách dễ dàng. Không phải chú trả lời các câu hỏi, mà chú chỉ buột miệng nói ra những điều cứ ấp ủ mãi trong lòng. Nơi nào đẹp nhất trong đời chú? Là hầm đá lạnh. Người chú yêu mến nhất trong đời? Là chính Mộng Cô. Dung nhan Mộng Cô ra sao? Chú cũng không hề biết.

Ba câu trả lời tình cờ đó lại là ba câu mà công chúa Tây Hạ đang mõi mòn mong đợi. Cơ duyên sắp đặt để hai người trong mộng gặp lại nhau, và tân chủ nhân của cung Linh Thứu trở thành phò mã Tây Hạ. Gặp nhau trong mộng, ái ân trong mộng, nhớ nhau trong mộng, tìm gặp nhau cũng trong mộng nốt, thế thì cõi đời còn gì đẹp hơn câu chuyện Mộng Lang với Mộng Cô?

Trong các tác phẩm của Kim Dung, chỉ có những con người khù khờ chân chất mới có được tình yêu trọn vẹn, như Hư Trúc với Mộng Cô. Ngay cả anh chàng cục mịch Quách Tĩnh cũng vô tình làm tan nát cõi lòng của Hoa Tranh công chúa khi đến với Hoàng Dung.

Tinh thần văn hóa phương Đông vẫn thường xem cõi đời là giấc mộng. Lý Bạch bảo: "Xử thế nhược đại mộng, hồ lao vi kỳ sinh" (chuyện đời như mộng lớn, việc gì phải nhọc lòng?). Đó là cõi-đờimộng dưới mắt một thi tiên.

Kinh Phật có bài lệ “lục như” nổi tiếng: "Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán" (nên quán sát tất cả các pháp hữu vi như giấc mộng, như điều hư huyễn, như bọt nước, như cái bóng, như sương rơi, như tia điện chớp) nhằm khai ngộ chúng sinh thấy chân tướng cõi đời là mộng huyễn.

Đó là cõi-đời-mộng dưới sự quán chiếu của bậc đại giác. Tô Đông Pha bảo: "Nhân tự thu hồng lai hữu tín, sự như xuân mộng liễu vô ngân" (con người như chim hồng mùa thu bay đến mang theo tin tức, chuyện đời ngắn ngủi như giấc mộng mùa xuân trôi qua mất chẳng để lại dấu vết nào). Đó là cõi-đời-mộng trong tiếng thở dài minh triết của con người tài hoa khoáng đạt nhưng lại chìm nỗi khổ đau trong hoạn lộ.

Cuộc đời là cõi mộng, nhưng vì chúng ta cứ u mê chấp mộng làm thực nên sinh ra khổ não, vì cái thực đó cũng chỉ là mộng. Nước Đại Yên của dòng dõi Mộ Dung là mộng, nhưng cha con Mộ Dung Bác đều chấp là thực nên Mộ Dung Phục phải đi đến chỗ cuồng điên. Quốc sư Thổ Phồn Cưu Ma Trí suốt một đời bôn tẩu giang hồ để mong đạt được bản lĩnh vô địch, rốt cuộc ngộ được đó là cõi mộng nên mới trở thành một cao tăng xứ Thổ Phồn. Hư Trúc sống trong cõi thực nhưng cho đó là cõi mộng, nên mộng lại biến hành thực!

Không có nhân vật nào của Kim Dung lại có thể gặp những điều may mắn như Hư Trúc. Chú vịt con xấu xí Hư Trúc, trong một phút giây bỗng biến thành con thiên nga lộng lẫy quá bất ngờ, bắt đầu từ chữ Mộng. Kim Dung đã kín đáo khi để cho công chúa Mộng Cô phải luôn che mặt khi xuất hiện, có phải đó là một lời nhắc nhở: trong cái vẹn toàn như ý vẫn có chút bất toàn, hay muốn độc giả hiểu rằng: dẫu cõi mộng đã biến thành cõi thực, nhưng một phần cõi thực đó vẫn còn là mộng đấy!


_________

(*) O Mahamati, by deeds of great love (mahakaruna), skillful means (upaya), and effortlessness (anabhogacarya), a Bodhisattva reviews all beings and knows that they are like maya, they ressemle shadows… As he gradually goes up the higher stages (bhumi), he will realise a state Samadhi where he comes to understand that the triple world is Mind (cittamatra). The Samadhi he attains is called Maya-like (mayopama) (D.T. Suzuki, Studies in the Lankavatara Sutra, Routledge & Kegan Paul Ltd., 1968, p.97)


http://www.burapat.com/images/gallery/Semi%20Gods%20and%20Semi%20Devils/l/sdg008.jpg

Hansy
27-02-2013, 06:28 PM
23

TIỂU CHIÊU


http://files.myopera.com/x123456/blog/2000049634091278415_rs.jpg


Biển mênh mông muôn trùng. Biển dạt dào, bạc đầu ngọn sóng. Biển chứng kiến bao cuộc chia ly đau xót. Biển chất chứa bao mối hận của con người. Còn mối hận nào lớn hơn sự căm hờn chim Tinh Vệ ngậm đá lấp biển Đông? Còn cuộc chia ly nào nát lòng hơn nàng tiên cá rời xa hoàng tử trong truyện cổ tích Andersen sau đêm tân hôn của chàng cùng công chúa láng giềng, ngậm ngùi hơn Tiểu Chiêu tạ từ Trương Vô Kỵ trong "Ỷ Thiên Đồ Long Ký". Hai áng văn Đông Tây, nhưng nỗi lòng tuyệt vọng của Tiểu Chiêu khi đứng đầu mũi thuyền rời xa vĩnh viễn ý trung nhân và tâm trạng ê chề của nàng tiên cá khi gieo mình xuống biển khơi để tan thành trăm ngàn bọt nước phải chăng chỉ là một?

Ấn tượng sâu sắc nhất về nàng tiên cá chính là những điệu vũ thần tiên thanh tao, uyển chuyển dù bàn chân nàng đau như dao cắt và rỉ máu sau mỗi bước đi. Nhắc đến Tiểu Chiêu hẳn không ai quên được giọng hát trong trẻo, êm tai cất lên trong đường hầm Quang Minh đỉnh về nhân thế phù sinh, giọng ca đã xua đi mọi lo lắng trong lòng Trương Vô Kỵ, để chàng tạm quên đi nỗi lo cái chết cận kề.

Mẹ Tiểu Chiêu vì hai chữ tình duyên mà dang dở con đường lên ngôi Thánh nữ, mang vào mình mối hoạ sát thân. Từ trong mối tình đẹp đẽ mà ngang trái ấy, Tiểu Chiêu tựu thành. Từ bé chứng kiến mẫu thân sống trong nỗi lo bị phát hiện, nàng phải rời xa vòng tay mẹ yêu thương vì an toàn cho chính bản thân và lớn lên phải thay mẹ gánh vác trọng trách của người Thánh nữ. Tại Quang Minh đỉnh, giả thành người xấu xí, Tiểu Chiêu âm thầm điều tra bí mật tâm pháp Càn khôn đại na di. Ngần ấy trách nhiệm trên vai một thiếu nữ thật quá đỗi nặng nề!

Một lần gặp gỡ, vướng lụy nghìn năm. Trong đêm mưa bão, cứu lấy hoàng tử, để rồi tiếc gì giọng hát quyến rũ của mỹ nhân ngư, tiếc gì cuộc sống ấm êm nơi đáy biển, nàng tiên cá chấp nhận đánh đổi cả sinh mệnh và linh hồn, nguyện làm người em gái câm lặng muôn đời bên hoàng tử. Ngay trong tử lộ, tương phùng chàng Trương, trong trái tim thiếu nữ chớm nở mối tình đầu. Lịch sử một lần nữa đã lặp lại, Tiểu Chiêu không thể ngoảnh mặt làm ngơ với tiếng gọi thổn thức của con tim. Từ đây, hãy tạm quên đi trách nhiệm nặng nề, tạm quên đi quê hương Ba Tư xa xôi, hân hoan làm một tì tử thân phận thấp hèn bên Trương Vô Kỵ. Cần chi địa vị cao sang, cần chi kẻ hầu người hạ, được chăm sóc từng miếng ăn, giấc ngủ cho ý trung nhân đã là hạnh phúc viên mãn đối với Tiểu Chiêu.

Tiếc rằng hoá công nhiều lúc vẫn quay lưng lại với những ước mơ dù nhỏ nhoi nhất, bình dị nhất của con người. Cảnh đuổi ngựa, chăn dê yên ả tiếng cười rộn rã giữa thảo nguyên bát ngát, mênh mông của Tiêu Phong và A Châu đã kết thúc tàn nhẫn với cái chết đau đớn của nàng kiều nữ cho trọn vẹn hai chữ Hiếu và Tình. Rũ bỏ thân phận tì nữ và cả tình yêu tha thiết, Tiểu Chiêu ngậm ngùi bước lên ngôi vị Thánh nữ cao sang mà ngàn người phủ phục. Nàng về xứ Ba Tư xa xôi nhưng trọn vẹn con tim để lại nơi Trung thổ. Lại thêm một cô gái vì chữ Hiếu mà đứt đoạn tình duyên !

Chỉ cần nàng tiên cá chịu hy sinh hoàng tử, máu của chàng sẽ đưa nàng trở lại với cuộc sống vô tư lự giữa ngàn con sóng xưa kia. Tiểu Chiêu thừa hiểu trở thành Thánh nữ là giết chết tuổi thanh xuân, là giữ thân trong sạch để ngọn lửa thiêng thanh khiết. Sao nàng không lựa chọn được chết cùng Trương Vô Kỵ giữa biển khơi, được cùng ý trung nhân chôn chung một mộ? Chỉ biết rằng khi yêu đến trọn con tim, người ta thường quên đi bản thân mình mà chỉ nghĩ đến hạnh phúc của người yêu; Nàng tiên cá quăng con dao xuống biển khơi, Tiểu Chiêu gật đầu đồng ý với các sứ giả Ba Tư. Hai hành động đó đồng nghĩa với trái tim hai thiếu nữ cùng cáo chung, hai linh hồn từ nay chết lặng. Một người vĩnh viễn tan thành trăm ngàn bọt nước, một người vẫn tồn tại trên thế gian mà khác nào đã chết. Nhưng nỗi đau đó chỉ mình ta gánh chịu, còn người ta yêu sẽ được hạnh phúc, bình yên. Sự hy sinh đó chẳng phải ý nghĩa lắm sao?


http://www.chuyenhot.com/img/2009/03/22/Y_Thien_Ha_Trac_Ngon.jpg

Chàng hoàng tử mãi ấp ủ trong mộng người con gái đã cứu mạng mình sao chẳng nhận ra nữ ân nhân trước mặt. Cuối cùng, chua chát thay, chàng lại lầm tưởng là công chúa láng giềng. Trong đêm tân hôn của hoàng tử, nàng tiên cá say sưa trong điệu vũ, quay cuồng theo điệu nhạc, chưa bao giờ nàng múa đẹp đến thế. Chân nàng như đang lướt trên ngàn con dao nhọn nhưng đau đến nhường nào cũng không bằng con tim nàng đang tan nát. Mắt lệ đầm đìa, Tiểu Chiêu xin được thay áo cho Trương Vô Kỵ, xin một lần cuối được làm tì nữ cho chàng. Phải rồi, đây là lần cuối cùng được nhìn thấy gương mặt chàng, được cùng ý trung nhân thở chung bầu không khí. Hai cách tạ từ, chung một mối thê lương, một khối sầu vạn kiếp...

Giữa đại dương, Tiểu Chiêu rơi lệ. Chia ly từ đây là vĩnh viễn rời xa, là cách trở bởi muôn trùng đại dương, bởi địa vị cao quý của người Thánh nữ phải giữ thân trinh trắng, hay bởi trái tim chàng vốn dĩ không hướng về mình? Sóng biển trập trùng hoà giọt lệ nàng mặn đắng, gió biển thét gào át tiếng khóc của nàng...

Ân Tố Tố và Trương Thuý Sơn cùng nắm tay nhau xuống chốn tuyền đài, Kỷ Hiểu Phù mãn nguyện ra đi với trọn vẹn trái tim Dương Tiêu, và A Châu mãi mãi là bóng hình duy nhất trong trái tim Tiêu Phong. Còn Tiểu Chiêu thì sao? Hoàng tử quay lưng lại với nàng tiên cá mà vui vầy bên duyên mới, còn Trương Vô Kỵ đâu chỉ có một tri kỷ hồng nhan. Một Triệu Mẫn xinh đẹp, thông minh, sắc sảo, một Chu Chỉ Nhược tú lệ, bên trong thủ đoạn mà bề ngoài dịu dàng, một Ân Ly mà chàng trót mang nặng ân tình. Hoàng tử thương nàng tiên cá như một đứa em bé bỏng, mồ côi, còn tình cảm của Trương Vô Kỵ với Tiểu Chiêu âu cũng chỉ là lòng thương hại.

Nhiều lúc người ta quá đỗi vô tình, không cảm nhận được tình yêu cao cả của kẻ gần mình nhất. Hoàng tử sẽ chẳng biết rằng có một người con gái vì mình mà từ bỏ cả cội nguồn, sinh mệnh, chịu đựng sự câm lặng triền miên và đôi chân đau đớn để được ở bên chàng. Chàng sẽ chẳng biết rằng nàng mới chính là ân nhân cứu mạng trong cơn bão. Khi chàng đang hạnh phúc bên vị hôn thê, người đó đang chết lặng chờ bình minh, khi những tia nắng đầu tiên xuất hiện, thể xác và linh hồn nàng sẽ tan thành bọt nước. Đến phút cuối cùng, Vô Kỵ mới nhận ra mối tình sâu đậm mà Tiểu Chiêu dành cho mình. Nhưng trong trái tim chia năm xẻ bảy cho bao bóng hồng, liệu có phần nhỏ nhoi nào chàng dành để tưởng nhớ đến người không ngại hy sinh cho chàng?

Tương lai của Tiểu Chiêu sẽ ra sao? Sẽ là bao ngày thổn thức khôn nguôi ngóng trông về Trung thổ, sẽ là bao đêm ngậm ngùi thương nhớ chàng Trương? Cuộc đời còn lại của Tiểu Chiêu vĩnh viễn là một dấu hỏi xót xa trong lòng bao người đọc.

Tiếc rằng không phải cuộc tình nào cũng kết thúc vẹn toàn, bao giờ lại chẳng có kẻ thứ ba ngậm ngùi, đau xót. Nhưng đâu phai vì thế mà người ta thôi yêu, thôi khắc khoải nhớ mong, thôi trông chờ ở những điều tưởng chừng không thể? Nếu bạn vẫn chưa tìm được tình yêu đích thực, không có nghĩa rằng nó không tồn tại và không có những người yêu đến quên đi bản thân mình.

Hãy tin vào sức mạnh đích thực của tình yêu
Đừng bao giờ thôi yêu thương và hy vọng...





http://www.thoi-nay.com/images/1293355900-ha-trac-ngon--25-.jpg

phamanhoa
28-02-2013, 04:11 PM
TẠ TỐN



Văn hùng võ dũng,phận long đong,
Ân oán triền miên trĩu nặng lòng.
Cạn nghĩa sư đồ,lìa Thánh giáo,
Vẹn tình phu phụ,đoạt Đồ long.
Mười năm Băng đảo tìm chân lý,
Một khắc Thiền môn ngộ sắc không.
Ngoảnh mặt,buông đao,lìa ảo vọng,
Mắt mù,tâm sáng lẽ tồn vong.

phamanhoa

phamanhoa
28-02-2013, 04:48 PM
Thân gởi HANSY,
Những bai luận về các nhân vật trong tiểu thuyết võ hiệp đầy nội lực này là của tác giả nào,bạn trích dẫn từ đâu,xin vui lòng cho anh em biết.Đây cũng là một yêu càu có tính nguyên tắc đấy bạn ạ.
Thân mến
PAH

Hansy
28-02-2013, 07:36 PM
Thân gởi HANSY,
Những bai luận về các nhân vật trong tiểu thuyết võ hiệp đầy nội lực này là của tác giả nào,bạn trích dẫn từ đâu,xin vui lòng cho anh em biết.Đây cũng là một yêu càu có tính nguyên tắc đấy bạn ạ.
Thân mến
PAH
Chào Huynh
Hansy có giới thiệu ngay đầu Topic. Mời Huynh ghé xem.
Xin cám ơn
HANSY

Hansy
28-02-2013, 07:44 PM
24.

LỆNH HỒ XUNG
Chân dung gã tửu đồ lãng tử


http://i1.sinaimg.cn/ent/v/2008-09-16/U3075P28T3D2171164F522DT20080916171835.jpg



Dường như có một qui luật trong sáng tạo của các thiên tài là: các tác phẩm thường đi từ bi đến lạc hoặc đi từ lạc đến bi. Nhà viết kịch vĩ đại Shakespeare, sau các hài kịch Much ado about nothing, The merchant of Vernice... lại sáng tạo tiếp các bi kịch như King Lear, Othello, Macbeth...

Còn Kim Dung thì ngược lại, sau các tác phẩm làm tan nát lòng người như Thiên long bát bộ, thì Tiếu ngạo giang hồ là tác phẩm tương đối ít bi thương. Khung trời máu lửa của võ lâm dường như đã bắt đầu tửơi sáng hơn khi mà các thành kiến chính tà và thị phi ân oán cũng như tham vọng thống nhất giang hồ đều tiêu dung, hoá giải trong khúc cầm tiêu hợp tấu Tiếu ngạo giang hồ của Nhậm Doanh Doanh và gã tửu đồ lã ng tử Lệnh Hồ Xung.

Trước khi Lệnh Hồ Xung xuất hiện trong tác phẩm Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung đã chuẩn bị một bối cảnh khá chu đáo, dù chỉ toàn bằng lời kể. Chính sự có mặt trong vắng mặt càng làm tăng thêm vẽ hấp dẫn cho nhân vật cực kì đáng yêu này.

Thoạt tiên ngưòi ta chỉ biết đến gã như tên “ bợm nhậu” khi lừa một ông lão ăn mày để uống hết vò rượu ngon bằng nội công thâm hậu của mình. Kế đó, gã lại hiện ra như là kẻ mất nết ưa gây hấn khi giao du với tên dâm tặc Điền Bá Quang và giết đệ tử phái Thanh Thành. Bao nhiêu ác cảm, ngộ nhận đều trút lên đầu gã. Chỉ từ lúc cô tiểu ni xinh đẹp Nghi Lâm xuất hiện thì mọi chuyện mới thay đổi, và qua lời kể của cô, chân dung tên tửu đồ bẻm mép, giảo hoạt đó mới bắt đầu hiện rõ nét như là một người trượng nghĩa, thông minh và cực kì liều lĩnh.

Đến khi gương mặt nhợt nhạt của gã, với đôi môi mỏng dính và đôi mày hình lưỡi kiếm hiện trên giường của một kỉ viện thành Hành sơn thì độc giả đã hình thành thêm được tính cách của gã: ngang tàng, đởm lược, ứng biến cực kì mau lẹ. Có gì lí thú hơn khi chưởng môn phái Thanh Thành là Dư Thương Hải bị gã, dù toàn thân bất lực do bị trọng thương, dùng mẹo khiêu khích, lừa không cho mở tấm mền giấu Khúc Phi Yến và Nghi Lâm đang run sợ bên cạnh gã.

Một dạng biến tửớng thông minh của mưu kế kiểu “Không thành” mà Khổng Minh dùng lừa Tử Mã Ý, làm người đọc vô cùng khoan khoái!

Có lẽ tất cả các chi tiết trên chỉ là sự chuẩn bị của Kim Dung về tính cánh của Lệnh Hồ Xung để lí giải việc lí do vì sao gã có cơ duyên được Phong Thanh Dương truyền cho môn kiếm pháp vô địch thiên hạ: Độc Cô cưu kiếm, môn học không chỉ đòi hỏi trí thông minh mà còn cần phải có một tâm hồn khoáng đạt, không câu nệ, cố chấp, và ứng biến linh hoạt.

Người đọc làm sao quên được đoạn gã bị phạt trên đỉnh núi Hoa sơn và buộc phải đấu kiếm nhiều phen với Điền Bá Quang để khỏi bị họ Điền “mời” xuống núi. Cùng uống với họ Điền hai vò rượu quí hiếm duy nhất thế gian là để tạ tình tri kỉ, dù họ Điền là tên dâm tặc, đó là cái tình. Uống xong, tuốt kiếm đánh nhau, không chấp nhận xuống núi vì tuân theo sư mệnh, đó là cái lí.

Khi gã dùng một mẹo vặt khá tồi bại, không xứng đáng với đệ tử danh môn chính phái, để gạt được Điền Bá Quang nhằm tranh thủ thêm thời gian học môn Độc Cô cưu kiếm, gã biện bạch với Phong Thanh Dương là: đối với bọn đê hèn vô liêm sỉ thì phải dùng thủ đoạn đê hèn vô liêm sỉ, người đọc hồi hộp biết ngần nào khi nghe vị tôn sư võ học kia nghiêm nghị hỏi lại: “Thế đối phó với bậc chính nhân quân tử thì sao ?”.

Câu hỏi như một loại công án thách thức sự ứng biến chân thành. Gã đã thành thực lẫn bạo gan trả lời đúng với tính cách của mình, không một lớp sơn phù phiếm hoa hoè giả tạo của môn qui: “Cho dù bọn họ có là bậc chính nhân quân tử đi nữa, mà nếu như họ muốn giết đệ tử, thì đệ tử quyết không cam tâm để bị giết, cùng lắm đến lúc chẳng đặng đừng đó, thì thủ đoạn hèn hạ vô liêm sỉ cũng phải dùng tạm chớ biết làm sao!” (Tựu toán tha chân thị chính nhân quân tử, thảng nhược tưởng yếu sát ngã, ngã dã bất năng cam tâm tựu lục, đáo liễu bất đắc dĩ đích thời hậu, ti bỉ vô sỉ đích thủ đoạn, dã chỉ hảo dụng thượng giá ma nhất điểm bán điểm liễu).

Người đọc lo ngại thay cho gã, sợ câu nói liều lĩnh làm phật ý vị Thái sư thúc tổ của môn phái. Ngờ đâu ta còn khoan khoái hơn khi nghe Phong Thanh Dương tươi cười rạng rỡ, nói: “Hay lắm, hay lắm! Câu nói của nhà ngươi đúng là khác với bọn ngụy quân tử giả mạo bịp đời. Bậc đại trượng phu hành sự thích việc gì ra việc nấy, linh hoạt như nước chảy mây bay, tuỳ ý thích mà làm. còn tất cả những thứ qui củ võ lâm, giáo điều môn phái gì gì đó đều chỉ là cái rắm chó thúi đáng vất đi mà thôi!“ (Hảo, hảo! Nễ thuyết giá thoại, tiện bất thị giả mạo vi thiện đích ngụy quân tử. Đại trượng phu hành sự, ái chẩm dạng tiện chẩm dạng, hành vân lưu thủy, nhậm ý sở chí, thậm chẩm võ lâm qui củ, môn phái giáo điêu, toàn đô thị phóng tha ma đích cẩu xú tí!).

Trong toàn bộ tác phẩm Kim Dung, cho rằng không có đoạn nào làm người đọc cảm thấy thống khoái hơn đoạn đối thoại trên đây, khi nghe câu nói vô cùng khoái ý chân tình của một bậc cao nhân tiền bối của võ lâm, một vị đại tôn sư võ học, mà lại là của phe được xem là chính giáo! Ấy vậy mà người đọc vẫn kính mộ PhongThanh Dương như một con thần long phiêu hốt, ngẫu nhiên ghé về trần gian trao một tặng vật cho người hữu duyên rồi biến mất. Để rồi về sau, hình ảnh ông chỉ xuất hiện như một huyền thoại, qua hồi tưởng của hai vị đại tôn sư võ học khác là giáo chủ Nhật Nguyệt thần giáo[1] Nhậm Ngã Hành và phương trượng chùa Thiêú lâm Phương Chứng đại sư.


http://a9.vietbao.vn/images/vn955/giai-tri/55265088-1258956680-kim-thanh-vu-3.jpg

Kim Thánh Thán khi phê bình Tây sương kí của Vương Thực Phủ, nhân đọc đoạn biện bạch của nhân vật nữ tì tên Hồng, ông quá thích thú bèn liên tửởng đến ba mươi ba điều thống khoái trên đời [2]; Cho rằng đoạn đối thoại lí thú này, giữa Phong Thanh Dương và Lệnh Hồ Xung, đáng được đưa thêm vào thành điều thống khoái thứ ba mươi bốn của họ Kim!
Đoạn đối thoại rất trung thực, phản ánh được những đặc điểm rất con người, không hoa hoè, cường điệu.

Điểm quyến rũ của tác phẩm Kim Dung vẫn thường nằm ở các chi tiết rất nhỏ đó. Sẽ chán biết ngần nào khi mà các nhân vật ai ai cũng sống, cũng ăn nói, cũng hành động theo một khuôn khổ ước lệ như nhau, nhất là lúc “ lỡ “ được tiếng là thuộc danh môn chính phái!

Luôn phải cố tạo một cái gì đó khác người thường, khác với đám phàm phu tục tử, phải sống theo cái khuôn vàng thước ngọc của ngàn xưa, mà không bao giờ dám sống thực là mình !. Đó là điểm mà Trang tử chế nhạo là “Chỉ thích cái thích của ngưòi mà không tự thích cái thích của mình“[3]. Cái thực tại người vẫn luôn luôn tồn tại trong những điều bình dị và hết sức đời thường. Ta cũng hiểu lí do vì sao trong truyện Kiều, nhân vật đáng cảm thông nhất và gần gũi với con người nhất vẫn là Thúc Sinh. Không như Kim Trọng và Từ Hải, chỉ là những nhân vật mang tính ước lệ, quá lí tưởng đến mức hầu như không thực.

Nhân vật Lệnh Hồ Xung hấp dẫn người đọc trước hết ở chổ sống rất thực và rất con người.
Suốt cuộc đời hành sự của Lệnh Hồ Xung, từ lúc lừa Điền Bá Quang để cứu Nghi Lâm, bị hàm oan là giết sư đệ, lấy cắp kiếm phổ, tình cờ gặp Doanh Doanh, qua hình ảnh Bà Bà, ngoài ngõ trúc thành Lạc dương, được quần hào hắc đạo nghinh đón trên sông, bỡn cợt với giáo chủ Ngũ độc giáo Lam Phựơng Hoàng, uống rượu tại Ngũ bá cương, cho đến khi sống chung với Doanh Doanh bên suối vắng, rồi rời chùa Thiếu lâm, giúp Hướng Vấn Thiên đánh quần hùng hai phe hắc bạch, vô tình cứu Nhậm Ngã Hành, học Hấp tinh đại pháp, ám trợ phái Hằng sơn lột mặt nạ bọn Tung sơn, kéo quần hùng đại náo Thiếu lâm tự, từ chối gia nhập Nhật nguyệt thần giáo...

Những việc làm của gã dù đúng hay sai đi nữa thì Lệnh Hồ Xung vẫn hiện chân dung là gã lã ng tư đa tình sống bạt mạng, sống say mê, sống rất chân thành và chân tình với cái Tâm hoàn toàn trong sáng. Các bậc chân nhân xưa nay đều quí trọng chữ thành [4]! Chính vì lẽ đó mà sau này, dù mang tiếng bao tai tiếng hư đốn, bị trục xuất khỏi phái Hoa sơn thì Lệnh Hồ Xung vẫn lọt vào mắt xanh của hai bậc Thái sơn Bắc đẩu trong võ lâm là Phương Chứng đại sư và Xung Hư đạo trưởng.

Và càng oái ăm hơn khi Định Nhàn sư thái trước lúc lâm chung lại chọn mặt gởi vàng, uỷ thác cho gã làm chưởng môn phái Hằng sơn toàn là các ni cô!.

Chính nhờ bản tính hồn nhiên khoáng đạt, giỏi ứng biến mà môn Độc cô cửu kiếm trong tay Lệnh Hồ Xung còn đạt đến những thành tựu cao hơn cả vị Thái sư thúc tổ Phong Thanh Dương. Ngay cả Nhậm Ngã Hành khi ngồi trong đại lao dưới đáy Tây hồ, cũng
không tin nỗi điều đó khi nghe thuật lại việc một đại cao thủ là Nhị trang chúa Hắc Bạch tử bị gã đánh cho liểng xiểng, đến chiêu thứ bốn mươi cũng không phản kích nỗi!.

Cái bản tính hồn nhiên khoáng đạt đó, một biểu hiện khác của trạng thái vô tâm, là yếu quyết để lĩnh hội kiếm ý trong Độc cô cửu kiếm, có thể có được không nếu gã không phải là một tưu đồ, đệ tử của Lưu Linh ? Vị sư mẫu gã cũng nhận định về gã : bừa bãi thành tánh, hời hợt rượu chè (hồ náo nhậm tánh, khinh phù háo tưu).

Nhưng cũng chính vị sư mẫu đó lại cực kì thương yêu gã như con ruột vì bà hiểu tấm lòng của gã rất chân thành, cái tâm của gã rất trong sáng.
Không phải ngẫu nhiên mà trong Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung để cho nhân vật Nhạc Bất Quần - với ngoại hiệu Quân tử kiếm - làm sư phụ Lệnh Hồ Xung.

Kim Dung cố tình muốn làm nổi bật nét tương phản của chữ ngụy và chữ thành giữa hai thầy trò. Một bên che đậy tà tâm thâm độc dưới lớp vỏ cực kì khuôn thước qui củ, một bên cứ hồn nhiên theo ý thích mà hành sự, xét thấy không thẹn với lòng là được.

Cuối cùng, khi cái mặt nạ giả dối của vị sư phụ mà gã hằng tôn kính đã rơi xuống để hiện nguyên hình là tên ngụy quân tử vô cùng gian xảo, thì hai thầy trò bị đẩy vào thế phải giao đấu với nhau bằng hai môn kiếm pháp tối cao. Rốt cuộc Độc cô cửu kiếm vẫn chiến thắng Tịch tà kiếm pháp, cũng như chữ Ngụy vẫn luôn luôn phải bị đánh bại bởi chữ Thành!.

Trong Tiếu ngạo giang hồ, nói đến Lệnh Hồ Xung mà không nói đến nhóm Đào cốc lục tiên sẽ là điều thiếu sót lớn. Nhưng đó sẽ là nội dung của một bài viết khác. Đặt sáu nhân vật hồn nhiên ngây ngô bên cạnh Lệnh Hồ Xung, Kim Dung càng làm tăng thêm vẽ khoái hoạt, bỡn đời của gã.

Một tay tưu đồ thuộc nòi lãng tử đa tình như Lệnh Hồ Xung thì có thiết tha gì với cái chức Giáo chủ Nhật Nguyệt thần giáo hay cái tham vọng thống trị giang hồ ? Có lẽ các thứ đó đối với gã cũng không lí thú bằng uống một vò rượu ngon, rồi cùng người yêu rong chơi bốn biển và thả hồn theo khúc Tiếu ngạo giang hồ trong tiếng hợp tấu của cầm tiêu!


__________

[1] Theo nguyên bản Tiếu ngạo giang hồ mà tôi được đọc qua (gồm 4 tập 28-31 trong bộ Kim Dung toàn tập) thì Ma giáo còn gọi là Nhật Nguyệt thần giáo, không hiểu sao ông Hàn Giang Nhạn, một dịch giả Kim Dung cực kì tài hoa, lại dịch là Triêu Dương thần giáo
[2] Tây Sương Kí, bản dich Nhựơng Tống, chương Khảo hoa, nxb Tân việt, tr. 312-318
[3] Nam hoa kinh, Ngoại thiên. chương Biền mẫu
[4] Thành giả, vật chi chung thuỷ, bất thành vô vật (Thành thực là gốc ngọn của mọi sự. Không chân thành thì không thể có gì thành tựu được cả (Trung dung, chương XXV).


http://files.myopera.com/PTVDblog/blog/jinyong-81b%5B1%5D.jpg

phamanhoa
01-03-2013, 02:10 PM
Chào Huynh
Hansy có giới thiệu ngay đầu Topic. Mời Huynh ghé xem.
Xin cám ơn
HANSY

@Ở đầu topic,bạn chỉ viết là bạn sưu tầm và tổng hợp thôi.Mình nghĩ là bạn cần ghi rõ sưu tầm,tổng hợp,rút ngắn...gì thì điều cần thiết là phải sưu tầm từ đâu,rút ngắn và tổng hợp của ai cho rõ ràng bạn ạ.Chúng ta là người cầm bụt,biết trân trọng những đứa con tinh thần của chúng ta(dù không được xinh đẹp,thông minh đi nữa)thì chúng ta cũng phải biết quý trong con do người khác sinh ra bạn ạ.
Mong bạn hiểu và thông cảm cho những suy nghĩ của tôi.

Than mến

Hansy
01-03-2013, 09:43 PM
25.
GIANG NAM TỨ HỮU
Thảm kịch của tài hoa


http://images.wikia.com/tuhientrang/vi/images/c/c9/Liuzhengfeng.jpg

Người xưa bảo “danh cương lợi tỏa”, danh như dây thừng, lợi như xiềng xích luôn trói buộc con người, khó ai thoát ra ngoài vòng thao túng của nó. Nhất là chữ Lợi, luôn biến cuộc đời thành một bãi chiến trường cạnh tranh khốc liệt. Nhiều kẻ trí thức thuở hàn vi luôn sống một cách rất cao nhã, vậy mà khi rơi vào thế giới của đồng tiền vẫn dễ dàng biến thành một con buôn thượng đẳng.

Nhưng kẻ nào có bản lĩnh để không lụy vì lợi thì lại lụy vì danh. Dù con người cho rằng danh cao hơn lợi, Trang Tử vẫn mỉa mai:”Bá Di chết vì danh dưới núi Thú Dương, Ðạo Chích chết vì lợi trên gò Ðông Lăng. Hai người ấy cách chết chẳng giống, nhưng chỗ tàn sinh hại tính thì như nhau cả (Bá Di tử danh ư Thú Duơng chi hạ. Ðạo Chích tử lợi ư Ðông Lăng chi thượng. Nhị nhân giả sở tử bất đồng, kỳ ư tàn sinh thương tính quân dã” (Nam Hoa Kinh, Biền Mẫu).

Như vậy thì Lợi và Danh đều là hai cái làm lụy người nên tránh.

Những kẻ tài hoa chân chính có chân tài thực học, không lụy vì lợi vì danh thì vẫn phải vướng vào một hệ lụy khác: Ðó là lụy vì cái Ðẹp. Ðem thân chết theo lợi thì bị xem là tiểu nhân, đem thân chết theo danh thì được gọi là quân tử, vậy đem thân để chết vì cái Ðẹp, như Lý Bạch ôm trăng, thì gọi là gì? Là tài tử chăng? Trương Trào bảo: “Một chữ tình để duy trì thế giới, một chữ tài để tô điểm càn khôn”. Không có tình thì làm thế giới đổ vỡ, không có tài thì khiến càn khôn tẻ nhạt.

Sinh ra đời, ai cũng mong muốn có tài, tài năng hoặc tài hoa. Có tài năng mà không tài hoa thì thô lỗ, có tài hoa mà không có tài năng thì khó thành công, chỉ có thể đem cái tài hoa tô điểm cho đời, cho trọn cuộc chơi trong cõi bình sinh.

Nhà thơ Tô Ðông Pha từng nói: “Nhân giai dưỡng tử cầu thông minh, ngã vị thông minh ngộ nhất sinh” (người ta sinh con, ai cũng mong muốn con mình thông minh, còn ta vì thông minh mà lầm lỡ cả một đời người).

Trong lịch sử văn học Trung Quốc, nhà thơ thông minh và tài hoa nhất là Tô Ðông Pha cũng chính là nhà thơ chịu nhiều khổ lụy nhất. Nguyễn Du bảo “Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Phải chăng vì kẻ được phú bẩm tài hoa thường hay trào lộng vạn tượng, và đó là điều làm phật lòng Tạo hóa? Như vậy thông minh và tài hoa cũng là thứ làm lụy người, cần phải tránh. Nhưng có thể tránh được không, khi Trời đã vận tài hoa vào người như một nghiệp chướng?

Quy luật bù trừ trong Thiên nhiên rất công bình. Ðạo vận động như nước, lấy chỗ dư bù vào chỗ thiếu. Cho nên, được Trời phú bẩm cho chút tài hoa, ta cũng chớ vội mừng, vì lắm khi đó chính là hiểm họa. Khi cho ta cái gì thì Thiên nhiên sẽ lấy lại của ta một phần tương ứng, lắm lúc phần bị mất đi nhiều hơn cả phần được ban cho.

Trong tất cả các tác phẩm của Kim Dung, thảm kịch của bốn nhân vật tại Cô sơn mai trang có lẽ là thảm kịch não nùng nhất về hệ lụy của hai chữ tài hoa. Ngày Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung đến tìm Giang Nam tứ hữu ở Cô sơn mai trang cũng đúng là lúc Ðịnh Mệnh gõ cửa đời họ. Bốn vị chủ nhân của Mai trang được Trời phú bẩm cho tài hoa, không ham thi thố, chỉ quy ẩn lánh đời để canh giữ một tội đồ nguy hiểm, thế mà Ðịnh Mệnh cũng không chịu buông tha. Âu đó cũng là hệ lụy của bọn tài tử suốt vòm trời kim cổ.

Nếu tiếng tiêu của Khúc Dương trưởng lão và tiếng đàn của Lưu Chính Phong hòa quyện trong khúc Tiếu ngạo giang hồ trước lúc lâm chung chỉ là đoạn mở đầu cho bản Giao hưởng Ðịnh Mệnh cực kỳ bi tráng, thì đoạn kết thúc của bản giao hưởng đó đã diễn ra tại cổng Cô sơn mai trang bằng cảnh thân bại danh liệt của bốn nhân vật tài hoa của Cầm-Kỳ-Thư-Họa.

Tiếng đàn của Hoàng Chung Công, nước cờ của Hắc Bạch Tử, ngọn bút của Ngốc Bút Ông, chén rượu của Ðan Thanh, bốn món chơi tao nhã của khách phong lưu, đã khiến cho bốn vị chủ của nó phải thân bại danh liệt, cũng chỉ vì mãi mê đi tìm cái Ðẹp giữa đời. Nếu Dostoievski cho rằng cái thế giới đảo điên này sẽ được cứu rỗi bởi cái Ðẹp, thì cái Ðẹp cũng chính là mầm mống của tai ương! Vẻ đẹp tuyệt vời của Helène, một vẻ đẹp có thể cứu chuộc được cả ba ngàn thế giới, đã là nguyên nhân cho cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài mười năm dưới chân thành Troie, và đã là nguồn cảm hứng cho nhà thơ thiên tài của Hy Lạp là Homère viết nên trường ca Iliade bất hủ.


http://chimcanhcut1a.files.wordpress.com/2010/10/tieu-ngao-giang-ho-online-25_9_09_tantieungaogianghoa.jpg

Nhan sắc Dương Quý Phi làm điên đảo cả triều đình Ðường Minh Hoàng để rồi kết thúc một cách bi thương bằng dãi lụa tại Mã Ngôi, để Bạch Cư Dị viết nên Trường Hận Ca, để Lý Thương Ẩn viết nên bài thơ Mã Ngôi được ca tụng đến ngàn thu.

Kẻ đi tìm cái Ðẹp giữa đời, dẫu đó là kẻ đem tài hoa vào đời để biến trần gian thành một cuộc chơi, thì đó vẫn là kẻ đang tự đóng đinh mình lên cây thập gía đời. Chữ tài hoa sẽ vận vào người tài tử nhiều hệ lụy lạ lùng, đúng như Nguyễn Du đã từng đau đớn thốt lên “Phong vận kỳ oan ngã tự cư” (Những mối oan khiên kỳ lạ do nết phong nhã gây ra, ta tự mang cả vào mình - Độc Tiểu thanh ký).

Tiếng đàn Hoàng Chung Công mênh mông thâm diệu, nhưng chưa kịp tấu khúc Tiếu ngạo giang hồ thì tai họa đã ập tới cổng Mai trang. Chén rượu Thổ phồn của nhân vật hào sảng Ðan Thanh vừa mới kịp làm say lòng tri kỷ thì đã chìm mất giữa men đời cay đắng gấp vạn lần. Ngọn bút của Ngốc Bút Ông nằm lăn lóc trước cổng Mai trang như lời cảnh báo cho những ai học đòi thư pháp. Và nước cờ xứng danh quốc thủ của Hắc Bạch Tử vẫn còn đi sau rất xa với nước cờ đời.

“Đàn năm cung réo rắt tính tình đây; cờ đôi nước rập tình xe ngựa đó, thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ, rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà”(Nguyễn Công Trứ). Thú chơi tao nhã của khách phong lưu đẹp biết bao. Đem gieo rắc tài hoa để tô điểm cõi càn khôn bằng tiếng đàn nét bút, mãi mê giữa đời để đi tìm cái Đẹp, mà đâu ngờ lòng si mê cái Đẹp lại đem thảm họa đến kề bên.

Trong bốn nhân vật ở Mai trang, Kim Dung đã tỏ ra rất sâu sắc khi để cho cọn người phản bội lại cả nhóm để cầu xin Nhậm Ngã Hành truyền thụ Hấp Tinh đại pháp lại là một nhân vật chơi cờ: nhị trang chúa Hắc Bạch Tử. Trong các môn cầm kỳ thi tửu, thì kẻ chơi cờ luôn là kẻ phải đấu trí, nên có tâm cơ ứng biến và nhiều mưu mẹo hơn cả, khác với cái tâm hồn nhiên của những nhân vật đắm chìm trong đàn, trong sách vở và trong rượu.

Kẻ tham lợi thì cuồng điên vì lợi lộc, kẻ hám danh thì chìm đắm bởi chức danh, bọn tài tử chân thực trong cõi giang hồ khinh thường cả danh lẫn lợi thì lại si mê quên đời vì chính cái Ðẹp của Nghệ Thuật. Gặp kiếm sĩ thì tặng gươm, gặp tửu đồ thì mời rượu, đó là lẽ đương nhiên. Cho nên bức tranh Khê trung hành lữ đồ của Phạm Khoan phải dành cho Tứ trang chủ Ðan Thanh, chân tích Suất ý thiếp của Trương Húc phải dành cho Tam trang chủ Ngốc Bút Ông, ván cờ Ẩu huyết phổ phải dành cho Nhị trang chủ Hắc Bạch Tử, khúc nhạc Quảng Lăng tán của Kê Khang phải dành cho Ðại trang chủ Hoàng Chung Công.

Hướng Vấn Thiên quả là người tâm cơ siêu tuyệt khi đem bốn báu vật đó ra để bài trí cuộc vượt ngục đầy ngoạn mục của

Nhậm Ngã Hành. Tiếng thở dài nhận tội của Hoàng Chung Công trước bốn vị truởng lão Ma giáo nghe thật xót xa: “Hỡi ơi, mê say vật đẹp đến nỗi đánh mất cả tâm chí, đều do lỗi của bọn thuộc hạ đắm chìm nơi Cầm Kỳ Thư Họa, để cho người ta nhìn vào điểm yếu” (Ai, ngoạn vật táng chí, đô nhân thuộc hạ nịch vu cầm kỳ thư họa, cấp nhân khuy đáo liễu giá lão đại nhược điểm).

Bốn báu vật Cầm Kỳ Thư Họa đó, đã khiến cho bọn tài tử bao thế hệ phải ngày đêm mơ ước, lại chính là mầm họa sát thân.

Với khách tài hoa thì cõi đời là một trò chơi lớn, một Grand Jeu theo Héraclite, nhưng đâu phải ai cũng có đủ công lực để đi trọn cuộc chơi. Thích Ca hoàn tất “cuộc chơi” trong cõi Niết Bàn, Lý Bạch tiếp tục “cuộc chơi” bằng cách cuỡi cá kình lên trời Hãn mạn, Khổng Minh bỏ dỡ “cuộc chơi” trên Ngũ trượng nguyên, Nietzsche chấm dứt “cuộc chơi” trong nhà thương điên, Bùi Giáng xóa nhòa mọi “cuộc chơi” trong cảnh giới ngao du thù thắng.

Khúc Dương và Lưu Chính Phong gởi gắm “cuộc chơi” trong khúc Tiếu ngạo giang hồ. Giang Nam Tứ hữu trả giá “cuộc chơi” bằng cảnh thân bại danh liệt và cái chết oan uổng của Hoàng Chung Công.

Ðức Jésus Christ cảnh báo “Kẻ nào dùng gươm sẽ chết vì gươm”, Simome Weil nói tiếp một câu chua chát “Quiconque prend l’épée périra par l’épée. Et quiconque ne prend l’épée pas ou la lâche périra sur le croix” (Kẻ nào dùng gươm sẽ chết vì gươm, và kẻ nào không dùng gươm hoặc buông gươm sẽ chết trên trên cây thập giá) (La Pensateur et La Grâce (Union Générale D’Éditions, Paris, 1948, p.92)!

Kẻ không tài hoa sẽ chết một đời tầm thường đơn điệu, nhưng kẻ tài hoa sẽ chết một cách đau thương, nghĩa đen hoặc nghĩa bóng, có phải thế chăng?



http://khonggiangame.com/img_upload/content/image/201004/Tieu-Ngao-Giang-Ho-22.jpg

Hansy
02-03-2013, 07:56 PM
26.

A CHÂU
Nước mắt oan cừu


http://ladybjrd.files.wordpress.com/2010/08/ldhn3.jpg

Ồ ly biệt tơi bời bờ lảo đảo.
Em ra đi đời ôm mặt khóc òa.

Một người bảo tôi: nói về Tiêu Phong mà chỉ nói dăm ba trang thì chẳng nói được gì. Vấn đề thân phận con người, vấn đề thị phi thiện ác, vấn đề nghiệt oan của định mệnh, vấn đề quốc gia… chung quanh nhân vật kiêu dũng đó, dẫu có viết đến vài trăm trang cũng chưa đủ. Tôi bảo “Phải”.

Nhưng có những điều, lắm khi viết một ngàn trang vẫn thiếu, mà một chữ lại thừa! Muốn tả trăng thì phải tả mây. Đó là cách mượn mây để mà nẩy trăng của Kim Thánh Thán. Nên muốn nói đến Tiêu Phong thì phải gợi lại hình ảnh A Châu.

Những nhân vật nữ là người yêu của các nhân vật chính trong tác phẩm Kim Dung, dẫu chính hay tà, luôn có thân phận cao sang. Đó là Nhậm Doanh Doanh – Thánh cô của ma giáo, là Triệu Mẫn - quận chúa Mông Cổ, là Hoàng Dung – con gái của Đào Hoa đảo chủ, là Nhạc Linh San - ái nữ của chưởng môn Hoa Sơn, là Mộng Cô – công chúa Tây Hạ, là Vương Ngữ Yên - kiều nữ Mạn Đà sơn trang.

Chỉ riêng A Châu - người con gái dìu dắt sinh mệnh và cuộc đời của một nhân vật kiêu dũng và anh hùng là Tiêu Phong - lại là một tỳ nữ mang thân phận thấp hèn : là đứa con rơi của một hoàng thân Đại Lý, nên trở thành một cô gái mồ côi lênh đênh lưu lạc, cha mẹ phiêu tán, phải nương náu nơi nhà Mộ Dung với tư cách người hầu. Mà trong số các nhân vật chính của Kim Dung, Tiêu Phong lại trội vượt hơn hẳn về phong độ kiêu hùng, cho nên khi Kim Dung để A Châu dìu dắt sinh mệnh của Tiêu Phong, thì ta càng hiểu rằng cái phẩm chất ẩn tàng nơi A Châu là cực kỳ cao quý.

Khách anh hùng xông pha giữa điệp trùng gươm giáo, sẵn sàng coi cái chết như một cõi đi về, nhưng một khi đối diện với những “nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe" lại thường nhận chân ra nỗi hoang lương thê thiết, và cái vô nghĩa của cuộc đời. Và họ cần đến những nữ lang để tìm chút hơi ấm của đời thường, một khi phải đối diện với cõi trống rỗng hư vô.

Ngay cả với Tiêu Phong – là một nhân vật gần như sống trong tự do tuyệt đối (xin hiểu chữ tuyệt đối theo nghĩa tương đối của trần gian !). Rượu và võ công đã chắp cho ông đôi cánh chim bằng để bay bổng tuyệt vời trong khoảng trời bao la tự tại, lướt trên những lợi danh tủn mủn giữa võ lâm.

Thử hỏi chức vị Bang chủ Cái bang nào có nghĩa gì ? Nếu ông có quyến luyến đi nữa, thì cũng chỉ vì sự an nguy của đệ huynh trong bang hội mà thôi. Ta có cảm tưởng người anh hùng ấy thong dong đến giữa cõi đời, rồi sẽ ra đi một cách nhẹ nhàng không vướng bận. Không như Lệnh Hồ Xung luôn khoái hoạt bỡn cợt, Tiêu Phong lại lẫm lẫm một khí độ kiêu hùng.

Con người ấy đến với đời như ngọn lửa bùng cháy, để rồi sẽ ra đi như một tia chớp, lưu lại giữa trần gian một hình bóng uy nghi. Nhưng rồi chính A Châu, hay đúng hơn, chính cái chết của A Châu là sợi dây nối Tiêu Phong vào cõi trần gian đầy hệ lụy.

Cái giây phút cực cùng bi đát của Thiên Long Bát Bộ là lúc A Châu, như một con thiên nga trúng đạn, gục ngã dưới phát chưởng oan nghiệt của Tiêu Phong. Đường bay tới một khoảng trời xanh không còn tranh chấp hận thù, không còn ân oán thị phi, khoảng trời chỉ có đàn cừu chạy trên thảo nguyên trong tiếng sáo mục đồng dìu dặt, đường bay tưởng chừng như vô cùng bình dị đó đã vĩnh viễn khép lại với con chim thiên nga thông minh và hiền dịu A Châu. Nàng đã ngã xuống giữa những giọt nước mắt oan cừu, phủ thêm bi thương lên cõi thế.

Ồ ly biệt tơi bời bờ lảo đảo
Em ra đi đời ôm mặt khóc oà
(Chiêm bao – Bùi Giáng)


http://image2.sina.com.cn/ent/d/2003-12-26/U111P28T3D263596F326DT20031226141849.jpg

Em đã ra đi vĩnh viễn. A Châu của Kim Dung đã ra đi vĩnh viễn dưới bàn tay Tiêu Phong. Như Desdemona của Shakespeare đã ra đi vĩnh viễn dưới bàn tay Othello. Một kẻ vô tình, một người cố ý. Tất cả thảm hoạ đó đều phát sinh từ ngộ nhận. Othello ngộ nhận bởi gã Lago cực kỳ nham hiểm, Tiêu Phong ngộ nhận bởi người đàn bà ghen tuông Mã phu nhân.

Kiếp người đã quá đỗi nặng nề rồi, thế sao đời cứ đem bi kịch chất chồng lên thêm nữa? Phải chăng để nhắc nhở con người nhìn lại chân tướng của trần gian? Ta bước vào đời với trái tim nặng trĩu ước mơ, để rồi ra đi với một tâm hồn hoang phế. Tất cả đều bấp bênh phù động, cõi vô thường tìm đâu được chốn bình yên. Thoạt nhìn trần gian đầy những cảnh “Long lanh đáy nước in trời, Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng", để rồi ngày trùng phùng chỉ đối diện với "Bước vào chốn cũ lầu thơ, Tro than một đống nắng mưa bốn tường".

Cả cõi đời đều ôm mặt khóc oà. Tiêu Phong đã khóc, chúng ta đã khóc. Và còn bao nhiêu người sẽ khóc nữa, trước những bi kịch trớ trêu của ngộ nhận giữa dâu bể cuộc đời ? Mộng hồn nàng có về vương vấn nơi Nhạn môn quan?

Còn không một bận quay về,
Nhạn môn quan khóc trăng thề vàng gieo?

Còn đâu nữa những đàn cừu tung tăng trên thảo nguyên mênh mông nơi quan ngoại? Còn đâu nữa lời hẹn thề quay lại Nhạn môn quan?

Ta muốn ngậm ngùi thốt lên những lời thiết tha cùng nhà thơ Bùi Giáng: "Và nước dưới cầu chảy mãi? Để huê trôi, rêu nhạt, đá mòn. Thế là người có thể gục đầu xuống khóc, và tự hỏi : ở phương trời nào xa vắng, có bến bờ nào vĩnh viễn hay không?".

Đó là những lời Bùi Giáng viết về cõi đời dâu bể, mà sao nghe như những lời nức nở của A Châu. Trong cái đêm oan nghiệt đó, dưới lốt hoá trang Đoàn Chính Thuần, nàng đến gặp gỡ Tiêu Phong, có nghĩa là chịu im lặng để tìm cái chết. Vì chữ hiếu, nàng chấp nhận tìm cái chết dưới tay người yêu dấu, giữa lúc mộng đời đang xanh thắm, và cuộc tình đang chất ngất nồng say.

Tôi hình dung đêm hôm ấy, có lẽ nàng khóc nhiều ghê lắm. Vì hân hoan lẫn vì cay đắng. Nơi phương trời xa vắng, liệu có bến bờ nào vĩnh viễn hay không ? Ta không biết. Không thể nào biết được. Người bước vào đời hân hoan dệt mộng, muốn tìm cho mình một chút bình yên, còn cuộc đời luôn tìm cách phá tan những ước mơ nhỏ nhoi nhất của con người. Nên xin người cứ nhủ lòng rằng chữ tương phùng đành hẹn lại kiếp sau, và trong cõi chết xin được nối kết những mộng đầu dang dở. Điều đó tưởng chừng như hão huyền, không hiện thực, nhưng chỉ có thế con người mới tìm được chút an ủi cho hồn mình, giữa tan nát thương đau.

A Châu đã ngã xuống, nhưng ta tin rằng tâm hồn nàng hân hoan lắm. Ngộ nhận giữa Tiêu Phong và Đoàn Chính Thuần chỉ được cởi mở cùng cái xác lạnh giá của A Châu!

Linh hồn thục nữ bao dung
Nhạn môn quan hẹn mộng trùng lai xưa
Lệ thương biết mấy cho vừa

Lý Hạ khóc Tô Tiểu Tiểu, Tố Như cùng Chu Mạnh Trinh cùng khóc Thuý Kiều, Shakespeare khóc Desdemona, chúng ta cùng khóc A Châu. Thời đại khác nhau, nhưng giọt lệ đau thương dường như chỉ là một. Nước mắt bọn tài tử kim cổ đông tây có an ủi được chút nào không những nữ lang bạc mệnh?

Như chàng sinh viên Raskolnikov, trong kiệt tác "Tội ác và trừng phạt" của Dostoievski trân trọng quỳ trước Sonia - một cô gái giang hồ mang trái tim Bồ Tát, chúng ta cũng xin nghiêng mình trước họ, như nghiêng mình trước những khổ lụy thiên thu, những lênh đênh vạn đại của con người. Bao oan nghiệt đoạn trường của nhân loại như chung đúc vào những nữ lang bạc mệnh, để ngàn năm đau mãi tiếng tân thanh.

A Châu đã chết, nhưng nàng còn sống mãi trong tâm hồn Tiêu Phong, trong những chén rượu nồng "Thoáng hiện em về trong đáy cốc, nói cười như chuyện một đêm mơ” (Quang Dũng). Chính điều đó đã đẩy Tiêu Phong đối diện với nỗi cô liêu cùng cực, khiến người đọc thấy ngậm ngùi khôn xiết. Những lời trăn trối trong nước mắt của A Châu như sợi dây trói ông vào cõi thế, mà ông luôn muốn tìm cách cắt bỏ đi.

Nếu như 600 quyền kinh Đại Phẩm Bát Nhã chỉ là những lời chú giải cho một chữ KHÔNG trong tư tưởng Phật giáo đại thừa, thì mũi tên tự đâm vào ngực Tiêu Phong nơi quan ải cũng chỉ là một lời "chú giải" cho những giọt nước mắt của A Châu.



http://files.myopera.com/BaoTranart/blog/TLBB%202.jpg

Hansy
04-03-2013, 03:39 PM
27.
DU THẢN CHIThảm kịch khúc phượng cầu lạc điệu!


http://images.wikia.com/tuhientrang/vi/images/5/58/2004-01-18_489_8.jpg


Tôi xin chịu cuồng si để sáng suốt
Tôi đui mù cho thỏa dạ yêu em
(Phụng hiến - Bùi Giáng)

Tôi muốn dùng hai câu thơ thiết tha cháy bỏng đó để làm "hành trang" cùng bạn đọc đi vào tâm hồn của một nhân vật của Kim Dung, nhân vật xứng đáng được gọi là kẻ tình nhân vĩ đại nhất trong mọi nền văn học cổ kim: Du Thản Chi trong Thiên Long Bát Bộ.

Hình tượng cực cùng bi thảm của Du Thản Chi đã gây cho người viết nỗi chấn động kinh hoàng từ thuở nhỏ. Cậu học sinh mới bước vào ngưỡng cấp 3 là tôi ngày ấy đã thẫn thờ khép tập sách cuối cùng của Thiên Long Bát Bộ lại với tất cả nỗi hoang mang thơ dại của tuổi học trò. Tiếng Du Thản Chi tuyệt vọng kêu gào tên A Tử giữa cảnh trời chiếu quan ải, với đôi mắt mù lòa đẫm lệ, như đồng vọng mãi trong tâm khảm người đọc, và như muốn réo gọi những ẫn ngữ thương đau nào còn đang mơ hồ chìm khuất giữa nhân gian.

Một thanh niên khỏe mạnh đang lứa tuổi rạo rực thanh xuân, vì muốn trả thù cha, đã tìm cách vượt qua biên giới Hán - Liêu. Hình ảnh người cha gục chết dưới chưởng lực của Tiêu Phong, trong trận huyết chiến kinh hoàng tại Tụ hiền trang, ắt hẳn đã nung nấu trong hồn y mối phụ thù "bất cộng Từ Vi Phạm thiên" cháy bỏng. Thuở lâm hành, ắt hẳn hồn y hăng hái lắm và tấc lòng hiếu thảo ấy đã sục sôi biết bao là nhiệt huyết, dù y biết rõ rằng mình tài sức thua kém hẵn Tiêu Phong. Và y đã trà trộn cùng đám người Hán để vượt qua Nhạn môn quan với tâm sự kẻ sang Tần.

Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn
Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn.
(Gió hắt hiu hề sông Dịch lạnh tê,
Tráng sĩ một đi hề chẳng trở về) .

Ngọn gió biên thùy ngoài Nhạn môn quan dầu không hắt hiu như trên sông Dịch, nhưng lòng kẻ ra đi ắt hẵn vô cùng khẳng khái, vì y hiểu rõ rằng ra đi là "nhất khứ hề bất phục hoàn" khi đem tài lực mình đối chọi với Tiêu Phong. Y đã tìm cách tiếp cận Tiêu Phong và dùng rắn độc để trả thù.

Ngọn roi của Tiêu Phong quật chết con rắn đã dập tắt ngay ước vọng trả thù của người con hiếu hạnh ấy. Con linh cẩu đành nhìn con hùng sư bằng đôi mắt bất lực lẫn căm thù. Thất bại lần đầu, chưa nghĩ cho ra phương sách khác, thì y lại gặp phải A Tử và bị vướng ngay vào cái lưới tình vô cùng cay nghiệt. Ðể rồi từ đây mở đầu cho một trang bi kịch cực kỳ thảm khốc của tình yêu.

Em lơ đãng ném hoa vàng giăng lối
Tôi dại khờ khốn quẫn giữa trùng vây.

Cô bé tinh quái A Tử đã không ném lưới tình bằng những hoa vàng giăng lối, không giăng lưới tình bằng nụ cười hàm tiếu hay bằng khoé mắt thu ba, mà bằng những trò chơi vô cùng man rợ gần như mất cả tính người. Cô đã đem kẻ tình si kia làm vật giải trí trong những trò tiêu khiển, vì thói nhàn rỗi độc ác của một công nương. Nhưng, than ôi, tâm hồn của những kẻ si tình tự cổ chí kim - từ những người tài trí tuyệt luân cho đến kẻ khờ khạo ngu si -vẫn luôn luôn vô ngần hào hoa trong tinh thể :

Tôi chấp nhận trăm lần trong thổn thức
Tôi bàng hoàng hoảng hốt những đêm đêm
Tôi xin chịu cuồng si để sáng suốt
Tôi đui mù cho thỏa dạ yêu em
(Phụng hiến - Bùi Giáng)

Vâng, tôi xin chấp nhận tất cả. Xác thân tôi đây, linh hồn tôi đây em hãy tha hồ mà đày đọa dày vò, em hãy cứ cột dây vào cổ tôi rồi cho ngựa kéo đi để biến tôi thành con diều người, hãy cứ hủy hoại xác thân tôi bằng những trò chơi oái ăm tàn nhẫn chưa từng có giữa nhân gian, nhưng em hãy để tôi yêu em, hãy để tôi vĩnh viễn đui mù si dại trong máu lệ của tình câm.

Có biết bao con đại bàng kiêu ngạo bay bổng tuyệt vời, ý chí muốn vượt cả mây xanh, không chịu khuất phục trước hàng hàng lớp lớp cung tên, nhưng lại dễ dàng xếp cánh khi vướng phải một sợi tóc cực kì mềm mại! Ðó là bi kịch hay là nét đẹp của cuộc đời?

Trong truyện ngắn Marka Tsuđra của Maxim Gorki, khi anh chàng Lôikô Zôbar kiêu ngạo, vì bị khuất phục bởi nàng Radda xinh đẹp mà đành phải giết cả nàng rồi tự vẫn, để bảo vệ lòng kiêu hãnh của mình, thì thử hỏi đó là sự kiêu ngạo ngu xuẩn hay nét đẹp tâm hồn của khách mày râu? Ðáp án cho câu hỏi này có lẽ vẫn mãi còn lơ lững đến ngàn thu.

Lúc A Tử cho người hầu dùng cái khuôn sắt nung cháy trùm lên đầu Du Thản Chi và hủy hoại khuôn mặt của, thì trong cơn đau quằn quại xé nát cả thịt da đó, tâm hồn y vẫn hân hoan hướng về cô gái tàn ác như kẻ hành hương hướng về một đấng Chí Tôn.

Trong tâm hồn cuồng điên si dại đó, máu và lệ của mối tình câm đã ngập tràn, như muốn nhận chìm cả mối hờn căm đã từng sôi sục thuở vượt qua Nhạn Môn Quan để trả mối phụ thù. Có mấy ai lại không động lòng trắc ẩn, thậm chí rùng mình, khi đọc đến đoạn Du Thản Chi, với xác thân tàn tạ, bò lết lại gần A Tử như một con chó trung thành, chỉ để được nhìn một gót chân hồng của cô với một tấm lòng hân hoan cảm tạ.


http://image2.sina.com.cn/ent/v/2002-12-03/3_28-3-326-58_2002120316447.JPG

Cái dung nhan kiều lệ của A Tử trong trang phục uy nguy của một quận chúa Khất Ðan hiện ra trước mặt Du Thản Chi như một bậc thần tiên giáng thế. Chi tiết trên tưởng chừng như vô cùng tàn nhẫn, nhưng nếu chịu khó đọc kinh Hoa Nghiêm, thuật lại cuộc lịch hành chiêm bái của Thiện Tài đồng tử đi cầu Bồ Tát đạo, đến đoạn vị đồng tử kia đến chiêm bái Hưu Xả ưu bà di để vấn đạo, thì chúng ta mới cảm thấy được hết cái thâm hậu trong bút lực của Kim Dung:
"Lúc ấy Hưu Xả ưu- bà- di ngồi toà chơn kim, đội mão hải - tạng - chơn - châu - võng, đeo bửu xuyến chơn kim hơn cõi trời, rũ tóc xanh biếc, đại - ma - ni - bửu trang nghiêm trên đầu, sư -tử - khẩu - ma -ni -bửu làm bông tai, như - ý ma -ni -bửu làm chuỗi ngọc, bửu võng trùm trên thân. Trăm ngàn na- do- tha chúng sanh cúi mình cung kính …” .

Có ai thấy ưu - bà- di này thời tất cả các bệnh khổ đều trừ diệt, lìa phiền não, hết kiến chấp, xô núi chướng ngại, nhập cảnh giới vô ngại thanh tịnh nhã. Tâm họ rộng lớn đầy đủ thần thông, thân không chướng ngại đến khắp mọi xứ .

Dời qua một bình diện khác, hãy thử thay hình ảnh Hưu Xả ưu bà di bằng A Tử và để cho Du Thản Chi đứng vào vị trí của Thiện Tài đồng tử, thì chúng ta thấy được gì? Hình ảnh lộng lẫy của quận chúa A Tử trong đôi mắt của Du Thản Chi nào có khác gì hình ảnh tôn nghiêm của Hưu Xả ưu bà di, với pháp môn giải thoát "lưu ly an ổn tràng", trước mắt Thiện Tài đồng tử? Quân hầu thị tỳ vây quanh cung phụng quận chúa có khác gì "Trăm ngàn na- do- tha chúng sanh cúi mình cung kính"?

A Tử ưu bà di đang thị hiện kim thân trước đồng tử Du Thản Chi trong cuộc lịch hành chiêm bái giữa Mê Cung huyền ảo của tình yêu. Cái mỵ lực kỳ dị của hồng nhan thừa sức xua tan đi bao não phiền đau khổ. Ðây gót sen hồng, đây bàn tay ngà ngọc với những với đường gân xanh nhỏ li ti, hỡi kẻ si tình hãy hôn đi, hãy chỉ một lần chạm nhẹ môi vào cũng đủ để cảm nhận được vạn đại thiên thu về dồn tụ trong khoảnh khắc.

Trong cái giây phút chiêm ngưỡng đắm say đó, ắt hẵn kẻ si tình kia hân hoan vô tả và cảm thấy được "tất cả các bệnh khổ đều trừ diệt, lìa phiền não, hết kiến chấp, xô núi chướng ngại, nhập cảnh giới vô ngại thanh tịnh"! Cái tâm si của con người khi yêu quả có đủ sức mạnh để kiến tạo nên một Thiên Ðường lộng lẫy từ cõi Ðịa Ngục u minh.

Còn gì chua xót hơn khi Du Thản Chi tình nguyện dâng cặp mắt - cái vốn liếng duy nhất còn lại trên đời để y có thể đối mặt được với A Tử - với tâm nguyện cứu A Tử thoát khỏi cảnh mù lòa, dù biết rõ rằng điều đó sẽ khiến bi kịch tình yêu của mình thêm tan hoang đổ vỡ. Tôi xin chịu cuồng si để sáng suốt, tôi đui mù cho thỏa dạ yêu em. Cái đui mù nghĩa bóng trong thơ đã được Du Thản Chi thực hiện theo nghĩa đen bằng tất cả khối si tâm. Lưỡi dao trên cung Linh Thứu khi đặt vào đôi mắt Du Thản Chi đã mở ra chân trời huyền mật trong tâm thức luyến ái của nhân gian!

Hình ảnh A Tử móc mắt ném trả Du Thản Chi, rồi ôm xác Tiêu Phong rơi vào vực thẳm mà đã được Bùi Giáng gọi là : "triệt để mù loà chạy vào sa mạc của tình yêu", thế thì còn ngôn từ nào thiết tha hơn nữa sẽ dành cho hình ảnh Du Thản Chi mù loà và cô đơn, kêu gào tuyệt vọng tên người yêu giữa cảnh trời chiều quan ải?

Ngày vượt Nhạn Môn Quan với hiếu tâm bồng bột, để cuối cùng một mình đứng chết lặng giữa gió chiều với một khối si tâm. Cuồng điên máu lệ tình câm. Bước chân A Tử xa xăm muôn trùng. Bóng chiều qua ải mông lung. Y không biết rằng bóng chiều đang phủ xuống, vì trong hai hốc mắt kia bóng tối đã vĩnh viễn ngập tràn. Y cũng không biết rằng A Tử đã chết. Ðiều đó có nghĩa là y phải tiếp tục sống đọa đày trong nỗi đợi chờ khắc khoải.

Hãy tưởng tượng một kẻ mù loà si dại thất thểu giữa giang hồ để đi tìm một người yêu đã chết, bằng một trái tim say đắm thiết tha ! Kim Dung đã xây dựng một hình tượng làm tan nát cả lòng người. Ông không để Du Thản Chi chết ngoài quan ải, ông không muốn vùi chôn Du Thản Chi nơi đồng quạnh chốn biên cương, mà muốn mai táng y trong muôn triệu tâm hồn của những tình nhân suốt vòm trời kim cổ. Ðẩy khối tình si đến chỗ tận tuyệt của thảm khốc đoạn trường có lẽ khó có ai qua nỗi Kim Dung với hình tượng Du Thản Chi.

Con người sinh ra chỉ để đi tìm lại "một nửa của mình", hay đi gieo một khúc phượng cầu như Tư Mã Tương Như thuở trước. Phượng hề ! phượng hề! Qui cố hương. Ngao du tứ hải cầu kỳ hoàng. Con chim phượng rong chơi bốn bể để ngày qui hồi cố quận tìm lại được chim hoàng. Lời ca đó trong cung đàn của con chim phượng Tư Mã đã nhận được hồi ứng từ con chim hoàng Trác Văn Quân.

Chúng ta cũng đã bao lần gieo khúc phượng cầu Nếu được ứng họa thì phượng và hoàng sẽ sánh đôi để cùng nhau nhả nhạc cho đời, còn nếu không được ứng họa hay lạc sai cung điệu thì, đối với chúng ta, trong đau thương vẫn có chút ngọt ngào, trong đắng cay vẫn còn niềm thơ mộng. Còn Du Thản Chi?

Nói bất cứ điều gì về Du Thản Chi chúng ta ắt hẳn đều cảm thấy có chút gì tàn nhẫn, vì nỗi khổ đau của y quá lớn, cảnh đoạn trường mà y trải qua quá độ thẳm sâu. Một nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết mà sao vẫn có thể làm cho chúng ta quay quắt thương đau đến thế, phải chăng vì hình tượng đó phản ánh được tiếng nói thực của con người trong tình mộng cuồng điên?
[/B]


http://farm2.static.flickr.com/1076/803935415_6fd29d81dc.jpg

Hansy
05-03-2013, 05:05 PM
28.
Bi kịch dân tộc qua thân phận
TIÊU PHONG

http://s3.60s.com.vn/image/92008/21/GAMEGATE_15364498.jpg

Tôi đã có đôi lần viết về Tiêu Phong, viết trực tiếp về ông, hoặc gián tiếp qua nhân vật A Châu. Nhưng vẫn thấy chưa nói được gì. Bi kịch thân phận của Tiêu Phong quá lớn, nên cuộc đời ông, giống như các nhân vật trong bị kịch Hy Lạp cổ đại, là một suối nguồn hầu như vô tận, một inexhaustible source để người cầm bút đặt lại nhiều vấn đề từ cơ sở.

Từ vấn đề thân phận con người, vấn đề thị phi thiện ác, vấn đề nghiệt oan của Định Mệnh cho đến vấn đề dân tộc. Không một tác phẩm võ hiệp nào, và hiếm có một tác phẩm văn học nào lại đặt lại vấn đề dân tộc một cách cay đắng và bi tráng như Thiên Long Bát Bộ qua nhân vật Tiêu Phong.

Có lẽ chưa bao giờ, lịch sử nhân loại lại phải trải qua những cuộc xung đột sắc tộc mãnh liệt trên phạm vi toàn cầu như hiện nay. Không biết tự bao giờ, những định kiến sắc tộc cứ mãi cháy âm ỉ trong lòng người, và chỉ cần có dịp là nó lập tức bùng lên thành một biển lửa ngập tràn bạo lực. Ngày lại ngày, nhiều nơi trên thế giới lại cứ tiếp tục bị nhận chìm trong máu lửa hận thù; những người anh em này ngã xuống và những người anh em khác lại cứ tiếp tục đứng lên reo mừng chiến thắng. Định kiến sắc tộc, với lưỡi hái của Thần Chết, giờ đây đang bước vào giai đoạn hoàng kim.

Tấn bi kịch trong Thiên Long Bát Bộ có thể xem như bi kịch dân tộc, qua nhân vật kiêu dũng là Tiêu Phong. Tác phẩm mở đầu bằng cái chểt bi thảm của người mẹ, và khép lại bằng cái chết bi tráng của người con. Hai cái chết đều diễn ra tại Nhạn môn quan, cách nhau đến mấy mươi năm và đều do ngộ nhận nảy sinh từ định kiến dân tộc. Như nhân vật người câm trong Le Malentendu của Albert Camus, Nhạn môn quan là một chứng nhân lịch sử cho toàn tác phẩm. Chỉ chứng kiến và im lặng. Để rồi mai sau, sự im lặng đó sẽ dội mãi vào tâm khảm người đọc tiếng gọi khẩn thiết của vấn đề dân tộc.

Mộ Dung Bác vì hoài bão muốn khôi phục lại nước Đại Yên của tổ tiên, nên đã dựng nên tấm thảm kịch tại Nhạn môn quan, nhằm khuấy động can qua giữa hai nước Tống-Liêu để thừa cơ thủ lợi. Quần hùng Trung Nguyên, vì lòng ái quốc mù quáng, đã rơi vào vòng thao túng của Mộ Dung Bác.

Họ tổ chức chặn đánh chiếc xe chở vợ chồng người Khiết Đan là Tiêu Viễn Sơn cùng đứa con ngay tại vùng biên giới Nhạn môn quan. Người mẹ hiền lành bị giết chết một cách oan uổng, người cha- sau những phút giây chiến đấu kiêu hùng và tuyệt vọng- đã ôm con rơi xuống vực thẳm. Trước khi rơi xuống vực thẳm, người cha đã kịp thời ném đứa con trai còn ẵm ngữa lên nằm giữa vùng đất đầy xác chết ngổn ngang, như một lời thách thức với lương tri.

Khi quần hùng Trung Nguyên hiểu ra vấn đề thì tất cả đã quá muộn màng. "Here’s the smell of the blood still; all the perfumes of Arabia will not sweeten this little hand" (Shakespeare, Macbeth, Act 5, Scene 1) (Hãy còn đây mùi của máu, và tất cả hương hoa vùng Á Rập cũng không rửa sạch nỗi bàn tay nhỏ bé). Bàn tay quần hùng dầu không nhỏ bé, nhưng đã lỡ nhuốm máu người vô tội thì khó lòng rửa sạch. Mọi việc đã lỡ làng, không làm sao cứu vãn được nữa.

Quần hùng Trung Nguyên, để tránh nỗi ray rức chắc chắn sẽ ám ảnh suốt đời, nên đem đứa bé trai đó về giao cho một đôi vợ chồng tiều phu nghèo không con dưới chân núi Thiếu Thất. Giá như đứa con trai kia là đứa bé tầm thường thì mọi việc sẽ trôi êm xuôi theo cuộc sống bình yên, và huyết án năm nào tại Nhạn Môn quan sẽ bị vùi trong quên lãng.

Nhưng người cha đã vốn thuộc nòi long tượng nên người con cũng khí át mây xanh. Và mọi bi kịch đều khởi đầu từ đó. Đứa con tài tuấn kia, bằng phong độ anh hùng và chiến công hiển hách, đã nghiễm nhiên trở thành bang chủ của Cái Bang là Tiêu Phong. Ông nghĩ rằng mình là người Hán, nên đã bao phen không ngại xả thân vì người Hán mà chiến đấu với người Khiết Đan.

Bi kịch dân tộc của ông chỉ bắt đầu từ sự ghen tuông của người đàn bà xinh đẹp là Khang Mẫn, phu nhân của Mã phó bang chủ. Khi quần hùng đã biết ông là người Khiết Đan thì tự nhiên một bức tường ngăn cách lập tức được dựng lên giữa ông và họ.

Họ quên ngay một bang chủ Tiêu Phong người Hán kiêu hùng và hào hiệp ngày nào, và thay vào đó là hình ảnh đáng căm hận của một tên “Liêu cẩu” thuộc dân tộc đối nghịch. Định kiến dân tộc quả có một tác dụng mãnh liệt, dễ dàng đẩy con người vào thế đối đầu một mất một còn. Sự xung đột về chính tà trong các tác phẩm khác đã được đẩy lên một bình diện cao hơn trong Thiên Long Bát Bộ, đó là sự xung đột về quan điểm dân tộc.

Trên bình diện chính tà, thì Phe chính giáo xem phe Ma giáo là tà ma ngoại đạo, còn phe Ma giáo lại chẳng thèm coi phe Chính giáo vào đâu. Trên bình diện dân tộc, thì người dân nước này cứ luôn lấy quốc gia mình làm “hệ quy chiếu” để nguyền rủa dân nước bên kia, xem đó như là loài mọi rợ. Người Tống gọi người Liêu là “Liêu cẩu” (bọn chó Liêu). Người Liêu lại gọi người Tống là “Tống trư” (loài lợn Tống). Chẳng bên nào chịu kém bên nào.


http://24.media.tumblr.com/tumblr_mbdlz0UPav1qzcciuo1_500.jpg

Ngày còn ở Trung Nguyên, khi chứng kiến cảnh quân lính Khiết Đan tàn sát dân Tống ở vùng biên giới, ông đã thẳng tay chém giết bọn lính Khiết Đan mà ông xem như thuộc về một dân tộc man rợ. Nhưng trong những tháng ngày sống nơi vùng biên giới cùng A Tử, cũng như khi làm Nam viện đại vương, ông có nhiều phen chứng kiến cảnh giết chóc lẫn nhau giữa hai dân tộc nơi biên giới.

Quân lính Khiết Đan dưới quyền ông cũng tàn ác và dã man đối với người dân đất Tống không kém bọn lính Tống đối với người dân nước Liêu. Tại biên giới, hai bên giết hại lẫn nhau như giết loài chó lợn, và cũng luôn nhân danh con người để lên án lẫn nhau. Chân lý nằm ở đâu, khi mà định kiến về quốc gia vẫn đè nặng lên con người muôn thuở?

Ông chợt nhận ra cái nhỏ nhoi vô lý trong định kiến khắt khe về dân tộc. Mặc dù là con dân nước Liêu nhưng quê hương thật sự của Tiêu Phong lại là Trung Nguyên. Nơi đó đã chứng kiến bao thăng trầm vinh nhục của đời ông, nơi đó ông đã trải qua bao vui buồn cùng hào sĩ khắp giang hồ. Do đó, ông thực sự chán nản khi vua Liêu muốn ông cầmđầu cuộc chinh phạt Trung Nguyên. Để làm gì cho cuồng vọng dân tộc, khi mà cái giá phải trả là cái chết của muôn vạn sinh linh?

Nhưng phận làm bề tôi sao có thể trái lệnh vua? Ông dự định dẫn A Tử trốn về Trung Nguyên, nhưng A Tử, do mù quáng vì tình yêu, đã cho ông uống một loại “thuốc yêu”, mà theo hoàng hậu nước Liêu sẽ khiến người uống nó thương yêu mình mãi mãi! Loại “thuốc yêu” đó đã khiến ông mất hết nội lực, và bị bắt khi dẫn A Tử chạy trốn lúc nửa đêm.

Ngày xưa, người chị là A Châu dịu hiền đã vì chữ hiếu mà làm tan nát cả trái tim ông, thì lần này người em tai quái là A Tử lại vì chữ yêu mù quáng mà khiến ông bị bắt. Ông bị cầm tù, và quần hùng Trung Nguyên đã tổ chức vượt qua Nhạn môn quan để vào đất Liêu cứu ông. Khi cùng quần hùng chạy trốn đến Nhạn môn quan thì cửa ải lại khép kín, trong khi truy binh của vua Liêu đuổi gấp phía sau, ông cùng quần hùng bị kẹt ngay tại làn giới tuyến giữa hai quốc gia thù địch.

Bên kia Nhạn Môn quan là đất nước của một dân tộc đã từng xem như ông như kẻ thù, nhưng lại là nơi ông đã trải qua bao vui buồn từ thời thơ ấu. Bên này Nhạn Môn quan là đất nước quê hương, nhưng dân tộc đó đã xem ông như một tên phản bội. Trời đất mênh mông nhưng không có nơi nào chứa đựng nổi bi kịch quá lớn của con người!

Chết tại Liêu ư? Hồn khách anh hùng sẽ lấy gì để đáp tạ tình huynh nghĩa đệ của hào sĩ Trung Nguyên? Chết ở Tống ư? Người con dân nước Liêu đó ắt sẽ biến thành hồn ma suốt đời ngóng vọng về cố quốc. Nếu trong cõi tư tưởng, con người có thể tiêu dao dao giữa hai cõi thị phi thiện ác, thì trong “cõi người ta”, con người buộc phải chọn lựa. Nhưng phải chọn lựa ra sao, khi mà mọi ngã đường đều dẫn vào tuyệt lộ? Cho nên Kim Dung phải để Tiêu Phong chết nơi biên giới, nấm mộ ông không ở Liêu cũng chẳng ở Tống mà là vực thẳm nơi Nhạn Môn quan. Đó có lẽ là lối thoát tất yếu và cuối cùng cho vấn nạn về dân tộc.

Hán Liêu nào biết về đâu.
Ngậm ngùi tiếng hát A Châu thuở nào.
Rượu chìm trong cõi chiêm bao.

Bi kịch tuổi thơ của Tiêu Phong đã bắt đầu tại Nhạn Môn quan. Và ông chấm dứt bi kịch đời mình bằng mũi tên tự đâm vào ngực, cũng tại Nhạn Môn quan. Nhạn Môn quan ngàn đời sừng sững giữa hai nước Tống - Liêu như định kiến không thể phá bỏ nỗi về quốc gia và biên giới trong tâm trí con người.

Nhưng Nhạn môn quan kia dẫu cao sừng sững, cao đến mức làm nãn lòng cả những đàn hồng nhạn thiên di, con người vẫn có thể vượt qua được, song đến ngày nào chúng ta mới có thể thực sự vượt qua được những “Nhạn Môn quan” trong tâm tưởng?

Kinh Thánh chép rằng thời xa xưa, con cháu của Noah kiêu ngạo muốn lên đến cả trời nên mới xây tháp Babel tại bình nguyên Shinar ở Babylonia ( Holy Bible, Genesis 11:1-9). Đức Chúa Trời thấy vậy bèn khiến cho họ nói đủ thứ tiếng để họ không còn hiểu lẫn nhau, và công trình đành bỏ dở. Từ đó, con người phải chia xa nhau để sống rải rác khắp nơi trên thế giới.

Nếu quả vậy, thì có lẽ dân tộc cũng hình thành từ đó, và sự xung đột dân tộc cũng bắt đầu từ đó cho mãi đến ngày nay. Đó phải chăng cũng là sự trừng phạt của Thượng Đế cho sự kiêu ngạo ngu xuẩn của con người?



http://image2.sina.com.cn/ent/d/2003-12-26/U111P28T3D263563F326DT20031226140545.jpg

Hansy
06-03-2013, 09:19 AM
KẾT THÚC PHẦN MỘT
TẢN MẠN CHUYỆN VÕ LÂM
Huỳnh Ngọc Chiến




http://www.thedailygreen.com/media/cm/thedailygreen/images/summer-wine-lg.jpg


LAI RAI CHÉN RƯỢU GIANG HỒ

Núi hùng vĩ điệp trùng, cao phong tiếu bích vươn đến trời xanh, nhưng núi đẹp là nhờ mây. Sông mênh mông bát ngát, uốn khúc lượn lờ hay cuồng nộ thét gầm, nhưng sông linh là nhờ có giao long, thủy quái. Rừng bạt ngàn huyền bí nhưng rừng thâm u quyến rũ là nhờ có dị sĩ cao nhân. Khách hảo hán giang hồ phiêu bồng lang bạt mang bản chất hào sảng khoáng đạt một phần là nhờ rượu.

Nền văn hoá phương Đông không có một vị tửu thần như thần Dionysos trong thần thoại Hi Lạp, nhưng có lẽ chỉ ở phương Đông mới có một tửu đồ cuồng sĩ đời Tây Tấn tên là Lưu Linh ngông đến mức làm bài thơ Tửu đức tụng ca ngợi cái Đức của rượu, được lưu truyền ở đời, gây ảnh hưởng nhất định.

Theo Tấn thư thì Lưu Linh, tự Bá Luân, quá ham mê uống rượu. Một hôm, vợ đập vỡ vò rượu, khóc bảo : "Ông uống rượu quá nhiều, đó không phải là cái đạo nhiếp sinh, phải bỏ bớt đi". Lưu Linh nói "Ta không thể tự cấm được, phải cầu quỉ thần lên để khấn nguyện, vậy phải đủ rượu thịt để làm lễ chứ!" Vợ nghe lời làm theo. Lưu Linh bèn quỳ xuống khấn rằng: “Thiên sinh Lưu Linh, Dĩ tửu vi danh, Nhất ẩm nhất hộc, Ngũ đẩu giải tinh, Phu nhơn chi ngôn,Thận bất khả thính?”

Văn học Trung quốc qua bao thời đại không thiếu thơ văn ca ngợi rượu. Thậm chí rất nhiều. Thông thường người ta chia ra làm ba cách uống rượu: tục tửu, thường tửu và tiên tửu. Tục tửu là uống đến chỗ phóng đãng bừa bãi, không làm chủ được mình. Thường tửu là uống xong cho sảng khoái, uống chỉ vì thích uống mà thôi. Tiên tửu là uống rượu như một thứ trợ hứng để bàn về thi ca, nghệ thuật nhằm di dưỡng tinh thần. Đến Kim Dung thì chén rượu lại được điểm xuyết thêm một phần ý vị nữa : đó là chén rượu lãng mạn hào hùng giữa chốn giang hồ. Đối với cuộc sống rong ruỗi phiêu bạt của khách võ lâm, có thể trong buổi tiễn đưa hoặc buổi trùng lai thiếu tiếng đàn tiếng hát, nhưng chắc chắn trong nỗi buồn li biệt hay trong niềm vui hội ngộ đó luôn luôn có rượu. Chung quanh chén rượu và ngay trong chén rượu có biết bao nhiêu tâm sự của muôn vạn mãnh đời.

Khắp võ lâm, từ trà đình tửu quán cho đến chốn núi thẳm rừng sâu, hễ nơi đâu có mặt hảo hán giang hồ là y như nơi đó có rượu. Một điều đáng ghi nhận là trong tác phẩm Kim Dung, hầu như những nhân vật nào đam mê rượu cũng đều có tâm hồn hào sảng, phóng khoáng. Đó là một Tiêu Phong kiêu dũng, một Hồng Thất Công cương trực, một Lệnh Hồ Xung khoáng đạt, một Đan Thanh hào phóng ...

Bang chủ Hồng Thất Công do tính ham rượu và nhậu nhẹt nên bị Hoàng Dung dùng mẹo lừa để ông phải truyền tuyệt kĩ "Hàng long thập bát chưởng" cho Quách Tĩnh. Đoàn Dự khi lang bạt giang hồ tìm Vương Ngọc Yến, thấy Tiêu Phong ngồi uống rượu trên Tùng hạc lâu mà sinh cảm mến, cùng nhau uống rượu rồi kết làm huynh đệ. Đó là cách uống rượu hào sảng của khách anh hùng. Đoàn Dự dùng Thiếu trạch kiếm để tiết hết rượu ra khỏi người theo đầu ngón tay út mới có thể đối ẩm với "đại tửu... lâm cao thủ" là Tiêu Phong. Đó là cách uống rượu đầy tiểu xảo mà Đoàn Dự vô tình phát hiện. Và chỉ trong tác phẩm Kim Dung mới có được "pha" uống rượu thú vị thế kia.

Nếu chén rượu đầy mưu trí của Lệnh Hồ Xung trên Trích Tiên tửu lâu khi lừa Điền Bá Quang để cứu Nghi Lâm làm người đọc vừa buồn cười vừa thán phục thì chén rượu thương đau của gã trên đỉnh Hoa Sơn lạnh buốt lại đắm chìm trong nỗi nhớ thương cô tiểu sư muội Nhạc Linh San, làm cho người đọc ngậm ngùi. Một tên dâm tặc vô hạnh như Điền Bá Quang lại biết lẻn vào hầm rượu của Trích Tiên tửu lâu đập vỡ hết gần hai trăm vò rượu quí hiếm trên thế gian, chỉ giữ lại hai vò để mang lên đỉnh Hoa Sơn cùng đối ẩm với Lệnh Hồ Xung, đã làm cho người đọc phát sinh hảo cảm, dù gã đã bị cả hai phe hắc bạch khinh bỉ là hạng "vô ác bất tác đích dâm tặc" (tên dâm tặc không có điều ác nào mà không làm). Thử hỏi trong đời có mấy ai được uống một chén rượu chí tình đáng cảm động thế kia? Một chi tiết nhỏ đó thôi chắc cũng đủ khiến cho tửu đồ khắp thiên hạ cùng nhau nâng chén rượu tha thứ phần nào tội lỗi cho Điền Bá Quang!

Đâu phải chỉ trong tiếng đàn, tiếng tiêu cao nhã mới có thể tạo nên mối đồng cảm tri âm như Khúc Dương trưởng lão và Lưu Chính Phong, mà một chén rượu đục trong chốn giang hồ vẫn đủ sức để tạo nên mối tình tri ngộ giữa một người mang tiếng bại hoại và một môn đồ phe chính giáo. Cái chân tâm trong chỗ giao tình vẫn luôn luôn nằm bên kia âm thanh cũng như luôn luôn nằm đằng sau chén rượu ! Rượu hay âm nhạc lúc đó chỉ là phương tiện để con người tìm gặp nhau ở một điểm nào đó trong chổ ý hợp tâm đầu. Khi Lệnh Hồ Xung tung chén rượu lên trời thành muôn ngàn giọt để cùng chia xẻ với quần hùng hắc đạo trên đỉnh Ngũ Bá cương, Kim Dung đã cực tả tính hào sảng của một gã tửu đồ giữa niềm thống khoái chân tình với hào kiệt giang hồ.


http://ruvina.com.vn/upload/cognac(1).jpg

Hình ảnh kiêu hùng của Hướng Vấn Thiên khi bị trói đôi tay mà vẫn trầm tĩnh ngồi uống rượu trong lương đình giữa vòng vây của hai phe hắc bạch, đã khiến Lệnh Hồ Xung trổi dậy hào khí, liều lĩnh chen vào ngồi đối ẩm để cùng xẻ chia hoạn nạn. Người đọc không ngạc nhiên vì sao sau này, khi Giáo chủ Nhật nguyệt thần giáo Nhậm Ngã Hành thống lĩnh giáo chúng vây Hoa Sơn để tiêu diệt Ngũ nhạc kiếm phái, đẩy Lệnh Hồ Xung vào thế đối địch, thì Hướng Vấn Thiên là người đầu tiên bạo dạn cùng uống với Lệnh Hồ Xung một chén rượu cuối cùng ngay tại đương trường trước khi chuẩn bị cho một trận huyết chiến sắp tới, dù biết rõ Nhậm Ngã Hành đang ngấm ngầm phẫn nộ.
Rồi lần lượt các tay hào kiệt khác trong Nhật nguyệt thần giáo cũng can đảm bước ra cạn chén với Lệnh Hồ Xung dù trong thâm tâm họ cũng hiểu rằng điều đó sẽ gây thịnh nộ cho Giáo chủ và cái giá phải trả đằng sau chén rượu kia có khi là cái chết. Biết bao nhiêu hào khí hùng tâm chứa chan trong một chén rượu nồng! Lệnh Hồ Xung kết giao hào kiệt giang hồ chủ yếu bằng rượu. Gặp bất kì người nào sành rượu và thích uống rượu là giao tình nẩy nở. Đối với Lệnh Hồ Xung dường như không có chính hay tà mà chỉ có rượu ngon hay dỡ và nhất người nâng chén rượu cùng uống có đáng mặt hảo hán để giao kết hay không mà thôi. Lúc đó thì ân oán thị phi đều có thể hoà tan trong chén rượu chân tình.

Nếu chén rượu của Lệnh Hồ Xung đầy tính lãng mạn thì chén rượu của Tiêu Phong lại rất mực hào hùng. Khi uống rượu vào những giây phút quyết định tử sinh thì chén rượu của Lệnh Hồ Xung vẫn mang chất khoái hoạt phiêu bồng còn chén rượu của Tiêu Phong lại tràn đầy hào khí ! Tại Tụ Hiền trang, trước khi cùng quần hùng quyết đấu, Tiêu Phong vẫn cùng họ uống rượu để tuyệt tình. Chén rượu ném đi, giao tình đứt đoạn và cuộc chơi sinh tử bắt đầu. Nhưng đến chén rượu trên chùa Thiếu Lâm mới thật chan chứa hùng tâm. Khi tình cờ bị vây hãm trên đỉnh Thiếu Thất bởi vô số những cao thủ cự phách, Tiêu Phong trong cảnh lâm vào tuyệt địa vẫn hiên ngang uống rượu. Khi đánh lùi một lúc cả ba đại cao thủ Du Thản Chi, Đinh Xuân Thu, Mộ Dung Phục, khiến Tiêu Phong hào khí ngất trời, ông hô vệ sĩ mang mấy túi rượu uống cạn một lúc gần hai mươi cân, rồi ngõ lời cùng Đoàn Dự : "Huynh đệ, ta và người hôm nay đồng sinh tử, thật không uổng phí một phen kết nghĩa, sống cũng tốt mà chết cũng tốt, chúng ta hãy cùng nhau uống một trận cho thật thống khoái ! ". (Huynh đệ, nễ ngã sinh tử vi cộng, bất uổng liễu kết nghĩa nhất trường, tử dã bãi, hoạt dã bãi, đại gia thống thống khoái khoái đích hát tha nhất trường ! ) Hào khí bức người của Tiêu Phong khiến nhà sư Hư Trúc cảm kích quên hết giới luật thanh qui, cùng nhau cạn chén. Cảnh tượng một tay đại hào kiệt là Tiêu Phong cùng anh chàng đồ gàn Đoàn Dự và nhà sư Hư Trúc làm lễ giao bái và uống rượu ngay trong vòng gươm đao trùng điệp để chuẩn bị mở một trường đại sát thật láng lai hào khí của võ lâm, khiến cho người đọc cảm thấy hùng tâm hứng khởi như đọc Sử kí Tư Mã Thiên đến đoạn Thái tử Đan tiễn Kinh Kha qua sông Dịch. Đó không phải là chén rượu liều lĩnh của bọn dũng phu cùng đường, mà là chén rượu của những tay hào tuấn xem cái chết như là "một cõi đi về " khi đã cảm nhận trọn vẹn được tấm chân tình của nghĩa đệ huynh ! Sống ở nhân gian mà có được một người tri kỉ thì có chết đi cũng không đến nỗi uổng phí bình sinh ! Uống rượu hào hùng đến trình hạn ấy mới là chỗ mà thơ Lý Hạ gọi là Chân thị Kinh Kha nhất phiến tâm.


http://images.yume.vn/blog/201108/04/1312424036_633vui_r_432_7901_u.jpg


Nhưng uống rượu như Tiêu Phong hay Lệnh Hồ Xung cũng chỉ là cách uống rượu hào hùng thống khoái của hảo hán giang hồ, mà cách uống rượu của Đan Thanh tiên sinh - đệ tứ trang chủ Cô sơn Mai trang - hay Tổ Thiên Thu mới đúng là hạng tửu đồ thượng thừa sành điệu. Người đọc ắt hẵn phải thâm tạ Kim Dung đã tặng cho đời những trang tuyệt bút về rượu. Uống nào phải dùng chén ấy. Chén ngọc hay chén lưu li làm rượu nổi thêm màu sắc , chén sừng tê làm rượu thêm hương vị . Uống rượu bồ đào phải dùng chén dạ quang, vì khi rót vào chén dạ quang thì rượu bồ đào sẽ có màu đỏ như máu, khiến cho quân sĩ ngoài biên tái uống vào thêm hùng khí chiến đấu . Uống rượu Thiệu hưng trạng nguyên hồng phải dùng chén cổ đời Bắc Tống. Uống rượu Lê Hoa phải dùng chén Phỉ Thúy. Các quán rượu tại Hàng Châu thường treo cờ xanh trước tiệm rượu để ánh sáng chiếu màu xanh vào chén rượu Lê hoa như màu phỉ thuý v.v... Thử hỏi mấy ai đọc Đường thi mà có thể cảm nhận ra chỗ tận diệu trong lời thơ thế kia, nếu như không có những "nhà tửu học" như Tổ Thiên Thu ? Tổ Thiên Thu phân tích về rượu làm ta nhớ lại lão ăn mày trong Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân bình phẩm về trà. Họ đều là những nghệ sĩ tài hoa trong làng trà làng rượu. Với Đan Thanh và Tổ Thiên Thu thì uống rượu đã trở thành một loại nghệ thuật. Uống rượu đến mức đó là gần như nâng rượu lên thành Tửu đạo. Đáng tiếc thay, ở phương Đông, cái tạm gọi là Tửu đạo đó lại không được lịch sử phát triển thành một trào lưu như Trà đạo. Có lẽ vì nó giống như con dao hai lưỡi. Kẻ non nớt dùng nó ắt sẽ bị đứt tay. Tiên tửu chưa chắc đã thấy đâu mà tục tửu có thể đã ngập tràn trong thiên hạ!

Chén rượu ngày nay đã mang quá nhiều tục sắc. Tửu vị cho dẫu đã được nâng lên thêm mấy bậc nhưng tửu đạo lại bị hạ xuống thấp mấy tầng ! Giá như Tổ Thiên Thu và Đan Thanh sống lại ắt hẵn sẽ mời tất cả các tửu đồ trong thiên hạ đời nay tụ tập lại để giảng cho nghe về tửu đạo và cùng nhau lai rai một chén rượu giang hồ!



http://www.ndcsa.com/newsmedia/avatar/achau_tieuphong.jpg



KẾT THÚC PHẦN MỘT
TẢN MẠN CHUYỆN VÕ LÂM
Huỳnh Ngọc Chiến

Hansy
06-03-2013, 09:29 AM
http://sachkhaitam.com/files/product/879/4d79da2d-a9d1-4d36-a71d-6978ef8bd5b4.jpg

Hansy
06-03-2013, 09:29 AM
http://gioithieusach.jcapt.com/img1/store/27_LiLuanPheBinh/VuDucSaoBien.jpg





PHẦN II

***


KIM DUNG
GIỮA ĐỜI TÔI

***


Tác giả: Vũ Đức Sao Biển





http://sachkhaitam.com/files/product/879/4d79da2d-a9d1-4d36-a71d-6978ef8bd5b4.jpg

Hansy
06-03-2013, 09:33 AM
KIM DUNG
GIỮA ĐỜI TÔI

***

Vũ Đức Sao Biển


http://phapluattp.vcmedia.vn/Images/Uploaded/Share/2010/03/17/KimDung.jpg


***

PHẦN 1



1. Khái quát phong cách xây dựng nhân vật
2. Võ công
3. Rượu
4. Âm nhạc
5. Hoa
6. Y học
7. Tình yêu
8. Tình dục
9. Chất hài
10. Ghen



http://sachkhaitam.com/files/product/879/4d79da2d-a9d1-4d36-a71d-6978ef8bd5b4.jpg

Hansy
06-03-2013, 09:35 AM
.



VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

1.
KHÁI QUÁT
XÂY DỰNG NHÂN VẬT

Trong những năm trước 1975 tại miền Nam người đọc xem Kim Dung tiên sinh, tiểu thuyết gia Hongkong, là một nhà văn lớn. Những tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp của ông, được đăng báo dưới dạng feuilleton hoặc in thành sách, đã hấp dẫn hàng triệu người đọc Việt Nam. Văn của ông đã được truyển trạch để đưa vào giáo trình văn cấp trung học và đại học tại Đài Loan, Hongkong và Hoa Lục. Và ngay trong lòng nước Mỹ, người Hoa đã lập ra “Kim Dung học hội”, chuyên nghiên cứu, giới thiệu và dịch những tác phẩm của ông ra tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha....Điều mà người ta dễ nhận ra nhất là bút lực của Kim Dung rất hùng hậu. Mỗi tác phẩm là một bộ (thường trên 10 quyển, trung bình khỏang 500, 600 trang một quyển). Chúng tôi chỉ xin giới thiệu đầu tiên một khía cạnh trong kỹ thuật tiểu thuyết của ông: phong cách xây dựng nhân vật.

Trước năm 1975, sách Kim Dung được in gồm:
1. Thư kiếm ân cừu lục
2. Bích huyết kiếm
3. Xạ điêu anh hùng truyện
4. Thần điêu hiệp lữ
5. Tuyết Sơn phi hồ
6. Phi hồ ngoại truyện (Lãnh nguyệt bảo đao)
7. Ỷ thiên Đồ long ký
8. Liên thành quyết (Tố tâm kiếm)
9. Thiên Long bát bộ (Lục mạch thần kiếm truyện)
10. Hiệp khách hành
11. Tiếu ngạo giang hồ
12. Lộc Đỉnh ký

Một điều cần lưu ý là nếu chúng ta phân biệt rõ 4 khái niệm: Truyện (tiểu thuyết hoàn toàn hư cấu), Ký (tác phẩm văn xuôi viết về người thật, việc thật) và Lục (cuốn sách) thì Kim Dung sử dụng 3 khái niệm đó với một ý nghĩa duy nhất để chỉ các bộ tiều thuyết võ hiệp của ông.
Khuynh hướng của Kim Dung là thường đặt những cuốn tiểu thuyết của mình vào những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Trung Quốc. Bộ Thiên Long bát bộ được đặt và khung cảnh lịch sử triều Tống (1127-1279) với sự tương tranh, tương giao của 6 thế lực phong kiến: Tống, Đại Lý, Khiết Đan (Liêu), Tây Hạ, Thổ Phồn và Yên (Tiên Ti, đã suy tàn). Bộ Lộc Đỉnh ký được đặt vào khung cảnh lịch sử triều Khang Hy (1662-1722) nhà Thanh, khi mà các thế lực chống Thanh như Đường Vương, Quế Vương, Lỗ Vương và Thiên Địa hội hoạt động mạnh... Chính vì thế, trong tiều thuyết của ông, có những nhân vật lịch sử như Triệu Hú (Tống Triết Tông), Gia Luật Hồng Cơ (hoàng đế Đại Liêu), Đoàn Chính Minh (hoàng đế Đại Lý), Khang Hy (hoàng đế Thanh), Trần Vĩnh Hoa (Trần Cận Nam, tổng đường chủ Thiên Địa hội)... Bên cạnh đó là nhưng nhân vật thuần túy hư cấu, thường là nhân vật chính của tiều thuyết... Trong Thiên Long bát bộ, đó là Kiều Phong, Đoàn Dự, Hư Trúc, Du Thản Chi, Đinh Xuân Thu...Trong Lộc Đỉnh ký, đó là Vi Tiểu Bảo. Những nhân vật tiểu thuyết của ông kết hợp với nhân vật lịch sử tạo thành một phong cách tiều thuyết hư hư, thực thực. Phong cách này khá đậm nét khi ông xây dựng cặp nhân vật Khang Hy-Vi Tiểu Bảo trong Lộc Đỉnh ký. Từ 1 thằng bé lưu manh trong động điếm Lệ Xuân viện thành Dương Châu, Vi Tiểu Bảo đã bị hoàn cảnh đẩy đưa lên Bắc Kinh giả làm thái giám rồi thân cận với vua Khang Hy, gia nhập Thiên Địa hội làm một thứ gián điệp hai mang, trờ thành công tước triều Thanh, nhận nhiệm vụ ký hoà ước lịch sử Hắc Long giang 1684 với Phí Diêu Đa La (Féodore) của Nga Ta Lư! Tác giả có ghi chú rõ về chuyện hư cấu của mình nhưng điều ấy vẫn không làm giảm đi sự thú vị trong lòng người đọc.

Một cách khái quát, nhân vật trong tiểu thuyết Kim Dung thường được chi làm 2 tuyến: chính phái (hay bạch đạo) và tà phái (hay hắc đạo). Tuy nhiên, trong tác phẩm Kim Dung không hề rơi vào chủ nghĩa công thức: những kẻ mà ông xếp vào hàng tà thường là những chính nhân quân tử, những kẻ mà ông giới thiệu như là chính nhân quân tử là là kẻ chẳng ra gì. Bất kỳ người Trung Quốc nào cũng gọi Minh giáo (tức Bái hỏa giáo) từ Ba Tư truyền sang là tà đạo. Trong Ỷ thiên Đồ long ký, Kim Dung đã chứng minh ngược lại: Minh giáo là một chính giáo, nồng nàn tình cảm yêu nước, xả thân để cứu trăm họ ra khỏi ách thống trị của Mông Cổ. Những Trương Vô Kỵ, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Phạm Dao, Hân Thiên Chính... là những con người quang minh lỗi lạc, hành sự trong sáng, sống rất người. Và chính nghĩa thuộc về họ, chứ không phải thuộc về nhân vật Chu Nguyên Chương, vốn đầy thủ đoạn chính trị, đã cướp công Minh giáo để lên ngôi mở ra nhà Minh. Còn có ai đẹp hơn Quân tử kiếm Nhạc Bất Quần, chưởng môn phái Hoa Sơn trong Tiếu ngạo giang hồ? Thế nhưng từ cuốn 9 trở đi, Nhạc Bất Quần dần dần hiện nguyên hình là một kẻ độc ác; dùng con gái làm bậc thang để leo lên, giết cả rể, lừa vợ, giết học trò, quyết chiếm được ngôi MInh chủ Ngũ Nhạc phái, tự thiến để trở thành kẻ lại cái. Nguỵ quân tử vẫn nguy hiểm hơn chân tiểu nhân!

Những nhân vật chính trong tác phẩm của Kim Dung thường là những con người bao dung, đôn hậu, không hủ nho, câu nệ, không làm bộ làm tịch. Đó là Kiều Phong tự tử ngoài Nhạn Môn quan để mưu cầu hòa bình cho trăm họ Tống-Liêu. Đó là tiểu anh hùng Hồ Phỉ (Phi hồ ngoại truyện) tìm ra kẻ thủ giết cha mà vẫn không xuống tay hạ sát. Đó là Quách Tĩnh (Xạ điêu anh hùng truyện) liều chết để giữ thành Tương Dương, là Thạch Phá Thiên chỉ biết sống thuần phác khôn hề hại ai... Họ chính là mẫu “người hùng” lý tưởng theo nhận thức đạo đức Trung Hoa.

Chúng ta không nắm rõ lắm về thân thế Kim Dung. Nhưng truyện của ông thường danh tình cảm cho những con người xuất thân rất tầm thường, những đứa bé mồ côi không cha mẹ hoặc không biết ai là cha mẹ. Lệnh Hồ Xung, Hồ Phỉ, Thạch Phá Thiên, Trương Vô Kỵ, Dương Qua...là những chàng trai, những cậu bé như vậy. Đời đã dạy họ cách sống và vốn sống. Và họ đã thành người, những con người rất trung thực, đạo đức.

Kim Dung đặt tên cho những nhân vật mình rất hay. Có những nhân vật mà cái tên biểu hiện đầy đủ tính cách của mình: Nhậm Ngã Hành (chỉ làm theo ý mình), Nhạc Bất Quần (không chơi với ai) nhưng lại có rất nhiều bạn bè. Thông thường, trước mỗi tên nhân vật, tác giả đặt cho một ngoại hiệu. Điều thú vị là loại nhân vật càng xoàng xĩnh thì ngoại hiệu càng “kêu”: Đoạn ngạc tam quyền, Đoạt mệnh tam quền, Nhất kiếm chấn Thiên Nam...Nhân vật có ngoại hiệu dài nhất là Giang dương đại đạo vạn lý độc hành thái hoa dâm tặc khoái đao Điền Bá Quang (tướng cưới đường sông biển, tên dâm tặc chuyên hãm hiếp phụ nữ, ngàn dặm đi một mình, đánh đao rất nhanh) và Đả biến thiên hạ vô địch thủ kim diện Phật Miêu Nhân Phượng (đánh khắp thiên hạ không ai địch nổi, Phật mặt vàng). Có ngoại hiệu làm cho người đọc nhận lầm là 3 nhân vậtt khác nhau như Côn Lôn tam thánh Hà Túc Đạo (Ỷ thiên Đồ long ký). Thực sự, “tam thánh” là lời người đời xưng tụng Hà Túc Đạo cầm thánh, kỳ thánh, kiếm thánh chứ không phải là “3 ông thánh”. Có những nhân vật thoạt đọc ngoại hiệu cứ tưởng là một người hoá ra 2 như Hoàng Hà Lão Tổ (Lão Đầu Tử và Tổ Thiên Thu sống trên sông Hoàng Hà - Tiếu ngạo giang hồ). Những nhân vật chính, siêu việt thuờng không có ngoại hiệu hoặc ngoại hiệu rất ngắn : Kiều Phong, Hư Trúc, Đoàn Dự, Bắc cái Hồng Thất... Ngay cách đặt tên nhân vật cũng đã nói lên tài năng của Kim Dung. Đây cũng là chỗ giúp người đọc phân biệt truyệt thật của Kim Dung và những nguỵ tác.

Truyện của Kim Dung thường có những nhân vật quái dị, mỗi nhân vật mang một phong cách riêng, không giống ai. Đó là Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh (Tiếu ngạo giang hồ), chưởng môn phái Hành Sơn, vẫn ăn mặc rách rưới, giấu thanh kiếmỏng như lá lúa trong cây đàn; là Đoàn Dự, Du Thản Chi (Thiên Long bát bộ) suốt đời si tình, chạy theo nhan sắc; là Vi Tiểu Bảo (Lộc Đỉnh ký) lưu manh nhưng chẳng bao giờ cần che giấu tính lưu manh... Loại nhân vật này tiều biểu cho quan điểm “hoà nhi bất đồng” (có hòa mình vẫn không giống được) của Nho giáo. Những nhân vật của ông sống với cả tính cách, đặc điểm của mình. Họ có thể sống rất tố, cũng có thể rất xấu những mỗi con người như vậy - dù chỉ xuất hiện trong một đọan ngắn ngủi - vẫn để lại những ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Điều ấy đã bao nhiều nhà văn làm được.

Kim Dung sử dụng phong cách xây dựng nhân vật như một cách đánh lừa độc giả và gây cho độc giả sự thú vị khi được “bị lừa” như vậy. Mở đầu Tiếu ngạo giang hồ là hình ảnh tốt đẹp của Lâm Bình Chi. Sau đó, Lâm Bình Chi bị lâm nạn nhà tan, người chết, phải lưu lạc tha hương. Ai cũng nghĩ Lâm Bình Chi là nhân vật trung tâm, con người chính nân quân tử. Nhưng không! Đọc hết bộ sách chúng ta mới thấy cái rởm đời của Lâm Bình Chi, cái chân thật của Lệnh Hồ Xung. Hạnh phúc thuộc về những con người chân thật. Đọc Hiệp khách hành, ta cứ ngỡ Thạch Phá Thiên là một tên tiểu ma đầu tàn bạo, dâm ác, lừa lọc. Nhưng không, cậu chỉ có một cái tội: giống hệt người anh ruột tàn ác, dâm đãng Thạch Trung Ngọc. Chỉ có đôi mắt trẻ thơ của A Tú mới nhìn ra được chỗ khác biệt tốt đẹp đó, điều mà tất cả mọi người lớn không nhìn ra. Và cuối cùng, Thách Phá Thiên đã tìm ra được pho võ công thượng thặng ẩn trong bài thơ Hiệp khách hành của Thi tiên Lý Bạch, không phải do nghiên cứu được ý nghĩa của bài hành, mà nhờ chỉ nhìn nét viết (vì cậu không biết chữ). Kim Dung muốn chứng mình một điều: cái chân thật, cái dốt nát vẫn thắng được cái cơ tâm, cái hiểu biết rộng rãi nhất. Ai không thú vị với những định đề như vậy?

Sẽ rất thiếu sót nếu như chúng ta bỏ quên những nhân vật nữ trong tác phẩm Kim Dung. Tuy mang danh là truyện võ hiệp nhưhng tác phẩm Kim Dung thực chất là những tiều thuyết về tình yêu đôi lứa. Các nhân vật nữ của ông xuất thân trong xã hội phong kiến nhưng sống và yêu rất lãng mạn - tất nhiên trong sự cho phép của lễ giáo Trung Hoa. Đó là nhưng con người biết yêu say đắm và biết xả thân vì người yêu: Nhậm Doanh Doanh - Lệnh Hồ Xung (Tiếu ngạo giang hồ), Triệu Mẫn – Trương Vô Kỵ (Ỷ thiên Đồ long ký), Viên Tử Y - Hồ Phỉ (Lãnh nguyệt bảo đao), A Tú - Thạch Phá Thiên (Hiệp khách hành), A Châu - Kiều Phong (Thiên Long bát bộ). Tuy nhiên trong mọi tình huống, họ vẫn giữ được tiết sạch giá trong của người phụ nữ phương Đông.

Nói như vậy, không có nghĩa là Kim Dung vẫn giữ nhân vật nữ của mình bo bo trong vòng tư duy cổ điển của lễ giáo Trung Hoa. Không, ông đã tạo ra những tình huống có vấn đề: Kỷ Hiểu Phù đã hứa hôn với Hân Lợi Hanh nhưng lại thất thân với Dương Tiêu, sinh ra đứa con gái và đặt tên là Bất Hối (không hối hận) (Ỷ thiên Đồ long ký). Tiểu Long Nữ là sư phụ, đã bị kẻ khác cưỡng dâm nnhưng vẫn yêu say đắm đồ đệ của mình là Dương Qua (Thiền điêu hiệp lữ). Những nhân vật nữ của ông biết đánh kiếm, đánh chưởng, ám khí, ghen tuông, giận hờn, đau xót vì chia ly. Họ có một vẻ đẹp riêng từ ngoại hình đến tâm hồn, rất lý tưởng, nhưng cũng rất thật.

Cũng có thể nói Kim Dung là nhà văn lớn phương Đông thế kỷ XX. Về mặt trước tác, tác phẩm của ông đồ sộ hơn bất cứ nhà văn nào khác. Bút pháp của ông lôi cuốn, hấp dẫn người đọc một cách lạ lùng. Và hệ thống kiến thức của ông từ y học đấn địa lý, lịch sử, võ thuật, tâm lý, bệnh học, tôn giáo... hoàn chỉnh một cách vô song. Tiếc thay một nhà văn như vậy là chưa có tên trong những nhà văn được nhận giải Nobel văn học. Nhưng dù gì đi nữa, những nhà văn khác cũng đã học tập được từ Kim Dung nhiều kinh nghiệm tiểu thuyết. Ông xứng đáng là nhà văn bậc thầy của những bậc thầy trong thế kỷ chúng ta.

Hansy
06-03-2013, 04:15 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

2.
VÕ CÔNG


C ác nhân vật trong tác phẩm của Kim Dung hợp lại thành một giới - giới võ lâm – và đương nhiên, sinh hoạt của họ là sự thể hiện võ công để giết người, mưu đồ địa vị quyền lực; võ công để cứu người, trừ gian diệt bạo, biểu dương cái lẽ công bằng ở đời. Nói đến những nhân vật của Kim Dung, không thể không nói đến võ công.

Một cách khái quát, Kim Dung đã đặt vào cho những nhân vật của mình những loại hình võ công (hay công phu, kungfu) mà họ cần phải có. Các loại hình võ công bao gồm chưởng pháp (phép đánh bằng tay), quyền pháp (phép đánh bằng nắm tay), chỉ pháp (phép đánh bằng ngón tay), cầm nã thủ pháp (phép đánh bằng câu, bắt, móc, giật) trảo pháp (phép chụp bằng ngón tay), cước pháp (phép đá), bộ pháp (phép di chuyển), khinh công (phép đi nhanh). Nếu các nhân vật của ông chuyên sử dụng vũ khí thì mỗi loại vũ khí được kết hợp với một pháp để hình thành võ công riêng cho họ (đao pháp, thương pháp, kiếm pháp, trượng pháp, côn pháp... Đối với một số nhân vật đặc biệt, Kim Dung đã tạo ra cho họ những thứ võ công đặc biệt: thần công Sư tử hống (tiếng rống của sư tử) của Tạ Tốn (Ỷ thiên Đồ long ký), Hấp tinh đại pháp (phép hút kình lực và công lực kẻ khác làm công lực và kình lực của mình) của Nhậm Ngã Hành (Tiếu ngạo giang hồ), Nhiếp hồn đại pháp (phép thôi miên) của Đinh Xuân Thu (Thiên Long bát bộ)...

Kim Dung tạo ra cho nhân vật của mình những hoàn cảnh, những tình huống để họ thủ đắc võ công. Có những nhân vật không chịu học võ, suốt ngày chỉ lo học sách thành hiền, học kinh Phật như vương tử Đại Lý Đoàn Dự hay như nhà sư trẻ Hư Trúc cùng bị đẩy đưa vào hoàn cảnh phải học võ công để tự cứu mình và cứu người, trở thành bậc thượng thừa. Có kẻ say mê võ công, đi tìm suốt đời mà chẳng thấy. Con đường mà Kim Dung dẫn dắt những nhân vật trung tâm của mình đến với các thứ võ công không khỏi khiến cho người đọc cười thầm.

Nhân vật của Kim Dung thể hiện võ công qua kình lực. Đứng trên quan điểm triết học Trung Hoa, ông chia kình lực ra làm hai loại: dương cương và âm nhu. Dương cương là loại kình lực mãnh liệt, khi xuất chiêu phát ra tiếng động. Âm nhu là kình lực mềm mại, khi xuất chiêu không phát ra tiếng động. Hai loại kình lực đó loại nào cũng có thể giết người, làm tan bia vỡ đá! Ông lấy Nhu chế Cương, lấy Cương chế Nhu. Kẻ thắng cuộc là kẻ có công lực cao hơn. Căn cứ vào võ học Trung Hoa, Kim Dung để cho các nhân vật của mình thi triển võ công theo hai cách: trực tiếp và gián tiếp. trong cách đánh trực tiếp; chưởng, trảo, chỉ, quyền... phải đụng đến người địch thủ. trong cách đánh gián tiếp; chưởng, trảo, chỉ, quyền... không đụng đến người địch thủ, Kim Dung gọi đó là cách không. Cách không điểm huyệt chỉ pháp của Kiều Phong, Lục mạch thần kiếm của Đoàn Dự, Thất thương quyền của Tạ Tốn... đều có cái khả năng cách không này. Đặc biệt Kim Dung có đề cập đến Cách sơn đả ngưu thần công (thần công đánh con trâu cách trái núi). Trong Thiên Long bát bộ, ông đã để cho quốc sư nước Thổ Phồn dùng Tiểu Tu ni chưởng đánh vào đỉnh đồng bên này, đủnh đồng không phát ra tiếng động và vẫn lành lặn nhưng phía bên kia lại lủng. Cách diễn tả như vậy nghe hơi phi khoa học nhưng lại làm thoả mãn trí tưởng tượng vốn phong phú của con người.

Kim Dung đặt tên cho các loại võ công rất độc đáo và riêng trong khía cạnh này, ông cũng đã tự chứng mình được trình độ viết tiểu thuyết của mình. Một là – võ công thường gắn liều với nguồn gốc xuất thân. Thí dụ các nhà sư xuất thân từ phái Thiếu Lâm thì phài biết sử La Hán quyền, Niêm hoa chỉ, Thiếu Lâm trường quyền, Di Đà chưởng, Giáng ma trượng... Ai xuất thân từ đạo gia Võ Đang thì có Thái cực quyền, Võ Đang miên chưởng. Hư Trúc học được võ công của phái Thiên Sơn thì võ công đó được gọi là Thiên Sơn lục dương chưởng, Thiên Sơn lục dương chỉ, Thiên Sơn chiết mai thủ... Hai là – tên của võ công thường gắn liền với những chiêu thức, đòn thế của môn võ công ấy. trong tinh thần này, người đọc tìm thấy Hàng long thập bát chưởng (18 chưởng hạ rồng), Liên hoàn thập tam cước (13 thế đá liền nhau), Độc Cô cửu kiếm (9 thế kiếm của Độc Cô Cầu Bại). Ba là – tên của môn võ công thường gắn liền với sinh hoạt, đặc điểm của động vật. Trong tinh thần này, ta thường gặp trong tác phẩm của Kim Dung những Xà quyền (rắn), Đại Thánh quyền (khỉ), Áp hình công (vịt), Hàm mô công (ếch), Ưng trảo công (chim ưng), Kê trảo công (gà). Ngay cả đến con rồng - một động vật trong linh thoại cổ Trung Hoa – cũng có công phu: Long trảo công. Bốn là – tên của võ công gắn liền với tính chất, hậu quả khi sử dụng võ công đó. Trong tinh thần này, ta thường gặp Tam tiếu tiêu dao tán (thuốc bột làm người ta cười 3 lần trước khi chết), Thất thương quyền (loại quyền pháp muốn luyện được phải bị 7 thứ nội thương trong phủ tạng), Hoá thi phấn (loại thuốc bột làm tan xác chết ra nước)...

Kim Dung có một bề dày kiến thức về y học cổ Trung Hoa. Một cố nhân vật của ông trường vừa giỏi võ công, vừa tinh thâm y thuật, phối hợp y thuật với võ công hoặc để cứu người, hoặc để chế ngự người. Trong Tiếu ngạo giang hồ, ta bắt gặp nhân vật Sát nhân danh y bình Nhứt Chỉ, cứu người chỉ cần một ngón tay và giết người cũng chỉ cần một ngón tay. Trong Ỷ thiên Đồ long ký, ta gặp Điệp cốc y tiên Hồ Thanh Ngưu và sau đó là Trương Vô Kỵ, giỏi về chữa thương, phục hồi kỳ kinh bát mạch. Thuốc độc và phóng độc cũng là một loại võ công. Trong Tiếu ngạo giang hồ, ta gặp Lam Phượng Hoàng, giáo chủ Ngũ độc giáo Vân Nam. Trong Phi hồ ngoại truyện, ta gặp Độc thủ dược vương chuyên đánh thuốc độc.

Cũng theo Kim Dung, âm nhạc cũng là một dạng võ công có thể chế ngự địch thủ. Một số nhân vật của ông như Côn Lôn tam thánh Hà Túc Đạo (Ỷ thiên Đồ long ký), Cầm điên Khang Quảng Lăng (Thiên Long bát bộ), Nhậm Doanh Doanh và Lưu Chính Phong (Tiếu ngạo giang hồ)... đã dùng tiếng đàn, tiếng sáo, hoặc để chữa thương, hoặc để khắc chế địch thủ. Đoạn cảm động nhất là đoạn Doanh Doanh đàn khúc Thanh tâm phổ thiện trú để xoa dịu thần kinh cho Lệnh Hồ Xung khi chàng trai này bị trọng thương.

Viết về võ công nên kiến thức võ học của Kim Dung rất uyên bác. Ông Yên Thị Đồ Cẩu Khách trên tờ Tân Họa báo cho biết rằng Kim Dung thường tham khảo ý kiến của các võ sư về đòn thế, về cách xuất chiêu, nhả kình lực của từng thế võ. Ông dung hợp võ công với y học Trung Hoa, tạo cho người đọc sự thú vị tuyệt vời, điều mà những tác giả truyện võ hiệp khác chưa làm được. Đặc biệt, khi viết về những võ công của các bang hội, giáo phái khác ngoài lãnh thổ Trung Quốc, kiến thức võ học của ông đã được thực hiện rất tinh tường. Đại thi hào Ba Tư Omar Khayan đã ghi nhận võ công Bái hỏa giáo (Minh giáo) Ba Tư được ghi lại trên 8 tấm thẻ Thánh hỏa lệnh và tâm pháp thì được ghi lại trên những tấm da dê. Kim Dung nghiên cứu đoạn kinh mở đầu của Bái hỏa giáo Ba Tư, đã dung hợp ý kiến của Omar Khayan để xây dựng nên những đoạn mô tả về sinh hoạt của Minh giáo Trung Hoa (Ỷ thiên Đồ long ký).

Một điều cần chú ý là Kim Dung không lạm dụng khuynh hướng đa sát trong tiểu thuyết võ hiệp, điều mà ta thường gặp trong các loại phim cao bồi Viễn Tây (Mỹ) và phim chưởng Hongkong cũng như ở một số tiểu thuyết gia khác viết truyện võ hiệp. Trong 12 bộ tiểu thuyết, Kim Dung có mô tả 2 trận đa sát: một là đoạn Kiều Phong bị quần hùng Trung Nguyên vây hãm ở Tụ hiền trang (Thiên Long bát bộ), hai là đoạn phái Tung Sơn bịt mặt giả làm người của Ma giáo vây hãm phái Hằng Sơn ở Long Tuyền (Tiếu ngạo giang hồ). Chữ Nhân của đạo Khổng đã được ông tôn trọng một cách hết sức nghiêm túc đúng như quan niệm của Khổng Tử: “Nhân giả nhân dã” (Đạo nhân là đạo của con người vây). Đọc văn của ông, người ta chỉ thấy cái thiện chế ngự cái ác, cái chính nghĩa thắng cái gian tà và tinh thần nhân đạo được đề cao triệt để. Những nhân vật bình thường nhất cũng biết tha thứ cho kẻ thù, cũng nói được “Oán thù nên giải chứ không nên kết” hoặc “Hồi đầu thị ngạn” (Quay đầu là bờ)... Và họ đã tha thứ cho nhau. Những nhân vật ma đầu, đầy mình tội lỗi như Đinh Xuân Thu, Du Thản Chi, Lâm Bình Chi, Thạch Trung Ngọc,... cuối cùng rồi cũng chỉ bị phế võ công, đưa cho những người nhân hậu quản chế để khỏi đi gieo rắc cái ác. Không có ai bị giết, bị hành hạ, bị trả thù đau đớn.

Tất cả nỗ lực của Kim Dung nhằm mình họa một nguyên tắc lớn: chữ Võ không bằng chữ Hiệp. Các nhân vật chính phái của ông hành hiệp cứu đời, xả thân vì cuộc sống, cứu vớt kẻ trầm luân, đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ hòa bình hạnh phúc cho trăm họ. Họ không mưu cầu lợi danh, địa vị cho riêng mình. Đoạn tiêu biểu nhất cho cái Hiệp trong tác phẩm Kim Dung là đoạn Trương Vô Kỵ, giáo chủ Minh giáo, chỉ huy các lực lượng kháng Nguyên, bị một thuộc tướng của mình là Chu Nguyên Chương đánh thuốc mê và bắt giam. Chu Nguyên Chương có tham vọng lên ngôi thống lãnh. Trương Vô Kỵ có thể giết Chu Nguyên Chương chỉ với một ngón tay, nhưng đã không làm điều đó. Anh đã lặng lẽ bỏ ra đi để được suốt đời ngồi vẽ lông mày cho người yêu là Triệu Minh. Chu Nguyên Chương kháng chiến chống quân Nguyên thành công lên ngôi cửu ngũ, mở ra nhà Minh, truyền được 263 năm (1380-1643).

Cái mà người ta tìm được trong tác phẩm Kim Dung chính là lòng nhân ái. Lòng nhân ái đó đặt trên cơ sở của tư tưởng Khồng giáo, Phật giáo, Đạo giáo phương Đông. Trong khi các nhân vật của ông sử dụng võ công để đánh nhau, họ vẫn tôn trọng lòng nhân ái mà “hạ thủ lưu tình” (xuống tay nhưng vẫn giữ được tình người). Hai kẻ thù đánh nhau, đến khi chia tay vẫn có thể nói được lời từ biệt: “Non xanh trơ đó, nước biếc còn đây, còn ngày gặp gỡ.” Chiêu thức nào có tên gọi độc ác quá, được đổi tên ngay: Thế Lưỡng bại câu thương (đôi bên cùng chết) của phái Võ Đang được đổi tên thành Thiên địa đồng thọ (đất trời cùng tồn tại) và được khuyến khích không đem ra sử dụng. Võ công làm nên tiểu thuyết võ hiệp nhưng không quyết định nội dung tiểu thuyết võ hiệp. Cái quyết định chính là chữ Hiệp, đứng sau chữ Võ.

Hansy
07-03-2013, 03:55 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

3.
RƯỢU


Cũng như nhiều dân tộc khác ở vào vùng khí hậu lạnh, dân tộc Trung Hoa thường thích rượu. Khái niệm rượu đã được người xưa kết hợp với khái niệm lễ, không có rượu không thành lễ nghi (vô tửu bất thành lễ). Rược là thức uống kích thích niềm sảng khoái, được dùng trong y dược Trung Hoa như một chất xúc tác. Thời Tam Hoàng, Ngũ Đế đã có những bài thuốc ngâm rượu, những cách xông hơi rượu ra đời. Trong những tác phẩm võ hiệp tiêu biểu của Kim Dung, rượu luôn luôn có mặt, dàn trải khắp cả câu chuyện.

Chắc hẳn những bạn đọc tác phẩm Kim Dung đều đồng ý rằng đoạn tửu luận của Tổ Thiên Thu trong Tiếu ngạo giang hồ là đoạn gây sảng khoái nhất. Với đoạn văn này, Kim Dung đã nâng nghệ thuật uống rượu lên thành một thứ đạo: tửu đạo - và với cách diễn đạt tài tình, dàn cảnh oái ăm, Kim Dung đã thực sự cuốn hút người đọc. Tổ Thiên thu biết được Lệnh Hồ Xung, người yêu của Thánh cô Nhậm Doanh Doanh, đang bị bệnh mất hết công lực. Anh ta bèn ăn cắp Tục mệnh bát hoàn (8 viên thuốc duy trì mạng sống) của một người bạn thân là Lão Đầu Tử, hòa vào rượu để dẫn dụ cho Lệnh Hồ Xung uống. Nguyên Lão Đầu Tử đã bỏ ra 18 năm để ăn cắp những kỳ trân, dược vật trên thế gian, chế ra 8 hoàn thuốc thuần âm, chữa trị chứng "Tiên thiên bất túc" (một dạng suy dinh dưỡng) cho con gái mình là Tiểu Di. Trong khi đó, bệnh của Lệnh Hồ Xung thuộc trạng thái khí âm hàn. Cho nên, đem thuốc thuần âm cho kẻ dư khí âm hàn uống khác nào sông Trường Giang nước đã đầy, lại được tháo nước hồ Bàn Dương, hồ Động Đình đưa vào cho nước thêm đầy lên, hóa ra càng thêm hại.

Tổ Thiên Thu biết Lệnh Hồ Xung là người khảng khái, không chịu uống thuốc ăn cắp nên y bày đặt ra chuyện tửu luận, kích thích tinh thần Lệnh Hồ Xung. Theo y, bậc danh sĩ phải biết uống từng thứ rượu với từng thứ chung riêng: rượu Bồ đào uống chung Dạ quang; rượu Trúc diệp thanh phải uống chén Dương chi bạch ngọc mà phải Dương chi bạch ngọc đời Bắc Tống; rượu trắng phải uống trong sừng trâu, lấy mùi tanh của sừng chế ngự mùi men nồng của rượu; rượu Bách thảo mỹ tửu được chế với 100 thứ hoa cỏ thơm, phải được uống với chung bằng trúc để thơm hơn...Y nói một hơi 8 thứ rượu và móc trong bọc ra 8 thứ chén, rót rượu vào mời Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung tức khí, nuốt sạch 8 chén rượu; có chén thum thủm mùi cá ươn, có chén cay sè, có chén rào rạt như ngàn dao đâm vào cổ họng...Thiện ý của Tổ Thiên Thu là cứu người, vì hắn dốt nát về y lý hóa ra làm hại người.

Trong Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung xây dựng nhân vật Lệnh Hồ Xung, đại đệ tử phái Hoa Sơn, là một chàng du tử lãng mạn, quý rượu hơn tính mạng mình. Đoạn buồn cười nhất là đoạn Lệnh Hồ Xung xin rượu Hầu nhi tửu của lão ăn xin dưới chân thành Hành Dương. Lệnh Hồ Xung chỉ xin uống một tợp và lão cũng chỉ đồng ý cho uống một tợp mà thôi. Nào ngờ, nghe hơi rượu ngon, Lệnh Hồ Xung đã vận hỗn nguyên khí công uống sạch bầu rượu. Lão ăn xin lăn đùng ra khóc vì tiếc bầu rượu. Lệnh Hồ Xung đành phải xin lỗi và mời lão vào tửu lâu, đãi lão một chầu tuý luý càn khôn.

Trong khi uống rượu, các nhân vật của Kim Dung thường thể hiện phẩm cách người đối ẩm với mình. Đoạn uống rượu đẹp nhất và khiến cho người đọc kinh ngạc nhất là đọan Điền Bá Quang mời rượu Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung bị sư phụ phạt giam trên đỉnh Ngọc Nữ Phong để ăn năn, sám hối. Biết bạn rất nhớ rượu, Điền Bá Quang đã vượt 5000 dặm về tới kinh đô Lạc Dương, vào trong Tuý tiên lâu, hoàng cung của vua Tống, ăn cắp 2 hũ Thiệu Hưng nữ nhi hồng. Thấy trong hầm rượu của hoàng cung còn đến mấy ngàn hũ Thiệu Hưng, Điền Bá Quang phóng cước đá bể tất cả để "bọn vua quan không còn được uống thứ rượu quý này nữa", vì trên đời này "chỉ còn Điền mỗ với Lệnh Hồ huynh đệ mới xứng đáng được uống nó mà thôi". Tuy nhiên, gánh 2 hũ rượu lên Ngọc Nữ Phong là chuyện dễ, mà được đối ẩm với Lệnh Hồ Xung là chuyện cực kỳ khó vì Điền Bá Quang vốn rất sợ sư phụ của Lệnh Hồ Xung là Nhạc Bất Quần. Hắn bèn nghĩ cách điệu hổ ly sơn làm Nhạc Bất Quần lầm mưu xuống núi đi tìm Điền Bá Quang. Thế là hắn ung dung lên Ngọc Nữ Phong đối ẩm với Lệnh Hồ Xung.

Nhà Nho có câu :"Bậc quân tử lấy văn kết bạn" (quân tử dĩ văn hội hữu). Kim Dung đã mượn chén rượu cho những nhân vật võ lâm của mình giao kết với nhau. Trong tình bạn hay trong tình yêu, chén rượu vẫn làm vai trò của cơ duyên hội ngộ.
Đọc Thiên Long bát bộ, ta thấy cuộc hội ngộ giữa Kiều Phong, bang chúa Cái Bang và Đoàn Dự, vương tử nước Đại Lý, là cuộc hội ngộ trong hương rượu nồng. Thoát ra khỏi cảnh giam cầm ở Thái Hồ, Đoàn Dự tìm đến một quán rượu ngoài thành Vô Tích thì bắt gặp :"Một đại hán mắt sáng như điện, trạc ngoài 30, thân thể cao lớn, mặc áo vải màu tro, phục sức sơ sài, mộc mạc" đang ngồi độc ẩm. Đoàn Dự nhận định :"Đây chắc chắn là hào khách của Yên, Triệu; Giang Nam quyết không thể có nhân vật thế này". Ngoại hình Kiều Phong đã khiến Đoàn Dự kính ngưỡng, bèn mời Kiều Phong uống rượu. Kiều Phong gọi tất cả 30 cân rượu (khoảng 18 lít) và đề nghị Đoàn Dự uống bằng bát lớn. Đoàn Dự nào biết uống rượu? Cho nên uống xong bát đầu tiên, anh đã muốn gục xuống tại chỗ; Kiều Phong chỉ nhìn anh mà tủm tỉm cười. Đến đây thì Kim Dung "cứu" nhân vật của mình. Vốn Đoàn Dự đã học được tuyệt kỹ Lục mạch thần kiếm, quy khí lực vào huyệt Đan điền rồi vận công phóng kiếm khí vô hình ra 6 ngón tay. Từ kiếm khí, Kim Dung cho phép nhân vật của mình phóng ra ...kiếm tửu. Đoàn Dự nạp hết số rượu vừa uống vào huyệt Đại truy, rồi dẫn rượu đi qua các huyệt Thiên tôn, Kiên chân, Tiểu hải, Chi chính, Dưỡng lão, Dương cốc, Hậu thoát và "phóng" rượu ra nơi ngón Thiếu trạch (ngón út). Anh ta cứ gác tay trái lên vách quán rượu, uống bao nhiêu vận nội lựcphóng rượu ra bấy nhiêu khiến Kiều Phong kinh hoàng, tưởng tửu lượng chàng thư sinh cao không kể xiết! Từ cuộc đấu rượu hi hữu đó, họ nhận ra phẩm chất của nhau và kết nghĩa anh em. Cuộc đối ẩm giữa Kiều Phong và Đoàn Dự làm cho người đọc vừa sảng khoái vừa buồn cười.

Rượu nối kết tình bạn và cũng chính rượu tạo ra hào khí. Trong Thiên Long bát bộ, có đoạn nhà sư Hư Trúc, cung chủ cung Linh Thứu, bái kết Kiều Phong làm đại ca trước mặt quần hùng Trung Nguyên khi Kiều Phong đang bị quần hùng vây hãm. Từ nước Khất Đan, Kiều Phong dẫn 18 tên lính trung thành gọi là Yên Vân thập bát kỵ, mang theo 36 da dê đựng rượu quay về chùa Thiếu Lâm, tỉnh Hồ Nam. Nơi đây, anh bị quần hùng vây hãm. Trong cảnh nguy nan, bỗng dưng Đoàn Dự xuất hiện. Hai anh em đang bưng rượu lên uống thì một nhà sư xấu xí trong đội ngũ chùa Thiếu Lâm chạy ra: "Đại ca với tam đệ uống rượu sao không gọi ta ?". Nhà sư đó là Hư Trúc. Hư Trúc đã kết nghĩa với Đoàn Dự nhưng chưa được bái kiến Kiều Phong. Mặc dù quy luật giới tửu (cấm rượu) của chùa Thiếu Lâm rất khắt khe nhưng khi đã thấy đại ca và tam đệ uống rượu để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu, Hư Trúc cũng nổi hào khí, muốn uống rượu trước mặt quần hùng để chia sẻ với hai người anh em những hoạn nạn sẽ xảy ra.

Và quả nhiên bầu rượu nghĩa tình đó đã làm nên đại sự. Kiều Phong chế ngự được kẻ đại ác Du Thản Chi, vươn tay xách cổ Cô Tô Mộ Dung Phục như người ta xách một con gà. Đoàn Dự sử dụng 6 thế Lục mạch thần kiếm đánh cho Mộ Dung Phục thất điên bát đảo, làm phơi bày toàn bộ âm mưu đen tối của nhà Mộ Dung. Hư Trúc vận Bắc minh chân khí, biến những giọt rượu của đại ca thành băng làm một thứ Sinh tử phù cấy vào người gã đại ác Đinh Xuân Thu, chế ngự và sanh cầm gã. Bọn Yên Vân thập bát kỵ, mỗi người một túi rượu, phanh cổ áo để lộ ra hình tượng con chó sói được xăm trên ngực của dân tộc Khất Đan, hú lên những tiếng hoang dã và ngửa cổ uống rượu, thể hiện quyết tâm cũng liều chết với chủ tướng Kiều Phong. Chưa có một đoạn nào trong tiểu thuyết cổ kim miêu tả hào khí của con người trước gian nan thử thách hay hơn đoạn của Kim Dung viết về cuộc hội ngộ của 3 anh em Kiều Phong – Hư Trúc – Đoàn Dự dưới chân núi Thiếu Thất.
Nhưng rượu trong tác phẩm võ hiệp của Kim Dung không chỉ uống trong lúc đoàn viên, mà còn được uống trong khi lâm biệt đầy máu và nước mắt. Như trong trận ác đấu của Kiều Phong tại Tụ hiền trang. Từ khi biết mình là người Khất Đan, Kiều Phong chỉ mong tìm về bên kia Nhạn môn quan để suốt đời săn chồn đuổi thỏ, tuyệt không dính dấp đến giới võ lâm Trung Quốc nữa. Nhưng hoàn cảnh đã bó buộc ông phải cứu lấy cô bé A Châu, và ông đã bế nàng tới Tụ hiền trang ra mắt Tiết Mộ Hoa, nhờ viên thần y này giúp đỡ. Hóa ra Kiều Phong đã tự dấn thân vào chốn hung hiểm: quần hùng Trung Nguyên đang họp nhau tại Tụ hiền Trang để bàn kế sách diệt ông, loài Liêu cẩu man rợ! Kiều Phong nhìn những kẻ đang vây hãm mình. Họ là những anh em ruột thịt của ông ngày trước ở Cái Bang, là những bạn bè tốt của ông thuộc các võ phái Trung Quốc, là những người mà ông cha bao giờ có ý niệm thù hằn, căm ghét. Nhưng cục diện ở Tụ hiền trang lúc đó là một mất một còn, là ta sống thì người chết. Kiều Phong đã đề nghị anh em Du Ký, Du Câu - chủ nhân Tụ hiền trang - cho xin mấy vò rượu lớn. Ông rót rượu ra bát lớn, mời anh em Cái bang uống trước để nói lời cuối cùng, dứt tình đoạn nghĩa. Ông uống rượu với bạn bè các môn phái mỗi người một bát. Có kẻ bưng tô rượu dứt tình với Kiều Phong mà nước mắt tuôn rơi. Rồi sau đó, Kiều Phong đại khai sát giới, tìm con đường sống riêng cho mình, chạy về bên kia ải Nhạn môn quan nghìn trùng xa cách.

Có trường hợp uống rượu tưởng như chia biệt lại hóa ra đoàn viên. Đó là trường hợp uống rượu kỳ cục của Cẩu Tạp Chủng (Thạch Phá Thiên), một thiếu niên ngây thơ, trong trắng trước hai ông anh kết nghĩa đầy mưu mô xảo quyệt là Trương Tam và Lý Tứ. Trương Tam, Lý Tứ thật ra chỉ là tên giả mạo; họ chính là hai sứ giả Thưởng Thiện và Phạt Ác của đảo Long Mộc ngoài biển Đông. Trương Tam, Lý Tứ cũng giả vờ kết nghĩa với Thạch Phá Thiên, cũng thề đồng sinh đồng tử, nhưng trong bụng hai lão chỉ muốn chàng thiếu niên này chết đi cho khuất mắt. Trương Tam có bầu rượu dương cương, Lý Tứ có bầu rượu âm nhu, mỗi lão tự uống bầu rượu của mình và lão này rất sợ bầu rượu của lão kia. Kết nghĩa xong, chàng thiếu niên Thạch Phá Thiên đề nghị... uống rượu. Thạch Phá Thiên ngây ngô, xin được uống hai thứ rượu trong dủ hai bầu. Trương Tam, Lý Tứ cả mừng vì đinh ninh thế nào thằng nhỏ này cũng chết tươi vì hai thứ rượu xung đột nhau. Một lần nữa, Kim Dung lại "cứu” nhân vật ngây thơ, trong trắng của mình. Thạch Phá Thiên đã từng ngộ kỳ duyên, con người chàng ta dung hòa được cả hai loại chất độc dương cương và âm nhu. Cho nên uống rượu xong, chẳng những chàng trai trẻ không chết mà công lực còn tăng tiến. Trương Tam, Lý Tứ hối hận và xấu hổ vô cùng. Từ tình bạn giả trá, họ đã đổi ra tình bạn chân thành. Cẩu Tạp Chủng trở thành người em tốt của Thưởng Thiện và Phạt Ác. Đó là chương uống rượu thú vị nhất trong toàn bộ bộ truyện Hiệp khách hành.

Hansy
08-03-2013, 02:34 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

4.
ÂM NHẠC


Kim Dung quan niệm âm nhạc cũng như một thứ võ công, có thể giúp người ta dưỡng thương, chữa bệnh, mê hoặc và khắc chế địch thủ. Trên một đất nước Trung Hoa rộng lớn, đa chủng tộc và sắc tộc, nhiều loại hình âm nhạc đã ra đời và hình thành. Trong những tác phẩm võ hiệp của mình, Kim Dung đã dành cho âm nhạc một vị trí quan trọng. Âm nhạc có ở khắp mọi nơi. Trong tác phẩm võ hiệp của ông, ta bắt gặp "cái vỏ" là sự đấu tranh của võ lâm đầy đau thương, sắt máu nhưng "cái ruột" chính là tâm hồn nghệ sĩ khoáng dật, thanh thoát...

Có những tác phẩm mà âm nhạc như một sợi chỉ xuyên suốt, trở thành cốt lõi, chi phối toàn bộ và tạo nên cái hồn cho tác phẩm. Đó là trường hợp của Tiếu ngạo giang hồ. Tác phẩm này lấy chủ đề từ một bản nhạc cầm tiêu hợp tấu giữa bạch đạo và hắc đạo, giữa chính và tà. Đó là bản nhạc hợp soạn giữa hai người nghệ sĩ, hai nhân vật võ lâm tiêu biểu: Lưu Chính Phong, sư đệ của chưởng môn phái Hành Sơn và Khúc Dương, trưởng lão của Triêu Dương thần giáo. Vốn xưa, họ là hai người đứng ở hai thái cực, hai thế lực đối nghịch với nhau, coi nhau là cừu hận. Nhưng rồi âm nhạc đã nối kết tình bạn của Lưu-Khúc lại và người này nhìn ra bản chất nghệ sĩ tài hoa của người kia. Khúc Tiếu Ngạo giang hồ ra đời như kết quả của hai tâm hồn đồng thanh, đồng điệu và đồng cảm, một khúc nhạc có khả năng hoá giải sự khác biệt giữa hắc và bạch.

Lưu Chính Phong và Khúc Dương, một cầm một tiêu, đã hoà tấu bản này đạt tới đỉnh cao nhất của âm nhạc "khoan hoà trung chính, khi mau sầm sập, khi khoan thai, chỗ trầm lắng, chỗ cao vút", tương thông tâm ý. Lưu Chính Phong ăn mừng thọ 60 tuổi, muốn rửa tay gác kiếm để tìm những tháng ngày ung dung tự tại giữa một đời đấu tranh trá ngụy. Thế nhưng, phái Tung Sơn mà lãnh tụ là Tả Lãnh Thiền đã huy động hết lực lượng của Hoa Sơn, Hằng Sơn, Thái Sơn nhằm ngăn cản hành động của Lưu Chính Phong, vu cáo rằng "Lưu Chính Phong kết bạn tà ma", buộc Lưu Chính Phong phải tìm cách giết Khúc Dương, chặt đứt mối quan hệ với Triêu Dương thần giáo. Không đồng ý với cách sống bán bạn cầu vinh, Lưu Chính Phong đã chịu một thảm kịch đau đớn: nhà tan người chết, bản thân bị trọng thương. Khúc Dương nhanh tay cứu bạn, đưa bạn chạy về dưới núi Hành Sơn. Nơi đây, hai đại cao thủ đã hợp tấu lần sau cùng trước khi qua đời rồi trao bản nhạc cho đệ tử phái Hoa Sơn là Lệnh Hồ Xung.

Phải chăng khát vọng Tiếu Ngạo giang hồ là không bao giờ có thể thực hiện được giữa một cuộc sống đầy đua tranh, thù hận, chia rẽ và bạo lực? Cầm bản đàn của hai bậc tiền bối, Lệnh Hồ Xung phiêu bạt giang hồ, thân danh tàn tạ, bị khinh miệt, bị đánh, bị vũ nhục, bị vu cáo. Người ta cứ đinh ninh rằng đó là một loại bí lục võ công thượng thặng! Lệnh Hồ Xung gặp nàng Doanh Doanh trong ngõ Lục Trúc thành Lạc Dương, ngỏ hết nỗi đau thương của đời mình, trong đó có niềm đau về mối tình đầu tan vỡ. Doanh Doanh đã dạy cho Lệnh Hồ Xung khúc đàn Thanh tâm phổ thiện trú để duy trì mạng sống. Âm nhạc trở thành một liều thuốc chữa bệnh tâm thần, tạo nên sự hưng phấn, đem lại nguồn sống cho Lệnh Hồ Xung.

Đoạn dễ thương nhất của Tiếu ngạo giang hồ là đoạn Doanh Doanh đàn Thanh Tâm Phổ Thiện Trú ru cho Lệnh Hồ Xung ngủ. Cuối cùng, âm nhạc cũng không đủ tác dụng vực dậy một tâm hồn đau thương trong một thể xác đã suy tàn, nàng đành cõng tình lang lên chùa Thiếu Lâm, chịu bị cầm tù để tình lang được chữa trị. Kết thúc Tiếu ngạo giang hồ là một kết thúc thật đẹp. Lệnh Hồ Xung chữa được thương thế, cùng Doanh Doanh hợp tấu bản Tiếu ngạo giang hồ, sống cuộc đời thanh bình, hạnh phúc.

Tiếu ngạo giang hồ đưa ra một luận điểm triết lý sâu sắc: con người sinh ra không thể sống một mình, cũng không thể sống hai mình khi tâm ý chẳng tương thông. Khát vọng của Tiếu ngạo giang hồ chính là tình thương yêu con người đằm thắm. Sự giao hoà âm nhạc tạo nên giao hoà tình yêu và chỉ có tình yêu chân chính mới đạt đến hạnh phúc làm người.

Trong Tiếu ngạo giang hồ, ta bắt gặp một loại hình âm nhạc khác - âm nhạc lang thang của chưởng môn phái Hành Sơn Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh. Với vóc dáng "điêu linh cổ quái", người chưởng môn ấy từ chối quyền lực và danh vọng, mang một cây dao cầm trong có dấu một thanh kiếm mỏng như lá lúa, vui chơi bốn biển năm hồ. Kiếm để trừ diệt kẻ ác, dao cầm để di dưỡng tâm hồn. Mạc Đại tiên sinh chính là hình tượng mà Nam Hoa Kinh của Trang Tử thường mơ ước: "Khi cao lên 9000 dặm, nương mây cỡi gió mà bay". Tiếc thay, ông ta chưa đạt được phong cách thần tiên thoát tục đó bởi cái khúc Tiêu Tương dạ vũ mà tiên sinh thường hay hát là một "bài ca buồn bã có đi mà không có lại". Tiếng hát của tiên sinh là tiếng hát lênh đênh trong ảo ảnh sương khói và suốt đời, tiên sinh chỉ là một nghệ sĩ lang thang. Mạc Đại là nhà du ca lớn nhất trong Tiếu ngạo giang hồ và trong toàn bộ tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, một thứ thần tiên bị đọa phải nhập thể và nhập thế. Nếu Doanh Doanh chơi nhạc thính phòng thì âm nhạc của Mạc Đại là nhạc du ca.

Nhưng Tiếu ngạo giang hồ không phải chỉ có chừng đó dạng âm nhạc. Tiếu ngạo giang hồ còn có khúc "Sơn ca Phúc Kiến" của Lâm Bình Chi mang về núi Hoa Sơn dạy cho Nhạc Linh San hát. "Chị em lên núi hái chè", câu sơn ca đó làm tan hồn nát ruột Lệnh Hồ Xung vì mỗi khi Nhạc Linh San hát lên, anh biết nàng ta đang nghĩ tới Lâm Bình Chi và phụ rẫy mối tình đầu của mình.

Tiếu ngạo giang hồ còn có một bài ca rất buồn cười mà bọn giáo chúng Triêu Dương thần giáo đồng thanh hợp ca để tâng bốc Nhậm Ngã Hành khi lão vừa chiếm lại được ngôi giáo chủ: "Thánh giáo văn thành võ đức, nhân nghĩa anh minh, thiên thu trường trị, nhất thống giang hồ. Bọn thuộc hạ đưa lời cung nghinh thánh giáo chủ thương sinh trạch bị, ơn khắp lê dân..." Nguyên cái loại "âm nhạc" này phát xuất từ thời giáo chủ Đông Phương Bất Bại. Khi Đông Phương Bất Bại trở thành "tất bại", bọn giáo chúng Triêu Dương thần giáo mới dùng nó để ca ngợi Nhậm Ngã Hành. Cả ngàn người cùng há miệng hò ca chấn động cả lỗ tai người nghe! Thứ "âm nhạc" này bị coi là nhạc sến!

Trong bộ Ỷ thiên Đồ long ký, Kim Dung đã để cho âm nhạc xuất hiện trước tiên với nhân vật Côn Lôn tam thánh Hà Túc Đạo. Hà Túc Đạo tuổi ngoài 40, khuôn mặt xương xương, giỏi kiếm, giỏi cờ, giỏi đàn, được xưng tụng là tam thánh, từ Côn Lôn xuống Trung Nguyên.

Ông ta có một khúc đàn tuyệt vời, có thể sai khiến trăm chim tụ họp về nhảy múa, ca hót gọi là Không sơn điểu ngữ. Cô bé Quách Tương, 19 tuổi, đi tìm Dương Qua, đã gặp người trung niên tài hoa Hà Túc Đạo ngoài rừng chùa Thiếu Lâm, được nghe khúc Bách điểu triều phụng và tiếng muôn chim ca hót. Hình ảnh trong sáng, tươi đẹp của cô đã in ngay vào trong tâm hồn chàng nghệ sĩ trung niên.

Hôm sau, khi chiến đấu với ba cao thủ Thiếu Lâm Tây Vực trước sự chứng kiến của Quách Tương, Hà Túc Đạo chỉ dùng đến một tay, tay còn lại vận Cách không chỉ phóng vào cây dao cầm đang để dưới đất, mời Quách Tương nghe bản nhạc mình mới sáng tác tặng cô. Kiếm chưởng thì sát phạt sắt máu, tiếng đàn lại lãng mạn xuân tình, u uất thương nhớ. Cái công phu phân ý của Hà Túc Đạo quả thật hy hữu! Cô bé Quách Tương thơ ngây nghe hết cung đàn, cảm động và đỏ mặt vì biết Hà Túc Đạo đang dùng âm nhạc tỏ tình với mình. Thế nhưng mối tình của Hà Túc Đạo cũng chẳng tới đâu. Hà Túc Đạo đánh thua sư Giác Viễn, hổ thẹn chạy về núi Côn Lôn. Quách Tương yêu Dương Qua mà tìm nhau không gặp, lên núi Nga My đi tu, mở ra phái Nga My. Âm nhạc của Hà Túc Đạo cũng "có đi mà không có lại". Nó trở thành bài biệt ca của tình yêu.

Nhưng âm nhạc hay nhất, đẹp nhất, mang giá trị nhân bản cao nhất vẫn là bài Hoả ca của giáo chúng Minh giáo (tức Bái Hoả giáo), truyền từ Ba Tư (tên cũ: Perse - thời ấy chưa gọi Iran) sang Trung Quốc. Đây là bài ca được hát trên Quang Minh Đỉnh khi quần hùng Trung Quốc bao vây quần hùng Minh giáo, vu cáo họ là tà giáo, có ý muốn đuổi tận diệt. Theo tác giả Kim Dung, bài Hoả ca lấy từ thơ của nhà thơ lớn Ba Tư Omar Khayam, có những câu được dịch thoát ra như thế này:

Đốt tàn thân xác của ta
Ngọn lửa thánh bốc cháy lên đỏ rực
Sống đã chẳng có chi là hạnh phúc
Thì chết đi nào có khổ đau gì.
Vì thiện lương, ta trừ cái ác
Nẻo quang minh cứ vậy mà đi
Hỷ, Lạc, Sầu, Bi xin gởi về cát bụi
Tội nghiệp thay người đời hoạn nạn lắm khi.

Giữa cảnh đang bị cường địch bao vây, giáo chúng Minh giáo vẫn ung dung tự tại hát lên bài Hoả ca dâng lên đức Giáo chủ Minh Tôn Di Lạc, bày tỏ tấm lòng của mình với cuộc đời và thể hiện khí phách hiên ngang trước cái chết. Trương Vô Kỵ đã nghe được bài ca đó và nhận ra rằng Minh giáo là một đạo nhân bản, rằng những lời kết án Minh giáo là bàng môn tả đạo là những lời xuyên tạc, rằng việc chống lại người Minh giáo là hành động phi nhân. Và chàng đã xả thân cứu quần hùng Minh giáo, nguyện hiến tấm thân vì trăm họ để cho giáo chúng Minh giáo được sống. Chàng được Minh giáo Trung Hoa bầu lên làm giáo chủ, huy động các lực lượng Minh giáo chống lại quân Nguyên, giành lại được giang sơn từ giống nòi di tộc.

Chu Nguyên Chương lên ngôi cũng còn biết nhớ nguồn gốc của mình xuất thân từ Minh giáo nên đặt đế hiệu là Minh Thành Tổ. Người Minh giáo mặc áo đạo bào trắng, trước ngực áo có vẽ ngọn lửa đỏ, gặp nhau chào bằng hai bàn tay chắp lại thành hình ngọn lửa. Và thánh ca của họ chính là bài Hoả ca, bài mang một giá trị nhân bản, nhân đạo tuyệt vời.

Trong Thiên Long bát bộ, âm nhạc mới phong phú làm sao. Trước hết, người ta dễ nhận ra bài ca "chiến thắng" ê a của bọn lính Khất Đan sau những cuộc "hành quân" qua thảo nguyên ngoài ải Nhạn Môn Quan. Bọn chúng bắt đàn bà, giết trẻ em, tước đoạt tài vật của những gia đình lương dân Trung Quốc. Ấy thế mà chúng vẫn hát được!

Cũng trong bộ truyện này, người đọc thật sự cảm thấy thú vị với bài ca bợ đít của bọn đệ tử phái Tinh Tú nhằm ca ngợi Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu. Mỗi khi Đinh Xuân Thu xuất hiện hay lâm trận, bọn đệ tử đồng thanh hát:

Tinh Tú lão tiên
Danh lừng Trung thổ
Oai lực vô biên
Đánh đâu thắng đó

Nhân vật Bao Bất Đồng, một thuộc hạ của Cô Tô Mộ Dung Phục đã làm cho phái Tinh Tú mắc lỡm khi cất giọng solo bài này dưới chân núi Thiếu Thất để bọn Tinh Tú “hợp ca” theo:

Tinh Tú lão tiên
Danh lừng Trung thổ
Oai lực vô biên
...Thối hơn rắm chó

Đem “rắm chó” vào trong bài ca để “hướng dẫn” bọn đề đệ Tinh Tú hát theo làm trò cười cho thiên hạ, cách phê phán thói nịnh của Kim Dung vừa bình dân, vừa bác học hết chỗ nói.

Nói đến âm nhạc trong Thiên Long bát bộ, ta không thể quên hai nhân vật quái dị trong nhóm Hàm Cốc bát hữu (tám người bạn ở Hàm Cốc) là Cầm điên Khang Quảng Lăng và Hí mê Lý Quỹ Lỗi. Cầm điên Khang Quảng Lăng đánh địch bằng cây dao cầm. Nghe tiếng đàn của lão, trái tim người ta nhảy loạn lên, đầu óc trở thành u mê, hồ đồ. Tiếng đàn của lão thoạt đông, thoạt tây; khi trên, khi dưới khiến người ta tưởng khinh công của lão xuất thần nhập hoá. Nhạc sĩ Khang Quảng Lăng này rất hồ đồ. Lão tin rằng tiếng đàn của lão có thể làm người chết sống lại: "Vậy mộ của Huyền Khổ đại sư chôn ở đâu ? Dẫn ta đến mau, ta đàn cho đại sư nghe một khúc, không chừng đại sư có thể sống lại (?)". Ngược lại với Khang Quảng Lăng, nhân vật Lý Quý Lỗi là một con hát. Anh ta vừa đánh, vừa hát bội, thậm chí khi bị đánh gãy chân, thay vì rên la, anh ta lại mở miệng hát (!). Hai nhân vật chơi nhạc trong Hàm Cốc bát hữu là hai con người hồn nhiên như trẻ con. Họ xuất hiện rất ngắn nhưng để lại ấn tượng rất sâu trong lòng người đọc.

Trong Thiên Long bát bộ, người ta còn nghe bài ca "Xin cơm" của anh em Cái bang, một bài hát không dùng vào việc xin cơm thông thường mà để kết Đả cẩu trận, khắc chế địch nhân hung hãn.

Khi viết về âm nhạc, kiến thức âm nhạc của Kim Dung tiên sinh cũng rất tinh tường và phong phú. Trong Lộc Đỉnh ký, ông đã trích lại bài ca của danh sĩ Ngô Mai Thôn nói về Trần Viên Viên - một danh kỹ cuối Minh đầu Thanh, người tình của Lý Sấm và Bình Tây Vương Ngô Tam Quế. Trần Viên Viên được mô tả "mặt đẹp như Quan Âm", sống một cuộc đời đau thương chìm nổi đúng như định đề cổ điển của văn học "hồng nhan đa truân". Tất cả những đau thương đó đều được đúc kết thành Viên Viên khúc. Khi đi tu, Viên Viên vẫn hát khúc ca Ngô Mai Thôn viết cho mình với cây dao cầm. Ngô Tam Quế nghe được vài chục câu, Mỹ đao vương Hồ Dật Chi nghe được dăm ba câu. Chỉ có Vi Tiểu Bảo, một kẻ chẳng hiểu âm nhạc là gì, lại có hồng phước nghe được trọn bài. Viên Viên khúc nghe thật buồn bã, đúng là một bài ca mất nước chẳng khác gì Hậu đình hoa của Lý Hậu chủ trong thơ Đỗ Mục:

Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu đình hoa
(Con hát biết đâu hờn vong quốc
Bên sông còn hát Hậu đình hoa)

Lộc Đỉnh ký còn có một loại "âm nhạc" ngộ nghĩnh khác: những bài ca nịnh bợ của bọn Thần Long giáo. Đó là những bài ca mang tính chất tự kỷ ám thị dùng trong lúc đánh nhau, đã được Kim Dung viết với một giọng văn thô thiển, phù hợp với "trình độ" của bọn giáo chúng ngu muội:

Hồng giáo chủ thần thông quảng đại
Giáo chúng ta đánh bại khắp nơi
Địch nhân thấy bóng chạy tơi bời
Cứng rắn cũng tan tành xác pháo
Hồng giáo chủ ra oai sấm sét
Chúng đô nhi sức mạnh phi thường
Ta một người trăm địch khôn đương
Địch hàng vạn trăm quân đủ thắng
Hồng giáo chủ thần kinh như điện
Chiếu nhãn quang ra khắp muôn phương....

Những bài hát như vậy mang tính kinh điển, khẩu hiệu, quê muội, tự nó đã nói lên được kiểu lừa bịp trá ngụy của những tà giáo thứ thiệt. Cái hay của Kim Dung là ông chỉ mô tả sự kiện, tường thuật vấn đề không bình luận. Nhưng thông qua sự kiện, vấn đề, người đọc nhận biết được ý đồ của ông, hiểu được ông muốn nói lên điều gì. Bài ca tập thể lạ lùng của giáo chúng Thần long giáo sau đây khiến người ta nghĩ đến “bài ca” của các tiểu tướng Hồng vệ binh ở Trung Quốc trong thời kỳ Cách mạng văn hóa:

Bảo huấn của giáo chủ
Thời khắc ghi tronglòng
Lập công và thắng địch
Trường thọ với non sông.

Trong truyện võ hiệp của Kim Dung, âm nhạc xuất hiện khắp mọi nơi trên đất nước Trung Hoa rộng lớn. Trong Phi hồ ngoại truyện, ta nghe được tiếng hát vùng Sơn Đông - Triết Giang của tiểu anh hùng Hồ Phỉ. Trong Xạ điêu anh hùng truyện, ta nghe được khúc sáo ma quái, nhiếp hồn của Đông tà Hoàng Dược Sư. Trong Tiếu ngạo giang hồ, ta nghe được tiếng hát của dân tộc Miêu Cương của giáo chủ Ngũ Độc giáo Vân Nam Lam Phượng Hoàng.

Trong Lộc Đỉnh ký, ta nghe được bài ca Trầm Giang hùng tráng trích từ tác phẩm dân ca Đào hoa phiến, ca ngợi cái chết anh hùng của nhà yêu nước Sử Các Bộ, người chịu hy sinh để giành lại đất nước trong bàn tay di tộc. Nhưng không phải ai cũng có thể hát được khúc Trầm Giang. Đi trên sông Liễu Giang giữa đêm mưa gió, cả mấy chục người mà chỉ có Trần Cận Nam - Tổng đường chủ của Thiên Địa hội - và Ngô Lục Kỳ - đường chủ Hồng Thuận đường của Thiên địa hội - mới đủ công lực cất lên tiếng hát át cả tiếng cuồng phong sậu vũ:

Đầy lòng phẫn nộ ngỏ cùng ai
Giọt lệ già nua dạ ái hoài
Trong chốn cô thành mong cứu viện
Tàn quân huyết chiến luống bi ai
Đoái trông cố quốc lòng đau xót
Trùng vây không nỗi vượt ra ngoài
Trường giang một dải ba ngàn dặm
Nỡ để về tay kẻ khác loàị..
Và:
Non nước ngàn thu để tiếng truyền
Đau lòng huyết lệ khắp Tây Xuyên...

Trong Thiên Long bát bộ, ta nghe được tiếng hát bài ca "Hái sen ở Giang Nam" (Giang Nam khả thái liên) hoà với tiếng đàn hồ cầm thánh thót của cô gái đẹp A Bích tại Yến tử ổ, Giang Nam:

Giang Nam khả thái liên
Liên điệp hà điền điền
Ngư hý liên điệp đông
Ngư hý liên điệp tây...
(Giang Nam ta hãy hái sen
Lá sen dày khít mọc chen thành đồng
Cá đùa bên lá sen phía đông
Cá đùa bên lá sen phía tây...)

Nhưng tiếng hát đẹp nhất, mang nặng tính chất triết lý nhất là vẫn là tiếng hát của Tiểu SIêu, cô gái lai người Ba Tư. Tiểu Siêu là cô bé 16 tuổi, được mẹ là Đại Y Ty đưa vào "nằm vùng" trong Minh giáo Trung Quốc, len lỏi lên Quang Minh Đỉnh để tìm cách đánh cắp bộ thần công Đại nã di tâm pháp. Cô trở thành con hầu của giáo chủ Trương Vô Kỵ và thầm yêu trộm nhớ Trương Vô Kỵ. Nhưng cô đã tiên cảm được rằng mối tình đó không đến đâu, số phận của cô không biết sẽ trôi dạt về đâu. Nỗi u oán đó biểu hiện lên trong những khi cô hát cho giáo chủ Minh giáo Trương Vô Kỵ nghe. Lời ca nguyên là 1 trong 101 bài thơ của Nga Mạc (Omar Khayam) - thi hào Ba Tư đã được Quách Mạt Nhược dịch qua tiếng Quan Thoại. Triết lý trong lời ca là cái khát vọng cắt nghĩa cho được những vấn đề gần gũi nhất của con người: cuộc sống, tình yêu và cái chết:

Lai như lưu thủy hề thệ như phong
Bất tri hà xứ lai hề hà sở chung
(Chợt đến như giòng sông nước chảy
Thoắt tan như gió qua mau
Chẳng biết từ đâu mà đến
Cũng chẳng biết về nơi đâu)

Bài ca này là một bài thánh ca của Bái hỏa giáo Ba Tư và tiếng hát cuối cùng là tiếng hát của Hân Ly trong cơn mê sảng trước khi chết trên một hải đảo vùng Đông Bắc Trung Quốc.

Trong lịch sử văn minh Trung Quốc, không có biên giới giữa Thi và Ca. Trường phái thơ Đường đã dung nạp một cách tự nhiên âm nhạc vào thi ca; biến phong cách này trở thành truyền thống:

Sở thanh phong địch ly đình vãn
Quân hướng Tiêu Tương ngã hướng Tần
Hoặc:
Khương địch hà tu oán Dương liễu?
Xuân phong bất độ Ngọc môn quan

Kim Dung đã đưa âm nhạc vào tiểu thuyết đúng như truyền thống của Đường thi nhưng lãnh vực phản ánh của ông rộng hơn và mức độ phản ánh sâu sắc hơn. Âm nhạc đó hoá giải được tính chất đấu tranh gay gắt, phức tạp của bản chất truyện võ hiệp. Nó làm nên cái hồn tính lãng mạn cho tiểu thuyết võ hiệp, đem lại chất hài hước vui nhộn cho tiểu thuyết võ hiệp. Nói là âm nhạc, nhưng nó chính là võ công, là công phu, là y đạo, và đồng thời là phương thức biểu lộ tình yêu. Ngay chính trong cách dung nạp này, Kim Dung đã chứng tỏ được rằng ông là bậc thầy trong kỹ thuật viết tiểu thuyết. Đọc Kim Dung là lắng nghe chất âm nhạc trong tiểu thuyết của Kim Dung, nhờ âm nhạc, người ta thấy được niềm tin, dù trong đau thương hay trong hạnh phúc.

Hansy
09-03-2013, 05:15 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

5.
HOA


Văn chương tiểu thuyết, kể cả văn chương tiểu thuyết võ hiệp, luôn có những đoạn tả cảnh. Cảnh quan thiên nhiên hiện ra trong văn chương đã trở thành một thứ quy luật tất yếu, không thể thiếu được. Vả chăng, người Trung Hoa đã quan niệm “Vạn vật đồng nhất thể” mà con người cũng là một vật trong vạn vật cho nên con người không thể tự tách mình ra khỏi thiên nhiên, ra khỏi cảnh quan và môi trường sống. Văn chương tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung cũng vậy. Con người trong tiểu thuyết của ông luôn luôn gắn liền với thiên nhiên, sống giữa thiên nhiên và hoạt động với thiên nhiên.

Nhưng vượt lên trên tất cả cung cách mô tả thiên nhiên, Kim Dung đã dành cho hoa nhiều cảm tình nhất. Hoa xuất hiện trongg 12 bộ tiểu thuyết võ hiệp của ông như là biểu tượng cho bốn mùa. Hoa tiêu biểu cho chiều sâu trí tuệ và tâm hồn của người trồng hoa và chơi hoa. Hoa là sản phẩm đặc trưng của từng vùng đất mà đất Trung Hoa vô cùng rộng lớn nên hoa cũng cực kỳ phong phú về chủng loại, đặc sắc về ngoại hình. Ở một chừng mực nào đó, ta có thể thấy Kim Dung đã thể hiện kiến thức của một nhà hoa học trong những bộ tiểu thuyết của mình.

Trong Thiên Long bát bộ, theo gót chân lãng du của vương tử Đại Lý Đoàn Dự, tác giả đưa chúng ta đi về vùng Giang Nam nước Tống. Mùa xuân về trên Thái Hồ, Giang Nam, ta bắt gặp hoa sen và hoa hồng lăng khoe sắc thắm, thoang thoảng hường đưa trong gió. Rồi tác giả đưa chúng ta về Mạn Đàn sơn trang của Vương phu nhân, thưởng thức hoa trà. Đoạn lý luận về hoa trà của Đoàn Dự có thể coi là một chương hoa học kỳ thú trong Thiên Long bát bộ.

Hoa trà - tiếng Phạn là Mạn đà la – là một loài hoa nổi tiếng được trồng phổ biến khắp vùng Vân Nam. Lúc bấy giờ, Vân Nam thuộc nước Đại Lý. Hoa trà trở thành quốc hoa của Đại Lý. Vân Nam có khí hậu ấm, mứa nhiều quanh năm, dân dã bình thường cũng biết trồng hoa trà để thưởng ngoạn. Thế nhưng,Vương phu nhân là đem hoa trà từ Vân Nam (Đại Lý) về trồng ở Giang Nam (Tống) mà lại thiếu kinh nghiệm chăm sóc khiến các gọi là Mạn đà sơn trang của phu nhân dưới mắt Đàon Dự chẳng đáng một xu. Vốn ghét tính cách tàn bạo, ngang ngược của Vương phu nhân, Đoàn Dự thẳng thừng phê phán sự dốt nát của bà khi trồng trà: “Tỷ như khóm trà hoa này chắc phu nhân cho là quý lắm? Cái lan can bên cạnh mới thực là đẹp.”. Khen như vậy khác nào khen quyển sách in đẹp mà nội dung rỗng tuếch. Những kiến thức về hoa trà của Đoàn Dự khiến Vương phu nhân vừa kinh hãi, vửa thẹn thùng. Chậu hoa mà phu nhân gọi là “Ngũ sắc trà hoa” (hoa tra năm màu) thì Đoàn Dự gọi là “Lạc đệ tú tài” (tú tài thi hỏng). Đoàn Dự cho biết loại hoa trá quý nhất là “Thập bát học sĩ” (18 vị học sĩ) gồm 18 bông, màu sắc không bông nào giống bông nào (toàn hồng, toàn trắng, toàn tía...không hỗn tạp), cùng nở một lúc và cùng tàn một giờ. Sau “Thập bát học sĩ” là “Bát tiên quá hải” (8 vị tiên qua biển) chỉ có một gốc, nở ra cùng lúc 8 bông với 8 màu khác nhau. Sau “Bát tiên quá hải” là “Thất tiên nữ” (7 tiên nữ) chỉ có một gốc nở ra 7 bông. Sau “Thất tiên nữ” là “Phong trần tam hiệp” (3 hiệp khách phong trần) chỉ có 1 gốc nở ra đúng 3 bông. Rồi “Nhị Kiều” (hai nàng họ Kiều), rồi chia hạng chánh, phó... đủ kiểu chơi.

Vương phu nhân còn khen ngợi loại trà “Mãn nguyệt” (trăng tròn). Đoàn Dự bác ngay vàlý luận đó phải là loại “Ỷ lan Kiều’ (nàng Kiều e thẹn dựa vào lan can). Trồng “Ỷ lan Kiều” phải chọn nơi nửa kín nửa hở để xứng với câu thơ:

E thẹn ôm đàn che nửa mặt
Ai kêu ai gọi cũng làm thinh.

Viết đến đâu, Kim Dung trích dẫn thơ ca đến đó:

Xuân câu thuỷ động trà hoa bạch
Hạ cốc vân sinh lệ tử hồng
(Dòng xuân nước gợn hoa trà trắng
Non hạ mây vương trái vải hồng)
Hoặc:
Thanh quần ngọc diện như tương thức
Cửu nguyệt trà hoa mãn độ khai
(Quần xanh vóc ngọc như từng gặp
Tháng chín, hoa trà rợp lối đi)

Thật sự, Trung Quốc đã từng có tác phẩm Điền trung trà hoa ký nghiên cứu về hoa trà trong đó có đoạn: “Đại Lý trà hoa tối giáp hải nội, chủng loại thất thập nhị, đại ư mẫu đơn. Nhất vọng nhược hỏa tề vân cẩm, thước nhật chưng hà.” (Hoa trà Đại Lý đứng đầu thiên hạ, gồm 72 loại khác nhau, có loại lớn hơn cả hoa mẫu đơn, khiến ta đứng xa vẫn trông đỏ rõ một góc trời như mây gấm hoà vào cho màu trắng ban mai thêm rực rỡ). Thật ít có nhà văn nào đạt được kiến thức hoa học và vận dụng kiến thức ấy - vốn thuộc phạm vi sinh học – vào văn chương một cách nhuần nhuyễn như Kim Dung.

Đúng là Kim Dung đã đưa hoa vào tác phẩm văn chương võ hiệp của mình, dùng hình ảnh tươi đẹp của hoa để chế ngự bớt tính chất căng thẳng và đôi khi tàn nhẫn của thế giới võ hiệp. Hoa là biểu tượng cho một dạng công lực thượng thừa, Kẻ luyện nội công đến mức cao siêu nhất được gọi là “Tam hoa tụ đỉnh”. Hoa được dùng để đặt tên cho các pho võ công: Niêm hoa chường, Niêm hoa chỉ của phái Thiếu Lâm; Thiên Sơn thiết mai thủ của phái Tiêu Dao; Lạc anh chưởng pháp của Đào hoa đảo. Hoa trở thành mệnh lệnh tấn công như khi bang chúng Cái bang hát bài Liên hoa lạc (cánh sen rơi) thì có nghĩa là họ kết Đã cẩu trận để chống lại kẻ địch, bao vây kẻ địch.

Hoa trở thành đòn thức, chiêu thế của người sử dụng võ công, và khi sử dụng, giới võ lâm phải thể hiện cho được yếu tính của đòn thức, chiêu thế mang tên hoa đó. Nhà sư Thổ Phồn Cưu Ma Trí khi đánh chiêu Niêm hoa vi tiếu trong Niêm hoa chỉ vẫn giữ được khuôn mặt tươi cười, tư thế ung dung của khái niệm niêm hoa (cánh hoa chưa nở). Nhà sư Hư Trúc sử dụng Thiên Sơn chiết mai thủ với phong cách nhẹ nhàng, khuôn mặt trầm tĩnh đúng như người đang bẻ cành mai trên núi Thiên Sơn mà kình lực có thể làm tan bia, vỡ đá. Phái Thiếu Lâm có chiêu Hoa khai kiến Phật (Hoa nở thấy Phật) bó buột đệ tử Thiếu Lâm chấp hai tay lên trước ngực, vừa hàm ý chào kính kẻ địch, vừa thể hiện đức từ bi của nhà Phật: đấu tranh là phải đấu chứ không muốn giết hại lẫn nhau. Ta bắt gặp trong tiểu thuyết Kim Dung những tên gọi Lạc hoa lưu thủy (hoa rụng nước trôi), Mãn thiên hoa vũ (mưa hoa đầy trời), Liên hoa phất huyệt thủ (đánh huyệt như phất hoa sen), Hồ điệp xuyên hoa (bướm len giữa khóm hoa), Thiên nữ tán hoa (tiên nữ rắc hoa)...

Hoa muôn đời là biểu tượng của người phụ nữ đẹp, là biểu tượng của cô gái trong trắng thơ ngây. Kinh Thi có câu: “Xước ước như xử nữ” (mềm mại như gái trinh) và từ “xước ước” cũng đồng thời là từ diễn tả dáng thanh lịch của ngàn hoa. Những nhân vật nữ của Kim Dung như Nhậm Doanh Doanh, Nhạc Linh San, Nghi Lâm, Lam Phượng Hoàng (Tiếu ngạo giang hồ), Hoàng Dung, Quách Tương, Tiều Long Nữ (Thần điêu hiệp lữ), Hân Tố Tố, Triệu Minh, Chu Chỉ Nhược, Tiểu Siêu (Ỷ thiên Đồ long ký)... đều có “khuôn mặt đẹp như hoa nở, nụ cười tươi như hoa nở”. Những cô gái trinh bạch, xinh đêp ấy được gọi là Hoàng hoa khuê nữ (cô gái trong phòng khuê dịu dáng như hoa cúc) nhưng lĩnh vực hoạt động của họ không phải là phòng khuê nữa mà là giới giang hồ.

Họ là hào khách võ lâm biết yêu hoa: Vương phu nhân yêu hoa trà, Mộc Uyển Thanh yêu hoa mai côi (hoa hồng) và con người cô cũng toát ra mùi hương tự nhiên của mai côi đến nỗi cô có ngoại hiệu là Hương Dược Xoa (Thiên Long bát bộ), Lăng Sương Hoa, con gái tri phủ Giang Lăng thành Lăng Thoái Tư yêu hoa cúc (Liên thành quyết).

Kẻ nào manh tâm chiếm đoạt trinh tiết người phụ nữ bị Kim Dung gọi là tên Thái hoa dâm tặc (tên dâm tặc chuyên hái hoa). Trong Tiếu ngạo giang hồ, có gã Giang dương đại đạo thái hoa dâm tặc vạn lý độc hành khoái đao Điền Bá Quang. Hắn gớm ghiếc đến nỗi phụ nữ nhà lành cũng bị cha mẹ cấm không được gọi đến tên. Nhà sư Bất Giới đã trừng trị tội dâm dật của hắn bằng cách điểm trọng huyệt, xuyên một cặp tụ tiễn (mũi tên nhỏ) vào bộ phận sinh dục để hắn không thể “hái hoa” được nữa. Ngoại hiệu của nhà sư là Bất Giới (không cấm cản chi hết) nhưng nhà sư buộc Điền Bá Quang phải cạo đầu làm sư, đặt lại ngoại hiệu cho hắn là Bất Khả Bất Giới (không thể không cấm). Cách trừng trị kinh khủng như vậy là nhằm bảo vệ những đời hoa!

Hoa là biểu tượng của tình yêu lứa đôi, và đặc biệt trong võ hiệp tiểu thuyết của Kim Dung, là biểu tượng của tình yêu chung thuỷ. Thời đôi mươi, Vương phu nhân say mê Đoàn Chính Thuần, thất thân với y và sinh ra Vương Ngọc Yến. Đoàn Chính Thuần là hoàng thái đệ của Đoàn Chính Minh, vua Đại Lý; không thể cưới được Vương phu nhân. Tương tư tình lang, Vương phu nhân đem trà Đại Lý về trồng tại Giang Nam, lập nên cái gọi là Mạng đà sơn trang (Thiên Long bát bộ). Còn trong Liên thành quyết, Kim Dung đã thực sự tạo cho hoa cúc một tâm hồn riêng khi ông xây dựng mối tình Đinh Điển – Lăng Sương Hoa.

Đinh Điển luyện thành thần công Thần chiếu kinh, chỉ cần vươn tay ra chộp một cái là kẻ thù phải chết. Anh yêu tiểu thư Lăng Sương Hoa, con gái tri phủ Lăng Thoái Tư thành Giang Lăng, nên ẩn thân vào nhà tù thành Giang Lăng để ngày ngày được ngắm màu hoa cúc vàng trên cửa sổ do chính Lăng Sương Hoa chăm sóc. Lăng Sương Hoa ra sức chăm bón hoa, giữ cho hoa tươi mãi để tạ lòng người yêu. Tình yêu lặng lẽ giữa người tù và cô tiểu thư diễn ra thật nên thơ những cũng rất mạnh mẽ. Tri phủ Lăng Thoái Tư biết được điều đó; lão cố tìm mọi cách để giết Đinh Điển để chiếm đoạt bộ Liên thành quyết - một bí lục mô tả đường đi nước bước của mộ kho báu trị giá liên thành. Lão bức tử con gái, đặt cô vào quan tài rồi tẩm thuốc độc lên vỏ quan tài, chờ Đinh Điển sa bẫy. Quản nhiên một hôm Đinh Điển nhận ra rằng chậu hoa cúc trên cửa sổ của người tình đã héo úa. biết rằng Lăng Sương Hoa đã gặp điều gì đó chẳng lành, Đinh Điển vượt ngụ, thâm nhập vào tư dinh Lăng Thoái Tu. Thấy tấm bài vị đề “Lăng Sương Hoa ái nữ chi linh vị” trên nắp quan tài, anh đau xót ông lấy quan tài khóc rống lên và lập tức bị trúng độc. Đinh Điển chết, dặn dò lại nghĩa đệ là Địch Vân phải hợp táng xương cốt của anh và Lăng Sương Hoa chung một nơi.

Lăng Sương Hoa được chôn trong nghĩa địa phía tây thành Giang Lăng còn Đinh Điển thì chết ở vùng Quan ngoại. Cuối truyện, chàng Địch Vân mang bọc xương cốt của nghĩa huynh Đinh Điển từ ngàn dặm trở lại Giang Lăng, đào mả Lăng Sương Hoa và hợp táng hai người. Anh còn mua hoa cúc, cuốc đất chung quanh mộ rồi trồng cho hai người mấy cụm với ước mong hương hồn họ nhìn thấy bóng hoa và được sống lại với tình yêu cũ. Liên thành quyết có cái buồn và chất thơ lãng mạn xuyên suốt toát ra từ bóng hoa cúc vàng - mối tình của Đinh Điển và Lăng Sương Hoa.

Người yêu hoa thì rất quý hoa, xem hoa như là bạn; còn kẻ ghét hoa thì rất giận hoa, xem hoa là thù địch. Đó là trường hợp của Vi Tiểu bào, một tiểu lưu manh bất học vô thuật, may mắn trở thành quan lớn triều Khang Hy (Lộc Đỉnh ký). Vua Khang Hy ra lệnh cho Vi Tiểu Bảo làm khâm sai đại thần, trở về quê quán thành Dương Châu xây dựng toà Trung liệt từ. Nghe đồn Vi Tiểu Bảo là một thiếu niên, tưởng gã là người có tài văn học, các quan ở Dương Châu bèn mời gã vào uống rượu ngâm thơ trong chùa Thiền Trí. Mùa ấy, hoa thược dược đang nở mà thược dược ở Dương Châu và chùa Thiền Trí là thứ hoa tươi đẹp nhất thiên hạ. Nhìn thấy thược dược tươi hơn hớn, Vi Tiểu Bảo tức muốn sôi gan. Nguyên lai, lúc mới lên chín mười tuổi, gã đã từng cùng bọn tiểu lưu manh thành Dương Châu đột nhập chùa Thiền Trí hái trộm hoa thược dược. Một nhà sư nào đó đã rượt cả bọn chạy, Vi Tiểu bảo nhỏ con, chạy chậm bị nhà sư nắm áo éo lại, tát cho một cái. “Mối thù” ấy âm ỉ mãi trong lòng gã nên khi quay về Dương Châu, thấy lại thược dược đại đóa nở phô hồng khoe tía trong chùa Thiền Trí là gã nổi nóng.

Gã đặt chuyện nói rằng vua Khang Hy đang nuôi bầy ngựa chiến và ra lệnh cho gã chặt hết thược dược trong thiên hạ để làm thức ăn cho ngựa. Nghe câu nói đó, bá quan văn võ Dương Châu và các nhà sư chùa Thiền Trí đều vỡ mật kinh tâm. Mây mắn là viên tuần phủ Dương Châu học rộng biết nhiều. Viên tuần phủ phải nịnh Vi Tiểu Bảo rằng thược duợc là tượng trưng cho người đàn ông thành đạt, công danh hiển hách; rằng Vi Tiểu Bảo về Dương Châu đúng mùa thược dược mãi khai là điều tốt lành, ngày sau ắt thăng quan tiến chức cao sang không biết bao nhiêu mà lường. Cho nên việc chặt hoa thược dược cho ngựa ăn là chuyện rất uổng. Viên tuần phủ còn ngắt một đóa hoa thược dược kình cẩn gài lên mũ của Khâm sai đại thần và chúc phúc. Quả nhiên lời nói khôn khéo đó của viên tuần phủ đã làm nguôi cơn giận của Vi Tiểu Bảo, cứu được ngàn hoa của chùan Thiền Trí và thành Dương Châu.

Kiến thức về hoa của Kim Dung thật phong phú. Loại hoa gì, tính năng ra sao, nở mùa nào, có nhiều ở địa phường nào đều được lý giải một cách cặn kẽ. Mỗi mùa hoa, mang hteo một loại chướng khí. Chướng khí là hậu quả của cây lá rụng xuống ao chằm, rồi bốc lên, tạo thành những dịch bệnh cho con người. Tháng ba âm lịch có Đào hoa chướng, tháng năm chó Lựu hoa chướng, tháng tám có Phù dung chướng. Kim Dung cho biết người Vân Nam vốn yêu hoa trà, coi hoa trà là một loài hoa quý cho nên không lấy tên hoa trà để gọi chướng khí.

Hoa làm đẹp thêm cho tác phẩm võ hiệp của Kim Dung, tạo nên chiều sâu cho tác phẩm. Hoa là nới gửi gắm tâm tình con người. Chất thơ tự có trong hoa biến thành chất thơ cho tác phẩm. Đoc Kim Dung càng nhiều lần, ta càng khám phá ra thêm nhiều vẻ đạp, cáng nhận ra làn u hương thuần nhã của hoa.

Giòng xuân nước gợn hoa trà trắng
Non hạ mây vương trái vải hồng.

Có người nói bóng hoa trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung là hình ảnh của Hạ Mộng, người tình của ông. Hạ Mộng đã xa ông như lạc hoa lưu thủy. Và tiểu thuyết của ông giàu bóng hoa, hương hoa bởi Hạ Mộng vẫn sống trong trái tim ông.

Hansy
10-03-2013, 05:45 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI


6.
Y HỌC



Khát vọng sống lâu, mạnh khỏe không chỉ là khát vọng riêng của người Trung Quốc mà còn là của toàn thể nhân loại. Trung Quốc là đất nước có một nền y học cổ truyền rất thâm hậu và những hoạt động y học cổ truyền của đất nước này đã hình thành khái niệm Đông y. Hơn 1.800 năm trước, danh y Hoa Đà đã có những công trình nghiên cứu y học thời danh, trong đó có nguyên tắc luyện khí công gọi là Ngũ thú khí công (hay Ngũ cầm hí), mô phỏng chiêu thức hoạt động của loài cọp, gấu, nai, khỉ và hạc (Hổ hí, Hùng hí, Lộc hí, Hầu hí, Hạc hí). Quan điểm cơ bản của Hoa Đà có thể tóm tắt là mô phỏng hoạt động của năm động vật trên, hít làm không khí thanh lương vào phổi và nạp xuống Đan điền, vận dụng vào từng bộ phận trên cơ thể, giúp con người khỏe mạnh. Võ học thấy rằng sức mạnh đó có thể dùng để chế ngự được kẻ khác. Có thể nói, truyện võ hiệp Kim Dung cũng tràn đầy kiến thức y học.

Đọc truyện võ hiệp Kim Dung, người ta thường bắt gặp hai khái niệm nội công và ngoại công. Nội công là tiềm lực, sức mạnh bên trong của hào khác giang hồ. Ngoại công là chiêu thức, quyền cước bên ngoài. Kẻ có nội công cao, theo Kim Dung mô tả, là kẻ hái một chiếc lá, bẻ một bông hoa cũng có thể sát thương địch thủ. Kẻ có ngoại công cao thì thái dương huyệt gồ cao, khi vũ lộng tay chân, gân cốt nổi lên, các khớp xương kêu răng rắc. Nội công là cái gốc, ngoại công là cái ngọn. Luôn luôn kẻ có nội công cao là kẻ hơn người.

Trong 12 bộ tiểu thuyết, có trường hợp cá biệt Kim Dung để cho ngoại công thắng nội công. Nhạc bất quần, sư phụ Lệnh Hồ Xung, chưởng môn phái Hoa Sơn theo phe Khí tông (lấy khí làm chủ). Y dạy Lệnh Hồ Xung rằng phải vận khí trước rồi mới phóng chiêu thức ra sau, mỗi chiêu thức đều có thuớc tấc, bộ vị nhất định. Khi Lệnh Hồ Xung tình cờ gặp thái sư thúc tổ Phong Thanh Dương theo phe Kiếm tông (lếy kiếm thức làm chủ), đang ẩn cư trong hang núi Hoa Sơn thì Phong Thanh Dương dạy Lệnh Hồ Xung rằng chỉ cần kiếm chiêu liên miên bất tuyệt, đánh ra theo ý muốn của mình như nước chảy mây trôi là đã khắc chế được địch thủ. Lệnh Hồ Xung đã lĩnh hội được phép sử kiếm ý (ý nghĩ đến đâu, kiếm phóng ra đến đó) chứ không sử kiếm chiêu và gọi đó là biện pháp “liệu địch tiên cơ” (ra tay, chiếm thời cơ trước kẻ địch). Và rõ ràng, phương pháp Kiếm tông đã thắng Khí tông: Lệnh Hồ Xung mất hết công lực vẫn đánh ra một chiêu, đâm mù mắt 15 kẻ địch hùng mạnh (Tiếu ngạo giang hồ).

Các khái niệm nội công, ngoại công, chiêu thức - đầu tiên là khái niệm y học chứ không phải của võ học. Trong mỗi bộ sách của mình, Kim Dung thường xây dựng một hoặc vài ba nhân vật thầy thuốc. Những thầy thuốc này được gọi rất trang trọng: danh y, thần y. Bên cạnh thứ thuốc cứu người, Kim Dung còn xây dựng những nhân vật chuyên đánh thuốc độc, đầu độc kẻ khác. Quan điểm của ông rất mới lạ: thuốc độc cũng là một dạng thuốc cần thiết phải dùng đến. Trong Tiếu ngạo giang hồ, người ta gặp Sát nhân danh y Bình Nhứt Chỉ. Cả ngoại hiệu và tên của người này cũng rất lạ lùng: thầy thuốc nổi tiếng (danh y) nhưng cứu một người thì phải giết một người (sát nhân) và khi cứu người hay giết người, đều chỉ dùng đến một ngón tay (bình nhứt chỉ). Bên cạnh Bình Nhứt Chỉ, Tiếu ngạo giang hồ cũng có một độc vương. Đó là Lam Phượng Hoàng, cô gái người Miêu Cương, giáo chủ Ngũ độc giáo Vân Nam. Tài năng của Bình Nhứt Chỉ hay đến nỗi mới bắt mạch Lệnh Hồ Xung đã biết Lệnh Hồ Xung được uống rượu và truyền máu của bọn Ngũ độc giáo! Trong Thiên Long bát bộ, người ta gặp Thần y Tiết Mộ Hoa. Đối lập với Tiết Mộ Hoa chuyên cứu người là một tay độc vương dễ sợ chuyên đầu độc người. Đó là Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu, giáo chủ Tinh Tú phái. Trong Ỷ thiên Đồ long ký, có hai danh y là Điệp cốc y tiên Hồ Thanh Ngưu và vợ là Vương Nạn Cô. Hai vợ chồng kình chống nhau bằng cách Hồ Thanh Ngưu chữa thương cho thân chủ ban ngày thì ban đêm, Vương Nạn Cô lén đến đầu độc cho thân chủ bệnh trở lại.

Tác phẩm võ hiệp Kim Dung đã đề cập đến những phương pháp y học, biện pháp chữa bệnh lâm sáng mà ngày nay, nhân loại vẫn đang thực hiện. Trong cách truyền máu, Kim Dung đã mô tả phương pháp dùng đỉa hút máu để tiếp máu ấy qua cho người bệnh. Đó là đoạn Lam Phượng Hoàng cùng các nữ đệ tử Ngũ độc giáo tiếp máu cho Lệnh Hồ Xung (Tiếu ngạo giang hồ). Chỉ có một điều đáng tiếc là y lý của Lam Phượng Hoàng còn non nớt nên đã đem máu thuần âm của phái nữ truyền vào cho một nguời bệnh dư khí âm hàn như Lệnh Hồ Xung.

Truyện võ hiệp Kim Dung còn đề cập đến việc dùng thuốc. Thuốc cổ truyền Trung Hoa gồm cao (thuốc dán), đơn (hay thang, thuốc thang), huờn (hay hoàn, thuốc viên), tán (thuốc bột). Những nhân vật của Kim Dung đã dùng thuốc cứu chữa cho bệnh nhân của mình: Trương Vô Kỵ ra toa, cắt thuốc thang cho Thường Ngộ Xuân (Ỷ thiên Đồ long ký); bọn bàng môn tả đạo ăn cắp thuốc cho Lệnh Hồ Xung lại bắt 7 vị thầy thuốc đến coi bệnh cho chàng (Tiếu ngạo giang hồ).
Truyện võ hiệp Kim Dung cũng nói nhiều đến chuyện dùng nội công chữa thương cho những người bị chấn thương vì nội công. Trong trường hợp này, nội công của người thầy thuốc phải cao hơn hoặc tương đương với nội công của người bị thương thì động tác chữa thương mới thực hiện được. Như Trương Vô Kỵ dùng Tiên thiên Cửu dương công chữa trị cho trương Tam Phong, Hân Thiên Chính và bọn quần hào trên Quang Minh Đỉnh; Bình Nhứt Chỉ vỗ Bách hội huệt truyền nội công chữa cho Đào Thực Tiên, Bất Giới hoà thượng trút công lực chữa trị cho Lệnh Hồ Xung.

Triết học Trung Hoa cổ phân biệt rất rõ khái niệm Lưỡng nghi (hai mặt Âm – Dương). Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (Thái dương, Thái âm, Thiếu dương, Thiếu âm), Tứ tượng sinh Bát quái (Càn, Khảm, Chấn, Tốn, Cấn, Ly, Khôn, Đoài). Võ công cũng như y học trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung đều triệt để dựa trên nền tảng triết học ấy. Nội công dương cương và tính năng dương cương hoàn toàn mâu thuẫn với nội công âm nhu và tính năng âm nhu. Cho nên, trong Tiếu ngạo giang hồ, Tổ Thiên Thu ăn cắp Tục mệnh bát hoàn của Lão Đấu Tử dùng cho con gái là Bất Tử, bọn Lam Phượng Hoàng truyền máu của các cô gái Miêu cương để cứu chữa cho Lệnh Hồ Xung là sai nguyên tắc y học (và cả triết học nữa). Chính Bình Nhứt Chỉ khi cầm tay Lệnh Hồ Xung chẩn mạch đã khám phá ra lập tức tình trạng pha trộn âm dương trong con người Lệnh Hồ Xung. Lão lại khám phá ra thêm rằng thân chủ của mình bạc nhược tinh thần, bị tình yêu hành hạ, bị rượu làm cho con người hô héo. Lão chửi toáng lên: “Mẹ cha nó! Thật là nát bét đến năm bảy tầng. Người thật là con người chẳng ra gì”. Nếu Lệnh Hồ Xung không phải là người yêu của Thánh cô Doanh Doanh, nếu không phải đích thân Doanh Doanh mời lão đến chữa thương cho Lệnh Hồ Xung thì lão đã tát cho Lệnh Hồ Xung mấy cái ra trò vì đã uống thuốc tào lao, nhận máu của bọn Lam Phượng Hoàng, mất hết nội công mà còn nát rượu và bạc nhược tinh thần vì gái!

Thế nhưng, thỉnh thoảng âm dương cũng có thể hoà hợp nau trong một con người. Đó là trường hợp của Thạch Phá Thiên (Hiệp khách hành), uống hai thứ rược âm dương của Trương Tam và Lý Tứ. truyện của Kim Dung cũng mô tả tình trạng dùng lý trí chống lại cơn khao khát tình dục. Người Trung Hoa gọi động tính giao giữa nam nữ là âm dương hoà hợp. Chính vì vậy, để phá thanh danh của hoàng gia Đại Lý, Thanh bào khách Đoàn Diên Khánh đã buộc thế tử Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh (nghi là em cùng cha khác mẹ với Đoàn Dự), uống một loại thuốc kích dục cực mạnh là Âm dương hòa hợp tán. Mộc Uyển thanh không đủ công lực, cơn khát khao tình dục nổi lên nhưng Đoàn Dự vốn là người học đạo Nho, vẫn giữ được lý trí sáng suốt, không thể loạn luân với cô em gái.

Tác phẩm võ hiệp của Kim Dung đã đề cập đến các động tác chấn thương chỉnh hình. Dư Đại Nham phái Võ Đang bị Kim Cương chỉ đánh gãy hết các khớp xương phải nằm thoi thóp 20 năm (Ỷ thiên Đồ long ký). Trương Vô Kỵ học được y thuật của Hồ Thanh Ngưu, xin phép Dư Đại Nham gõ vỡ hết các khớp xương để dán thuốc cao chỉnh hình trở lại. Trong truyện này cũng nói đến một ca chấn thương sọ não kỳ lạ. Tống Thanh Thư mưu phản môn phái, bị tứ sư thúc là Dư Liên Châu dùng Thái cực quyền phái Võ Đang đánh vỡ xương sọ. Trương Vô Kỵ nhận chữa bệnh cho bệnh nhân này. Anh diểm huyệt để gây mê, cạo hết tóc, ráp lại xương sọ rồi băng bó. Sau này, Thanh Thư chết vì bị Trương Tam Phong trừng trị nhưng sách võ hịêp vẫn còn để lại một ca chữa chấn thương sọ não khá thú vị.

Thế nhưng, dù y học có tài giỏi đến đâu, y thuật có thâm hậu đến đâu, người ta vẫn đầu hàng những trường hợp bệnh cấp tính, đặc biệt là bệnh vì trúng chất kịch độc. Trong trường hợp đó, Kim Dung sử dụng biện pháp cuối cùng: chặt bỏ. Lộc Đỉnh ký có đoạn thuật chuyện bọn Lạt ma Tang Kết từ Tây Tạng xuống Trrung Quốc, truy đuổi Cửu Nạn sư thái và Vi Tiểu Bảo để lấy cho được bộ Tứ thập nhị chương kinh. Vi Tiểu Bảo chống không lại, đã nghĩ cách đầu độc Tang Kết bằng một chất Kỵch độc trong Hoàng cung Thanh triều mà y vẫn thường mang theo bên người: Hoá thi phấn. Y nhúng nước cho Tứ thập nhị chương kinh ướt đi rồi rắc hóa thi phấn vào đó. Quyển kinh đã bị nhiễm độc: những ngón tay dùng để giở các tờ kinh bị ướt nhanh chóng bị nhiễm độc, cụt đi và chảy thành nước vàng. Tang Kết nhanh trí chặt bỏ cánh tay của mình mới toàn mạng sống. Trong Thiên Long bát bộ có đoạn Thần Nông bang chúa Tư Không Huyền bị rắn độc cắn, phải chặt bỏ cánh tay.

Muốn ngăn nọc độc vào tim phổi
Tráng sĩ già gan chặt cánh tay

Truyện võ hiệp Kim Dung đề cập đến khá nhiều động tác phong tỏa huyệt đạo. Muốn phong tỏa huyệt đạo, người học võ phài hiểu toàn bộ hệ thống huyệt đạo con người, phải nhả vào huyệt đạo bao nhiêu kình lực mới đủ sức phong tỏa. Phong tỏa huyệt đạo nhằm khắc chế một địch thủ, nhằm chữa thương cho một người, giúp người đó tránh được cảm giác đau đớn hoặc giảm cảm giác đau đớ. Phong tỏa huyệt đạo còn nhằm ngăn chặn quá trình nhiễm độc, an tĩnh và trấn định thần kinh. Những nhân vật của Kim Dung đã sử dụng thủ pháp châm cứu để phong tỏa huyệt đạo như vậy. Hồ Thanh Ngưu, Trương Vô Kỵ đã dùng gai, dùng tăm tre thay cho kim sắt, châm cứu cho bệnh bệnh nhân. Từ vị trí các huyệt đạo của y học, Kim Dung đã mô tả những đòn thế đánh vào các huyệt đạo để giải khai tình trạng bị phong tỏa, để gây những chấn thương trầm trọng cho địch thủ. Thí dụ các huyệt Đan điền, Thái Dương, Bách hội là những trọng huyệt. Đánh vào đúng những huyệt này có thể làm đối thủ chết hoặc bị thương nặng.

Tác phẩm kiếm hiệp của Kim Dung cũng đề cập đến động tác đả thông huyệt đạo, giúp người luyện võ thăng tiến công lực, đốt giai đoạn trong quá trình rèn luyện để đạt nhanh tới mức thượng thừa. Ông thường nói đến những nhân vật đã được đả thông hai trọng đểm Sinh Tử huyền quan, hoặc Kỳ kinh bát mạch nhưng trong trường hợp của nhà sư trẻ Hư Trúc được Vô Nhai Tử đả thông kinh mạch và truyền cho nội lực thượng thừa.

Tác phẩm võ hiệp Kim Dung cũng phác thảo những ca phẫu thuật hy hữu. Đào Thực Tiên bị kiếm đâm lòi ruột được Bình Nhứt Chỉ khâu vết thương. trương Vô Kỵ trên Tuyết Sơn mổ vết thương cho con vượn già, tìm được bộ Cửu dương chân kinh. Các nhân vật của Kim Dung thường thông thạo cách băng bó, sát trừng, giữ vệ sinh cho những người bị ngoại thương.

Vượt xa những tác phẩm đương đại, Kim Dung cũng thường hay đề cập đến cách luyện độc và dùng độc bởi vì thuốc độc cũng là thuốc. Có kẻ tự nguyện luyện độc như Hân Lý (Ỷ thiên Đồ long ký) luyện môn Thiên châu tuyệt hộ thủ bằng cách cho loài nhện chúa (châu) cực độc hút máu bàn tay của mình và truyền vào đôi tay mình chất Kỵch độc của loài nhện. Với cách luyện này, nếu thành công, hơi thở của Hân Ly sẽ thơm như mùi hoa lan (?) và khi cô chộp vào địch thủ nào thì dẫu địch thủ ấy có sống được thì cũng không thể sinh con đẻ cái được nữa (tuyệt hộ).

Du Thản Chi (Thiên Long bát bộ) đã bị băng tàm trùng độc do nhà sư Tam Tỉnh mang từ Tây Vực về truyền hết chất âm hàn vào người. May mà hắn không chết vì trước đó hắn đã học... trật bộ Dịch Cân Kinh Thiếu Lâm khiến toàn bộ kinh mạch trong người bị đảo lộn. Với nội công âm hàn, hắn chỉ khẽ vỗ vào địch thủ một chiêu cũng khiến cho địch thủ lên cơn rét và biến thành nước đá (!).

Có luyện độc tất có dùng độc. Một cách dùng độc khá hy hữu nhưng cũng rất mới lạ của cung Linh Thứu là cấy Sinh tử phù vào người đối thủ. Hư trúc, dưới chân núi chùa Thiếu Lâm, đã dùng Bắc minh chân khí hoá những giọt rượu của đệ tử tạt lên không gian thành những miếng băng nhỏ, cấy vào những trọng huyệt của Đinh Xuân Thu, khắc chế lão ma đầu này phải quy thuận. Nói theo y học hiện đại, đó là phương pháp cấy một chất kháng nguyên vào người bệnh nhân và khi kháng nguyên phát tác thì bệnh nhân chỉ còn biết đến năn nỉ thầy thuốc chữa trị. Trong Lộc Đỉnh ký, những nhân vật dùng độc khá nhiều. Hải lão công dùng Hủ cốt tán (thuốc làm nát xương dần dần) bỏ vào trà cho Vi Tiểu Bảo uống. Giáo chủ Thần long giáo Hồng An Thông dùng Độc long dịch cân hoàn cho thuộc hạ uống. Giáo chủ Ma giáo Đông Phương Bất bại (Tiếu ngạo giang hồ) lại cho bọn thuộc ha uống Tam thi não thần đan. Tên thuốc thì rất hay nhưng là thuốc độc, uống vào phải trung thành (hoặc giả bộ trung thành) với người cho uống. Nếu có hành vi chống đối, tất không có thuốc giải, phải chịu nhận cái chết thảm thương.

Kim Dung cũng mô tả những thủ pháp đánh độc dược rất tinh tế, đẵc biệt ở dạng thuốc bột. Thuốc bột được bôi lên quan tài (Liên thành quyết), được phủ trong khăn mặt, được hoà vào rượu, trộn vào thức ăn, được rải bay trong gió.
Côn glực là tiềm lực võ thuật của từng cá nhân, không thể đem cho người khác được. Nhưng tiểu thuyết gia Kim Dung cực kỳ lãng mạn: ông cứ cho các nhân vật của mình đem công lực cho kẻ khác. Chính vì vậy, Nhậm Ngã Hành, giáo chủ Ma giáo, đã hút công lực kẻ khác bằng thủ pháp Hấp tinh đại pháp. Đào cốc lục tiên và Bất Giới hoà thượng đem công lực truyền cho Lệnh Hồ Xung. Đoàn Dự hút công lực của các đệ tử Huỳnh Mi Tăng, biến tất cả thành những người võ công tàn phế.

Cáng lãng mạn hơn nữa, Kim Dung cho phép thủ pháp xoá hẳn công lực của một người khác, tu theo một môn phái khác để truyền công lực mới vào. Đó là Vô Nhai Tử xoá hết công lực Thiếu Lâm của Hư Trúc và truyền công lực của phái Tiêu Dao vào, biến nhà sư trở thành đại biểu của phái Tiêu Dao!
Huyệt đạo trong cơ thể con người thường ở vào những vị trí cố định, ai cũng như ai. nhưng với trí tưởng tượng phong phú của Kim Dung, theo tình huống đưa đẩy câu chuyện, ông đã để cho những nhân vật cá biệt của mình luyện tập sai phương pháp; huyệt đạo không còn ở đúng chỗ cũ nữa. Đó là trường hợp của Du Thản Chi (Thiên Long bát bộ) luyện sai Dịch cân kinh Thiếu Lâm, của Âu Dương Phong (Xạ điêu anh hùng truyện) luyện sai Cửu âm chân kinh đến nỗi xuống đời phải đi bằng tay, chúc đầu xuống đất.

Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung cũng đề cập đến những vị thuốc mà thường là thuốc quý dùng trong y học. Đọc Thiên Long bát bộ, ta thật sự xúc động khi Tiêu Phong đánh quá tay A Tử, hối hận vì hành động thiếu anh hùng của mình, đã bồng cô ra cùng Đông Bắc Trung Quốc kiếm nhân sâm, tay gấu chữa bệnh cho cô. Tác phẩm của ông cũng từng đề cập đến Linh chi thảo (cỏ linh chi) hoặc Thiên niên Tuyết liên tử (hạt sen ngàn năm trên đất tuyết) có giá trị hồi dương. Cũng trong Thiên Long bát bộ, Đoàn Dự nuôt lộn con nhái đỏ Mãng cổ chu cáp mà trở thành người có nội công đệ nhất.

Vị thuốc nằm trong toa thuốc. Tuy nhiên, có những toa thuốc mang ý nghĩa ẩn dụ một cách tuyệt vời mà các thầy lang bình thường chưa chắc khám phá được, Như toa thuốc mà Hồ Thanh Ngưu ra cho Trương Vô Kỵ: Phòng phong, Độc hoạt, Đương quy, Xuyên sơn giáp, uống vào canh ba. Cậu bé Trương Vô Kỵ 15 tuổi đọc toa thuốc này, hoàn toàn hoài nghi về cách ra toa bừa bãi với các vị thuốc phổ thông của Hồ Thanh Ngưu. Nhưng trí thông minh đã giúp cậu hiểu ra nghĩa ẩn dụ nằm trong những vị thuốc bình thường: coi chừng (Phòng phong), đi một mình (độc hoạt), quay về (Đương quy), bằng cách đi ngang qua núi (Xuyên sơn giáp). Hồ Thanh Ngưu đang lúc lâm nguy, muốn cứu Trương Vô Kỵ nên ra toa thuốc bảo chàng trốn đi vào lúc canh ba ra khỏi Hồ điệp cốc ngay!

Tôi xin nhắc sơ lược đến hai chữ “tình yêu” khá lạ lùng của Kiến Ninh công chúa (Lộc Đỉnh ký) và cặp Đông Phương Bất Bại – Dương Liên Đình (Tiếu ngạo giang hồ). Nếu nhìn dưới nhãn quan y học thì các nhân vật vừa nói ít nhiều đã bị chứng bệnh tâm thần và Kim Dung đã mô tả cho chúng ta (chứ không bình luận) về trạng thái bệnh lý của họ. Kiến Ninh công chúa, cô bé mới 14 tuổi, là một nhân vật bị chứng khổ dâm (Masochisme). Chứng khổ dâm được định nghĩa là “trạng thái mà trong đó chủ thể chỉ tìm thấy được khoái lạc tình dục qua sự đau đớn về thân xác” (Perversion dans laquelle le sujet recherche le plaisir sexuel dans la douleur physique – Petit Larousse). Kiến Ninh công chúa chỉ thực sự tìm thấy khoái lạc khi thái giám giả hiệu Vi Tiểu Bảo bóp cổ, đánh đập, lấy dao rạch, lấy dây quất vào người cô trước khi chăn gối. Còn Đông Phương Bất Bại đã tự thiến để luyện QUỳ hoa bảo điển (một tên gọi khác của Tịch tà kiếm phổ) nên thành ái nam ái nữ. Y chỉ tìm thấy được khoái lạc tình dục khi có Dương Liên Đình, một nhân vật tốt tướng đẹp trai, ăn mặc xa hoa như một nhà hao phú. Khi bị bốn cường địch là Nhận Ngã Hành, Hướng Vân Thiên, Doanh Doanh và Lệnh Hồ Xung bao vây, y chỉ cần chống đỡ bằng một cây kim thêu mà đã đâm Ngã Hành mù một mắt. Phải đến lúc Doanh Doanh hành hạ Dường Liên Đình, Đông Phương Bất Bại nhìn thấy và đau đớn, mới chịu thua và chết dưới tay sát thủ của Nhậm Ngã Hành.

Võ học luôn kết hợp chặt chẽ với y học. Môn phái nào trong võ hiệp Kim Dung cũng biết dùng thuốc, chữa thương, nuôi nấng và chăm sóc người bị thương. Tất cả đều dựa trên y thuật cổ truyền của người Trung Hoa và do vậy, những điều mà Kim Dung điễn đạt đều có cơ sở khoa học. Thỉnh thoảng, trong vài bộ tiểu thuyết của ông cũng có những điều phi khoa học hoặc không được khoa học hiện đại kiểm chứng như chuện thay đổi công lực, đả thông hai huyệt Nhâm D(ốc. Người ta có thể hoài nghi các giả thuyết đó. Nhưng ai cấm được sự hư cấu, vốn là tình thần và nguyên tắc của sáng tạo tiểu thuyết? Ai cấm được nhà văn diễn đạt một cách lãng mạn, vượt ra ngoài quy luật thông thường của cuộc sống.

Một điều rõ ràng là Kim Dung chỉ viết tiểu thuyết chứ không hề viết sách nghiên cứu về y học Trung Hoa. Nhưng dù là nhà tiểu thuyết, rõ ràng ông đã nghiên cứu kỹ lĩnh vực y học của dân tộc ông để dung nạp một cách hài hoà với lĩnh vực võ học. tạo ra nhưng kiến thức y học phong phú cho tác phẩm và đem lại hứng thú cho người đọc. Kiến thức y học cũng như võ học ấy được xây dựng trên nền tảng kiến thức triết học Trung Hoa. Tất cả khời đi với âm dương và cùng trở về trong cái lẽ huyền diệu của âm dương.

Hansy
11-03-2013, 07:39 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

7.
TÌNH YÊU

Tuy tên gọi là tiểu thuyết võ hiệp nhưng bản chất những tác phẩm của Kim Dung là tình yêu đôi lứa nồng thắm. Chính tình yêu đã làm nên tính cách nhân bản và khiến cho hàng tỉ người say mê tác phẩm của Kim Dung.

Một cách khái quát, Kim Dung đã xây dựng những cặp nhân vật hoặc những cụm nhân vật rồi tạo điều kiện cho họ gặp gỡ hiểu biết và yêu nhau. Ông đã rất tinh tế để cho các nhân vật chính phái yêu tà phái, bạch đạo yêu hắc đạo để tạo nên những mâu thuẫn chiều dọc xuyên suốt chiều dài của tác phẩm và những mâu thuẫn chiều sâu trong tâm hồn của từng nhân vật. Điều đặc biệt là những nhân vật nữ của ông thường rất đẹp, rất thông minh, xuất thân từ Ma giáo hoặc ít nhất cũng mang “một chút tà khí trong người”. Đó là những cặp và những cụm nhân vật Lệnh Hồ Xung - Nhậm Doanh Doanh (Tiếu ngạo giang hồ), Trương Thuý Sơn – Hân Tố Tố, Trương Vô Kỵ - Triệu Minh – Chu Chỉ Nhược – Hân Ly - Tiểu Siêu (Ỷ thiên Đồ long ký); Kiều Phong – A Châu, Đoàn Dự - Vương Ngọc Yến - Mộc Uyển Thanh – Chung Linh, Du Thản Chi – A Tử, Hư Trúc – Văn Nghi công chúa (Thiên Long bát bộ), Thạch Phá Thiên – A Tú (Hiệp khách hành), Quách Tĩnh – Hoàng Dung – Hoa Tranh công chúa (Xạ điêu anh hùng truyện), Dương Qua - Tiểu Long Nữ (Thần điêu hiệp lữ)...

Những mối tình được được Kim Dung dựng lên là những mối tình thật trong sáng và do vậy, thật đẹp. Tác phẩm Kim Dung lấy bối cảnh lịch sử từ đầu đời Thanh trở về trước (trước thế kỷ XVII), khi mà tư duy phong kiến và nguyên tắc lễ giáo của đạo Nho đang giữ vai trò độc tôn chi phối toàn bộ những sinh hoạt xã hội. Cho nên, những nhân vật của Kim Dung yêu trong sự cho phép của những tư duy và nguyên tắc ấy. Thế nhưng, tính chất lãng mạn - một thuộc tính không thể thiếu trong yêu đương – thì rất phong phú.

Những nhân vật của Kim Dung đã yêu theo phong cách của võ lâm. trước hết, họ đánh nhau, sau đó hiểu nhau rồi mới yêu nhau. Hân Tố Tố, một nữ ma đầu, con gái Bạch mi ưng vương, đã dùng Văn tu châm (kim râu muỗi) không chế Trương Thuý Sơn phái Võ Đang, rồi sau đó mới yêu Trương. Triệu Minh, con gái Như Nam vương triều Nguyên lưa TRương Vô Kỵ lọt xuống hầm sâu rồi sau đó mới yêu Vô Kỵ (Ỷ thiên Đồ long ký). Mộc Uyển Thanh đã đánh cho Đoàn Dự thừa chết thiếu sống, sau đó mới nhận Đoàn Dự làm lang quân (Thiên Long bát bộ). Ở một chừng mực nào đó, các nâhn vật này vượt qua hàng rào của nghi thức phong kiến và ràng buộc giáo điều của lê giáo: họ tự quyết định tình yêu của mình và cảm thấy hạnh phúc khi được lựa chọn như vậy.

Tình yêu được mô tả trong tác phẩm võ hiê5p Kim Dung mang tính phấn đấu rất cao. Các nhân vật vượt lên hoàn cảnh, vượt qua những sự chống đối để bảo vệ tình yêu của mình. Trương Thúy Sơn cưới Hân Tố Tố, Trương Vô Kỵ bỏ hết sự nghiệp đi theo Triệu Minh, Nhậm Doanh Doanh lang thang qua ngàn trùng để bảo vệ Lệnh Hồ Xung, A Châu vượt ngàn dặm ra Nhạn Môn Quan để chờ đợi Kiều Phong... là những chuyện tình đẹp.

Tình yêu được mô tả trong tác phẩm Kim Dung luôn luôn kinh qua một quá trình hy sinh vô tận. Trương Thúy Sơn vì vợ mà tự tử khiến cho Tố Tố cũng tự vẫn để giữ gìn danh tiết, xứng đáng với chồng. Triệu Minh từ bỏ cha và anh ruột để ra đi cùng Trương Vô Kỵ. Tiểu Siêu về Ba Tư, lên ngôi Thánh nữ Minh giáo mà lòng đau như cắt, cảm thấy cuộc đời hoàn toàn vô vị vì cô chỉ muốn suốt đời hầu hạ cho Vô Kỵ thay áo, chảy đầu. Doanh Doanh cõng tình lang Lệnh Hồ Xung lên núi Thiếu Thất, chịu để phái Thiếu Lâm cầm tù mình đổi lấy lời hứa của Phương Chứng đại sư nhận chữa thương cho Lệnh Hồ Xung. Kim Dung đã thực sự biến tác phẩm võ hiệp của mình trở thành những bản tình ca tươi đẹp. Những bản tình ca ấy hoá giải được biên giới của chánh – tà, hắc - bạch, hận – thù. Chúng bành trướng cảm xúc cho người đọc khi đọc tác phẩm.

Kim Dung đã tạo ra được những nhân vật si tình kinh điển, những “giáo chủ” của đạo tình, hoặc là yêu, hoặc là chết. Vương tử Đoàn Dự suốt đời lẽo đẽo đi theo Vương Ngọc Yến chỉ để cho lúc nàng nguy nan là ghé vai cõng nàng chạy trốn. Du Thản Chi chịu bịt chiếc lồng sắt vào đầu, làm một tên Thiết Sửu giúp vui cho A Tử chỉ để được ngắm khuôn mặt thiên kiều bá mị nhưng tràn đầy ác độc của cô. Mỹ đao vương Hồ Dật Chi say mê Trân Viên Viên, hầu thiếp của Bình Tây vương Ngô Tam Quế đến nỗi chịu hóa thân thành một kẻ làm vườn, tưới rau trong mấy chục năm để được lén nhìn Trần. Truyện võ hiệp của Kim Dung đã xây dựng thành công những chàng si tình bậc nhất thiên hạ, xứng đáng đoạt huy chương vàng trong lịch sử tiểu thuyết cổ kim.

Người ta còn tìm thấy trong tác phẩm tiểu thuyết của ông những tình yêu ngang trái, rất người, thoát ra khỏi khuôn mẫu cho phép của lễ giáo phong kiến Trung Quốc. Đó là Tiểu Long Nữ sư phụ, một cô gái trong sáng bị kẻ tà dâm cưỡng bức, yêu say mê đồ đệ Dương Qua. Đó là Kỷ Hiểu Phù, vợ chưa cưới của Hân Lợi hanh phái Võ Đang, đã thất thân và đã yêu một ma đâu của Minh giáo là Dương Tiêu. Sinh ra một đứa con gái, Hiểu Phù đã can đảm đặt tên cho con là Dương Bất Hối (không hôi hận). Đó là Hồng phu nhân, vợ của giáo chủ Thần long giáo và A Kha, một thiếu nữ mất hết trinh tiết, đã trở thành vợ của Vi Tiểu Bảo.

Tiểu Thuyết của Kim Dung cũng đặt ra những trường hợp sa đoạ tình dục hết sức quái dị. Đó là Kiến Ninh công chúa, em gái vua Khang Hy, đã sa ngã với Vi Tiểu Bảo, một gã thái giám giả mạo, từ năm 14 tuổi. Kiến Ninh chỉ muốn được Vi Tiểu Bảo trói cột, đánh đập cho vỡ da toá máu mới được thấy lạc thú của trao thân. Cá biệt, có trường hợp của Đông Phương Bất Bại, giáo chủ Ma giáo, luyện Quỳ hoa bảo điển phải “dẫn đao tự cung”, trở thành kẻ ái nam ái nữ, quan hệ “yêu đương” với gã bộ hạ là Dương Liên Đình. Khi xây dựng những nhân vật, những loại “tình yêu” này, ông đã nghiên cứu rất kỹ những biểu hiện của tính cuồng dâm và đồng tính luyến ái.

Tác phẩm của Kim Dung có những đoạn nói đến tình yêu thật đẹp. Những nhân vật của ông không bao giờ thốt ra miệng chữ yêu nhưng tình yêu của họ nồng nàn trong ánh mắt, trong hành động và trong trái tim. Đó là A Châu trở về Nhạn Môn Quan chờ Kiều Phong để suốt đời “theo đại gia cùng đi săn chồn đuổi thỏ”. Đó là Tiểu Siêu chia tay với Trương Vô Kỵ trên biển “về Ba Tư, đừng nói lên ngôi thánh nữ, dẫu có làm đến nữ hoàng đi nữa mà xa công tử thì cuộc đời cũng rất vô vị”. Đó là Nhậm Doanh Doanh bắn tin cho giới ma đầu trên giang hồ phải giết ngay Lệnh Hồ Xung vì “ta muốn ngươi ở mãi bên ta để ta chở che, bảo vệ”. Đó là Triệu Mẫn với Trương Vô Kỵ: “Lông mày thiếp đã nhạt màu rồi. Công tử kẻ lại giùm cho thiếp đi”. Những lời tỏ tình mang đầy tính ẩn dụ và biểu tượng như thế khiến tác phẩm vừa sâu, vừa không dung tục.

Một điểm khác cũng đáng bàn đến là trong tác phẩm của Kim Dung vẫn có những tình yêu trá nguỵ. Nhạc Linh San bỏ Lệnh Hồ Xung để làm vợ gã ái nam ái nữ Lâm Bình Chi bởi mưu đồ chiếm pho Tịch tà kiếm phổ của Nhạc Bất Quần. Chu Chỉ Nhược đánh lừa hứa hôn với Trương Vô Kỵ để đánh cắp bộ Cửu âm chân kinh theo di huấn của sư phụ là Duyệt Tuyệt sư thái. Nhưng tuổi trẻ của Nhạc Linh San, Chu Chỉ Nhược không nghĩ ra được sự trá nguỵ ấy. Phần trá nguỵ, âm mưu thuộc về sự sắp đặt của những người lớn, người thầy, người cha.

Đọc tác phẩm của Kim Dung, người ta khám phá ra cái đẹp của tình yêu. So với những tác giả cùng thời, tình yêu trong tiều thuyết võ hiệp của ông trong sáng, lành mạnh. Thông qua tình yêu, ông giáo dục cho con người cái mỹ cảm về đạo đức. Nói rằng tác phẩm võ hiệp, thật ra chỉ là một cách nói. Chính tình yêu đã làm nên cái hồn, sự sống cho tiểu thuyết võ hiệp. Mỗi tác phẩm của ông ra đời trở thành một bức thông điệp ngọt ngào cho tình yêu lứa đôi.

Hansy
13-03-2013, 07:01 AM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

8.
TÌNH DỤC

Trong ngôn ngữ Trung Hoa, chữ Dâm (淫) được viết với bộ Thuỷ, có nghĩa là ham mê sắc dục quá độ. Dâm được coi là một cái gì đó rất tự nhiên đối với xã hội phong kiến Trung Hoa: vua được toàn quyền có nhiều phi tần, quan lại và nhà giàu có quyền cưới nhiều thê thiếp. Người phụ nữ trở thành món đồ chơi, phương tiện giải trí của người đàn ông. Tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung phản ánh về xã hội phong kiến Trung Hoa nhưng cái nhìn của ông đối với thói dâm đãng nói riêng và tình dục nói chung là một cái nhìn nghiêm túc và nghiêm khắc.

Tác phẩm Kim Dung xây dựng khá nhiều những nhân vật dâm đãng chuyên lợi dụng tình dục. Và ông đã dành những hình phạt nặng nề theo luật giang hồ để trừng trị những loại nhân vật đó.

Trong Tiếu ngạo giang hồ, nhân vật dâm đãng là Điền Bá Quang. Hắn vừa là tên cướp, vừa là dâm tặc, khinh công rất giỏi và đao pháp rất nhanh. Hắn có ngoại hiệu đúng 14 chữ: Giang dương đại đạo, thái hoa dâm tặc, vạn lý độc hành khoái đao Điền Bá Quang. Nhà sư Bất Giới đã trừng trị hắn: xuyên tụ tiễn vào bộ phận sinh dục và buột hắn cạo đầu làm sư với pháp hiệu Bất Khả Bất Giới (không thể không cấm). Chính nhờ hình phạt đó mà Điền Bá Quang bỏ được con đường tà dâm, trở thành người tử tế. Trong Xạ điêu anh hùng truyện, nhân vật dâm đãng là Âu Dương công từ. Hắn là cháu của Tây độc Âu Dương Phong, từ Tây Vực xuống Trung Nguyên, võ công cao cường, chuyên hãm hại lương gia phụ nữ. Da mặt hắn lúc nào cũng trắng bệt! Nhưng Âu Dương công tử tà môn vẫn chưa nguy hiểm bằng Doãn Chí Bình chính phái. Doãn Chí Bình là đệ tử hàng thứ ba của phái Toàn Chân. Hắn đi ngang qua núi Chung Nam thì gặp ngay lúc Tiểu Long Nữ phái Cổ Mộ đang thoát y để luyện võ công trong Ngọc Nữ tâm kinh. Thế là hắn quên mất môn quy, điểm huyệt cô gái, lấy áo đạo bào phủ lên mặt cô và đưa cô vào bụi rậm. Tiểu Long Nữ cứ ngỡ đó là Dương Qua, người học trò thân yêu của mình. Doãn Chí Bình ăn mắm mà Dương Qua khát nước!

Kim Dung nói về những hoạt động tình dục, điều mà người ta cho là dung tục, với một bút pháp tinh tế và trang nhã. Chính vì thế mà trong lần trở về thăm và nhận hàm Tiến sĩ danh dự Đại học Bắc Kinh - Đại nhã chi đường của trung Quốc- vào tháng 1-1995, người ta đã mạnh dạn bàn đến cái nhã, cái tục và ca ngợi Kim Dung là một nhà văn thanh nhã từ văn phong đến nội dung. Khi nói đến những hoạt động tình dục, Kim Dung không bao giờ mô tả. Ông chỉ thuật lại bằng một vài câu ngắn gọn và dành phần suy nghĩ, đánh giá tình hình cho độc giả.

Trong Liên thành quyết, Kim Dung xây dựng nhân vật Huyết đao lão tổ từ Tây Tạng xuống như một nhân vật dâm ác hạng nhất. Trong những chương đầu, cái nhìn của Kim Dung về nhân vật này rất nghiêm khắc, phản ánh quan điểm dân tộc hẹp hòi của ông đối với những con người ngoài Há tộc. Huyết đao lão tổ nhận Địch Vân làm đệ tử. Mọi người gọi Địch Vân là tiển dâm tặc. Nhưng hai thầy trò Địch Vân chẳng hề có một hành động dâm dật vơi ai, ngược lại Địch Vân còn là một chính nhân quân tử.

Nếu Huyết đạo lão tổ là tên “dâm tặc” già nhất thì trong Hiệp khách hành, Thạch Trung Ngọc là tên dâm tặc trẻ nhất. Khi được gửi lên phái Tuyết Sơn học, gã thiếu niên 15 tuổi đó đã có hành vi cưỡng bức cô bé A Tú, con của sư phục mình khiến cô bé phải nhảy xuống lũng sâu để tự bảo vệ tiết sạch giá trong. Thạch Trung Ngọc có đứa em song sinh rất giống mình là Thạch Phá Thiên, thường chỉ được gọi với cái tên Cẩu Tạp Chủng (chó lộn giống). Khi Cẩu Tạp Chủng xuất hiện, mọi người phái Tuyết Sơn đều tưởng là Thạch Trung Ngọc nên muốn giết cậu. Chỉ có đôi mắt ngây thơ của A Tú mới nhìn ra được “vị đại ca hiền lành này không phải là tên tiểu tặc đó”. Ấy vậy mà Cầu Tạp Chủng cũng bị mọi người chửi mấy trăm lần là “tiểu dâm tặc”.

Nhưng trong 12 bộ tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, nhân vật dâm đãng số một phải thuộc về Vi Tiểu Bảo (Lộc Đỉnh ký). Xuất thân trong kỹ viện thành Dương Châu, ngay từ nhỏ, Vi Tiểu Bảo đã quen với cảnh ong bướm lả lơi giữa đám khách làng chơi và các kỹ nữ. Cơ duyên đã đưa hắn lên Bắc Kinh, làm thái giám giả mạo trong cung nhà Thanh. Mới 13 tuổi đầu, hắn đã ôm Mộc Kiếm Bình, quận chúa Mộc vương phủ Vân Nam và chớt nhả với Phương Di, lớn hơn hắn 2 tuổi; 15 tuổi, hắn quan hệ thân xác với công chúa Kiến Ninh; 18 tuổi trôi giạt sang Nga, hắn quan hệ với công chúa Tô Phi Á (Sophia), con gái Sa hoàng! Từ thái giám, hắn lên Đô thống Hoàng kỳ, Khâm sai đại thần, Bá tước rồi Công tước. Trong một lần đi công cán về thành Dương Châu, hắn quan hệ một hơi với 4 người phụ nữ: Tô Thuyên (vợ giáo chủ Thần long giáo Hồng An Thông), A Kha (nghi là con gái của Ngô Tam Quế và Trần Viên Viên), Song Nhi (nữ tì), Tăng Nhu (Thiên địa hội). Rồi hắn ăn ở luôn với cả 4 người trên, lấy luôn cả Kiến Ninh, Phương Di, Mộc Kiếm Bình. Suốt đời Vi Tiểu Bảo chỉ biết có tình dục, không hề biết đến tình yêu chân thật là gì. Kim Dung đã không cho hắn có được niềm hạnh phúc được yêu của Vi Tiểu Bảo. Hôm hắn trở lại Dương Châu thăm mẹ dẫn theo một đoàn thê thiếp, Vi Xuân Phương phải thầm khen con trai mình có mắt.

Trong tác phẩm Kim Dung, không thiếu những lời thoá mạ: dâm tặc, rùa đen, chó lộn giống... Ông đứng trên quan điểm của một nhà nhân bản để nhận xét, đánh giá những hành vi tình dục của các nhân vật do chính mình tạo ra. Ông phán xét họ một cách nghiêm khắc - tất nhiên là với cái nghiêm khắc của một nhà văn chứ không phải một quan toà. Ông để cho những nhân vật dâm đãng tự rước lấy sự trừng phạt công mình của cuộc sống (trừ Vi Tiểu Bảo!).

Cá biệt, có một trường hợp mở đầu bằng hành vi cưỡng bức nhưng kết thúa bằng tình cảm tốt đẹp. Đó là Dương Tiêu (Tả sứ Minh giáo) đã bắt cóc và cưỡng bức Kỷ Hiểu Phù (đệ tử phái Nga Mi). Hiểu Phù sinh ra đứa con gái, đặt tên là Dương Bất Hối để tỏ ý không hề hối hận vì đã thất thân với Dương Tiêu. Diệt Tuyệt sư thái, sư phụ của Kỷ Hiểu Phù, vì vậy đã giết Hiểu Phù. Dương Tiêu ở vậy nuôi con, không cưới vợ nữa để giữ mãi hình bóng của người phụ nữ từng là nạn nhân của anh ta.

Người ta thường nói: “Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén” để chỉ những quan hệ tất yêu nam nữ trong những hoàn cảnh thuận lợi. Câu nói đầy tính ẩn dụ đấy không thể có trong tác phẩm Kim Dung. Nhiều lứa đôi trong tác phẩm của ông thương nhau, sống với nhau một nơi nhưng trai vẫn giữ được phong độ người quân tử, gái vẫn giữ được tiết sạch giá trong. Đó là Vô Kỵ - Triệu Minh - Chỉ Nhược - Tiểu Siêu, Trương Thuý Sơn – Hân Tố Tố, Lệnh Hồ Xung – Doanh Doanh, Quách Tĩnh – Hoàng Dung, Đoàn Dự - Mộc Uyển Thanh – Vương Ngọc Yến – Chung Linh, Hồ Phỉ - Viên Tử Y, Thạch Phá Thiên – A Tú, Địch Vân - Thủy Phương, Kiều Phong – A Châu. Họ đều rất trẻ, sống giang hồ phiêu bạt nhưng vẫn tôn trọng chữ Lễ, biết yêu say đắm, có thèm khát nhưng không vượt quá giới hạn của tình yêu. Có những lứa đôi thành vợ thành chồng, có lứa đôi ly tán nhưng tựu trung, họ đã sống thật đẹp và yêu thật đẹp. Tôi cho rằng đây là một khía cạnh rất đạo đức trong tác phầm Kim Dung. Nó đem lại cho người đọc - nhất là bạn đọc trẻ - những nhận thức đúng đắn về tình yêu và tình dục, giúp con người vươn lên để sống đúng nghĩa với khái niệm con người.

Hansy
13-03-2013, 11:33 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

9.
CHẤT HÀI

Trước nay, văn học thế giới đã để lại cho chúng ta nhiều tác phẩm của các bậc thầy hài hước. Đưa nụ cười vào văn chương, tạo ra sự hứng thú cho người đọc đã có từ những vở Kỵch của Molière (Pháp), Azit Neshin (Thổ Nhĩ Kỳ), Slavemir Mrojek (Ba Lan). Và trong thời đại chúng ta, tiếng cười có nhiều trong các tờ báo chuyên hài hước, các tiểu phẩm trào phúng, châm biếm. Văn học Trung Quốc cũng đã trước bạ tên tuổi của các bậc thầy cười: Ngô Thừa Ân với siêu phẩm Tây Du Ký, Lỗ Tấn với tác phẩm A.Q Chính Truyện. Trên nền tảng cái cười Trung Quốc, Kim Dung tiên sinh cũng đưa nụ cười vào văn chương của ông, dù văn chương đó ở phạm trù văn chương kiếm hiệp.

Những tình huống trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung luôn luôn sôi động với tính chất đấu tranh, bạo lực, mưu toan, thủ đoạn. Vậy thì việc đưa tiếng cười vào trong những tình huống này quả là một điều khó thực hiện nhất là giữ làm sao cho chất cười đó không phá vỡ cái tổng thể của khái niệm võ hiệp tiểu thuyết. Kim Dung đã làm được việc đó với ngòi bút khéo léo của một bậc thầy và trong 12 bộ võ hiệp tiểu thuyết của ông, chất hài hước đã được dàn trải khắp các chương tạo ra niềm hứng thú cho độc giả.

Trong tác phẩm của ông, có những nhân vật khá hài hước về ngoại diện, tâm hồn thật trẻ thơ và hành sự rất tếu. Với bộ Xạ điêu anh hùng truyện, ta bắt gặp một nhân vật đáng yêu như vậy: Lão ngoan đồng Châu Bá Thông. Châu Bá Thông là nhân vật số 2 của phái Toàn Chân, sư đệ của Vương Trùng Dương, dưới tay có cả một đám sư điệt già nua cổ thụ nhưng tâm hồn ông vẫn là tâm hồn của một đứa bé ngây thơ, trong sáng. Ngay ngoại hiệu Lão ngoan đồng (ông già mà chơi như con nít) cũng đủ để mô tả đặc điểm tính cách nhân vật Châu Bá Thông. Theo sư huynh Vương Trùng Dương sang hoàng cung nước Đại Lý, Châu Bá Thông đã quan hệ tình dục với một cung phi của hoàng gia, đẻ ra một đứa con nhưng nuôi không được. Châu Bá Thông là một cao thủ, suốt đời chẳng biết sợ hãi ai nhưng mỗi khi nghe đến tên nàng cung phi đã lỡ thất thân với mình là ông ta chạy dài. Suốt đời Châu Bá Thông chuyên làm những việc cổ quái. Ngay đến môn võ công ông tự suy nghĩ ra cũng có cái tên kỳ dị không kém: Song thủ hỗ bác (hai tay vừa giúp nhau vừa đánh nhau). Đó là kết quả của một cách phân ý thật lý tưởng: tay trái vẽ hình vuông, tay mặt vẽ hình tròn cùng một lúc, sao cho vuông ra vuông, tròn ra tròn. Chỉ có Châu Bá Thông là làm được việc ấy và luyện thành công kỹ thuật Song thủ hỗ bác. Võ công ông ta đạt đến trình độ kinh người nhng chẳng hề giết chóc ai, hãm hại ai. Mỗi khi ông ta xuất hiện là tình huống trở nên vui nhộn.

Trong Tiếu ngạo giang hồ, ta gặp rất nhiều nhân vật hài hước. Đó là Lệnh Hồ Xung, đại đệ tử phái Hoa Sơn, một nhân vật được mô tả là "lãng tử vô hạnh, thanh danh tàn tạ". Phái Hoa Sơn nổi tiếng về sự nghiêm khắc giữ gìn thanh quy giới luật nhưng khi cao hứng lên, Lệnh Hồ Xung sẵn sàng bỏ tất cả ra sau gáy. Anh đánh bạc với bọn du thủ, uống rượu xai quyền cùng anh em giang hồ hào sĩ, đánh cho bọn đệ tử Thanh Thành phải "thí cổ hướng hậu bình sa lạc nhạn" (chổng đít ra sau tan tác như nhạn rơi bãi cát). Bị mụ ni cô - vợ của Bất Giới hoà thượng, má của ni cô Nghi Lâm - cạo đầu và suýt bị thiến vì từ chối tình yêu của Nghi Lâm, Lệnh Hồ Xung đã 'trả thù" hết sức ngộ nghĩnh. Anh hướng dẫn cho Bất Giới đại sư cách điểm huyệt mụ, đưa mụ vào khách sạn và... cởi quần áo mụ ra làm sao mụ còn chạy thoát khỏi tay Bất Giới. Học được kinh nghiệm quái chiêu đó, Bất Giới đã quỳ xuống lạy Lệnh Hồ Xung, xưng tụng là Lệnh Hồ sư phụ, thậm chí là Lệnh Hồ gia gia!

Bất Giới hoà thượng cũng là nhân vật hài hước số một. Lỡ yêu một ni cô, ông ta cũng cạo đầu đi tu. Nhưng quy luật của Phật gia có ngũ giới cấm, trong đó có cấm tà dâm, mà mục đích của Bất Giới là đi tu để ăn ở cho được với người ni cô đó. Ông ta tự đặt cho mình ngoại hiệu là Bất Giới (chẳng cấm cản gì ráo), đã lấy được ni cô và đẻ ra Nghi Lâm. Nghi Lâm cũng đi tu, làm ni cô của phái Hằng Sơn. Cô thầm yêu trộm nhớ Lệnh Hồ Xung, ân nhân đã cứu mình ra khỏi tay dâm tặc Điền Bá Quang. Thế là Bất Giới phải đi tìm Lệnh Hồ Xung, ép buộc anh làm nhà sư để cưới Nghi Lâm vì trên đời này "chỉ có ông sư là cưới được bà vãi". Đối với Điền Bá Quang, Bất Giới trừng trị thẳng tay: cạo đầu buộc làm sư, đặt pháp hiệu là Bất Khả Bất Giới (không thể không cấm được), buộc Điền Bá Quang tôn Nghi Lâm làm sư phụ rồi buộc Điền Bá Quang làm mai "sư phụ" mình với Lệnh Hồ Xung.

Tuy nhiên, nói đến tiếng cười trong Tiếu ngạo giang hồ, người đọc vẫn nhớ đến Đào cốc lục tiên nhiều nhất. Đó là 6 anh em, tên là Đào Hoa Tiên, Đào Chi Tiên, Đào Điệp Tiên, Đào Thực Tiên, Đào Cán Tiên, Đào Căn Tiên. Họ gồm đủ hoa, nhánh, lá, cành, gốc, rễ nhưng bị cái tội hồ đồ, không phân biệt được ai là lão tam; ai là lão tứ ! Võ công cao cường, tâm ý tương thông, họ không sợ bất kỳ địch thủ nào trên đời. Suốt ngày họ đánh nhau, văng tục, cãi lộn.. Mà cái kiếu cãi lộn của anh em nhà họ Đào cũng rất hoạt kê, càng cãi câu truyện càng rối rắm. Nhìn dưới khía cạnh triết lý, Đào Cốc lục tiên chính là những nhà luận lý học hình thức (logique formelle) của phương Đông. Đào Cốc lục tiên mồm năm miệng mười, suốt ngày chỉ nói, nói và nói; đến vua nhà Tống cũng không cấm họ im miệng được.

Nhưng có một người duy nhất có thể buộc họ câm miệng. Đó là Sát nhân danh y Bình Nhứt Chỉ. Bình Nhứt Chỉ có lệ cứu được một người là ra lệnh cho người đó hoặc anh em người đó đi giết một người khác. Trong một lần Đào Thực Tiên bị trọng thương, bọn ngũ tiên bèn khiêng đến cho Bình Nhứt Chỉ chữa nhưng miệng vẫn nói thiên hô bách sát. Bình Nhứt Chỉ quát một tiếng im là năm lão im ngay bởi vì nếu không im, Bình Nhứt Chỉ sẽ buộc bọn tiên giết tên Đào Thực Tiên! Khi Lệnh Hồ Xung được đưa lên gò Ngũ Bá Cương, Bình Nhứt Chỉ thú nhận rằng không thể chữa thương cho chàng được. Bọn Đào Cốc lục tiên bèn trả thù, đặt ra câu hỏi: "Cứu một người thì giết một người. Nay không cứu được người thì giết ai?" Chính cái luận lý học hình thức của bọn lục tiên đã khiến Bình Nhứt Chỉ tự suy nghĩ và cuối cùng, tự vận kinh mạch cho đứt, chết đi để xứng với ngoại hiệu Sát nhân danh y!

Lệnh Hồ Xung, Bất Giới hoà thượng, Bất Khả Bất Giới Điền Bá Quang, Đào cốc lục tiên là cái trục hài hước của Tiếu ngạo giang hồ. Chung quanh cái trục đó còn có nhiều nhân vật hài hước khác như Hướng Vân Thiên, Quang minh tả sứ của Triêu Dương thần giáo; Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh, chưởng môn phái Hành Sơn; bọn quần ni phái Hằng Sơn; bọn giang hồ thảo khấu 36 động 72 đảo... góp thêm tiếng cười cho tác phẩm. Vì thế, Tiếu ngạo giang hồ tràn đầy tiếng cười lạc quan, ngay trong những tình huống bi thương nhất.

Chất hài hước trong kiếm hiệp Kim Dung thường xuất hiện trong những tình huống nghịch lý, thoạt tiên thì có vẻ kỳ quái nhưng đọc kỹ thấy thú vị vô cùng. Ta có thể tìm ra một hồi như vậy trong bộ Hiệp khách hành. Phái Tuyết Sơn có nội biến, bọn Tiêu Tự Lệ, Thành Tự Học, Tề Tự Miễn, Lương Tự Tiến bắt giam chưởng môn rồi quay ra đánh nhau để dành chức chưởng môn. Ai cũng tự khoe khoang võ công mình cao cường và họ đánh nhau với những chiêu thức độc ác nhất, tinh vi nhất. Giữa khung cảnh như vậy thì Trương Tam và Lý Tứ, hai sứ giả của đảo Mộc Long đến phát thiếp mời chưởng môn phái Tuyết Sơn đi ăn Lạp bát cúc ngoài biển Đông. Mà "ăn lạp bát cúc" có nghĩa là ra đi không có ngày về. Cả bọn Tề Tự Miễn, Lương Tự Tiến, Tiêu Tự Lệ, Thành Tự Học sợ quá, chẳng ai muốn tranh cái chức chưởng môn nữa. Trương Tam và Lý Tứ bó buộc bọn họ phải đấu võ cho phân thắng bại để xác định chưởng môn. Thế là anh nào anh nấy chỉ đấu cầu thua, thậm chí còn đưa tay chân của mình vào đao kiếm địch thủ để được bị thương và dĩ nhiên, càng bị thương nặng càng tốt. Trận đấu có kiếm bay, có máu chảy nhưng chất hài hước của bốn nhân vật cầu thua lại hoá giải được chất sắt máu kia và làm cho chương tiểu thuyết cực kỳ sống động, thú vị.

Trong truyện võ hiệp của Kim Dung, có những nụ cười rất nóng và có những nụ cười rất lạnh. Cười nóng là cười ha hả, cười đau cả ruột, mọi người cùng cười kể cả độc giả. Trong Thiên Long bát bộ, mỗi khi Tinh Tú hải lão ma Đinh Xuân Thu và bọn đệ tử của lão xuất hiện thì tiếng cười nóng lại rộ lên. Ấy bởi vì với phái Tinh Tú, thói nịnh là một thứ võ công hàng đầu so với những thứ võ công khác trên đời. Đã có những tên đệ tử phái Tinh Tú đem sư phụ Đinh Xuân Thu của mình so sánh với Đức Khổng Tử và kết luận Đức Khổng Tử thua Đinh Xuân Thu vì Khổng Tử không có võ công. Giá mà Đức Khổng Tử sống dậy, đọc được những dòng này, chắc hẳn ngài cũng phải bật cười khoan khoái. Ngược lại với cười nóng là cười lạnh, buồn mà cười, thương mà cười. Đó là mối tình của Du Thản Chi với A Tử.

Đoàn A Tử là cô bé ác độc, đệ tử của Đinh Xuân Thu, bắt được Du Thản Chi để hành hạ cho thoả tính tàn bạo. Cô đã ra lệnh đánh Du Thản Chi thừa sống thiếu chết rồi nướng cái lồng sắt đỏ chụp vào đầu y, biến y thành tên Thiết sửu giải trí cho cô. Nhưng oái ăm thay, ngay từ cái nhìn đầu tiên, Du Thản Chi đã say mê tấm dung nhan mỹ miều của A Tử. Hắn có thể hứng chịu cả trăm ngàn đau khổ để được nhìn thấy A Tử nở một nụ cười. Đôi mắt hắn long lên căm hờn khi có ai hướng về phía A Tử một cái nhìn thiện cảm. Hắn có một pho võ công rất kỳ bí là hàn khí của Kim tầm trùng độc làm nội công và đồ hình của Dịch Cân Kinh làm chiêu thức. Hắn đánh ai một chưởng thì người đó hoá thành băng tuyết ngay. A Tử đui hai mắt, không còn nhìn thấy gì trên đời. Thế là Du Thản Chi đi nhờ người ta tháo cái lồng sắt ra khỏi đầu mình và khuôn mặt của hắn trở thành khuôn mặt dị dạng của quỷ sứ. Hắn kiếm một cái khăn trùm đầu, tìm về với A Tử và tự đổi giọng nói, xưng mình là Trang Tụ Hiền; dẫn cô bé chu du giang hồ, khoe với cô rằng mình là kỳ nam tử, đẹp như Phan An, Tống Ngọc! Rõ ràng là khi có mặt A Tử, hắn đã đánh cho nhiều người thất điên bát đảo nên A Tử hết lòng tin cậy. Chính vì để bảo vệ bí mật cho những lời khoe khoang khoác lác đó, hắn đã phải năn nỉ nhiều người khen hộ hắn anh tuấn, đẹp trai để vừa lòng A Tử. Cái hài hước khi xây dựng cặp nhân vật A Tử - Du Thản Chi của Kim Dung tràn đầy nước mắt, bảo cười cũng được mà bảo khóc cũng không sai. Đó cũng là chất hài hước của Lỗ Tấn trong A.Q Chính Truyện khi A.Q được đưa ra pháp trường!

Được cười với những nhân vật của Kim Dung thật là một điều sảng khoái. Cái sảng khoái đó nằm trong những diễn tiến ngộ nghĩnh của câu chuyện, khiến người ta không tin cũng phải tin. Một thí dụ sinh động nhất là chuyện tuyển phu của công chúa Văn Nghi nước Tây Hạ. Công chúa Văn Nghi đã từng bị Thiên Sơn Đồng Mỗ bắt, cởi trần truồng và đem vào hầm nước đá tối thui cho nằm cạnh nhà sư Hư Trúc. Mục đích của Đồng Mỗ là phá giới Hư Trúc và quả nhiên, nhà sư trẻ đã không thoát qua khỏi vòng trần luỵ. Lòng anh vừa đau khổ nhưng cũng vừa cảm thấy hạnh phúc. Và suốt đời anh vẫn nhớ người trong mộng nhưng không biết nàng tên là gì, ở đâu. Đùng một cái, nước Tây Hạ ra bảng chiêu phu cho công chúa Văn Nghi. Những thế lực chính trị cảm thấy đây là thời cơ để phục hưng nền quân sự của quốc gia vì kẻ nào làm phò mã nước Tây Hạ là kẻ đó có thể nắm thực quyền về quân đội. Đoàn Chính Thuần nước Đại Lý buộc con là thế tử Đoàn Dự phải đi. Cô Tô Mộ Dung Phục cũng đi đến cầu hôn với hy vọng phục hưng binh lực nước Đại Yên. Hoắc Đô Vương tử nước Thổ Lỗ Phồn cũng đến tranh thủ. Chỉ có chàng Hư Trúc là đi chơi, hoàn toàn không nghĩ đến chuyện tuyển phu. Tất cả chương trình tuyển phu chỉ gồm có 3 câu: "Trên đời, người thích ai nhất? Người ấy tên gì, ở đâu?". Các Vương tử, thế tử đều đáp xong. Đến lượt, người ta đùa cợt, đẩy Hư Trúc vào. Đáp câu thứ nhất, Hư Trúc bảo: "Trên đời ta chỉ thích nàng nhất". Câu thứ hai: "Tối quá, ta không biết tên". Câu thứ 3:"Trong hầm nước đá" Và chỉ 3 câu đó, Hư Trúc tìm ra người tình nhân - Mộng Cô - của mình, trở thành phò mã nước Tây Hạ giữa sự ngạc nhiên của mọi người. Hoá ra, trò tuyển phu đó không phải là một đòn phép chính trị nhằm đối địch với ai cả. Đó chỉ là một cách để tìm ra người đàn ông mà công chúa đã từng yêu dấu và trao thân gửi phận.

Thế nhưng, không có tác phẩm nào tập trung cao độ tính hài hước bằng bộ Lộc Đỉnh ký. Từ cách xây dựng nhân vật trung tâm đến tình huống diễn tiến câu chuyện, đến ngôn ngữ nhân vật, Lộc Đỉnh ký là một bộ hài Kỵch lớn. Không chương nào của tác phẩm thiếu tiếng cười. Chuyện bắt đầu khi Vi Tiểu Bảo, một tiểu lưu manh trong động điếm Lệ Xuân viện thành Dương Châu được Mao Thập Bát, một hào khách giang hồ đem lên Bắc Kinh. Bằng thủ đoạn ma mãnh, Vi Tiểu Bảo đã giết được Tiểu Quế Tử thái giám, hoá thân làm Tiểu Quế Tử. Từ đó, hắn thân cận được với vua Khang Hy, trở thành bạn nhỏ của nhà vua, giúp vua giết được loạn thần Ngao Bái, gia nhập thiên địa hội và hoạt động gián điệp. Hắn trở thành Chánh đô thống hoàng kỳ, phong tặng tước hiệu Ba Đồ Lỗ; Khâm sai đại thần đi công cán Vân Nam; Tứ hôn sứ; Bá tước; Nguyên soái cầm quân chinh phạt quân La Sát! Công lao hắn lớn hơn bất kỳ một vị cố mệnh đại thần nào của triều Khang Hy.

Để đạt được tột đỉnh vinh quang đó, hắn chỉ áp dụng hai thứ kinh nghiệm: một là kinh nghiệm sống trong động điếm và hai là những câu chuyện truyền kỳ trong bộ Anh Liệt Truyện mà hắn nghe được thủa còn ở Dương Châu. Thông qua nhân vật Vi Tiểu Bảo, người ta nhận ra một định đề bất ngờ: "Trên đời nầy, kỹ viện và hoàng cung là hai nơi trá nguỵ nhất". Đắc thủ kinh nghiệm từ kỹ viện đến hoàng cung, Vi Tiểu Bảo trở thành nhân vật đệ nhất trá nguỵ. Nhân vật trá nguỵ ấy đã trở thành Hối minh hoà thượng, sư đệ của Hối Thông, phương trượng chùa Thiếu Lâm; rồi sau đó lại trở thành trụ trì chùa Thanh Lương trên Ngũ Đài Sơn ! Nhân vật ấy đủ sức "trị" tên đại Hán gian Ngô Tam Quế; trở thành cố vấn đặc biệt cho Sa hoàng Nga La Tư; thay mặt Khang Hy Hoàng đế quan hệ giao hảo với Mông Cổ và Tây Tạng.
Thế nhưng, nhân vật quan trọng ấy không biết chữ. Trong 3 chữ họ tên của mình, Vi Tiểu Bảo chỉ đọc được chữ Tiểu vì chữ này dễ nhận ra với 3 nét. Ấy thế mà bọn nhà văn có tên tuổi trong lịch sử văn học triều Thanh như Cố Viêm Võ, Tra Y Hoàng phục lăn phục lóc, hết lời ca ngợi. Nhân vật ấy đưa vào trong văn chương một mớ ngôn ngữ thoá mạ bình dân, tục tĩu như "con mẹ nó", "tổ bà quân rùa đen", "phường chó đẻ"... Vi Tiểu Bảo "sáng tạo" ra những thuật ngữ mà chưa một thời đại nào người ta dám đem gán ghép cho những nhân vật cao quý trong xã hội phong kiến: công chúa Kiến Ninh được coi là con đượi non, thái hậu được gọi là mụ điếm già. Mớ ngôn ngữ ấy đã được "truyền bá". Trần Cận Nam, thầy của Vi Tiểu Bảo, cũng biết gọi thái hậu là "mụ điếm già". Vua Khang Hy cũng học thứ ngôn ngữ bình dân của Vi Tiểu Bảo mà mở miệng thoá mạ "con mẹ nó". Chẳng những thế, nhà vua cũng sẵn sàng làm những việc làm hết sức "bình dân", chẳng ra thể thống một Đại Thanh Hoàng đế chút nào. Tôi cho rằng đoạn trích sau đây có thể nói lên chất hài hước cao đó của Lộc Đỉnh ký:

"Sách thánh hiền đọc nhiều quá, toàn những đoạn khô khan. Đột nhiên, nhà vua được nghe những câu "Tổ bà nó", "Té đái vãi phân", tuy thô tục nhưng cũng thấy vui vui liền bắt chước nhưng chỉ khi nói với Vi Tiểu Bảo mới đưa ra. Hôm nay, nhà vua gặp phụ hoàng, vừa hoan hỉ vừa bi thương, nhưng thân cận cha được nửa giờ đã bị đẩy ra ngoài cửa chẳng biết từ nay còn có dịp nào gặp lại, trong lòng rất là khó chịu. May có Vi Tiểu Bảo nói năng thú vị làm vơi nỗi uất ức đi nhiều. Khi bàn tới đại sự trừ phản dẹp loạn, ngài lại nổi hùng tâm.
Nhà vua đứng dậy đi ra ngoài sân mấy bớc, hai tay bê mấy hòn đá bày ra dưới đất, miệng nói:
- Hán quân có tứ vương, nào Đông Vương, nào Tây phiên, nào Bắc biên, phải phân chia ra không thể để chúng liên hiệp với nhau được. Lại còn Định Nam Vương Khổng Hữu Đức nhưng may thằng cha này chết rồi, chỉ để lại một đứa con gái thì cách đối phó chẳng khó khăn gì.
Nhà vua dứt lời, vung chân đá một hòn đá ra ngoài rồi nói tiếp:
- Cảnh Tinh Trung thần dũng hơn đời nhưng lại là kẻ vô mưu nên chẳng có chi đáng ngại. Chỉ cần làm cho hắn không liên minh được với họ Trịnh ở Đài Loan là xong.
Nhà vua lại đá một hòn đá nữa đi rồi nói tiếp:
- Thượng Khả Hỷ thì phụ tử bất hoà. Giữa hai cha con hắn cũng thành thế nước lửa nhằm khuynh loát nhau, chắc chẳng làm nên trò trống gì.
Khối đá thứ ba bị hất tung đi. Chỉ còn một khối đá lớn nhất. Nhà vua nhìn chằm chặp vào khối đá này, ngơ ngẩn xuất thần.
Vi Tiểu Bảo cất tiếng hỏi:
- Tâu Hoàng thượng ! Phải chăng đây là Ngô Tam Quế ?
Vua Khang Hy gật đầu.
Vi Tiểu Bảo mắng liền:
- Thằng giặc thối tha này. Sao mi không chết đi khiến cho Đức Hoàng Đế phải vì mi mà tổn thương cân não. Tâu Hoàng thượng ! Xin Hoàng thượng đái vào người hắn.
Vua Khang Hy cười ha hả, nổi dạ trẻ thơ, vạch quần đái vào phiến đá.
Ngài cười nói:
- Ngươi cũng đái vào đi.
Vi Tiểu Bảo cười rộ. Gã vừa đái vừa nói:
- Hồi sách này kêu bằng Vạn tuế gia cao sơn lưu thuỷ. Tiểu Quế Tử ... Tiểu Quế Tử ...
Gã chợt nhớ thầy đồ nói chuyện Tam Quốc có một hồi kêu bằng "Quan Vân Trường thuỷ yếm thất quân" liền nói tiếp:
- "Tiểu Quế Tử thuỷ yếm thất quân"
Vua Khang Hy không nín được, lại cười ha hả. Ngài vừa thắt quần lại vừa nói:
- Sau nầy mà ta bắt được tên giặc thối tha kia thật sự thì sẽ đái hẳn vào người hắn.
Vi Tiểu Bảo thấy Tiểu Hoàng Đế ra chiều căm hận Ngô Tam Quế thì trong bụng mừng thầm tự nhủ:
- Ta cùng bọn Mộc Vương phủ đánh cuộc về vụ này. Thế là phe mình ăn chắc đến quá nửa rồi."
-
Và gần như không có nhân vật nào trong Lộc Đỉnh ký không có tính hài hước. Công chúa Kiến Ninh cũng biết chửi tục "Con mẹ nó, té đái vãi phân" và gây ra một hành động kinh thiên động địa mà không phải người phụ nữ nào cũng dám làm: lấy súng bắn nát bộ phận sinh dục của chồng chưa cưới. Hối Thông đại sư, trụ trì chùa Thiếu Lâm, ca ngợi sư đệ của mình là Hối Minh (tức Vi Tiểu Bảo) định lực cao cường khi đối đầu với bọn Cát Nhĩ Đan Vương tử mà chẳng biết Vi Tiểu Bảo sợ quá, thở cũng không nổi và đã “đi” ra đầy cả quần. Trừng Quang đại sư cầm đầu Thập bát La hán chùa Thiếu Lâm ngây thơ đến nỗi nghe Vi Tiểu Bảo đi chơi kỹ viện (động điếm) cũng cho rằng kỹ viện là một "viện" tương đương với Đạt Ma viện của chùa Thiếu Lâm. Thậm chí khi Trừng Quang đại sư nghiên cứu võ công cũng phải nhờ Vi Tiểu Bảo chỉ điểm, hướng dẫn!

Có người cho rằng Lộc Đỉnh ký là tác phẩm của thời đại chúng ta, Vi Tiểu Bảo là con người sống trong thời đại chúng ta. Tôi nghĩ là nhận định đó hết sức nghiêm túc và hợp lý. Với chất hài hước của Lộc Đỉnh ký, thế kỷ 20 hiện thân rành rành trong tiểu thuyết võ hiệp, với những con người, những tình huống, những suy nghĩ của nó.

Không dễ đưa chất hài hước vào văn chương như đưa vào sân khấu hay thơ ca. Tôi đã đọc Kim Dung nhiều lần trong đời. Với Du Thản Chi trong Thiên Long bát bộ, tôi nhỏ nước mắt. Với Vi Tiểu Bảo trong Lộc Đỉnh ký, tôi cười ha hả. Nhiều đêm, chợt tỉnh giấc ngủ, nhớ đến Vi Tiểu Bảo, tôi bật cười một mình. Con người ngộ nghĩnh, thú vị, sống rất chân thật đó đã trở thành một biểu tợng hài hước của thế kỷ thứ 20 chứ không riêng gì trong tác phẩm võ hiệp của Kim Dung.

Trong hoàn cảnh đất nước chưa hoà bình, chiến tranh vẫn còn tiếp diễn nhiều nơi, lòng người hoang mang ly tán như xã hội miền Nam trước năm 1975, tác phẩm võ hiệp Kim Dung với những màn hài hước đặc sắc vụt trở nên phương tiện giải trí đắt giá. Tâm trạng chung của bạn đọc lúc đó là tìm ra một cái gì vui trong một đời sống có nhiều bế tắc và niềm bi thảm. Ta không thấy làm lạ khi người đọc đón nhận từng chương, từng hồi của tác phẩm Kim Dung đăng trên báo dưới dạng feuilleton. Tôi chưa nói đến giá trị văn học, giá trị tư tưởng, giáo dục. Chỉ một chức năng giải trí, văn chương Kim Dung đã đáp ứng đầy đủ cho người đọc. Hài hước trở thành một thang thuốc bổ, đem lại cho đời nụ cười ý vị.

Hansy
16-03-2013, 10:34 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI


10.
GHEN


Ghen (jalousie) là một tình cảm tự nhiên của con người, đặc biệt là ở phụ nữ. Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, tuy trọng tâm phản ánh về những sinh hoạt võ lâm, cũng đã có những nhân vật ghen tuông, tình huống ghen tuông thú vị. Nhận định về tình yêu trong tiểu thuyết võ hiệp của ông mà không nhận định về cái ghen quả thật là một thiếu sót.
Một cách khái quát, Kim Dung dùng khái niệm rất cụ thể để nói về cái ghen. Ghe được gọi là “bình giấm chua” hoặc “ghè tương”. Còn cái binh giấm chua và ghe tương đó đổ bể trong tình huống nào, đổ bể ở đâu thì lại là chuyện khác.

Ở mức độ sơ cấp, người phụ nữ bày tỏ lòng ghen tuông một cách nhẹ nhàng, đôi khi không khỏi khiến độc giả buồn cười, thương hại. Đó là trường hợp Á bà bà (bà già câm) (Tiếu ngạo giang hồ). Ở tuổi đôi mươi, bà đã xuất gia đi tu và là một nữ ni xinh đẹp. Có một chàng đồ tể cảm mến sác đẹp đó, cứ theo tán tỉnh hoài. Và hắn cũng cạo đầu đi tu, tự đặt pháp hiệu cho mình là Bất Giới hoà thượng. Hắn cho rằng “chỉ có ông sư mới có thể yêu bà vãi” (?) Họ thành vợ chồng và sinh ra cô con gái xinh đẹp là Nghi Lâm. Một lần, Bất Giới nhìn thấy Ninh Trung Tắc, vợ Nhạc Bất Quần. Ông ta lỡ miệng khen Ninh Trung Tắc đẹp, thế là Á bà bà nổi cơn ghen vì “đã có vợ rồi, sao lại còn khen kẻ khác đẹp?”. Bà ta bỏ luôn Bất Giới, vào phái Hằng Sơn giả làm mụ già câm điếc, chuyên việc quét chùa, lau tượng trong 18 năm, báo hại Bất Giới đi tìm muốn chết!

Ở mức độ trung cấp, cái ghen bắt đầu có “bài bản” hơn. Đó là trường hợp ghen của Mai Phương Cô (Hiệp khách hành). Mai Phương Cô thầm yêu trộm nhớ Thạch Thanh nhưng Thạch Thanh chỉ yêu và cưới Mẫn Nhu. Họ sinh được hai đứa con trai song sinh: Thạch Trung Ngọc và Thạch Phá Thiên. Thạch Phá Thiên mới 6 tháng tuổi thì... mất tích. Ai bắt? Chính là Mai Phương Cô. Nàng đem cậu bé về hoang sơn dã lĩnh ở Triết Giang nuôi nấng, đặt tên cho bé là Cẩu Tạp Chủng (chó lộn giống) để mỗi khi lòng ghen tuông với hạnh phúc của Mẫn Nhu nổi lên, nàng kêu mấy tiếng “cẩu tạp chủng” cho đỡ buồn!

Cẩu Tạp Chủng lớn lên, thành một chàng trai tuấn tú, hiền lành nhưng hoàn toàn dốt nát. Nhưng chính nhờ đó mà chàng trở thành một con người đệ nhất võ công đắc thủ được trong bài thơ Hiệp khách hành, khác xa người anh ruột dâm ác và tàn bạo Thạch Trung Ngọc. Hiệp khách hàng - một bài thơ danh tiếng của Lý Bạch, đi vào tiểu thuyết Kim Dung, trở thành một tác phẩm tiểu thuyết ca ngợi lòng dũng cảm, đức hy sinh và tâm hồn trung hậu của chàng trai Cẩu Tạp Chủng Thạch Phá Thiên.

Ở mức độ cao cấp, cái ghen được Kim Dung nâng lên thành những âm mưu, thủ đoạn cao cường. Đó là cái ghen của Chu Chỉ Nhược, chưởng môn phái Nga Mi (Ỷ thiên Đồ long ký). Ở trên đảo hoang, để độc chiếm kiếm Ỷ thiên và đao Đồ long, cô đánh thuốc mê cho mọi người, lấy kiếm rạch mặt và giết Hân Ly, trói Triệu Minh và bỏ lên một con thuyền thả lênh đênh, mưu đồ để Triệu Minh chết đói vừa đổ vạ cho nàng. Trở về trung Nguyên, Chu Chỉ Nhược lập tức tiến hành hôn với Trương Vô Kỵ nhưng lại bị Triệu Minh phá ngang, làm Trương Vô Kỵ bỏ hôn lễ và chạy theo Triệu Minh để tìm nghĩa phụ tạ Tốn. Chu Chỉ Nhược vừa thẹn, vừa sợ bại lộ âm mưu, đã sử dụng một chiêu ác độc nhất trong Cửu âm bạch cốt trảo, định đánh vỡ sọ Triệu Minh để bịt đầu mối. Tuy nhiên Triệu Minh chỉ bị thương, và nhờ vết thương đó, Trương Vô Kỵ mới dần hiểu được rằng Chu Chỉ Nhược là người đánh cắp kiếm Ỷ thiên và đao Đồ long, luyện thành Cửu âm bạch cốt trảo giấu trong thân kiếm, bắt cóc cha nuôi của mình là Tạ Tốn và là người giết Hân Ly.

Cái ghen tuông không chỉ có trong những bậc nữ lưu bình thường. Cái ghen trong bậc nữ lưu quý tộc còn ghê gớm hơn. Đó là trường hợp của Đao Bạch Phụng, người tộc Bãi Di, vợ Đoàn Chính Thuần. Thân là Vương phi nước Đại Lý, giận chồng lăng nhăng, đã đem tấm thân ngàn vàng cho gã ăn mày dơ dái ân ái... “Mối tình” chớp nhoáng đó đã sinh ra vương tử Đoàn Dự, danh nghĩa là con Đoàn Chính Thuần nhưng huyết thống là con Đoàn Diên Khánh. Vương phu nhân, gốc người tộc Đảng Hạng (Tiên Ty), còn ghen ghê gớm hơn. Giận Đoàn Chính Thuần, hễ ai họ Đoàn nước Đại Lý lọt vào sơn trang của bà là bà ra lệnh giết để làm phân bón hoa.

Tuy nhiên, cái hay của Kim Dung là không biến những tình huống ghen tuông trong tác phẩm của mình trở thành những vụ án hình sự có nhà tan, người chết. Những nhân vật của ông chỉ ghen như một cách bày tỏ thái độ, chẳng có ai chết cả. Hên ly vẫn không chết do nhát kiếm của Chu Chỉ Nhược, thậm chí, nhờ đó mà độc tính của Thiên châu tuyệt hộ thủ theo máu thoát ra ngoài và cô... sống lại.

Đứng trên quan điểm hôn nhân của chế độ phong kiến, Kim Dung cho phép những nhân vật nam của mình có nhiều vợ, nhiều tình nhân. Đoàn Chính Thuần có một vợ và... 5 tình nhân (có kể lại!); Vi Tiểu Bảo có... 7 vợ và một tình nhân. Tuy nhiên, Kim Dung cũng đã để cho những nhân vật nữ của mình đấu tranh chống lại quan điểm đa thê sai trái đó. Một cách tích cực, ghen tuông được coi là một cách thể hiện phản ứng chế độ đa thê. Những Á bà bà, Đao Bạch Phụng... là những con người đã phản ứng như vậy.

Quả thật đáng buồn nếu có những nhân vật (và ngay cả những người thật) không biết yêu và cũng chẳng biết ghen. trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, người ta yêu tha thiết nhưng ghen tuông cũng cháy chòi lá! Rõ ràng, tuy lấy bối cảnh là xã hội phong kiến Trung Quốc nhưng tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung lại đi sát cuộc đời bởi vì tâm tình trong đó là tâm tình của xã hội phương Đông thời hiện đại.

Hansy
16-03-2013, 10:34 PM
KIM DUNG
GIỮA ĐỜI TÔI

***

Vũ Đức Sao Biển

***

PHẦN 2


11. Chất thơ
12. Ngôn ngữ bình dân
13. Những bộ sách
14. “Thời trang”
15. Những nhân vật quái dị
16. Nghề kỹ nữ
17. Con trâu
18. Người Tây dương
19. Kỹ thuật
20. Thức ăn Trung Hoa



http://sachkhaitam.com/files/product/879/4d79da2d-a9d1-4d36-a71d-6978ef8bd5b4.jpg

Hansy
18-03-2013, 09:15 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI


11.
CHẤT THƠ


Đưa thơ vào trong tiểu thuyết, cho tiểu thuyết có chất lãng mạn nhằm tạo thi hứng cho cả người viết lẫn người đọc là đặc điểm cố hữu của 300 tiểu thuyết chương hồi thời Minh - Thanh. Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần có trên vài trăm bài thơ và khi thực hiện phim Hồng Lâu Mộng, các nghệ sĩ Bắc Kinh đã biến những bài thơ này thành nhạc từ - một dạng nhạc phủ - được hát lên, làm giàu thêm chất liệu nghệ thuật cho tác phẩm điện ảnh. Nhà văn Kim Dung đã kế thừa phong cách đưa thơ vào tác phẩm tiểu thuyết như các nhà văn tiền bối mặc dù tiểu thuyết chương hồi của ông là tân văn tiểu thuyết. Ở chừng mực nào đó, Kim Dung là một nhà thơ thực sự; ông đã viết cả vài trăm bài thơ, đặc biệt là thơ Thiền tông. Những bài thơ này chưa được in ra; người đời chỉ biết ông là nhà văn chứ chưa hề hiểu được ông còn là một nhà thơ. Chúng ta cũng lưu ý rằng ông nội Kim Dung đã từng làm tri huyện huyện Đơn Dương, Triết Giang và là một nhà thơ khá nổi tiếng cuối đời Thanh với thi tập Hải Ninh Sát Thị Sao Thi. Có lẽ âm vang của truyền thống tiểu thuyết Minh - Thanh, âm vang của truyền thống gia đình đã khiến Kim Dung mạnh dạn đưa thơ vào tiểu thuyết võ hiệp, làm cho những tác phẩm văn xuôi của ông mênh mang một màu thi ca lãng mạn, trữ tình.

Có những tác phẩm của Kim Dung lấy thơ làm nguồn cảm hứng chủ yếu. Đó là trường hợp bộ Hiệp khách hành, gồm 14 quyển. Hiệp khách hành là tựa đề một bài thơ dài của nhà thơ Lý Bạch, một trong Đường - Tống bát đại gia mà lịch sử văn học Trung Quốc rất đỗi tự hào. Thơ Lý Bạch có nhiều thể tài: Diễm ca (ca ngợi cái đẹp), Tuý ca (viết trong lúc say), Biệt ca (viết lúc chia tay nhau), Biên tái ca (viết về cuộc đời chinh chiến), Tình ca (ca ngợi tình yêu), Hành ca (ca ngợi chuyện giang hồ mạo hiểm),... Hiệp khách hành là một bài thơ ngũ ngôn, thuộc thể Hành ca, ca ngợi Nguỵ Vô Kỵ, tức Tín Lăng Quân, công tử nước Nguỵ và 2 hiệp khách - Hầu Doanh, người giữ cửa Di Môn cùng Chu Hợi, anh hàng thịt. Hai người đã có công giúp Tín Lăng Quân đưa quân sang cứu nước Triệu, bảo vệ Hàm Đan, chống lại quân Tần thời Chiến quốc.

"Triệu khách mạn hồ anh
Ngô câu sương tuyết minh
Ngân yên chiếu bạch mã
Táp nạp như lưu tinh..."

Đi vào trong tiểu thuyết Kim Dung, cả bài thơ Hiệp khách hành vẫn được giữ nguyên nhưng nó không còn là một bài thơ nữa. Nó chính là một pho võ công mà ai có tấm lòng chân chất nhất, ít cơ tâm nhất mới nhận ra được. Con người đó là một chàng trai không hề biết chữ: Thạch Phá Thiên tức Cẩu Tạp Chủng. Anh cóc cần bài thơ nói lên ý nghĩa gì, câu thơ biểu đạt điều gì. Anh chỉ nhìn nét chữ. Ví dụ chữ Hành gồm 6 nét thì anh khám phá ra sáu thế võ tương ứng với 6 nét đó chứ không cần biết Hành là đi hay chạy. Anh cứ lẳng lặng khám phá tự dạng như thế cho đến chữ cuối cùng và đắc thủ một môn thần công, điều mà có những người bỏ ra mấy chục năm vẫn không khám phá được. Kim Dung gọi đó là lối trước ý.

Thiên Long bát bộ mênh mang một không khí lãng mạn, trữ tình của thơ. Đó là những câu thơ của Kim Dung làm ra để ca ngợi hoa trà, một quốc hoa của nước Đại Lý:

Thanh quần ngọc diện như tương thức
Cửu nguyệt trà hoa mãn lộ khai
(Quần xanh, vóc ngọc tuồng quen mặt
Tháng chín, hoa trà rợp lối đi)
Hoặc:
Xuân câu thuỷ động trà hoa bạch
Hạ cốc vân sinh lệ tử hồng
(Dòng xuân nước gợn hoa trà trắng
Non hạ mây trôi trái vải hồng).

Đó là những câu thơ do chính Kim Dung làm ra nhưng được gắn vào cho những nhân vật của mình, để các nhân vật tỏ tình trước tình nhân. Thí dụ Trấn Nam vương gia Đoàn Chính Thuần, một con người phong tình rất mực, thường "nói" với các tình nhân Vương phu nhân và Tu la đao Tần Hồng Miên. Với Vương phu nhân, một người rất yêu hoa, Đoàn Chính Thuần đọc:

Dưới khóm mẫu đơn đành bỏ mạng
Chết làm quỷ sứ cũng oai phong

Với Tần Hồng Miên, một người chuyên phóng Tu la đao, Đoàn Chính Thuần chỉ "biên tập" hai chữ mẫu đơn:

Dưới lưỡi Tu la đành bỏ mạng
Chết làm quỷ sứ cũng oai phong

Thi ca, từ phú không thể tách rời với thi pháp. Trong những ngày sống chung với Nguyễn Tinh Trúc, Đoàn Chính Thuần đã chép tặng bà này bài Sầm viên xuân, một bài từ danh tiếng:

Sóng thu dường điểm mực
Tóc phượng rủ bên tai
Dung nhan tuấn nhã
Vẻ thiên nhiên càng ngắm càng tươi
Cách hoa nhìn bóng dáng
Vằng vặc ánh sao thưa
Ngồi tựa lan can ngắm
Mặt hồ gươm phẳng lặng như tờ
...Bao giờ quên được
Hình ảnh lúc chia phôi
Khăn là ướt đẫm
Ly biệt đôi đàng dòng lệ rơi.

Đoàn Chính Thuần là một vương gia phong nhã, có riêng một thư pháp. Chính nhờ đó, Tiêu Phong đã đối chiếu nét chữ trên bài từ với nét chữ của một nhân vật ẩn danh được gọi là "Thủ lĩnh đại ca" trong lá thư viết về truyện giết cha ông ngoài Nhạn Môn Quan và biết Đoàn Chính Thuần không phải là người chủ mưu vụ giết cha mình.

Thơ luôn gắn liền với tình yêu, đặc biệt là những mối tình dang dở. Gần như Kim Dung tôn trọng triệt để mô thức đó... Trong Tiếu ngạo giang hồ, Lệnh Hồ Xung và Nhạc Linh San thương yêu nhau. Rồi một người thứ ba - Lâm Bình Chi - hiện ra và Nhạc Linh San say mê Lâm Bình Chi, phụ rẫy mối tình của Lệnh Hồ Xung. Nàng lấy Lâm Bình Chi khi Lâm Bình Chi đã tự thiến (dẫn đao tự cung) để luyện Tịch tà kiếm phổ. Biết chồng mình không còn là đàn ông nữa, Nhạc Linh San đau đớn nhớ thương chàng Lệnh Hồ Xung. Cô đã đề lên trên tấm vải một bài thơ của danh sĩ Lý Thương Ẩn, mượn thơ người để biểu đạt tâm trạng của mình:

Nhớ xưa luyến ái Hàn công tử
Xương trắng thành tro hận chửa tan.

Ngày Nhạc Linh San chết đi, Lệnh Hồ Xung trở về núi Hoa Sơn. Anh vào căn phòng riêng của Nhạc Linh San và đọc được hai câu thơ ấy, biết được tâm trạng Nhạc Linh San và cảm thấy thương yêu cô gái bất hạnh hơn bao giờ hết.
Cũng trong Tiếu ngạo giang hồ, ta đọc được những câu thơ bình dân khá nổi tiếng của người Trung Hoa. Gần như bọn giang hồ hào sĩ thường lấy những câu thơ nầy làm câu cửa miệng, đọc lên trong những tình huống thích hợp. Thí dụ khi chia tay nhau họ đọc:

Thanh sơn bích thuỷ
Hậu hội hữu kỳ
(Non xanh trơ đó
Nước biếc vẫn đây
Còn ngày gặp gỡ)

Hay khi khuyên ai xuống tay giết một người, họ thường đọc hai câu thơ:

Tiểu lượng phi quân tử
Vô độc bất trượng phu
(Lượng nhỏ chẳng thành người quân tử
Không độc sao nên đấng trượng phu)

Những câu thơ thông tục, đặt đúng vào vị trí trong văn cảnh, đã làm tác phẩm tăng thêm chất văn học.
Thơ luôn gắn liền với kinh điển của các tôn giáo, bang hội. Trong kinh của Báo hoả giáo Ba Tư, có đến trên 100 bài thơ của Nga Mạc, đã được nhà thơ Quách Mạt Nhược dịch ra bản Quan thoại. Kim Dung đã khéo léo sử dụng một bài thơ ngắn nói về số phận con người, gắn bài thơ đó vào thân phận Tiểu Siêu, cô gái lai Ba Tư - Trung Hoa trong Ỷ thiên Đồ long ký. Tiểu Siêu thương yêu Trương Vô Kỵ nhưng không hề nói lên lòng thương yêu đó. Cô chỉ vẫn thường hát cho anh nghe:

Lai như lưu thuỷ hề, thệ như phong
Bất tri hà xứ lại hề, hà sở chung

Chỉ có 17 chữ nhưng bài thơ cực kỳ hàm súc. Tôi xin tạm dịch:

Chợt đến như dòng nước chảy
Rồi tàn như gió thoảng mau
Chẳng biết từ nơi nào đến
Và chẳng biết tàn nơi đâu.

Cho đến khi Tiểu Siêu hôn Trương Vô Kỵ, từ biệt anh để trở về Ba Tư, Trương Vô Kỵ mới khám phá ra ý nghĩa của tình yêu nằm trong lời kinh Bái hoả giáo. Cuộc đời con người ngắn ngủi thì tình yêu cũng thế; cũng Lai như lưu thuỷ hề, thệ như phong và bất tri hà xứ lai hề, hà sở chung. Tôi cho đoạn Tiểu Siêu chia tay Trương Vô Kỵ trên biển là đoạn hay nhất, giàu chất thơ nhất trong cả 12 pho tiểu thuyết đồ sộ của Kim Dung.

Thơ chính là Đạo. Kim Dung muốn bạn đọc của mình nhận ra điều ấy. Ông đã để cho những nhân vật của mình xuất khẩu thành thơ, ngôn từ đơn giản nhưng ý tứ - cái Đạo bên trong - lại rất bao la, thâm diệu. Thí dụ như bài thơ của nhà sư Trí Quan đọc cho Kiều Phong khi nghe Kiều Phong lên núi thiên thai, chùa Chỉ Quán, yết kiến ông và hỏi thăm gốc gác của mình. Tự thâm tâm, Kiều Phong rất xấu hổ, rất đau đớn vì mình là người Khiết Đan; mình không thuộc dân tộc Hán. Nhà sư Trí Quan đã giải quyết mối ưu tư nội tại của Kiều Phong bằng một bài thơ mang chất thiền mênh mông:

Khiết Đan với Hán nhân
Bất luận giả hay chân
Ân oán cùng vinh nhục
Không hơn đám bụi trần

Kim Dung đã đẩy tiểu thuyết của mình đi đến bờ cõi bao la của triết học. Và tuỳ trình độ nhận thức, cảm thụ; các nhân vật của ông ngộ hay không ngộ vấn đề. Tất nhiên, bài thơ như thế này rất gần gũi với con người, không đến nỗi bí hiểm như những công án của Thiền tông.

Trong 12 pho tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, thơ Trung Hoa và thơ của Kim Dung xuất hiện đều đặn. Nó trung hoà với tính chất sắt máu của cuộc đấu tranh chánh - tà, thể hiện cái hồn của văn học tiểu thuyết chương hồi truyền thống. Nó kết hợp với thư pháp (phép viết chữ), hình thành nên những pho võ công cho phán quan bút, kiếm pháp, chưởng pháp. Nó làm nên tố chất lãng mạn cho tình yêu, chất triết lý cho tôn giáo, chất trí tuệ cho đời sống. Đưa thơ vào truyện kiếm hiệp như ông quả là thủ pháp của một nhà văn cao cường. Có thể nói, Kim Dung đã vượt xa những bậc tiền bối của mình trong hệ tiểu thuyết chương hồi Minh Thanh. Điều này cũng rất dễ hiểu bởi Kim Dung là một nhà thơ có tài và tài năng của ông thực sự phát triển rực rỡ khi người tình Hạ Mộng ra đi khỏi vòng tay ông.

Hansy
19-03-2013, 07:49 AM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

12.
NGÔN NGỮ BÌNH DÂN


Trước hết, ngôn ngữ văn chương là ngôn ngữ nghệ thuật. Tuy nhiên, không ai cấm nhà văn đưa vào hệ thống ngôn ngữ bình dân, đặc biệt là ngôn ngữ thoá mạ, vào trong tác phảm của mình. Có nhiều khi, một từ thoá mạ thô thiển, thậm chí tục tĩu, nằm đúng vào ngữ cảnh của câu văn hoặc tình huống của chương hồi lại tạo ra được yếu tố nghệ thuật bất ngờ, thú vị cho văn chương.

Đọc văn chương Trung Hoa, chúng ta bắt gặp ngôn ngữ thóa mạ gần như là yếu tố khá phổ biến, bàng bạc trong tác phẩm. Bộ tiểu thuyết sử thi Tây Hán chí (Hán Sở tranh hùng) có nhiều đoạn mô tả phương pháp thoá mạ mà các tường lĩnh của Hán vương Lưu Bang và Tây Sở bá vương Hạng Vũ đùng để chửi bới lẫn nhau với mục đích chọc giận kẻ thù, buộc kẻ thù không chịu nhục được, phải mở cửa thành ra đánh. Gặp kẻ thù ngoan cố, chịu nhục giỏi, các tướng lĩnh còn ra lệnh cho bọn mạ thủ (chuyên chửi) cưởi truồng ra mà thoá mạ. trong AQ chính truyện, Lỗ Tấn đã cho phép nhân vật AQ của mình thực hiện phép “thắng lợi tinh thần”, thình thoảng cũng thoá mạ cũ Triệu, Vương râu xồm, Đôn oắt tì và Tây giả cầy: “Mày là cái thứ đồ gì? Con ông về sau còn hơn gấp mười lần mày” hoặc “Nó đánh mình như đánh bố nó”. Văn chương của Kim Dung là thế giới của bọn hào sĩ giang hồ; trong đó một nửa là bàng môn tả đạo, bắt gà, trộm chó, cướp của, giết người, lại bất học vô thuật nữa cho nên chuyện thoá mạ đối với họ như cơm bữa.

Bộ Hiệp khách hành là bộ tiểu thuyết có lối thóa mạ kỳ lạ nhất. Mỗi khi nghĩ đến tình địch, Mai Phương Cô thoá mạ con của Thạch Thanh và Mẫn Nhu là Cẩu Tạp Chủng, kêu tên Cẩu Tạp Chủng chửi mấy tiếng cho đỡ buồn. Đối với người đàn bà ghen uông ghê gớm này, một nửa Thạch Phá Thiên có chất người của Thạch Thanh, một nửa còn lại có chất “chó má” của Mẫn Nhu! Cậu bé phải mang cái tên Cẩu Tạp Chủng cho đến năm 20 tuổi mới biết được tên mình là Thạch Phá Thiên.

Thiên Long bát bộ cũng có một hệ thống ngôn ngữ thoá mạ phong phú. Một nhà sư trẻ Phật lực cao cường, kinh điển tinh thông, lòng dạ đoan chính như Hư Trúc cũng bị Thiên Sơn Đồng Mỗ cung Linh Thứu núi Phiêu Diễu thoá mạ là “xú hoà thượng, sư chết chém, thầy chùa chết đâm”. Bọn “quần tiên” 36 động 72 đảo là một phường bàng môn tả đạo ô hợp; đàn ông thì tự xưng là “lão gia, lão tử”, đàn bà thì tự xưng là “lão nương”. Bọn đệ tử của Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu thì tán tụng thầy: “Tinh Tú lão tiên thần thông quảngđại thiên hạ vông song. Lão gia đá một phát như trời long đất lở, vẫy tay một cái nhật nguyệt lu mờ” và đối với các phài khác, bọn họ coi chẳng ra gì. Thế như khi Đinh Xuân Thu bị Hư Trúc đánh ngã, cả bọn lại nịnh Hư Trúc và quay ngược thoá mạ Đinh Xuân Thu: “Ánh lửa đom đóm mà dám tranh sáng với mặt trời mặt trăng. Ngươi là kẻ tiểu nhân gian tà, độc ác”. Kiểu thoá mạ như vậy gây cho người đọc những nụ cười thú vị về thói nịnh, thói xu viêm phụ nhiệt.

Mà không chỉ có bọn đàn ông mới thoá mạ. Trong Thiên Long bát bộ, Kim Dung còn xây dựng một hình tượng phụ nữ khá độc đáo: nàng hoa khôi Ôn Khang, vợ Mã Đại Nguyên. Người đàn bà đẹp này bình thường khép nép, nghiêm cẩn, rõ ra khí tượng của một thiếu phụ khả kính. Nhưng trước khi nàng ta chết, người đọc mới hiểu ra rằng nàng là kẻ dâm loạn với Đoàn Chính Thuần, Bạch Thế Kính. Trước khi chết, Ôn Khang còn ráng thu hết tàn lực thoá mạ Kiều Phong một hồi với mới ngon ngữ vừa tục tĩu vừa độc ác. Và càng thoá mạ, đôi mắt nàng càng sáng lên, gương mặt lại có vẻ cao hứng, phấn khởi!

Bọn quần hào bốn châu Tề, Lỗ, Dự, Ngạc trong Tiếu ngạo giang hồ có trình độ thoá mạ cũng thuộc hạng thượng thừa. Chúng kết hợp với Đào Cốc lục tiên cùng một giuộc, hễ mở miệng ra là “con mẹ nó, 18 đời tổ tôn quân rùa đen, phường đê tiện”. Đặc biệt ngôn ngữ thóa mạ còn được dùng như mộ thứ mật khẩu để nhận ra nhau. Lệnh Hồ Xung, chưởng môn Hằng Sơn, bị bọn đệ tử Tung Sơn từng bị chàng đâm mù mắt vây hãm trong hang động tối đen núi Hoa Sơn, tìm mọi cách để giết chàng. Khi phóng kiếm ra trong bóng tối, họ thường chửi: “Cút con bà mày đi!”. hoá ra, đó là mật khẩu để nhận ra nhau. Lệnh Hồ Xung thoá chết nhờ biết học và dùng câu “Cút con bà mày đi!”. Những kẻ khiếm thị kia cứ ngỡ chàng là đồng bọn! (Tiếu ngạo giang hồ).

Nhưng không ở tác phẩm nào, ngôn ngữ thóa mạ được hệ thống hoá một cách tinh xảo và nâng cao thành ngôn ngữ văn học lạ lùng như trong Lộc Đỉnh ký. Vi Tiểu Bảo Xuất thân từ Lệ Xuân viện thành Dương Châu, 13 tuổi đã lĩnh hội trọn vẹn mớ ngôn ngữ tục tĩu của khách làng chơi và đám kỹ nữ. Khi được vào trong cung nhà Thanh, hắn lại được tu nghiệp thêm với bọn thái giám và thị vệ, trở thành một chuyên gia thoá mạ hạng nhất. Hắn gọi Tổng quản thái giám là “Hải lão con rùa”, gọi thái hậu là “mụ điếm già”, gọi công chúa Kiến Ninh là “con đượi non”, gọi Ngô Tam Quế là “đại Hán gian”, gọi Ngô Ứng Hùng là “tiểu Hán gian”. Tiến quân ra biên giới Đông Bắc đánh nhau với nước Nga, hắn gọi quân Sa hoàng là “bọn quỷ Hồng mao”. Bắt được một số hàng binh Nga, hắn buộc những người này phải ra trận làm mạ thủ, chửi bới viên tư lệnh quân Nga là Á Nhĩ Thanh Tư Cơ, chọc giận cho quân Nga khai thành tiếp chiến. Tuy nhiên, hắn cực kỳ thất vọng khi hàng binh Nga chỉ biết chửi “người là đồ heo, đồ chó”. Hắn vỡ lẽ ra rằng về phương pháp và nội dung thóa mạ, người Trung Quốc cao cường hơn người Nga; câu văn phong phú hơn mà tiết tấu cũng nhịp nhàng hơn. Nghệ thuật chửi bới của Vi Tiểu Bảo xuất thần nhập hóa đến nỗi hai ông thầy của hắn cũng theo học mớ ngôn ngữ tào lao đó. Vua Khang Hy và trần Cận Nam cũng theo cách chửi của Vi Tiểu Bảo, chửi tục. Chửi cho vui!
Văn chương là sự phản ánh cuộc sống xã hội nhất định trong một giai đoạn nhhất định. tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung nói về bọn hào sĩ giang hồ thời phong kiến. Mà cái mặt bằng văn hóa thời phong kiến của xãn hội Trung Hoa quá thấp, là sản phẩm của một nền kinh tế nhỏ và lạc hậu. Chính trong một xã hội như vậy, việc đưa ngôn ngữ thóa mạ vào miệng nhựng nhân vật của mình là một cái gì hết sức tự nhiên. Vấn đề còn lại là ngôn ngữ thóa mạ ấy hiện ra trong ngữ cảnh nào, trong trường hợp nào. Kim Dung đã làm một chuyện hết sức tài hoa: việt được những bộ tiểu thuyết trường thiên, giàu tính nghệ thuật bằng sự pha trộn ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân, trong đó có ngôn ngữ thoá mạ.

Ông sáng tác tiểu thuyết tại Hongkong, nhưng văn chương Quan thoại trong tác phẩm của ông cực kỳ trong sáng và nghệ thuật: rất gần gũi với Quan thoại Trung Quốc. Tháng 1/1995, ông về Bắc Kinh diễn thuyết và nhận hàm giáo sư danh dự Đại học Bắc Kinh; các học giả Trung Hoa đã ca ngợi cách thể hiện của Kim Dung, coi ông là nhà văn lớn của nền văn chương Quan thoại hiện đại. Kim Dung đã biết dung nạp cái nhã và cái tục, sử dụng cái tục để tạo ra cái nhã. Thủ pháp diễn đạt của ông là thủ pháp của nhà văn thượng thừa. Có lẽ vì thế mà hôm nay, 12 bộ tiểu thuyết của ông đã được các nhà xuất bản Trung Quốc in lại và được bày bán, trân trọng đón nhận trên toàn cõi Trung Hoa. Kim Dung có thêm cả tỷ độc giả chính thức.

Hansy
19-03-2013, 06:33 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI


13.
SỐ PHẬN NHỮNG BỘ SÁCH


Trước khi là một nhà văn viết tiểu thuyết võ hiệp, Kim Dung đã là nhà văn hóa. Và là một nhà văn hóa cho nên ông rất chú trọng đến các vấn đề văn hóa, đặc biệt là các vấn đề về thế giới sách. Ông đã dành cho sách một vị trí khá quan trọng, không phải chỉ trong những bài viết trên tờ Minh báo mà còn ngay trong tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp vốn đầy tính đấu tranh của giới võ lâm. Ta có thể tìm trong thế giới võ hiệp của ông một thế giới vế sách và số phận của những bộ sáfch đó cũng đầy sóng gió như số phận những nhân vật chính trong tác phẩm của ông.

Một cách khái quát, Kim Dung có cách gọi tên sách rất phong phú. Sách được gọi là Thư; như bộ Võ Mục di thư của Nhạc Phi (tức Nhạc Võ Mục) giấu trong bảo đao Đồ Long (Ỷ thiên Đồ long ký), bộ Minh thư tập lược của Cố Viêm Võ và Tra Y Hoàng (Lộc Đỉnh ký). Sách được gọi là Phổ; như Tịch tà kiếm phổ của nhà họ Lâm ở Phúc Châu (Tiếu ngạo giang hồ), Cầm phổ và Tiêu phổ của khúc hợp tấu Tiếu ngạo giang hồ. Sách được gọi là Kinh; như Thần chiếu kinh của Đinh Điển (Liên thành quyết), Lục mạch thần kiếm kinh của chùa Thiên Long và Dịch cân kinh của chùa Thiếu Lâm (Thiên Long bát bộ), Tứ thập nhị chương kinh của Bát kỳ triều Thanh (Lộc Đỉnh ký), Dược vương kinh (Phi hồ ngoại truyện). Sách được gọi là Điển, như Quỳ hoa bảo điển (Tiếu ngạo giang hồ). Sách được gọi là Lục, như bộ Tử hà bí lục của phái Hoa Sơn (Tiếu ngạo giang hồ). Sách được gọi là Tâm pháp, như bộ Càn không đại nã di tâm pháp (Ỷ thiên Đồ Long ký). Sách được gọi là Ký, như Minh giáo lưu truyền Trung thổ ký của Dương Tiêu viết về quá trình hình thành Bái hỏa giáo (Minh giáo) ở đất Trung Hoa (Ỷ thiên Đồ Long ký).

Những bộ sách mà Kim Dung đề cập đến được ghi chép với nhiều dạng văn tự khác nhau trên những phương tiện khác nhau. Vũ Mục di thư, Cửu âm chân kinh chép bằng chữ Hán (khải thư) trên những tờ giấy (hay lụa ???) mỏng vàng khè. Lục mạch thần kiếm kinh chép bằng chữ Hán, có đồ hình hướng dẫn chép trên lụa quý. Tịch tà kiếm phổ lại chép trên áo cà sa. Dịch cân kinh chép bằng tiếng Phạn (Sanskrit) trên giấy. Hấp tinh đại pháp của Nhậm Ngã Hành mà Lệnh Hồ Xung học được được khắc trên tảng sắt nằm trong nhà ngục ở Thái Hồ. Võ công phái Tiêu Dao (Thiên Long bát bộ) hay công phu Hiệp khách hành (Hiệp khách hành) được khắc trên đá). Càn không đãi nã di tâm pháp được chép trên tấm da dê. Võ công Minh giáo Ba Tư được khắc bằng tiếng Ba Tư (Presian) trên 6 tấm Thánh hỏa lệnh dài ngắn khác nhau, xương không ra xương, ngà không ra ngà. Nói cách khác, những bộ sách mà Kim Dung đề cập đến khá phong phú về văn tự, đa dạng về vật liệu làm sách.

Ngay cả cách chép sách cũng lạ: phải vận chỉ công để khắc chữ trên sắt (Hấp tinh đại pháp trong Tiếu ngạo giang hồ); phải đem Thánh hỏa lệnh nhúng vào một lớp sáp rồi viết chữ lên lớp sáp và dùng cường toan (acide) đồ theo những chữ đã viết mới ra tự dạng trên Thánh hỏa lệnh.

Sách đã lạ, cách đọc sách càng lạ hơn. Lệnh Hồ Xung sẽ không đọc được Hấp tinh đại pháp nếu không cởi trần truồng nằm trên tấm sắt cho những chữ khắc đó hằn lên da thịt. Trương Vô Kỵ sẽ không hiểu được võ công Ba Tư nếu như Bảo Thụ vương của Ba Tư không bị đánh Thánh hỏa lệnh trúng vào má cho chữ bị hằn lên để Tiểu Siêu đọc và dịch ra tiếng Hán. Vô Kỵ cũng không biết tấm da dê là Càn khôn đại nã di tâm pháp nếu Tiểu Siêu không trích máu ngón tay nhỏ vào cho chữ hiện ra. Du Thản Chi chỉ có thể lãnh hội được Dịch cân kinh khi cúi đầu xuống đất, chổng chân lên trời. Tựu trung, những bộ sách trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung mang theo nhiều điều bí ẩn khó tả, có người cầm nó trong tay nhưng chẳng biết được giá trị liên thành - chiều sâu chứa đựng trong bộ sách.

Số phận của những bộ sách được Kim Dung hư cấu trong tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp của ông đã thực sự cuốn hút người đọc, đưa người đọc đi vào một thế giới tiểu thuyết vừa siêu thực nhưng cũng rất hiện thực.

Có những bộ sách trở thành tực đề luôn cho tác phẩm. Đó là trường hợp của khúc hợp tấu cầm – tiêu Tiếu ngạo giang hồ, khúc hợp soạn của hai con người thanh nhã: Lưu Chính Phong, cao thủ Hành Sơn (bạch đạo) và Khúc Dương, trưởng lão Triêu Dương thần giáo (hắc đạo). Xưa nay, người ta vẫn sống theo công thức "hắc bạch không thể hòa, chính tà không thể gặp”. Cả Lưu Chính Phong và Khúc Dương đều muốn chứng minh rằng khúc Tiếu ngạo giang hồ của họ có thể hóa giải những biên giới của sự chia rẽ và hận thù. Kết quả là cả Phong lẫn Khúc đều bị hại bởi những con người tự xưng là danh môn chính phái. Bộ sách đó được truyền lại cho Lệnh Hồ Xung phái Hoa Sơn; mang nó trong người, chàng gặp phải không biết bao nhiêu điều đau khổ. Nhưng cũng chính Tiếu ngạo giang hồ đã đưa chàng lãng tử vô hạnh này gặp được một ngọc nữ: Nhậm Doanh Doanh, ái nữ của Giáo chủ Triêu Dương thần giáo Nhậm Ngã Hành. Họ yêu thương nhau, đến với nhau, hoá giải được biên giới chính tà, hợp tấu cầm tiêu Tiếu ngạo giang hồ đi đến chỗ tâm linh tương thức - điều mà hai vị tiền bối Lưu – Khúc không thể làm được.

Một bộ sách khác được nhắc đến trong Tiếu ngạo giang hồ là Tịch tà kiếm phổ (sách về những đường kiếm chuyên trừ bọn tà đạo), lưu truyền một lộ kiếm pháp vô địch, tương truyền của dòng họ Lâm. Tổ họ Lâm, Lâm Viễn Đồ, xuất thân là tiêu sư, có được kiếm phổ phải “dẫn đao tự cung” (tự thiến) luyện thành. Kiếm pháp Tịch tà quá đỗi độc ác, ông ta chép lại vào áo cà sa, đi tu và dặn con cháu không được dở ra coi. Con ông là Lâm Chấn Nam võ công tầm thường, bị phái Thanh Thành của Dư Thương Hải tấn công nhằm đoạt Tịch tà kiếm phổ mà không đánh trả được. Cuối cùng, kiếm phổ bị chưởng môn phái Hoa Sơn Nhạc Bất Quần đoạt được. Một mặt, Nhạc liền “dẫn đao tự cung” để luyện, mặt khác lão vu cáo cho học trò là Lệnh Hồ Xung ăn cắp Tịch tà kiếm phổ. Khi Nhạc luyện xong, vứt áo cà sa đi thì Lâm Bình Chi, con trai Lâm Chấn Nam, lấy được và cũng ngay lập tức… “phăng teo” để luyện. Nhạc nghi ngờ, gả con gái là Nhạc Linh San cho cho Lâm và thường xuyên theo dõi xem con gái mình có được “hạnh phúc” hay không. Lâm Bình Chi đã “tự cung” thì làm sao có thể chăn gối được. Nhưng Nhạc Linh San đã cứu mạng Lâm Bình Chi: cô trả lời rằng Lâm đối với cô rất tốt. Nhạc Bất Quần tin lời đó mới tha mạng cho Lâm Bình Chi. Nhưng cuối cùng, Lệnh Hồ Xung với Độc Cô cửu kiếm vẫn đánh bại Tịch tà kiếm pháp “vô địch”. Bộ Tịch tà kiếm phổ đó đã khiến ba con người thân bại danh liệt: Nhạc Bất Quần, Lâm Bình Chi và Tả Lãnh Thiền, chưởng môn phái Tung Sơn. Đúng ra, phải gọi nó là Tà môn kiếm phổ.

Những pho sách mà Kim Dung đề cập đến trong tác phẩm của ông có khi là sản phẩm tưởng tượng, cũng có khi là sản phẩm thực tế được lồng vào cốt truyện. Vũ Mục di thư (trong Ỷ thiên Đồ Long ký), Dịch cân kinh (trong Thiên Long bát bộ), Tứ thập nhị chương kinh và Minh thứ tập lược (trong Lộc Đỉnh ký)… là những tác phẩm có thực trong lịech sử văn hóa Trung Hoa. Dù là sản phẩm hư cấu hay sản phẩm thực tế, Kim Dung đã khoác cho những bộ sách của mình một hành tung kỳ bí, một số phận oái oăm, khiến người đọc càng cảm thấy thú vị.

Thí dụ như trường hợp bộ Tứ thập nhị chương kinh, một bộ kinh Phật thông thường mà mọi người Trung Hoa đều có thể biết, trong Lộc Đỉnh ký. Bát kỳ Mãn Châu tấn công Trung Nguyên, tiêu diệt nhà Minh. Hoàng đế Thanh triều Thuận Trị đã giao cho các thủ lĩnh Bát kỳ tám quyển Tứ thập nhị chương kinh, mỗi quyển có bìa sách đúng như màu cờ của Bát kỳ: Bạch kỳ bìa trắng, Hắc kỳ bìa đen, Hồng kỳ bìa đỏ, Thanh kỳ bìa xanh… Tám quyển kinh đó có gì đặc biệt? Có! Thuận Trị đã cắt nhỏ một bản đồ khu vực Oa Tập Sơn (tiếng Mãn; tiếng Hán là Lộc Đỉnh Sơn) rồi chia các miếng vải đã cắt vào trong bìa sách, chia cho Bát kỳ. Thuận Trị dặn con cháu: “Nếu không giữ được thiên hạ (tức đất Trung Nguyên) thì ta ở đâu hãy trở về nơi đó”.

Có ít nhất năm thế lực tìm mọi cách để cướp cho được bí mật trong tám quyển Tức thập nhị chương kinh. Đó là hoàng đế Khang Hy, con Thuận Trị. Đó là Cửu Nạn sư thái, nguyên là công chúa Hồng Anh, con vua Sùng Trinh triều Minh. Đó là bọn Thần long giáo, một giáo phái bí mật thông đồng với người La Sát (tức Nga Ta Lư). Đó là Thiên Địa hội, một tổ chức phản Thanh phục Minh do Trần Vĩnh Hoa (Trần Cận Nam) là Tổng đàn chủ. Và đó là Ngô Tam Quế, phản thần triều Minh, được nhà Thanh phong tước Bình Tây vương, trấn vùng Vân Nam. Mỗi thế lực đều tin rằng tấm bản đồ giấu trong tám bìa sách có bí mật riêng. Khang Hy muốn có để đốt đi, bảo vệ long mạch của tổ tiên tại Hắc Long Giang, Lộc Đỉnh Sơn miền Đông bắc Trung Quốc. Bọn Cửu Nạn sư thái và Thiên Địa hội thì muốn phá long mạch của nhà Thanh để đuổi người Mã ra khỏi Trung Nguyên, trả thù cho vua Sùng Trinh và khôi phục nhà Minh. Thần long giáo thì lại tin rằng bản đồ vẽ sơ đồ kho báu… Cuối cùng cả tám quyển Tứ thập nhị chương kinh lọt hết vào tay Vi Tiểu Bảo. Hắn lấy hết các mảnh vải nhỏ sai nữ tì Song Nhi kết lại thành một bản đồ hoàn chỉnh. Hắn giữ lại bản đồ cho mình còn các pho Tứ thập nhị chương kinh thì được may bìa lại để biếu cho Khang Hy, Trần Cận Nam (thầy của Vi Tiểu Bảo) và Cửu Nạn sư thái (cũng là thầy của Vi Tiểu Bảo!).

Một số nhân vật của Kim Dung là văn gia nên đi đâu họ cũng mang sách theo. Sách trở thành vũ khí trong chiến đấu chống kẻ thù, tranh biện với kẻ khác. Nhân vật Chu Đan Thần, một trong Tứ Đại Vệ Hộ nước Đại Lý, có nhiệm vụ bảo vệ Trấn Nam vương Đoàn Chính Thuần, đi đâu cũng cầm theo các tập thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ. Trước khi chiến đấu, Chu hay ngâm thơ! Trong Thiên Long bát bộ, Chu thường cùng bàn luận thi ca với Đoàn Dự, con Đoàn Chính Thuần. Nhân vật Thư ngai Cẩu Độc (Đồ gàn đọc sách lung tung) trong nhóm Hàm Cốc bát hữu ra trận thường… lục túi, đem sách ra… đấu võ miệng. Trong trận đụng độ với nhà sư Huyền Thống chùa Thiếu Lâm, Cẩu Độc đã đem đủ các sách Luận ngữ, Mạnh Tử ra chất vấn Huyền Thống. Huyền Thống vẫn mặc kệ, đánh tràn. Sực nhớ nhà sư không đọc sách đạo Nho, Cẩu Độc đổi sang trích dẫn kinh điền đạo Phật: “Bể khổ mênh mông, quay đầu là bờ”, khiến Huyền Thống chợt ngừng trận đấu. Nhà sư chợt ngộ Thiền cơ trong câu nói đó và viên tịch ngay tại chỗ với nụ cười thư thái giải thoát trên môi.

Sách của Kim Dung đã đề cập đến trong truyện võ hiệp đương nhiên là sách quý, giá trị khôn gbiết bao nhiêu mà lường. Trong Ỷ thiên Đồ Long ký, nhà sư Giác Viễn trước khi chết, đọc một vài đoạn thuộc long trong bộ Cửu dương chân kinh. Quách Tương học lóm vài đoạn mà đã có thể dựng nên phái Nga Mi; Trương Quân Bảo cũng chỉ thuộc vài đoạn mà dựng nên phái Võ Đang. Bọn Doãn Khắc Tây, Tiêu Tương Tử ăn cắp từ chùa Thiếu Lâm bộ sách này, rạch bụng con vượn mà nhét vào. Trước khi chết, chúng di ngôn lại cho Hà Túc Đạo núi Côn Lôn là “kinh để trong hầu”. Hà Túc Đạo nghe gà hóa cuốc, nói lại với phái Thiếu Lâm là “kinh để trong dầu”! Chỉ sau này, khi Trương Vô Kỵ giải phẫu cho con vượn già mới tìm lại được bộ sách trân quý của chùa Thiếu Lâm.

Sách quý nên việc bảo quản cũng rất công phu. Những nơi chứa sách được gọi là tàng kinh lâu, tàng kinh các, có quy định rất nghiêm ngặt, cấm người lạ lai vãng. Càng cấm nên sách càng gợi trí tò mò. Từ đó xuất hiện những kẻ ăn cắp sách. Trong Thiên Long bát bộ, nhà sư Ba La Tinh từ Thiên Trúc đến chùa Thiếu Lâm ăn cắp sách, bị phát hiện và bị giam lỏng tại chùa Thiếu Lâm. Tiêu Viễn Sơn, dòng quốc thích Khất Đan, đột nhập vào Tàng kinh các Thiếu Lâm đọc lén võ kinh và học võ công Trung Quốc để trả thù cho vợ. Mộ Dung Bác, tộc Tiên Ty, hậu duệ hoàng tộc Đại Yên thời Thập lục quốc cũng từng đột nhập Thiếu Lâm học lén 72 tuyệt kỹ Thiếu Lâm, trá tử, ẩn nhẫn nuôi mộng trung hưng nước Đại Yên.

Những nhân vật của Kim Dung thường có trí nhớ rất tuyệt vời. Vương Ngữ Yên thuộc làu các sách võ trong thiên hạ, trở thành nhân vật ai cũng hâm mộ. Đoàn Dự chỉ xem qua Lục mạch thần kiếm kinh một lần tài chùa Thiên Long mà tâm đã lãnh hội trọn vẹn. Trong 12 bộ tiểu thuyết của Kim Dung, chỉ có một nhân vật ghét sách thậm tệ, thấy sách và chữ nghĩa là mắt hoa đầu váng. Đó là Vi Tiểu Bảo, Lộng Đỉnh công triều Khang Hy. Vốn hắn dốt đặc cán mai, chỉ thích chơi gái, đánh bạc, uống rượu, nói tục. Ấy thế mà trời lại trao cho hắn tám quyển Tứ thập nhị chương kinh!
Sách chiếm một vai trò rất lớn trong các bộ tiểu thuyết võ hiệp. Kim Dung đưa các bộ sách vào, tạo cho tác phẩm của mình những tình tiết hấp dẫn, nhữhng mâu thuẫn lạ lùng. Ở chừng mực nào đó, sách làm nên chất văn hóa cho tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp vốn nặng về âm mưu, thủ đoạn, sự tranh đấu, sự giết chóc. Chỉ ngay trong khía cạnh đưa sách vào tiểu thuyết võ hiệp, Kim Dung đã là một bậc thầy trong văn chương tiểu thuyết hiện đại.

Hansy
20-03-2013, 08:11 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

14.
“THỜI TRANG”


Thời trang là khái niệm xuất hiện trong thời đại của chúng ta. Trong xã hội phong kiến Trung Quốc ngày xưa không thể có khái niệm thời trang, đơn giản là vì thời ấy chưa hề có người mẫu với những kiểu quần áo mẫu được đưa lên sân khấu biểu diễn cho đông đảo quần chúng mô phỏng theo đó mà may mặc. Tuy nhiên, “ăn theo thuở, ở theo thời”, từ ngàn xưa, nhân loại đã biết cách ăn mặc để thích nghi với môi trường sống; việc ăn mặc trở thành một nhu cầu phổ quát ở mọi nơi và vào mọi thời đối với mọi dân tộc. Tác phẩm tiểu thuyết Kim Dung cũng không thoát ra khỏi quy luật phổ quát đó. Căn cứ vào cách ông miêu ta cách ăn mặc của những nhân vật trong 12 bộ tiểu thuyết võ hiệp, ta có thể nhận định về khái niệm “thời trang” như là một thực tế có thật trong các tác phẩm đó.

Có những hình thái thời trang tập thể được nhà văn Kim Dung miêu tả sát với thực tế vì nó bắt nguồn từ những quy luật của các bang hội, tôn giáo của võ lâm Trung Quốc. Đó là những hình thái thời trang mang tính bó buộc và tuyệt đối.

Trong Ỷ thiên Đồ long ký, Kim Dung miêu tả giáo chúng Minh giáo (Manichéisme) luôn luôn mặc bộ áo choàng dài màu trắng, ngực áo trái và tà áo bên phải có thêu một ngọn lửa đỏ. Ngọn lửa đó chính là Thhánh hỏa, biểu tượng có từ Bái hỏa giáo Ba Tư. Khi đem đạo truyền sang Trung Quốc, Hốt Đa Đán đã đổi tên Bái hỏa giáo thành Minh giáo, gọi tên các chùa là Đại Vân Quang Minh tự. Trong Hán tự, chữ Minh, gồm chữ Nhật kết hợp với chữ Nguyệt. Minh có nghĩa là sáng như mặt trời, mặt trăng và sáng là yếu tính của ngọn lửa.

Trong 12 bộ tiểu thuyết của Kim Dung thì đã có 10 bộ ông nhắc đến các vị sư chùa Thiếu Lâm, thuộc ngọn Tung Sơn, tỉnh Hồ Nam. “Thời trang” của các nhà sư rất dễ nhận ra: ngày lễ các vị đại sư tiền bối mặc tăng y đại hồng, ngày thường mặc cà sa màu vàng; những lớp đệ tử nhỏ hơn mặc tăng y màu xám hoặc nâu. Trong Tiếu ngạo giang hồ có những đoạn Kim Dung đề cập đến phái Thanh Thành ở vùng Tứ Xuyên xuống Phúc Châu hoạt động. Họ mặc một màu áo xanh, và đặc biệt nhấ là luôn luôn đội khăn trắng trên đầu. Kim Dung thật tinh tế khi đưa ra chiếc khăn trắng ở đây! Đất Tứ Xuyên nguyên thuộc về đất Ba Thục của Lưu Bị thời Tam Quốc. Khổng Minh là quân sư của Lưu Bị, được nhân dân Ba Thục kính trọng như thần minh. Khi ông chết đi, cả một dải Ba Thục đều để tang. Tục lệ ấy kéo dài qua 17 thế kỷ và cho đến nay, người Tứ Xuyên ra đường vẫn còn quấn khăn trắng!

Trong Thiên Long bát bộ, Kim Dung có nhắc tới quần nữ cung Linh Thứu, núi Phiêu Miễu. Đây là vùng giáp giới sa mạc Qua Bích (Gobi). Họ mặc áo trường bào màu xanh lục, cưỡi lạc đà. Lối trang phục đó giúp họ dễ nhận ra nhau trên sa mạc chỉ có một màu cát vàng mênh mông. Trong Lộc Đỉnh ký, Thần long giáo chia làm Ngũ kỳ (5 sắc cờ); mỗi kỳ có một màu áo riêng: Thanh long mặc áo xanh, Hắc long áo đen, Xích long áo đỏ, Bạch long áo trắng và Hoàng long áo vàng.

Nếu thời trang tập thể mang tính bó buộc, quy luật thì thời trang cá nhân lại hết sức linh hoạt, tự do, đặc biệt là ở những nhân vật nữ. Nhân vật nữ trung hào kiệt của Kim Dung luôn luôn có nhu cầu làm đẹp và thậm chí, nhu cầu đó rất cao.

Có những nhân vật nữ chỉ thích một màu áo quần và màu sắc ấy làm nên tính cách độc đáo của từng người, khiến ta không thể lầm người này với người khác. Trong Thần điêu hiệp lữ, Tiểu Long Nữ chỉ mặc toàn một màu trắng. Võ công cô học từ phái Cổ Mộ là Ngọc nữ kiếm pháp, thuần về âm nhu. Cô lâm trận, đối địch với những kẻ thù hung bạo mà người ta cứ ngỡ cô đang múa bởi màu áo trắng và những tư thức võ công nhuần nhuyễn, dịu dàng, mỹ lệ. Ngược lại, Mộc Uyển Thanh (trong Thiên Long bát bộ) lại chỉ mặc tuyền một màu đen và bịt mặt cũng bằng khăn màu đen. Người cô tiết ra một mùi hương tự nhiên man mác như hương hoa mai côi (hoa hồng) nên giang hồ thường gọi cô là Hương dược xoa. Tuy gọi “dược xoa” (xấu như quỷ sứ) nhưng thực sự, Mộc Uyển Thanh là một người đẹp trong những người đẹp nhất trong Thiên Long bát bộ.

Khá nhiều trường hợp, màu áo quần của các nhân vật nữ làm thành tên gọi của nhân vật ấy. Trong Thiên Long bát bộ, Đoàn A Châu chỉ mặc một màu đỏ, Đoàn A Tử chỉ mặc một màu tía, A Bích thì màu xanh biếc, màu xanh của vùng sông nước Giang Nam. Trong Phi hồ ngoại truyện, tiểu anh hùng Hồ Phỉ có một cô bạn 16 tuổi cực kỳ thông minh. Cô mặc áo màu tía, tự xưng họ Viên và Hồ Phỉ cứ gọi cô là Viên Tử Y (cô Viên áo tía). A Châu, A Tử, A Bích, Viên Tử Y từ màu sắc trang phục đã trở thành tên nhân vật.

Thời trang còn làm nên chức vụ, vai về của nhân vật. Trong Ỷ thiên Đồ long ký, có nhân vật Đại Ỷ Ty, một cô gái lai Ba Tư xinh đẹp, gia nhập Minh giáo Trung Quốc, lập được công lớn, đứng đầu tứ đại hộ pháp giáo vương của Minh giáo. Cô mặc áo tía nên được tôn xưng là Tử sam long vương (vua rồng áo tía), đứng trên Bạch mi ưng vương (vua ó mày bạc), Kim mao sư vương (vua sư tử lông vàng) và Thanh dực phức vương (vua dơi cánh xanh). Chiếc áo tím của nàng Đại Ỷ Ty đã làm nên chức vụ (thứ tự Tử, Bạch Kim, Thanh).

Các nhân vật nữ của Kim Dung rất chú trọng việc chăm chút vẻ đẹp. Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ, cô gái Mông Cổ, Hán danh là Triệu Mẫn, luôn luôn xuất hiện trước người tình Trương Vô Kỵ với áo khoác ngoài cổ da điêu, phía trong là trường bào bằng gấm. Triệu Mẫn là một kiểu mẫu phụ nữ lý tưởng với nhan sắc đẹp như hoa nở, trí thông minh mẫn tuệ cực kỳ và ứng xử mọi tình huống một cách nhanh nhạy. Đọc Ỷ thiên Đồ long ký, không một độc giả nào có thể chê trách được Triệu Mẫn.

rong Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung xây dựng một nhân vật nữ cự kỳ “hiện đại” so với cả ngàn nhân vật nữ khác. Đó là Lam Phượng Hoàng, người dân tộc Miêu Cương vùng Vân Nam, giáo chủ Ngũ độc giáo. Nghe tiếng chàng Lệnh Hồ Xung là chàng trai phong lưu, cô đã vượt mấy ngàn dặm từ Vân Nam về Hoàng Hà để tương kiến. Lam Phương Hoàng mặc chiếc áo lam in hoa trắng sặc sỡ, mùi hương sực nức, dám ôm cổ Lệnh Hồ Xung hôn lên má trước mặt mọi người, dám vén váy mình lên đặt con đỉa vào hút máu để truyền máu cho Lệnh Hồ Xung. Hành động tự nhiên đó đã làm cho kiếm khách Giang Phi Hồng buồn tình mà tự vận.

Những người đẹp trong truyện võ hiệp Kim Dung không hhề muốn lên sân khấu, chưa hề biết đến biểu diễn thời trang. Cá biệt, có một người muốn biểu diễn thời trang mà người đi dự không thèm để mắt đến, giận đời nên đã gây thành một vụ huyết án động trời. Đó là nàng Ôn Khang (Thiên Long bát bộ), vợ của Mã Đại Nguyên. Mã Đại Nguyên là một anh hùng hảo hán, phó bang chủ Cái bang của Kiều Phong. Trong dịp Bách hoa đại hội, Ôn Khang mặc bộ đồ lụa đẹp nhất, đứng bên cạnh chậu thược dược. Già trẻ đi ngang đó đều nhìn nàng, tim đạp rộn ràng vì không ngờ có một phụ nữ đẹp như thế. Duy chỉ có một người không nhìn đến nàng. Đó là Kiều Phong. Giận vì nhan sắc của mình không được hâm mộ, Ôn Khang xúi chồng tố cáo Kiều Phong là người Khất Đan. Mã Đại Nguyên không nghe lời, Ôn Khang âm mưu cùng Bạch Thế Kinh giết chồng bằng một thế Toả hầu cầm nã thủ rồi vu cáo cho Kiều Phogn đã giết chồng mình để bịt miệng. Quả nhiên, Kiều Phong mất ngôi Bang chủ Cái bang Trung Quốc. Sự trả thù của diêu người mẫu Ôn Khang quả thật siêu việt!

May mắn thay, đó chỉ là một trường hợp cá biệt. Nhan sắc của người đẹp trong truyện võ hiệp Kim Dung không bị đem ra bán đứng, tên tuổi của họ không bị đem ra kinh doanh, nhân phẩm của họ được tác giả bảo về cẩn mật. Trí thông minh, lòng tự trọng và nhan sắc trời ban cho đã giúp họ gặp được những chàng trai như ý, những mối tình tươi đẹp, trong sáng và chung thuỷ. Viện Tử Y với Hồ Phỉ, Hân Tố Tố với Trương Thúy Sơn, Trương Vô Kỵ với Triệu Mẫn, Lệnh Hồ Xung với Doanh Doanh, Tiểu Long Nữ với Dương Qua, Vương Ngữ Yên với Đoàn Dự… là những lức đôi thật đẹp. Ở một nghĩa hết sức biểu tượng, Những lứa đôi đó góp phần làm nên khái niệm anh hùng và giai nhân, giấc mơ lý tưởng của văn học nghệ thuật ngày xưa và hôm nay.

Hansy
22-03-2013, 09:48 AM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

15.
NHỮNG NHÂN VẬT QUÁI DỊ

Khái niệm nhân vật quái dị không phải là khái niệm do chúng tôi tạo ra mà là một khái niệm nằm trong văn chương tiểu thuyết của Kim Dung tiên sinh. Văn chương của ông thường có các cụm từ "trông lão thật là quái dị" hoặc "khuôn mặt của gã thật là quái dị". Tuy viết như thế nhưng khái niệm quái dị không ngừng lại ở chỗ mô tả ngoại hình, động tác. Khái niệm quái dị đi vào chiều sâu nhân cách của các nhân vật, chủ yếu đưa ra những cách sống, cách tư duy khác đời và lắm khi, đi ngược lại cái lẽ thường của cuộc sống.

Trong Tiếu ngạo giang hồ, ta bắt gặp nhân vật quái dị tiêu biểu là Tiêu tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh. Thân danh là chưởng môn của phái Hành Sơn, Mạc Đại luôn luôn ăn mặc rách rới như một gã Cái bang, chơi một cây dao cầm (hồ cầm) cũ kỹ và miệng luôn hát bài Tiêu Tương dạ vũ (mưa đêm trên bến Tiêu Tương). Thế nhưng, trong đáy cây dao cầm của tiên sinh có dấu một cây kiếm lưỡi mỏng như lá lúa, rất lợi hại. Mạc Đại được xưng tụng là "cầm trung tàng kiếm, kiếm phát cầm âm" (trong đàn có dấu một cây kiếm, và khi múa kiếm thì lại phát ra tiếng đàn). Khi tiên sinh rút kiếm ra khỏi cây đàn, vận công vào thân cây kiếm khiến kiếm khí phóng ra veo véo nơi đầu mũi. Với "Hành Sơn vân tụ thập tam thức", chưa có một đối thủ nào thoát khỏi tay Mạc Đại tiên sinh.

Trong Tiếu ngạo giang hồ, Mạc Đại chỉ xuất hiện ra ba đoạn, cộng lại không quá mười trang sách nhưng đã gây được ấn tượng mạnh mẽ và chiếm được cảm tình nồng thắm nơi người đọc. Đoạn thứ nhất, tiên sinh bất ngờ xuất hiện trong tửu quán dưới chân núi Hành Sơn, bất ngờ rút kiếm chém đứt tiện 7 chiếc trà trên bàn mà những giang hồ hảo thủ ngồi quanh không thể hiểu được tiên sinh đã rút kiếm ra và thu kiếm về lúc nào. Đoạn thứ hai, Mạc Đại hiện ra đúng lúc, múa kiếm giết chết Đại tung dương thủ Phí Bân của phái Thái Sơn để cứu sư đệ của mình là Lưu Chính Phong cùng Khúc Dương (trưởng lão Ma giáo), Khúc Phi Yên (con gái của Khúc Dương), Lệnh Hồ Xung (đệ tử Hoa Sơn) và Nghi Lâm (đệ tử Hằng Sơn). Giết xong Phí Bân, tiên sinh đút kiếm vào đàn, ung dung ra đi, giọng đàn dao cầm lại ngân lên khúc tình tang Tiêu Tương dạ vũ. Đoạn thứ ba, Mạc Đại hiện ra giữa đêm khuya bên bến sông Trường Giang, trách cứ Lệnh Hồ Xung là gã vong tình, không lo đi lên chùa Thiếu Lâm cứu người yêu mình là Nhậm Doanh Doanh mà cứ bo bo đi theo bầy nữ đệ tử của phái Hằng Sơn. Lời trách cứ của tiên sinh làm Lệnh Hồ Xung toát mồ hôi. Mạc Đại khoát tay hối Lệnh Hồ Xung ra đi và chính tiên sinh nhận nhiệm vụ bảo toàn cho bọn nữ ni Hằng Sơn về núi.

Con người quái dị ấy thoạt ẩn thoạt hiện, mang phong cách của một đạo gia Lão Trang, ung dung tiêu sái giữa cuộc đời. Duy có tiếng đàn và điệu ca Tiêu Tương dạ vũ của tiên sinh luôn luôn trĩu nặng nỗi u buồn, chưa thoát khỏi vòng hệ luỵ của cuộc sống, như dòng nước có đi mà không bao giờ có lại. Mạc Đại là hình ảnh tiêu biểu của một thứ trích tiên bị đoạ.

Tuy nhiên, trong Tiếu ngạo giang hồ, không phải chỉ có duy nhất nhân vật Mạc Đại là quái dị. Người ta còn tìm thấy một gã Tổ Thiên Thu, con người đầy mình mưu kế, văn võ song toàn nhưng lại ăn mặc như một anh đồ nghèo kiết xác, đã ăn cắp Tục mệnh bát hoàn của một người bạn thân là Lão Đầu Tử nhằm pha rượu cứu mạng Lệnh Hồ Xung. Người ta còn tìm thấy một gã Lão Đầu Tử lùn tịt như trái dưa, võ công cao cường, khi cười khi khóc, hợp cùng Tổ Thiên Thu thành ra cặp nhân vật Hoàng Hà Lão Tổ. Chính Lão Đầu Tử rất căm hận Lệnh Hồ Xung đã "nuốt" mất 8 viên thuốc bửu bối nhằm cứu mạng con gái mình nhưng khi biết được Lệnh Hồ Xung là người tình của Thánh cô Nhậm Doanh Doanh, lão đã tự vả má mình cho vọt máu vỡ da.

Trong Tiếu ngạo giang hồ, một nhân vật quái dị khác cũng gây ấn tượng không kém là Bình Nhứt Chỉ đại phu, nổi danh Sát nhân danh y, chuyên chẩn bệnh bằng một ngón tay (nhứt chỉ) và hễ cứu một người là giết một người. Không cứu được Lệnh Hồ xụng, lão đã tự vận Kỵnh mạch cho đứt tuyệt để bảo vệ ngọai hiệu Sát nhân danh y.
Nghe đến bốn chữ Đông Phương Bất Bại (không bao giờ thua), người đọc cứ ngỡ đây là một vị anh hùng hảo hán. Không, gã giáo chủ này chỉ là một người lại cái, đã tự thiến bộ phận sinh dục của mình để luyện Quỳ hoa bảo điển, đã quan hệ đồng tính luyến ái với một thủ hạ lân cận là Dương Liên Đình. Tuy nhiên, võ công của Đông Phương Bất Bại cực kỳ cao cường. Gã đã chống trả lại 4 kẻ đại địch là Nhậm Ngã Hành, Nhậm Doanh Doanh, Lệnh Hồ Xung và Hướng Vấn Thiên chỉ với một mũi kim thêu! Nhậm Doanh Doanh đã dùng đến một đòn phép tệ hại nhất: hành hạ "người tình" Dương Liên Đình để phân tâm Đông Phương Bất Bại, giúp cha mình giết chết Đông Phương Bất Bại.

Nhưng nhân vật quái dị được người đọc yêu mến nhất trong Tiếu ngạo giang hồ vẫn là Phong Thanh Dương, sư thúc của Nhạc Bất Quần, phái Hoa Sơn. Phong Thanh Dương là đại biếu của phe Kiếm tông (lấy kiếm làm chủ) trong khi Nhạc Bất Quần là đại biểu của phe Khí tông (lấy nội công làm chủ). Chính Phong Thanh Dương đã mắng Nhạc Bất Quần là kẻ xuẩn tài (có tài mà ngu), biến những kẻ tài năng như đệ tử Lệnh Hồ Xung thành ra ngựa gỗ, trâu đá. Phong Thanh Dương truyền thụ cho Lệnh Hồ Xung 9 thế kiếm của Độc Cô Cầu Bại với một câu quyết duy nhất "sử kiếm liên miên bất tuyệt như nước chảy mây trôi, nghĩ đến đâu là kiếm tới đó để chiếm tiên cơ, đẩy kẻ địch vào thế phải thủ". Toàn bộ lý thuyết của Phong Thanh Dương là "lấy vô chiêu thắng hữu chiêu và lấy công làm thủ ". Lệnh Hồ Xung đã học được bài học quý giá đó từ thái sư thúc tổ, trở thành kẻ đối nghịch với sư phụ Nhạc Bất Quần, hạ Nhạc Bất Quần và môn Tịch tà kiếm phổ của họ Nhạc, trở thành kiếm sĩ đệ nhất giang hồ. Phong Thanh Dương mình gầy như con hạc, sắc mặt điêu linh tiều tuỵ, chỉ xuất hiện một lần mà danh tiếng của Phong đã làm quần hùng chấn động.
Nhân vật quái dị đến đâu cũng là con người nên vẫn mang theo những đặc điểm, yếu tính của con người. Thế nhưng, khác hơn con người nói chung, nhân vật quái dị suy nghĩ, sống và hành động theo ý mình và thông thường sự suy nghĩ, sống và hành động đó lại vượt ra những khuôn sáo bó buộc của lương tâm, luật pháp, đạo đức. Nó gây một sự kinh ngạc và thậm chí, là sự kinh sợ cho người đọc. Một hình tượng tiêu biểu cho motif này là nàng Ôn thị, vợ của Phó bang chúa Cái bang Mã Đại Nguyên trong Thiên Long bát bộ. Tác giả Kim Dung chỉ để cho Ôn thị xuất hiện hai lần trong Thiên Long bát bộ. Lần thứ nhất với vẻ nhu mì và đau thương của một vị vong nhân (đàn bà mới goá chồng), lần thứ hai với toàn bộ phong cách dâm đãng và man rợ của một người mắc chứng cuồng dâm. Hai hình tượng đối lập trong một con người có nhan sắc tuyệt vời thật khiến cho người ta kinh sợ đến dựng cả tóc gáy.

Mọi chuyện bắt đầu từ Bách hoa đại hội, Ôn thị theo chồng là Mã Đại Nguyên, Phó bang chúa Cái bang, đi dự hội hoa xuân này. Nhan sắc tươi đẹp của người phụ nữ này đã làm cho hàng ngàn anh hùng hảo hán kinh ngạc, thán phục. Nhưng có một người không để ý tới tấm nhan sắc đó. Người đó là Bang chúa Cái bang Kiều Phong. Thật ra, Kiều Phong không hề coi thường vẻ đẹp phụ nữ; ông chỉ nghĩ rằng Ôn thị là vợ của thuộc hạ mình, cần phải giữ đúng lễ. Thế nhưng điều đó đã làm Ôn thị căm thù và lập tâm sẽ hại Kiều Phong để ông thân bại danh liệt. Nàng ta dựng lên một nghi án, cáo giác rằng chồng nàng biết Kiều Phong là giòng giống man rợ Khất Đan nên Kiều Phong đã giết chồng nàng để bịt miệng. Trong rừng hạnh ngoài thành Vô Tích, Ôn thị đã xuất hiện trong tư thế một người đàn bà đang chịu tang chồng, tiết lộ thân thế Khất Đan của Kiều Phong đã làm quần hùng Cái bang kinh tâm. Họ trở mặt khinh miệt ông, coi ông là kẻ thù. Kiều Phong phải đau đớn rời bỏ chức vụ, ra đi.

Kiều Phong sẽ không bao giờ hiểu được động cơ nào đã đưa Ôn thị đến việc vu cáo mình đã giết Mã Đại Nguyên, người bạn mà ông rất yêu mến, nếu không có một đêm ông rượt theo dấu vết Đoàn Chính Thuần và tận mắt chứng kiến tấn kịch man rợ tại nhà Ôn thị. Hoá ra, Ôn thị là người tình cũ của Đoàn Chính Thuần; họ đã quan hệ thân xác với nhau và trong cơn say đắm Đoàn Chính Thuần đã thề rằng nếu ông phụ Ôn thị, thân thể sẽ bị lóc thành từng miếng thịt. Gặp lại Đoàn Chính Thuần, Ôn thị vui vẻ mở tiệc rượu cùng Đoàn Chính Thuần ăn uống đùa giỡn rồi bỏ thuốc mê vào rượu đầu độc Đoàn Chính Thuần. Ôn thị trói Đoàn Chính Thuần lại, nhắc lại lời thề xưa và há miệng cắn từng miếng thịt của tình lang! Chính trong dịp này, Ôn thị đã tiết lộ cho Đoàn Chính Thuần biết rằng mụ đã hãm hại Kiều Phong; rằng người giết Mã Đại Nguyên - chồng mụ - không ai khác hơn là Bạch Thế Kính, chấp pháp trưởng lão Cái bang và là một tình lang khác của mụ; và rằng Bạch Thế Kính đã nhại theo chiêu thức Toả hầu cầm nã thủ của Kiều Phong để bóp nát yết hầu Mã Đại Nguyên, dễ dàng thực hiện âm mưu vu cáo! Ôn thị là một nhân vật nữ vô cùng quái dị trong suốt 12 bộ kiếm hiệp tiểu thuyết Kim Dung. Trong văn học thế giới, chưa thấy có một nhân vật nữ nào đáng nể như nàng Ôn thị. Phải chăng, đó chỉ là sản phẩm thuần tuý hư cấu của trí tưởng tượng, trên đời này không hề có một phụ nữ như vậy?

Nhưng Thiên Long bát bộ không chỉ có Ôn thị mà còn có Trấn Nam vương phi Đao Bạch Phụng, vợ chánh thất của Đoàn Chính Thuần, cũng quái dị không kém. Thân danh là Vương phi của nước Đại Lý, Đao Bạch Phụng đã khám phá ra chồng mình ngoại tình với nhiều phụ nữ khác. Vậy là bà ta trả thù và cách trả thù cũng khá độc đáo: cho một gã ăn xin rách rưới hôi hám ăn nằm với mình. Lần ăn nằm đó đã sinh ra một anh thế tử bảnh trai, một nhà nho trẻ lãng mạn, si tình. Đó là Đoàn Dự. Gã ăn mày dơ bẩn đó là ai? Chính là Đoàn Diên Khánh, nhân vật đại biểu của hoàng gia nước Đại Lý, tranh chấp ngai vàng không được, đã để quyền lực cầm đầu nước Đại Lý lọt vào tay Đoàn Chính Minh, anh ruột của Đoàn Chính Thuần.

Kim Dung để cho Đoàn Dự lưu lạc giang hồ, yêu một lúc ba cô gái Mộc Uyển Thanh, Chung Linh, Vương Ngữ Yên; toàn là những người con tư sinh của Đoàn Chính Thuần. Cho đến khi chàng trai tuyệt vọng vì khám phá ra rằng mình đang yêu những cô em cùng cha khác mẹ thì Trấn Nam Vương phi mới kề tai con mà tiết lộ rằng chàng không phải là con của Đoàn Chính Thuần mà là con của Đoàn Diên Khánh! Một bà vương phi có ngoại hiệu là Ngọc diện Quan Âm mà lãng mạn và liều mạng đến thế thì thôi!

Nhân vật quái dị tuy sống rất khác đời nhưng lại sống rất người. Đối với họ, cái vỏ luân lý, đạo đức của đạo Nho không cứng lắm, có thể phá vỡ để thoát ra được để sống đúng như lòng mình muốn sống. Trong Xạ điêu anh hùng truyện, bất kỳ người anh hùng hào kiệt nào cũng lên án mối tình Tiểu Long Nữ - Dương Qua vì nàng Tiểu Long Nữ là sư phụ mà chàng Dương Qua là đồ đệ. Nho học và cả võ học Trung Quốc chưa hề cho phép một đứa học trò trai được yêu và lấy cô giáo của mình. Kim Dung lãng mạn và cách mạng hơn: ông cho phép họ thương yêu nhau và vượt xa hơn một chút, ông cứ để cho Tiểu Long Nữ mất trinh vì một gã đệ tử hạng bét của phái Toàn Chân. Mất trinh thì mất, Dương Qua chỉ biết yêu cô giáo của mình là Tiểu Long Nữ và ngược lại, trong đôi mắt của Tiểu Long Nữ chỉ có chàng Dương Qua mà thôi. Họ dắt tay nhau đi đâu khi thành Tương Dương bị quân Mông Cổ bao vây? Chính tác giả cũng không biết điều đó. Tình yêu đã đưa họ đi thật xa, xa loài người, xa cuộc đời. Tiểu Long Nữ bỏ đi và Dương Qua tìm kiếm. Và rồi cô bé Quách Tương cũng bỏ đi tìm Dương Qua.

Có thể kể ra hàng trăm nhân vật quái dị trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung. Họ tạo ra đặc điểm riêng cho tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, tạo nên "phong cách quái dị" độc đáo đến nỗi, khi cầm lên một tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp in bằng tiếng Quan thoại cũng ký tên tác giả Kim Dung mà chẳng có "phong cách quái dị" này, ta có thể nói ngay đó là tác phẩm nguỵ tạo (nguỵ tác).

Văn là người. Tư Mã Thiên đau niềm đau của kẻ sĩ bị cung hình, ráng sống để viết nên bộ Sử ký đồ sộ, trở thành viên pháp quan toàn quyền phê phán lịch sử một cách nghiêm khắc và nghiêm túc. Khuất Bình đau niềm đau của kẻ cô trung bị phụ bạc mà viết lên Ly tao rồi tìm cái chết trên dòng sông Mịch La, để lại cho đời những câu phú ngậm ngùi khôn tả. Lỗ Tấn sinh ra và lớn lên trong giai đoạn lịch sử đau thương nhất của Trung Quốc, không thể khóc nổi nữa đành phải đi tìm nụ cười ra nước mắt trong A.Q chính truyện. Kim Dung xuất thân từ một gia đình có ông nội làm quan dưới triều vua Quang Tự, đã lớn lên và từ bỏ Hoa lục ra đảo Đài Loan, đã chứng kiến được những tác hại của tư duy giáo điều và chủ nghĩa công thức sơ lược nên ông đã làm người lội ngược dòng nước. Phương pháp luận của triết học là đưa ra một chính đề, phản biện lại thành một phản đề để đi đến một hợp đề khả dĩ chấp nhận. Qua những nhân vật quái dị, Kim Dung đã đưa ra những phản đề và phần hợp đề được ông giao lại cho người đọc, để người đọc tự nhận ra.

Rõ ràng là anh hùng - tiểu nhân, chính phái - tà phái, trinh tiết - bất trinh, Kiếm tông - Khí tông, vương đạo - bá đạo, cao quý - đê tiện, ôn nhu - dâm đãng... là nhữngmặt đối lập khốc liệt. Nào ai đúng, nào ai sai? Người đọc hãy tự lý giải. Kim Dung chỉ dặn dò chúng ta: thấy như vậy nhưng không hẳn là như vậy. Thế thôi.

Hansy
23-03-2013, 03:30 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

16.
NGHỀ KỸ NỮ

Khái niệm "nghề", theo nhà kinh tế học người Anh Thomas Robert Malthus, là một cái gì có lợi cho bản thân, vừa có ích cho xã hội. Và nếu hiểu theo cái nghĩa nghiêm túc đó thì kỹ nữ không thể là một nghề. Kỹ nữ, người con gái làm nghề bán phấn buôn hương, còn có nghĩa là ả đào, con hát. Nếu người ta có thể chấp nhận ả đào, con hát là một nghề thì người ta khó có thể chấp nhận được chữ nghề trong cái người ta gọi là bán phấn buôn hương. Trong thơ của Đỗ Mục, kỹ nữ còn được gọi là "thương nữ":

Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu đình hoa
(Con hát biết chi hờn mất nước
Cách sông còn hát Hậu đình hoa
(Đỗ Mục - Bạc Tần Hoài)

Nói thì nói thế nhưng trong xã hội Trung Hoa ngày xưa, một xã hội vốn trọng nam khinh nữ, coi người phụ nữ là đồ chơi của đàn ông, có thể dễ dàng mua, bán, bắt cóc, sang nhượng hoặc đem làm quà tặng giữa những người đàn ông với nhau thì xuất hiện của nghề kỹ nữ cũng là điều rất bình thường, thậm chí được coi là hợp lý.

Nghề kỹ nữ có từ thời nào? Người ta khó mà xác định được thời điểm xuất hiện của nghề này, tuy nhiên cũng có thể khẳng định được nghề này gắn liền với chén rượu câu khách, mời khách, đàn ca làm vui và bán dâm cho khách. Theo tư liệu của ông Nguyễn Tôn Nhan đăng trên tạp chí Kiến thức ngày nay, ông tổ của nghề kỹ nữ là Bạch mi thần. Thần mày trắng có thể là Hồng Nhai tiên sinh, tên gọi Linh Luân, bầy tôi dưới thời vua Hoàng Đế, người làm ra âm luật đã được ghi trong Lã Thị xuân thu của Lã Bất Vi thời Tần. Thần mày trắng cũng có thể là Liễu Đạo Chích, thời Xuân Thu; Quản Trọng (Quản Di Ngô), thời Xuân Thu, người có công lập ra 700 nhà chứa gái để đàn ông đến mua vui, thu tiền lời để lo tiền quân quốc cho Tề Hoàn Công; cũng có thể là Lã Động Tân trong nhóm Bát tiên, nhân vật chuyên dạy hát kiêm trị bệnh hoa liễu cho phụ nữ làng chơi. Trong bất kỳ thời đại vua chúa nào ở Trung Hoa, nghề kỹ nữ cũng vẫn được hoạt động, các "viện" chứa gái vẫn mọc lên ở khắp nơi. Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung trở thành một bản điều tra xã hội khá ngoạn mục khi ông phản ánh cho độc giả thấy thêm được một nghề: nghề kỹ nữ.

Trong tác phẩm Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung có nhắc tới viện Quần Ngọc dưới núi Hành Sơn. Đây là nơi mà Lệnh Hồ Xung khuyên Điền Bá Quang nên tìm tới để giải trí, buông tha cho ni cô Nghi Lâm bé bỏng tội nghiệp. Cũng chính nơi này, Lệnh Hồ Xung đã tìm tới để dưỡng thương; Nghi Lâm được cô bé Khúc Phi Yên dẫn đến tìm anh để đưa anh đến vùng hoang sơn dã lĩnh, tránh sự truy đuổi của những kẻ thù. Cũng chính nơi này, Dư Thương Hải của phái Thanh Thành tưởng đã có cơ hội làm nhục hai phái Hoa Sơn và Hằng Sơn nếu bắt được Lệnh Hồ Xung và Nghi Lâm ở chung một phòng, nhưng cuối cùng lão đã phải chạm mặt Điền Bá Quang và đánh nhau, bị Điền Bá Quang xuyên tạc là "đánh nhau để giành một cô gái làng chơi tên là Ngọc Bảo".

Nhưng nghề kỹ nữ được mô tả đậm nét nhất vẫn là trong bộ Lộc Đỉnh ký, Vi Tiểu Bảo xuất thân từ kỹ viện Lệ Xuân ở thành Dương Châu. Mẹ của Vi Tiểu Bảo -Vi Xuân Phương - bang giao rộng rãi với các anh em Hán, Mông, Tạng, Hồi Mãn; không khẳng định được cha của Vi Tiểu Bảo là ai. Chính Vi Tiểu Bảo cũng trải qua tâm trạng buồn bực, ghen tị khi má mình đã già (trên 30 tuổi), không có được khách sang, khách sộp của các kỹ nữ trẻ tuổi khác.

Kim Dung cũng cho biết các cấp bậc trong các kỹ viện ở Dương Châu. Má má là chủ viện, người bỏ tiền ra mua gái về, có toàn quyền sinh sát đối với các cô gái. Mụ dầu là những người đàn bà lớn tuổi, chuyên môi giới giới thiệu, làm môi giới mại dâm. Kỹ nữ là người trực tiếp bán dâm trong các kỹ viện, lại kiêm nhiệm vụ mời khách uống rượu và kêu đồ nhậu. Nội dung công việc của họ là khuyến khích bọn khách chơi xài tiền nhiều càng tốt. Quy nô là những chàng trai cô gái có nhiệm vụ phục vụ các công việc vặt trong kỹ viện: nấu nướng thức ăn, pha rượu, dọn bàn ghế, mua đồ ăn cho kỹ nữ và... đánh đập những cô gái nhà lành, dằn mặt họ nếu họ không chịu bán trinh, không chịu tiếp khách.

Chính Vi Tiểu Bảo đã từng mơ ước một ngày có số tiền lớn, tìm đến một viện nào đó ăn xài phung phí cho sướng tay ba ngày ba đêm. Về sau, làm đại thần trong triều Khang Hy rồi, Vi Tiểu Bảo mang số tiền lớn về cho mẹ để mẹ có thể mở một Lệ Thu viện, Lệ Đông viện, Lệ Hạ viện ; cạnh tranh cho cái Lệ Xuân viện mà hắn đã từng lớn lên và chịu nhục phải sụp tiệm, rồi đời. Ngay bà Vi Xuân Phương, khi nhìn thấy đàn con dâu tươi đẹp của mình, trong đó có đủ tất công chúa, phu nhân, tiểu thư quyền quý; đã khen con mình có con mắt tinh đời. Trong tư tưởng khinh doanh kỹ viện của bà già chồng này thì cứ cái đàn gái đó mà lập thành một viện thì ắt thành Dương Châu sẽ không có viện nào còn bóng đàn ông nữa.

Trong Lộc Đỉnh ký, Kim Dung xây dựng một tình huống xảy ra tại Lệ Xuân viện khá buồn cười. Trịnh Khắc Sản dẫn A Kha (cô gái mà Vi Tiểu Bảo đang say đắm) hoá trang thành một vị công tử, xuống Lệ Xuân viện ở Dương Châu để đón bắt Vi Tiểu Bảo. Bà Vi Xuân Phương cứ tưởng đây là hai khách sộp, cố gắng rót rượu mời chào, ôm Trịnh Khắc Sản và A Kha hôn hít hoài. Vi Tiểu Bảo thấy cảnh đó vừa bực tức vừa sợ Trịnh Khắc Sản, tình địch của mình sẽ trở thành cha hờ của hắn đêm ấy; vừa buồn cười vì mẹ ruột của mình cứ hôn hít bồ của mình, tưởng A Kha là đàn ông phong lưu.
Thành đô nhộn nhịp có kỹ viện không lạ. Lạ nhất là những nơi tôn nghiêm như chân núi Thiếu Thất dưới chùa Thiếu Lâm, Hồ Nam cũng có kỹ viện. Chính Vi Tiểu Bảo trong lớp áo của Hối Minh thiền sư, phó trụ trì chùa Thiếu Lâm, chịu không nổi cảnh chay tịnh của nhà chùa, đã thay áo đội khăn lén khỏi chùa đến kỹ viện chơi. Lúc hắn đang say sưa cho tiền bọn kỹ nữ, gác tay gác chân lộn xộn thì A Kha và A Kỳ đến tìm hắn để tấn công. Hắn nhanh trí nói dối A Kỳ là vợ lớn, A Kha là vợ nhỏ, nghe hắn đi chơi kỹ viện nổi ghen đến quậy. Để tránh sự truy bắt của A Kỳ, A Kha, hắn dùng kế “kim thiền thoát xác”, mượn áo bọn kỹ nữ mặc vào, cho tiền đậm bọn kỹ nữ nhờ chúng chửi bới A Kha, A Kỳ rồi chia hai tốp kéo ra cổng trước và cổng sau. Thấy bọn kỹ nữ kéo ra, A Kỳ và A Kha không dám chém. Vi Tiểu Bảo nhờ thế mà thoát nạn, chỉ thương bọn kỹ nữ vì ăn tiền chửi mắng hăng quá, bị A Kỳ và A Kha đánh cho sứt đầu mẻ trán, kêu khóc om sòm. Sau này A Kỳ và A Kha đem chuyện hắn đi chơi kỹ viện thưa với phương trượng chùa Thiếu Lâm là Hối Thông thiền sư. Vi Tiểu Bảo tưởng đã chết đến nơi, ai ngờ có một nhân vật là Dương Dật Chi đứng ra đỡ đòn cho hắn. Dương Dật Chi cho biết hắn là thái giám được hoàng thượng tin tưởng. Mà thái giám thì còn đi kỹ viện sao được. Cho nên mọi vị sư tăng trong chùa Thiếu Lâm đều kính ngưỡng hắn và cho rằng câu chuyện của A Kỳ và A Kha là chuyện bịa đặt, vu cáo một nhà tu hành đạo đức sáng rỡ!

Nhưng thật ra, kỹ viện không chỉ là nơi mại dâm. Nếu trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, bọn hào sĩ giang hồ bị bọn quan binh truy nã; người bị thương thì lánh vào kỹ viện trị thương, thì trong thực tế, các danh sĩ thường tìm đến kỹ viện để nghe hát làm thơ, rồi dạy các kỹ nữ hát những bài thơ của mình thành nhạc phổ. Kỹ viện trở thành nơi nương náu của những tâm hồn cô độc, của những người bị vua chúa lưu đày. Trong những trường hợp đó thì kỹ nữ trở thành người bạn tri âm.
Chúng ta đã từng biết Bạch Cư Dị bị giáng làm Tư mã Cửu Giang, đã từng làm bài Tỳ bà hành ca ngợi tiếng đàn của một kỹ nữ dài 622 câu. Trong phần đề tựa, Bạch Cư Dị đã viết: "Năm Nguyên Hoà thứ mười (816), ta bị giáng làm Tư mã huyện Cửu Giang ... tiễn khách ở bến Bồn, giữa đêm nghe tiếng tỳ bà ở trên thuyền ... hỏi ra thì đó là ca nữ ở Trường An". Tác giả ngồi nghe tâm sự của người ca nữ đó. Bản thân người ca nữ đó là một nhân vật có học, có lòng tự trọng, không phải khách nào mời cũng ra:

Di thuyền tương cận yêu tương kiến
Thiên tửu hồi đăng trùng khai yến
Thiên hô vạn hoán thỉ xuất lai
Do bão tỳ bà bán già diện
(Ghé thuyền đến cạnh chào mời
Khêu đèn thêm rượu lại bày tiệc hoa
Nằn nì mời mãi mới ra
Ôm đàn che nửa mặt hoa thẫn thờ)
(Trần Trọng Kim dịch)

Lý Bạch cũng từng tìm thấy nguồn cảm hứng trong những chén rượu mà các nàng Ngô cơ chào mời ông trong bài Kim Lăng tửu tứ lưu biệt:

Phong xuy liễu hoa mãn điếm hương
Ngô cơ áp tửu khuyến khách thường
(Gió đưa hương liễu đầy nhà
Gái Ngô chuốc rượu thiết tha ép nài)

Nhưng có lẽ Đỗ Mục với 10 năm lưu lạc ở Giang Nam mới hiểu được tấm lòng của người hồng nhan tri kỷ xuất thân từ giới kỹ nữ:

Lạc phách giang hồ tái tửu hành
Sở yêu tương tế chưởng trung khinh
Thập niên nhất giác Dương Châu mộng
Dinh đắc thanh lâu bạc hạnh danh
(Lưu lạc giang hồ đã bấy lâu
Cùng người nhỏ bé ở bên nhau
Mười năm sực tỉnh Dương Châu mộng
Mang tiếng trăng hoa nghĩ lại sầu)
(Hàn Giang Nhạn dịch)

Và đúng như truyền thống các bậc nhà văn tiền bối, Kim Dung cũng không hề xây dựng nững nhân vật thuần tuý là những cô gái làng chơi trong tiểu thuyết võ hiệp của mình. Tôi có dịp khắc hoạ nhân vật Trần Viên Viên như một thiên hạ đệ nhất mỹ nhân, một danh kỹ, tuy xuất thân từ chốn phong trần nhưng đẹp tuyệt vời và thông minh vô hạn, có một quan hệ lạ lùng đến lịch sử Trung Hoa thời Minh mạt - Thanh sơ. Nhân vật có thật này trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo cho danh sĩ Ngô Mai Thôn đời Thanh viết thành Viên Viên khúc. Và cũng ngay trong Lộc Đỉnh ký, Kim Dung cũng xây dựng nên những đoạn kể chuyện các quan ở Dương Châu chiêu đãi khâm sai đại thần Vi Tiểu Bảo bằng cách mời ba kỹ nữ tài năng. Người thứ nhất là Lương Ngọc Kiều, tuổi ngoài 30, ăn mặc hoa lệ nhưng nhan sắc cũng tầm thường. Người thứ hai lối ba mươi bốn, ba mươi lăm nhưng "cử chỉ thuần nhã, giọng ca thánh thót; gặp những câu khúc chiết vi diệu tiếng hát càng thanh thoát lên bổng xuống trầm, biến hoá vô cùng". Cô hát bài Vọng Hải Triều, thơ của Tần Quan đời Tống, ca ngợi đất Dương Châu. Người thứ ba là một kỹ nữ tuổi ngoài bốn mươi, trán nhiều vết nhăn, mắt nhỏ ti hí nhưng được đánh giá là đệ nhất danh kỹ Dương Châu. Cô ôm tỳ bà hát một bài mới của Tra Thận Thành (viễn tổ của Kim Dung); các quan ở Dương Châu ngồi nghe tâm hồn bay bổng. Chỉ có Vi Tiểu Bảo là chán nản bởi vì gã chỉ thích gái trẻ, mà có hát thì phải hát những bài dâm đãng như Thập bát mô. Cho nên khi gã đòi cô danh kỹ này hát Thập bát mô, cô đã liệng đàn, ôm mặt khóc bỏ chạy khỏi bữa tiệc.

Với tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung đã hé mở cho ta thấy sự tồn tại của giới kỹ nữ và các kỹ viện trong những chế độ quân chủ Trung Hoa. Biết sao được, pháp luật ấy công nhận kỹ nữ là một nghề thực thụ. Điều đáng quý ở nơi ông là ông đã nhìn những kỹ nữ dưới con mắt của nhà văn nhân bản và nhân đạo: không lên án cái nghề ti tiện của họ, mà thậm chí còn có khuynh hướng ca ngợi, biểu dương các danh kỹ như các nhà văn tiền bối đã làm. Nhưng tôi cho rằng cái cam đảm nhất ở ông là đã để cho một thàng nhóc con của một kỹ nữ, lớn lên trong kỹ viện trở thành công tước của triều Thanh, đè đầu cưỡi cổ thiên hạ, kể cả những bậc vương công đại thần, Đó là Vi Tiểu Bảo. Kim Dung muốn chứng minh một định đề: trước những ba động của lịch sử thì một gã lưu manh, một con gái điếm, cũng có thể trở thành người "cao quý " nhất thiên hạ. Định đề đó quả thật buồn và thật đắng cay!

Hansy
24-03-2013, 08:22 AM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

17.
CON TRÂU

Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung không phản ánh về hoạt động nông nghiệp của nông dân Trung Quốc mà chỉ phản ánh thế giới võ hiệp – một thế giới hoàn toàn hư cấu do trí tưởng tượng phong phú của tác giả. Tuy nhiên, xuất thân từ một đất nước rộng lớn trong một giai đoạn mà nền nông nghiệp còn sản xuất nhỏ và lạc hậu, Kim Dung đã đưa vào trong tiểu thuyết của mình hình ảnh nông thôn Trung Quốc, những nông dân và sinh hoạt nông nghiệp Trung Quốc. Ta thử bàn về con trâu trong tác phẩm của ông.

Trong ngôn ngữ Trung Quốc, trâu là ngưu hoặc hắc ngưu để phân biệt với con bò là hoàng ngưu. Ở chừng mực nào đó, Kim Dung cũng đã thể hiện tình cảm của mình đối với con trâu, sức kéo tiêu biểu trong nông nghiệp truyền thống Trung Quốc. Trong tác phẩm Thần điêu hiệp lữ, trí tưởng tượng của tác giả đã phát huy đến cao độ khi ông để cho chàng trai Dương Qua “mượn” tạm một con trâu của người nông dân, mặc bộ quần áo của trẻ chăn trâu, đốt đuốc phía sau đít trâu để trâu phóng thục mạng vào vòng vây của quân Mông Cổ xâm lược. Con trâu của Dương Qua xông trận còn hữu hiệu hơn cả con ngựa chiến Mông Cổ. Phải chăng đó là hình ảnh tiêu biểu của cuộc khởi nghĩa nông dân tại thành Tương Dương? Cuộc khởi nghĩa Tương Dương đã bị quân Nguyên tắm máu, giang sơn Trung Hoa chìm trong ách Di Địch nhưng hình tượng Dương Qua cỡi trâu xông trận vẫn còn mãi với Thần điêu hiệp lữ và được hiện thực hóa bằng điện ảnh.

Chàng trai Quách Tĩnh trong Xạ điêu anh hùng truyện được thầy mình là Hồng Thất Công đặt tên cho là Thuỷ Ngưu (trâu nước), còn có biệt hiệu là Ngưu Canh Điền (trâu cày ruộng). Ấy bởi vì tướng mạo Quách Tĩnh mộc mạc quê mùa, nước da ngăm ngăm đen, ít miệng lưỡi, chậm hiểu, tướng phục phịch như con trâu.

Con trâu có mặt khắp mọi nơi trong tiểu thuyết Kim Dung. Trâu chết đi để lại cho người thịt và da. Bọn quần tiên 36 động 72 đảo trong Thiên Long bát bộ chuyên ăn thịt trâu khi tấn công lên cung Linh Thứu, núi Phiêu Diễu. Và bọn họ ăn như ngựa, uống như trâu (mã thực, ngưu ẩm). Bọn quần hào Trung Nguyên, từ đám bàng môn tả đạo ủng hộ Lệnh Hồ Xung tấn công lên chùa Thiếu Lâm núi Thiếu Thất trong Tiếu ngạo giang hồ đến bọn lên ủng hộ Thiếu Lâm anh hùng đại hội trong Thiên Long bát bộ đều đánh trống bằng da trâu. Có lẽ da trâu dày hơn da bò mới chịu được công lực của các vị đại gia ấy chăng? Cái tiết tấu ồn ào, phức tạp của họ làm cho ma quỷ, thánh thần cùng kinh hãi. Da trâu được dùng làm vũ khí và đôi khi là công cụ để thi hành hình luật. Đó là roi da trâu, tức ngưu bì tiên, đánh đến đâu nghe đến đó! Sừng trâu được cưa làm chung đựng rượu. Trong Tiếu ngạo giang hồ, Tổ Thiên Thu đã thuyết Lệnh Hồ Xung rằng rượu trắng ngoài quan ngoại đựng trong sừng trâu. Sở dĩ dùng sừng trâu làm chung uống rượu vì chất sừng tanh tanh, có như thế mới chế ngự được mùi vị cay nồng của rượu trắng.

Tên tuổi của con trâu cũng được nhà tiểu thuyết mượn tạm để chế ra môn phái, ám khí và võ công. Các vị đạo sĩ tu theo pheo phái Võ Đang như Xung Hư trong Tiếu ngạo giang hồ, Trương Tam Phong trong Ỷ thiên Đồ long ký được gọi là các lão “lỗ mũi trâu”. Mô phỏng theo hình dáng sợi lông trâu, bọn bàng môn tả đạo chế ra thứ ám khí gọi là Ngưu mao châm. Trong Thiên Long bát bộ, Tang Thổ Công, động chủ động Bích Lân, đã bắn thứ này vào bọn Mộ Dung Phục khiến phe Cô Tô Mộ Dung ngứa ngáy vô kể. Tuy nhiên điểm sáng nhất của Kim Dung lại nằm trong môn Cách sơn đả ngưu thần công. Như tên gọi, loại công phu này có điểm cách biệt là đánh được con trâu mà giữa con trâu và người đánh có một vật cản là hòn núi. Tất nhiên cả hai khái niệm trâu và núi đều mang tính ẩn dụ cao độ. Trong Thiên Long bát bộ, Kim Dung đã để cho quốc sư nước Thổ Phồn là Cưu Ma Trí biểu diễn công phu này. Cưu Ma Trí vận chưởng của phái Thiếu Lâm, đứng từ xa vung tay đánh cách không vào chiếc lư hương bằng đồng. Phía bên này lư hương vẫn bình thường nhưng ở phía bên kia, phần đồng bị cắt ra một miếng đúng như bàn tay của Cưu Ma Trí. Trong Lộc Đỉnh ký, Kim Dung cũng để cho Vi Tiểu Bảo biểu diễn Cách sơn đả ngưu thần công. Hắn vận “công lực” và đấm vào các vị Lạt ma Tây Tạng những thế võ nhẹ hều. Nhưng các nhà sư Tây Tạng lại lăn ra chết. Tại sao vậy? Trong tay áo thùng thình, hắn đang cầm một lưỡi truỷ thủ bén ngọt. Hắn vung tay lên không phải để đánh quyền mà là dùng truỷ thủ đâm lén. Da thịt nào chịu nổi loại thần công gớm ghiếc như vậy?

Người đời thường bảo ngu như trâu, dở như trâu. Nhưng trong tác phẩm võ hiệp Kim Dung, con trâu đã chẳng ngu mà lại chẳng dở chút nào. Cuốn Ỷ thiên Đồ long ký xây dựng một nhân vật thầy thuốc mà y thuật cao đến độ thần thông, mang tên trâu xanh: Hồ Thanh Ngưu. Ngoại hiệu của Hồ Thanh Ngưu là Điệp Cốc y tiên và chỗ ở của ông là Hồ Điệp Cốc. Cả ngoại hiệu và chỗ ở của Hồ Thanh Ngưu cho thấy được chất lãng mạn mênh mông của nhân vật này.

Có một con trâu khác trở thành đối tượng được các cô thiếu nữ nhan sắc kiện tướng công huân say mê như điếu đổ. Đó là chàng Trương Vô Kỵ, khi trốn vào hang núi mới có 15 tuổi. Trong 5 năm học võ, chàng trở thành bậc thượng thừa. Trượt tuyết rớt xuống chân núi gãy cả hai chân, chàng tự xưng là Tăng A Ngưu (Tăng Văn Trâu). Lên đến Quang Minh đỉnh giải vây cho quần hùng Minh giáo, chàng vẫn là Tăng A Ngưu. Tăng A Ngưu có đến bốn cô bạn sắc nước hương trời, một “tài sản” mà không một hoàng đế Trung Hoa nào có được: Triệu Mẫn, quận chúa hoa hậu Mông Cổ; Tiểu Siêu, hoa khôi thánh nữ sứ Minh giáo Ba Tư; Chu Chỉ Nhược, chưởng môn phái Nga Mi; Hân Ly, tức Châu Nhi, em cô cậu. Cuối cùng Tăng Văn Trâu chọn Triệu Mẫn vui chơi bốn biển năm hồ mặc dù anh có đủ tài năng và tư cách lên nắm ghế lãnh đạo cao nhất trong lực lượng khởi nghĩa kháng Nguyên ở Hoài Tứ. Thuộc hạ của anh là Chu Nguyên Chương đã nắm quyền khởi nghĩa thành công, xưng đế hiệu là Minh Thái Tổ, mở ra nhà Minh (1368 - 1643), truyền được 13 đời. Tăng A Ngưu Trung Quốc đi theo đóa hoa lài Mông Cổ nhưng trong trường hợp này chẳng ai dám chế giễu nhà văn Kim Dung đem bông hoa lài cắm bãi cứt trâu

Hansy
25-03-2013, 04:25 AM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

18.
NGƯỜI TÂY DƯƠNG

Người Trung Quốc vẫn gọi người châu Âu là Tây dương quỷ (bọn quỷ ở bờ biển phía Tây) hoạc Hồng mao quỷ (bọn quỷ lông tay đỏ). Khi dùng cách gọi như thế, người Trung Quốc đã tự cho họ cái quyền được mạt sát người châu Âu, coi dân châu Âu không phải là người.

Trong Lộc Đỉnh ký, Kim Dung đã có những đoạn, những chương thuật lại các quan hệ với người Tây dương. Đầu tiên là người Nga. Cuộc chiến tranh Trung - Nga dưới triều Khang Hy đã diễn ra tại thành Ni Bố Sở (Nertohinsk) năm 1669. Vi Tiểu Bảo làm nguyên soái, tư lệnh các lộ quân Thanh triều, đi đánh quân Nga. Tư lệnh Nga là Á Nhĩ Thanh Tư Cơ (Alsinsky) bị bắt. Hầu tước Nga là Phí Diêu Đa La (Feodore) phải xin cầu hoà. Trong giai đoạn này, Vi Tiểu Bảo thu nhận hai tay đội trưởng Nga để làm người đưa tin về cho công chúa Tô Phi Á (Sophia). Một người tên là Hoa Bá Tư Cơ (Vabasky) và một người tên là Tề Lạc Nặc Phu (Delanov). Hai người này đã giúp chuyển thư từ, quà cáp của Vi Tiểu Bảo về cho Tô Phi Á và đồng thời cũng đem tin tức, quà cáp của Tô Phi Á lại cho Vi Tiểu Bảo. Do trình độ chữ Hán mập mờ, chữ Nga lại ấm ớ, Vi Tiểu Bảo đọc tên hai người này là Vương Bát Tử Kê (gà chết khốn nạn) và Trư La Noạ Phu (con heo hèn hạ). Lộc Đỉnh ký cũng nhắc đến đại sứ Nga Tư Ba Tháp Lôi (Spartinary) và đoàn quân Nga bị bắt về Bắc Kinh, được vua Khang Hy trọng dụng, kêu bằng Nga La Tư tá lĩnh.

Ngay trong triều đình Khang Hy, nhà vua cũng đã trọng dụng hai nhân tài Tây Dương. Người thứ nhất là Thang Nhược Vọng (Adam Schall), quốc tịch Đức, giám đốc đài Thiên văn Bắc Kinh. Cuộc đời của Thang Nhược Vọng rất may mắn khi gặp được vua Khang Hy. Thời ThuânTrị, Thang Nhược Vọng đã được tin tưởng, cho làm công việc tính thiên văn, lịch pháp. Năm Khang Hy thứ ba (1665), Toà Khâm thiên giám tính lộn ngày nhật thực; Thang Nhược Vọng khám phá ra sơ suất ấy, trình Khang Hy. Dương Quang Tiến, viên quan tính lộn nhật thực, đâm ra thù Thang Nhược Vọng, muốn trả oán. Tiên bèn lấy cuốn Đại Thanh thời hiến lịch do Thang Nhược Vọng viết ra dưới thời Thuận Trị, tiên đoán nhà Thanh chỉ ở ngôi 200 năm, làm một bản tâu lên Khang Hy rằng nhà Đại Thanh có thượng đế phù hộ, sẽ trường tồn vạn năm. Chuyện Thang Nhược Vọng cho rằng Đại Thanh chỉ bền vững 200 năm là nguyền rủa Đại Thanh. Lúc đó, Khang Hy mới 11 tuổi, quyền hành đang ở trong tay cố mệnh đại thần Ngao Bái. Ngao Bái nghe tâu, bèn bắt Thang Nhược Vọng, định xử lăng trì. Nhưng Khang Hy phát giác được chỗ để cứu THang Nhược Vọng. Nhà vua nhỏ tuổi bàn: cuốn Đại Thanh thời hiến lịch làm ra năm Thuận Trị thứ 10 (1653) chẳng ai nói gì; thậm chí vua còn ban cho Thang Nhược Vọng tước vị Thông Huyền giáo sư. Nay đem Thang Nhược Vọng ra giết đi thì chẳng khác nào mạt sát tiên hoàng Thuận Trị là u mê, tối tăm. Nhà vua bàn nên giam Thang Nhược Vọng lại. Khi Ngao Bái bị giết, nhà vua cho thả Thang Nhược Vọng ra, làm giám đốc Thiên văn đài như cũ, phong tước Thông Minh giáo sư (vì tên của Khang Hy là Huyền Hoa, phải kỵ huý nên bỏ tước Thông Huyền giáo sư).

Người thứ hai là Nam Hoài Nhân (Ferdinard Verbiest) gốc Bỉ Lợi Thì (Belgique). Người này rất trung thành với Khang Hy chuẩn bị đánh Ngô Tam Quế, nhà vua đã nhờ đến cả Nam Hoài Nhân và Thang Nhược Vọng giấm đốc toàn bộ công trình đúc đại bác cho mình, Cả hai đều là giáo sĩ dòng Tên (Jésuite) làm cho quan dưới triều Khang Hy và đã có nhiều đóng góp lớn lao giúp Khang Hy bình định Trung Quốc.

Chính Vi Tiểu Bảo cũng mến mộ hai người Tây dương này. Y gọi họ là "ngoại quốc lão huynh". Vi Tiểu Bảo rất kinh phục kỹ thuật đúc trọng pháo của hai "ngoại quốc lão huynh". Sau đó, đi đánh người Nga La Tư ở Ni Bố Sở, Vi Tiểu Bảo cũng mời các "ngọai quốc lão huynh" cùng đi trong quân để làm người phiên dịch trong đàm phán phân chia ranh giới và viết hoà ước bằng tiếng Latin cho mình.

Lộc Đỉnh ký cũng có những đoạn thuật lại cuộc chiến đấu của quân dân đảo Đài Loan chống lại người Hà Lan. Kim Dung gọi viên tư lệnh Hà Lan là Quỷ Nhất (?). Tra cứu trong chính sử Trung Quốc, chúnh tôi chưa tìm được đích xác tên gốc của viên tư lệnh này. Tất nhiên, đối với những kẻ đến xâm lược đất nước mình. Kim Dung dùng từ "Quỷ" cũng chẳng có gì là quá đáng.

Chính trong tác phẩm của mình, Kim Dung cũng thừa nhận rằng sức mạnh hoả khí của người Tây dương là ghê gớm, không có một thứ "thân công" nào của giới võ lâm Trung Quốc có thể địch nổi. Ngô Tam Quế tặng cho Vi Tiểu Bảo một cặp súng lục của Nga, hắn bắn thử một phát, sạt nửa hòn giả sơn, khiến cho gã sợ hãi muốn... ra quần. Cũng vậy, ra diễn võ trường Bắc Kinh xem thử súng đại bác của Man Hoài Nhân và Thang Nhược Vọng chế ra, gã kinh hoàng nghe trọng pháo nổ hai lần. Cho nên, nói chuyện võ công là nói chơi, chuyện chiến đấu bằng súng đạn trên chiến trường mới là chuyện thật. Những chiến thắng của quân dân Đài Loan trước quân Hà Lan, của quân Thanh trước quân Nga chẳng qua cũng chỉ là kinh nghiệm dùng cái thô sơ để chống chọi với cái tiên tiến. Người Trung Quốc đã biết đưa quân dùng ván ghép lại để che đạn, cho quân đi sau dùng đoản đao xung phong chặt chân người Tây dương. Lịch sử Trung Quốc gọi đó là Đằng bài quân. Điều may mắn cho họ là ở thế kỉ 17, súng đạn chưa có được sức mạnh sát thương ghê gớm như ngày nay. Cho nên họ đã chiến thắng được Tây dương quỷ.

Hansy
26-03-2013, 06:56 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

19.
KỸ THUẬT

Khái niệm khoa học - kỹ thuật là khái niệm khá mới mẻ, khái quát những phát minh sáng chế sử dụng phục vụ cho con người. Từ ngàn xưa, dân tộc Trung Hoa cũng có những phát kiến khoa học – kỹ thuật riêng của họ. Và thật thú vị khi ta gặp lại một số kỹ thuật sơ đẳng đó trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung.

Kim Dung cho ta biết người Trung Hoa đã biết sử dụng chất cường toan (acid) vào nhiều lĩnh vực khác nhau. Đầu tiên, chất acid dùng để viết chữ. Bộ Ỷ thiên Đồ long ký có nhắc đến sáu thanh Thánh hỏa lệnh của Bái hỏa giáo Ba Tư do 3 sứ giả của tôn giáo này đem vào Trung Quốc, dùng như một loại vũ khí, trên đó có khắc pho võ công quái dị của người Ba Tư. Trương Vô Kỵ, giáo chủ Bái hỏa giáo Trung Quốc (Kim Dung dùng từ Minh giáo – Manichéisme ) sử dụng võ công tuyệt thế đoạt lấy được các thẻ Thánh hỏa lệnh. Điều đặc biệt là các Thánh hỏa lệnh không phải bằng xương, bằng ngà, bằng thép mà bằng một lọai hợp kim rất lạ. Để viết được tâm pháp võ công trên Thánh hỏa lệnh, người Ba Tư phải nhúng thánh hỏa lệnh vào sáp, lấy cọ cứng viết chữ trên mặt sáp rồi dùng chất cường toan đồ theo nét chữ nhiều lần mới in sâu được chữ vào Thánh hỏa lệnh

Bọn hào sĩ giang hồ của Kim Dung đã biết dùng cường toan làm vũ khí chiến đấu. Trong Ngũ kỳ của Minh giáo Trung Quốc, có đội Hồng thủy kỳ chuyên dùng ống phun cường toan vào kẻ địch. Trên sân chùa Thiếu Lâm, họ đã biểu diển màn đánh cường toan vào bầy chó sói cho quần hùng mục kích. Bộ Tiếu ngạo giang hồ cũng nói đến kỹ thuật đánh cường toan này. Bọn giáo chúng Nhật Nguyệt giáo ngụy trang lên Hằng Sơn chúc mừng lễ nhậm chức chưởng môn của Lệnh Hồ Xung đã đem theo ống phun nước cường toan, vây hãm Lệnh Hồ Xung, Phương Chứng – trụ trì chùa Thiếu Lâm và Xung Hư – chưởng môn phái Võ Đang….

Kim Dung còn đề cập đến kỹ thuật dùng thuốc nổ. Đầu tiên thuốc nổ được dùng như một lọai pháo thăng thiên, nổ trên không trung cho ra những hình ảnh đặc biệt. Đây là cách triệu tập đồng môn, đệ tử của từng môn phái. Từ thuốc nổ làm pháo, Kim Dung bàn đến kỹ thuật chôn thuốc nổ để đánh mìn. Phái Tiêu Dao trong bộ Thiên Long bát bộ có kỹ thuật đánh mìn cực giỏi. Bọn Hàm Cốc bát hữu của phái Tiêu Dao dùng thuốc nổ làm mìn chống lại Đinh Xuân Thu. Trong Tiếu ngạo giang hồ, phái Võ Đang chôn thuốc nổ ở núi Hằng Sơn định tiêu diệt Nhật Nguyệt giáo. Trong Ỷ thiên Đồ long ký, Viên Chân (tức Thành Khôn) chôn thuốc nổ hòng tiêu diệt Minh Giáo. Họ đều biết cách chuyền dây dẫn, kích hỏa, tạo phản ứng nổ…

Lịch sử cho ta biết người Trung Hoa là dân tộc đầu tiên tìm ra thuốc nổ phục vụ nghề làm pháo. Điều thú vị là trong tiểu thuyết Kim Dung không có vụ nổ nào thành công bởi vì cuối cùng chẳng có ai kích hỏa. Tất cả đều kết thúc tốt đẹp, nhân vật giang hồ không ai chết tập thể vì thuốc nổ, dù đã được chôn theo đúng dự kiến.

Bộ Thiên Long bát bộ cho chúng ta biết kỹ thuật sử dụng chất lân (phosphore) làm vũ khí. Phái Tinh Tú của Đinh Xuân Thu lấy chất lân chế ra những viên đạn dùng để bắn vào thân thể người khác. Ngọn lửa xanh biếc của chất lân bám vào quần áo da thịt người bị bắn, bốc cháy khiến cho nạn nhân đau đớn kêu gào rất thảm thiết trước khi chết. Phái Tinh Tú sử dụng loại đạn này để trừng phạt các giáo đồ có âm mưu phản thầy, dối bạn đồng môn.

Sự thật của sức mạnh trong việc đánh nhau chủ yếu vẫn là vũ khí. Vũ khí càng mới mẻ, việc đánh nhau càng dễ đưa đến thành công. Trong Lộc Đỉnh ký nói đến kỹ thuật đúc súng đại bác: vua Khang hy lặng lẽ giao cho 2 giáo sĩ người Tây Dương là Nam Hoài Nhân và Thang Nhược Vọng luyện kim đúc súng đại bác. Nhà vua chuẩn bị việc đánh nhau với Bình Tây vương Ngô Tam Quế ở Vân Nam và với quân Nga ở biên giới Đông Bắc. Súng đại bác thời đó chưa có bộ phận kích hỏa, phải đốt mồi lửa sau đuôi trái đạn để tạo phản ứng nổ đẩy trái đạn bay đi. Đây là 1 dạng sử dụng thuốc bồi trong pháo binh hiện đại. Để buổi thao diễn kích thích tinh thần sĩ tốt, Nam Hoài Nhân và Thang Nhược Vọng cho xây sẵn những gò nổng làm mục tiêu, bên trong gò nổng chứa đầy diêm sinh, lưu huỳnh. Quả đạn rơi trúng mục tiêu nổ bùng khiến các chất trên bốc cháy rực trời. Bọn sĩ tốt phấn khởi, hoan hô vạn tuế muốn bể cả võ trường.

Kỹ thuật luyện kim được Kim Dung nhắc đến nhiều nhất trong các bộ tiểu thuyết võ hiệp của ông. Bọn hào sĩ giang hồ đánh nhau thường sử dụng đến 2 thứ vũ khí cổ điển là đao và kiếm. Kim Dung đề cập đến loại bảo đao, bảo kiếm như Đồ long đao và Ỷ thiên kiếm (Ỷ thiên Đồ long ký) chém sắt như chém bùn. Ông cũng đề cập đến các loại trủy thủ (dao găm) chế bằng hợp kim đặc biệt như lưỡi trủy thủ của Vi Tiểu Bảo trong Lộc Đỉnh ký. Loại trủy thủ này bén ngọt đến nổi Vi Tiểu Bảo đâm xuyên qua vách ván giết chết mấy Lạt ma Tây Tạng cứu thầy mình là Cửu Nạn sư thái mà người ở hiện truờng chẳng biết tại sao các Lạt ma chết đi. Trong Hiệp khách hành, ông đề cập đến một thứ lệnh bài làm bằng huyền thiết (thép đen) của Tạ Yên Khách. Tạ Yên Khách lấy kiếm chém vào Huyền thiết lệnh, kiếm gãy mà lệnh bài vẫn không suy suyển chút nào.

Nhắc đến thuật luyện kim, Kim Dung không quên khoác vào cho thuật này chất huyền bí. Trong Ỷ thiên Đồ long ký, ông kể lại chuyện quần hùng Minh giáo nối lại cây đao Đồ long đã gãy. Trên ngọn lửa đỏ phừng phừng, tất cả các loại kềm gắp bảo đao nóng quá, chảy ra thành chất lỏng mà bảo đao vẫn chưa nối lại được. Trương Vô Kỵ phải cho bọn giáo chúng mượn bốn thanh Thánh hỏa lệnh kẹp bảo đao. Ngọn lửa cháy cao, một thuộc hạ của Vô Kỵ phải múa kiếm đâm bạn mình cho máu phun vào chỗ đương ráp nối, bảo đao mới lành lặn lại được. Câu chuyện nhắc ta nhớ lại huyền thoại luyện 2 thanh kiếm Can tương và Mạc gia (Mạc tà) thời Chiến quốc.

Ỷ thiên Đồ long ký cũng đề cập đến việc sử dụng dầu đá (thạch du – dầu thô lấy từ mỏ ra, chưa được chế biến) của người Trung Quốc cuối đời Nguyên. Trong đội ngũ kháng chiến của Minh giáo có đội Liệt hỏa kỳ chuyên lấy dầu thô phun qua ống thụt để đánh hỏa công. Nói đến việc lấy dầu thô là nói đến kỹ thuật khai thác quặng mỏ. Minh giáo bắt nguồn từ Ba Tư nên rất rành kỹ thuật khai thác loại dầu này.

Nhưng tôi vẫn nghĩ rằng kỹ thuật lạ nhất được Kim Dung đề cập đến là kỹ thuật chưng cất rượu. Kỹ thuật này được đề cập trong Tiếu ngạo giang hồ. Đan Thanh tiên sinh ở Giang Nam đem 3 chiêu kiếm truyền cho kiếm khách Mạc Hoa Nhĩ nguời Thổ Lỗ Phồn (Thổ Phồn – Tourfan) để đổi được 4 thùng rượu Bồ đào đã cất được 120 năm. Vận chuyển loại danh tửu này từ Thổ Lỗ Phồn về đến Giang Nam phải mất bốn tháng, đường đi lại khó khăn nên đến Giang Nam chất rượu lại chua, không được thuần mỹ. Đan Thanh vào hoàng cung, bắt cóc một chuyên gia của ngự trù phòng chuyên chưng cất rượu cho vua uống đem về Giang Nam buộc gã phải chưng lại mấy thùng Bồ đào tửu cho mình. Rượu được chưng lại đúng 13 tháng thì Đan Thanh gặp được “ông trùm” uống rượu Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung mới uống một hớp Bồ đào tửu đã lấy làm lạ, nhận xét trong cái mới có cái cũ, trong cái cũ có cái mới, dường như đã 120 năm mà cũng dường như mới 12 tháng. Đan Thanh hân hoan cho biết thứ Bồ đào tửu này đã được Mạc Hoa Nhĩ 3 lần cất, 3 lần chưng, về đến Giang Nam lại chưng cất thêm một lần nữa. Cho nên vị rượu vừa 120 tuổi mà cũng vừa 13 tháng là như vậy.

Kỹ thuật sau cùng đáng quan tâm là kỹ thuật dệt kim. Kim Dung giới thiệu một loại bảo y hộ thân rất hiệu nghiệm, được dệt bằng sợi kim ty (tơ kim khí) phối hợp với tơ tằm ngàn năm trên đỉnh Tuyết Sơn. Loại áo này là nội y, mặc lót bên trong, đao kiếm đâm không lủng, quyền chưởng đánh không bị chấn động. Trong Lộc Đỉnh ký, Khang Hy mặc 1 chiếc, Vi Tiểu Bảo mặc 1 chiếc. Quả nhiên không ai chơi nổi cả vua tôi nhà này.

Nhân loại càng tiến bộ, kỹ thuật càng phát triển. Tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung đơn thuần là tiểu thuyết, hoàn toàn không có ý định giới thiệu sự tiến bộ trong khoa học- kỹ thuật của người Trung Quốc. Ông cứ viết vậy, chúng ta đọc và tưởng tượng. Còn tưởng tượng đến đâu là quyền chúng ta.

Hansy
27-03-2013, 04:52 AM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI


20.
THỨC ĂN TRUNG HOA

Miếng ăn bao giờcũng quý giáo đối với con người. Đặc biết đối với dân tộc Trung Hoa ngày trước, một dân tộc sống nhờ vào sản xuất nông hiệp lạc hậu, lải phải luôn đối đầu với những thiên tai khủng khiếp hhàng năm thì miếng ăn quả thật rất cần thiết và rất rất quý. Từ điển tiếng Hoa gọi chung các loại thức ăn là ngọc thực (món ăn vàng ngọc). Làm ra miếng ăn để có ăn đã quý. Thức ăn được chế biến tinh xảo; nhìn sướng mắt, ngửi thơm mũi, chạm vào thấy nóng, ăn vào miệng thấy ngon lại còn quý hơn. Mà trên thế giới, dân tộc Trung Hoa là dân tộc nồi tiếng biết chế biến nhiều món ăn ngon nhất và thậm chí, cầu kỳ nhất. Chính vì vậy, thức ăn trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung – có lẽ là một người Trung Hoa sành ăn - cực kỳ phong phú. Trình độ hiểu biết về các món ăn khắp các miền, hiểu biết cách chế biến thức ăn từ thô sơ đến tinh xảo của tác giả không khỏi khiến chúng ta ngạc nhiên thú vị.

Triều Tống, từ bờ Bắc sông Hoàng Hà ra đến biên giới Ngoại Mông được gọi là miến Bắc. Khí hậu quanh năm tương đối lạnh, Kim Dung cho biết họ thường ăn các loại bánh bao không nhân với các loại thịt cừu, thịt trâu, thịt bò kho. Đọc Thiên Long bát bộ, ta biết các bộ tộc Khất Đan và Nữ Chân nuôi nhiều loại gia súc này dưới dạng chăn thả; thịt để làm thức ăn, da để làm áo quần, lều trại, túi đựng rượu. Thiên nhiên hào phóng và hoang sơ cũng đem lại cho người phương Bắc nhiều thức ăn, mang tính bổ dưỡng cao. Thiên Long bát bộ có đoạn kể chuyện Tiêu Phong bồng A Tử ra Nhạn Môn quan chữa thương, chuyên đánh giết gấu để lấy bàn tay gấu (hùng chưởng) và mật gấu cho A Tử uống. Nơi đây gần núi Trường Bạch, Tiêu Phong cũng dễ kiếm ra củ nhân sâm có giá trị cải tử hoàn sinh cho A Tử dùng. Ông nuôi cô em vợ bằng những thức ăn là dược vật trân quý dẫu có ngàn vàng cũng khó tìm mua.

Từ bờ Nam sông Hoàng Hà đổ về hết phương Nam Trung Quốc, cách chế biến đồ ăn có vẻ ngon lành hơn, tinh vi hơn. Tất nhiên, nơi ăn ngon nhất thiên hạ Trung Quốc vẫn là Bắc Kinh, đặc biệt là trong hoàng cung nội viện. Lộc Đỉnh ký cho biết dưới triều Khang Hy, để phục vụ chuyện ăn uống cho hoàng gia, có cả một ngự trù phòng, đứng đầu là một tay thượng thiện thái giám, phía dưới có hàng trăm thái giám chuyên mua sắm, chế biến thức ăn. Thức ăn chơi gồm bánh mứt - Kim Dung gọi là đồ điểm tâm, khác hẳn khái niệm điểm tâm của chúng ta là ăn sáng – đã gồm cả trăm thứ. Chế biến xong, bọn thái giám đặt lên đầy cả bàn để dâng vua Khang Hy. Nhưng Khang Hy chán lối ngồi ăn trên bàn; nhà vua muốn… ăn vụng. Và nhờ đi ăn vụng bánh nướng, bánh da lợn, nhà vua đã gặp anh bạn trẻ Vi Tiểu Bảo (cũng là trùm ăn vụng!). Cho hay, ăn vụng luôn luôn hấp dẫn đối với con người, cái gì ngay ngắn quá, chính quy quá cũng trở nên phiền toái.

Vâng, đồ ăn trong hoàng cung là ngon nhất và đa dạng nhất bởi hoàng cung quy tụ đủ các anh tài nấu ăn trên toàn cõi Trung Hoa. Sau khi biết Mộc Kiếm Bình là cô gái người Vân Nam, Vi Tiểu Bảo đã ra lệnh cho ngự trù phòng nấu món Tuyên oai hoả thoái - một món canh giò heo thơn ngon nhiều nước mỡ - để đãi cô gái nhỏ này khiến cô vô cùng ngạc nhiên.

Trên nguyên tắc, thứ gì ngon thì đổ vào hoàng cung nhưng trên thực tế, định đề ấy hơi bị sai. Kim Dung chua chát nhận ra rằng bao giờ cũng có nạn tham nhũng, nhà thầu nào đưa đồ ăn ươn thối cho ngự trù phòng mà có món tiền lót tay kha khá thì thức ấy vẫn đáng dâng lên cho vua và thái hậu dùng; nhà thầu nào quên tiền lót tay thì dẫu cá tươi, thịt sống cũng trở thành đồ ươn thối.. Chính nhờ nạn tham nhũng đó mà bọn Tiền Lão Bản trong Thiên Địa hội đưa hai con heo Hoa điêu phục linh trư và Đậu hoàng nhân sâm trư mổ sẵn vào hoàng cung, trong bụng heo nhét được cả... một cô gái (Mộc Kiếm Bình) đưa vào để Vi Tiểu Bảo trao đổi “tù binh” sau này.

Lại cũng từ chuyện hoàng cung là nơi có thức ăn ngon nhất Trung Hoa làm nảy sinh những tay… ăn trộm đồ ăn. Một tay ăn trộm thuộc loại thượng thừa là Cửu chỉ thần cái Hồng Thất Công (Xạ điêu anh hùng truyện) chuyên vào ngự trù phòng, đánh cắp thức ăn đã chế biến sẵn. Lão này ăn cũng dữ mà uống cũng vô địch, suốt đời lấy ăn làm lẽ sống. Một tay trùm ăn mày như vậy cũng đáng để chúng ta học tập làm… ăn mày!

Bọn hào sĩ giang hồ của Kim Dung là phường ăn mạnh, uống đậm. Họ hội họp ở đâu là nơi đó có mùi rượu thịt xông lên nhức mũi. Khi đám bàng môn tả đạo về đầu nhập phái Hằng Sơn, tình nguyện làm đệ tử Lệnh Hồ Xung để cho Lệnh Hồ Xung khỏi mang tiếng cầm đầu một đám nữ ni; Lệnh Hồ Xung đã cấm họ không được đặt chân lên ngọn Kiến Tính (núi chính của Hằng Sơn). Họ giữ lời hứa không lên nhưng vẫn xào heo, nấu bò bày tiệc nhậu; trong chốn cửa Phật thanh tịnh, bỗng vang mùi hành tiêu, mỡ thịt. Cho hay, cái ăn nuôi sống con người; miếng ăn ngon cũng góp phần làm cho phẩm giá con người rực rỡ. Tội gì không ăn!

Có lẽ đất Trung Quốc có nhiều quán cơm (phạn điếm) và tiệm rượu (tửu lâu) nhất thiên hạ. Chẳng vậy mà cô bé A Tử trên đường trốn thầy mình, sẵn sàng kêu rượu và các món nhậu để… thuốc đồng môn. Cô này ăn xài rất phí: gọi đĩa thịt bò ra, ngang nhiên cầm miếng thịt… lau giày, con cá chép còn sống mới chiên xong lại gọi là cá ươn. Đoạn buồn cười nhất của Thiên Long bát bộ là đoạn nhà sư Hư Trúc gặp A Tử trong quán cơm. Nhà sư ăn chay từ nhỏ, chỉ dám gọi độc món mì chay. A Từ đánh lừa cho nhà sư nhìn đi nơi khác rồi lén đổ vào vài muỗng nước mỡ. Hôm ấy Hư Trúc ăn tô mì chay cảm thấy hết sức thơm ngon, khoông ngờ món này khác món chay ở chùa Thiếu Lâm một trời một vực.
Thức ăn chay của Trung Hoa cũng rất phong phú. Đọc Thiên Long bát bộ, ta biết chùa Thiếu Lâm có khu vườn rộng hàng trăm mẫu trồng rau dưa; các nhà sư bị kỷ luật phải gánh nước, gánh phân tưới bón hàng ngày. Quần hùng lên chùa Thiếu Lâm là được thiết đãi cơm chay. Quần hùng Ma Ni giao (Ma giáo, tiếng chỉ chung Manichéisme – Bái hỏa giáo Trung Hoa) cũng ăn chay. Hễ thấy đám nào mặc áo trắng, vào tiệm cơm không gọi thịt cá mà chỉ ggọi rau dưa, đậu hũ thì đó là bọn giáo chúng Manichéisme. Có những tập thể không ăn chay nhưng khi đi ra ngoài hành sự, họ thường mang thức ăn không đi theo để dễ chế biến. Hai loại thức ăn dễ mang theo nhất là bánh bao chay và mì. Trong Hiệp khách hành, bọn Kim Đao trại tấn công Ngô Đạo Nhất ở thành Biện Lương xong, rút ra ngoài đồng hoang nấu mìn lên húp soàn soạt. Loại thức ăn này toàn tinh bột, không có thịt, cũng là món chay.

Trên đây, tôi chỉ mới bàn với các bạn những món ăn chính quy, bài bản, có kẻ nấu bán, có người mua ăn. Đọc Kim Dung ta còn thấy thú vị với những món ăn và cách chế biến thức ăn cực kỳ hoang dã.

Trong Thần điêu hiệp lữ, Kim Dung kể chuyện Dương Qua và Hồng Thất Công bắt được một loại rít lớn trên núi tuyết, nước lên, lột bỏ lớp vỏ kitin đi, còn lại một loại thịt thơm ngon như thịt tôm. Món nước trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung rất phong phú. Trong Tiếu ngạo giang hồ, Doanh Doanh đã bắt ếch nướng lên nuôi chàng Lệnh Hồ Xung. Kim Dung mô tả món ếch nướng rất thơm ngon, kể cả những miếng Doanh Doanh lỡ để quên đến nỗi cháy khét!

Con người càng đó lại càng cần ăn. Nhu cầu ham sống quả thật khốc liệt đến nỗi thấy miếng ăn là người ta lao tới, đôi khi không cần đến sự chế biến và đôi khi người ta ăn cả thịt người! Trong Tiếu ngạo giang hồ, có đoạn thuật chuyện Hướng Vân Thiên đã dùng chỉ công đâm vào tĩnh mạch trên cổ ngựa và kê miệng vào uống máu sống. Uống no xong, lão bảo Lệnh Hồ Xung kê miệng vào uống tiếp. Kim Dung cho biết máu ngựa rất tanh nhưng trong hoàn cảnh của hai người, máu ngựa vẫn là một loại thực phẩm cứu đói kịp thời. Khi đã xuống tới thung lũng sâu, Hướng Vân Thiên lại đói bụng, thầm tiếc không tìm ra xác chết nào của bọn thù địch rớt xuống để lão dùng cho đỡ đói!

Như chúng ta đã nói, Trung Quốc xưa là một đất nước có nền nông nghiệp lạc hậu, thường gặp thiên tai, địch hoạ. Cái đói thường xuyên đe doạ người Trung Quốc suốt cả chiều dài lịch sử. Cho nên thật dễ hiểu khi dân tộc này chọn nền kinh tế trọng nông. Một khi cái đói đến thì con người mất hết tính người, sẵn sàng ăn thịt đồng loại. Trong Ỷ thiên Đồ long ký kể chuyện Trương Vô Kỵ 15 tuổi dẫn em bé Dương Bất Hối 6, 7 tuổi tìm lên Thiên Sơn. Đi ngang qua tỉnh Sơn Tây, Vô Kỵ và Bất Hối bị một nhóm thổ phỉ bắt, định làm thịt nấu ăn. Vô Kỵ nhanh trí hái một mớ nấm độc bỏ vào nồi nước sôi, đầu độc những kẻ muốn hại mình và Bất Hối. Sau đó, cậu bé mới được Chu Nguyên Chương, cũng là thổ phỉ, đi tu ở chùa Hoàng Giác, cho ăn thịt bò kho.

Điều thú vị trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung là nhiều khi một món ăn tào lao lại trở thành một món thuốc làm tăng trưởng công lực cấp kỳ. Thiên Long bát bộ kể chuyện Đoàn Dự ngẫu nhiên nuốt trúng con Mãng cổ chu cáp (con ếch có tiếng kêu như con bò), là một loại độc vật hạng nhất, tưởng rằng chắc chắn sẽ chết. Oái oăm thay, đó lại là một món thần vật đại bổ, ăn vào phát huy khả năng thần kỳ đến nỗi chàng ta không còn bị nhiễm bất cứ loại độc dược nào. Đoàn Dự trở thành một kẻ “bách độc bất xâm” (trăm thứ độc không thể thâm nhập được), Kim Dung gọi đó là Mãng cổ chu cáp thần công!

Có những thức ăn đối với người này là độc hại, đối với người kia là đại bổ. Ta có thể tìm thấy một thí dụ như vậy trong Tiếu ngạo giang hồ. Trên sông Trường Giang, Lam Phượng Hoàng – giáo chủ Ngũ Độc giáo Vân Nam – tìm đến thăm và chữa bệnh cho Lệnh Hồ Xung. Cô cho chàng trai uống Ngũ Độc tửu. Thế nào là Ngũ Độc tửu? Đó là loại rượu ngâm 5 loại trùng độc hạng nhất của Ngũ Độc giáo: một con rắn, một con rít, một con bò cạp, một con cóc và một con nhện cực độc. Uống xong hũ rượu, Lệnh Hồ Xung còn phải nuốt 5 con trùng độc kia vào bụng. Ngũ Độc giáo gọi đó là Ngũ tiên. Món “Ngũ tiên” kia đối với người Trung Nguyên là độc vật nhưng đối với Lam Phượng Hoàng người Vân Nam là thứ đại bổ, không dễ tìm ra được.

Ăn uống là một dạng nạp năng lượng; có năng lượng mới có sự sống đúng nghĩa. Mà suy cho cùng, quyền gần gũi nhâấ đối với con người là được ăn, được ăn no đủ, được ăn ngon. Tác phẩm võ hiệp của Kim Dung phản ảnh về cái ăn, thức uống, về cách ăn Trung Hoa khá phong phú. Phải nói đọc tác phẩm của ông, ta có thể hình dung ra một phong cách văn hóa ẩm thực Trung Quốc lẫn khuất sau những bữa ăn, đồ ăn, nơi ăn, trạng thái ăn. Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn đánh nhau tơi bời rồi sau đó, lặng lẽ tìm về một quán cóc nhỏ, ngồi bên nhau ăn những thức ăn nhẹ và đối ẩm mấy chung. Hay như chiếc bánh chưng Hồ Châu (Giang Nam) được xếp loại Hồ Châu tam bảo (sau bút lông và gấm đoạn) dù nó chỉ được gói bằng là chuối, nếp, nhân đậu xanh, nấm, thịt…

Trong những bữa ăn của tiểu thuyết võ hiệp, lấp lánh thứ ánh sáng hạnh phúc ngọt ngào của tình yêu đôi lứa. Doanh Doanh nướng ếch nuôi Lệnh Hồ Xung; Hoàng Dung săn bắn nuôi Quách Tĩnh; Triệu Mẫn gọi thức ăn chờ Vô Kỵ đến cộng ẩm… Tất cả là vì tình yêu đôi lứa. Chính vì có tình yêu làm tố chất nên không cần đến bàn ghế, chén đĩa mà bữa ăn vẫng vang lên tiếng cười hạnh phúc.

Hansy
27-03-2013, 04:53 AM
KIM DUNG
GIỮA ĐỜI TÔI

***

Vũ Đức Sao Biển

***

PHẦN 3





21. Tinh thần Phật giáo
22. Libido
23. Nghệ thuật tiểu thuyết của Kim Dung
24. Kim Dung đặt lại mấy vấn đề lịch sử
25. Kim Dung và ngôn ngữ xã hội hóa
26. Kim Dung - Hồn tính lãng mạn phương Đông
27. Kim Dung và những ông thần si tình
28. Kim Dung và "Thiên ngoại hữu thiên"
29. Kim Dung và Vạn sự giai không
30. Kim Dung và chữ Xuân




http://sachkhaitam.com/files/product/879/4d79da2d-a9d1-4d36-a71d-6978ef8bd5b4.jpg

Hansy
27-03-2013, 01:10 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

21.
TINH THẦN PHẬT GIÁO

Đọc quyển lịch sử Phật giáo Trung Quốc của Thượng toạ Thích Thanh Kiểm (NXB Vạn Hạnh 1963), tôi thấy ngài đưa ra 2 thuyết rất đáng tin cậy để cắt nghĩa sự du nhập của Phật giáo vào Trung Quốc. Thượng toạ cho biết thời Hán Ai đế (-6TrCN), một sứ giả nước Đại Nhục Chi (Indo-Scythe) đưa kinh điển của Phù đồ giáo (Bouddho, tức Phật giáo) truyền miệng cho Trần Cảnh Hihến, một viên quan của Hán Ai đế. Sau đó, vua Hán Minh đế (67) phái 18 người sang Tây Vực để thỉnh tượng và kinh điển Phật giáo về. Giữa đường, gặp hai cao tăng nước Thiên Trúc là Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đang đưa kinh tượng xuống Trung thổ, họ mừng rỡ rước hai cao tăng v62 Trung Quốc. Hán Minh đế cho dựng Bạch Mã tự để xiển dương Phật giáo, làm nơi dịch kinh cho các cao tăng. Bộ kinh Phật đầu tiên được dịch ra Hán văn là Tức thập nhị chương kinh. Đến cuối đời Hậu Hán, Phật giáo gần như đã lan truyền khắp xã hội Trung Quốc.

Có lẽ trong những nhà văn Trung Quốc, Kim Dung là nhà văn thể hiện một cách đều khắp và sâu sắc nhất tinh thần Phật giáo qua các tác phẩm tiểu thuyết của mình. Trong 12 bộ tiểu thuyết, Kim Dung luôn nhắc đến sự tích Đạt Ma sư tổ từ Thiên Trúc sang Đông thổ, lên ngọn Thiếu Thất tỉnh Hồ Nam, diện bích (nhìn vách) chính năm, sáng lập ra phái Thiếu Lâm. Phái Thiếu Lâm được ông gọi là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ lâm Trung Quốc. Hình tượng các nhà sư Thiếu Lâm với tấm tăng bào rộng thùng thình, xuất hiện đúng tình huống tiểu thuyết, Phật lực cao cường. võ công siêu việt, sẵn sàng xả thân tế khổn phò nguy, hàng yêu diệt ma đã quá quen thuộc với bạn đọc tiểu thuyết võ hiệp.

Một số nhân vật tiểu thuyết là tăng sĩ đã trở thành hình tượngg văn học, được tác giả khắc họa một cách tinh tế: Huyền Từ - phương trượng chùa Thiếu Lâm, Trí Quan - trụ trì chùa Chỉ Quán núi Thiên Thai, Hư Trúc - tiểu tăng chùa Thiếu Lâm (Thiên Long bát bộ); Vô Sắc – cao tăng Thiếu Lâm (Ỷ thiên Đồ long ký); Phương Chứng – cao tăng Thiếu Lâm (Tiếu ngạo giang hồ)… Phật giáo du nhập vào Trung Quốc đủ cả mười tông phái; tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung dành niềm ưu ái lớn cho Thiến tông. Tuy nhiên, Thiền tông trong tiểu thuyết Kim Dung không dừng lại ở chỗ những công án, không nặng nề về chủ trương “dĩ tâm truyền tâm, dĩ ý truyền ý”. Thiền tông trong tiểu thuyết Kim Dung là một thú Thiền tông nhập thể và nhập thế: tu học để tinh tường Phật pháp, thấu hiểu cái lẽ huyền vi của cuộc sống; rèn luyện võ công để hành hiệp cứu đời. Phật pháp càng cao, võ công càng siêu viiệt; võ công càng cao, Phật pháp càng tinh tấn. Những nhà sư trong tác phẩm của ông là những nhân vật lý tưởng. Họ là những hiệp khách đích thực trong cuộc chiến đấu chống cái ác và khi cuộc chiến đấu chấm dứt, họ là những triết gia với các triết lý rất gần gũi với cuộc sống.

Ta hãy nghe một bài kệ của nhà sư Trí Quan ứng tác trước khi qua đời, đọc cho Kiều Phong nghe khi Kiều Phong vất vả đi tìm nguồn gốc của mình là người Há hay người Khất Đan (Thiên Long bát bộ):

Khất Đan với Hán nhân
Bất luận giả hay chân
Ân oán cùng vinh nhục
Không hơn đám bụi trần.

Phật giáo trong tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung là một tôn giáo yêu nước, luôn luôn trung thành với sự nghiệp bảo vệ đất nước và giải phóng dân tộc. Trong Ỷ thiên Đồ long ký, Xạ điêu anh hùng truyện, Thần điêu hiệp lữ, các tăng lữ đã xông trận cùng quần hùng Trung nguyên đánh đuổi quân Mông Cổ. Những cuộc hội họp của hào sĩ giang hồ Trung Quốc bàn kế chống giặc giữ nước, dựng cờ khởi nghĩa thường diễn ra trong khuôn viên chùa Thiếu Lâm. Đoạn tiểu thuyết mà tôi cho là giàu tính anh hùng ca nhất là đoạn toàn thể nhà sư chùa Thiếu Lâm sát cánh cùng quần hùng Minh giáo, phá vòng vây quân Mông Cổ định san bằng chùa Thiếu Lâm (Ỷ thiên Đồ long ký).

Mỗi khi đất nước đối đầu với nguy cơ bị ngoại xâm thì Phật giáo là một chỗ dựa vững chắc nhất cho chính quyền quân chủ và nhà sư là những chiến sĩ đi đầu trong việc phá vỡ âm mưu ngoại xâm đó. Trong Thiên Long bát bộ, Khô Vinh đại sư phải hủy bộ Lục mạch thần kiếm kinh là để người Thổ Phồn không thể chiếm được võ công trấn quốc của nước Đại Lý; quần hùng cùng phái Thiếu Lâm xông pha vào phủ Nam viện của Khất Đan ở Yên Kinh cứu Kiều Phong, đưa quần hùng ra Nhạn Môn quan tập kích người Khất Đan để phá vỡ mầm mống xâm lược Trung Quốc có thể xảy ra. Trong Lộc Đỉnh ký, vua Khang Hy đã dựa vào lực lượng tăng lữ chùa Thiếu Lâm để bảo vệ phụ hoàng Thuận Trị, phá vỡ âm mưu chính trị của liên quân Mông Cổ - Tây Tạng.

Có lẽ Kim Dung là một Phật tử thuần thành, am hiểu Phật giáo một cách sâu sắc. Tiểu thuyết là sản phẩm của sự hư cấu, Kim Dung đã hư cấu cho phái Thiếu Lâm có đến 72 môn công phu huyền diệu gọi là Thất thập nhị huyền công. Mỗi môn công phu đều sử dụng kình lực dương cương, có sức mạnh tan bia vỡ đá. Các môn công phu đều có tên gọi xuất phát từ kinh đểin Phật giáo: Niêm hoa chỉ, Bát Nhã chưởng, Vi Đà chưởng, Vô tướng kiếp chỉ, Đa la diệp chỉ, Đạt Ma kiếm pháp, Sư tử hống, Đồ đề chưởng, Phục ma trượng pháp… Trong cuộc đấu tranh, chính pháp huyền môn luôn luôn thắng ta môn ma đạo. Cái thắng ấy nằm trong ước lệ chính đạo thắng bàng môn.

Có khi Kim Dung sử dụng kinh điển Phật giáo là cái hồn cho toàn bộ tác phẩm. Thiên Long bát bộ là một thí dụ cho nhận định này. Thiên Long là tên một ngôi chùa ở Vân Nam, nước Đại Lý (thời Bắc Tống). Thế nhưng trong Pháp hoa kinh, Thiên Long bát bộ “bao gồm tám loại quỷ thần hay quái vật”. Thiên Long bát bộ gồm: Thiên thần, Long thần, Dạ xoa, Kiền Đạt Bà, A Tu La, Già Lâu La, Khán La Na và Ma Hô La Gia. Trong Thiên Long bát bộ, Kim Dung xây dựng tám nhân vật lớn, tám sự tích; mỗi nhân vật và sự tích ấy tương ứng với một “bộ” của bát bộ.

Trong Tiếu ngạo giang hồ, tác giả trích luôn Bảo tích kinh và Diệu pháp liên hoa kinh để xây dựng mối tình Nghi Lâm - Lệnh Hồ Xung. Lời kinh cầu cho Lệnh Hồ Xung tai qua nạn khỏi được Nghi Lâm niệm với cả niềm tin, một lòng thành tuyệt vời khiến Lệnh Hồ Xung trong cơn đau đớn vẫn nhận ra nơi người bạn nhỏ hào quang của sự thánh thiện.

Đưa tinh thần Phật giáo vào trong tác phẩm văn học là điều không mới lạ trong lịch sử văn học Trung Quốc. Cái mới lạ là Kim Dung đưa tình thần ấy vào tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp và ông chuyên canh một cách sâu sắc. Chất Từ, Bi, Hỉ, Xả, nhân bản, nhân văn trong tinh thần Phật giáo biến những tác phẩm nặng tính tranh đấu, sát phạt trở thành những bài tình ca ca ngợi phẩm giá con người, ca ngợi cuộc sống hòa bình trung chính.


TINH THẦN PHẬT GIÁO

Hansy
02-04-2013, 07:11 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

22.
LIBIDO

Tôi không có tham vọng đem khái niệm Libido của triết học Tây phương để mổ xẻ các vấn đề thuộc phạm trù tâm lý, tình cảm trong tác phẩm văn học Đông phương. Tuy nhiên con người khắp nơi trên thế giới đều có những mẫu số chung trong hoạt động tâm lý, tình cảm, bởi họ đều là con người. Và tôi đã thận trọng giới hạn vấn đề mình sắp bàn đến trong hai chữ “thử nhìn”.

Tâm phân học (Psychanalyse) là một trường phái triết học Tây phương mà ông tổ sản sinh ra nó là Sigmund Freud. Tâm phân học đạt được một số thành tựu nhất định trong việc góp phần cắt nghĩa các hoạt động của năng lực tình dục; cắt nghĩa Ngã (Moi), Đại Ngã (Grand Moi) và Siêu Ngã (Sur-Moi); thế giới của ý thức, vô thức và tiềm thức… Tôi nhìn thấy trong các tác phẩm võ hiệp Kim Dung một số vấn đề khá gần gũi với cách cắt nghĩa của tâm phân học.

Khi sáng tạo và giải thích tâm phân học, Sigmund Freud cùng các đồ đệ của ông như Alfred Adler, Karl Gustav Jung có tham vọng phân tích trạng thái tâm lý con người như là 1 thực thể, được chia cắt ra thành nhiều phần khác nhau. Thế giới tâm lý không còn là thế giới trừu tượng nữa; nó có hình thù hẳn hoi: có đáy, có đỉnh, có miền, có khu vực… Libido là 1 thuật ngữ khá đặc biệt của tâm phân học, được hiểu như là năng lực tình dục (énergie de la pulsion sexuelle). Libido được coi như nền tảng của hoạt động tâm lý, giữ vai trò hình nhi hạ trong khi tình yêu giữ vai trò hình nhi thượng. Nếu hoạt động tâm lý được coi như 1 tam giác cân thì Libido là cái đáy mà tình yêu là cái đỉnh. Libido là năng lực bẩm sinh trong từng con người, năng lực ấy được thể hiện một cách khác nhau trong từng thời kỳ trưởng thành của cá nhân. Thí dụ: ở trẻ sơ sinh là thời kỳ bú mút, ở tuổi dậy thì là thời kỳ thủ dâm, và sau đó là thời kỳ tình dục…

Khi Libido được thỏa mãn, cá nhân mới giữ được trạng thái thăng bằng. Nếu Libido bị ngăn trở, cá nhân bị ẩn ức. Ẩn ức là trạng thái các khuynh hướng bị ngăn trở, không thực hiện được, trở thành một thứ xung động nội tâm, được gọi là refoulement. Hãy hình dung ẩn ức như một quả bong bóng bơm căng, không có chỗ để thoát hơi ra, tức là không có chỗ để thỏa mãn được theo sự đòi hỏi của tự nhiên của năng lực tình dục. Trong trường hợp này, cá nhân tự đi tìm một trong hai cách thế để phát tiết. Một - Libido bị sa đọa, cá nhân trở thành đồng tính luyến ái, ghê sợ tình dục, điên loạn, tâm thần phân liệt, trầm cảm… Hai - Libido được thăng hoa trở thành những tình cảm, khát vọng cao thượng: say mê tôn giáo, khoa học, đam mê sáng tạo văn học, nghệ thuật, âm nhạc… Hiểu theo quan điểm của tâm phân học thì những người trong các nhà thương tâm thần là những người bị sa đọa Libido; thành quả âm nhạc rực rỡ của Beethoven, Mozart, Tchaikovsky là sự thăng hoa của Libido.

Tác phẩm võ hiệp của Kim Dung đã chứng minh được một số trường hợp năng lực Libido sa đọa. Tiếu ngạo giang hồ xây dựng nhân vật Đông Phương Bất Bại của Triêu Dương thần giáo ham luyện Quỳ hoa bảo điển, đã tự “phăng teo” cái “xíu xiu” nam giới của mình, trở thành kẻ đồng tính luyến ái. Ấy, bởi vì câu mở đầu của Quỳ hoa bảo điển ghi: “Võ lâm xưng hùng, dẫn đao tự cung”‘ (Muốn xưng hùng võ lâm, phải dùng dao tự thiến). “Tự cung” tức là triệt tiêu hẳn năng lực tình dục. Hắn đâm ra mê lú, “yêu” tên đệ tử to con tốt tướng Dương Liên Đình, đánh nhau với người khác bằng một mũi kim thêu và với tư chức mỹ lệ của một phụ nữ! Tiếu ngạo giang hồ cũng xây dựng 2 trường hợp “tự cung” khác- Nhạc Bất Quần và Lâm Bình Chi. Cả hai đều mất giới tính và sau đó, mất cả nhân tính. Nhạc Bất Quần bức tử vợ là Ninh Trung Tắc; Lâm Bình Chi giết vợ là Nhạc Linh San. Đau đớn thay, khi Nhạc Linh San chết đi, cô hãy còn là trinh nữ.

Hiệp khách hành xây dựng một trường hợp Libido sa đọa khác. Đó là nàng Mai Phương Cô yêu Thạch Thanh mà không được chung sống cùng chàng. Mai Phương Cô đã bắt cóc đứa con nhỏ của vợ chồng Thạch Thanh – Mẫn Nhu đưa về hoang sơn nuôi, gọi tên thằng bé là Cẩu Tạp Chủng (chó lộn giống). Nói theo Alfred Adler, Mai Phương Cô đã làm 1 động tác bù trừ: trả thù tình nhân, tình địch không được, Mai Phương Cô thóa mạ con của tình nhân, tình địch cho bõ ghét. Người phụ nữ ấy sống trong trạng thái trầm cảm, tự rạch bộ mặt mỹ miều của mình cho xấu xí và suốt đời không xuất hiện trước một ai. Khi Thạch Thanh lên núi tìm ra tông tích con trai, Mai Phương Cô tự vẫn.

Trong Thiên Long bát bộ, Mộ Dung Phục là hậu duệ của dòng giống Tiên Ty nước Đại Yên, suốt đời đam mê khát vọng phục quốc. Từ chối mối tình đằm thắm của nàng thiếu nữ xinh đẹp Vương Ngữ Yên, Mộ Dung Phục sang Tây Hạ hy vọng được tuyển làm chồng của công chúa Ngân Xuyên, trở thành phò mã Tây Hạ, đem quân Tây Hạ về đánh Trung Quốc để phục hưng Đại Yên. Nỗi đam mê ấy biến Mộ Dung Phục trở thành kẻ bạc nghĩa, vô tình, giết luôn đám thủ hạ thân tín của mình, sẵn sàng làm con nuôi Đoàn Diên Khánh, nghĩa là từ chối họ Mộ Dung. Cuối cùng Mộ Dung Phục đã phát điên, ngồi trên gò mả, đội mũ lá làm vua, gọi các trẻ em chăn bò đến làm quan và đem kẹo phân phát cho chúng.
Ở trạng thái thứ 2, năng lực Libido được thăng hoa trở thành những khát vọng, tình cảm cao thượng. Kim Dung cũng đã khắc họa cho người đọc một số hình ảnh cụ thể. Đó là Nhất Đăng đại sư, vốn là vua nước Đại Lý, được thuật trong Xạ điêu anh hùng truyện. Nhà vua đặc biệt sủng ái nàng thứ phi Anh Cô. Thế nhưng, Châu Bá Thông của phái Toàn Chân đến chơi Đại Lý, quan hệ tình dục với nàng Anh Cô khiến nàng sinh ra một đứa con không được thừa nhận. Hiểu ra điều ấy, nhà vua đau đớn bỏ hoàng gia đi tu, trở thành một nhà sư Phật lực cao cường, từ bi đạo hạnh. Và trong Thần điêu hiệp lữ thuật lại, đôi bạn Vương Trùng Dương và Lâm Triều Anh yêu thương nhau. Đáng lẽ, họ đã sống đời sống lứa đôi, nhưng tình yêu lại trắc trở. Vương Trùng Dương suốt đời sống trong Trùng Dương cung; Lâm Triều Anh suốt đời sống trong ngôi cổ mộ dưới núi Chung Nam, tự xem mình là một người Sống-đã-chết (Hoạt tử nhân).

Chung Nam sơn hạ
Hữu Hoạt tử nhân
(Dưới Chân núi Chung Nam
Có người sống đã chết).

Họ thăng hoa mối tình tuyệt vọng kia thành niềm say mê sáng tạo và nghiên cứu võ học. Vương Trùng Dương lập nên Toàn Chân phái; Lâm Triều Anh lập ra Cổ Mộ phái, trong đó có môn võ danh tiếng Ngọc Nữ kiếm pháp (kiếm pháp của gái đồng trinh). Khát vọng thăng hoa của Cổ Mộ phái truyền qua những đời sau trở thành một thứ quy luật: chỉ thu nhận gái đồng trinh và chỉ có gái đồng trinh mới làm được chưởng môn Cổ Mộ phái. Làm thế nào xác định được 1 cô gái đồng trinh? Một cách lãng mạn, Kim Dung đã đặt vào trong cánh tay của các nữ nhân vật của mình một dấu đỏ được cấy bằng chu sa, gọi là Thủ cung sa. Khi cô gái mất trinh, dấu Thủ cung sa ấy sẽ biến mất và những đồng môn sẽ xác định được dấu hiệu phạm tội. Những nhân vật kế tục Lâm Triều Anh như Lý Mạc Sầu, Hồng Lăng Ba đều giữ được dấu Thủ cung sa ấy. Họ tự ép mình phải xa lánh tình dục như sư tổ nên tính tình biến đổi, trở thành những kẻ khắc bạc, độc ác. Riêng Tiểu Long Nữ, cô gái trong sáng, dịu dàng nhất của phái Cổ Mộ lại yêu thương người học trò Dương Qua (còn đọc là Quá – lỗi lầm). Thế nhưng, cô không giữ được sự trinh trắng vì bị một đệ tử phái Toàn Chân hiếp dâm. Vết Thủ cung sa mất đi, Dương Qua đau đớn bỏ ra đi, Tiểu Long Nữ cũng một đời đi tìm Dương Qua…

Đạo gia Trung Quốc quan niệm có ba yếu tố cấu tạo thành hồn sống của một đời người: Tinh, Khí, Thần. Khí (hơi thở) có biểu hiện trong hơi nói (trung khí). Thần (sắc diện) có thể biểu hiện nơi khuôn mặt, ánh mắt, các động tác của chân tay. Còn Tinh (trong khái niệm tinh dịch, tinh khí) là cái gì quý giá nhất, tiềm ẩn bên trong con người. Đạo gia đưa ra chủ trương “bế tinh” (không cho xuất tinh) để con người có thể sống thọ. Mà “bế tinh” có nghĩa là kìm hãm sự hoạt động thực tế của năng lực Libido. Người đà ông nào giữ được năng lực tình dục, không giao cấu với phụ nữ được gọi là Thuần dương… Ỷ thiên Đồ long ký, Trương Tam Phong, tổ sư sang lập phái Võ Đang, sống trên trăm tuổi, vẫn chưa gần nữ sắc, có môn Thuần dương vô cực công rất vi diệu. Cũng trong Ỷ thiên Đồ long ký, chàng Vô Kỵ tuổi ngoài 20, có 4 cô bạn gái xinh đẹp nhưng vẫn không gần gũi nữ sắc, vẫn giữ được chất thuần dương. Chất thuần dương ấy là 1 trong nhiều điều kiện đưa Vô Kỵ trở thành người anh hùng vô địch của võ lâm Trung Quốc. Nói cách khác theo Kim Dung, phải kìm hãm năng lực Libido để hướng nó tới mục tiêu đạt tuyệt đỉnh tối cao trong võ học.

Lộc Đỉnh ký xây dựng nhân vật giáo chủ Hồng An Thông. Hồng giáo chủ của Thần Long giáo này có tham vọng “thiên thu trường trị, nhất thống giang hồ”, có 1 cô vợ trẻ măng là Tô Thuyên nhưng không bao giờ chung chăn gối. Lý do: nếu mất tinh khí thì võ công cái thế của Hồng giáo chủ sẽ trôi theo mây nước. Vì vậy Vi Tiểu Bảo đã “cuỗm” Tô Thuyên của Hồng giáo chủ làm người vợ lớn tuổi nhất của hắn. Cuối cùng những tham vọng của Hồng giáo chủ cũng tan thành mây khói, lão bị thuộc hạ giết chết.

Cá biệt có những nhân vật giải phóng hết năng lực tình dục của họ, trở thành những tên giặc dâm chuyên cưỡng gian phụ nữ. Kim dung gọi họ là “Thái hoa dâm tặc”. Thí dụ như Điền Bá Quang trong Tiếu ngạo giang hồ, Âu Dương công tử trong Xạ điêu anh hùng truyện. Những người này hoạt động tình dục đến nỗi khô kiệt cả tinh khí. Kim Dung bàn đế một thủ pháp gọi là Thái âm bổ dương (lấy cái tinh túynhất của phụ nữ để bồi bổ cho người đàn ông). Trong các loại tình dục kinh của Trung quốc cũng có nhắc đến thuật này, tỷ như Tố nữ kinh hay Phòng trung thuật. Cái tinh túy nhất của phụ nữ là gì nếu không là tinh? Còn biện pháp “Thái âm” ấy thế nào thì quả là 1 điều nhiêu khê rắc rối. Nói cách khác, Kim Dung vẫn đồng ý với Đạo gia rằng có thể phục hồi năng lực Libido trong trường hợp năng lực ấy bị sử dụng đến mức gần như cạn kiệt. Việc phục hồi ấy như thế nào không được tác giả bàn tới. Dẫu sao, truyện võ hiệp không phải là sách thuốc mà Kim Dung cũng không phải là nhà nghiên cứu về nghệ thuật phòng the…


LIBIDO

Hansy
05-04-2013, 09:17 AM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

23.
NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT

Mỗi một nhà văn viết tiểu thuyết đều có một nghệ thuật riêng. Nghệ thuật tiểu thuyết của Kim Dung là nghệ thuật tiểu thuyết võ hiệp, viết về bọn hào sĩ giang hồ chuyên sống trên đường đao, mũi kiếm. Nghệ thuật ấy vừa kế thừa thủ pháp truyền thống của các nhà văn tiền bối, vừa cách tân theo phong cách hiện đại. Bàn về tiểu thuyết võ hiệp của ông là bàn về sự kế thừa và sự cách tân.

Trước hết, tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung là tiểu thuyết chương hồi, kế thừa thủ pháp căn bản, truyền thống của tiểu thuyết Minh - Thanh. Ta lấy ví dụ bộ Tiếu ngạo giang hồ dày 1692 trang (chân thư do Minh Hà xã, Hongkong xuất bản lần thứ 18 với chữ dấu mộc thự tên tác giả) gồm 40 chương. Trước mõi chương hồi có một bức vẽ minh hoạ, lấy ý chính của chương hồi làm chú thích.

Trong văn xuôi của tiểu thuyết, tác giả Kim Dung thường đưa vào những đoạn trích dẫn thi ca, từ phú và đôi khi là các văn kiện lịch sử mà ông sưu tầm được. Thơ ca trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung có thể là thơ ca do chính ông sáng tác. Bản thân Kim Dung là một nhà thơ và cái ý vị Đường thi trong thơ mới của ông đậm đà, lãng mạn một cách bát ngát. Thí dụ bàn về hoa trà trong Thiên Long bát bộ, tác giả viết:

Thanh quần ngọc diện như tương thức
Cửu nguyệt hoa trà mãn lộ khai
(Quần xanh mặt ngọc từng quen biết
Tháng chín, hoa trà rợp lối đi)
Hoặc:
Thanh câu thủy động trà hoa bạch
Hạ cốc vân sinh lệ tử hồng
(Dòng xanh nước gợn hoa trà trắng
Non hạ mây vươn trái vải hồng).

Đó cũng có thể là thơ của những nhà thơ tiền bối được Kim Dung trĩch dẫn để làm rõ ý trong những văn cảnh, những tình huống cụ thể. Trong Tiếu ngạo giang hồ, Tổ Thiên Thi giảng giải cho Lệnh Hồ Xung nghe loại rượu nào phải uống với loại chén nào. Nói tới rượu Bồ đào phải uống với chén Dạ quang, Tổ Thiên Thu đọc hai câu trong bài Lương Châu từ của Vương Hàn:

Bồ đào mỹ tửu Dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
(Bồ đào rót chén Dạ quang
Muốn say, trên ngựa tiếng đàn giục đi)

Trong cung cách này, toàn bộ nội dung bộ Hiệp khách hành đều trích dẫn từ 54 câu thơ bài Hiệp khách hành của Lý Bạch; toàn bộ nội dung của bộ Tố tâm kiếm (Liên thành quyết) đều trích dẫn thơ của hàng trăm nhà thơ trong Đường thi tuyển tập.

Đưa thi ca, từ phú vào văn xuôi là chuyện không lạ. Đọc Tam quốc diễn nghĩa, Tây du ký, Hồng lâu mộng, Thủy hử, ta bắt gặp hàng trăm bài thơ. Nhưng thơ trong những tác phẩm ấy đơn thuần chỉ là thơ chứng minh, thơ ca nghĩ ngợi, thơ bày tỏ niềm thán phục của người đời sau. Thơ trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung vượt xa hơn, mang một ý nghĩa, một mục tiêu khác. Trong Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung nhắc đến một chiêu kiếm của phái Hoa Sơn tên là Vô biên lạc mộc. Bốn từ này lấy từ ý bài thơ Đăng cao của Đỗ Phủ:

Vô biên lạc mộc tiêu tiêu há
Bất tận trường giang cổn cổn lai
Nhà nghiên cứu Trần Trọng Kim dịch:
Miên man lá rụng điêu linh
Nước sông cuồn cuộn mông mênh chảy dào

Ngoài trích dẫn thơ, tác giả còn trích dẫn các văn kiện lịch sử, tư liệu lịch sử có thật trong sử Trung Quốc. Trong Thiên Long bát bộ, khi ca ngợi bà thái hậu sáng suốt của triều Tống (bà nội Tống Triết tôn), tác giả đưa luôn nhận xét trong bản tấu chương của nội viện nước Khất Đan khen ngợi tài đức của bà này và lời bàn rằng bà đang buông rèm nhiếp chính, chớ động binh gây hấn với triều Tống. Đoạn tư liệu này chép trong Tống sử.

Viết Lộc Đỉnh ký, khi bàn về quan hệ Trung - Nga, tác giả đưa luôn một đoạn trong bức thư của Sa hoàng gởi cho vua Khang Hy. Những hàng binh Nga trong cuộc chiến trang biên giới được đưa về Bắc Kinh. Vua Khang Hy trọng dụng họ, phiên chế thành một lực lượng quân sự đặc biệt trong Thanh binh, gọi là Nga La Tư tá lĩnh. Khi viết về đoạn này, Kim Dung theo sát tư liệu trong Thanh sử cảo của Lang Viên.

Nhà nghiên cứu Nghiêm Gia Viêm của Đại học Bắc Kinh ca ngợi văn phong của Kim Dung, cho rằng Kim Dung đã nâng văn chương thông tục lên thành thứ văn chương thanh nhã. Tại sao vậy? Kim Dung viết về bọn hào sĩ giang hồ, về những người bình thường Trung Quốc cho nên văn chương luôn luôn có tiếng chửi. Những tiếng "tổ mẹ nó, quân rùa đen đê tiện, phường cho đẻ, con bà ngươi..." luôn luôn hiện diện trong các bộ tiểu thuyết võ hiệp nhưng không làm cho văn chương dơ đi vì nó được đặt vào rất đúng văn cảnh. Văn chương của ông cũng phong phú các thành ngữ, tục ngữ Trung Quốc: "Lá rụng về cội", "Hạ đao đồ tể xuống là thành Phật", "Biển khổ không bờ, quay đầu thấy bến", "Non xanh còn đó, nước biếc vẫn đây, hẹn ngày gặp gỡ"... Những thành ngữ, tục ngữ thông dụng ấy được đặt vào đúng văn cảnh, vào từng tình huống một, tạo ra một giá trị nghệ thuật vừa rộng lại vừa sâu. Người học ít đọc Kim Dung cũng thấy thích mà người học cao đọc Kim Dung cũng thấy thích. Tác phẩm của ông vừa mang tính quần chúng rộng rãi vừa mang tính bác học cao nhã.

Nhưng thủ pháp cao cường nhất của Kim Dung vẫn là kĩ thuật xây dựng cốt truyện. Những bộ tiểu thuyết của ông thường liên quan tới các vấn đề lịch sử, các quốc gia (cũ) trong cộng đồng Trung Quốc, nghĩa là rất rộng lớn nên việc xử lý, kết cấu các tình huống tiểu thuyết phải làm sao cho hợp lý để cuốn hút người đọc ngay từ ban đầu. Ông đã tạo trong tác phẩm những mâu thuẫn chiều dọc giữa nhân vật này và nhân vật khác, giữa tình huống này và tình huống khác. Ông đã tạo trong tác phẩm những mâu thuẫn chiều ngang, hiểu như là sự diễn biến tâm lý phức tạp trong nội tâm từng nhân vật. Ông đã xây dựng những tình huống lạ lùng, tưởng đâu không thể có trong đời, mà rất thật. Tôi xin giới thiệu mấy tình huống để bạn đọc tham cứu.

Một đoạn trong Thiên Long bát bộ gồm các tình huống thế này: Kiều Phong cùng A Châu đến thăm Ôn Khang, được Ôn Khang tiết lộ rằng nhân vật thủ lĩnh đại ca đã đưa người ra Nhạn Môn Quan giết cha mẹ Kiều Phong là Đoàn Chính Thuần. Cả hai quay về vùng Thái Hồ, Giang Nam tìm Đoàn Chính Thuần rửa hận. Khi đến nơi, Kiều Phong chứng kiến cảnh Đoàn Chính Thuần lâm nguy; ông ra tay cứu giúp và ước hẹn cùng Đoàn Chính Thuần canh ba đêm ấy ra chỗ cầu đá để bàn chuyện Nhạn Môn Quan. Đêm ấy, Kiều Phong ngồi cạnh A Châu, hẹn ngày mai trả xong mối thù sẽ cùng nhau về bên kia biên giới, qua thảo nguyên săn chồn đuổi thỏ. Ông ẵm A Châu vào phòng nghỉ trước rồi toạ công và đúng canh ba, ra đi gặp Đoàn Chính Thuần.

Đến nơi hẹn, ông đánh Đoàn Chính Thuần một chưởng và Đoàn Chính Thuần ngã quỵ. Ông lấy làm lạ, nắm Đoàn Chính Thuần đưa lên thì thấy người y nhẹ hều. Hoá ra, đó không phải là Đoàn Chính Thuần; đó chính là A Châu, tình yêu của ông, trái tim của ông. A Châu thuật lại cho ông biết khi mới về Thái Hồ, cô tình cờ hiểu ra Đoàn Chính Thuần là cha ruột của cô nhờ nhìn thấy miếng ngọc bội đeo trên cổ cô em gái là A Tử giống như miếng ngọc bội cô đang có. Nhưng khát vọng trả thù của Kiều Phong cao quá, cô không thể ngăn cản, cũng không thể nói ra sự thật rằng mình là con của Đoàn Chính Thuần. Đêm ấy, cô giả bộ ngủ sớm rồi lén ra đi, gặp Đoàn Chính Thuần huỷ lời ước hẹn. Rồi cô hoá trang - mà kĩ thuật hoá trang của cô rất cao cường - làm Đoàn Chính Thuần, đến cầu đá để chịu một chưởng của Kiều Phong.

Kiều Phong nghe người yêu thuật lại chuyện, đứt từng khúc ruột. Ông bế xác của A Châu kên chạy loạn cả vùng Thái Hồ. Chôn cất A Châu xong, Kiều Phong định tự tử vì không còn muốn sống trên đời nữa. Nhưng chợt nhìn lên bài từ của Đoàn Chính Thuần đề trên lụa treo trên vách, Kiều Phong chợt nhận ra nét chữ của Đoàn Chính Thuần khác hẳn nét chữ của thủ lĩnh đại ca mà ông đã được nhìn thấy. Nghĩa là Đoàn Chính Thuần không phải là thủ lĩnh đại ca. Hoá ra Ôn Khang đã đánh lừa ông; ông đã giết oan A Châu. Nghĩ đến đó, Kiều Phong lại chợt ham sống, sống để tìm ra sự thật, sống để tạ tội giết oan người tình mà ông trọn đời yêu dấu.
Đây là khúc bi ca kinh hoàng nhất, đau thương nhất của Thiên Long bát bộ. Đọc đoạn tiểu thuyết này, người ta có thể đổ nước mắt vì mối thâm tình của A Châu đối với Kiều Phong, vì niềm đau đớn của Kiều Phong không có gì có thể so sánh nổi. Có thể coi Thiên Long bát bộ là một bộ tiểu thuyết tiêu biểu cho phong cách kết cấu câu chuyện của Kim Dung. Những tình huống đan xen, những ngã rẽ bất ngờ dẫn câu chuyện đến những chân trời mới lạ. Đọc hồi này, người ta khó có thể đoán được hồi sau và các hồi kế tiếp.

Kim Dung có khả năng hư cấu tuyệt vời, đẩy những mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm khiến người đọc có cảm giác nhân vật khó thoát khỏi tình huống bi kịch nhất. Nhưng rồi ông giải quyết vẫn đề một cách hết sức khoa học, gọn nhẹ, hợp lý. Tình huống kết thúc một cách tốt đẹp, vượt qua khỏi sự tưởng tượng của bao nhiêu bạn đọc. Ta hãy lấy một ví dụ trong Thiên Long bát bộ.

Trên bược đường giang hồ, Đoàn Dự đã gặp và yêu thương Chung Linh là con của A Bảo, Mộc Uyển Thanh là con của Tần Hồng Miên, Vương Ngữ Yên là con của Vương phu nhân. Mà những nhân vật A Bảo, Tần Hồng Miên, Vương phu nhân đều là người tình của Đoàn Chính Thuần (cha Đoàn Dự). Nói cách khác, các cô gái mà Đoàn Dự đem lòng thương yêu đều là em cùng cha khác mẹ của Đoàn Dự; những mối tình của Đoàn Dự với các cô gái là mối tình loạn luân. Làm sao giải quyết được những mâu thuẫn kinh khủng đó để cứu những mối tình trong trắng?
Kim Dung giải quyết khá tài tình. Trong phút cuối của đời mình, khi Đao Bạch Phụng, mẹ của Đoàn Dự sắp qua đời, bà mới tiết lộ một điều kinh khủng: Đoàn Dự không phải là con của Đoàn Chính Thuần mà là con của gã ăn mày Đoàn Diên Khánh. Bởi căm giận thói trăng hoa lơi lả của Đoàn Chính Thuần, Đao Bạch Phụng đã đem tấm thân vương phi cao quý của mình cho gã ăn mày Đoàn Diên Khánh giao hoan. Cuộc giao hợp chớp nhoáng kì lạ đó đã đẻ ra chàng trai Đoàn Dự. Đoàn Chính Thuần không có cái gien sinh con trai; con tư sinh của Đoàn Chính Thuần toàn là con gái. Và chỉ là đồng tông (cùng họ) nên theo luật hôn nhân của nước Đại Lý, Đoàn Dự có thể lấy tất cả các cô Chung Linh, Mộc Uyển Thanh, Vương Ngữ Yên... mà không cần phải thắc mắc về quan hệ huyết thống, dòng tộc, luân lý đạo đức.

Bản chất của tiểu thuyết là hư cấu. Kim Dung dựa trên nền tảng những sự kiện lịch sử có thật của đất nước Trung Hoa, đẩy khả năng hư cấu bay bổng tuyệt vời. Thí dụ trong Ỷ thiên Đồ long ký, ông cắt nghĩa sự ra đời của nhà Minh là cuộc kháng chiến do quần hùng Minh giáo Trung Hoa thực hiện. Thí dụ trong Thiên Long bát bộ, ông giới thiệu sự tương tranh, tương giao của các thế hệ quân chủ nhà Tống, nhà Liêu, nước Đại Lý, nước Thổ Phồn, nước Tây Hạ và tộc Nữ Chân. Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung có một trình độ hư cấu rất cao cường, nối kết hàng trăm nhân vật lại với nhau trong mối tương giao thật lạ lùng nhưng cũng thật hợp logic.
Kế thừa thủ pháp của các bậc tiền bối, tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung vẫn đưa ra những chi tiết có vẻ hoang đường nhưng tính hoang đường ấy được đặt trên nền tảng cái có thật. Ta lấy thí dụ nội công là khả năng có thật của người học võ. Nội công ấy được rèn luyện nhiều năm, trở thành công lực riêng của từng người. Trên cơ sở đó, Kim Dung hư cấu ra tình huống người này có thể dốc hết công lực để dồn vào cho công lực của người khác; người khác có thể sư dụng môn hấp công để thu hút hết công lực của địch thủ... Nếu các nhân vật Tây du ký đánh bằng phép thì nhân vật của Kim Dung đánh bằng công lực. Một phát chưởng đánh ra giữa không gian, phát thành chưởng phong bao lấy địch thủ, khiến địch thủ phải ngã quỵ, phải chịu thua. Đó là khả năng hư cấu trong kiếm hiệp Kim Dung.

Nếu phương Tây lãng mạn trong hành động thì phương Đông lãng mạn trong tư duy. Tư duy trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung quả thật lãng mạn bay bổng: hái một chiếc lá, ném một cành hoa cũng có thể giết chết địch thủ; phóng một ngón tay ra không trung (cách không chỉ pháp) cũng có thể phong toả đúng huyệt đạo của người cần phong toả.

Như tôi đã giới thiệu, tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung được gọi là truyện, ký hoặc lục (Xạ điêu anh hùng truyện, Ỷ thiên Đồ long ký, Thư kiếm ân cừu lục). Văn thể cơ bản của tiểu thuyết Kim Dung là kể chuyện. Thế nhưng, cách kể chuyện của ông cũng rất lạ, rất hấp dẫn bởi trong diễn biến của một câu chuyện đang được ông kể, ông đưa vào đó một nhân vật mới và nhân vật này đã kể lại một câu chuyện đã xảy ra. Câu chuyện ấy áo giá trị như một đoạn phục hiện trong điện ảnh (hay trong kịch nói), nghĩa là nó đi ngược thời gian và thay đổi không gian, hấp dẫn người đọc bước vào một thế giới khác với những tình huống khác mới lạ hơn, lý thú hơn. Thí dụ trong Tiếu ngạo giang hồ, bọn hào sĩ đang bàn về sự giao du giữa Lệnh Hồ Xung đệ tử Hoa Sơn và tên thái hoa dâm tặc Điền Ba Quang. Ai nấy đang tức giận, nguyền rủa hai gã này thì ni cô Nghi Lâm của phái Hằng Sơn xuất hiện. Cô kể lại câu chuyện mình bị Điền Bá Quang bắt cóc định làm nhục, được Lệnh Hồ Xung ra tay cứu viện thế nào; La Nhân Kiệt của phái Thanh Thành nhân cơ hội Lệnh Hồ Xung bị thương nặng đã giết chàng thế nào. Chuyện kể của Nghi Lâm hấp dẫn đến nỗi dù các nhân vật không xuất hiện, người đọc vẫn thấy được đặc điểm, cá tính của từng nhân vật, nhận ra ai là anh hùng, ai là tiểu nhân. Đọc Kim Dung, người ta sảng khoái vì lối hành văn lạ lùng ấy.

Điều lạ là khi cầm đến một tác phẩm của Kim Dung; đọc chương đầu ta không thể bỏ được chương hai, đọc chương hai ta không thể bỏ được chương ba. những tình huống tiểu thuyết của ông uyển chuyển, phản trác, những loại nhân vật của ông không sống theo công thức bình thường của đời người. Tiếu ngạo giang hồ là một tác phẩm tiêu biểu cho nhận định này.

Đọc chương một, chương hai, chương ba của tác phẩm này, ta thương cảm chàng thiếu niên Lâm Bình Chi của Phước Oai tiêu cục lâm vào cảnh nhà tan, cửa nát, cha mẹ bị bắt; phải tìm lên Hành Sơn để cứu song thân, cứu không được cha mẹ, chàng trở thành đệ tử phái Hoa Sơn. Hết quyển thứ nhất, ta vẫn tưởng Lâm Bình Chi là nhân vật trung tâm. Nhưng rồi Lệnh Hồ Xung dần dần hiện ta như một tên lãng tử vô hạnh, một người có tấm lòng nghĩa hiệp cao cả. và người đọc bắt đầu có cảm tình, bắt đầu yêu mến chàng trai đó. Hoá ra đó mới là nhân vật trung tâm của tác phẩm, còn gã Lâm Bình Chi chỉ là một thứ nguỵ quân tử, một anh lại cái. Có thể coi đó là hai khuôn mặt đại biểu cho cách xây dựng nhân vật của Kim Dung.

Trong lối văn chương kể chuyện, thi thoảng Kim Dung cũgn dừng lại tả cảnh, tả tình. Cách tả tình của ông đặc biệt cô đọng, chủ yếu là đưa ra những nét chấm phá để người đọc tự suy luận. Khi yêu Lệnh Hồ Xung, ngày nào Nhạc Linh San cũng giành đem cơm lên núi sám hối cho chàng. Nhưng khi gần gũi Lâm Bình Chi, Nhạc Linh San quên mất đại sư ca, say mê thằng mặt trắng này. Nhạc Linh San là người phương Bắc, Lâm Bình Chi là người phương Nam. Lâm Bình Chi đã dạy cho Nhạc Linh San hát khúc sơn ca Phúc Kiến. Mô tả tâm tình của Lệnh Hồ Xung, Kim Dung viết: "Nhạc Linh San quay mình đi xuống núi, không nói một lời. Bỗng nhiên, giọng sơn ca Phúc Kiến "chị em lên núi hái chè" vang lên. Lệnh Hồ Xung nghe khúc sơn ca mà nát ngọc tan hồn, tưởng bị ai đánh mạnh một chuỳ vào ngực". Tác giả dừng lại ở đó để bạn đọc hiểu thế nào thì hiểu.

Cũng như tả tình, Kim Dung tả cảnh với những nét chấm phá. Thí dụ mùa xuân: "Làn gió mát ru êm cành liễu. Hương hoa thơm say đắm lòng người. Trời đang vào mùa xuân, ánh dương quang chói lọi khắp miền Nam". Đây là cảnh xuân ở thành Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến trong Tiếu ngạo giang hồ. Còn đây là cảnh Cung kiếm hồ ở núi Vô Lượng, Vân Nam: "Bên trái sườn núi là giải thác lớn trắng phau trông như một con rồng treo lơ lửng trên không cuồn cuộn đổ xuống một cái hồ trong vắt, rộng mênh mông không thấy bờ bên kia... Trên mặt hồ, chỉ có chỗ thác đổ vào là nước chảy quanh co, sóng vỗ bì bõm, càn xa hơn từ mười trượng trở đi lại phẳng phiu giống như một tầm gương khổng lồ".

Đọc Kim Dung, ta thấy phong cảnh thiên nhiên, bao la, hùng vĩ, lãng mạn, tươi đẹp hiện ra bốn mùa: tuyết trắng phủ Thiên Sơn, đàn hồng nhạn bay qua Nhạn Môn Quan, sông Tiền Đường sóng vỗ ầm ỳ, chùa Thiếu Lâm ngàn năm nấp sau rừng tung cách sum sê, hoa hồng lăng nở rộ mặt Thái Hồ mùa thu nước biếc... Có lẽ ông đi nhiều, thấy nhiều, biết nhiều nên kiến thức về địa lý học, hoa học, phong tục học rất uyên bác. Ông viết về một thứ văn chương giàu tính nghệ thuật, lôi cuốn, hấp dân khiền người ta đọc mà không thế chán. Các học giả Trung Quốc đã tặng cho Kim Dung một huy chương tinh thần về cách sử dụng kim văn để viết tiểu thuyết.
Sự thành công của Kim Dung chính là sự thành công của văn học Trung Quốc hiện đại.Ông được xếp vào một trong 10 nhà văn lớn của dân tộc Trung Hoa và hai tác phẩm của ông được chọn là hai tác phẩm để đời cho văn học Trung Quốc.

Phải nhìn nhận một điều: tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung là một loại hình tiểu thuyết khác hẳn với những tiểu thuyết viết về anh hùng hào kiệt thời Minh - Thanh, khác hẳn với các loại tiểu thuyết võ hiệp của các tác giả khá cùng thời, lại khác xa với Les trois mousquetaires (Ba chàng Ngự lâm pháo thủ) của Alexandre Dumas (cha); càng khác xa với những kịch bản phim cao bồi của Viễn Tây Hoa Kỳ. Nó là tiểu thuyết võ hiệp kim văn mới lạ. làm say mê hàng tỷ độc giả trên thế giới, trong đó có độc giả Việt Nam. Sự đóng góp của Kim Dung cho văn học Trung Quốc và thế giới như vậy là khá lớn lao. Ông xứng đáng là minh chủ của nền văn học võ hiệp.


NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT

Hansy
06-04-2013, 11:03 AM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

24.
ĐẶT LẠI MẤY VẤN ĐỀ LỊCH SỬ

Một tác phẩm văn học không bao giờ là một tác phẩm sử học. Tác phẩm văn học được viết bởi nhà văn; tác phẩm sử học được viết bởi những sử quan mà đời Hán gọi là Thái sử lệnh. Tác phẩm văn học được xây dựng từ những khả năng hư cấu lãng mạn; tác phẩm sử học dựa trên những sự kiện lịch sử cụ thể. Tuy nhiên, nếu biết vận dụng khéo léo, đưa những yếu tố lích sử vào tác phẩm văn học thì tác phẩm văn học hấp dẫn hơn, haòng tráng hơn và hiện thực hơn. Đó là đặc điểm của một số bộ tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung. Ông đã đưa yếu tố lịch sử vào văn học và vượt xa hơn, ông dùng tác phẩm văn học để đặt lại một số vấn đề lịch sử.

Ai cũng hết lời ca ngợi Chu Nguyên Chương. Chu Nguyên Chương, tức Minh Thái tổ, làm vua Trung Hoa từ năm 1368 đến năm 1398, được coi là người anh hùng của phong trào kháng Nguyên, người có công bậc nhất thiên hạ giành lại đất nước Trung Hoa từ tay Di Dịch. Thế nhưng, qua Ỷ thiên Đồ long ký, Kim Dung đã buộc người đọc phải nhìn lại đúng bản chất của Chu Nguyên Chương. Xuất thân từ nông dân, Chu Nguyên Chương đã nhân lúc An Huy đói kém, nổi lên làm giặc cướp rồi đi tu ở chùa Hoàng Giác. Ăn cướp một con bò của một nhà giàu làm thịt nấu ăn, bị người nhà giàu sai hai gia nhân đi bắt, Chu Nguyên Chương đã dùng vũ lực bóp miệng hai gia nhân buộc họ phải ăn lông bò. Thủ đoạn vu oan giá hoạ như vậy không phải ai cũng có thể làm được. Chu Nguyên Chương gia nhập Minh giáo (Manichéisme) Trung Hoa, lãnh đạo đội quân Hoài Tứ. Trước khi cuộc khởi nghĩa Minh giáo thành công, Chu Nguyên Chương giết thủ lĩnh của mình là Hàn Sơn Đồng, trấn nước con trai là Hàn Lâm Nhi để nắm quyền lãnh tụ. Trong Ỷ thiên Đồ long ký, Kim Dung đã mô tả đoạn nghĩa quân Minh giáo đón Trương Vô Kỵ giáo chủ, đoạn Chu Nguyên Chương tạ ơn giáo chủ đã khen ngợi mình. Thế nhưng, chính thuộc hạ Chu Nguyên Chương đã bỏ thuốc độc vào bình rượu cho Vô Kỵ và Triệu Mẫn uống rồi xiềng khoá hai người, giam vào đại lao. May còn được thanh Ỷ thiên gãy, Vô Kỵ đã chặt xiềng, dẫn Triệu Mẫn lặng lẽ ra đi... Con người thủ đoạn, phản bạn, bất trung với cấp trên như vậy đã lên làm vua khai sáng triều Minh ở Trung Hoa. Về sau, để bảo vệ cho quyền lực họ Chu, Nguyên Chương đã tận sát hết các chiến hữu từng cùng ông ta vào sinh ra tử. Ông ghét văn chương đến nỗi chỉ cần đọc một chữ nghi ngờ có ý giễu mình là ông giết ngay người viết.

Trong Thiên Long bát bộ, Kim Dung lại cho ta thấy được tư cách của một ông vua Trung Hoa khác - Tống Triết tôn Triệu Hú. Để làm nổi bật tính cách lấc cấc, huyênh hoang của Triệu Hú, Kim Dung đã xây dựng một nhân vật Hoàn Nhan A Cốt Đả, thủ lĩnh kiêu dũng của bộ lạc Nữ Chân ở miền Đông Bắc; một Đại Liêu hoàng đế Gia Luật Hồng Cơ thâm trầm, sắc sảo bên kia Nhạn Môn quan, một nước Tây Hạ thịnh vượng ở phía Tây, một nước Đại Lý quân thần như huynh đệ ở phía Nam. Triệu Hú lên ngôi năm 8 tuổi, được bà thái hậu họ Cao nhiếp chính. Vào khoảng năm 1090 đến năm 1093, những biến pháp của Vương An Thạch (phe Tân đảng) đã gần như phá sản, Cao Thái hậu áp dụng tư tưởng cai trị mềm dẻo của phe Cựu đảng gồm Tư Mã Quang, Tô Thức, Tô Triệt. Cách trị nước của Cao Thái hậu vững vàng, ôn hoà khiến quân Liêu không dám đưa binh qua biên giới gây hấn với nhà Tống. Tể tướng nước Liêu dâng sớ lên Gia Luật Hồng Cơ, ca ngợi: "Từ khi thái hậu Đại Tống buông rèm nghe chính sự, chiêu nạp trung thần, bài trừ chính trị hà khắc, trong chín năm trời thiên hạ yên vui, triều đình hưng thịnh". Trong khi đó, Triệu Hú chỉ muốn áp dụng biện pháp của phe Tân đảng Vương An Thạch để gây chiến tranh với nước Liêu. Kim Dung thuật lại đoạn thái hậu bệnh nặng, nằm trong điện Sùng Khánh thành Biện Lương, kêu Tống Triết Tôn Triệu Hú đến dặn dò. Gã vua con nít này chỉ muốn kích động cho bà nội chết sớm; hắn bảo sẽ đem quân Bắc phạt, sẽ trừng trị bon "hủ nho" Tư Mã Quang, Tô Thức, Tô Triệt. Hắn rút kiếm chém chiếc ghế đứt làm hai đoạn trước mắt bà nội. Khi bà già tắt thở, hắn reo lên: "Ta đã được làm vua rồi". Theo chính sử Trung Hoa thì đó là năm 1093, khi Triệu Hú 18 tuổi. Quả nhiên, Triệu Hú giáng Tô Thức từ Lễ bộ thượng thư xuống làm tri phủ Định Châu, giáng Tể tướng Tô Triệt xuống làm tri phủ Nhữ Châu; mắng Hàn lâm học sĩ Phạm Tô Vũ khi người này dâng bản tấu can gián.

Một thứ hôn quân như Tống Triết Tôn mà có thể cai trị được đất nước Trung Hoa quả là một chuyện lạ. Triệu Hú chết năm 1099, em ruột lên ngôi xưng là Huy Tôn. Cái lẽ bại vong của nhà Tống không phải đợi đến sau này mà nó nằm ngay trong đời Triệu Hú, trong Thiên Long bát bộ của Kim Dung. Đoạn văn Triệu Hú chọc cho bà nội chết sớm thật lâm li biến ảo, không thể tìm thấy trong Tống sử hay lịch sử Trung Hoa. Kim Dung không bình luận, nhưng bản chất Tống Triết Tôn Triệu Hú như thế nào thì mọi người đọc văn ông đều rõ.

Kim Dung viết Lộc Đỉnh ký là một cách đối chiếu lịch sử, giúp cho hàng tỷ đồng bào của ông có cơ hội nhìn lại các ông vua của triều Minh - dòng dõi Hán tộc và các ông vua triều Thanh - dòng dõi Di Địch trong bốn rợ (Tứ di). Hình ảnh của vua Minh Sùng Trinh không hiện ra; hình ảnh của những ông vua hậu duệ nhà Minh như Phúc vương, Quế vương, Đường vương, Lỗ vương cũng không hiện ra. Nhưng cảm giác mà Kim Dung tạo ra được cho người đọc là sự nhận chân ra bản chất triều Minh: những ông vua u tối, nhu nhược, không được người Trung Hoa ủng hộ. Đúng ra, có một số ít người theo họ nhân danh chữ trung của nhà nho. Nhưng bản thân chữ trung đó cũng ngu xuẩn nốt: phe thì ủng hộ Đường, phe thì ủng hộ Quế, phe nào cũng chỉ nhận mình mới là chính thống. Điều đó nói lên được thực chất của các phong trào phản Thanh phục Minh cuối thế kỉ 17 ở Trung Hoa: những lực lượng ô hợp, không nêu lên được một khẩu hiệu rõ ràng, một ngọn cờ chính thống. Đối lập với họ là một ông vua con Khang Hy thông minh, tài trí, đức độ. Con người xuất thân từ dòng dõi Di Địch đó đã biết chia rẽ các lực lượng chống đối, áp dụng thủ pháp có nhu có cương để cai trị thiên hạ, thể hiện lòng nhân từ và tư tưởng đại đoàn kết để thu phục nhân tâm. Nhà vua thiếu niên đọc thật kĩ sử sách Trung Hoa, rút ra những bài học lâm sàng từ những ông vua hôn ám để tránh, đi theo cái vương đạo mà bậc đại học đã đi. Đối với quân Mông Cổ, Tây Tạng, Nga La Tư, nhà vua có đối sách ngoại giao rõ ràng. Chính vì vậy khi Ngô Tam Quế dựng lên chiêu bài "hưng Minh thảo Lỗ" ở Vân Nam, phát hịch kể tội nhà Thanh và Khang Hy thì không có lực lượng nào của người Trung Quốc ủng hộ Ngô Tam Quế cả.

Kim Dung là một nhà văn chứ không phải là một nhà sử học. Cách đặt lại vấn đề lịch sử trong tác phẩm của ông cũng rất văn học: không cay cú kết án, không hồ hởi ca ngợi. Ông chỉ nhẹ nhàng trình bày sự kiện người đọc nhân ra quan điểm cá nhân của ông. Nhiều khi, tôi kinh ngạc khi đọc đến những kiến giải uyên bác của Kim Dung về sử học. Thí dụ như đoạn lung trong Lộc Đỉnh ký, khi Kim Dung mượn lời của Lữ Lưu Lương giải thích cho con trai nghe về hai từ "trục lộc" (đuổi hươu). Con hươu ví với thiên hạ, gồm có đất đai và dân chúng. Khương Thái Công tâu với Văn Vương: "Lấy thiên hạ như đuổi bắt con hươu làm thịt chia nhau mà ăn. Có khi nhiều người cùng ăn, có khi một người ăn hết". Ông dẫn lời trong Hán thư: "Nhà Tần để sổng con hươu, thiên hạ tranh nhau bắt". Từ khái niệm "hươu" (lộc), Kim Dung đưa ta qua khái niệm "vạc" (đỉnh). Đỉnh là cái vạc cao, có ba chân, dùng để nấu thịt (hươu) mà ăn. Sau đó, người ta dùng đỉnh để làm một hình cụ. Lịch Sinh bị Tề vương Điền Quảng bỏ vào vạc dầu luộc chín khi Hàn Tín đánh vào Lâm Tri. Nối "lộc" và "đỉnh" lại có khái niệm lộc đỉnh. Trong địa danh Trung Quốc, có núi Lộc Đỉnh ở miền bắc sông Hắc Long, đọc theo âm Mãn Châu là Hô Mã Nhĩ Oa Tập Sơn. Kim Dung đã nắm tay độc giả dẫn vào thế giới Lộc Đỉnh ký, bộ tiểu thuyết ông viết ra trong khoảng 1969 - 1972 tự nhiên như thế. Cách dẫn nhập từ khái niệm lịch sử vào thế giới tiểu thuyết của Kim Dung không phải ai cũng làm được!



ĐẶT LẠI MẤY VẤN ĐỀ LỊCH SỬ

Hansy
06-04-2013, 07:30 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

25.
NGÔN NGỮ XÃ HỘI HÓA

Người nhạc sĩ viết một ca khúc; ba bốn chục năm sau, một người thưởng thức nào đó còn nhớ được một vài ca từ, nghêu ngao hát lên là số phận ca khúc đó sống được trong lòng người. Một nhà thơ in cả trăm bài, chỉ cần có người yêu thơ thuộc được một đoạn hay vài câu là thơ đã sống được. Văn học, nghệ thuật là những sản phẩm tinh thần dành cho đám đông. Trong quá trình giao thoa giữa tác giả và người thưởng thức, một số câu, chữ, từ ngữ đặc biệt của tác phẩm đi luôn vào lòng người. Tác phẩm như vậy đã là thành công rồi. Còn ngôn ngữ văn chương tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung đối với người Sài Gòn, người miền Nam thì sao?

Khi tác phẩm Ỷ thiên Đồ long ký được Tiền Phong Từ Khánh Phụng dịch với tựa đề Cô gái Đồ long, Nhà xuất bản Trung Thành in và phát hành năm 1966 thì bốn chữ “Cô gái Đồ long” đã trở thành một câu hát:

Có cô gái Đồ long lắc bầu cua
Lắc một cái ra hai con gà mái…

Trẻ con khắp hang cùng ngõ hẻm hát, người lớn cũng hát trong những dịp Tết chơi lắc bầu cua. Ngôn ngữ văn học tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung đã được xã hội hóa một cách rộng rãi đến bất ngờ. Tôi rất hiểu có nhiều người không biết “Đồ long” là gì nhưng họ vẫn hát: “Có cô gái Đồ long lắc bầu cua…”. Mà cần gì phải biết, hễ cao hứng thì cứ hát.

Gần như từ giai đoạn đó trở đi, một số từ ngữ trong văn chương của Kim Dung ngày càng được xã hội hóa tại Sài Gòn và miền Nam theo sự xuất hiện của các bản dịch tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung trên báo chí.

Khái niệm “Tẩu hỏa nhập ma” được Kim Dung nhắc đến trong nhiều tác phẩm để chỉ một trạng thái nguy kịch có thể dẫn đến cái chết, sự điên loạn hoặc sự tê liệt hoàn toàn của một người luyện nội công sai đường. Như trong Hiệp khách hành, Cẩu Tạp Chủng (Thạch Phá Thiên) vừa có nội công Hàn ý miên chưởng (công phu chí âm của bà mẹ nuôi Mai Phương Cô truyền cho) vừa luyện Viêm viêm công (công phu chí dương của Tạ Yên Khách chỉ điểm). Đến lúc tối hậu, hai luồng chân khí âm dương đối địch nhau, mặt chàng lúc đỏ như say rượu, lúc xanh như xác chết trôi. Chàng ngã lăn trên phiến đá, giãy đành đạch mấy cái rồi nằm im, hơi thở mỏng như tơ… Đó là trạng thái tẩu hỏa nậhp ma. Giới trí thức và giới sinh viên thời ấy dùng phổ biến cụm từ này. Thí dụ “Thằng ấy đang tẩu hỏa nhập ma” có nhĩa là thằng ấy đang… khùng.

Những tiếng chửi tục của bọn hào sĩ giang hồ trong Tiếu ngạo giang hồ được dân sinh viên thời ấy “mượn” tối đa. Tác phẩm có thuật chuyện bọn môn đệ Tung Sơn bị Lệnh Hồ Xung đâm mù mắt đã dụ quần hùng lọt vào hậu động Hoa Sơn, bít cửa động lại rồi giết họ. Bọn chúng có câu ám ngữ “Cút con bà mày đi” để nhận ra nhau là đồng bọn. Lệnh Hồ Xung cũng học được câu chửi ấy nên mới tự giữ mình được. Dân sinh viên dùng câu ám ngữ này như một… lời chào. Hai anh bạn gặp nhau, vừa mời nhau điếu thuốc, vừa “Cút con bà mày đi”.

Báo là nơi in tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung trước tiên cho nên giới nhà báo cũng là những người được đọc Kim Dung kỹ và đầy đủ hơn mọi người. Từ say mê feuilleton, họ say mê luôn các nhân vật và dùng luôn tên các nhân vật làm bút danh cho mình. Ông Lê Tất Điều ký bút danh Kiều Phong, ông Nguyên Sa ký bút danh Hư Trúc, ông Chu Tử ký bút danh Kha Trấn Ác. Những bút danh Tiểu Siêu, Du Thản Chi… lần lượt xuất hiện trên báo chí. Một số những nhân vật khác của Kim Dung cũng được “mượn” họ tên để biểu hiện cho tính cách con người. Kẻ đạo đức giả, có thủ đoạn lừa mị thì bị gọi là “Nhạc Bất Quần”. Kẻ hay ton hót, nịnh nọt thì bị gọi là “Vi Tiểu Bảo”. Những danh từ riêng ấy qua tác động xã hội hoá, trở thành danh từ chung ám chỉ mộmt loại người. Điều ngộ nghĩnh là các ông nghị, bà nghị trong lưỡng viện Sai Gòn trước đây cũng hay sử dụng các “thuật ngữ” này để thoá mạ nhau khi đấu khẩu trước diễn đàn hay phát biểu trước công luận.

Nhiều từ ngữ khác trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung thâm nhập đời sống một cách tự nhiên. Những người ăn xin thì được gọi là “Cái bang”, nhà giáo đánh học sinh một cái bạt tay được gọi là đánh một “chưởng”. Khái niệm “chưởng” được mở rộng ra để chỉ tất cả các loại phim quyền cước do Hongkong, Đài Loan sản xuất: Phim chưởng. Chữ “chiêu” được sử dụng rộng rãi nhất: “ra phố dạo mấy chiêu”, “cầm cơ bi da đánh một chiêu”, “anh đừng giở cái chiêu ấy ra với tôi”… Ngữ nghĩa chữ “chiêu” càng ngày càng được mở rộng đến nỗi nó… vượt xa tầm tay của Kim Dung. Người nhỏ tuổi gọi người lớn tuổi là “Sư phụ”, sếp cơ quan được nhân viên gọi là “Trưởng lão”, từ chối một chức vụ hay xin hưu thì gọi là “rửa tay gác kiếm”, cầm bút viết lại thì gọi là “tái xuất giang hồ”.

Nhưng chưa có chữ nào được xã hội hoá rộng nhất như chữ “Ma giáo”. Trong tiểu thuyết của mình, Kim Dung hay nhắc đến Ma giáo, phát xuất từ chữ Manichéisme (Bái hỏa giáo, Minh giáo). Người Trung Hoa phiên âm là Ma Ni giáo, gọi mãi, người ta lượt bỏ chữ Ni để chỉ còn Ma giáo. Đi vào xã hội Việt Nam, chữ “ma giáo” (không viết hoa) dùng để chỉ đặc điểm của một người có hành vi lật lọng, phản bội, xấu xa: “Anh đừng có chơi ma giáo với tôi”, “ông ấy làm ăn rất ma giáo”, “con người ma giáo ấy chẳng được ai ưa”.

Có thể người ta quên mất nhiều câu chuyện được kể trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung. Có thể người ta quên sạch các chương hồi, các tình huống, các nhân vật. Thế nhưng, một số từ ngữ đặc biệt trong văn chương tiểu thuyết võ hiệp của ông được xã hội hóa, đi vào cuộc sống thì vẫn còn mãi trong văn nói của người Sài Gòn, người miền Nam. Tuỳ theo từng cách dùng, tuỳ theo từng thời điểm, ngữ nghĩa của các từ, ngữ ấy có thể chuyển đổi một ít hoặc toàn bộ.

Truyện Kiều của Nguyễn Du để lại cho ngôn ngữ văn chương Việt Nam ta những tên Sở Khanh, mụ Tú bà, máu Hoạn Thư… Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung cũng đem lại cho ngôn ngữ nói của chúng ta một số từ, ngữ mới; làm phong phú thêm ngôn ngữ nói và mở rộng thêm được một số khai niệm cần diễn đạt. Ở một chừng mực nào đó, ta có thể nói tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp của ông đã giao thoa đúng tần số với một bộ phận bạn đọc Việt Nam. Đó cũng là một thành công lớn của người cầm bút về phương diện ngôn ngữ, diễn đạt.


NGÔN NGỮ XÃ HỘI HÓA

Hansy
08-04-2013, 08:33 AM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

26.
HỒN TÍNH LÃNG MẠN PHƯƠNG ĐÔNG

Trong văn học Tây Phương, chủ nghĩa lạng mạn (Le romantisme) được hiểu nhưng một trào lưu đến sau chủ nghĩa cổ điển (Le classisme). Nếu chủ nghĩa cổ điển mang theo những quy ước có tính bó buộc thì chủ nghĩa lãng mạn được hiểu như là một thái độ vượt qua các quy ước, phá vỡ sự bó buộc để vươn tới sáng tạo. Lãng mạn, đúng như tên gọi của nó, là những cơn sóng vỗ tràn bờ - những bến bờ cổ điển gò bó, chật hẹp.

Phương Đông không có chủ nghĩa lãng mạn nhưng từ nghìn xưa, hồn tính lạng mạn đã là bản chất của tình yêu, của sự sáng tạo triết học, văn học, nghệ thuật Phương Đông. Nếu phương Tây lãng mạn trong hành động thì phương Đông lãng mạn trong tư duy. Biểu hiện của hồn tính lãng mạn có khác nhau, tạo ra phong cách khác nhau trong sáng tạo văn học. Ta thử đi tìm hồn tính lãng mạn ấy trong tác phẩm văn học của Kim Dung.

Tác phẩm của Kim Dung là tác phẩm của tình yêu, của những bài tình ca nồng thắm. Những lứa đôi trong tình yêu rất trẻ, thường là trên dưới đôi mươi, như Trương Thuý Sơn với Hân Tố Tố; như Vô Kỵ với Triệu Minh (Ỷ thiên Đồ long ký); như Hồ Phỉ với Miêu Nhược Lan (Tuyết Sơn Phi Hồ); như Lệnh Hồ Xung với Nhậm Doanh Doanh (Tiếu ngạo giang hồ). Gần như những nhân vật nữ của ông yêu nhân vật nam ngay từ cái nhìn đầu tiên, từ lần gặp gỡ đầu tiên. Kim Dung không hề nhắc đến tiếng sét ái tình (coup de foudre). Nếu quan điểm tâm phân học của Sigmund Freud cắt nghĩa tiếng sét ái tình không phải là một cảm xúc tình yêu đến bất chợt mà là đã kinh qua một quá trình chiêm nghiệm, dung nạp và hồi ức những hình ảnh tương tự thì có lẽ Kim Dung cũng để cho những nhân vật của mình kinh qua quá trình tương tự như vậy. Hân Tố Tố yêu Trương Thuý Sơn ngay từ đầu vì cô từng nghe Trương Thuý Sơn có ngoại hiệu là Ngân câu thiết hoạch, một nhà thư pháp chính cống, mà cô lại yêu thư pháp. Doanh Doanh yêu Lệnh Hồ Xung ngay sai khi nghe chàng trai thổ lộ nỗi đau tình trước sự phụ bạc của Nhạc Linh San vì cô tin rằng kẻ nào không chung thủy với quá khứ thì không chung thủy với hiện tại và tương lai. Những trải nghiệm tương tự như vậy trở thành một thứ vô thức tập thể lắng đọng ngàn đời trong tâm hồn nhân loại và các nhân vật của Kim Dung cũng không thể vượt qua ngoài vô thức tập thể đó. Bởi vì họ là một nhân loại thu gọn.

Vâng, những người tình trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung là những con người lãng mạn. Họ lãng mạn đến nỗi họ vững tin rằng tình quân sẽ vượt ngàn dặm quay về với họ như lời hứa trước khi ra đi. Thủy Sinh trong Tố tâm kiếm, A Châu trong Thiên Long bát bộ phận gái dặm trường, bỏ Trung Nguyên ra vũng băng tuyết Quan Ngoại hay Nhạn Môn quan để chờ người yêu trở lại. Và những người anh hùng Địch Vân, Kiều Phong cũng là những người tình lãng mạn. Quả nhiên họ tìm về nơi cũ, quả nhiên họ nhìn thấy người tình đứng trong tuyết trắng chờ họ về. Hồn tính lãng mạn miên man tình ý nhưng hành động lãng mạn chấm dứt ở đó. Không ai ôm nhau, hôn nhau, quấn quít lấy nhau. Đi tới một bước nữa, dù chỉ một bước ngắn, cũng rất phàm tục. Mà tình yêu trong tác phẩm kiếm hiệp của Kim Dung thì không phàm tục chút nào.

Ta hãy nói về một phạm vi khác, phạm vi võ thuật. Trên đỉnh Quang Minh giữa núi Thiên Sơn, Trương Vô Kỵ dùng một cành mai xuân đấu với đao kiếm của Chính - Phản Lưỡng nghi đao pháp, kiếm pháp. Giữa rừng đao núi kiếm tràn đầy sát khí hào quang, cành mai chính là biểu tượng của sự sống, của cái đẹp, của lòng nhân ái. Đấu với đao kiếm là mai không rụng một bông, cái hồn tính lãng mạn quả đã được Kim Dung chắp cho đôi cánh bay bổng tuyệt vời. Ta hãy nói đến đường Độc cô cửu kiếm của Lệnh Hồ Xung. Nguyên tắc cao nhất của võ thuật là tiên phát chế nhân (phóng chiêu ra trước thì kiềm chế được người). Cả một đường Độc cô cửu kiếm chỉ có công mà không có thủ, bởi vì người kiếm sĩ không sử chiêu thức mà sử kiếm ý; ý muốn phóng kiếm đến đâu, kiếm theo đến đó, ung dung nhẹ nhàng như nước chảy mây trôi. Đường kiếm đó chính là hồn tính lãng mạn trong triết học của Trang Tử; nó phảng phất, mênh mông và bất khả tư nghị.

Những hào sĩ giang hồ của Kim Dung vốn là bọn ham vui. Họ sống thành băng, nhóm, đảng, động; khi họ họp với nhau, Kim Dung gọi họ là quần hào, quần hùng. Thế nhưng trong đám đông đảo đó, thỉnh thoảng vẫn có những người tự tách mình ra sống ẩn dật như một nhà hiền triết. Phong Thanh Dương sống một mình trong hậu động Hoa Sơn, Hoàng Dược Sư sống một mình trên đảo Đào Hoa, Trương Vô Kỵ sống một mình trong hang núi, Tiểu Long Nữ sống một mình trong Cổ Mộ đài… là nhưng nhà hiền triết như vậy. Họ chọn một thái độ sống rất lãng mạn: quay về với thiên nhiên, sống giữa thiên nhiên, hái hoa quả trên rừng, bắt ếch cá bên suối làm thức ăn. Hoàng Dung săn bắn nuôi Quách Tỉnh, Doanh Doanh bắt ếch nướng cho Lệnh Hồ Xung ăn… đơn giản là thái độ trở về với thiên nhiên. Cái mà họ muốn vượt qua là lễ giáo thế tục; cái mà họ muốn đạt được là tinh thần tự do tuyệt đối. Giữa rừng xanh, họ đánh đàn, đánh cờ, nghe thác chảy, nhìn mây trôi, xa lánh chốn giang hồ hiểm ác man trá. Còn lối sống nào hiền triết hơn và minh triết hơn?

Lục hợp chi nội, thánh nhân tồn nhi bất luận,
Lục hợp chi ngoại, thánh nhân tồn nhi bất nghị.
Tiên vương chi chí, Xuân Thu kinh tế, thánh nhân tồn nhi bất biện.
(Việc trong trời đất, thánh nhân biết rồi nhưng không bàn đến,
Việc ngoài trời đất, thánh nhân biết rồi nhưng không nghĩ đến.
Chí của các bậc tiên vương, cách kinh bang tế thế thời Xuân Thu, bậc thánh nhân biết rồi nhưng không giải thích).

Những nhân vật minh triết của Kim Dung quả rất gần gũi với khái niệm “thánh nhân” mà Khổng Tử ca ngợi.

Nhân vật của Kim Dung luôn hướng về tự do. Lệnh Hồ Xung học kiếm pháp Hoa Sơn với Nhạc Bất Quần, một cái nhấc chân hay một cái cất tay đều đúng bộ vị, thước tấc. Cho đến khi nhân vật này được học kiếm pháp với Phong Thanh Dương, lãnh hội ý nghĩa sâu sắc trong lời dạy của lão: “Người sử kiếm chứ không phải kiếm sử người, cứ như nước chảy mây trôi mà sử kiếm” thì hắn mừng như điên. Ấy bởi vì Lệnh Hồ Xung biết mình đang tiếp cận với tự do, cái tự do mà một tên lãng tử vô hạnh như hắn cần phải có. Khi hắn yêu Nhạc Linh San thì tình yêu đó nhắc hắn nghĩ tới công danh, địa vị sau này. Nhạc Linh San là con một, Nhạc Bất Quần không có con trai; sau này khi lão trăm tuổi, ngôi vị chưởng môn chắc chắn sữ được trao lại cho Lệnh Hồ Xung. Nhưng làm chưởng môn pháo Hoa Sơn hay tự do ngao du, tiếu ngạo giang hồ là khoái hoạt hơn? Lệnh Hồ Xung chọn cái thứ hai. Đến khi gặp Nhậm Doanh Doanh, nhân ra ở cô gái này tinh thần yêu tự do tuyệt đối thì hắn mới thật sự tìm ra nguồn hạnh phúc cho đời sống. Khúc Tiếu ngạo giang hồ là một khúc hoà tấu tự do, trong tay Khúc Dương và Lưu Chính Phong nghe ra vẫn còn chất binh đao sát phạt, buồn lo uất hận nhưng trong tay Doanh Doanh và Lệnh Hồ Xung thì ấm áp xuân tình, hoà bình trung chính. Chính trạng thái tự do hay mất tự do của tinh thần đã quyết định bản chất của điệu thức, của âm thanh.

Kim Dung nói về tự do một cách say mê, đặc biệt là phần hậu ký của bộ Tiếu ngạo giang hồ do Minh Hà xã, Hongkong in tháng 9 năm 1997. Ông dành hậu ký này bàn về nhân tính, bàn về tự do. Cái tự do của ông quan niệm rất gần gũi với cái tự do của TrangTử trong Nam hoa kinh, lãng mạn và tuyệt đối. Cuối bộ Tiếu ngạo giang hồ, ông để cho Lệnh Hồ Xung từ chức chưởng môn phái Hằng Sơn; Doanh Doanh không làm giáo chủ Triêu Dương thần giáo; hai người dắt tay nhau tiếu ngạo giang hồ. Cuộc sống tự do hấp dẫn họ hơn mọi quyền lực. Đúng ra, đứng trên đỉnh cao quyền lực, họ cũng được tự do hành động nhưng bản chất hành động ấy luôn hướng về một mục đích, nghĩa là họ không còn được hành động một cách tự do nữa.

Tự do chính là tâm thức lãng mạn cao nhất trong tư tưởng phương Đông. Đạo Không đưa con người đi đến chỗ hiền triết thánh nhân, đạo Phật đưa con người đi đến chỗ giải thoát, Lão-Trang đưa con người đến chỗ vô vi. Hiền triết thánh nhân, giải thoát, vô vi là những khát vọng lãng mạn và độc đáo, Chính những khát vọng ấy làm nên hồn tính lãng mạn trong tác phẩm Kim Dung. Điều này rất rõ là khi cầm một tác phẩm Kim Dung lên, đọc mấy chương đầu, ta bỗng nghe lòng thư thái, nhẹ tênh, không còn những vương vất ưu tư từ cuộc sống tác động vào. Đó là gì? Đó chính là sự giải thoát, là tâm trạng cảm thấy mình đang được tiếp cận với tự do dù trong giây phút ngắn ngủi của đời người!


HỒN TÍNH LÃNG MẠN PHƯƠNG ĐÔNG

Hansy
09-04-2013, 07:42 AM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

27.
NHỮNG ÔNG THẦN SI TÌNH

Tâm lý học hiện đại định nghĩa: “Đam mê là một tình cảm mãnh liệt, hướng chủ thể tới một đối tượng duy nhất và làm khô héo những tình cảm khác”. Chắc hẳn Kim Dung đã nghiên cứu, thẩm thấu, nhập tâm định nghĩa này. Và rõ ràng, trong tác phẩm văn học của ông, tính cách đặc thù của những nhân vật đam mê tình yêu hiện ra lồ lộ. Tôi gọi những nhân vật ấy là những ông thần si tình. Họ là những “ông thần” bởi cách thể hiện trạng thái si tình của họ vượt xa các trạng thái si tình của người thường, vượt xa những nhân vật trong tiểu thuyết tình cảm kim cổ. Đối với họ, si tình trở thành một tôn giáo và đối tượng trở thành giáo chủ.

Có thể đề cập đến Đoàn Dự (Thiên Long bát bộ), vương tử nước Đại Lý, thấm nhuần Nho học và Phật học, như là biểu tượng thượng thừa si tình. Rời Vân Nam, chàng trai này phiêu bạt đến Cung Kiếm hồ, núi Vô Lượng. Tại đây, chàng gặp hoạn nạn, phải trốn xuống hồ, lại bị thác nước cuốn vào trong một thạch thất (nhà đá). Nhìn thất một pho tượng tạc hình một thiếu nữ, Đoàn Dự đã há miệng, líu lưỡi, say mê ngay. Lạ lùng là những rung động đầu đời, tiếng sét ái tình đầu đời của Đoàn Dự không dành cho một thiếu nữ bằng xương bằng thịt mà lại dành cho một pho tượng. Đoàn Dự đã gọi pho tượng ngọc bằng “Thần tiên nương tử” (cô gái thần tiên) và đối với pho tượng, anh chàng si tình này ngàn lần lễ phép, kính ngưỡng. Chẳng vậy mà dù trong thạch thất có hàng chữ “giải y nãi kiến” (cứ cởi áo ra là thấy ngay), Đoàn Dự vẫn không dám cởi chiếc áo gấm của pho tượng.

Chàng trai chăm chỉ cúi đầu lạy pho tượng ngọc và càng lạy thì chiếc chiếu dưới chân càng chuyển động, để lộ ra một “cơ quan”: 3 mũi tên đồng xanh. Ý nghĩa của 3 mũi tên này là nếu ai bộp chộp, sàm sỡ cởi áo pho tượng ngọc thì sẽ đạp trúng cơ quan, 3 mũi tên đồng sẽ giết chết người ấy ngay trước khi người ấy kịp hiểu ra những võ công bí ẩn trong thạch thất. Đoàn Dự không tiết mạn pho tượng, không ham võ công, chỉ say mê nhan sắc của pho tượng nên đã vượt qua được cái bẫy chết người ấy. Chàng trai chỉ học trong thạch thất một môn công phu để…chạy trốn kẻ địch. Đó là môn Lăng Ba vi bộ, mô phỏng bước chân nhẹ nhàng, thanh thoát của nàng tiên Lăng Ba trong thần thoại Trung Quốc. Quả nhiên về sai, nhờ có Lăng Ba vi bộ, Đoàn Dự thoát được nhiều tình huống nguy hiểm đến tính mạng. Cho hay, si tình cũng được việc.

Về sau này, Đoàn Dự say mê Vương Ngữ Yên vì tìm thấy ở Vương Ngữ Yên những đường nét dịu dàng của “Thần tiên nương tử”. Tất nhiên Vương Ngữ Yên đánh giá Đoàn Dự như một anh chàng si ngốc; cô chỉ yêu biểu ca Mộ Dung Phục của cô. Nhưng cô đi đến đâu, Đoàn Dự vẫn lẽo đẽo đi theo. Thậm chí giữa rừng đao núi kiếm của quân Tây Hạ, Đoàn Dự cũng mò đến để dặn cô: “Vương cô nương, nếu có việc nguy nan, xin cho tiểu sinh cõng cô nương chạy trốn nhé”. Ấy là Đoàn Dự cậy vào môn công phu Lăng Ba vi bộ ảo diệu của mình.

Rồi cuối cùng tình cảm chân thành của ông thần si tình Đoàn Dự cũng được Vương Ngữ Yên đến đáp. Chẳng những lấy được Vương Ngữ Yên, Đoàn Dự còn lấy Mộc Uyển Thanh, Chung Linh. Ấy bởi vì Đoàn Dự lên ngôi hoàng đế nước Đại Lý, mà hoàng đế thì có quyền có đến… tam cung lục viện!

Thiên Long bát bộ cũng có một nhân vật si tình thượng thừa là Du Thản Chi. Du Thản Chi là con trai của Du Ký, cháu của Du Câu ở Tụ Hiền trang, Giang Nam. Sau khi cha và bác bị giết, Du Thản Chi phiêu bạt giang hồ, bị quân Khiết Đan bắt được đưa qua biên giới làm “chiến lợi phẩm”. Du Thản Chi căm thù Kiều Phong đến tận xương tuỷ vì Kiều Phong giết cha và bác của hắn nhưng hắn lại say mê A Tử, em vợ Kiều Phong ngay từ cái nhìn đầu tiên. Tâm trạng của Du Thản Chi khi gặp A Tử được miêu tả là “tim đập, chân run, nói không ra lời”.

A Tử, cô gái mới 16 tuổi, đối xử với tù binh là Du Thản Chi 17 tuổi bằng những thủ đoạn cực kỳ tàn độc. Ngay ngày đầu tiên mang Du Thản Chi về, cô đã cho gã đi “diều giấy”: sai quân Khiết Đan cưỡi ngựa ném gã lên không gian rồi cứ vậy mà “phóng” gã, không cho gã rơi xuống đất để làm vui cho cô. Cô lại cho quân dong gã vào dây rồi phóng ngựa chạy cho thân thể gã bầm dập đau đớn như ngàn côn đánh đập, như muôn trượng lửa hồng. Ấy vậy mà khi tỉnh lại, gã vẫn quỳ xuống hôn bàn chân của cô, liếm láp từng ngón chân cô để bày tỏ lòng tôn kính. Nhìn một cách nào đó thì Du Thản Chi là một biểu tượng của trạng thái khổ dâm.

Du Thản Chi không chết. Một ông thần si tình thì làm sao chết được? Kim Dung quả thật bất công khi kéo dài những đau đớn trong đời Du Thản Chi. A Tử sai thợ rèn khéo tay làm một mặt nạ sắt, nướng đỏ ráp lên đầu Du Thản Chi biến gã thành tên Thiết Sửu (thằng hề bằng sắt). Để thử nghiệm “công trình” của mình, cô buộc gã phải đút đầu vào miệng sư tử cho sư tử cắn xem chơi. Cũng nhờ cái mặt nạ sắt ấy mà Tiêu Phong không nhìn ra được Du Thản Chi, còn Du Thản Chi thì thoải mái nhìn Tiêu Phong với ánh mắt rực lửa căm hờn bởi Tiêu Phong đã từng là kẻ thù giết cha, giết bác của gã và gã biết A Tử rất mê Tiêu Phong.

Du Thản Chi si tình A Tử đến nỗi gã sẵn sàng chết vì A Tử. Gã tình nguyện cho con Hàn tầm trên núi Tuyết Sơn hút máu để A Tử luyện công. Gã xông pha cứu A Tử, chống lại thầy mình là Đinh Xuân Thu để chịu làm kẻ bất trung, bất nghĩa. Khi A Tử đui hai mắt, gã mượn được lưỡi thủy thủ chém sắt như chém bùn để tự tháo cái lồng sắt trên đầu mình ra, trở thành một người mặt quỷ, xưng là Trang Tụ Hiền, đi theo bao bọc A Tử. Gã tình nguyện hiến đôi mắt của mình cho “thầy thuốc” Hư Trúc đem ráp vào hố mắt A Tử để A Tử sáng trở lại còn gã cam chịu phận đui mù. Gã say mê A Tử chỉ để mà si mê, không vì một lý do nào khác, kể cả lý do tình dục. Cuối cùng, khi Tiêu Phong chết, A Tử móc đôi mắt trả lại cho Du Thản Chi rồi bồng Tiêu Phong rớt xuống thung lũng sâu ngoài Nhạn Môn Quan. Và gã cũng đi theo…

Cách si tình của Du Thản Chi ngu hơn Đoàn Dự rất nhiều. Chính Đoàn Dự cũng kính “bậc thầy” Du Thản Chi khi Đinh Xuân Thu bắt được A Tử, buộc gã phải quay lại khiêu chiến với quần hùng tụ tập trên núi Tung Sơn phái Thiếu Lâm thì lão mới tha chết cho A Tử. Gã sẵn sàng làm mọi thứ: lừa thầy, phản bạn, giết bất cứ người nào. Làm bất cứ việc gì thương luân bại lý vì A Tử. Cho nên nếu goi Đoàn Dự là phó tiến sĩ si tình thì phải phong cho Du Thản Chi là tiến sĩ si tình mặc dù không có một đại học nào cấp bằng cho các tay si tình dại gái.

Tôi có thể kể ra hai viên cử nhân si tình khác trong Lộc Đỉnh ký. Nhân vật đầu tiên là Vi Tiểu Bảo, khi mới gặp A Kha, hắn đã thề một câu rất kì quái rằng nếu hắn không chiếm được cô thì mười tám đời tổ tiên nhà hắn là quân rùa đen hết ráo. Chẳng những hắn si tình cô con gái mà hắn si tình luôn…bà mẹ vợ, danh kỹ Trần Viên Viên, trên 40 tuổi, đã đi tu. Vi Tiểu Bảo được cái nói thẳng nói thật, dẫu lời nói có sống sượng, thô lỗ, tục tằn. Ấy vậy mà đàn bà con gái Trung Quốc (trong Lộc Đỉnh ký thôi nhé) mê hắn muốn chết. Thái độ si tình của hắn khá thực tế: mê ai là để ngủ cho được với người ấy, không ngủ được thì dù là Tây Thi tái thế, Bao Tự hồi sinh hắn cũng không thèm.

Lại có một viên cử nhân si tình khác là Mỹ đao vương Hồ Dật Chi. Lão này 60 tuổi, tướng mạo cực đẹp, si tình Trần Viên Viên, vứt cây đao đi để tự nguyện làm đầy tớ bửa củi, xách nước phục vụ cho Trần Viên Viên khi cô này đi tu. Lão rình nghe Viên Viên hát Viên Viên khúc, mấy chục năm chỉ lọt tai được tám chín câu. Chỉ như vậy, lão đã cho mình là người đại hạnh phúc.

Khi kết bạn với Vi Tiểu Bảo, nghe họ Vi nói chuyện si tình thực dụng, lão phê phán ngay. Chủ nghĩa si tình của lão là chủ nghĩa si tình thánh hoá, lý tưởng hoá; si tình ai là phải mong người đó được hạnh phúc, vui vẻ, kể cả giúp cho người mình si tình đi lấy chồng (không phải là mình). Chính vì quan điểm si tình khác nhau mà một già một trẻ cãi nhau ỏm tỏi, càng cãi càng đi vào chỗ mơ hồ, sai lạc.

Nghe đồn Kim Dung cũng là một ông trùm si tình trong cuộc sống và hình bóng ông tôn thờ là cô đào Hạ Mộng. Hạ Mộng còn sống đến bây giờ e đã bảy mươi tuổi có dư. Nhưng tuổi tác có ra quái gì so với tiến sĩ si tình Kim Dung. Có lẽ vì vậy mà ông đã xây dựng nên các “bậc thầy” Đoàn Dự, Du Thản Chi, Vi Tiểu Bảo, Hồ Dật Chi. Những đau đớn của họ, nếu có cũng chỉ là đau đớn tình thần nhiều hơn là thể xác. Và có lẽ Kim Dung thể hiện sự đau đớn ấy trong văn chương cũng là cách tự giải toả cho mình. Nếu không giải toả được, không chừng sẽ phát khùng phát điên lên mất.


NHỮNG ÔNG THẦN SI TÌNH

Hansy
09-04-2013, 08:58 AM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

28.
“THIÊN NGOẠI HỮU THIÊN”

"Thiên ngoại hữu thiên" (ngoài trời này có bầu trời khác) đơn giản chỉ là một tư tưởng của Lão Tử trong Đạo Đức kinh. Câu nói này thể hiện vũ trụ quan của Lão Tử, một vũ trụ quan cách chúng ta trên 2.500 năm, khi mà những tiến bộ khoa học chưa ra đời và Lão Tử, như những nhà hiền triết phương Đông khác, đã cố gắng cắt nghĩa vũ trụ thông qua những nhận thức thuần nghiêm. Khi phát biểu "thiên ngoại hữu thiên", Lão Tử cho rằng ngoài thế giới hiện thực mà chúng ta đang sống còn có một (hoặc nhiều) thế giới khác mà ông chưa biết đến. Nói cách khác, vũ trụ bao la còn chưa đựng nhiều cuộc sống khác mà loài người đang cố gắng khám phá, tìm hiểu, cắt nghĩa...

Trong "thiên ngoại hữu thiên" thì chữ "thiên" sau của Lão Tử vừa mang tính cách hiện thực vừa mang tính cách siêu thực. Ở chừng mực nào đó, tư tưởng này thể hiện một cái nhìn của siêu hình học cổ điền Trung Quốc. Thế nhưng những nhà văn Trung Quốc, trên cơ sở phát biểu của Lảo Tử, đã muốn biến tư tưởng này thành một hiện thực văn chương sinh động. Ví dụ Ngô Thừa Ân với tác phẩm Tây du ký đã xây dựng một bầu trời khác; bầu trời của Phật, thần, ma quỷ; bầu trời của Tây phương cực lạc. Hai ngàn năm trăm năm sau, một nhà văn khác của Trung Quốc đã chứng minh mệnh đề "thiên ngoại hữu thiên". Đó là Kim Dung với những tác phẩm võ hiệp tiểu thuyết của ông.

Võ hiệp tiểu thuyết hư cấu ra một bầu trời, một xã hội, một cuộc sống hoàn toàn khác hẳn với hiện thực. Đó là bầu trời, xã hội, cuộc sống của bọn hào sĩ giang hồ chuyên sống trên lưỡi đao mũi kiếm, đường quyền ngọn cước. Trên nền tảng của các sinh hoạt tôn giáo, môn phái, bang hội có thật ở Trung Quốc ngày xưa, Kim Dung xây dựng thành một thế giới võ hiệp; thoạt đọc qua cứ tưởng là có thực nhưng đọc kỹ mới thấy đó là sản phẩm thuần tuý của sự tưởng tượng, của khả năng hư cấu văn học.

Về mặt thủ pháp, Kim Dung áp dụng thủ pháp sáng tác khá thú vị; ông gắn liền những tác phẩm của mình với hoàn cảnh, giai đọan lịch sử có thật của Trung Quốc. Thần điêu hiệp lữ, Xạ điêu anh hùng truyện, Ỷ thiên Đồ long ký gắn liền với lịch sử xâm lược của quân Kim đối với nhà Bắc Tống, sự hình thành của triều Nguyên trên đất Trung Quốc, những cuộc khởi nghĩa chống quân Nguyên để khai sinh triều Minh. Thiên Long bát bộ gắn liền với lịch sử Nam Tống khi nước Khất Đan chiếm được Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay) và 18 châu Yên Vân ở bờ Bắc sông Hoàng Hà; gắn liền với sự tương tranh, tương giao, tương đấu, tương hỗ của 6 thế lực quân chủ Nam Tống, Khất Đan, Kim, Đại Lý, Thổ Lỗ Phồn, Tây Hạ. Lộc Đỉnh ký gắn liền với lịch sử triều Khang Hy nhà Thanh, khi Khang Hy mới lên làm vua đất Trung Quốc, khi những lực lượng phản Thanh phục Minh chưa bị dẹp tan, các lực lượng chư hầu (Tây Tạng, Mông Cổ) chưa bình định. Tuyết Sơn phi hồ, Phi hồ ngoại truyện gắn liền với lịch sử triều Càn Long, trong đó có những đoạn phục hiện, hồi ức về cuộc khởi nghĩa của Sấm vương Lý Tự Thành.

Những hoàn cảnh lịch sử, giai đoạn lịch sử có thật như vậy lại được gắn liền với những thế lực thật sự có thật của các bang hội, môn phái, tôn giáo. Về bang hội có Cái bang, Hải Sa bang, Thần Điểu bang, Cự Kình bang, Thiên Địa hội, Hồng Hoa hội...... Về môn phái, tôn giáo chính thống (huyền môn) có Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga My, Bái hoả giáo (Minh giáo), Côn Lôn, Tuyết Sơn, Thái Sơn, Hằng Sơn, Hành Sơn... Về môn phái, tôn giáo nhiều màu sắc tà đạo có Bạch Liên giáo, Tây Ba giáo, Ngũ Độc giáo, Bạch Mi giáo..... những thế lực có thật của các bang hội môn phái, tôn giáo này được trí tưởng tượng của tác giả nâng lên thành những thế lực chính trị, lực lượng quân sự, căn cứ một vùng hoặc có ảnh hưởng bao trùm ở nhiều khu vực rộng lớn.

Trên nền tảng cái có thực, Kim Dung phóng bút đưa vào những hoàn cảnh hư cấu, con người hư cấu cảu mình. Khả năng hư cấu của ông rộng lớn tuyệt vời, cuốn hút người đọc đi vào tác phẩm thuần tuý tưởng tượng mà cứ ngỡ đang đi vào đời sống thật.

Về hình nhi hạ kinh tế, những nhân vật trong võ hiệp tiểu thuyết của Kim Dung ít ai có nghề ngỗng rõ rệt. Trong mấy ngàn nhân vật của các bộ tiểu thuyết của ông, hoạ hoằn lắm như trong Tiếu ngạo giang hồ Kim Dung mới cho người ta thấy được Lưu Chính Phong, Vương Nguyên Bá là hai nhà giàu nức tiếng, Hà Tam Thất bán hoành thánh, Du Tấn bán tin tức, Lâm Chấn Nam có hãng bảo tiêu. Cơ bản bọn hào sĩ giang hồ trong tác phẩm của ông là đám vô công rỗi nghề nhưng vàng bạc lúc nào cũng rủng rỉnh, chẳng những ăn xài thoải mái mà còn sẵn sàng tặng người khác làm lộ phí. Ít khi họ ăn cơm nhà; ta chỉ thấy họ vào tửu lâu uống những bát rượu ngon, ăn những miếng nhắm tốt rồi đem vàng bạc ra trả. Họ đi đến đâu có lời chào mời, thiết đãi. Điều này thật lý tưởng khác xa với hiện thực xã hội Trung Quốc quân chủ trong đó đám bình dân nghèo xơ xác, gặp năm thiên tai, mất mùa, chiến chinh, có người chết đói, có người phải ăn cả thịt người.

Về hình nhi thượng võ công, những nhân vật trong các bộ võ hiệp Kim Dung là những con người tuyệt vời, đạt đến mức lý tưởng nhất. Kim Dung gọi các nhân vật trung tâm của mình là con thần long, con phượng hoàng trong loài người. Chỉ với trọng lượng cơ thể trên dưới một trăm cân (khoảng 60kg), Trương Thuý Sơn đã có thể dùng Thái Cực quyền đỡ hai tảng đá nặng ba, bốn ngàn cân (Ỷ thiên Đồ long ký). Những loại võ công họ đắc thủ mạnh và tinh vi đến độ trí óc của con người không thể tưởng tượng nổi: Kiều Phong trong Thiên Long bát bộ có nội lực sung mãn như dời non lấp biển, Lệnh Hồ Xung trong Tiếu ngạo giang hồ có đường Độc Cô cửu kiếm thắng tất cả các loại võ công trên đời, Quách Tĩnh trong Xạ điêu anh hùng truyện có Hàng long thập bát chưởng mạnh đến tan bia vỡ đá. Loại nhân vật trung tâm trong tác phẩm của ông chỉ cần xuất một chiêu quyền, cước, chưởng, chỉ, cầm, nã, đao, kiếm, côn, bổng là địch thủ phải chào thua, thậm chí phải táng mạng.

Ấy vậy mà họ sống đẹp hết sức. Trai trung hậu, chất phác; gái thông minh, tiết liệt. Họ sẵn sàng xả thân, hy sinh tính mạng vì người khác. Họ yêu thương đằm thắm, chân thành, thủy chung. Trong mấy ngàn nhân vật, ta chỉ có thể tìm thấy một nhân vật vì tham vọng mà phản bội trong Thiên Long bát bộ (Mộ Dung Phục). Họ hành hiệp cứu đời, tế khốn phò nguy, sống trên và ngoài vòng ảnh hưởng của cái gọi là vương pháp. Họ sống có thứ luật giang hồ riêng, chẳng hề liên quan gì đến các thứ hình luật của các chế độ quân chủ. Cơ sở giải quyết, hành xử mọi vấn đề của họ đặt rtên đao kiếm, quyền cước và tất nhiên, có sự can thiệp tích cực của lý trí và tình cảm của con người.

Trong Nam hoa kinh, Trang Tử đã từng mơ ước một con chim hồng "bay cao chín ngàn dặm, nương mây cỡi gió mà đi". Tư tưởng của Lão Tử Trang Tử hình thành học thuyết Lão Trang nến tản tư duy của đạo gia. Tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung xây dựng nên những môn phái tu theo đạo gia, lấy tư tưởng Lão Trang làm nền tảng cho võ thuật. Đọc Kim Dung, ta thường gặp các đạo sĩ phái Võ Đang, Thanh Thành, Tiêu Dao, Bồng Lai. Nơi họ tu học là các đạo quan (quán); võ công mà họ đắc thủ là võ công âm nhu, nhẹ nhàng thanh thoát như hoa bay, gió thoảng nhưng kình lực mạnh đến ta bia vỡ đá, dời non dốc biển.

Nhân vật tiêu biểu cho Đạo gia mà Kim Dung ca ngợi hết lời là một nhân vật có thực: Trương Tam Phong (Trưong Quân Bảo), đạo gia khai sáng phái Võ Đang, người sáng tác ra bộ môn Thái Cực quyền pháp chậm rãi, nhẹ nhàng mà ngày nay còn truyền lại trong y thuật dưỡng sinh. Kim Dung mô tả Thái Cực quyền pháp: dang đôi tay nhẹ nhàng ôm lại như ôm cả vũ trụ vào lòng. Và chỉ với một thế Lãm tước vĩ (ôm đuôi chim), đạo gia đã có thể xoay địch thủ của mình như xoay con vụ, dù địch mạnh đến đâu, nặng đến đâu. Lãng mạn hơn, ông còn cho phép bốn lạng có thể chống lại được ngàn cân (tứ lạng bát thiên cân) và có thể mượn (lợi dụng) chính sức của địch thủ để đánh lại địch thủ (tá lực đả lực)

Nếu lịch sử - hiểu như một khoa học - có một các cắt nghĩa nhằm đạt đến tích khách quan, tính hiện thực thì Kim Dung, trên nền tảng lịch sử đó, thêu dệt thành những đoạn huyền sử, thoại lạ lùng. Đây cũng chính là thủ pháp sáng tác chung của nhiều nhà văn học Minh-Thanh nhưng bậc hậu bối Kim Dung lại phát huy thủ pháp đến mức lâm li tận chí, vượt xa các bậc tiền bối. Ông đã thêu dệt cho ta nmột huyền thoại Sấm vương Lý Tự Thành trong Tuyết Sơn phi hồ, Phi hồ ngoại truyện và Lộc Đỉnh ký. Ông đã thêu dệt một huyền thoại Nhạn Môn Quan bi tráng, đầy rẫy tình yêu, nỗi đau, chiến tranh và hoà bình trong Thiên Long bát bộ. Ông đã dựng nên một nhà vua Khang Hy sáng suốt, dũng cảm, cơ trí, đại hiếu, có tầm cỡ của một bậc minh quân bậc nhất nhì Trung Quốc. Và các kho báu lớn, nỗi ước mơ ngàn đời của dân tộc Trug Quốc quân chủ nghèo nàn và lạc hậu xuất hiện trong tác phẩm của ông khá nhiều. Có điều lạ là kho báu ở Quan Ngoại (Tuyết Sơn phi hồ), kho báu ở chùa Thiên Ninh phủ Giang Lăng (Tố tâm kiếm) đều tẩm thuốc độc. Bọn giang hồ hào sĩ, bọn quan lại tham tàn đã tìm được các kho báu đó. Tay họ đã chạm, túi họ đã đựng đầy những vàng bạc, kim cương mã não nhưng họ đã trúng độc, chết ngay tại chỗ trước khi trở thành những siêu tỷ phú. Nó là nguồn hạnh phúc thuần tuý mang tính ẩn dụ đối với người Trung Quốc chăng?

Tiểu thuyết, võ hiệp Kim Dung thường nhắc đến con rồng. Ta có thể dễ dàng bắt gặp Hàng long thập bát chưởng với Hiện long tại điền, Tiềm long thăng thiên, Giao long xuất hải, Thần long bái vĩ, Phi long tại thiên, Kháng long hữu hối...... đây là tên các thế võ phỏng theo tên gọi các quẻ trong Kinh Dịch. Ngay móng vuốt của rồng cũng hình thành môn võ công: Long trảo công, Long tượng chưởng, Cầm long công.... mà rồng là con vật chỉ có trong linh thoại, dứng đầu tứ linh: long, lân, quy, phụng. Đưa con rồng vào trong tiểu thuyết võ hiệp, Kim Dung đã đưa người đọc trở về với thế giới linh thoại, một thế giới vượt xa thế giới hiện thực, ở ngoài thế giới hiện thực.

Ai cũng tự yêu mình, quý tính mạng của mình. Khuynh hướng ái ngã gần như là một kinh nghiệm phổ quát và tuyệt đối của loài người từ Đông sang Tây. Trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, những nhân vật trung tâm lại xả thân hành hiệp cứu đời, cứu người; sẵn sàng hy sinh tính mạng của mình cho người khác được sống. Lệnh Hồ Xung chiến đấu đến sức cùng lực kiết với Điền Bá Quang để giải cứu cô nữ ni xinh đẹp và trong trắng Nghi Lâm; Trương Vô Kỵ hiến thân để cứu quần hùng Minh giáo; Địch Vân liều mình cứu Thủy Sinh; Kiều Phong dấn thân vào đầm rồng hang cọp để chạy chữa cho A Châu; Hồ Phỉ nghe nơi đâu có cường hào ác bá bức hại dân đen là tìm đến để lập lại công đạo.... Đó là những tấm gương lớn xuất phát từ khái niệm hành hiệp độ thế. Những nhân vật của Kim Dung trở thành những người hùng lý tưởng.

Từ người hùng lý tưởng trong cuộc sống, họ trở thành người tình lý tưởng trong tình yêu. Họ thương yêu say đắm, thủy chung trong khuôn khổ cho phép của lễ giáo Trung Quốc.

Tình yêu đối với họ gần như tự nhiên, hoàn toàn không hàm ý lợi dụng, cơ hội, cưỡng cầu. Gần như tình yêu trong võ hiệp Kim Dung là kết quả của những cơ duyên hợp lý. Cơ duyên không hề mang tính chát tiền định như cơ duyên trong tư tưởng phật giáo, nó chính là kết quả của những mối quan hệ xã hội trong sáng và võ hiệp. Tình yêu trong truyện võ hiệp hình thành một thế giới riêng của anh hùng và giai nhân.

Cái thế giới giang hồ tên đường đao mũi kiếm, cái thế giới của thoại sử, cái thế giới của võ cộng siêu việt, cái thế giới cảu luật giang hồ, cái thế giới của những anh húng lý tưởng, những mối tình tuyệt vời - tất cả kết hợp thành một bầu trời riêng, khác hẳn bầu trời hiện thực mà người Trung Quốc đã sống. Đó là bầu trời ngoài một bầu trời - một "thiên ngoại hữu thiên". Ai đau xót vì cuộc sống, mệt mỏi vì những oán thù, đau đớn vì phải là người trong cuộc sống hiện thực hãy tìm đến "bầu trời" trong tiểu thuyết võ hiệp.


“THIÊN NGOẠI HỮU THIÊN”

Hansy
09-04-2013, 10:29 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

29.
“VẠN SỰ GIAI KHÔNG”

“Vạn sự giai không” là một trong những quan điểm lớn lao của đạo Phật. Hiểu một cách chân phương, “Vạn sự giai không” là mọi thứ trên đời đều là tạm bợ, hư ảo không có thật. “Vạn sự giai không” thể hiện nhân sinh quan, vũ trụ quan căn bản nhất của tư tưởng đạo Phật: anh không có, tôi cũng không có; nhan sắc cũng không, tình yêu cũng không; cả thế giới này là một chữ KHÔNG to tướng. Kinh Bát nhã ba la mật chép: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” (Sắc chính là không, không chính là sắc). Than ôi, đến cái đẹp của phụ nữ - nguồn cảm hứng vô tận trong văn học nghệ thuật nhân loại – cũng không có nữa thì thế giới này quả thật đáng buồn.

Kim Dung có lẽ là một đệ tử thuần thành của nhà Phật, thấm nhuần tư tưởng Phật giáo sâu sắc. Tuư tưởng ấy hiện ra trong các tác phẩm võ hiệp tiểu thuyết của ông một cách có hệ thống, trở thành nguồn tư tưởng phương Đông chủ đạo, bao trùm khắp tác phẩm.

Trong những bộ tiểu thuyết của mình, Kim Dung thường nhắc đến sự tích Đức Bồ Đề Đạt Ma từ Thiên Trúc qua Trung Quốc, diện bích trong 9 năm, hình thành hệ tư tưởng Thiền tông Trung Hoa. Từ đó mới có chùa Thiền tông Thiếu Lâm ra đời, mới có các kinh văn Phạn ngữ du nhập Trung Quốc được dịch ra Trung Văn và mới có các thứ võ công danh tiếng mang dáng dấp Thiền tông: Niêm hoa chỉ, Bát Nhã chưởng, Thiếu Lâm trường quyền, Dịch cân kinh, Thiên thủ Như Lai chưởng, Kim Cương chỉ, Đạt Ma kiếm pháp… Một số vũ khí cổ điển mà các nhà sư Thiếu Lâm sử dụng cũa mang dáng dấp Thiền tông: thiền trượng, phương tiện sản…

Trong cách đặt tên nhân vật cho các nhà sư Thiếu Lâm, Kim Dung cũng cố gắng thể hiện chữ Không trong “Vạn sự giai không”: Vô Tướng, Vô Sắc, Huyền Khổ, Huyền Nạn, Huyền Từ, Huyền Thống, Độ Ách, Độ Nạn, Độ Kiếp, Hư Trúc, Không Kiến, Không Văn, Không Trí, Không Tín… Các nhà sư Thiếu Lâm xuất hiện trrong tác phẩm Kim Dung rất gọn nhẹ, bên mình không mang theo một thứ vật dụng, quần áo gì. Thỉnh thoảng có người cầm theo cây gậy, đoản côn, sợi dây (khuyên) để làm vũ khí. Ra đi chiến đấu với địch thủ, họ thường sử dụng đôi bàn tay thịt. Ở một góc độ nào đó, họ là những người “vô sản” - một biểu hiện khá triệt để của chữ “không”.

Trong Thiên Long bát bộ, Kiều Phong đau xót tìm nguồn gốc của mình là người Hán hay người Khất Đan. Hơn đâu hết, ở Trung Hoa ngày xưa, mặc cảm dân tộc và sắc tộc rất lớn: người Hán mới là người; các dân tộc và sắc tộc khác chỉ là Tứ di (bốn rợ). Kiều Phong là bậc anh hùng đạt đạo những vẫn không thoát ra được tư tuởng dân tộc hẹp hòi, chỉ sợ bản thân mình thuộc dòng giống Khất Đan mọi rợ. Ông tìm lên chùa Chỉ Quán, núi Thiên Thai xin gặp nhà sư Trí Quan để hỏi cho ra nguồn gốc đó. Trí Quan chỉ đọc một bài kệ lửng lơ:

Khất Đan với Hán nhân
Bất luận giả hay chân
Ân oán cùng vinh nhục
Không hơn đám bụi trần.

Cả bài kệ là một chữ “không”, kết thúc mọi vấn đề dân tộc, ân oán, vinh nhục trên đời. Tất cà chỉ là bụi trần, hỏi mà làm chi, biết mà làm gì. Sức học của Kiều Phong không cho phép ông hiểu ra ý nghĩa của bài kệ đó ngay thời điểm Trí Quan đọc. Nhưng khi ông nhìn nụ cười hiền từ nở ra trên đôi môi nhà sư và cái chết đầy tính giải thoát của nhà sư khi đọc xong bài kệ, có lẽ ông nhận ra chữ “không” trong tư tưởng của Trí Quan, của nhà Phật.

Kim Dung đã thật sự thhành công khi tạo cho độc giả nhận thức coi cái chết như một sự giải thoát, sự trở về. Trong Tiếu ngạo giang hồ, nhà sư Phương Sinh đứng trước xác bốn đệ tử bị Doanh Doanh giết chỉ đọc một bài kinh văn siêu độ. Ông không trả thù Doanh Doanh, cũng không chôn cất các đệ tử bởi ông coi các xác chết cũng như bốn cái túi da, chôn cũng vậy mà không chôn cũng vậy. Tất cả đều trở về với cát bụi. Trong Thiên Long bát bộ, nhà sư Huyền Thống đang hăng hái đánh nhau với bọn Hàm Cốc bát hữu, chỉ cần nghe nho sinh đọc câu: “Khổ hải vô biên hồi đầu thị ngạn” (bể khổ mênh mông, quay đầu là bờ) đã chợt ngộ ra chữ “không”, đứng tim mà chết, trên môi nở nụ cười mãn nguyện. Cũng trong tác phẩm này, một nhà sư già trong Tàng kinh các chùa Thiếu Lâm đã hóa giải mối thù sâu như biển giữa Tiêu Viễn Sơn (người Khất Đan) và Mộ Dung Bác (người Tiên Ty). Bốn tay họ giao nhau, hai lòng cùng giác ngộ; họ chợt nhận ra những âm mưu, thủ đoạn, khát vọng trả thù chỉ là hư ảo. Và nhà sư Ba La Tinh (người Thiên Trúc) cũng nhận ra cái hư ảo trong giấc mộng ăn cắp kinh văn đem về Thiên Trúc của mình. Ông chợt nhận ra Thiên Trúc hau Trung Hoa đều là thế gian, cũng “không” tuốt, và việc trở về Thiên Trúc là không cần thiết nữa.

Chữ “không” can thiệp vào tình yêu một cách tích cực. Ai yêu nhà sư Huyền Từ bằng Diệp Nhị Nương. Người phụ nữ này đã hiến thân cho Huyền Từ, sinh ra chàng Hư Trúc. Nhưng Huyền Từ là Phương trượng của chùa Thiếu Lâm; Diệp Nhị Nương cam chịu sống lẻ loi, không dám nhìn mặt người tình trong suốt 20 năm cũng chỉ là để cho Huyền Từ khỏi bị tai tiếng vì chữ “dâm” trong Ngũ giới cấm của nhà Phật. Đến phút cuối, trước quần hùng tại isân chùa Thiếu Lâm; Huyền Từ, Diệp Nhị Nương và Hư Trúc mới đoàn tụ. Cha, mẹ và đứa con lưu lạc cùng gặp lại nhau, có hạnh phúc nào lớn hơn điều ấy? Thế nhưng, ở đây chữ “không” lại xuất hiện, can thiệp, biến tất cả niềm hạnh phúc thành khúc bi ca. Huyền Từ tự vẫn để tạ tội với chư tăng chùa Thiếu Lâm; Diệp Nhị Nương tự vẫn theo người tình cho có đôi có bạn. Tình yêu của họ cũng chỉ là hư không; chăn gối ngày xưa cũng chỉ là hư không.

Trên cơ sở chữ “không”, Kim Dung xây dựng những nhân vật rất lạ. Như Định Nhàn sư thái, chưởng môn phái Hằng Sơn (Tiếu ngạo giang hồ); sau một trận chiến đấu hung hiểm đầy máu và lửa, bà xuất hiện với chiếc áo không lấm một vết than tro, khuôn mặt bình thản, tay lần chuỗi tràng hạt như không có chuyện gì xảy ra. Vị nữ ni này đúng với ba chữ “vô ưu”, “vô uý”, “vô trần” của đạo Phật. Mà “vô” cũng chính là “không”. Trước khi chết trên chùa Thiếu Lâm, vị nự ni này truyền chức chưởng môn lại cho Lệnh Hồ Xung mà vẫn không chịu nói ra ai đã giết mình. Ấy bởi vì kẻ giết bà chính là Nhạc Bất Quần , sư phụ của Lệnh Hồ Xung! Chữ “không” đã giúp bà quên đi mối thù. Bà chết nhưng chữ “không” ấy vẫn long lanh trong sáng.

Tôi đã nói “không” cũng là “vô”. Kim Dung triệt để bàn đến chữ “không” của đạo Phật qua tiểu thuyết của mình nhưng xin bạn đọc chớ ngại ông biến cả thế giới tiểu thuyết thành ra hư ảo hết. “Không” cũng là “vô” nhưng đồng thời ông lại đưa ra biện chứng “Vô trung sinh hữu” (trong cái “không” sinh cái “có”). Và đó là vấn đề mà tôi sẽ bàn đến, nếu tôi còn sống, chưa trở về với chữ “không”.


“VẠN SỰ GIAI KHÔNG”

Hansy
10-04-2013, 12:00 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

30.
CHỮ XUÂN

Trong Trung văn, chữ Xuân (春, mùa xuân) được viết với 9 nét. Ở một nghĩa rất tượng trưng, chữ Xuân được ví với bộ phận sinh dục nữ qua phép tượng hình các nét viết của chữ này. Nếu người phụ nữ nằm, thì đó là chữ xuân; nếu người phụ nữ ngồi thì có một kẽ hở, tạo ra một chữ 10 nét, gọi là Thung (舂). Nhà nho có câu ví von:

Ngọa tắc Xuân mà toạ tắc Thung
(Nằm thì Xuân mà ngồi thì Thung)

Kim Dung viết tiểu thuyết võ hiệp bằng Trung văn. Chữ Xuân trong tác phẩm của ông khá phong phú, biến ảo lạ lùng. Chữ Xuân nằm trong ngoại hiệu của đạo gia. Xạ điêu anh hùng truyện có 7 đạo gia gọi là Toàn Chân thất tử, trong đó có Trường Xuân tử Khưu Xử Cơ. Tính cách nhân vật này nóng nảy, nhưng là một hán tử yêu nước. Là đạo gia, nhân vật này cũng tu học theo phong cách đạo gia, nghĩa là cũng học cách bế khí để hưởng nhàn, hành lạc dài dài. Chẳng vậy mà ngoại hiệu của lão là Trường Xuân tử? Trường Xuân tử có nghĩa là ông… ham vui hoài hoài. Còn ổng vui được tới đâu thì thây kệ ổng. Chữ Xuân còn nằm trong ngoại hiệu của thầy thuốc. Trong Hiệp khách hành có một nhân vật gọi là Trước thủ thành xuân Bối Hải Thạch. Bối Hải Thạch võ công cao cường nhưng suốt đời ốm yếu, ho hen hoài. Lão tự tìm thuốc men chữa bệnh cho mình, chữa riết nên trình độ y lý cũng cao cường như một thầy thuốc (đại phu). Vì vậy, lão lên làm trưởng lão bang Trường Lạc tại Giang Nam, được mọi người tôn xưng là Bối đại phu. Bạn có để ý hai chữ Trường Lạc không? Hai chữ này có nghĩa là vui hoài, vui miết.Người thầy thuốc luôn được Kim Dung ca ngợi là Diệu thủ hồi xuân. Tất nhiên, làm thuốc là trị bách bệnh; trong đó có bệnh… lạc mất mùa xuân. Hồi xuân là mục tiêu giúp con người tìm lại chất trẻ trung, tìm lại cảm hứng tình dục. Trong phương thuốc hồi xuân luôn luôn có các vị Nhân sâm, Hà thủ ô, Sinh địa, Linh Chi, Tuyết liên tử… Uống các món này, con người khỏe mạnh, trẻ trung trở lại. Còn sau đó thì… hổng biết.

Chữ Xuân còn để chỉ chỗ ăn chơi sa đọa. Người Trung Hoa có câu “Hạ giới hữu Tô Hàng nhị châu”. Hàng Châu và Tô Châu là hai chỗ ăn chơi đàng điếm nhất của miền Giang Nam. Xem như vậy thì người trung Quốc coi trọng sự ăn chơi. Lộc Đỉnh ký, thông qua cái miệng của Vi Tiểu Bảo, không ngớt ca ngợi thành Dương Châu nhà hắn. Hắn xuất thân từ Lệ Xuân viện, nơi mẹ hắn làm Kỹ nữ và sinh ra hắn. Hắn tự hào về Lệ Xuân viện, về bà mẹ làm kỹ nữ. Hắn đã từng có mong ước kiếm được thật nhiều tiền để về Dương Châu mua đứt lại Lệ Xuân viện; lập thêm ba toà Lệ Hạ viện, Lệ Thu viện và Lệ Đông viện cho đủ 4 mùa, đặng quần hùng và trọc phú bốn phương đến đó ăn chơi cho phỉ chí.Vi Tiểu Bảo cũng là tay khoái món văn hóa đồi truỵ. Rõ ràng là hắn có mấy bức thêu gọi là Xuân cung đồ (bức hoạ về bộ phận sinh dục nữ). Hắn đã đem mấy bức thêu này “thuốc” Đa Long khi tên này được vua Khang Hy giao nhiệm vụ chém Mao Thập Bát, khiến Đa Long mê mẩn, mất cảnh giác. Vi Tiểu Bảo đã cứu mạng được Mao Thập Bát nhờ truyền bá văn hóa đồi truỵ!

Chữ Xuân đồng nghĩa với khái niệm bổ thận, cường dương. Những món thuốc giúp đàn ông bổ thận, cường dương để chứng mình là nam nhi chính hiệu trong phòng the được gọi là xuân dược. Mô phỏng xuân dược đó, Lệ Xuân viện thành Dương Châu có bán loại xuân tửu. Thế nhưng, Vi Tiểu Bảo thì chỉ muốn những kẻ uống loại rượu này vào phải ngủ li bì, ngủ mê mệt để hắn ra tay khống chế. Cho nên, hắn đã đổ thêm thuốc mê vào rượu; khiến xuân tửu hoá thành mê xuân tửu. Tang Kết lạt ma, Cát Nhĩ Đan vương tử, Trịnh Khắc Sản… cho đến các quý phu nhân, quý tiểu thư Tô Thuyên, A Kha, Phương Di… uống loại rượu này, lòng xuân thì phơi phới nhưng trí tuệ lại hồ đồ. Vi Tiểu Bảo tha hồ tác oai, tác quái. Không hiểu hắn có uống xuân tửu không nhưng hôm ấy hắn giao cấu với 7 người phụ nữ. Tất nhiên, tác giả có nói dóc nhưng nói dóc như vậy nghe cũng thú vị.

Việc nam nữ giao cấu với nhau được Kim Dung gọi là xuân sự hay hảo sự. Đó là quan điểm của một dân tộc quý chuộng sức lao động bởi xã hội Trung Quốc ngày xưa là xã hội nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Phải sinh con đẻ cái để có người lao động, để nối dõi tông đường. Cho nên người ta coi đêm tân hôn là một đêm thiêng liêng của đôi đôi lòng thanh xuân phơi phới. Hiệp khách hành có mô tả đoạn Thạch Phá Thiên và Đinh Đang mới định động phòng thì bọn hảo hán bang Trường Lạc đổ ra đi tìm Thạch Phá Thiên, đứng ngoài sân kêu la ơi ới. Đinh Bất Tứ phải ngồi trên nóc nhà gác cho cháu mình hoàn thành xuân sự. Lão tuôn ra một hơi vừa có vẻ văn hóa, vừa có vẻ tục tĩu, nào là “đêm xuân một khắc ngàn vàng”, nào là “thời xuân qua rất mau”… Nhưng Thạch Phá Thiên đã bỏ cô dâu, chạy mất.

Những nhân vật nữ trung tâm của Kim Dung được gọi là băng thanh ngọc khiết, là hoàng hoa khuê nữ hoặc xuân nữ. Họ là những cô gái trong trắng, lãng mạn mười phần nhưng không liều mạng chút nào. Họ đi đến đâu thì không khí đương xuân có ở đó, rực rỡ, náo nhiệt. Có đôi khi họ buồn, họ khóc. Kim Dung mô tả những giọt nước mắt đọng trên gò má xuân thì lóng lánh chẳng khác gì giọt sương trên đóa mai côi (hoa hồng). Mùa xuân, bóng liễu xanh tươi. Kim Dung mô tả đôi mày các cô đẹp như cặp lá liễu. Và khi cô nào… nổi nóng, đôi mày liễu khẽ nhướng lên hay khẽ cau lại, thể hiện một tâm trạng bất bình thì khách mày râu hãy coi chừng. Một chiêu Xuân phong dương liễu phóng ra, mùa xuân mất biến, chỉ còn cơn lôi đình sục sôi như nắng hạ.

Hansy
10-04-2013, 12:01 PM
KIM DUNG
GIỮA ĐỜI TÔI

***

Vũ Đức Sao Biển

***

PHẦN 4




31. Kiếm luận
32. Đao luận
33. Cành mai trên Thiên Sơn
34. Thư pháp và Võ công
35. Suy niệm ký tiểu hữu
36. Tiếu ngạo giang hồ
37. Những suy niệm siêu hình học
38. Sự suy tàn của chủ nghĩa bạo lực
39. Thanh kiếm và Cây đàn
40. Huyền thoại Thủ cung sa





http://sachkhaitam.com/files/product/879/4d79da2d-a9d1-4d36-a71d-6978ef8bd5b4.jpg

Hansy
11-04-2013, 09:14 AM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

31.
KIẾM LUẬN

Trong chiến tranh cổ điển, kiếm (gươm) là một vũ khí tiện lợi nhất. Tuy không cùng học một loại binh thư nhưng các dân tộc đã biết chung một kinh nghiệm chiến tranh: dùng kiếm để đánh gần và dùng cung để bắn xa. Lịch sử chiến tranh của nhân loại cho biết kiếm được rèn ở thành Baghdad (lúc bấy giờ thuộc Ba Tư - Perse) là loại kiếm danh tiếng nhất, có kỹ thuật rèn cao cường nhất. Và đây là những lưỡi đà kiếm, có hình cong hình lưỡi liềm. Kiếm trong truyện võ hiệp Kim Dung cũng không đi ra khỏi kinh nghiệm ấy. Kiếm quan trọng đến nỗi nhiều khi, những tác phẩm võ hiệp của ông được người đời gọi là truyện kiếm hiệp - truyện về những người hành hiệp cứu đời bằng lưỡi kiếm.

Có những tác phẩm của ông đã khắc hoạ vai trò cao cả của lưỡi kiếm. Đó là trường hợp bộ Ỷ thiên Đồ long ký. Trong 5 chữ, thì đã có hai chữ Ỷ thiên là tên gọi của một thanh kiếm báu mà theo tác giả, được đúc bằng thép nguyên chất pha lẫn platin và trong thân kiếm có cất dấu một pho bảo lục: bộ Cửu âm chân kinh. Tiếu ngạo giang hồ cũng là một tác phẩm đồ sộ nói về cây kiếm với những phái sử dụng kiếm gọi là Ngũ nhạc kiếm phái: Thái Sơn, Hành Sơn, Hoa Sơn, Tung Sơn, Hằng Sơn. Bộ Liên thành quyết là một bộ tiểu thuyết viết về một pho kiếm pháp mà bài kiếm quyết là một bài thơ; thầy đã cố dạy sai cho học trò để che dấu lời hướng dẫn đi tìm một kho báu lớn có giá trị liên thành. Ngoài ra, trong 12 bộ tiểu thuyết, luôn luôn xuất hiện người sử kiếm (kiếm sĩ) và kiếm sĩ luôn luôn nhiều hơn những bọn hào sĩ giang hồ sử dụng những loại vũ khí khác.

Về mặt chất liệu làm kiếm, Kim Dung nói đến loại kiếm sắt, kiếm gỗ, kiếm vàng và kiếm pha hợp kim. Kiếm thông thường là kiếm sắt nhưng Kim Dung lại thường đề cập đến một loại sắt thép đặc biệt rất bén, chém sắt như chém bùn. Trương Tam Phong, tức Trương Quân Bảo, dùng một cây kiếm gỗ hành hiệp gọi là Chân võ, thành danh và trở thành tổ sư phái Võ Đang. Bọn thầy thuốc như Hồ Thanh Ngưu, Bình Nhứt Chỉ có cây đoản kiếm bằng vàng, chắc là để dùng trong khi mổ xẻ. Đặc biệt, kiếm Ỷ thiên như đã nói là một hợp kim gồm thép và platin và phải dùng đến đao Đồ long chém thì cả đao với kiếm mới cùng gẫy. Bọn đệ tử Minh giáo kiếm được thanh kiếm Ỷ thiên gãy, đã dùng kỹ thuật luyện kim đặc biệt của Ba Tư để ráp kiếm lại và trong động tác ráp nối quyết định, còn thêm cả máu người vào. Chi tiết này thật hoang đường nhưng cực kỳ thú vị, không khỏi khiến bạn đọc nghĩ đến huyền thoại hai thanh kiếm thời Chiến quốc: Can tương và Mạc gia (còn gọi là Mạc tà).

Về tính chất, truyện võ hiệp Kim Dung đề cập đến hai loại kiếm: cương kiếm (kiếm rắn) và nhu kiếm (kiếm mềm). Trong Tiếu ngạo giang hồ, Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh, chưởng môn Hành Sơn, có cây kiếm mỏng như lá lúa, rút ra cầm tay thì mềm oặt nhưng khi vận công vào thì lưỡi kiếm giương thẳng ra và khi chiến đấu thì kiếm khí phát ra đầu mũi kiếm. Về hình thể, Kim Dung phân ra trường kiếm (kiếm dài) và đoản kiếm (kiếm ngắn). Nhũng nhân vật sử dụng đoản kiếm trong tác phẩm của ông thường là những người có gia số võ công đặc biệt, chuyên đánh cận chiến; chân tay rất linh hoạt. Kiếm bình thường thì thân thẳng. Cá biệt, trong Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung mô tả nhân vật Tái Bắc minh đà Mộc Cao Phong, một người gù như lạc đà (minh đà) vì có bướu trên lưng; y sử một cây đà kiếm cong cong hình lưỡi liềm. Đúng là đà nhân đà kiếm! Thanh kiếm đặc biệt của Mộc Cao Phong nhắc chúng ta nhớ lại hình ảnh những lưỡi kiếm cong của các đội quân Ả Rập trên sa mạc trong những phim nói về khu vực châu Phi.

Kiếm là một loại vũ khí cá nhân nên thường thường bọn hào sĩ sử đơn kiếm. Tuy nhiên cũng có những người chuyên đánh song kiếm. Lại có những cặp anh em, vợ chồng, bạn bè đồng môn sử đơn kiếm nhưng chuyên đánh đôi thành song kiếm hợp bích. Có lối đánh tập thể kết làm kiếm trận. Triết học Đông phương đã đi vào bài bản kiếm pháp với Lưỡng nghi kiếm pháp, trong đó hai người cùng đánh: một người theo chính Lưỡng nghi, một người theo phản Lưỡng nghi. Có chính có phản mới thành hợp bích chẳng khác nào có thèse, có antithèse mới ra được synthèse trong triết học Hy Lạp.

Về nguyên tắc sử kiếm, Kim Dung đưa ra Kiếm tông và Khí tông. Kiếm tông chú trọng kiếm chiêu, ra đòn liên miên bất tuyệt để thủ thắng. Khí tông chú trọng nội công, cho rằng nội công cao cường là chỉ đánh một vài chiêu là có thể triệt hạ địch thủ. Đây chính là sự mâu thuẫn trong nội bộ phái Hoa Sơn, khiến phái này tương tranh đến nỗi gần tuyệt diệt.

Để có thể sử kiếm, người ta phải học kiếm pháp. Kiếm pháp được hiểu là nguyên tắc hướng dẫn sử một đường kiếm chuyên môn của một phái hay một nhà (gia). Kiếm pháp được cụ thể hoá thành một bài ca và người kiếm sĩ phải học thuộc lòng từng câu, từng chữ. Những câu ca ấy được chép lại trên lụa, trên vải, trên giấy, trên da dê thì được gọi là kiếm phổ. Kiếm phổ chia ra từng chiêu, từng thức; mỗi chiêu thức có nhiều cách biến hoá linh động. Kim Dung đã thực sự đưa người đọc đi vào một thế giới mộng mơ thú vị khi ông đề cập đến những Thái Sơn thập bát bàn, Hành Sơn thập tam thức và lý giải Lưỡng nghi kiếm pháp có 64 thế.

Tại sao lại là 64 thế? Ấy là vì Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái (quẻ); trong mỗi quái có 8 lần biến hoá, 8 lần 8 thành 64 thế. Đó là chính Lưỡng. Thế còn phản Lưỡng nghi? Phản Lưỡng nghi là đánh ngược lại những quy tắc của chính Lưỡng nghi, tạo ra một âm một dương, một trên một dưới, một trái một phải, một trước một sau... Thử tưởng tượng một đối thủ phải đấu với một cặp song kiếm Lưỡng nghi! Kim Dung chỉ đặt vấn đề và chúng ta tưởng tượng.

Trong Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung nói đến một thứ kiếm pháp lãng mạn hơn: Độc Cô cửu kiếm do Phong Thanh Dương truyền lại cho Lệnh Hồ Xung. Đây vốn là kiếm pháp của Độc Cô Cầu Bại, chỉ gồm có 9 thức: Tổng quyết thức, Phá kiếm thức, Phá khí thức, Phá thương thức, Phá chưởng thức, Phá tiên thức, Phá đao thức, Phá tiễn thức và Phá côn thức. Với 9 thức đó, Độc Cô Cầu Bại đánh thắng tất cả các địch thủ khiến cho không ai còn dám đến đánh kiếm với ông. Ông rơi vào cô đơn (Độc Cô), chỉ mong được thua một lần (Cầu Bại) mà không ai có thể khiến ông thua được, cuối cùng chết đi trong lặng lẽ!

Phong Thanh Dương cắt nghĩa: Độc Cô cửu kiếm đánh theo kiếm ý, nghĩ đến đâu là đánh đến đó, muốn đánh thế nào cũng được, chỉ có công chứ không bao giờ quay về thủ. Hễ địch đánh 100 chiêu, ta đánh 101 chiêu; địch đánh 1000 chiêu, ta đánh 1001 chiêu; liên miên bất tuyệt như nước chảy mây trôi. Lệnh Hồ Xung nghe được thứ kiếm pháp như vậy, anh ta mừng như điên vì tâm tính anh ta vốn lãng mạn. Và trận ra oai đầu tiên của Độc Cô cửu kiếm vừa khiến Lệnh Hồ Xung, vừa khiến chúng ta kinh hãi: Lệnh Hồ Xung mất hết công lực, chỉ sử một chiêu Phá khí thức, đã đâm mù mắt 15 tên ác đồ của phái Tung Sơn!

Kiếm nằm trong vỏ là biểu hiện của hoà bình; kiếm rút ra khỏi vỏ là biểu hiện của đấu tranh. Thậm chí với Diệt Tuyệt sư thái, chưởng môn phái Nga Mi trong Ỷ thiên Đồ long ký, mỗi khi rút kiếm Ỷ thiên ra, kiếm không dính máu là chưa đút vào vỏ. Rút kiếm ra khỏi vỏ, người ta thường bắt kiếm quyết: mũi kiếm hướng lên trời, mũi kiếm chỉ xuống đất, mũi kiếm chỉ ra phía trước, thân kiếm hoành ngang người... Chiêu đầu tiên của những người nhỏ tuổi khi đấu với người trưởng thượng phải là chiêu thi lễ: hai tay đưa thẳng kiếm lên khỏi đầu là Vạn nhạc triều tôn; hai tay nắm lấy đốc kiếm, cả người và kiếm cùng cúi tới trước là Đồng tử bái Quan Âm.

Sử kiếm là cả một nghệ thuật. Dương Qua và Tiểu Long Nữ trong Xạ điêu anh hùng truyện sử Ngọc nữ kiếm pháp một cách uyển chuyển mỹ lệ như một cặp múa đôi. Tả Tử Mục, chưởng môn phái Vô Lượng trong Thiên Long bát bộ sử kiếm chém con rắn đang cuốn lấy người học trò, rắn đứt đôi mà da học trò vẫn không xây xát. Ninh Trung Tắc của phái Hoa Sơn sử thế kiếm quyết định đâm vào người học trò là Lệnh Hồ Xung, kiếm vừa chạm đến da, đã chuyển kình lực đâm thẳng thành kình lực bẻ ngang, khiến thanh kiếm gẫy làm nhiều mảnh rơi xuống choang choảng.

Trong đường kiếm còn có cả tình yêu đôi lứa. Nhạc Linh San cùng Lệnh Hồ Xung thầm yêu nhau, đã lén cha mẹ luyện môn Xung - Linh kiếm pháp, khi múa lên đôi mắt mơ màng, đôi lòng ấm áp. Vì họ còn rất trẻ nên nghịch ngợm, nghĩ ra ra chiêu Nhĩ tử ngã hoạt (người chết ta sống), tính toán kỹ luồng lực đạo, bộ vị, phương hướng sao cho đâm một lần hai đầu mũi kiếm phải dính vào nhau, hai thân kiếm nối thành một đường thẳng.

Những kiếm chiêu trong truyện võ hiệp Kim Dung được ông đặt tên rất hay: Thuận thủy thôi chu (theo nước đẩy thuyền), Lãng tử hồi đầu (người trai ra đi đã quay đầu lại), Thương tùng nghênh khách (tùng xanh đón khách), Trường Giang tam điệp lãng (ba đợt sóng trên sông Trường Giang)... Đôi khi, có những chiêu kiếm phát quá nhanh, máu không kịp chảy. Trong Lộc Đỉnh ký có nhân vật Phùng Tích Phạm mang ngoại hiệu Nhất kiếm vô huyết (một đường kiếm không chảy máu). Nói thì vậy nhưng khi Phùng Tích Phạm đánh Song Nhi, người hầu của Vi Tiểu Bảo, đâm cô một kiếm, máu vẫn chảy ra như thường. Cho nên Vi Tiểu Bảo gọi giễu Phùng Tích Phạm là Bán kiếm hữu huyết (nửa chiêu kiếm đã có máu). Có những chiêu phi kiếm, phóng kiếm bay trong không gian để giết địch thủ. Có những chiêu hoán thủ kiếm: kiếm đang cầm tay phải, đột ngột đổi qua cầm tay trái.

Người ỷ có kiếm trong tay chưa chắc đã thủ thắng. Tiểu anh hùng Hồ Phỉ trong Phi hồ ngoại truyện học được phép Không thủ đoạt bạch nhận, chuyên dùng tay không đoạt kiếm kẻ khác. Lệnh Hồ Xung có chiêu dùng ngón tay búng vào sống kiếm đối phương cho kiếm văng đi. Nhậm Ngã Hành phát Phách không chưởng, chưởng lực đủ sức đánh oằn thanh kiếm của địch thủ. Những kiểu mô tả vừa có cơ sở thực tế, vừa không tưởng khiến chúng ta cảm thấy thú vị.

Nhưng thú vị nhất có lẽ vẫn là những trận đấu kiếm mà không có kiếm, không dùng kiếm. Vương tử Đại Lý Đoàn Dự đã học được Lục mạch thần kiếm của chùa Thiên Long, nước Đại Lý, dùng kình lực của nội công phát ra 6 ngón tay theo 6 đường Thiếu dương, Thiếu âm, Thiếu xung, Trung xung, Thiếu trạch. Kiếm khí của anh ta đánh cho Mộ Dung Phục tơi tả, hoảng hốt trước hàng vạn đôi mắt quần hùng tụ tập tại chùa Thiếu Lâm. Hai trận đấu kiếm kỳ lạ nhất là hai trận đấu giữa Lệnh Hồ Xung và Xung Hư đạo trưởng, chưởng môn phái Võ Đang. Lần thứ nhất, dưới chân núi Võ Đang, Lệnh Hồ Xung và Xung Hư đứng cách nhau cả chục bước, chỉ lấy mắt mà nhìn huyệt đạo của nhau. Ấy vậy mà Xung Hư chịu thua. Lần thứ hai, trong chùa Thiếu Lâm, Lệnh Hồ Xung và Xung Hư đã rút kiếm ra nhưng Xung Hư chỉ đứng xa Lệnh Hồ Xung và nghĩ ngợi, cuối cùng chịu thua. Ấy là vì cả hai chỉ đấu kiếm ý chứ không đấu kiếm chiêu.

Kiếm là vũ khí nhưng những kiếm sĩ không lạm dụng kiếm chiêu để giết người. Đọc văn Kim Dung, ta thường thấy những cụm từ "điểm tới là thôi", "đủ phân thắng bại", “kiếm hạ lưu tình”. Người ta dùng kiếm để họp bạn và những lần gặp gỡ như vậy được gọi là "luận kiếm". Người ta lỡ tay dùng kiếm giết người không khỏi có điều hối hận, đau khổ. Cho nên, đã có những kiếm sĩ của Kim Dung bẻ kiếm bên trời (thiên nhai triết kiếm), đã có những người "rửa tay gác kiếm". Lại có những người treo kiếm lên không dùng tới, dấu kiếm trong cây đàn, để kiếm hoài trong vỏ không rút ra được nữa.

Hà Túc Đạo trong Ỷ thiên Đồ long ký được xưng tụng là tam thánh: Cầm thánh, Kỳ thánh, Kiếm thánh nhưng cuối cuộc đời, anh ta quay về đỉnh Kinh Thần Phong ngoài núi Côn Lôn xa xôi vạn dặm, treo cây kiếm lên và lặng lẽ nhớ đến cô bé Quách Tương 19 tuổi. Đã có một lần, Hà Túc Đạo vừa đấu kiếm chống 3 kẻ địch, vừa phóng chỉ vào cây đàn để dưới đất, đàn cho Quách Tương nghe một cầm tấu khúc mới nhất. Quách Tương nghe tiếng đàn và đỏ mặt lên, biết Hà Túc Đạo viết khúc cầm phổ này để tặng cho mình. Họ chỉ gặp nhau một lần ngắn ngủi trong rừng chùa Thiếu Lâm và xa nhau một đời. Làm sao mà cuộc đấu kiếm hung hiểm lại có thể cùng diển ra một lúc với cung đàn thanh thoát, trữ tình? Mặc kệ, Kim Dung cứ viết. Ông đúng là nhà văn lãng mạn, lãng mạn ngay trong đường đao mũi kiếm. Và vì vậy trong tác phẩm võ hiệp của ông, ngay những loại kiếm pháp, kiếm trận hung hãn nhất vẫn luôn luôn lấp lánh những khúc tình ca.

Hansy
12-04-2013, 11:15 AM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

32.
ĐAO LUẬN

Cũng như kiếm, đao là vũ khí chiến tranh cổ điển. Tuy nhiên, đao đứng đầu trong 4 thứ vũ khí: đao, thương, kiếm, kích.

Có trường hợp, đao hình thành nên tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung. Trong ký ức của tôi, vẫn còn in đậm nét người thiếu niên tiểu anh hùng Hồ Phỉ, cưỡi con ngựa trắng, cầm cây đơn đao với sở học bài Hồ gia đao pháp từ đất Sơn Đông đi về Trung Nguyên tìm cho ra kẻ thù đã giết cha mình. Đó là nội dung bộ Lãnh nguyệt bảo đao, còn gọi là Thần đao Hồ đại đởm. Câu truyện về Hồ Phỉ như một huyền thoại thật đẹp: tìm thấy kẻ thù rồi, Hồ Phỉ vẫn giơ cao lưỡi bảo đao lóng lánh dưới bóng trăng lạnh, không nỡ chém xuống. Bởi anh nhận ra kẻ thù của mình là một người chính nhân quân tử - Đả biến thiên hạ vô địch thủ kim diện Phật Miêu Nhân Phượng. Bởi anh nhận ra kẻ thù của mình không cố tình giết cha mình ngày trước. Lãnh nguyệt bảo đao kết thúc một cách đột ngột, lơ lửng; mênh mang tình nhân ái, đức bao dung; trở thành bài ca thật đẹp của chủ nghĩa nhân đạo phương Đông.

Trong bộ Ỷ thiên Đồ long ký, hai chữ Đồ long là tên gọi của lưỡi bảo đao mà mọi bang hội, võ phái giang hồ đời Nguyên thèm khát. Tại sao thế? Ngoài khả năng chém sắt như chém bùn, bảo đao Đồ long còn mang trong thân nó một pho binh thư tương truyền là của Nhạc Phi - danh tướng chống quân Kim đời Tống - để lại. Đó là bộ Vũ Mục di thư. Chính quần hùng Minh giáo đã tìm thấy pho di thư này, và với những bài bản chiến tranh của Nhạc Vũ Mục, họ đã tìm được lối thoát khi quần hùng Trung Nguyên bị quân Mông Cổ vây hãm, tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc Trung Hoa thoát khỏi ách thống trị tàn bạo của nhà Nguyên. Đồ long (giết rồng) thực sự không nói về tính năng của lưỡi đao. Rồng đây chính là Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt. Người làm ra cây đao Đồ long có khát vọng cao xa: mong người yêu nước đời sau lấy được binh thư, đẩy được quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi, giết được vua nhà Nguyên để trả hờn cho trăm họ Hán tộc. lưỡi đao Đồ long chính là biểu tượng của bài ca yêu nước mà mọi dân tộc bị áp bức, bóc lột đều mong có được.

Lưỡi đao còn khá phổ biến trong 9 bộ tiểu thuyết võ hiệp khác của Kim Dung. Có 3 cách đánh đao: đơn đao, song đao và phi đao. Đơn đao là phép đánh đao của một người. Song đao hay song đao hợp bích là phép đánh đao của hai người cùng học một thầy, một sách liên kết để chống địch thủ. Phi đao là loại đao cực ngắn, không dùng để đánh mà để phóng vào địch thủ. Để phóng được phi đao, khách giang hồ phải đeo bao tay bằng sắt, gọi là thiết sam hay thiết bố sam. Những nhân vật sử đao trong tác phẩm Kim Dung thường là nhân vật tay chân linh hoạt, cơ trí hơn người. Tiếu ngạo giang hồ xây dựng nhân vật Điền Bá Quang, tay cầm ngọn đơn đao, ngày chân đi ngàn dặm, nổi danh vạn lý độc hành với 13 đường khoái đao linh hoạt như gió táp, mưa sa. Chính Lệnh Hồ Xung đã có dịp đánh và nhớ lại phương pháp khoái đao của Điền Bá Quang. Chỉ trong một hơi thở, hắn đã đánh ra 13 thế khoái đao gồm đông, tây, nam, bắc, tiền, hậu, tung, hoành rồi đà đao dừng lại, vững như núi Thái Sơn. Hắn đánh nhanh đến nỗi Lệnh Hồ Xung nín thở và khi sư nương của Lệnh Hồ Xung là Ninh Trung Tắc cố gắng biểu hiện lại đường khoái đao đó, Lệnh Hồ Xung chỉ lắc đầu. Bà dùng kiếm, kiếm nhẹ hơn đao, đáng lẽ là đánh nhanh hơn đao. Nhưng đường kiếm mô phỏng phép khoái đao của bà còn chậm nhiều so với đao pháp của Điền Bá Quang.

Về sau này, Lệnh Hồ Xung luyện được phép Độc Cô cửu kiếm do Phong Thanh Dương truyền cho. Anh đem kiếm pháp này dùng vào phép đánh đao; cây đao của anh là vũ khí đoạt được từ tay cẩu quan Ngô Thiên Đức. Anh đã cứu phái Hằng Sơn bằng cây đao đánh theo kiếm pháp, nội công mạnh đến nỗi chưa kịp rút vỏ đao ra khỏi lưỡi, phóng đao tới, đao khí đủ giết chết kẻ thù. Cây đao của Ngô Thiên Đức là một cây đao cán dài (vì tướng quân thì phải đi ngựa). Lệnh Hồ Xung kẹp đao trong nách, chìa cán ra phía sau, lấy cán đao làm vũ khí điểm huyệt. Trận chiến cứu phái Hằng Sơn trong hang Long Tuyền chú kiếm cốc là trận chiến mà thắng lợi thuộc về lưỡi đao rỉ sét của tham tướng Ngô Thiên Đức.

Cũng trong Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung giới thiệu cho độc giả một lưỡi đao rởm đời. Đó là Kim đao Vương Nguyên Bá, ông ngoại của Lâm Bình Chi, một nhà giàu bậc nhất thành Lạc Dương, lấy biểu trưng là lưỡi đao bằng vàng. Lệnh Hồ Xung mất hết công lực, theo chân phái Hoa Sơn đến nhà này ăn báo cô mấy bữa. Các con của Vương Nguyên Bá vu cáo Lệnh Hồ Xung ăn cắp Tịch tà kiếm phổ của dòng họ Lâm, dùng cầm nã thủ bẻ trật hai khớp tay của Lệnh Hồ Xung, lục trong người anh lấy ra bản cầm phổ Tiếu ngạo giang hồ mà chúng cho là kiếm pháp. Trước nỗi oan của học trò, bà Ninh Trung Tắc đã đề nghị nhà họ Vương cùng đi đến ngõ Lục Trúc, thành Lạc Dương nhờ Lục Trúc Ông xem thử đây là cầm phổ hay kiếm phổ. Và cơ duyên này đã run rủi Lệnh Hồ Xung gặp được Thánh cô Nhậm Doanh Doanh. Chính hôm tiễn Lệnh Hồ Xung ra đi, Lục Trúc Ông cũng ra một chiêu cầm nã thủ bẻ trật 4 khớp xương tay của hai người con Kim đao Vương Nguyên bá, trừng trị tội hỗn láo với Lệnh Hồ Xung ngày trước.

Trong Hiệp khách hành, lưỡi đao lại nhuốm một màu hài hước thú vị và màu hài hước đó được Kim Dung diễn đạt một cách điềm tĩnh lạ lùng. Đó là lưỡi đao của Thạch Phá Thiên. Sử bà bà giận chồng là Bạch Tự Tại, chưởng môn phái Tuyết Sơn, và cậu con trai Bạch Vạn Kiếm. Bà bỏ nhà ra đi, dẫn theo cô cháu nội A Tú mới 14 tuổi. A Tú gặp Thạch Phá Thiên, cả hai kết làm đôi bạn nhỏ. Để trừng trị chồng, Sử bà bà lập ra một phái - phái Kim Ô; sáng tạo ra đường đao pháp mới: Kim Ô đao pháp. Thử hỏi, phái Tuyết Sơn (núi tuyết) mà gặp phải Kim Ô (mặt trời) thì số phận Tuyết Sơn sẽ ra sao? Trong khi con ruột của bà tên là Bạch Vạn Kiếm (đánh ra 10.000 thế kiếm) thì bà nhận Thạch Phá Thiên làm đệ tử truyền nhân, đặt tên là Sử Ức Đao (đánh ra 100.000 thế đao) và dạy cho Thạch Phá Thiên những chiêu thức đao pháp hoàn toàn là khắc tinh của Tuyết Sơn kiếm pháp. Chàng thiếu niên 15 tuổi chăm chỉ học hành, càng học càng giỏi nhưng chẳng hề hiểu rõ ý đồ của sư phụ. Riêng Bạch A Tú thì hiểu tất cả. Cô biết bà nội mình đang muốn triệt hạ ông nội và cha của mình. Thử hỏi, 10.000 thế kiếm mà phải chống đỡ với 100.000 thế đao thì số phận Bạch Vạn Kiếm sẽ ra sao? Cho nên, A Tú đã quỳ xuống trước mặt Thạch Phá Thiên, xin chàng thiếu niên ngày sau nhiêu dung cho ông nội và cha. Giữa cô bé và Thạch Phá Thiên đã có một chút tình cảm nhẹ nhàng vượt qua tình bạn đơn thuần. Thạch Phá Thiên quí người bạn nhỏ, hứa với cô sẽ không bao giờ sử ức đao của Kim Ô đao pháp để phá bạch vạn kiếm của Tuyết Sơn kiếm pháp; rằng anh sẽ không bao giờ làm hại ông nội và ba cô. Và về sau, anh đã nối kết được những tâm hồn lạc lõng của phái Tuyết Sơn, đem hạnh phúc đoàn tụ về cho họ. Lưỡi đao của anh chẳng giết ai cả, chỉ nhằm cứu người, giúp đời.

Đao gắn liền với triết lý phương Đông. Trong võ hiệp Kim Dung, có Lưỡng nghi đao pháp, Lục hợp đao pháp, Ngũ hổ đoạn môn đao, Ngũ hành bát quái đao, Âm dương đao... những khái niệm triết học gắn liền với đường đao cụ thể, buộc con người sử đao ít nhất cũng phải có một vũ trụ quan, một nhân sinh quan để hiểu mình đang làm gì, phục vụ lợi ích nào.

Đao gắn liền với tình yêu đôi lứa. Hồ Phỉ cầm đơn đao đi từ đất Sơn Đông sang Trung Nguyên, gặp gỡ Viên Tử Y. Cả hai đang tuổi vào đời, tình bạn cực kỳ thắm thiết, tình yêu chỉ mới chớm nụ. Họ cùng đi, cùng ăn, cùng ở gần nhau trong ngôi cổ miếu, trong quán lương đình nhưng vẫn giữ lòng trong sạch, không gợn chút bùn nhơ. Trong Lộc Đỉnh ký, Mỹ đao vương Hồ Dật Chi là một nhân vật nức tiếng giang hồ, đao pháp tinh kỳ, khuôn mặt đàn ông đẹp như ngọc. Hồ Dật Chi say mê một người phụ nữ: Trần Viên Viên. Trần Viên Viên là hoa hậu trong làng kỹ nữ, từng là thứ thiếp của vua Sùng Trinh cuối đời Minh mạt. Lý Sấm nổi loạn đánh Sùng Trinh, cướp được Trần Viên Viên. Ngô Tam Quế phản Sùng Trinh, ép Sùng Trinh tự tử, đánh đuổi được Lý Sấm, Trần Viên Viên thành vợ hờ của Ngô Tam Quế. Khi sang Vân Nam nhậm chức Bình Tây vương của Khang Hy ban tặng, Ngô Tam Quế đã đưa Trần Viên Viên đi theo, cho Viên Viên ở và tu hành trong một ngôi chùa nhỏ ngoại ô thành Côn Minh. Viên Viên dốc hết cả lòng, hát Viên Viên khúc giãi bày tâm trạng hồng nhan trôi nổi của mình. Mỹ đao vương Hồ Dật Chi say mê nhan sắc đó, tình nguyện bỏ lưỡi đao giang hồ, trở về nơi Trần Viên Viên tu hành, làm một người quét rác trồng hoa để được nghe Viên Viên hát. Trọn cuộc đời phục thị cho người đẹp, Mỹ đao vương nghe được chừng ba bốn chục câu. Lòng say đắm nhan sắc cỡ Hồ Dật Chi đã mấy ai trên đời có được.

Lưỡi đao gắn liền với tấm lòng nhân ái, tha thứ cho con người. Thiên Long bát bộ thuật chuyện bang chúng Cái bang tụ tập chống lại bang chúa Kiều Phong, phạm tội khi sư diệt tổ, phải lấy pháp đao ra hành hình. Nhưng bang qui của Cái bang cũng có điều luật quy định bang chúa có quyền tự đổ máu mình để chuộc tội cho thuộc hạ. Kiều Phong đã làm việc đó vì ông vốn thương yêu thuộc hạ. Ông tự lấy dao đâm vào da thịt mình, xoá hết tội lỗi cho những kẻ đã mưu phản ông. Câu chuyện làm ta nhớ đến tích Phật tổ tự cắt thịt mình cho chim ó ăn để cứu lấy con thỏ vô tội.

Đao gắn liền với những cuộc chiến tranh giữ nước. Lộc Đỉnh ký thuật lại chuyện quân dân đảo Đài Loan tiến hành cuộc chiến tranh chống sự xâm lược của liên quân Hà Lan và Bồ Đào Nha - tiếng Trung Quốc gọi chung là Hồng mao quỷ. Trước hoả khí cực kỳ lợi hại của người Tây dương, người Trung Quốc đã tổ chức những đội Đằng bài quân: toán trước dùng ván gỗ dầu quấn rơm che khít để chắn súng đạn, toán sau chuyên sử đoản đao và đánh theo Địa đường đao pháp, chém vào hạ bàn (chân cẳng) của địch. Kết quả là người Đài Loan đã đẩy lui được những đợt tấn công của liên quân Tây dương. Học được kinh nghiệm đó, khi sang biên giới Trung - Nga đánh nhau với quân Nga - mà người Trung Quốc gọi là quân La Sát - tư lệnh Vi Tiểu Bảo đã tổ chức những toán Thanh binh chuyên đánh Địa đường đao, tấn công chém chân ngựa của kỵ binh Kha Tát Khắc (Cosaque). Vi Tiểu Bảo báo cáo:"chém được mấy ngàn cặp chân lông lá" để ai hiểu sao thì hiểu vì chân ngựa có lông mà chân của chiến sĩ kỵ binh Cosaque cũng có lông!

Đao là vũ khí để đấu tranh, để giết người. Nhưng trong truyện võ hiệp Kim Dung, ít có ai bị giết, bị thương bằng đao. Kim Dung nhiều lần nhắc lại câu trong kinh Phật: "Buông lưỡi đao đồ tể xuống sẽ thành Phật". Nhiều nhân vật đã ngộ ra câu nói ấy, trong đó có cả Kim mao sư vương Tạ Tốn, một nhân vật tàn độc trong bộ Ỷ thiên Đồ long ký.

Trong tâm hồn tôi vẫn lấp lánh lưỡi đao nhân ái của tiểu anh hùng Hồ Phỉ. Anh không nỡ chém lưỡi đao của mình xuống thân thể kẻ thù Miêu Nhân Phượng. Dưới bóng trăng lạnh, lưỡi đao lấp lánh và dừng lại ở khoảng không. Người đọc thở phào nhẹ nhõm, nhận ra được sự thắng lợi của lòng nhân ái, của đức bao dung. Lãnh nguyệt bảo đao đúng là một tác phẩm tiểu thuyết lạ lùng, khắc hoạ hình tượng lưỡi đao vừa đẹp, vừa thơ mộng. Hồ Phỉ - con trai của Hồ Nhất Đao - đã làm một việc mà cha mình chưa làm được: tha thứ cho kẻ thù và biểu dương chính nghĩa của đường đao hành hiệp, cứu người

Hansy
14-04-2013, 09:07 AM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

33.
CÀNH MAI TRÊN THIÊN SƠN

Thiên Sơn là tên một rặng núi hiểm trở thuộc khu vực ngoại Tân Cương, phía Tây – Tây Bắc Trung Hoa, là biên giới thiên nhiên giữa Trung Hoa và Kirghizitan. Không hiểu từ giấc mơ lãng mạn nào, nhà văn Kim Dung đã để cho chàng thiếu niên Trương Vô Kỵ mới 15 tuổi dắt tay cô bé gái Dương Bất Hối 11 tuổi đi từ An Huy, vượt qua khoảng 18.000 dặm lên tới đỉnh Côn Lôn trong rặng Thiên Sơn, giúp Bất Hối tìm được người cha Dương Tiêu. Cơ duyên đã đưa đẩy cậu bé gày gò Trương Vô Kỵ bò lọt qua một hang đá nhỏ, tìm ra một thung lũng đẹp, học được thần công trong Cửu Dương kinh. Cơ duyên đã khiến cậu bé ở đó năm làm bạn với cỏ cây, với khỉ vượn, rồi lên tới Quang Minh đỉnh (đỉnh Pobedy cao nhất của Thiên Sơn – 7439 mét) nơi đặt tổng đàn của Bái hỏa giáo (Minh Giáo) Trung Hoa, học được thần công Càn khôn đại nã di của Bái hỏa giáo. Lại cũng chính cơ duyên đã đưa Trương Vô Kỵ – bấy giờ đã là chàng thanh niên 20 tuổi – phải đối đầu với sáu đại môn phái Trung Hoa khi họ muốn tuyệt diệt Bái hỏa giáo. Kinh qua những đoạn đời đau khổ, chàng thanh niên đôi mươi đó đã đủ chín chắn để biết tự dặn mình không được giết người, không được gây thù nhưng phải bảo vệ được những tinh hoa của Bái hoả giáo bởi vì họ là những người yêu nước, kháng Nguyên.

Mùa xuân là mùa hoa mai nở. Hoa mai trên Thiên Sơn thích nghi với khí hậu giá lạnh quanh năm, đến tháng 3, tháng 4 Dương lịch vẫn còn mãn khai. Trong tư duy lãng mạn đậm màu sắc phương đông, tác giả Kim Dung đã để cho nhân vật của mình bẻ một cành mai trên núi Thiên Sơn làm vũ khí chống lại song đao, song kiếm. Vợ chồng Hà Thái Xung – Ban Thục Nhàn của phái Côn Lôn sử Chính Lưỡng nghi kiếm pháp. Hai trưởng lão của phái Hoa Sơn sử Phản Lưỡng nghi đao pháp. Chính và phản là hai mặt đối lập triệt để nhưng khi đã hợp bích thì oai lực mạnh vô song, bởi nguyên tắc âm Dương tương điều, thủy hoả tương chế. Chính biến của kiếm pháp có 64 thế, kỳ biến của đao pháp có 64 thế; 64 nhân cho 64 thành ra 4096 thế liên miên bất tuyệt. Bốn địch thủ của Trương Vô Kỵ cụ thể hoá triết học phương Đông thành bài bản chiến đấu: phía Nam quẻ Càn, phía Bắc quẻ Khôn, phía Đông quẻ Ly, phía Tây quẻ Khảm. Ngoài bốn chính phương còn bốn bàng phương: Đông Bắc quẻ Chấn, Đông Nam quẻ Đoài, Tây Nam quẻ Tốn, Tây Bắc quẻ Cấn. Chính lưỡng nghi kiếm pháp của phái Côn Lôn đi từ Chấn vị tới Càn vị; phản Lưỡng nghi đao pháp của phái Hoa Sơn đi từ Tốn vị tới Khôn vị. Chính đi thuận, phản đi nghịch; ai rơi vào thế liên thủ giáp công của họ thì khó tránh được cái vòng biến ảo huyền diệu của nguyên lý Âm Dương.

Vô Kỵ biết rằng mình không đơn giản chỉ đấu với chính – phản Lưỡng nghi mà đang đấu với một triết lý thực chứng của Đông phương. Anh đã nhớ lại những lời đã học trong Cửu dương kinh: “Gió thổi qua mỏn núi mặc cho nó ngang tàng, ánh trăng vẫn chiếu trên sông lớn” và “Quý hồ ta vẫn giữ được một hơi chân khí sung mãn”. Đó chính là nguyên lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến” trong tư duy Đông phương. Anh cũng nhận ra rằng chính – phản Lưỡng nghi thể hiện được là do gốc ở bộ pháp. Bước chân của bốn đại cao thủ sẽ đi từ Qui Muội qua Vô Vọng, Vô Vọng qua Đồng Nhân, Đồng Nhân qua Đại Hữu… Anh khéo léo sử phương pháp bốn lạng chống ngàn cân, lấy cái nhẹ nhàng bay bướm để hoá giải cái cường mạnh, lấy chậm để chế nhanh, lấy cái vụng về chế cái tinh xảo, lấy chiêu thức của người đẩy về phá người. Trương Vô Kỵ sử dụng một cành mai tươi đẹp dịu dàng bay nhảy trong rừng đao kiếm. Ấy thế mà cành mai không rụng lấy một bông!

Vận dụng tư duy Đông phương và tiểu thuyết một cách lãng mạn đến thế là cùng. Trong văn chương và triết học Trung Hoa, mai được nâng lên bạn hữu của con người, đứng đầu mai, lan, cúc, trúc. Chưa thấy tác phẩm nào nói chuyện con người sử cành mai làm vũ khí để chiến đấu và chiến thắng, trừ bộ Ỷ thiên Đồ long ký của Kim Dung. Tôi nghĩ tới một ý đồ khác của nhà văn. Ông cho cái đẹp chiến thắng cái thô bạo; cái nhân tính tiềm ẩn trong cành mai chiến thắng cái tàn bạo tiềm ẩn trong đao, kiếm; cái hồn hậu của tự nhiên chiến thắng cái cơ tâm của con người!

Quả thật lãng mạn khi nhà văn cho phép cành mai đấu với đao kiếm. Tôi cho rằng tư duy lãng mạn đó chỉ có thể có trong tiểu thuyết phương Đông, trong triết học phương Đông. Cả ba thứ cành mai, chính Lưỡng nghi kiếm pháp, phản Lưỡng nghi đao pháp là những hình tượng mang nặng tính ẩn dụ. Văn chương cho phép người ta bay bổng tuyệt vời mặc dù cả tác giả và độc giả đều sống trên mặt đất. Tôi đọc hai thiên Tiêu dao du và Tề vật luận trong Nam hoa kinh của Trang Tử rồi so sánh với cành mai dịu dàng thanh thoát trong Ỷ thiên Đồ long ký và cảm thấy hạnh phúc vì cái đẹp còn tồn tại mãi bên đời chúng ta.

Hansy
14-04-2013, 12:09 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

34.
THƯ PHÁP VÀ VÕ CÔNG

Hiểu một cách đơn giản, thư pháp là cách viết chữ của người Trung Quốc. Hiểu một cách sâu hơn, thư pháp là những phép viết chữ để đạt đến 1 trình độ mỹ thuật riêng của người Trung Quốc. Không sử dụng tự dạng Latin, Hán tự của người TrungQuốc có một lối cấu tạo chữ viết đặc thù mà bản thân mỗi chữ có thể xem là một bức đồ họa riêng biệt bởi các đường nét, độ đậm nhạt và phương pháp phóng bút của nó. Chính vì thế về tự dạng đã là động lực cơ bản đưa những danh gia đến tham vọng hình thành một thư pháp cho mình.

Theo sự phát triển của chữ viết Trung Quốc, thư pháp có 5 loại: Triện thư, Lệ thư, Khải thư, Hành thư và Thảo thư. Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung thường nhắc đến thư pháp của bốn nhà Tô, Huỳnh, Mễ, Xái. Nhưng điểm đặc biệt trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung là tác giả luôn luôn kết hợp với thư pháp với võ công và chính sự kết hợp đó đã tạo ra một chiều sâu trí tuệ cho những tác phẩm, đem lại sự thích thú cho người đọc. Một trong những vũ khí chuyên sử dụng để điểm huyệt được nhắc đến thường xuyên trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung là cây Phán quan bút (cây bút của viên quan chấp pháp, xử kiện). Phán quan bút cũng có hình dạng như cây bút lông nhưng đầu của nó bắng kim loại, nhọn, nhắm đánh vào các huyệt đạo trên người địch thủ. Lãng mạn hơn, Kim Dung cho những nhân vật của mìnhsử dụng phán quang bút đánh theo từng nét trong từng chữ của những bài thơ, bài từ trong khi lâm địch như một đường kiếm pháp hay đao pháp. Thư pháp gắn liền với võ côngđến ỗi chúng tạo cho ta cái cảm giác không thể phân biệt đâu là thư pháp, đâu là võ công.

Trong Ỷ thiên Đồ long ký, chưởng môn phái Võ Đang Trương Tam Phong có kỹ thuật sử dụng ngón tay (chỉ) viết chữ vào khoảng không. Trương Tam Phong mô phỏng thư pháp của Vương Hy Chi đời Đông Tấn để viết Tán Loạn thiếp để giải toả toàn bộ mối lo lắng của mình khi một người học trò cưng bị kẻ địch đánh gãy hết các khớp xương. Trương Tam Phong viết vào khoảng không 24 chữ của bài ca Ỷ Thiên Đồ Long:

Võ lâm chí tôn
Bảo Đao Đồ Long
Hiệu lệnh thiên hạ
Mạc cảm bất tòng
Ỷ thiên bất xuất
Thuỳ dữ tranh phong

Người đệ tử thứ năm là Trương Thuý Sơn cố gắng học và ghi nhớ thư pháp Tán loạn của thầy. Anh biết trong ngón tay biến hoá kỳ ảo đó ẩn tàng một môn võ công vi diệu. Và anh gọi tên nó là Đồ Long công. Về sau khi xuống núi Trương Thuý Sơn sử dụng Đồ Long công chuyển thành quyền pháp đánh nhau với các vị sư chùa Thiếu Lâm tại phủ Lâm An, Giang Nam và đã chiến thắng.

Trương Thuý Sơn là một hào kiệt nho nhã, say mê thư pháp. Bên sông trong cơn mưa, Trương Thuý Sơn đã gặp được Hân Tố Tố, con gái của giáo chủ Bạch Mi giáo, được Tố Tố cho mượn chiếc dù che mưa. Trên chiếc dù ấy, Tố Tố đã viết 7 chữ “Tà phong tế vũ bất tu quy” (gió nghiêng mưa nhẹ chẳng nên về) và Tố Tố đề nghị Thuý Sơn nhận xét cho chữ “bất” vì theo cô chỉ có chữ này là cô viết tệ nhất. Thuý Sơn khen chữ “Bất” ấy là dư vận bất tận, càng xem càng quên cả mỏi mệt. Chính nhận xét ấy lại rất hợp ý Hân Tố Tố. Và họ thương yêu nhau, đơn giản qua nét bút của thư pháp viết trên chiếc dù.

Trên Vương Bàn Sơn sông Tiền Đường. Trương Thuý Sơn phải đối đầu với một địch thủ hùng mạnh là Tạ Tốn. Để tự cứu mình, Trương Thuý Sơn đề nghị Tạ Tốn thi... viết chữ. Dùng phán quan bút, Thúy Sơn đã viết lên đá 24 chữ của Đồ Long công theo bút pháp Tán loạn đã học được của thầy. Hai mươi bốn chữ ấy là một môn võ công bao gồm âm dương, cương nhu, tinh thần, khí thế; hùng biện, sắc bén như dao như kiếm. Thấy chàng thư sinh biểu diễn thư pháp Tán loạn, Tạ Tốn phải gật đầu công nhận mình thua.

Tiếu ngạo giang hồ ký thuật lại câu chuyện thú vị của Hướng Vân Thiên, Quang Minh tả sứ của Triêu Dương thần giáo, dẫn Lệnh Hồ Xung đến Cô Mai sơn trang khiêu khích bọn Giang Nam tứ hữu. Hướng Vân Thiên đã khoe bức tranh “Bắc Tống Phạm Trung Lập khê sơn hành lữ đồ" trong đó vẽ toà núi cao ngất trời, thanh thế mười phần hiểm tuân; một bức thảo thư mà mỗi chữ nột nét như rồng bay phượng múa. Ở đây Phạm Trung Lập đã mô phỏngbút pháp của Trương Húc đời Đường. Bức thảo thư có khí tượng của một môn khinh công của một võ lâm cao thủ.

Trong Giang Nam tứ hữu có nhân vật Ngốc Bút Ông là một danh gia sử phán quan bút. Khác với những người sử phán quan bút bình thường, Ngốc Bút Ông dùng đầu bút là loại lông dê mềm, tự hoà một loại mực rất lạ, hễ thấm vào da thịt ai là ăn luôn, không tẩy rửa được. Công lực của lão thượng thừa nên khi lão phóng bút viết vào khoảng không, kình lực tuôn ra đầu ngòi bút veo véo. Đấu với Độc cô cửu kiếm của Lệnh Hồ Xung, Ngốc Bút Ông viết bài " Bùi tướng quân thi " theo thư pháp Nhan Châu Khanh:

Đại quân chế lực hợp
Mãnh tướng thanh cửu cai
Chiến mã như long hổ
Đằng lăng hà tráng tai

Lệnh Hồ Xung sử Độc Cô cửu kiếm, kiếm ý đi trước bút pháp của Ngốc Bút Ông, phong toả toàn bộ bút pháp đắc ý của lão khiến lão đâm ra bực bội. Mà đại phàm, khi cầm bút viết chữ mà lòng bực bội thì chữ nghĩa chẳng ra làm sao cả. Ngốc Bút Ông chuyển sang thư pháp Đại Thảo, một dạng thư pháp đặc biệt của Trương Phi (Trương Dực Đức) đại tướng của Tây Thục. Lão viết liền 4 chữ Bát mông sơn minh, khí thế Đại thảo liên hoàn như tuốt kiếm giương cung. Rồi lão lại chuyển sang Đại thảo theo phong cách của Hoài Tố viết tự sự thiếp, bút pháp cực kỳ phức tạp. Mặc cho lão biến đổi bút pháp, Lệnh Hồ Xung cứ lựa chỗ sơ hở của lão mà phát chiêu, kiếm thế nhẹ nhàng nhưng cực kỳ thần tốc. Ngốc Bút Ông bị phá sản bút pháp, sinh ra uất hận. Lão đổ 1 hũ rượu Bồ đào xuống đất, chấm rượu viết lên tấm vách 23 chữ của bài Bùi Tướng Quân thi (trong đó có 3 chữ tên tác giả). Kim Dung mô tả 23 chữ ấy đẹpvà dũng mãnh như muốn xé tấm vách mà bay đi.

Nét chữ thể hiện tính cách riêng của từng con người, trở thành vốn liếng riêng, đặc điểm riêng giúp ta xác định được chính người này chứ không phải người kia viết. Từ sự xác định ấy, người ta khám phá ra những bí mật đằng sau cuộc sống, đặc biệt là cuộc sống tâm linh. Đã có 2 trường hợp như vậyđược Kim Dung xây dựng trong tác phẩm của mình.
Trong Tiếu ngạo giang hồ ký, khi Nhạc Linh San đã chết, Lệnh Hồ Xung trở lại Hoa Sơn, tìm vào thăm căn phòng xưa của Nhạc Linh San. Anh chợt nhìn bức thiếp thư do chính Nhạc Linh San viết, nội dung là bài thơ của Lý Thương Ẩn:

...Nhớ xưa luyến ái Hàn công tử
Xương trắng thành tro hận chửa tan

Và Lệnh Hồ Xung chợt hiểu ra rằng sau đám cưới với Lâm Bình Chi, Nhạc Linh San vẫn yêu mình. “Hàn công tử” đây chính là Lệnh Hồ Xung! Và từ đó, Lệnh Hồ Xung càng cảm thấy thương yêu người sư muội bạc phận hơn. Thư pháp đã thể hiện tâm tình, trở thành một thứ giác thư của tình yêu đôi lứa mà người nào không có tâm tình thì vĩnh viễn không nhận ra được.

Trường hợp thứ 2 được thuật lại trong Thiên Long bát bộ, khi Tiêu Phong về ngồi trong căn phòng riêng của Nguyễn Tinh Trúc (mẹ của người tình A Châu) ở Tiểu Kính hồ, Giang Nam. Ông đọc bức thiếp thư trên vách và khám phá ra thủ bút mềm mại, uyển chuyển của Đoàn Chính Thuần, khác hẳn nét chữ của “thủ lĩnh đại ca" viết thư gửi cho Uông Kiếm Thông bàn chuyện về cái chết của cha mẹ Tiêu Phong và số phận Tiêu Phong. Lập tức Tiêu Phong hiểu ra mình bị Ôn Khang lừa, Đoàn Chính Thuần không phải là “thủ lĩnh đại ca”; Tiêu Phong đã giết oan người tình Đoàn A Châu rồi. Chính từ sự tỉnh ngộ này mà Tiêu Phong bỏ ý định tự vẫn, quyết sống để tìm ra gã “thủ lĩnh đại ca” giấu mặt ấy, trả hờn cho cha mẹ và cho cả A Châu. Bức thiếp thư trở thành một bằng chứng giúp Tiêu Phong phá án. Và ông đã tìm ra kẻ đại cừu của mình

Cũng trên cơ sở thư pháp, Kim Dung đã xây dựng 2 nhân vật dốt nát chơi thư pháp. Vi Tiểu Bảo trong Lộc Đỉnh ký đã đọc văn bia viết bằng Giáp cốt văn, thứ văn tự tối cổ của Trung Quốc để đánh lừa Lục Cao Hiên và Ủy tôn giả, và qua 2 nhân vật này lừa luôn giáo chủ Thần long giáo Hồng An Thông. Thật ra đến Khải thư, tức chữ chân phương, Vi Tiểu Bảo còn đọc không ra, huống chi nói đến Giáp cốt văn, Khoa đẩu văn tối cổ. Chẳng qua là khi bị bắt, Vi Tiểu Bảo phải dùng đến thói lưu manh để đánh lừa Thần long giáo và những trò bịp bợm đó đã được những kẻ nịnh bợ giáo chủ biết nhưng lỡ nịnh bợ rồi cứ phải gọi đó là chuyện có thật. Đó là một thứ “thắng lợi tinh thần” hiện đại; phải lừa nhau như thế mới giữ được ngôi vị, giữ được cái đầu trên cổ. Thạch Phá Thiên trong Hiệp khách hành là 1 chàng trai thất học, không biết 1 chữ nào. Ấy thế mà trên đảo Long Mộc, chàng trai phải đối diện với Khoa đẩu văn. Không cần biết hàng chữ Khoa đẩu văn ấy viết nội dung gì, chàng trai chỉ quan tâm đến tự dạng. Khoa đẩu văn tức chữ con nòng nọc, rất gần gũi với tuổi thơ của Thạch Phá Thiên ở vùng hoang sơn dã lĩnh. Cứ xem tới nét nào thì huyệt đạo của Thạch Phá Thiên tự vận động tới đó và chỉ cần làm như thế, chàng trai dốt nát đã khám phá ra được toàn bộ bí quyết của võ công Hiệp khách hành. Nếu Lý Bạch sống lại được, chắc hẳn ông phải khen hậu bối Kim Dung lỗi lạc hơn ông rất nhiều: chẳng cần biết Hiệp khách hành viết cái gì, chỉ cần biết Hiệp khách hành viết như thế nào, nghĩa là chỉ dừng lại ở ngoại quan thư pháp mà không cần đi vào nội hàm tư tưởng, là đủ.

Nhân loại đã khổ quá nhiều vì những cái lưỡi dối trá, những suy diễn dài dòng văn tự. Thế mạnh của văn tự Trung Quốc là đã hình thànhđược những trường phái thư pháp đặc dị, mở ra 1 khuynh hướng mỹ thuật lạ lùng. Kim Dung đã lợi dụng thế mạnh ấy và lãng mạn hơn, đem thế mạnh ấy kết hợp với võ công. Hai phạm trù, một võ, một văn, tưởng như mâu thuẩn nhau tột cùng, lại được kết hợp một cách hài hoà, tài hoa. Văn chương của các bậc tiền bối Trung Quốc chưa làm được điều ấy; chỉ đến Kim Dung mới có thể làm được. Đó chính là sự sáng tạo độc đáo trong văn chương tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung.

Hansy
16-04-2013, 11:51 AM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

35.
SUY NIỆM KÝ TIẾU HỮU

Tôi đang ngồi trên bãi biển Nha Trang. Mùa xuân, trời thật đẹp nhưng biển chiều vẫn mang theo cái vẻ u uất, trầm tư ngàn đời của nó. Bỗng dưng, tôi chợt nhớ đến đoạn Tiểu Siêu chia tay Trương Vô Kỵ trên biển, đoạn văn mà tôi cho là đẹp nhất, xúc động nhất trong Ỷ thiên Đồ long ký. Mối tình thơ ngây ấy của Tiểu Siêu đã bị ngăn trở bởi hàng rào tôn giáo, cô phải hy sinh để cứu mạng sống và chuộc lại lỗi lầm cho mẹ mình. Ngôi vị dành cho cô tạ Ba Tư là giáo chủ Bái hỏa giáo, biểu tượng của một thứ quyền lực và vinh quang tột đỉnh mà mọi cô gái đồng trinh đều mơ ước. Nhưng thực chất, làm giáo chủ Bái hỏa giáo Ba Tư hạnh phúc hơn hay làm người tình nhỏ của Trương Vô Kỵ ở Trung Hoa để suốt đời được cùng nhau phiêu bạt giang hồ là hạnh phúc hơn? Tiểu Siệu thích cái thứ hai nhưng bắt buộc phải chọn cái thứ nhất. Sự mâu thuẫn giữa tình yêu và tôn giáo, giữa tình yêu và bổn phận làm con đã được đẩy lên đến đỉnh điểm. Điều đau sót nhất trong mối tình đầu đã có thể làm Tiểu Siêu nổ tung ra được, chết đi tức khắc được. Có hiểu được cái uyên nguyên sâu xa ấy chăng, hỡi biển của đời tôi?

Có một lần, tôi lên Gia Lai, dừng chân lại trên đỉnh đèo Krong Buk giữa biển sương khói mênh mông, lạnh buốt của một sáng cuối đông. Tôi đứng dưới những cụm sơn tùng và chợt nhớ đến nỗi cô đơn của Hà Túc Đạo, được Kim Dung viết trong đoạn lung của Ỷ thiên Đồ long ký. Từ đỉnh Kinh Thần Phong trên Thiên Sơn, Hà Túc Đạo với một cây đàn, một thanh kiếm lãng du về Trung Nguyên. Dừng chân giữa rừng bách ở ngoại vi chùa Thiếu Lâm, tỉnh Hồ Nam, Hà đánh đàn một mình cho chim nghe, chống kiếm than thở một mình về tình yêu, về cuộc sống. “Hỡi ơi, nước xanh, đá trắng sao rời rạc nhau đến như vậy” – đó không chỉ là tiếu kêu thương cô đơn của riêng Hà Túc Đạo, của riêng Kim Dung mà là của tất cả mọi con người cô độc trên thế gian. Nước xanh chảy mãi, ra đi; đá cuội trắng vẫn còn ở lại. Tình yêu là như thế, chỉ đơn giản là nguồn suối đem lại cho đời nỗi ngậm ngùi vì rời rạc nhau. Hà Túc Đạo đánh cờ một mình, bán cầu não bên trái đánh với bán cầu não bên phải. Cho đến khi thế cờ ở vào chỗ bế tắc, tiến thoái lưỡng nan, Hà như rơi vào một mê hồn trận.

Mê hồn trận ấy chính là nghiệp chướng do Hà Túc Đạo tạo ra và bước vào. Để cứu người anh hùng đơn độc, Quách Tương đã mách nước: “Sao tiên sinh không bỏ Trung Nguyên mà quay về Tây Vực?”. Một lời chỉ điểm đơn giản đã giúp Hà Túc Đạo nhận ra biện pháp giải tỏa bế tắc trong đại cục của đời mình, của tư tưởng mình. Chàng trung niên khen hay và cám ơn người bạn mới nhỏ tuổi. Năm ấy, Quách Tương mới 16 và Hà đã gần 40. Phiêu bạt một đời mới tìm ra bạn ngọc, anh chàng sáng tác một bản đàn để đàn cho Quách Tương nghe lòng thương nhớ cảm phục của mình. Bản đàn ấy vang lên trong một trận đấu tranh dữ dội; Quách Tương nghe và đỏ mặt lên vì nhận ra tiếng nỉ non của tình yêu. Hà Túc Đạo nhớ thương cô nhưng cô chỉ nhớ thương Dương Qua. Cuộc gặp gỡ giữa cô và Hà chỉ là cái duyên không hẹn trước, chỉ như là nước xanh và đá trắng rời rạc nhau. Cô bỏ đi tu, còn Hà quay về đỉnh Kinh Thần Phong, bỏ Trung Nguyên về Tây Vực đúng như thế cờ dang dở.

Đêm ngồi ở Rạch Giá, Kiên Giang, trông ngàn sao lấp lánh trên biển, tôi chợt nhớ đến Nghi Lâm cởi rồi thắt lại giải áo để cầu nguyện cho mình được sống bên cạnh Lệnh Hồ Xung (Tiếu ngạo giang hồ). Nghi Lâm, cô sư nữ lỡ vướng vào ma chướng của tình yêu nhưng vẫn một lòng thủy chung cùng Bồ Tát. Mâu thuẫn tình yêu và tôn giáo đã xé nát lòng cô sư nữ ấy. Cho nên mới có một sự dung hoà hi hữu trên đời: tiếng kinh tụng niệm Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn lại mang theo âm hưởng dịu dàng, trữ tình, say đắm của tình yêu. Có một cái gì đó đã không thể gặp gỡ và Nghi Lâm cố gắng biến nó thành ra cái có thể gặp gỡ được. Nội dung lời kinh là tôn giáo mà âm hưởng tụng niệm, diễn đạt lại là tình ca.

Tôi yêu hệ thống tư tưởng của đạo Phật. Một lần lên Thiền Lâm, tôi ngồi với vị sư già, ngỏ ý xin ngài chỉ cho tôi một con đường đi để được xa cuộc sống mà vẫn rất gần với cuộc sống. Tôi nhớ đoạn Kiều Phong lên núi Thiên Thai, tìm nhà sư Trí Quan để xin cho ông biết chân diện mục của mình. Trí Quan cho Kiều Phong biết Kiều Phong là người Khất Đan, không phải họ Kiều mà là họ Tiêu – Tiêu Phong. Nhà sư đọc:

Khất Đan với Hán nhân
Bất luận giả hay chân
Ân oán cùng vinh nhục
Không hơn đám bụi trần

Rồi nhắm mắt nhập định và viên tịch.
Tôi chọn hai câu thơ sau trong bài thơ này để làm huớng xuất xử cho cuộc đời. Thượng toạ dạy tôi: “Nghiệp duyên của đạo hữu với cuộc đời còn nặng lắm. Đaạ hữu cứ sống an nhiên, là, hết các công việc của mình, đem hết trí tuệ tuôn ra ngòi bút để phục vụ cho cuộc sống. Đạo Phật chủ trương “Duy tuệ thị nghiệp”. Phật tính nằm ngay trong công việc, trong glối sống chứ không hẳn là nằm trong Thiền viện, trong cuộc thanh tu. Còn khi nào tâm hồn xót xa, trí lực mệt mỏi, đạo hữu hãy tìm đến với thầy”. Khi tôi bạch Thượng toạ xin phép ra về, ngài còn dặn: “Ai cũng có thể nói tu là cõi phúc, tình là dây oan. Nhưng tu sẽ không phải là cõi phúc nếu người ta còn sân si trong đường tu, tình sẽ không là dây oan nếu người ta không tạo ra những oan trái. Cả tu với tình đều có thể là cõi phúc, đều có thề là dây oan. Thầy đã đọc gần như đầy đủ cả ngàn bài viết của đạo hữu và nhận ra chất nhân hậu trong từng bài, từng câu. Hãy phát triển hơn nữa cái tâm từ bi trong ngòi bút”. Lời dạy của vị Thượng toạ 87 tuổi quả thật là dòng nước cam lồ tưới mát lòng tôi.

Một đêm tháng 7, tôi lên rừng Phước Sơn (Lâm Hà, Đà Lạt), đúng 12 giờ khuya. Đêm nằm trong lán tranh nghe mưa rơi tầm tã ngoài trời, lạnh quá không ngủ được, tôi chong đèn và đọc Kim Dung. Lần này tôi mang theo Liên thành quyết, giở ra đúng đoạn Thủy Sinh một mình ra Quan ngoại, sống trong sơn cốc bốn bề mênh mông tuyết phủ, chở Địch Vân trở lại. Những nhân vật nữ của Kim Dung thật thông minh và cũng thật lãng mạn. Họ sẵn sàng đi mấy ngàn dặm ra ngoài quan ải – bây giờ thuộc Đông bắc Trung Quốc, sống một mình trong hang đá lạnh lẽo đời tình quân về từ sự suy đoán riêng của họ, Thủy Sinh trong Liên thành quyết, A Châu trong Thiên Long bát bộ suy đoán thế nào chàng Địch Vân, chàng Kiều Phong cũng sẽ trở lại. Và cám ơn trời, cái hạhnh phúc ấy đã thực sự xảy ra. Hay nói ngược lại, nếu Thủy Sinh, A Châu đi mấy ngàn dặm ra Quan ngoại chờ mà tình quân không trở lại, chắc họ sẽ đau đớn, sẽ ngậm ngùi mà chết đi trong nỗi tuyệt vọng. Tác giả đã để cho Địch Vân, Kiều Phong trở lại. Giữa tuyết trắng mênh mông lạnh buốt của thảo nguyên, bóng người về trở thành ngọn lửa sưởi ấm trái tim những người khao khát tình yêu. Người về Quan ngoại chính là bản tình ca, là chủ nghĩa nhân đạo phương Đông. Có lứa đôi đoàn viên hạnh phúc như Thủy Sinh - Địch Vân. Có lứa đôi tan nát, bất hạnh như Kiều Phong – A Châu. Nhưng bản tình ca nào cũng sáng lên rực rỡ cái đẹp phẩm giá con người, của sự thủy chung, của lòng chân thật. Đên Đà Lạt lạnh buốt mà lòng tôi vẫn cảm thấy ấm áp khi Thủy Sinh choàng tay ôm lấy Địch Vân.

“Huyền tẫn” là một khái niệm sâu xa trong triết lý của Lão giáo. “Huyền tẫn” có nghĩa là nguyên lý mẹ, nguyên lý tìm về giống cái, cội nguồn của sự sinh nở, của đời sống. Hãy nhìn lại mà xem, các dân tộc phương Đông tôn thờ và kính trọng các nữ thần biết bao nhiêu: Tây Vương Mẫu, Nữ Oa ở Trung Hoa; Thái Dương thần nữ ở Nhật Bản; Shiva ở Ấn Độ; mẹ Âu Cơ ở Việt Nam. Bởi vì họ là Me của muôn loài, là chất ngọc của giống cái, là biểu trưng của văn minh phồn thực. Yoni – hình ảnh bộ phận sinh dục nữ, đã được tạc thành totem để thờ phượng, kính nguỡng. Thông qua các nhân vật nữ xinh đẹp, tài hoa và lãng mạn của Kim Dung, thông qua những hình bóng phụ nữ cụ thể trên đời, tôi cũng cất công đi tìm chất ngọc, đi tìm “Huyền tẫn” của chính mình. Mười hai năm trước, mẹ tôi qua đời, tôi cảm thấy bơ vơ như đứa trẻ lên ba dù tuổi tôi đã 40. Cái quyết định tâm linh một người đàn ông chính là người phụ nữ mà người đàn ông ấy tôn thờ, thương yêu, kính trọng nhất. Mẹ tôi chính là người phụ nữ như thấ. Và tôi đọc Kim Dung, bàn về những khía cạnh khác nhau trong tiểu thuyết của nhà văn phương Đông tầm cỡ này cũng là đi tìm “Huyền tẫn” của mình.

Truơng Vô Kỵ và Triệu Mẫn cùng vào một tiệm cơm nhỏ, lựa một chiếc bàn khiêm tốn và gọi mấy món thức ăn với một bình rượu đối ẩm. Sau đó, Trương Vô Kỵ đưa quần hùng Minh giáo đến tấn công chùa Vạn Pháp do Triệu Mẫn chỉ huy để cứu các hào kiệt Trung Nguyên đang bị Triệu Mẫn giam giữ. Cuộc chiến đấu thành công, Triệu Mẫn phải gánh chịu sự thảm bại lớn nhất trong đời cô. Đêm ấy, Triệu Mẫn tìm vào quán cơm xưa, chọn đúng chiếc bàn cũ, cũng kêu đúng các món ăn cũ, bình rượu, hai cái cốc, hai cái chén và hai đôi đũa. Cô rót rượu ra hai cốc thì bỗng dưng… Trương Vô Kỵ xuất hiện. Họ lặng lẽ đối ẩm như ngày nào mà không hề nói đến cuộc chiến một mất một còn ở chùa Vạn Pháp. Tôi cũng mong những lứa đôi trên đời này có được những bữa ăn ấm cúng tình yêu như vậy.

Hansy
18-04-2013, 01:37 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

36.
TIẾU NGẠO GIANG HỒ

Cách đây trên 30 năm, Tiếu ngạo giang hồ đã đến với bạn đọc miền Nam (1967). Nhưng đó là một Kim Dung feuilleton, một Kim Dung tác chiến mỗi ngày khoảng 1.500 chữ để đăng trên Minh báo, mộ Kim Dung đi máy bay từ Hongkong qua Việt Nam mỗi ngày, được dịch ra Việt ngữ đăng đại trà trên những nhật báo Sài Gòn. Luật sư Nguyễn Văn Tầm, Đoàn Luật sư tỉnh An Giang, nhớ lại: ngày ấy, ông còn học ở đại học Luật khoa và chính ông là thư ký giúp dịch giả Hàn Giang Nhạn dịch những tác phẩm của Kim Dung. Trong căn gác nghèo trên đường Vườn Chuối, dịch giả Hàn Giang Nhạn đọc tờ báo đến đâu, dịch ra đến đó. Chàng sinh viên Nguyễn Văn Tầm lót 10 tờ pelure và 9 tờ giấy than, viết lời dịch của Hàn tiên sinh bằng một cây bút bic. Ở phía dưới căn gác, hàng chục ông tuỳ phái của hàng chục tờ báo ngồi đợi… Tiếu ngạo giang hồ. Viết xong bản dịch, chàng sinh viên Nguyễn Văn Tầm đem xuống phân phát cho từng người. Ai may mắn lấy được những bản phía trên còn đọc ra chữ, ai lãnh những bản phía sau chỉ còn cách xem chữ đoán ý. Trên cơ sở tập đại thành những hồi, những đoạn đã được đăng báo, Tiếu ngạo giang hồ được in lại thành sách - một Kim Dung feuilleton.

Nguyên tác Tiếu ngạo giang hồ của Kim Dung do Minh Hà xã in năm 1997 hoàn toàn mới lạ, khác hẳn Tiếu ngạo giang hồ đã từng có trên báo chí Sài Gòn trước đây. Kim Dung đã mạnh dạn cắt bỏ một số đoạn mà ông xét thấy là không cần thiết. Thí dụ như ông đã cắt bỏ khoảng 3.000 từ ngày trong hồi đầu có nội dung giới thiệu về quan hệ gia tộc, võ công, sự nghiệp kinh doanh và oai lực của Phước Oai tiêu cục thành Phúc Châu. Ông cũng bỏ hẳn đoạn Nhạc Linh San trong vai cô gái bán rượu xấu xí cứu Lâm Bình Chi bằng cách cho chàng uống rượu pha thuốc có dược tính thật mạnh mà thay vào bằng một đoạn mới với những tình tiết hợp lý hơn, hấp dẫn hơn. Ngày trước, ông đã để cho Đại tung dương thủ Phí Bân phái Tung Sơn chết đi rồi sống lại, bây giờ tình huống đáng tiếc đó không còn nữa. Ông thận trọng ra từ câu, chỉnh từng ý, xem lại từng tình huống tiểu thuyết. Cho nên, bản dịch mới trên nền tảng bản chỉnh lý năm 1997 là một bản dịch mới lạ. Chúng tôi xin dịch lại Tiếu ngạo giang hồ với tham vọng giới thiệu cùng bạn đọc Việt Nam yêu tài năng Kim Dung, một Kim Dung văn học. Khái niệm văn học ở đây gói gọn trong ngữ nghĩa văn học tiểu thuyết võ hiệp.

Trong sự nghiệp trước tác đồ sộ của Kim Dung, chúng tôi gọi Tiếu ngạo giang hồ là một siêu phẩm\. Toàn bộ tác phẩm gồm 40 chương hồi. Tuy nhiên, tác phẩm lớn không phải ở chỗ dài hơi đó. Nó lớn vì chiều sâu kiến thức hàm chứa ngay trong tác phẩm.

Hai trong ba nguồn tư tưởng lớn của triết học phương Đông - Phật giáo và Lão giáo – đã được Kim Dung hình tượng hoá và cụ thể hoá qua những hình tượng văn học. Phương Chứng đại sư chùa Thiếu Lâm là con người tiêu biểu của tư duy Thiền tông Phật giáo. Với một căn bản võ công trác tuyệt, một tâm địa từ bi, nhà sư gần như đã góp phần hoá giải những hận thù, chia rẻ, sân si. Định Nhàn, Định Dật phái Hằng Sơn là một dạng Phật giáo khác, một Phật giáo nhập thể và nhập thế. Họ hàng phục yêu ma bằng chính cáo tâm hoà bình trung chính của người đi tu. Họ áp dụng nguyên tắc Miên lý tàng châm (Trong cái gối bông mềm có chứa cây kim). Họ không đánh ai nhưng ai đánh họ thì bị kim đâm, càng đánh mạnh thì vết thương càng nặng. Họ lập ra kiếm trận là để tự giữ mình, chống cự ngoại địch chứ chẳng để bao vây ai, tiêu diệt ai.

Nhưng điểm đặc sắc nhất vẫn là tư duy Lão – Trang qua đường Độc Cô cửu kiếm. Phong Thanh Dương đã dạy Lệnh Hồ Xung “Dĩ vô chiêu thắng hữu chiêu”. Trong thế kiếm hữu chiêu, vì có chiêu thức cho nên để phát ra được chiêu thức ấy, con người phải có bộ vị, có ni tấc. Và quan điểm của Phong Thanh Dương là nên đánh ngay vào thời điểm chuẩn bị bộ vị, ni tấc đó. Kiếm phải phát theo ý và kiếm sĩ phát triển kiếm ý chứ không sử dụng kiếm chiêu. Nói cách khác, người sử kiếm chứ không phải kiếm sử người và cần đến một phong thái ung dung, liên tục như nước chảy mây trôi trong khi giao đấu với địch thủ. Cách dạy của Phong Thanh Dương lại vô cùng phù hợp với tâm tính lãng mạn của Lệnh Hồ Xung. Điều này làm ta nhớ đền chương “Thuyết kiếm” của Trang Tử. Lão – Trang chủ trương Vô vi (không làm). Không làm nhưng không có gì là không làm (Vô vi nhi vô bất vi). Chính trên nền tảng đó, đạo trưởng Xung Hư, chưởng môn phái Võ Đang, nhân vật đại biểu của tư tưởng Lão – Trang, đã gắn bó cuộc đời mình với sự thịnh suy, hưng vong của võ lâm Trung Hoa. Cũng chính trên nền tảng đó đã có một cuộc đấu kiếm kỳ lạ xảy ra: Lệnh Hồ Xung và Xung Hư đấu kiếm mà không dùng đến kiếm, chỉ lấy mắt ngó nhau, cuối cùng, Xung Hư đành nhượng bộ.

Tiếu ngạo giang hồ lặng lẽ đưa người đọc đi vào cuộc hành trình tìm về những suối nguồn tư tưởng phương Đông, một phương Đông lãng mạn bay bổng “khi lên cao chính ngàn dăm, nương mây cưỡi gió mà bay” nhưng Trang Tử đã viết trong Nam hoa kinh. Tiếu ngạo giang hồ có cái u uẩn trầm mặc đầy suy niệm của những ngôi chùa, những đạo quan, những rừng tùng bách, bóng trăng sáng trên Trường Giang, cơn mưa tuyết mùa đông trên Ngọc Nữ phong. Xuyên suốt tác phẩm là tiếng đàn, tiếng sao của khúc Tiếu ngạo giang hồ, tiếng ca buồn của Mạc Đại tiên sinh trong khúc Tiêu Tương dạ vũ. Tác phẩm còn là sự tập hợp của nhiều kiến thức về y học, dược học, địa lý học, tửu học, giải phẫu học, võ học, xã hội học… Chính nhờ tác phẩm này, tôi mới biết người Tứ Xuyên luôn luôn bịt khắn trắng trên đầu - tục lệ có từ 2.000 năm trước khi để tang con người huyền thoại Khổng Minh.

Trong kỹ thuật kết cấu tiểu thuyết, có thể coi Tiếu ngạo giang hồ như một kịch bản phim với những đoạn chuyển cảnh rất nhanh và rất hợp lý. Những mâu thuẫn chiều sâu trong nội tâm của các nhân vật kết hợp với những mâu thuẫn chiều dài trong sự đấu tranh, trong âm mưu, trong thủ đoạn của các môn phái tạo cho cốt truyện những tình huống nghẹt thở, khiến cho người đọc càng đọc càng cảm thấy cuốn hút, say sưa. Kim Dung đã giải quyết hợp ký các mâu thuẫn đó khiến cho người đọc thở phào, nhẹ nhõm và cảm thấy hạnh phúc.

Có những điều mà ta nghĩ rằng không bao giờ có thật trên đời lại xảy ra trong tác phẩm của Kim Dung một cách hợp lý và tràn đầy đạo lý. Cơ duyên nào đã đưa một cô nữ ni thánh thiện, trong như ngọc mới 16 tuổi, dấn thân vào nơi ô uế, phức tạp nhất là động điếm Quần Ngọc dưới chân núi Hằng Sơn để cứu mạng Lệnh Hồ Xung? Cô đã bồng chàng lãng tử thanh danh tàn tạ ấy ra vùng hoang sơn dã lĩnh, chấp nhân phạm giới cấm khi ăn trộm dưa hầu có thức ăn cho chàng, tụng kinh Cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát cầu xin cho chàng tai qua nạn khỏi. Lạ thay, lời kinh trang nghiêm của Phật giáo lại được đọc với hơi thở từ một trái tim tràn đầy tình yêu và đức hy sinh. Cơ duyên nào đã đưa đẩy một nàng Nhạc Linh Sanh mới 16 tuổi, say mê cái mã đẹp trai của Lâm Bình Chi và dễ dàng phụ rẫy mối thâm tình ban đầu mà cô đã dành cho Lệnh Hồ Xung?

Cho đến khi lấy Lâm Bình Chi, nhận ra bản chất tàn bạo của gã, cô mới hối hận vì đã đánh mất một báu vật trên đời: “Nhớ xưa luyến ái Hàn công tử. Xương trắng thành tro hận chửa tan.”. Cơ duyên nào đã đến với thánh cô Nhậm Doanh Doanh, ở ẩn trong ngũ Lục Trúc thành Lạc Dương mà “nhặt” được một chàng Lệnh Hồ Xung ốm o bệnh hoạn và khám phá ra được đó là người đàn ông anh hùng, trung thực, có bản sắc nhất giữa cuộc đời này? Từ bỏ ngôi vị cao quý, cô gái tươi đẹp, thông minh 17 tuổi ấy đi theo chàng trai, bắt ếch nuôi chàng, đánh đàn ru cho chàng ngủ và khi chàng kiệt sức thì cõng chàng lên chùa Thiếu Lâm, chấp nhận cho phái Thiếu Lâm cầm tù để đổi lấy sự sống cho người yêu dấu. Đó là 3 dạng tình yêu trên đời: một tình yêu không nói thành lới do sự mâu thuẫn giữa tôn giáo và thế tục, một tình yêu thực dụng vì say mê hào nhoáng bên ngoài mà không thấy được rõ phẩm chất bên trong, một tình yêu chân chính vì khám phá được chất ngọc bên trong mà không cần chú ý đến vẻ bên ngoài của một con người ốm o tàn tạ. Kim Dung không lên gân bình luận, phê phán; ông chỉ tường thuật và chúng ta hiểu. Thế thôi!

Hansy
19-04-2013, 11:40 AM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

37.
NHỮNG SUY NIỆM SIÊU HÌNH HỌC

Lai như lưu thủy hề, thệ như phong
Bất tri hà xứ lai hề, hà sở chung

Từ khi con người xuất hiện trên trái đất, đã có những suy niệm về số phận con người. Lịch sử triết học, văn chương quan nhiều thời đại đã trăn trở đi tìm lời giải cho những vấn nạn: con người là ai, con người từ đầu đến và con người sẽ về đâu. Một tác phẩm văn chương, triết học nhằm cắt nghĩa một trong các vấn nạn ấy được gọi là tác phẩm có giá trị nhân bản, nhân văn.

Ba mươi mấy năm đọc tác phẩm Kim Dung, càng lúc tôi càng nhận ra sự trăn trở của ông trong quá trình tìm cách cắt nghĩa số phận con người. Thời còn đi học, tôi đọc Kim Dung như một cách giải trí, một cách lãng quên cuộc sống thực tại để đi tìm một cuộc sống viễn mộng lí tưởng. Đến tuổi chững chạc, tôi đọc Kim Dung như một cách học tập: học cách viết văn, học phương pháp tiểu thuyết, học những kiến thức Trung Quốc học, học làm người. Thuở đó, tính tôi rất nóng nảy, tâm hồn đầy sự hoài nghi, trí óc đầy niềm căm giận. Gần như, tôi nghi ngờ tất cả mội giá trị trên đời, tôi sẵn sàng căm hận những ngaỳ tháng cũ đau thương và những ngày đang sống đầy trắc trở. Ai gây cho tôi một sự đau khổ, nói với tôi một lời thiếu thiện cảm, thể hiện trước tôi một hành động xúc phạm; tôi đã nghĩ đến chuyện mắt đổi mắt, răng đổi răng. May mắn thay, đọc Kim Dung và các loại sách kinh điển của Nho,Phật, Lão; tôi biết đến sự kìm giữ trái tim và khối óc của mình, tôi biết đến sự tha thứ, vì rằng tha thứ cho người khác chính là tha thứ cho mình, tôi biết quên những đau thương của chính mình để có thế làm một điều có lợi cho người khác hoặc không làm một điều có thể tổn thương cho người khác. Còn bây giờ, hoàng hôn của thế kỉ 20, mùa thu bắt đầu về trên đời, tôi đọc Kim Dung như một cách chiêm nghiệm, suy tưởng.

Lai như lưu thủy hề...
(Chợt đến như dòng nước chảy)

Phải đợi đến tuổi 50, câu hát Tiểu Siêu thường hát cho Vô Kỵ nghe rút từ kinh điển Bái hoả giáo mới cho tôi nhận ra được là câu hát góp phần cắt nghĩa nguồn gốc con người! Darwin nói con người đã đi qua một quá trình tiến hoá, phát triển từ khỉ vượn thành người. Thánh Kinh Thiên chúa giáo nói con người là do Thượng đế sinh ra. Nhà Nho điềm nhiên phát biểu mà như không hề phát biểu điều gì: "Chuyện ngoài trời đất, bực thánh nhân biết đấy nhưng không nghĩ đến" (Lục hợp chi ngoại, thánh nhân tồn nhi bất nghị). Lão - Trang hiền triết một cách khôn khéo: "Trong cái không đẻ ra cái có" (Vô trung sinh hữu). Chỉ có Tiểu Siêu hát: "Chợt đến như dòng nước chảy" (Lai như lưu thủy...)

Lai như lưu thủy hề... không trực tiếp trả lời cho hai câu hỏi con người là ai và con người là từ đâu đến. Đúng hơn, nó trực tiếp trả lời cách thế có mặt của con người trước cuộc sống: "Chợt đến như dòng nước chảy". Dòng nước luôn luôn có một khởi nguyên ban sơ, thí dụ như một cơn mưa, một núi băng tan, một hồ chứa, một đập tràn. "Chợt đến như dòng nước chảy" không cắt nghĩa cái khởi nguyên ban sơ đó; nó chỉ nói đến cách thế có mặt; "chợt đến" không cắt nghĩa khởi nguyên, cũng không phủ nhận khởi nguyên. Nguồn gốc và đời sống con người đơn giản chỉ là sự chợt đến; có nguồn có cội đấy nhưng nguồn cội là gì, ở đâu thì đó là chuyện để mỗi con người tự chiêm nghiệm. Bản thân "chợt đến" đã có một quá trình chuẩn bị, không hề tình cờ, không hề tự nhiên mà có.

Thệ như phong
(Và tàn như gió qua mau)

Con người sống ở trên đời bao nhiêu năm? Không ai trả lời được câu hỏi đó. Phương Đông thường đưa ra khái niệm "trăm năm": "Trăm năm nào có gì đâu, chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì". Bản thân chữ "Trăm năm" đó hoàn toàn mang tính chất tượng trưng, để chỉ số nhiều. Anh may mắn sinh ra trong một gia đình giàu sang, lớn lên khoẻ mạnh, nhiều hạnh phúc... có thể sống được 98 tuổi. Cô gái nghèo kia bỏ ruộng đồng đi bán bia ôm, đem tấm thân trinh trằng cho đám đàn ông thành phố bỡn cợt, đêm trở về căn phòng trọ bị cướp của, hãm hiếp rồi bị giết, chỉ hưởng dương được 23 tuổi. Tôi một đời ưu tư sầu khổ, năm mươi năm chưa thực sự có được một ngày là hạnh phúc, những nếp gấp trên vừng trán càng lúc càng đậm, giọt lệ vĩnh viễn ở cuối mi mắt trái không bao giờ tan được trong cuộc đời làm sao sống được 60 tuổi?

Nhưng dù có sống được bao lâu, 23 hay 60, 98 hay 100 tuổi thì thời gian ấy có là gì so với thời gian miên viễn là trường tồn hằng nhiên? Tất cả chỉ là một cái chớp mắt của tạo hoá. Tôi không ngờ từ một thằng bé nghèo sinh ra trong bom đạn chiến tranh giữa núi rừng Quảng Nam đã trở thành một anh trung niên đang lắng nghe mùa thu về, trí tuệ luôn luôn bị cưỡng bách, không một đêm nào ngủ được quá bảy tiếng, thân xác đau rã rời bởi chứng thoát vị đĩa đệm cột sống và đầu óc luôn bị choáng váng với chứng thiểu năng tuần hoàn não. Ai nói sống trên đời là hạnh phúc? Tôi sống trên năm mươi năm, mong được hưởng một ngày gọi là hạnh phúc để nếm xem mùi vị hạnh phúc là thế nào nhưng vẫn chưa có hân hạnh được nếm thử. Thì thôi, thà mua một đôi giày chật mang dính vào chân suốt ngày, buổi chiều cởi được nó ra lắng nghe hai bàn chân không còn cảm giác đau đớn để cứ gọi đó là hạnh phúc. Vâng, hạnh phúc là sự cởi bỏ được đôi giày quá chật ra khỏi hai bàn chân của bạn.

Thệ như phong

Cuộc sống con người ngắn ngủi lắm, tàn mau như gió. Nào có ai thấy được gió, chỉ thấy lá cây rung động, cỏ dợn thành sóng, ta mới biết có gió thổi qua. Gió thổi qua là có thật đấy, ta biết nhưng không thể biết được nó đến khi nào và đi khi nào. Rồi tàn như gió qua mau - danh sĩ hay kẻ ngu đần, mỹ nhân hay ác quỷ, cao quý hay đê hèn, hiền thục hay điêu ngoa - tất cả đều tàn như gió qua mau. Đây không phải đường về của chủ nghĩa hư vô. Ở cuối đời sống chúng ta là cái chết, là sự suy tàn lụn bại tất yếu của cuộc sống. Sống một ngày là gần gũi với cái chết một ngày, bên nhau một ngày là gần gũi với lâm biệt một ngày - quy luật ấy nhân loại đều đã ý thức rõ rệt. Có hiểu chăng, hỡi bạn đời của tôi?

Bất tri hà xứ lai hề
(Chẳng biết từ đâu mà tới)

Bây giờ câu hát mới đi thẳng vào vấn nạn từ đâu tới. Ta biết ta có nguồn gốc nhưng nguồn gốc đó ở đâu thì đó là cái mà ta không thể biết được. Ta biết con chim thì nó bay, con cá thì nó lội, nhưng khởi nguyên của khả năng bay, của khả năng lội thì đó là cái mà ta không thể biết được. Ngay cả đến lý do tại sao không biết ta cũng đã không biết rồi. Ta chỉ biết rằng ta không biết và tại sao ta không biết thì đó là điều ta không biết vậy. Giữa cái biết và cái không biết có một biên giới tuyệt đối về mặt ý thức. Biết là ban ngày, không biết là ban đêm; biết là ý thức, không biết là chiều sâu trong vô thức. Phương Đông nói một cách triết lý:

Tri chi vi tri chi
Bất tri vi bất tri
Thị tri giả
(Biết cái gì thì làm cái đó
Không biết thì làm cái không biết
Ấy là biết vậy)

Ta biết cái ta không biết - khởi nguyên của loài người - đó là biết vậy chăng? Ngay khi cả ta biết rằng ta không hề biết gì cả cũng là biết vậy chăng? Triết học quả là rất nhân hậu và nhân bản, sẵn sàng tha thứ cho thái độ ngu muội của con người, vẫn cho đó là một thái độ hiểu biết.

Hà sở chung
(Và chẳng biết về nơi đâu)

Cái gì cũng có một chung cuộc. Nhưng chung cuộc của con người ở đâu thì con người không biết được. Đạo Thiên Chúa nói con người công chính được về với cõi vĩnh hằng, về với nước Chúa, với Thiên đàng, Đạo Phật nghĩ đến một quá trình luôn hồi, trong đó sự đầu thai là một quy luật sẽ diễn ra ở kiếp sau. Đạo Phật dẫn những con gnười đạo hạnh từ bi đi về miền Cực lạc. Cực lạc ở đâu? - Cõi Tây Phương. Tây phương là Tây phương nào? - Không biết. Hà sở chung - nước chảy về đâu, gió tàn về đâu? Cuộc sống hữu hạn ngắn ngủi của con người như nước chảy, như gió thổi. Nước chảy về đâu là chung cuộc, gió thổi về đâu là chung cuộc - đó là điều ta không biết.

Lai như lưu thủy hề, thệ như phong
Bất tri hà xứ lai hề, hà sở chung.

Câu hát nói về số phận con người sao mà buồn lắm vậy. Trong số phận của con người, có số phận tình yêu. Tình yêu của con người sao mà buồn lắm vậy. Đạo Phật tôn trọng chữ duyên, mọi việc diễn ra hôm nay đều bắt nguồn từ cơ duyên đã được định trước của ngày hôm qua. Nhưng tìm đâu cho ra cơ duyên ấy thì đó là điều mà ta không thể biết được. Thế giới có đến sáu tỉ người, tại sao em chỉ yêu mình ta?
Đã bao lần qua núi đồi thanh xuân, cúi xuống, kính cẩn hôn ngọn Ngọc Nữ phong bát ngát tình yêu và hạnh phúc, uống dòng nứớc ngọt ngào từ nguyên khê đổ lại. Ta như không còn có mặt trên đời, ta tan biến vào người, người tan biến vào ta. Bản ngã (Moi) không còn nữa, chỉ còn Đại ngã (Grand Moi). Khi ta cao tới mây xanh, vươn tay ra là chạm tới hạnh phúc, Đại Ngã không còn nữa; ta đang vươn tới Siêu ngã (Sur-Moi). Nhưng siêu ngã chỉ là giây phút thoáng qua. Rồi ta trở lại cuộc đời trần tục, xót xa, đau đớn nhìn nước trôi, ngậm ngùi nghe gió tàn.

Lai như lưu thủy hề, thệ như phong
Bất tri hà xứ lai hề, hà sở chung.

Một thoáng hạnh phúc chợt đến rồi chợt tan biến khỏi đời sống con người. Và chỉ còn ta ở lại, đối diện với hư vô.

Hansy
19-04-2013, 06:56 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

38.
SỰ SUY TÀN CỦA CHỦ NGHĨA BẠO LỰC

Bao giờ cũng như bao giờ, bạo lực luôn luôn có giữa cuộc sống loài người. Có thứ bạo lực chân chính nhằm duy trì trật tự xã hội, bảo vệ công lý, bảo vệ mạng sống và quyền lợi chính đáng của những con người lương thiện. Có thứ bạo lực phản động nhằm làm náo loạn cuộc sống, gây cảnh can qua cho trăm họ lầm than để thừa cơ hưởng lợi hoặc để cai trị, nô dịch người khác. Loại bạo lực phản động ấy không thiếu trong tác phẩm võ hiệp tiểu thuyết Kim Dung. Khi xử lý tác phẩm, tác giả thường để cho chủ nghĩa bạo lực tự nó suy tàn đúng như định đề "Gieo nhân nào, hưởng quả ấy" của phương Đông hay "Ai gieo gió phải gặt bão" của phương Tây.

Đoạn lung mở đầu cho Lộc Đỉnh ký có lẽ là đoạn triết luận hay nhất, tài hoa nhất trong sự nghiệp trước tác của Kim Dung. Ông luận về chủ nghĩa duy bạo lực của các thế lực quân chủ mấy ngàn năm ở Trung Quốc qua hai từ "Trục lộc" (đuổi hươu). Mượn lời nhà văn Lữ Lưu Lương dạy con trai, Kim Dung nhắc lại câu nói của Khương Thái Công với Chu Văn Vương: "Lấy thiên hạ như đuổi bắt con hươu để làm thịt chia nhau mà ăn. Con hươu dù có trốn chui trốn nhủi nhưng rốt cuộc vẫn bị bắt. Có khi nó bị nhiều người ăn thịt, có khi một người giành ăn hết". Con hươu (lộc) ở đây có nghĩa là thiên hạ, mà thiên hạ có nghĩa là đất Trung Hoa. Hán thư có câu: "Nhà Tần để sổng con hươu, thiên hạ tranh nhau đuổi bắt". Hán vương Lưu Bang và Tây Sở Bá vương Hạng Võ cùng đánh nhà Tần, sau cùng Hán vương diệt được Tây Sở Bá vương, chiếm được thiên hạ, bắt được cả con hươu béo mập.

Để có thể nấu thịt hươu lên ăn, người ta phải dùng đến cái vạc to, có ba chân, đốt lửa ở dưới. Cái vạc ấy đồng thời cũng là hình cụ tàn khốc để đốt, để nấu những người phạm trọng tội. Chữ "đỉnh" trong Hán văn tức là cái vạc lớn. Lộc đỉnh có nghĩa là cái vạc lớn để nấu thịt hươu. Tranh nhau "lộc đỉnh" có nghĩa là tranh nhau giành lấy thiên hạ. Các thế lực quân chủ là dao là thớt, muôn triêuh dân lành trở thành cá thành thịt. Để có thể giành lấy thiên hạ, đạt được quyền lực, người ta phải dùng đến bạo lực phi nhân tính nhất.

Các thế lực quân chủ dùng bạo lực phi nhân để trục lợi còn các thế lực giang hồ trong các tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung cũng dùng bạo lực phi nhân để đô hộ, chế ngự, nô dịch người khác. Trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, chủ nghĩa duy bạo lực luôn luôn gắn liền với các bọn tac đạo muôi tham vọng thống nhất giang hồ, đè đầu cưỡi cổ thiên hạ.

Trong Lộc Đỉnh ký, tà đạo Thần Long giáo ở biển Liêu Đông do Hồng An Thông làm giáo chủ nuôi một thứ tham vọng như vậy. Tà giáo này chủ trương xây dựng các hầm rắn để trừng trị những kẻ không trung thành, buộc bọn thuộc hạ uống loại độc dược Độc long dịch cân hoàn để họ phải trung thành với giáo chủ. Họ gọi con rắn (xà) là thần long. Họ cũng có một thứ "kinh điển" nhằm đầu độc trí óc bọn giáo chúng thanh niên, sùng bái cá nhân giáo chủ:

Hồng giáo chủ ra oai sấm sét
Chúng đồ nhi sức mạnh phi thường...
...Hồng giáo chủ thần kinh như điện
Chiếu nhãn quan ra khắp muôn phương...

Tà giáo này có tham vọng tranh đoạt tấm bản đồ chỉ dẫn đi tìm kho báu được giấu trong bộ Tứ thập nhị chương kinh của nhà Thanh. Họ cấy người vào nội cung triều Khang Hy nằm vùng, khuynh loát chính trị và dọ dẫm tìm bảo vật. Thực hiện không được âm mưu ấy, họ định liên minh với các thế lực biên phòng của Sa hoang Nga La Tư để chống lại Trung Quốc. Điều buồn cười là giáo chủ Hồng An Thông tuy danh vọng to lớn, võ công cao cường nhưng chỉ là một lão liệt dương. Khang Hy đã ra lệnh cho hải quân nhà Thanh bắn phá tan tành đảo Thần Long, cuối cùng bọn thuộc hạ quần công Hồng An Thông, giết giáo chủ. Thần Long giáo tự diệt, đơn giản chỉ vì nó là một tà đạo duy bạo lực.

Trong Thiên Long bát bộ lại có một tà phái khác là phái Tinh Tú, do Tinh Tú hải lão ma Đinh Xuân Thu làm chưởng môn. Đinh Xuân Thu là kẻ lừa thầy phản bạn, từng đánh lại thầy mình là Vô Nhai Tử rồi tự mình tách ra khỏi phái Tiêu Dao để lập thành phái Tinh Tú. Vì đã từng lừa thầy nên bản tâm vẫn sợ bọn đồ đệ đánh nổi lên làm loạn chống mình, Đinh Xuân Thu chủ trương dùng thuốc độc và đạn lân tinh để trừng phạt đệ tử. Lão cho phép các đệ tử đánh nhau thoải mái để giành chức đại đệ tử. Lão chiêu nạp một đám bàng môn tả đạo làm đệ tử và đặt ra những ca quyết để đệ tử tâng bốc mình:

Tinh Tú lão tiên
Danh lừng Trung thổ
Đức sánh cửu thiên
Đánh đâu thắng đó

Ngày Đinh Xuân Thu trở lại Trung Nguyên, gần như lão khống chế được toàn bộ phái Tiêu Dao. Thế nhưng, như một kịch bản hoàn hảo nhất của công lý trên đời, Đinh Xuân Thu đã bị Hư Trúc, Cung chủ cung Linh Thứu, trừng phạt. Bằng nội công Bắc minh chân khí chính tông, mượn giọt rượu của đệ tử tung lên không gian, Hư Trúc biến các giọt rượu trở thành băng và cấy vào trong các huyệt đạo trọng yếu của Đinh Xuân Thu. Miếng băng lạnh tiếp xúc với da thịt nóng, tan ngay vào các huyệt đạo, hoá thành một thứ bùa gọi là Sinh tử phù. Sinh tử phù chạy vào người Đinh Xuân Thu, trở thành một chất kháng nguyên, khiến lão có cảm giác ngứa ngáy như bị hàng vạn con kiến đốt. Đinh Xuân Thu phải chịu thua, đầu hàng, bị phái Thiếu Lâm nhốt lại. Toàn bộ phái Tinh Tú bị giải tán, bạo lực của Tinh Tú hải lão ma tự diệt vong.

Chủ nghĩa duy bạo lực nhìn vấn đề dưới một nhãn quan đơn giản: có sức mạnh là có thể cai trị, khống chế được người khác. Và để có một sức mạnh thì phải leo lên được đỉnh cao của quyền lực, phải nắm quyền lực trong tay. Khát vọng quyền lực khiến các loại nhân vật giang hồ rình mò nhau, ngấm ngầm hại nhau. Điều đáng xấu hổ là những âm mưu đó lại được nấp sau bộ mặt của người quân tử, kẻ chính nhân - tất nhiên là quân tử, chính nhân giả hiệu. Tiếu ngạo giang hồ xây dựng một bộ ba chưởng môn khả kính: Dư Thương Hải - chưởng môn phái Thanh Thành; Tả Lãnh Thiền - chưởng môn phái Tung Sơn; Nhạc Bất Quần - chưởng môn phái Hoa Sơn. Dư Thương Hải đánh Phước Oai tiêu cuc để tìm lấy kiếm pháp Tịch tà; Tả Lãnh Thiền định triệt hạ bốn phái để leo lên chức chưởng môn Ngũ Nhạc Phái; Nhạc Bất Quần vừa rình mò Dư Thương Hải để chiếm kiếm pháp Tịch tà, vừa tháu cáy Tả Lãnh Thiền để tranh đoạt chức chưởng môn Ngũ Nhạc phái. Họ là những người quân tử chính nhân giả hiện, mở miệng ra là nói đạo đức, lòng nhân, sự khiêm ái... Cuối cùng Dư Thương Hải bị giết; Tả Lãnh Thiền bị đui mắt; Nhạc Bất Quần cũng bi giết. Quy luật tự nhiên thật công bằng: những kẻ gian ác, nguỵ quân tử, duy bạo lực bị đền tội bở chính những mưu đồ và hành vi độc ác của họ đã gây ra. Sự trừng phạt của cuộc sống khá nghiêm minh: gieo nhân nào hưởng quả ấy, mức độ trừng phạt tương ứng với mức độ nguy hiểm của hành vi.

Tất nhiên, để có thể tiêu diệt chủ nghĩa duy bạo lực này, phải có một thứ bạo lực chính nghĩa đi tiên phong. Đó là bạo lực của những người anh hùng chân chính, trung thực. Tác phẩm của Kim Dung cũng đi theo con đường "có hậu" của nhiều tác phẩm văn học trên thế giới đã đi: chính nghĩa thắng gian tà. Trong Ỷ thiên Đồ long ký, Xạ điêu anh hùng truyện, Thần điêu hiệp lữ, bạo lực phi nghĩa của người Trung Quốc yêu nước đã chiến thắng bạo lực phi nhân nghĩa của các thứ giặc xâm lược Kim Quốc và Mông Cổ. Chủ nghĩa yêu nước lấp lánh phía sau những tình huống tiểu thuyết vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính thoại sử đem lại cho ngừơi đọc sự thú vị tuyệt vời.

Bạo lực phi nghĩa nào cũng có ngày tàn lụi; nếu người ta không sử dụng bạo lực chính nghĩa để tiêu diệt nó thì tự nó cũng có ngày tàn lụi. Đưa ra cái trắng, cái đen, cái thiện và cái ác, cái đúng là cái sai, cái tốt và cái xấu là Kim Dung đã khẳng định quy luật trên. Cho nên, đọc tiểu thuyết của ông, người ta có cảm giác thoả mãn khi thấy công lí thắng lợi, cái ác bị trừng phạt nặng nề. Điều này cũng chính là khát vọng ngàn đời của loài người!

Ngay đến những âm mưu sử dụng bạo lực để khuấy đảo thiên hạ, âm mưu "Toạ sơn quan hổ đấu" cũng tàn lụi từ trong trứng nước. Trong Thiên Long bát bộ, cha con Mộ Dung Bác - Mộ Dung Phục âm mưu phục hổi đế hiệu nước Đại Yên. Để có thể làm việc đó, Mộ Dung Bác phao ngôn rằng quân Khiết Đan sắp tấn công qua Nhạn Môn Quan. Bọn quần hùng Trung Quốc nóng lòng bảo vệ đất nước, ra ải Nhạn Môn Quan đánh giết lầm gia đình Tiêu Viễn Sơn. Không khuấy đảo được cho hai nước Tông - Liêu đánh nhau, Mộ Dung Bác khích cho quốc sư Cưu Ma Trí nước Thổ Phồn nhập Trung Nguyên - Trung Quốc. Làm xong mấy việc đó, Mộ Dung Bác giả chết, vào nằm cùng trong Tàng kinh các chùa Thiếu Lâm, học lén võ công Thiếu Lâm mơ làm anh hùng thiên hạ. Mộ Dung Phục lại là một tay cơ hội chủ nghĩa ghê gớm. Tưởng cha chết thật, Mộ Dung Phục vẫn âm thầm nuôi giấc mộng Đại Yên. Gã hoá thân thành một cao thủ nước Tây Hạ có cái tên lạ hoắc là Lý Diên Tông, đầu quân vào dưới trướng Hách Liên Thiết Thụ sang đánh Trung Quốc. Việc đánh đấm không thành sự, gã phụ rẫy mối tình của biểu muội Vương Ngữ Yên, sang Tây Hạ dự lễ tuyển phu với một hy vọng hết sức bệnh hoạn: được cưới công chúa Tây Hạ làm vợ, trở thành phò mã Tây Hạ, đem binh lực Tây Hạ về đánh Trung Quốc. Việc lại không thành, gã trở về Trung Quốc, lạy tôn thế tử Đoàn Diên Khánh của nước Đại Lý để hoàng gia nước Đại Lý không còn ai, Đoàn Diên Khánh sẽ lên ngôi, gã là Thái tử. Rồi gã sẽ phế người cha nuôi để lên làm vua nước Đại Lý, đem quân về đánh Trung Quốc.

Cha con Mộ Dung Bác - Mộ Dung Phục, mỗi người một âm mưu, muốn quay cho Trung Quốc đại loạn để phục hưng nước Đại Yên. Mộ Dung Bác còn khích Kiều Phong - Nam viện đại vương nắm giữ binh quyền nước Khiết Đan - rằng lão sẵn sàng tự tử để tạ tội phao ngôn, chỉ mong Kiều Phong đưa quân Khiết Đan qua Nhạn Môn Quan đánh Tống triều! Hai cha con này ăn chén cơm Trung Quốc mà kịch liệt chống đối lại trăm họ Trung Quốc.

Kim Dung giải quyết khá công bằng: ông để cho Mộ Dung Bác tự ngộ ra rằng âm mưu phục hồi nước Đại Yên chỉ là mây trắng, rằng không thể lấy thiên hạ để phục hồi đế vị cho một dòng tộc. Mộ Dung Bác xin ở lại chùa Thiếu Lâm đi tu. Mộ Dung Phục giết hết những bằng hữu trung thành của mình, bị Lục mạch thần kiếm của Đoàn Dự đánh cho tơi tả. Gã phát bệnh tâm thần, đi chằm mũ lá đội, mua kẹo bánh bỏ sẵn trong túi để ...làm vua với các trẻ em chăn trâu. Giấc mơ bạo lực tự nó suy tàn mà không cần đến một tác động ngoại lai.

Hansy
20-04-2013, 01:26 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

39.
THANH KIẾM VÀ CÂY ĐÀN

Thanh kiếm và cây đàn là hai hình ảnh mà ta thường gặp trong thế giới tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung. Từ Ỷ thiên Đồ long ký, Thiên Long bát bộ đến Tiếu ngạo giang hồ. Trong những giai đoạn lịch sử mà các chế độ phong kiến cầm quyền nhân danh một thứ “vương pháp” tràn đầy bất công và bạo lực áp dụng để cai trị hàng triệu triệu con người, những kẻ có tiền, có quyền, có thế lực ra sức hà hiếp, hãm hại dân đen thì thanh kiếm của người hiệp sĩ trở thành biểu tượng của công lý, một thứ công lý của nhân dân. Thanh kiếm là một vũ khí trừ gian, diệt bạo, tế khổn, phò nguy. Ngược lại cây đàn là một dụng cụ nhằm thể hiện tình cảm, cảm xúc, thể hiện những khát vọng hoà bình, trung chính trước cuộc sống… Nhìn một cách nào đó thì thanh kiếm và cây đàn khó có thể gặp gỡ nhau, khó có thể dung hoà với nhau. Nhưng trong các tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung đã tạo ra sự gặp gỡ dung hoà và tương tác giữa hai hình ảnh đó một cách kỳ thú lạ lùng.

Trong Ỷ thiên Đồ long ký, Côn Lôn Tam Thánh Hà Túc Đạo từ dãy Thiên Sơn đi về tỉnh Hồ Nam, đem theo một cây thất huyền cầm và một thanh trường kiếm. “Hỡi ơi, nước xanh và đá trắng sao rời rạc nhau đến như vậy” - lời than thở của Hà Túc Đạo giữa rừng sâu là lời than chưa tìm được một người tri kỷ hồng nhan, như nước xanh cứ mãi trôi mà đá trắng vẫn trơ vơ đứng lại bên đời. Cho đến khi gặp được cô gái Quách Tương, Hà Túc Đạo đã cảm hứng sáng tác ra được một nhạc khúc để chờ có dịp là đàn cho cô nghe. Và trong một trận chiến với 3 cao thủ Thiếu Lâm Tây Vực, Hà Túc Đạo đã ngồi tại chỗ, sử dụng một tay kiếm đánh với đối thủ, tay kia vẫn tiếp tục đánh đàn. Nghe tiếng đàn phơi phới xuân tình, tràn đầy niềm nhớ thương u ẩn, Quách Tương đỏ mặt lên, biết Hà Túc Đạo muốn tỏ tình với mình. Năm ấy cô mới 16 tuổi. Tiếc thay tuy thắng trong trận này nhưng sau đó Hà Túc Đạo đánh thua sư Giác Viễn và Trương Quân Bảo (chính là Trương Tam Phong sau này) ở chùa Thiếu Lâm nên lặng lẽ bỏ Trung Nguyên trở về Thiên Sơn, khiến khát vọng phối hợp thanh kiếm và cây đàn của chàng không thực hiện được.

Kim Dung đã để cho Cầm điên Khang Quảng Lăng, nhân vật trong Thiên Long bát bộ thực hiện khát vọng ấy. Khang Quảng Lăng có ngoại hiệu là Cầm điên, một nhân vật chơi hồ cầm rất tài hoa. Lão dùng tiếng đàn làm vũ khí, đấu nhau với kiếm kích đao thương của người khác. Nghe tiếng đàn của lão, trái tim người ta dội ngược, kinh mạch loạn lên, người không có nội công thâm hậu khó chống chọi được điệu đàn của lão, tiếng đàn thoạt đông thoạt tây, thoạt trên thoạt dưới, thoạt gần thoạt xa. Khang Quảng Lăng thuộc phái Tiêu Dao tức là tu theo Lão - Trang. Thế nhưng lão vẫn chưa thoát tục được, giai điệu vẫn chưa đạt đến mức thượng thừa của âm nhạc hoà bình trung chính.

Có lẽ điều chưa đạt được đó đã được tác giả Kim Dung thử nghiệm lại trong Tiếu ngạo giang hồ.Trong tác phẩm này, tác giả xây dựng một nhân vật cổ quái là Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh, chưởng môn phái Hành Sơn. Mạc Đại tiên sinh cất một thanh kiếm ngắn, lưỡi mềm và mỏng như lá lúa trong đáy cây hồ cầm. Tiên sinh được ca ngợi với 8 chữ “cầm trung tàng kiếm, kiếm phát cầm âm” (trong đàn giấu kiếm, kiếm phát tiếng đàn). Kiếm pháp “Bách biến thiên ảo, Hành Sơn vân vụ thập tam thức “ của lão nhằm cứu người trong cơn hoạn nạn, tế khốn phò nguy. Nhưng tiếng hồ cầm của lão chưa thoát tục, cứ đi mãi trên con đường bi ai sầu thảm; lại thêm lời ca của bài Tiêu Tương dạ vũ (mưa đêm trên sông Tiêu Tương) nghe ra đau xót như những giọt mưa rơi xuống lá cây. Mạc Đại tiên sinh là hình ảnh của một trích tiên bị đoạ.

Một nhân vật khác của Tiếu ngạo giang hồ là Khúc Dương đã nhận ra chỗ thiếu sót đó của Mạc Đại. Khúc Dương là trưởng lão của Triêu Dương thần giáo (Ma giáo). Khúc Dương là 1 nhạc sĩ tài ba, do không phục một câu nói của Kê Khang, 1 nhạc sĩ đời Tây Tấn đã đàn khúc Quảng lăng tán trước khi bị Tư Mã Chiêu giết, rằng: “ta chết đi từ nay trên đời không còn khúc Quảng lăng tán nữa”. Khúc Dương đã bỏ công ra đi đào 29 ngôi mộ của các vua chúa và đại thần thời Đông Hán và Tây Hán và đến ngôi mộ thứ 29 ở đất Thái Ung thì lão tìm ra khúc phổ Quảng lăng tán, Khúc Dương đã cải biên thành nhạc khúc dành cho đàn thất huyền cầm và gọi tên khúc đó là Tiếu ngạo giang hồ. Lão chơi thân với Lưu Chính Phong, nhạc sĩ thổi sáo của phái Hành Sơn. Lưu Chính Phong dựa vào cung đàn của Khúc Dương để viết 1 phần tiêu phổ cho ống sáo. Cầm tiêu song tấu, họ có được nhạc khúc Tiếu ngạo giang hồ hoà bình, trung chính; thể hiện được khát vọng được sống tự tại tiêu dao của một kiếp người.

Nhưng cả Lưu Chính Phong và Khúc Dương đều bị lên án bởi phái Tung Sơn. Với tham vọng lên ngôi minh chủ Ngũ Nhạc kiếm phái, chưởng môn phái Tung Sơn là Tả Lãnh Thiền đã sai thủ hạ sát hại Lưu Chính Phong, định tiêu diệt phái Hành Sơn trước. Thế nhưng trên cả âm mưu của phái Tung Sơn, Nhạc Bất Quần, chưởng môn đã nuôi mộng lên ngôi Ngũ Nhạc phái (bỏ chữ kiếm) bằng chính một đường kiếm tàn ác - Tịch tà kiếm pháp - mà lão ăn cắp được. Cũng với thanh kiếm, Lệnh Hồ Xung đã học được Độc Cô cửu kiếm để trị Tịch tà. Tác giả Kim Dung đã để cho Độc Cô thắng Tịch tà, lấy cái ngay thẳng để chế ngự cái tà ma, lấy cái chính nhân để trị cái nguỵ quân tử. Và khi thanh kiếm chính nghĩa đã toàn thắng thì khúc hợp tấu cầm tiêu Tiếu ngạo giang hồ lại ung dung trổi lên, hoà bình trung chính làm say đắm lòng người nghe.

Lưỡi kiếm là bạo lực, có cái bạo lực phản động, có cái bạo lực để chống bạo lực phản động. Tiếng đàn là tiếng lòng, là âm điệu của hoà bình nhân ái. Lưỡi kiếm ngay thẳng chống bạo lực phản động, lập lại công lý cho cuộc sống để tiếng đàn hoà bình, nhân ái được cất lên. Toàn bộ khát vọng của Kim Dung được thể hiện qua Ỷ thiên Đồ long ký, Thiên Long bát bộ giữa sự giao thoa của kiếm và đàn chưa hoàn thành. Và ông viết tiếp Tiếu ngạo giang hồ để hoàn thành ước mơ đó. Chàng kiếm sĩ Lệnh Hồ Xung với đường Độc Cô cửu kiếm cuối cùng cũng buông lưỡi kiếm xuống, cầm lấy cây đàn cùng người yêu thổi tiêu hợp tấu Tiếu ngạo giang hồ. Vì vậy mà trên cuộc sống này vẫn tồn tại câu nói “Hoà bình là hiệu quả của chân lý”. Ở một chừng mực nào đó Kim Dung đã thể hiện tư tưởng có trước đây hơn 2000 năm của Socrate “Hoà bình chỉ thực sự có khi công lý được xác lập”.

Hansy
21-04-2013, 12:28 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

40.
HUYỀN THOẠI THỦ CUNG SA

Thủ cung sa (守宮沙) có lẽ là một khái niệm khá mới trong hệ thống từ Hán - Việt của ngôn ngữ Việt Nam. Tôi đã tra 6 cuốn từ điển Hán - Việt hoặc Việt – Hán mà không tìm ra được từ ghép này, có lẽ vì nó cổ quá và có lẽ đến bây giờ, người phụ nữ Trung Quốc không cần đến nó nữa. Cuộc sống văn minh với làn sóng “cách mạng tình dục”, tư tưởng tự do luyến ái và một chút thực dụng của chủ nghĩa hiện sinh Tây phương đã ảnh hưởng đến phương Đông. Người phương Đông, kể cả người phương Đông Trung Quốc, vốn là con cháu Đức Khổng Phu tử, đã có một quan điểm rất thoáng về chữ trinh nơi người phụ nữ. Tôi nhấn mạnh chữ Trinh (貞) chứ không phải chữ Tiết (節). Trinh là một cái gì đó hoàn toàn nguyên vẹn, ban sơ mà đạo Khổng vốn coi là biểu tượng của sự trong trắng, đạo đức, của tất cả các hành vi giữ mình như ngọc của một cô gái mới lớn lên. Trong y học, trinh mang ý nghĩa cụ thể hơn: đó là một cái màng mỏng nằm trong nội cung người phụ nữ. Ai còn trinh thì được gọi là xử nữ. Và do vậy, màng trinh được gọi là xử nữ mạc.

Thủ cung sa là một dấu vết nhỏ có màu đỏ sậm của thần sa, được điểm lên cánh tay của một cô gái mới lớn (thường là cánh tay trái, cách vai khoảng một tấc, ngang với chỗ mà ngày nay người ta chủng ngừa đậu mùa) để chứng minh cô gái ấy còn trinh bạch. Các thầy thuốc ngày xưa khó lòng quan sát xử nữ mạc, mà dẫu muốn quan sát cũng chưa chắc được ai cho! Cho nên, người Trung Quốc cổ mới nghĩ đến một tiêu ký nhằm hình tượng hoá chữ trinh ra ngoài cấm địa của người phụ nữ - ấy là vế thủ cung sa trên cánh tay. Muốn biết cô gái nào còn là xử nữ hay không, chỉ chỉ cần vén tay áo lên xem xét thủ cung sa còn hay mất. Nếu thủ cung sa mất đi thì ô hô, ai tai; dẫu có mười miệng cũng không biện giải, cãi chày cãi cối nữa với mọi người vốn thuộc lòng câu “Nam nữ thọ thọ bất thân”.

Làm sao lưu được tiêu ký của thủ cung sa? Hán thư, cách chúng ta trên 2.000 năm, ghi chú rõ: bắt một con tắc kè con, nuôi nó cho thật tử tế, cho nó ăn hết bảy cân thần sa. Đập nát con tắc kè, vắt xác của nó lấy một loại nước có màu đỏ sậm. Đem nước ấy chấm lên cơ bắp cánh tay trái của cô gái mới lớn. Dấu chấm ngoài da sẽ ăn sâu vào lớp ngoại biểu bì, để lại một vết tròn màu đỏ sậm trên làn da trắng nõn. Vết tròn màu đỏ sậm ấy chính là biểu tượng uy nghi, hùng hồn nhất của sự trinh bạch. Nếu cô gái tự mình gần gũi với người đàn ông hoặc bị cưỡng hiếp, vết thủ cung sa sẽ mất đi ngay.

Lý luận thì chặt chẽ như vậy nhưng Hán thư của học giả Ban Cố vẫn không cắt nghĩa được mối tương quan hữu cơ giữa thủ cung sa trên cánh tay và xử nữ mạc trong nội cung của người phụ nữ. Nói cách khác, lời bí chú của Hán thư không giải thích được tại sao khi xử nữ mạc bị rách thì vế thủ cung sa lại biến mất đi và giả thiết một cô gái bị mất thủ cung sa rồi thì họ có thể… làm lại cái mới không. Và bởi thủ cung sa có được từ nước cốt của con tắc kè ăn đủ 7 cân thần sa, nghĩa là chuyện mà tất cả mọi nhà ở Trung Quốc đời Hán đều làm được, và bởi thịt da ai cũng như ai nên tôi đồ chừng tất cả mọi phụ nữ Trung Quốc (thời Hán thôi nhé) từ cô gái 16 tuổi thơm như đóa ngọc lạn đến người thiếu phụ 50 tuổi có mấy mặt con, tả tơi như tàu lá chuối sau trận bão, đều có thể tự làm tiêu ký thủ cung sa được. Đến lúc đó, dẫu sư phụ của các danh y Hoa Đà, Biển Thước nhìn được vết thủ cung sa cũng khó lòng nhận ra chân giả, thực hư. Không chừng rút kinh nghiệm đó mà ngày nay, các tú bà thường cho bác sĩ “tân trang” xử nữ mạc các cô để gạt mấy tay Hongkong, Taiwan giàu sụ.

Đó là chuyện 2.000 năm trước. Hai ngàn năm sau, nhà văn Kim Dung đã đưa huyền thoại thủ cung sa của dân tộc mình vào trong các tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp của ông, vẫn với mục đích chứng minh cho sự trinh bạch của người phụ nữ mới lớn. Các nhân vật nữ của ông nhưng Chu Chỉ Nhược (Ỷ thiên Đồ long ký), Lý Mạc Sầu (Thần điêu hiệp lữ), Mai Phương Cô (Hiệp khách hành) đều giữ được những vết đỏ thắm của thủ cung sa trên cánh tay trắng nõn nà. Nghĩa là họ không hề mất trinh, chưa từng chăn gối với đàn ông, chưa thất thân vì người khác giới như họ tự nhận hoặc do người khác vu vạ.

Lứa đôi Chu Chỉ Nhược và Trương Vô Kỵ thương yêu nhau. Diệt Tuyệt sư thái, chưởng môn phái Nga My lại buộc học trò Chu Chỉ Nhược của mình phải thề độc, không được thương yêu Trương Vô Kỵ. Chu Chỉ Nhược phải dựng lên câu chuyện Tống Thanh Thư là chồng của cô để đánh lừa mọi người, chủ yếu là đánh lừa chàng Trương. Khi Tống Thanh Thư bị đánh trọng thương, mọi người vẫn đinh ninh rằng Chu Chỉ Nhược đã là đàn bà. Đến lúc đó, Chu Chỉ Nhược mới vén cánh tay áo lên cho mọi người biết cô vẫn còn vết thủ cung sa tươi thắm. Vết thủ cung sa đó đủ sức cải chính tất cả mọi lời đồn đại, mọi điều mà cô đã tự nhận về mình.

Mai Phương Cô thương yêu Thạch Thanh nhưng Thạch Thanh đã có vợ, có hai con trai. Trong một cơn ghen tuông làm mất lý trí, cô đã bắt một đứa con mới 3 tháng tuổi của Thạch Thanh đem đi, nuôi nấng hài nhi thành người, đặt tên là Cẩu Tạp Chủng (chó lộn giống). Đứa bé lớn lên, vẫn đinh ninh Mai Phương Cô là mẹ ruột của mình. Cho đến một ngày vợ chồng Thạch Thanh lên núi Hùng Nhĩ tìm Mai Phương Cô, có cả cậu trai Cẩu Tạp Chủng đi theo, Mai Phương Cô vẫn vì cơn ghen, không tiết lộ thân thế Cẩu Tạp Chủng. Ai cũng yên chí Phương Cô chửa hoang, sinh ra thẳng bé không cha, riêng vợ Thạch Thanh thì cho rằng chồng mình đã chăn gối với Mai Phương Cô sinh ra cậu Cẩu Tạp Chủng. Kim Dung đã xử lý tình huống tiểu thuyết hết sức bi kịch nhưng cũng hết sức cao thượng: ông để cho Mai Phương Cô tự vận, một bên áo rách hiện rõ vết thủ cung sa trên làn da trắng. Nghĩa là Mai Phương Cô vẫn còn trinh bạch. Còn Cẩu Tạp Chủng là ai, tại sao khuôn mặt chàng giống hệt Thạch Thanh, tại sao chàng gọi Mai Phương Cô là má má thì tự độc giả tìm hiểu.

Trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, huyền thoại thủ cung sa được nâng lên thành hiện thực mang dấu ấn của triết lý, dấu ấn của tư tưởng nhân văn và nhân đạo. Nếu cứ lý luận theo kiểu nhà nho thì ai còn trinh mới là đạo đức; ai mất trinh là kẻ hư thân. Nhưng Kim Dung không nhìn người phụ nữ Trung Quốc theo nhãn quan đó. Trong Thần điêu hiệp lữ, ông xây dựng nhân vật Tiểu Long Nữ, chưởng môn phái Cổ Mộ Đài. Tiểu Long Nữ mới 18 tuổi, thương yêu người học trò nhỏ hơn cô 2 tuổi là Dương Qua. Một hôm, khi cô đang thoát y để luyện Ngọc nữ tâm kinh trong bụi rậm thì bị một tên đệ tử phái Toàn Chân là Doãn Chí Bình điểm huyệt, che mặt rồi đưa vào chỗ kín đáo cưỡng hiếp. Cô gái đau khổ khi mất đi vết thủ cung sa và cảm thấy không còn xứng đáng với chàng học trò nhỏ Dương Qua nữa.

Cô đau xót bỏ Dương Qua ra đi. Nhưng trong con mắt Dương Qua, một Tiểu Long Nữ mất trinh còn hơn hàng vạn cô gái trinh bạch khác trên đời. Dương Qua ra đi tìm cô khắp bốn phương trời. Không có nàh văn nào can đảm như Kim Dung khi đưa ra một người thầy mất trinh, một mối tình thầy tro trong một bối cảnh xã hội mà Khổng giáo vẫn chiếm tư thế độc tôn như xã hội Trung Quốc thế kỷ XI. Ở đây, ông muốn chứng minh một điều: chữ trinh qua dấu vết thủ cung sa không là cái gì cả. Một tai nạn thông thường hoặc nghiêm trọng có thể làm mất đi sự trinh bạch của người phụ nữ nhưng phẩm giá và tình yêu của người phụ nữ đó vẫn còn nguyên vẹn. Chất nhân bản, nhân văn đó dễ có mấy ai đã thể hiện được trong tiểu thuyết. Một Lý Mạc Sầu trinh bạch nhưng tàn ác vẫn thua xa một Tiểu Long Nữ bị mất trinh nhưng tấm lòng quảng đại bao dung. Nếu với đàn ông, Kim Dung thường đưa câu “Đừng đem thành bại luận anh hùng” thì với phụ nữ, chúng ta cũng có thể nghĩ đến câu “Chớ đem trinh tiết khoe thục nữ”.

Thủ cung sa, rốt cuộc lại, chỉ là quan điểm của Kim Dung về chữ trinh, một quan điểm mới mè, vượt xa công thứ sơ lược của cổ nhân. Trước Kim Dung trong hơn 200 tác phẩm tiểu thuyết Minh – Thanh, chữ trinh đã từng là vấn đề trong Tây sương ký, Liêu trai chí dị, Tam quốc chí, Hồng lâu mộng. Thế nhưng, chữ trinh đó đôi khi rất cực đoan, đôi khi lại bị xem quá nhẹ. Chữ trinh trong tác phẩm tiểu thuyết Kim Dung không nhẹ, cũng chẳng cực đoan. Nó phụ thuộc vào hoàn cảnh, thời điểm, số phận của từng nhân vật cụ thể. Kim Dung không lấy chữ trinh làm thước đo phẩm giá người phụ nữ. Những nhân vật nữ thất trinh của ông như Tiểu Long Nữ, Kỷ Hiểu Phù… khiến người đọc thông cảm, xót xa, kính trọng. Văn chương của Kim Dung đúng là một thứ văn chương nhân bản, nhân văn.

Hansy
21-04-2013, 12:29 PM
KIM DUNG
GIỮA ĐỜI TÔI

***

Vũ Đức Sao Biển

***

PHẦN 5



41. Bọn hào sĩ giang hồ ăn Tết
42. Bọn hào sĩ giang hồ tiếp thị
43. Hàng giả tống Vân Nam
44. Bức giác thư giã từ thế kỷ
45. Hành trình qua thống khổ
46. Đêm phương Nam đọc lại Ỷ thiên Đồ long ký
47. Sử kiếm ý, bất sử kiếm chiêu
48. Kiều Phong - Khát vọng của tự do
49. Khóc lên hỡi Nghi Lâm!
50. Vi Tiểu Bảo ở đâu?




http://sachkhaitam.com/files/product/879/4d79da2d-a9d1-4d36-a71d-6978ef8bd5b4.jpg

Hansy
22-04-2013, 12:08 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

41.
BỌN HÀO SĨ GIANG HỒ ĂN TẾT

Khái niệm "hào sĩ giang hồ" là một khái niệm khá đặc biệt mà người ta chỉ tìm thấy trong những tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung. Hán - Việt từ điển của Đào Duy Anh định nghĩa hào sĩ là "những người có thế mạnh hơn người". Trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, từ "giang hồ" (sông hồ) mang một ý nghĩa hết sức tượng trưng để chỉ những cuộc đời lênh đênh, trôi giạt; những con người chuyên sống bằng đường đao mũi kiếm, đứng trên và đứng ngoài những quy định vương pháp của các triều đại phong kiến Trung Quốc. Họ hình thành một giới: giới võ lâm.

Tính theo âm lịch, người Trung Quốc ăn 12 cái tết (tiết) trong năm: Nguyên đán (1 tháng giêng), Khai hạ (7 tháng giêng), Nguyên tiêu (15 tháng giêng), Hàn thực (3 tháng ba), Thanh minh (tháng ba), Đoan ngũ (5 tháng năm), Trung nguyên (15 tháng bảy), Trung thu (15 tháng tám), Trùng cửu (Trùng dương - 9 tháng chín), Trùng thập (10 tháng mười), Hạ nguyên (15 tháng mười), Táo quân (23 tháng chạp). Bọn hào sĩ giang hồ vốn là những hán tử thô hào, bồng bột, lãng mạn - nói theo ngôn ngữ Kim Dung, cũng "ăn tết" quanh năm.

"Gió xuân đầm ấm
Ngàn liễu xang tươi
Hoa phô sắc thắm
Hương nức lòng người"

"Tiết trời vào buổi dương xuân, ánh dương quang sáng lạn khắp miền nam". Đoạn văn ngắn trên đây của Kim Dung, mở đầu cho tác phẩm Tiếu ngạo giang hồ với những nét phác rất đơn giản, giới thiệu cho chúng ta thấy khung cảnh mùa xuân ở Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến, miền nam Trung Quốc. Trong khung cảnh đó, chàng trai Lâm Bình Chi của Phước Oai tiêu cục cao hứng dẫn bọn tiêu sư đi săn rồi vào quán bên đường uống rượu, gây ra cuộc ẩu đả với bọn phái Thanh Thành để rồi vướng vào những cuộc đấu tranh đẫm máu trong suốt chiều dài cuốn truyện.

Ăn tết không gì vui bằng rượu. Rượu của Trung Quốc vốn rất phong phú về nguyên liệu, về cách chưng và về tên gọi: Thiệu Hưng trạng nguyên hồng, Thiệu Hưng nữ nhi hồng, Trúc diệp thanh, Mai quế lộ, Bách thảo mĩ tửu, Hầu nhi tửu, Bồ Đào tửu, Cao lương tửu, Ngũ tiên tửu, Phần Dương tửu... kể cả Phục đặc gia tửu (rượu Vodka). Bọn hào sĩ giang hồ cứ thế mà uống, uống xong rồi tuốt kiếm giương đao nói chuyện phải quấy với nhau.

Lệnh Hồ Xung và Điền Bá Quang trong Tiếu ngạo giang hồ đấu với nhau trí mạng trên Tuý tiên lâu ngoại thành Hành Sơn để rồi trở thành bạn của nhau cũng qua chén rượu. Biết Lệnh Hồ Xung quý rượu hơn tính mạng, bọn hào sĩ giang hồ các bang, các đảo, các động tổ chức cuộc họp mặt ăn tết trên gò Ngũ Bá Cương để lấy lòng chàng và lấy lòng Nhậm Doanh Doanh, ý trung nhân của chàng. Ngũ Bá Cương thuộc về hạ lưu sông Hoàng Hà, giáp giới Hạ Trạch, Định Đào, phía Tây địa giới tỉnh Hà Nam, là nơi thuận tiện cho quần hùng bốn châu Tề, Lễ, Dự, Ngạc tụ hội. Bọn hào sĩ giang hồ bốn châu đã ăn cắp thuốc và bắt thầy thuốc về chữa bệnh cho Lệnh Hồ Xung; mang theo những bò khô, bò quay (?), đùi gà và cả chục loại rượu đủ cho 3000 người ăn để tiếp đãi chàng. Tất cả chỉ vì một mục đích: được bái yết tôn dung Lệnh Hồ Xung. Họ "ăn mặc kỳ dị, mặt mày dữ tợn", chuyên ăn những miếng thịt to, uống những bát rượu lớn, tưởng đâu chẳng biết sợ trời sợ đất là gì. Thế nhưng, nghe tiếng đàn tình tang của thánh cô Nhậm Doanh Doanh nổi lên, cả 3000 con người vứt chen bỏ tô hè nhau trốn sạch!

Gần như cuộc sống của giới võ lâm trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung chẳng thấy ai làm nghề nghiệp gì, nhưng họ lại có vàng, có bạc, quanh năm ăn uống no say. Khi Doanh Doanh ban lệnh buộc bọn hào sĩ giang hồ phải tìm cách giết Lệnh Hồ Xung thì bọn Lão Đầu Tử, Tổ Thiên Thu và Kế Vô Khả Thi vẫn tuân lệnh. Nhưng vốn đấu kiếm không lại Lệnh Hồ Xung, cả bọn 40 người nguyện dùng rượu ngon đổ cho Lệnh Hồ Xung say đến chết! Họ lý luận: "Cái đó kêu bằng dúng sức không được thì dùng trí" (?). Rồi từ 40 người, họ về kết bè phái lên tới 2000 người, bầu Lệnh Hồ Xung làm minh chủ, trống rong cờ mở tiến lên chùa Thiếu Lâm vào rằm tháng chạp để giải cứu Nhậm Doanh Doanh. Đi đến bất kì nơi đâu, bọn hào sĩ giang hồ cũng "ăn tết" thủng nồi trôi rế tới đó.

Có lẽ căn bệnh ăn nhiều uống lắm là căn bệnh phổ quát của con người. Biết làm sao được? Cuộc sống ngắn ngủi có 100 năm, lại sẵn rượu ngon nhắm tốt, không uống không ăn hoá ra cô phụ tấm lòng của cuộc đời dành cho mình lắm sao? Bọn hào sĩ giang hồ của Kim Dung lại là những nhân vật tự nhiên chủ nghĩa, hễ có là ăn uống ì xèo như ngày tết, không cần biết thức đó do ai làm và làm cho ai.

Trong Thiên Long bát bộ, có một đoạn tao ngộ khá vui: bọn Tần gia trại ở Hà Sóc vô tình chạm mặt bọn phái Thanh Thành ở Tứ Xuyên trong Tính hương tịnh xá của Đoàn A Châu tại Giang Nam. Mục đích chung của họ là tìm Mộ Dung Phục để trả thù. Trong khi bọn đệ tử Thanh Thành ăn chay, ngồi trơ như gỗ đá thì bọn Tần gia trại lại nhậu nhẹt tưng bừng. Chúng lấy hết những rượu hoa nhài, Mai Quế lộ, Mai hoa lộ do A Châu chưng cất ra uống, lại buộc lão Cố - đầu bếp của A Châu, phải xào nấu thức nhắm cho chúng thưởng thức. Để trả thù, lão Cố vừa nấu nướng vừa xỉ mũi, khạc nhổ đờm rãi vào thức ăn, "phục vụ" cho chúng anh hùng Tần gia trại!

Nếu hình thái ăn tết tập thể có vẻ lúi xùi, lộn xộn thì hình thái ăn tết cá nhân lại có vẻ đàng hoàng, trật tự hơn. Chúng ta có thể tìm gặp trong Thiên Long bát bộ hình ảnh của một người ngồi nhậu trên Tùng hạc lâu, thành Vô Tích, đất Giang Nam: "Một đại hán ngồi đầu mé tây, hai mắt sáng như điện, thân thể cao lớn, trạc ngoài 30 tuổi, phục sức có vẻ sơ sài mộc mạc, mặt vuông chữ điền, tướng mạo không tuấn tú nhưng oai phong lẫm liệt". Đó là Kiều Phong, bang chủ Cái bang Trung Quốc. Anh ta mời Đoàn Dự, vương tử nước Đại Lý đối ẩm với một mân thịt bò chín, một bát canh lớn và ba hồ rượu to, mỗi tô mười cân, mỗi cân tương đương 600 gram, vị chi khoảng 18 lít. Cả hai cưa đôi số rượu đó, tính ra mỗi người uống được 40 bát, tương đương chín lít. Chắc chắn là tác giả có thổi phồng con số này để khắc hoạ đậm nét thên hai hình tượng anh hùng của giới võ lâm thời nhà Tống.

Ở chừng mực nào đó, việc đối ẩm của giới võ lâm thể hiện những nét văn hoá nhất định, không phi văn hoá và tự nhiên chủ nghĩa như việc loạn ẩm của quần hào. Ta có thể tìm ra được những biểu hiện văn hoá như vậy trong cuộc gặp gỡ giữa Kiều Phong và Công Dã Can, trang chủ Huyền Sương trang trên Vọng giang lâu ở thành Giang Âm, thượng lưu sông Trường Giang. Kiều Phong và Công Dã Can, mỗi người bưng một bát rượu đầy, thách đấu với nhau ba chưởng. Qua hai chưởng đầu, Công Dã Can còn giữ được bát rượu trong tay. Qua chưởng thứ ba, anh ta không chịu nổi được sức mạnh của Kiều Phong, Công Dã Can chỉ than: "Tiếc quá, thực uống bát rượu ngon". Qua cấu nói đó, Kiều Phong đánh giá Công Dã Can là một anh hùng chân chính, một hảo hán tử.

Trong năm cách uống rượu (ẩm): độc ẩm, đối ẩm, cộng ẩm, quần ẩm và loạn ẩm thì cách loạn ẩm là lộn xộn nhất, lăng nhăng nhất. Bọn hào sĩ giang hồ vốn là những người ít học, lại văn vô đệ nhất, võ vô đệ nhị, ai cũng tự cảm thấy mình là bậc anh hùng, là con người siêu việt. Khi cả bọn họp mặt nhau lại, khó khăn lắm mới bâu ra được người thống lĩnh. Khổ thay, người thống lĩnh đó tài trí và võ công chưa chắc đà hơnai, lại không qua một trường huấn luyện chỉ huy nào nên đội ngũ được thống lĩnh vốn đã ô hợp lại càng thêm xộc xệch. Trường hợp của Ô Lão Đại thống lĩnh bọn quần tiên 36 động, 72 đảo gồm mấy ngàn người, tấn công lên núi Phiêu Miễu, cung Linh Thứu chống Thiến Sơn Đồng Mỗ trong Thiên Long bát bộ là như vậy. Bọn hào sĩ giang hồ này tự xưng là "tiên" nhưng thực ra chỉ là một đám ăn hại, võ nghệ tào lao mà đầu óc lại nông choèn. "Quần tiên" lên được tới cung Linh Thứu không thu được thắng lợi gì ngoài việc ăn uống thả dàn và phóng uế bừa bãi. Vụ "ăn tết" đó khiến cho cung Linh Thứu xú khí ngất trời xanh.

Gần như ai cũng công nhận rằng người Trung Quốc có kĩ thuật chế biến món ăn tinh vi, khoa học, xảo diệu và cầu kì nhất. Đọc Lộc Đỉnh ký, chúng ta biết được có trên 100 món hạt dưa, trên 100 món bánh mứt ăn chơi và cả ngàn món thức ăn mặn. Nhân vật được quyền ăn ngon nhất trong Lộc Đỉnh ký là nhà vua Khang Hy. Tuy nhiên, đúng như định đề Kim Dung đã rút ra: "Ở trên đời, hoàng cung và kĩ viện là hai nơi trá nguỵ nhất" cho nên trong cái ăn vẫn có những điều trá nguỵ buồn cười.

Trên nguyên tắc, đồ ăn thức uống nào ngon nhất, bổ nhất thì được dâng lên vua. Bọn trù phòng (đầu bếp) và bọn thái giám thường hợp đồng mua thực phẩm từ nhà thầu bên ngoài đưa vaò hoàng cung để chế biến. Tuy nhiên, cũng như muôn đời, cuộc sống vốn tồn tại cái gọi là tham nhũng mà trong kĩ thuật tham nhũng, bọn thái giám chính là tổ sư bồ đề. Cho nên, bất kì món thực phẩm nào đưa vào hoàng cung dẫu có ươn thúi đi nữa mà kèm theo được chút tiền lót tay thì món ấy mới xứng để dâng lên nhà vua và các hậu phi; món nào dù có tươi ngon đến mấy mà thiếu tiền lót tay cũng trở thành ươn thối.

Con heo được nuôi bằng những vật trân quý như Đậu hoàng Nhân sâm, Hoa điêu, Phục linh, có tên là Đậu hoàng nhân sâm trư, Hoa điêu phục linh trư được bọn quần hùng Thiên Địa hội làm sẵn, nhét người vào trong đó để đưa đến tổng quản thái giám Vi Tiểu Bảo (người của Thiên Địa hội làm nội tuyến trong hoàng cung). Bọn chúng giả vờ quên đưa tiền lót tay để Vi Tiểu Bảo chửi toáng lên, buộc đưa heo về phòng mình khám nghiệm và cứu người ra. Những món thịt heo trân quý như vậy ít khi đến miệng vua Khang Hy. Nó dùng làm thức đưa cay cho quí vị thái giám trù phòng và thị vệ dưới quyền Vi Tiểu Bảo. Ngay cả quần hùng Thiên Địa hội cũng được “ăn theo” nhiều món khoái khẩu mà chỉ có trong hoàng cung mới nấu nướng được.

Cho nên, quanh năm suốt tháng, những ai đi theo Vi Tiểu Bảo đều được ăn tết. Họ "ăn tết" từ hoàng cung ra đến quanh thành Bắc Kinh, từ Bắc Kinh đến Vân Nam, từ Vân Nam đến Dương Châu, từ Dương Châu đến biên giới Trung - Nga ở vùng Hắc Long Giang. Kiến thức về văn hoá thì Vi Tiểu Bảo khống có lấy một xu nhưng kiến thức về đánh bạc bịp, làm tiền và nhất là ăn uống thì Vi Tiểu Bảo là nhân vật siêu hạng.

Trong 12 bộ tiểu thuyết võ hiệp của mình, Kim Dung đã dành nhiều trang nói về các đồ ăn thức uống, cách chế biến, cách dùng. Có lẽ chủ nghĩa dân tộc cũng hằn sâu vào những trang sách này của ông: ông không che giấu được niềm tự hào khi nói về nghệ thuật ăn uống của người Trung Quốc, và đối với những đồ ăn thức uống của dân tộc khác, ông thường chê là hủ lậu. Và cũng có lẽ do âm vang lịch sử về nỗi thống khổ của dân tộc trong những năm Bát quốc liên quân tấn công triều Thanh, cuộc xâm lược của phát xít Nhật vào vùng Đông Bắc, những tao loạn trong quá trình đấu tranh Quốc - Cộng đã khiến cho hàng triệu người Trung Quốc đói rét lầm than nên Kim Dung đã hào phóng để cho bọn hào sĩ giang hồ trong tác phẩm võ hiệp của mình ăn tết thoải mái, không nhằm ngày tết cũng tiểu yến, đại yến như thường. Họ đi đến đâu là được ăn nhậu no say đến đấy mặc dầu thấy họ hiếm có nghề nghiệp, tiền bạc. Bọn hào sĩ giang hồ chỉ có được cái miệng rộng và cái dạ dày to. Hoặc giả đó cũng có thể là một mơ ước nhân bản của Kim Dung: mơ ước về một nền văn minh phồn thực tự nhiên. Ông mong đồng bào mình suốt đời được ăn ngon, mặc đẹp. Mà suy cho cùng, nếu được thảnh thơi ăn tết quanh năm thì loài người quả thật hạnh phúc.

Hansy
22-04-2013, 01:12 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

42.
BỌN HÀO SĨ GIANG HỒ TIẾP THỊ

Tiếp thị là một khái niệm hoàn toàn mới mẻ trong thời đại chúng ta. Cổ văn Trung Quốc không có hai từ tiếp thị. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là những hành động tiếp thị quảng cáo hoàn toàn không có trong các xã hội cổ đại Trung Quốc.

Bọn hào sĩ giang hồ trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung là những nhân vật được hư cấu từ thế kỉ thứ 10 (nhà Nam Tống) đến thế kỉ thứ 18 (triều Càn Long, nhà Thanh) ở Trung Quốc. Hoạt động chủ yếu của họ là sống trên đường đao mũi kiếm, hành hiệp cứu đời. Thế nhưng, điều đặc biệt là họ cũng biết “tiếp thị”, hiểu theo cái nghĩa là biết giới thiệu mặt hàng đến người mua và mua bán khá sòng phẳng.

Mở đầu bộ Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung để cho nhị đệ tử phái Hoa Sơn là Lao Đức Nặc dẫn con gái của sư phụ là Nhạc Linh San hoá trang và mạo danh là ông cháu, tìm xuống ngoại thành Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến sang lại tiệm bán rượu để theo dõi hành tung bọn phái Thanh Thành tiến đánh Phước Oai tiêu cục. Họ treo biển mới, gọi quán rượu của mình là Đại Bảo; Lao Đức Nặc xưng là lão Tát; Nhạc Linh San xưng là Uyển Nhi. Chính Lâm Bình Chi, người của Phước Oai tiêu cục, sau khi đi săn đã ghé quán Đại Bảo uống rượu sinh sự và giết con trai của chưởng môn phái Thanh Thành Dư Thương Hải tên là Dư Nhân Ngạn. Tiệm của Lão Tát luôn luôn có loại rượu Trúc diệp thanh danh tiếng. Thực ra, mua bán là chuyện phụ, chuyện chính của hai sư huynh muội là dòm ngó bộ kiếm phổ của nhà Lâm Bình Chi có bị phái ThanhThành đoạt mất hay không.

Tiếu ngạo giang hồ cũng có một đoạn tiếp thị khá tức cười. Lão ăn xin thành Hành Dương quảng cáo với Lệnh Hồ Xung rằng lão có loại rượu tên gọi Hầu nhi tửu do “Khỉ ở trong rừng Tương Tây biết hái trái cây làm rượu”. Vì khỉ hái quả rất tươi, rất ngọt nên chúng nấu rượu cực ngon. Lão ăn xin thừa lúc khỉ đi vắng, lén vào động khỉ ăn cắp ba hũ Hầu nhi tửu, lại bắt thêm một con khỉ nhỏ để về… nấu rượu. Lệnh Hồ Xung nghe lão quảng cáo, trả lão ba lạng bạc để xin một hớp Hầu nhi tửu. Nhưng hắn vận Hỗn nguyên khí công, một hớp của hắn uống cạn sạch nửa bầu Hầu nhi tửu của lão ăn xin khiến lão lăn ra kêu khóc, bắt đền.

Thỉnh thoảng, bọn hào sĩ giang hồ cũng có nghề nghiệp rõ rệt. Hà Tam Thất, cao thủ núi Nhạn Đãng tỉnh Triết Giang, chuyên nghề bán hoành thánh. Kim Dung giới thiệu: “Khắp hang cùng ngõ hẻm có hàng vạn người bán hoành thánh nhưng bán hoành thánh mà thân ở trong võ lâm giang hồ chủ có một mình Hà Tam Thất”. Lên Hành Sơn dự lễ rửa tay gác kiếm của Lưu Chính Phong với tư cách một thượng khách, Hà Tam Thất vẫn gánh gánh hoành thánh theo. Đệ tử phái Hoa Sơn ăn của lão bảy bát, phải trả cho lão bảy mươi quan tiền. Định Dật sư thái của phải Hằng Sơn nổi nóng đập bể của lão hai cái bát, hai chiếc muỗng phải đền cho lão mười bốn quan tiền. Hà Tam Thất đến nơi nào là nơi đó có tiếng gõ lốc cốc của hai thanh tre.

Tiếu ngạo giang hồ còn một nhân vật tiếp thị khá đặc biết: Hoạt bất lưu thủ Du Tấn, chuyên bán nguồn tin. Lão này võ công cao cường, tướng tá phì mỵ, chuyên đi nghe lén nguồn tin mật trong giang hồ rồi bán cho người khác để kiếm tiền. Lão ăn nói rất khiêm tốn: “Một sợi lông của các vị còn lớn hơn bắp đùi của tiểu đệ”. Nguồn tin mà ai nấy đền quan tâm là bộ Tịch tà kiếm phổ của Lâm Bình Cho lọt vào tay ai. Du Tấn đòi tám người mua trả giá nguồn tin này tám trăm lạng bạc nhưng chỉ có một người chịu đưa cho gã một trăm lạng. Cầm tiền xong, lão giả bộ ngó ra đường, la lớn: “Chao ôi, Đông Phương giáo chủ bao giờ người mới đến”. Ai nấy tranh nhau nhìn ra đường thì Du Tấn vận khinh công tột đỉnh, chạy trốn biệt. Hoá ra, lão là kẻ lừa đảo. Cho nên bọn hào sĩ giang hồ gọi lão là Du tẩm nê thu (con lươn tẩm trong dầu). Con lươn đã trơn, lại tẩm dầu còn trơn tuột hơn nữa; thật khó mà bắt được Du Tấn để lấy lại tiền. Mà có lấy được tiền thì đồng tiền ấy cũng sứt mẻ, trăm lạng chưa chắc còn được vài lạng bởi ngoại hiệu của lão là Hoạt bất lưu thủ (tiền không còn dính lại trong tay).

Cá biệt, hào sĩ giang hồ tiếp thị để tránh cho mình một nguy cơ, che giấu một bí mật. Hiệp khách hành có nhân vật Ngô Đạo Nhất võ công cao cường, sau khi ăn cắp được Huyền thiết lệnh, đã trốn về Hầu Giám tập tại phủ Khai Phong giả làm một bà già lưng gù bán bánh tiêu. Bọn Kim Đao trại nắm được tin ấy, đưa đầu lãnh Chu Mục xuống đánh Ngô Đạo Nhất. Trong lúc nguy cấp, Ngô Đạo Nhất nhét Huyền thiết lệnh vào trong chiếc bánh tiêu nóng hổi, mời kẻ đến đánh mình: “Đại gia ăn bánh ư? Một đồng một cái”. Gã hán tử giang hồ hất tay, chiếc bánh văng ra rảnh nước và được một chú bé ăn xin nhặt được. Bộ Hiệp Khách hành mở đầu với một màn tiếp thị oái oăm và bất ngờ như vậy.

Hoạt động tiếp thị được bọn hào sĩ giang hồ thực hiện đôi khi còn nhằm mục đích tìm ra kẻ thù để báo thù. Đó là chuyện được Kim Dung thuật lại trong Tố tâm kiếm tức Liên thành quyết. Địch Vân muốn tìm ra Vạn Khuê, kẻ đã giết sư muội của mình. Chàng quay về Giang Lăng, thấy bọn hào sĩ giang hồ đổ xô vào các hiệu sách tìm mua Đường thu tuyển tập đến nỗi không còn một bộ Đường thi tuyển tập nào. Biết họ mua tuyển tập này đề tìm ra câu mật ngữ chỉ đường đi tìm kho báu giá trị Liên thành và Vạn Khuê giết vợ cũng chỉ vì người vợ không chịu tiết lộ cho Vạn Khuê câu mật ngữ đó. Địch Vân nghĩ đến chuyện tiết lộ câu mật ngữ để tìm Vạn Khuê. Chàng mua vải trắng, mực tàu viết một đoạn mật ngữ: “Giang Lăng thành Nam, Tây Thiên Ninh tự, hoàng kim Phật tượng, hướng cho mô bái kiến thành chúc cáo…”

(Phía Nam thành Giang Lăng, hướng Tây chùa Thiên Ninh, có pho tượng phật bằng vàng, hướng về phía đó mà thành tâm vái lạy và cúc cáo…). Rồi chàng đem tấm vải đó treo ở cổng chính chợ Giang Lăng (như ta căng biểu ngữ quảng cáo bây giờ vậy). Quả nhiên, bọn hào sĩ giang hồ hay tin, tìm đến ghi lại dòng chữ đó. Vạn Khuê cũng đến, cải trang thành một gã nông dân nhưng Địch Vân vẫn nhận ra hắn. Kiểu “tiếp thị” như vậy thật mới mẻ; rất gần với hiện tượng “báo chữ to” trong lịch sử Trung Quốc hiệnđại. Trong Ỷ thiên Đồ long ký, Kim Dung kể chuyện đệ tử thứ ba của phái Võ Đang là Dư Đại Nham theo dõi bọn diêm tiêu (bán muối) của Hải Sa bang. Mỗi gã diêm tiêu gánh một đôi thùng đựng muối trắng xoá và qua chiếc đòn gánh bằng sắt, Dư Đại Nham mới biết được bọn này có võ công cao cường. Họ gánh muối đi từ Phúc Kiến qua Triết Giang, không hề bán cho ai. Nên nhớ vào thời Nam Tống, hạt muối rất quý với người Trung Quốc và thuế muối là một trong những loại thuế cao nhất. Ban đầu, Dư Đại Nham cho rằng đây là một tập đoàn buôn muối lậu nhưng khi họ bao vây một toà miếu cũ, hốt muối ném khắp sân và ném vào toà miếu thù Dư Đại Nham hiểu rằng loại muối của họ là muối độc. Và từ màn “tiếp thị biếu không” muối độc đó, Dư Đại Nham khám phá ra bí mật Hải Sa bang đang theo dõi để đánh lấy bảo đao Đồ long.

Nhiều nhân vật của Kim Dung đã “tiếp thị” cuộc đời mình trước đường đao mũi kiếm, coi cái chết nhẹ tợ lông hồng. Họ xả thân hành hiệp cứu đời, giúp người yếu đuối, trị kẻ gian tham, lập lại “công đạo”. Cái sinh tử, tồn vong với họ chỉ là một món đồ chơi trong cuộc chơi lớn. Kiều Phong, Lệnh Hồ Xung, Hư Trúc, Hồ Phỉ, Thạch Phá Thiên, Trương Thuý Sơn, Trương Vô Kỵ, Địch Vân, Quách Tĩnh, Dương Qua… là những con người như vậy. Và họ đã nhận lại được những “món lợi” lớn lao: danh dự và phẩm giá của người anh hùng phương Đông chân chính.

Hansy
23-04-2013, 12:33 AM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

43.
HÀNG GIẢ TỐNG VÂN NAM

Nhìn trên bản đồ Trung Hoa ngày nay, Vân Nam là một tỉnh phía Tây Trung Quốc, Nam giáp Việt Nam và Lào, Tây giáp Miến Điện (Myanmar). Dưới triều vua Khang Hy nhà Thanh, nhân vật đứng đầu cai trị vùng đất Vân Nam - Tứ Xuyên là Ngô Tam Quế, tước hiệu Bình Tây vương. Nguyên khi mới chiếm được đất nước Trung Quốc rộng lớn, người Mãn Châu gồm tám bộ tộc, mỗi bộ tộc có một màu cờ gọi là Bát kỳ, thống nhất tôn tộc Ái Tân Giác La (Aisin Gioro) làm lãnh tụ. Miền đất khởi nghiệp của họ chỉ gồm ba tỉnh Cát Lâm, Cáp Nhĩ Tân, Liêu Ninh (gọi là Đông tam tỉnh) với vài triệu người thì làm sao có thể cai trị được đất nước Trung Hoa với hàng trăm triệu người Hán tộc. Chính vì vậy mà thời Thuận Trị và sau này là thời Khang Hy, các hoàng đế Mãn Châu tích cực sử dụng những Hán gian, những tay sai đắc lực đã giúp người Mãn Châu tiến công vào Trung Quốc, bổ dụng họ thành những phiên vương (vua nước phên giậu) giúp nhà vua cai trị các vùng đất xa xôi (so với kinh đô Bắc Kinh).

Thời Khang Hy có tam phiên: Bình Tây vương Ngô Tam Quế cai trị Vân Nam - Tứ Xuyên; Bình Nam vương Thượng Khả Hỷ cai trị Phúc Kiến; Tĩnh Nam vương Cảnh Tinh Trung cai trị Quảng Đông. Ngô Tam Quế là phiên vương lớn nhất, binh lực gần bằng binh lực hoàng đế. Vua Khang Hy sinh năm 1654, lên ngôi năm 1662 (8 tuổi), thực sự cai trị năm 1667 (13 tuổi). Ông vua con này thực sự là một minh quân, biết nhìn xa trông rộng. Học theo phong cách cai trị của nhà Minh, Khang Hy muốn thực hiện một chế độ quân chủ trung ương tập quyền và muốn như thế thì truyện đầu tiên là phải triệt hạ tam phiên. Trong tam phiên, Khang Hy chỉ e dè có Bình Tây vương Ngô Tam Quế. Đó là những nét cơ bản trong canh bạc chính trị đầu đời Mãn Thanh trên đất Trung Quốc.

Lộc Đỉnh ký của nhà văn Kim Dung được xây dựng trên bối cảnh lịch sử thực tế đó. Khi nhà vua mới 15 tuổi, có một viên thái giám giả mạo đã lọt được vào hoàng cung ở Bắc Kinh, trở thành bạn nhỏ của nhà vua. Anh ta là Vi Tiểu Bảo, 13 tuổi, con một kỹ nữ thành Dương Châu. Vua Khang Hy có một cô em gái (trong truyện xây dựng là kết quả của mối tình thầm lén giữa một thứ phi của Thuận Trị hoàng đế với một nhân vật trong đạo Thần long ở Liêu Đông) tên là Kiến Ninh công chúa. Năm 15 tuổi, Vi Tiểu Bảo biết công chúa Kiến Ninh, bị cô tra tấn, đánh đập, hành hạ rất khổ sở. Kiến Ninh chỉ thua Vi Tiểu Bảo một tuổi nhưng cô rất hung ác, bạo ngược. Để tự cứu mình, Vi Tiểu Bảo đã bẻ trật khớp tay, đánh đập, thậm chí lấy đèn đốt cháy da ngực công chúa. Kim Dung xây dựng nhân vật Kiến Ninh là một người mắc chứng khổ dâm (Masochisme-perversion dans laquelle le sujet recherche le plaisir sexuel dans la douleur: trạng thái bệnh lý mà trong đó chủ thể chỉ tìm thấy được khoái lạc tình dục trong sự đau đớn thân xác). Cho nên khi Vi Tiểu Bảo đốt cháy ngực Kiến Ninh, lấy roi đánh cô thì cô lại: "miệng cười chúm chím" lại còn động viên: "Xin tướng công đánh mạnh vào" miễn là đừng gây thương tích trên mặt cho cô. Và đôi thiếu niên đó đã sớm quan hệ tình dục với nhau ngay trong hoàng cung có tiếng là thâm sâu nghiêm cẩn nhất của các triều đại quân chủ Trung Quốc!

Cô công chúa 14 tuổi sống cạnh gã thái giám giả, không còn là một cô gái trong trắng nữa. Tất nhiên vua Khang Hy không biết được điều đó. Tham vọng của nhà vua là làm sao triệt hạ được tam phiên và đặc biệt đối với Ngô Tam Quế - đại phiên vương, phải được thực hiện cho được một giải pháp chính trị an toàn. Nhà vua đánh một nước cờ theo cách các vua Trung Quốc ngày xưa: dùng nữ sắc. Khang Hy tuyên bố gả ngự muội là Kiến Ninh công chúa cho Ngô Ứng Hùng, con trai của BÌnh Tây vương Ngô Tam Quế để đôi bên kết thông gia cùng chia nhau hưởng phú quý. Nước cờ đó của vua Khang Hy thật cao cường: vừa loại được cô em gái bạo ngược ra khỏi hoàng cung, xoá lấp được điều xấu xa khỏi dư luận cung cấm; vừa đánh lạc hướng Ngô Tam Quế để củng cố binh lực Thanh triều, đủ sức đối phó nếu Ngô Tam Quế làm phản. Vi Tiểu Bảo được nhà vua tin yêu, phong làm Tứ hôn sứ, có nhiệm vụ đưa Kiến Ninh công chúa vượt mấy chục ngàn dặm từ bắc Kinh đến Vân Nam để gả cho Ngô Ứng Hùng.

Theo pháp luật và đạo đức các triều đại quân chủ ở Trung Hoa, trinh tiết của người phụ nữ được coi là tiêu chuẩn hàng đầu, tiêu chuẩn quyết định đời sống lứa đôi. Một cô gái bình thường thất trinh đã là một trọng tội huống chi một cô công chúa vị thành niên là ngọc cành vàng, lại là dâu tương lai của một phiên vương đứng đầu các phiên vương? Vua Khang Hy, Ngô Tam Quế, Ngô Ứng Hùng và nhân dân Trung Hoa thời ấy đâu biết được truyện động trời ấy của Kiến Ninh công chúa. Chỉ có Vi Tiểu Bảo và Kiến Ninh công chúa biết chuyện. Vậy là món hàng giả Kiến Ninh công chúa, cô gái lá ngọc cành vàng được hoàng thượng và thái hậu rất cưng chiều, được tống tiễn về Vân Nam. Đoàn người đưa công chúa đi đều cho Vi Tiểu Bảo là thái giám thứ thiệt. Thế nhưng hắn chưa bao giờ "tĩnh thân" thì làm sao gọi là thái giám. Vi Tiểu Bảo là một thứ thái giám giả mạo. Cả hai thứ hàng giả mạo gặp nhau, cùng đi hết tháng này qua tháng nọ, biến hành cung của công chúa điện hạ thành chỗ ái ân đầm đìa ngay trước mũi của thiên hạ. Nghệ thuật hài hước của Kim Dung trong văn chương đã được phát triển đến tột độ, khó tìm thấy được trong bất kỳ một tác phẩm văn học hài hước nào từ trước đến nay! Tác giả cũng chua chát nhận xét: "Con người thiếu niên vừa biết mùi nam nữ chung chạ mà nàng công chúa kiều mỵ kia lại dùng thiên binh vạn trạng để quấn quít lấy gã thì còn dứt tình sao được". Cho nên, quân sĩ tiền hô hậu ủng đi về Vân Nam thì cứ đi, riêng Đô thống, Tứ hôn sứ suốt ngày cứ nằm lì trong phòng công chúa.

Làm sao để giải quyết hậu quả không lường khi Ngô Tam Quế phát hiện ra sự thật kinh thiên động địa là Kiến Ninh công chúa không còn gái trinh? Phản ứng của chàng phò mã Ngô Ứng Hùng sẽ như thế nào nếu biết được thái giám giả Vi Tiểu Bảo đã biến vợ mình thành hàng giả? Người Trung Quốc đã có những thứ mà Nguyễn Du từng đề cập trong Truyện Kiều: "Nước vỏ lựu, máu mào gà" nhưng cả Vi Tiểu Bảo và Kiến Ninh đều còn trẻ con, không thể biết được hai món chết người đó. Tác giả Kim Dung giải quyết một cách khác, kinh khủng hơn.

Đưa Kiến Ninh tới Vân Nam, Vi Tiểu Bảo bàn với Bình Tây vương Ngô Tam Quế coi ngày tốt, giờ tốt để tổ chức lễ cưới cho vừa long trọng, vừa rạng danh Bình Tây vương lại vừa đẹp lòng Khang Hy, vừa vinh dự cho Ngô Ứng Hùng lại vừa xứng đáng với địa vị cao cả của Kiến Ninh. Vi Tiểu Bảo cứ kéo dài thời giờ ra để còn tiếp tục đêm đêm còn vào phòng Kiến Ninh nữa chứ. Bản thân Kiến Ninh thì chỉ muốn sống với Vi Tiểu Bảo và ra lệnh cho Vi Tiểu Bảo tìm mọi cách để hạ sát gã tiểu tử Ngô Ứng Hùng. Nếu Ngô Ứng Hùng mà cưới cô, cô sẽ khai ra với nhà vua huỵch toẹt mọi chuyện! Mâu thuẫn được đẩy lên đến đỉnh điểm, có nguy cơ làm bùng nổ sớm cuộc tạo phản của Ngô Tam Quế.

Thế nhưng... Vi Tiểu Bảo đến thăm Ngô Tam Quế, được họ Ngô tặng cho hai khẩu súng lục của người Nga (Kim Dung gọi là La Sát Hoả khí; người Hán thời ấy gọi là Tây dương hoả khí). Vi Tiểu Bảo đưa tặng Kiến Ninh một cây, dạy cô cách dùng súng. Trong một đêm Ngô Ứng Hùng tuần phòng chữa cháy, Kiến Ninh đã cho gọi Ứng Hùng vào phòng riêng, dùng súng uy hiếp hắn phải đứng yên rồi bắn vào bộ phận sinh dục của hăn. Cô tự xé áo mình để vu cáo cho Ngô Ứng Hùng đã muốn cưỡng bức tình dục đối với cô. Sự kiện động trời đó xảy ra khiến Ngô Tam Quế sợ vỡ mật, vừa đau đớn vì con, vừa sợ mang tiếng với dư luận hai tỉnh Vân Nam - Tứ Xuyên. Lão phải đem bạc đút lót cho bọn thân binh từ Bắc Kinh đưa công chúa tới để mọi người khỏi tâu lên Khang Hy hành vi càn rỡ, đại nghịch khi quân của Ngô Ứng Hùng. Và lão tổ chức gấp đám cưới; pháo nổ khét lẹt cả thành Côn Minh để dàn cảnh cho cuộc "trăm năm hạnh phúc" của lứa đôi Kiến Ninh - Ứng Hùng. Hơn ai hết; Ngô Tam Quế, Ngô Ứng Hùng, Kiến Ninh, Vi Tiểu Bảo đều biết đám cưới kia là hàng giả.

Luật của Trung Quốc buộc cưới xong, đôi vợ chồng mới phải hoàn hôn. Ngô Ứng Hùng và Kiến Ninh phải quay về Bắc Kinh để lạy tạ vua Khang Hy và thái hậu. Đây là một nước cờ khác của Khang Hy nhưng nhà vua không bàn cho Vi Tiểu Bảo biết; ông muốn bắt giữ Ngô Ứng Hùng làm con tin để đủ thời giờ nhờ các tu sĩ dòng Tên phương Tây chế tạo súng đại bác, đối phó với cuộc tạo phản của Ngô Tam Quế. Ngô Ứng Hùng về Bắc Kinh được phong phò mã, được cấp phủ đệ xinh đẹp. Hắn có tất cả, trừ một thứ: được chung chăn gối với Kiến Ninh. Khổ thay, chuyện ấy đã có bá tước Vi Tiểu Bảo làm thay.

Viết bộ Lộc Đỉnh ký, Kim Dung muốn viết về những món hàng giả của Trung Quốc: những con người giả mạo. Vi Tiểu Bảo là thái giám giả, công chúa Kiến Ninh là cô gái lá ngọc cành vàng giả, Ngô Ứng Hùng là phò mã giả mà Ngô Tam Quế cũng là bậc "trung thần" giả. Bản thân hoàng đế Khang Hy cũng là một vị vua nhân từ giả mạo. Mạt cưa, mướp đắng gặp nhau: Lộc Đỉnh ký quả là một siêu phẩm về sự giả mạo. Nhưng nó có một chất rất thật, rất đời mà không một tác phẩm nào có được, kể cả những tác phẩm khác của Kim Dung: mặt sau của tấm huy chương đạo đức Trung Hoa trong thế kỷ 17.

Lịch sử Thanh triều ghi rõ: năm 1677, Ngô Tam Quế nổi loạn ở khu vực Động Đình hồ, chiếm Tứ Xuyên và Vân Nam, xưng là Ngô quốc công. Tay đại Hán gian này dựng cờ, truyền hịch "Hưng Minh thảo Lỗ" (khôi phục lại nhà Minh và bài trừ rợ Mãn Châu). Nhưng chính sách cai trị nhân từ, sáng suốt của Khang Hy đã thu phục được lòng dân Trung Quốc; không có ai ủng hộ Ngô Tam Quế. Ngô Tam Quế lên làm vua ba tháng thì mất; Khang Hy chặt đầu Ứng Hùng, bình định được miền Tứ Xuyên - Vân Nam.Triều Khang Hy được coi là triều đại cực thịnh của nhà Thanh trên đất Trung Quốc.

Hansy
23-04-2013, 06:34 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

44.
BỨC GIÁC THƯ GIÃ TỪ THẾ KỶ

Cuộc tình anh với em
Chỉ còn giây phút thôi
Thì tình xin sáng tươi
Tựa ngàn tia nắng rọi
(Lời một bài hát)

Lần đầu tiên, lần thứ hai, lần thứ ba… tôi cứ ngỡ đọc tác phẩm của Kim Dung là đi tìm một thế giới khác ngoài thế giới thực tại – một “thiên ngoại hữu thiên”, - để trốn vào trong đó. Tôi cứ cho rằng thế giới của tiểu thuyết võ hiệp là một thế giới viễn mộng và nó trở thành tháp ngà cho chính mình, giúp mình lãng quên thực tại. Trong tâm phân học, Sigmund Freud đã nói cảm xúc (émotion) như một trò ảo thuật nhằm hư vô hoá hoàn cảnh, giúp cá nhân từ chối hoàn cảnh. Thí dụ như trước một con cọp dữ, tôi không làm gì được nó, vậy tôi ngất xỉu để quên nó đi, để coi nó như không có trên đời. Tôi cũng đã một thời coi chuyện đọc tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung là một màn ảo thuật giúp tôi hư vô hoá hoàn cảnh, giúp tôi lãng quên đời.

Thế nhưng, đến tuổi tri thiên mệnh, tôi mới nhận ra được rằng ý nghĩ đó là sai lầm. Phải, Kim Dung sáng tạo ra một thế giới mới - thế giới võ hiệp – nhưng phiêu lưu vào thế giới đó, tôi hoàn toàn không hề lãng quên đời mà ngược lại, tôi càng thấy cuộc đời hiện thực gần gũi hơn, thân thiết hơn. Đọc những tác phẩm tiểu thuyết hiện thực ngày nay, tôi bỗng cảm thấy cuộc đời xa cách quá. Ngược lại đọc tiểu thuyết của Kim Dung, tôi thấy võ lâm sao mà quen thuộc quá, quen thuộc như chính tôi đang sống, đang góp mặt trong đó. Hoá ra, có hai thứ hiện thực; một hiện thực được hư cấu bay bổng tuyệt vời rất gần gũi với từng số phận con người; một hiện thực bị bóp méo qua cái nhìn hạn hẹp và sự gia công chưa tới của nhà văn khiến nó trở thành ốc đảo, lẻ loi, hoàn toàn xa lạ với đám đông, trong đó có tôi.

Võ lâm là gì? Đó là một xõ hội có những von người công chính, ngau thẳng, khao khát lập lại sự công bằng, trừ khử cái ác, kêu gọi lòng thương yêu quý trọng phẩm giá con người, làm sáng lên phẩm giá con người. Đó cũng là một xã hội mà cái ác, cái xấu còn đang ngự trị; những nguỵ quân tử đang đóng vai những người quân tử để lừa bịp thiên hạ mưu cầu hạnh phúc và quyền lực cho bản thân. Đó là một xã hội mà sự đấu tranh giữa cái thiện và cái ác khá rõ, nhưng đôi khi do định kiến sai lầm, người ta lẫn lộn cái thiện là cái ác, cái ác là cái thiện,làm nảy sinh sự mâu thuẫn trong chính nhận thức của từng người qua từng thời điểm khác nhau. Tất nhiên cái thiện sẽ thắng cái ác, cuộc sống sẽ vươn tới cái tốt đẹp nhưng để có được tương lai đó, người ta phải trải qua thiên ma bách chiết, trong đó có sự tự chiến thắng chính cái xấu của mình. Võ lâm là gì? Đó là một xã hội sống để yêu thương nhau, để bày tỏ tấm lòng với nhau, để cho nhau, riêng cho nhau một đời một kiếp. Đó là một xã hội mà càng thâm nhập ta càng cảm thấy gần gũi hơn.

Có một lần, tôi đứng trước hiên nhà và quan sát đoá phù dung. Buổi bình minh hoa trắng mịn màng như làn da của một em bé đẹp. Buổi trưa hoa chuyển màu hồng. Buổi chiều hoa có màu tím bầm rồi sau đó hoa tàn đi. Ai cũng bảo đời hoa phù dung ngắn ngủi, bất hạnh. Nhưng hãy nói ngược lại, bản thân đời sống ngắn ngủi bất hạnh đó vẫn đem lại cho cuộc sống một vẻ đẹp độc đáo mà ngàn hoa khác không thể mang lại được. Đặng Thế Phong chỉ sống có ngoài ba mươi tuổi, để lại cho đời ít nhất hai ca khúc bất hủ. Có người sống năm saú chục năm tuổi, viết hàng trăm ca khúc mà vẫn nhàn nhạt lửng lơ. Có người sống đến bách niên mà chẳng để gì lại cho đời ngoài hai từ trường thọ. Ta chọn ai, người làm đẹp cho cuộc đời mà yểu mệnh hay người chẳng làm cho đời đẹp mà sống lâu? Ta chọn hai ca khúc bất hủ hay một trăm ca khúc nhàn nhạt?

Chưa bao giờ tôi nghĩ người cầm bút viết văn là người giáo dục cho đời. Hễ khi người ta dùng văn chương lên gân dạy đời thì người ta chẳng dạy được ai cả (và cũng chẳng ai muốn đọc cả). Văn chương chỉ đơn giản là một thứ trò chơi, trò vui. Ông Hàn Dũ nói “Văn dùng để chở đạo” (Văn dĩ tải đạo) là một cách nhắc nhở cho người cầm bút phải viết văn đứng đắn, có ích cho đời chứ không phải dạy đời. Văn chương đơn giản chỉ là thứ bông hoa chưng cho đẹp. Trong quan niệm đó, tôi chỉ viết văn để cho đời giải trí, kể cả toàn bộ tập Kim Dung giữa đời tôi cũng chỉ để cho bạn đọc giải trí. Thảng hoặc, trong hàng ngàn trang sách kia, bạn bắt gặp được đôi ba cụm từ đắc ý hoặc may mắn tìm thấy vài kiến thức nho nhỏ thì tôi cũng đã lấy làm hạnh phúc lắm rồi. Tôi chỏ mong đem lại những giây phút giải trí cho bạn đọc. Một ngày đầy những lo âu, căng thẳng, buồn bã; cầm quyển sách lên đọc trăm trang, liên tưởng đến một thế giới khác, sống với một tâm trạng khác, như vậy quyển sách đã có ích cho đời.

Tôi vẫn sợ mình sông thừa sống uổng. Ngay trong những giây phút đau đớn nhất của đời mình, tôi vẫn muốn làm thêm một cái gì cho đời, cho người. Cái lưng đau kinh khủng, phải trích Dectancyl vào tuỷ sống; các bác sĩ dặn bớt ngồi, phải nằm nghỉ nhiều. Nhưng tôi nằm nghỉ sao được. Tôi đóng chặt cửa phòng bệnh, viết một ngày mười hai tiếng đồng hồ. Viết cái gì? Viết Kim Dung giữa đời tôi.

Điều đáng sợ nhất đối với con người là sự cô đơn. Một số nhân vật của Kim Dung tàn tạ, chìm khuất trong nỗi cô đơn. Đó là Hà Túc Đạo, Tiểu Long Nữ, Dương Qua, Lâm Triều Anh, Vương Trùng Dương, Kiều Phong, Đinh Điển… Vốn xưa họ có một tình yêu, một người yêu nhưng rồi cuộc sống chia xa đôi lứa. Và rồi, họ mất đi một nửa của chính mình, cô đơn suốt quãng đời còn lại. Thật hạnh phúc cho những lứa đôi được sống bên nhau: Hư Trúc và Ngân Xuyên, Lệnh Hồ Xung và Nhậm Doanh Doanh, Địch Vân và Thủy Sinh, Hồ Phỉ và Miêu Nhược Lan… Thật hạnh phúc cho những lứa đôi được chết bên nhau: Thuý Sơn và Hân Tố Tố. Tình yêu cứu vãn thế giới chứ không phải là một thứ gì khác.

Có bao giờ người nhìn thấy chân mây trắng vương vấn trên đỉnh núi kia? Nó có đấy nhưng cũng không có đấy. Nó vương trên đỉnh núi rồi sẽ bay đi, sẽ tan đi nếu có một tác động ngoại lai của gió của nắng. Người có bao giờ soi bóng trên nguồn suối giữa rừng đại ngàn? Nó có đấy, cái bóng dáng tươi đẹp kia mà cũng chẳng có đấy. Cuộc sống của con người cũng vậy, có đấy mà cũng chẳng có đấy. Nó ngắn ngủi vô cùng, hữu hạn vô cùng. Tại sao không nhìn nhau bằng một ánh mắt dịu dàng, không nói với nhau một lời đằm thắm. Ngày mai, khi giã từ cuộc sống nào ai có mang được gì theo đâu.

Triệu Mẫn thương yêu Trương Vô Kỵ. Cô đã đột ngột cầm tay Trương Vô Kỵ cắn một cái, hy vọng dấu răng sẽ gây thành vết thương, vết thương sẽ mãi mãi còn trên da thịt để một ngày mai, lỡ có xa nhau, Vô Kỵ nhìn thấy dấu vết trên tay mình là vẫn nhớ đến Triệu Mẫn. Sự tỏ tình của cô gái Mông Cổ quả thật độc đáo, đầy sáng tạo, rất phàm tục nhưng cũng rất thi vị. Từ đó suy ra, ai gây cho ta một chân thương tâm hồn hay thể xác, ta sẽ nhớ mãi người ấy suốt đời. Vâng suốt đời, hỡi cỏ thơm của đời tôi.

Bồng Sơn là một thị trấn nhỏ của tỉnh Bình Định, nằm trên Quốc lộ 1A. Từ đây, nhìn về phía Tây là núi An Lão, chìm trong mây mù, sương phủ. Tôi qua Bồng Sơn một chiều mùa đông lặnh căm căm, trong căn phòng trọ uống ly rượu chát đỏ và nghĩ đến đoạn Tiểu Siêu chia tay Trương Vô Kỵ. Và tôi làm thơ:

Gần cuối năm 49
Rằng: Nguyên tiêu, trăng đã sáng trên đồi
Chờ với nhé, người ơi chờ ta nhé
Như thuở ấy đôi lòng còn rất trẻ
Nhìn hoàng hôn mà cứ ngỡ bình minh
Khi heo may phong kín cuộc hanh trình
Ta ghé lại bên đời phơi chiếc áo
Và chợt thấy một ngàn hoa thạch thảo
Mở một lần để tàn lụi một ngày
Biển ở bên kia, sóng vỗ bên này
Bởi trái đất vẫn xoay cơn mộng mị
Ta gọi lại cuối nóc lòng thế kỉ
Mà trọn đời không thấy một âm vang
Con ngựa già lên đỉnh dốc lầm than
Gặm cọng cỏ thơm mùa xuân bát ngát
Để đủ sức mà cât cao tiếng hát
Rằng: chờ ta về hỡi Nguyên tiêu
Trời xa xanh lồng lộng bóng mây chiều
Ai bay được như ánh hồng Trang Tử

Sau bài thơ là những chuỗi ngày tháng u buồn. Trong nỗi cô đơn tuyệt vời, tôi tìm đến với tác phẩm Kim Dung nhiều hơn, chia sẻ với các nhân vật, các số phận trong tác phẩm của ông sâu sắc hơn.

Rồi sẽ có một ngày, tôi như cánh chim bay khỏi bầu trời này. Thế kỉ đang ở trong chiều tàn, trong hoàng hôn, trong chạng vạng tối. Người ta cho rằng nói đến cái chết là bi quan, tiêu cực. Không phải vậy đâu. Tôi nghĩ rằng ai dám nhìn vào số phận con người, số phận của chính mình, làm hết trách nhiệm của một con người với cuộc sống rồi thu xếp hành trang, chờ đến lúc cánh cửa hư vô mở ra, lên đường trở về với hư vô là người can đảm. Trương Thuý Sơn, Hân Tố Tố, Huyền Nhạn, Huyền Khổ, Kiều Phong, A Tử đã lên đường. họ ung dung ra đi như đã tình cờ đến với cuộc đời này, mến trải đủ bao nhiêu buồn vui sướng khổ. Sinh, Lão, Bệnh, Tử là một vòng tuần hoàn đương nhiên mà loài người phải kinh qua, nào có chi để đáng ta phê phán tích cực hay tiêu cực, bi quan hay lạc quan.

Thế kỉ này đang tung nắng ban chiều
Cho lòng người bâng khuâng nhớ nhau
Trước cửa trăm năm rất mơ hồ
Còn một ngày vui bao nỗi vui.

Có một chiều, tôi trở về căn nhà lạnh giá, bên ngoài mưa rơi. Loài người đâu rồi? Sao tôi ở lại một mình giữa gối chăn lạc lõng? Tôi đi tìm sự cứu rỗi, sao chỉ gặp nỗi cô đơn?

Cuộc tình anh với em
Chỉ còn giây phút thôi
Thì tình xin sáng tươi
Tựa ngàn tia nắng rọi.

Tôi không không có ngàn tia nắng. Tôi chỉ mong có một tia nắng rọi. Cuối thế kỉ rồi, đêm tối đang đến để ngày mai có một bình minh khác lên. Tôi mơ một tiếng hát, một cung đàn hoà bình trung chính như khúc Tiếu ngạo giang hồ vang lên trong cuộc sống.

Ngày mai, thế kỉ 21 sẽ tới, thiên niên kỉ thứ ba của loài người sẽ tới. Tôi đứng ở chiều vàng cuối thế kỉ, nhìn lên đỉnh thiên thu và tự hỏi tôi là ai, từ đâu tới, ngày mai sẽ về nơi đâu.

Hansy
25-04-2013, 03:00 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

45.
HÀNH TRÌNH QUA THỐNG KHỔ

Mỗi người đều có một đời sống riêng, đi trên một con đường. Nếu đời sống là một cuộc hành trình thì mỗi cuộc hành trình đều có bản sắc của nó, không ai giống ai, không kinh nghiệm nào trùng lắp kinh nghiệm nào. Khi xây dựng những nhân vật trung tâm trong tiểu thuyết của mình, Kim Dung đã khắc hoạ cuộc hành trình riêng của từng nhân vật. Hồ Phỉ (Tuyết Sơn phi hồ), Lệnh Hồ Xung (Tiếu ngạo giang hồ), Dương Qua (Thần điêu hiệp lữ) Trương Vô Kỵ (Ỷ thiên Đồ long ký), Kiều Phong (Thiên Long bát bộ), Thạch Phá Thiên (Hiệp khách hành)… không nhân vật nào giống nhân vật nào. Thế nhưng, qua những kiếp người đặc thù ấy, người đọc lại nhận ra một mẫu số chung: mỗi nhân vật trung tâm trong tiểu thuyết Kim Dung đều có chỗ giống nhau bởi họ đã hành trình qua thống khổ, đã từng đi qua những con đường đau khổ.

Hồ Phỉ mới được sinh ra 3 ngày thì cha mẹ chết hết, may mắn nhờ một gã tiểu nhị trong quán cơm bồng chạy trốn kẻ muốn giết hại. Chàng trai côi cút lớn lên, học được đường Hồ gia đao pháp của cha truyền lại, cưỡi con ngựa đi từ Sơn Đông vào Trung Nguyên tìm kẻ thù giết cha. Oái oăm làm sao, khi tìm ra kẻ cần tìm thì Hồ Phỉ mới hiểu được người ấy không phải là kẻ đã giết cha mình. Lưỡi đao đưa lên, lấp lánh dưới bóng trăng lạnh nhưng Hồ Phỉ không nỡ xuống tay. Tư tưởng của Hồ Phỉ có sự đấu tranh mãnh liệt; lưỡi đao cứ lơ lửng như vậy. Vì vậy, tác phẩm còn có một cái tên rất ấn tượng: Lãnh nguyệt bảo đao.

Lệnh Hồ Xung lại là một trường hợp khác. Hắn là một cô nhi, được đưa về Hoa Sơn, trở thành đại đệ tử của Nhạc Bất Quần. Hắn tôn Nhạc Bất Quần như cha, Ninh Trung Tắc như mẹ và coi Nhạc Linh San như cô em gái thân yêu. Lớn lên, hắn yêu Nhạc Linh San và càng thêm kinh trọng sư phụ, sư mẫu. Thế nhưng, Nhạc Linh San đã phụ tình hắn, chạy theo gã tốt mã nhà giàu Lâm Bình Chi; sư phụ hắn lại vu cáo hắn ăn cáp Tịch tà kiếm phổ của họ Lâm, đuổi hắn ra khỏi sư môn, lại rao khắp võ lâm nhờ mọi người tru diệt hắn. Trời đất bao la mà hắn không tìm ra một chỗ để nương thân. Nỗi đau thương trong suốt cuộc hành trình làm người của hắn đạt đến độ cùng cực của kiếp người. Nếu không có tình yêu vĩ đại của thánh cô Nhậm Doanh Doanh, chắc hắn đã chết đi tầm thường và bình thường như cây như cỏ. Cuối cùng, hắn rủ bỏ tất cả để được cùng Doanh Doanh song tấu khúc Tiếu ngạo giang hồ, sống ung dung tự tại để được làm con người tự do.

Trương Vô Kỵ lại đi qua một con đường thống khổ khác. Mới 10 tuổi, hắn đã phải chứng kiến một cảnh cực kỳ đau đớn: cả cha mẹ đều tự tử trên núi Võ Đang. Bản thân hắn bị trúng một chưởng âm hàn, tưởng đã chết nếu không được thần y Hồ Thanh Ngưu chữa trị. Rồi hắn làm một cuộc phiêu lưu vạn dặm lên tận Quang Minh Đính trên dãy Thiên Sơn, trở thành giáo chủ Minh giáo Trung Quốc. Lòng hắn trong sáng như gương; hành vi hắn anh hùng hơn bất cứ một anh hùng nào nhưng hắn vẫn bị đời nguyền rủa là dâm tặc, ác nhân, tà ma ngoại đạo. Hắn dành cả đời mình cho sự nghiệp chống quân Mông Cổ xâm lăng, giành lại đất nước cho Hán tộc. Nhưng rồi hắn đau đớn khám phá ra sự bất trung, bất nghĩa của Chu Nguyên Chương, một thuộc hạ cùng hắn mưu đồ sự nghiệp lớn. Hắn lặng lẽrời hàng ngữ khởi nghĩa, dắt tay Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ, cô quận chúa Mông Cổ xinh đẹp, ra đi. Cuối cùng, hắn làm một công việc thú vị và rất đàn ông: kẻ lông mày cho người tình Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ.

Nhưng bi kịch nhất trong những số phận bi kịch phải nói đến Kiều Phong (Thiên Long bát bộ). Kiều Phong tên thật là Tiêu Phong, người Khất Đan; cha mẹ bị người Hán giết hại ngoài Nhạn Môn Quan. Ấy vậy mà Kiều Phong được người Hán đưa về nuôi dưỡng, Hán hoá, đổi lại họ Kiều, đưa lên làm Bang chủ Cái bang Trung Quốc, nhận sứ mệnh chiến đấu chống lại người Khất Đan. Niềm đau đờn của Kiều Phong là khi ông bị thuộc hạ tố cáo là quân Khất Đan mọi rợ và nhận ra mình chính là người Khất Đan. Hoá ra, ông đã từng đánh giết và chủ trường đánh giết những người cùng dân tộc với mình. Niềm mđau thứ hai là ông đã xuống tay giết lầm người tình Đoàn A Châu, người đã nguyện cùng công về bên kia Nhạn Môn Quan săn chồn đuổi thỏ.

Cơ duyên lạ lùng đã đưa ông về Khất Đan (Liêu quốc), được phong làm Nam viện đại vương, thống lĩnh binh quyền nước Liêu, đóng tại Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay). Vua Liêu ra lệnh cho ông đánh Trung Quốc; nghĩ đến trăm họ lầm than, triệu dân đau khổ, Tiêu Phong (tức Kiều Phong) đã chống lệnh hành quân. Vua Liêu xem ông là kẻ phản nghịch. Ở Trung Quốc, ông là tên chó Liêu mọi rợ. Về nước Liêu, ông là kẻ phẩn vua, phạm thượng. Hành trình thống khổ của Tiêu Phong đã đạt đến đỉnh điểm, cần đến sự giải thoát phi tự nhiên. Ông phải sử dụng đến cái tự do cuối cùng của kiếp người để tự xử lấy mình trước Nhạn Môn Quan.

Kim Dung đã để cho những nhân vật trung tâm của mình kinh qua những đau đớn về thể chất và tinh thần của kiếp người. Gần như ông muốn chứng minh một định đề cơ bản của Phật giáo: đời là bể khổ. Có những nhân vật kết thúc hành trình thống khổ bằng cách tự xử lấy cuộc đời mình như Kiều Phong, Trương Thúy Sơn. Kim Dung viết đến những đoạn mà các nhân vật của ông tự chọn lấy cái chết khiến người đọc đau đớn, bùi ngùi, khóc ngay trên trang tiểu thuyết.
Tôi cho rằng một thứ văn chương như vậy là sòng phẳng và công bằng. Tiểu thuyết của Kim Dung nói đến cuộc sống, tình yêu, sự thống khổ và cái chết đều đáng để người ta quan tâm đọc và suy ngẫm. Kim Dung đã vượt qua chủ nghĩa công thức sơ lược khi xử lý kết thúc tác phẩm mà hàng trăm nhà văn Minh – Thanh đã thực hiện. Tôi nhận ra ở tiểu thuyết Kim Dung tính chất nhân bản, nhân văn rất gần gũi với cuộc sống của mỗi kiếp người.

Một điều cần nhớ là Kim Dung xuất thân từ một gia đình quan lại ở Hải Ninh, Triết Giang. Tổ phụ ông từng làm quan triều Thanh; họ Tra của ông có nhiều nhân vật được ghi tên trong lịch sử Trung Quốc. Thế nhưng, văn chương của ông dành rất nhiều tình thương cho người nghèo, người cùng khổ; các nhân vật trung tâm thường là trẻ mồ côi, bơ vơ lưu lạc, có kẻ đi ăn xin. Cái đó là gì nếu không phải là tình thương yêu, quý trọng phẩm giá con người? Tôi nói văn chương Kim Dung là thứ văn chương đáng để chúng ta đọc và suy ngẫm là vậy.

Hansy
25-04-2013, 03:00 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

45.
HÀNH TRÌNH QUA THỐNG KHỔ

Mỗi người đều có một đời sống riêng, đi trên một con đường. Nếu đời sống là một cuộc hành trình thì mỗi cuộc hành trình đều có bản sắc của nó, không ai giống ai, không kinh nghiệm nào trùng lắp kinh nghiệm nào. Khi xây dựng những nhân vật trung tâm trong tiểu thuyết của mình, Kim Dung đã khắc hoạ cuộc hành trình riêng của từng nhân vật. Hồ Phỉ (Tuyết Sơn phi hồ), Lệnh Hồ Xung (Tiếu ngạo giang hồ), Dương Qua (Thần điêu hiệp lữ) Trương Vô Kỵ (Ỷ thiên Đồ long ký), Kiều Phong (Thiên Long bát bộ), Thạch Phá Thiên (Hiệp khách hành)… không nhân vật nào giống nhân vật nào. Thế nhưng, qua những kiếp người đặc thù ấy, người đọc lại nhận ra một mẫu số chung: mỗi nhân vật trung tâm trong tiểu thuyết Kim Dung đều có chỗ giống nhau bởi họ đã hành trình qua thống khổ, đã từng đi qua những con đường đau khổ.

Hồ Phỉ mới được sinh ra 3 ngày thì cha mẹ chết hết, may mắn nhờ một gã tiểu nhị trong quán cơm bồng chạy trốn kẻ muốn giết hại. Chàng trai côi cút lớn lên, học được đường Hồ gia đao pháp của cha truyền lại, cưỡi con ngựa đi từ Sơn Đông vào Trung Nguyên tìm kẻ thù giết cha. Oái oăm làm sao, khi tìm ra kẻ cần tìm thì Hồ Phỉ mới hiểu được người ấy không phải là kẻ đã giết cha mình. Lưỡi đao đưa lên, lấp lánh dưới bóng trăng lạnh nhưng Hồ Phỉ không nỡ xuống tay. Tư tưởng của Hồ Phỉ có sự đấu tranh mãnh liệt; lưỡi đao cứ lơ lửng như vậy. Vì vậy, tác phẩm còn có một cái tên rất ấn tượng: Lãnh nguyệt bảo đao.

Lệnh Hồ Xung lại là một trường hợp khác. Hắn là một cô nhi, được đưa về Hoa Sơn, trở thành đại đệ tử của Nhạc Bất Quần. Hắn tôn Nhạc Bất Quần như cha, Ninh Trung Tắc như mẹ và coi Nhạc Linh San như cô em gái thân yêu. Lớn lên, hắn yêu Nhạc Linh San và càng thêm kinh trọng sư phụ, sư mẫu. Thế nhưng, Nhạc Linh San đã phụ tình hắn, chạy theo gã tốt mã nhà giàu Lâm Bình Chi; sư phụ hắn lại vu cáo hắn ăn cáp Tịch tà kiếm phổ của họ Lâm, đuổi hắn ra khỏi sư môn, lại rao khắp võ lâm nhờ mọi người tru diệt hắn. Trời đất bao la mà hắn không tìm ra một chỗ để nương thân. Nỗi đau thương trong suốt cuộc hành trình làm người của hắn đạt đến độ cùng cực của kiếp người. Nếu không có tình yêu vĩ đại của thánh cô Nhậm Doanh Doanh, chắc hắn đã chết đi tầm thường và bình thường như cây như cỏ. Cuối cùng, hắn rủ bỏ tất cả để được cùng Doanh Doanh song tấu khúc Tiếu ngạo giang hồ, sống ung dung tự tại để được làm con người tự do.

Trương Vô Kỵ lại đi qua một con đường thống khổ khác. Mới 10 tuổi, hắn đã phải chứng kiến một cảnh cực kỳ đau đớn: cả cha mẹ đều tự tử trên núi Võ Đang. Bản thân hắn bị trúng một chưởng âm hàn, tưởng đã chết nếu không được thần y Hồ Thanh Ngưu chữa trị. Rồi hắn làm một cuộc phiêu lưu vạn dặm lên tận Quang Minh Đính trên dãy Thiên Sơn, trở thành giáo chủ Minh giáo Trung Quốc. Lòng hắn trong sáng như gương; hành vi hắn anh hùng hơn bất cứ một anh hùng nào nhưng hắn vẫn bị đời nguyền rủa là dâm tặc, ác nhân, tà ma ngoại đạo. Hắn dành cả đời mình cho sự nghiệp chống quân Mông Cổ xâm lăng, giành lại đất nước cho Hán tộc. Nhưng rồi hắn đau đớn khám phá ra sự bất trung, bất nghĩa của Chu Nguyên Chương, một thuộc hạ cùng hắn mưu đồ sự nghiệp lớn. Hắn lặng lẽrời hàng ngữ khởi nghĩa, dắt tay Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ, cô quận chúa Mông Cổ xinh đẹp, ra đi. Cuối cùng, hắn làm một công việc thú vị và rất đàn ông: kẻ lông mày cho người tình Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ.

Nhưng bi kịch nhất trong những số phận bi kịch phải nói đến Kiều Phong (Thiên Long bát bộ). Kiều Phong tên thật là Tiêu Phong, người Khất Đan; cha mẹ bị người Hán giết hại ngoài Nhạn Môn Quan. Ấy vậy mà Kiều Phong được người Hán đưa về nuôi dưỡng, Hán hoá, đổi lại họ Kiều, đưa lên làm Bang chủ Cái bang Trung Quốc, nhận sứ mệnh chiến đấu chống lại người Khất Đan. Niềm đau đờn của Kiều Phong là khi ông bị thuộc hạ tố cáo là quân Khất Đan mọi rợ và nhận ra mình chính là người Khất Đan. Hoá ra, ông đã từng đánh giết và chủ trường đánh giết những người cùng dân tộc với mình. Niềm mđau thứ hai là ông đã xuống tay giết lầm người tình Đoàn A Châu, người đã nguyện cùng công về bên kia Nhạn Môn Quan săn chồn đuổi thỏ.

Cơ duyên lạ lùng đã đưa ông về Khất Đan (Liêu quốc), được phong làm Nam viện đại vương, thống lĩnh binh quyền nước Liêu, đóng tại Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay). Vua Liêu ra lệnh cho ông đánh Trung Quốc; nghĩ đến trăm họ lầm than, triệu dân đau khổ, Tiêu Phong (tức Kiều Phong) đã chống lệnh hành quân. Vua Liêu xem ông là kẻ phản nghịch. Ở Trung Quốc, ông là tên chó Liêu mọi rợ. Về nước Liêu, ông là kẻ phẩn vua, phạm thượng. Hành trình thống khổ của Tiêu Phong đã đạt đến đỉnh điểm, cần đến sự giải thoát phi tự nhiên. Ông phải sử dụng đến cái tự do cuối cùng của kiếp người để tự xử lấy mình trước Nhạn Môn Quan.

Kim Dung đã để cho những nhân vật trung tâm của mình kinh qua những đau đớn về thể chất và tinh thần của kiếp người. Gần như ông muốn chứng minh một định đề cơ bản của Phật giáo: đời là bể khổ. Có những nhân vật kết thúc hành trình thống khổ bằng cách tự xử lấy cuộc đời mình như Kiều Phong, Trương Thúy Sơn. Kim Dung viết đến những đoạn mà các nhân vật của ông tự chọn lấy cái chết khiến người đọc đau đớn, bùi ngùi, khóc ngay trên trang tiểu thuyết.
Tôi cho rằng một thứ văn chương như vậy là sòng phẳng và công bằng. Tiểu thuyết của Kim Dung nói đến cuộc sống, tình yêu, sự thống khổ và cái chết đều đáng để người ta quan tâm đọc và suy ngẫm. Kim Dung đã vượt qua chủ nghĩa công thức sơ lược khi xử lý kết thúc tác phẩm mà hàng trăm nhà văn Minh – Thanh đã thực hiện. Tôi nhận ra ở tiểu thuyết Kim Dung tính chất nhân bản, nhân văn rất gần gũi với cuộc sống của mỗi kiếp người.

Một điều cần nhớ là Kim Dung xuất thân từ một gia đình quan lại ở Hải Ninh, Triết Giang. Tổ phụ ông từng làm quan triều Thanh; họ Tra của ông có nhiều nhân vật được ghi tên trong lịch sử Trung Quốc. Thế nhưng, văn chương của ông dành rất nhiều tình thương cho người nghèo, người cùng khổ; các nhân vật trung tâm thường là trẻ mồ côi, bơ vơ lưu lạc, có kẻ đi ăn xin. Cái đó là gì nếu không phải là tình thương yêu, quý trọng phẩm giá con người? Tôi nói văn chương Kim Dung là thứ văn chương đáng để chúng ta đọc và suy ngẫm là vậy.

Hansy
25-04-2013, 04:23 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

46.
ĐÊM PHƯƠNG NAM
ĐỌC LẠI Ỷ THIÊN ĐỒ LONG KÝ

Tôi đang ở trong phòng 301, nhà khách Đoàn T.30 của Quân khu 9. Tháng 11, đêm Cần Thơ mưa nặng hạt. Qua cửa kính, tôi có thể nhìn thấy màn mưa trắng xóa trên rạch Cái Khế, những ánh điện vàng vọt hắt xuống từ những khung cửa của các ngôi nhà ven bờ rạch bên kia. Mưa rơi thường gọi nhớ cho lòng người. Đây là một đêm phương Nam như bao đêm phương Nam khác, nhưng trời mưa khiến lòng thao thức, không ngủ được. Không ngủ được vốn là thuộc tính của tôi. Lòng tôi như một sợi dây đàn, chỉ cần một cơn gió nhẹ thổi qua là có thể rung lên thành tiếng; huống chi cuộc sống đầy những ba động, sướng khổ, vui buồn.

Bức thư kêu oan của một bà mẹ trong một xã vùng sâu huyện Châu Thành A, kể chuyện cô con gái 16 tuổi của mình bị hiếp dâm mà vụ án vẫn không bị khởi tố, bị can vẫn không bị truy cứu trách nhiệm hình sự làm lòng tôi đau nhói. Cô gái đã kể lại cho tôi nghe những giây phút kinh hoàng, đau đớn nhất đời cô. Kẻ gây án là một người có chức quyền, thuộc một tập thể sắp được lãnh huân chương. Trorng trường hợp này, danh dự của tập thể quan trọng hơn phẩm giá một người phụ nữ. Người ta đã mời cô đến, đưa một triệu đồng hỗ trợ, đưa cho mẹ cô ba triệu đồng gọi là giúp vốn về quê làm ăn. Khi cô đi khỏi miền đất tai họa của đời mình, có kẻ tự xưng là “nhà báo” viết một bài khá dài, ca ngợi kẻ hiếp dâm cô là một cán bộ năng nổ đầy tinh thần trách nhiệm; lên án cô là một thứ gái chuyên trộm cắp, đã được cho tiên2 mà còn lật lọng tố cáo vu vơ. Lẽ phải đã bị xâm phạm thô bạo, sự thật đã bị bẻ cong. Tôi có đủ cơ sở để chứng minh cô gái bị hiếp dâm và chứng minh kẻ có chức quyền kia đã phạm tội hiếp dâm. Nhưng tôi viết lên thì ai sẽ nghe tôi và liệu tiếng nói của tôi có đủ sức lay động tấm lòng của những người là công tác tố tụng để bắt giữ, điều tra, truy tố và xét xử kẻ phạm tội ấy?

Tôi cảm thấy nhục nhã vì chưa làm hết chức năng của một nhà báo đối với bạn đọc, với một bà mẹ nghèo và một cô gái bất hạnh đã tin tưởng gởi đơn kêu cứu đến cho tôi. Tôi cảm thấy nhục nhã bởi giữa cuộc sống mình bạch mà còn có “nhà báo” vô lương tâm, tự nguyện làm một thứ bồi bút cho đồng tiền để quay lại phóng uế vào sự thật. Tôi cảm thấy nhục nhã khi nhiều bạn đồng nghiệp ngay thẳng của tôi và cả tôi cùng đánh đồng với một thứ “nhà báo” như vậy. Thôi thì tôi trở lại với tư thế của nhà văn, đọc một cái gì đó mà mình yêu thích và viết một cái gì đó mà mình cần viết.

Có lẽ trong suốt bộ tiểu thuyết Ỷ thiên Đồ long ký, không có âm thanh nào ám ảnh tôi như tiếng gầm rú của Tạn Tốn. Kim Dung gọi đó là thần công Sư tử hống - tiếng gầm của sư tử. Tiếng gầm ấy là một vũ khí lợi hại; nó vang rền, kéo dài đập vào mang nhĩ của người nghe. Kẻ nào công lực yếu sẽ bị tiếng gầm làm cho hôn mê và chết luôn; kẻ có công lực khá hơn thì không chết nhưng mất hết trí nhớ, trở thành cuồng loạn. Trong toàn bộ tác phẩm, Tạ Tốn chỉ gầm lên một lần trên đảo Vương Bàn Sơn. Tiếng gầm của lão đã giết chết quần hùng; chỉ còn hai người sống sót nhưng cuồng loạn là Tưởng Đào và Cao Tắc Thành phái Côn Lôn; hai người sống sót trọn vẹn nhưng bị lão bắt đi làm “tù binh” là Trương Thuý Sơn phái Võ Đang và Hân Tố Tố của Bạch mi giáo. Tại sao Trương Thuý Sơn và Hân Tố Tố sống? Ấy là vì tác giả không muốn một thư sinh tài hoa, có nghệ thuật thư pháp tuyệt vời và một cô gái trong trắng, tươi đẹp, thông minh phải chết. Cái tài hoa, cái đẹp của họ là vốn quý của cuộc sống. Nhưng vốn quý ấy đồng thời cũng là mầm của tai họa, của đau đớn, của lầm than. Kim Dung gọi họ là một đôi người ngọc (ngọc nhân). Đôi người ngọc ấy phải sống, phải lưu lạc lên Băng Hỏa đảo, phải kết đôi với nhau, rồi phải trở lại Trung Nguyên để gánh chịu sự đau đớn của cái nhìn phân biệt chính tà, phải chết đi trên núi Võ Đang để giữ bí mật cho bảo đao Đồ long. Nghĩa là họ phải trả giá cho chính tài hoa và nhan sắc mà trời ban cho họ.

Tiếng rú của Tạ Tốn bao hàn đủ cả đau thương, uất hận. Một con người văn nhã, có kiến thức văn học uyên bác, có tài biện luận trôi chảy mà vợ con lại bị chính gã “sư phụ” mất dạy là Thành Khôn giết chết. Tạ Tốn coi người thầy của mình là cừu nhân, mà oái oăm thay, gã cừu nhân ấy lại có vai trò lớn hơn cả người cha (trong chế độ quân chủ theo Nho giáo). Tạ Tốn đi tìm cừu nhân, lại đánh chết một vị thần tăng mà lão thường kính trọng. Cũng như Chí Phèo của Nam Cao, Tạ Tốn của Kim Dung mong muốn được làm một con người lương thiện nhưng con đường trở về với bến lương thiện của lão đã bị chặt đứt bởi sự phân biệt ân oán, chính tà, thiện ác. Tôi cho rằng Tạ Tốn cất tiếng rú là một cách phát tiết tâm tình. Tạ Tốn rú cũng như Bạch Cư Dị làm thơ, cũng như cô kỹ nữ trên bến Tầm Dương cất tiếng hát. Tất cả chỉ là sự phát tiết.
Hân Ly, em cô cậu của Trương Vộ Kỵ, lại thương yêu Trương Vô Kỵ. Trong quan điểm của hôn nhân gia đình Trung Hoa ngày xưa, anh chị em cô cậu ruột, anh chị em bạn dì ruột được phép lấy nhau. Ở đây, người ta bỏ qua mối dây quan hệ huyết thống, chỉ chú trọng đến yếu tố bàng hệ. Vâng, Hân Ly thương yêu Trương Vô Kỵ. Nhưng khác với những thiếu nữ xuân thì, cô không muốn giữ lại tấm nhan sắc xinh đẹp của mình. Cô luyện một môn võ công độc ác với ước mong môn này sẽ giúp cô trả thù lớn cho mẹ mình. Cô dùng đôi tay hút hết chất độc của những con nhện độc vào thân thể mình và cô biết khi luyện đến một ngàn con nhện độc, chất độc sẽ tích tụ trong cơ thể, dung mạo biến đổi trở nên xấu xí vô cùng. Môn võ công của cô được gọi là Thiên châu vạn độc thủ. Châu đây là con nhện. Đời cô chuyên chơi với những con nhện nên Kim Dung còn gọi cô là Châu Nhi (bé Nhện). Chất độc của nhện đã làm cho khuôn mặt cô ngày càng xấu đi; chỉ còn nụ cười với hàm răng trắng là vẫn rực rỡ. Về sau, cô bị rạch bốn nhát kiếm vào mặt; chất độc chảy ra khiến da thịt trắng trẻo lại. Nhưng một thiếu nữ bị bốn vết kiếm trên mặt thì dù trắng trẻo đến đâu cũng không thể gọi là cô gái đẹp được. Cái hạnh phúc muốn được làm duyên làm dáng trước tình quân muôn đời cô không thực hiện được.

Ỷ thiên Đồ long ký có một cái bóng thấp thoáng rất lạ. Đó là Thành Khôn, gã sư phụ mất dạy của Tạ Tốn. Gần như Thành Khôn gây nên các oán thù, xung đột trong tác phẩm nhưng người đọc không thấy rõ ràng chân tướng lão qua tác phẩm đồ sộ này. Đầu tiên, khi Trương Vô Kỵ cứu các cao thủ Minh giáo trong Tổng đàn trên Quang Minh Đính, đã giao đấu với lão, biết lão chính là kẻ cừu nhân của nghĩa phụ Tạ Tốn, đã trốn vào phái Thiếu Lâm dưới pháp danh Viên Chân nhưng chàng chỉ nghe được tiếng nói và tiếp xúc với hai bàn tay lão xuyên qua cái bao vải. Mọi người tưởng lão chết trong đám loạn quân nhưng khi kiểm tra lại các xác chết thì lão đã trốn mất. Rồi khi Trương Vô Kỵ cùng Tiểu Siêu đi vào đường hầm bí mật dưới Quang Minh Đính, bị Thành Khôn lấp tảng đá để bít kín miệng hầm, Vô Kỵ vẫn không thấy được mặt lão. Lần cuối cùng, khi âm mưu bại lộ, lão mới xuất hiện và giao đấu với Tạ Tốn tại hậu sơn chùa Thiếu Lâm. Tạ Tốn bị mù, bị lão đánh cho tả tơi. Thế nhưng, Tạ Tốn đã cố ôm lão cùng rơi xuống hầm giam tối đen. Ở đấy, người mắt sáng cũng như kẻ đui mù. Tạ Tốn cuối cùng cũng trả được mối đại thù: đam mù hai mắt Thành Khôn, phế hết võ công của lão. Kẻ cả lần cuối cùng này, Thành Khôn cũng xuất hiện dưới lớp hóa trang làm cho cả quần hùng không ai nhận ra. Chỉ có Tạ Tốn, nhờ bị mù mà nhận được tiếng nói. Rốt cuộc, chẳng ai thấy rõ Thành Khôn ra làm sao.

Có lẽ bạn đọc ngạc nhiên, tự hỏi tại sao tôi đọc lại Ỷ thiên Đồ long ký mà chỉ điểm có ba nhân vật Tạ Tốn, Hân Ly, Thành Khôn; ba nhân vật phụ. Vâng, giữa đêm Cần Thơ mưa rơi tầm tã, đêm phương Nam lặng lẽ, tôi cứ suy nghĩ mải về Tốn, Ly và Khôn. Bạn để ý ba cái tên ấy chứ? Đó là ba quẻ trong tám quẻ của kinh Dịch: Càn Khảm, Chấn, Tốn, Cấn, Ly, Khôn, Đoài. Vâng, Ỷ thiên Đồ long ký lấy ba quẻ đặt tên nhân vật. Ở một tác phẩm khác, Kim Dung lại sử dụng hai quẻ Càn và Cấn để đặt tên cho hai nhân vật phụ là Công Dã Càn và Hoa Hách Cấn. Kim Dung có ngụ ý gì khi đưa các quả của kinh Dịch đặt tên cho nhân vật mình? Tôi cứ suy nghĩ mãi điều đó nhưng chưa tìm ra được chìa khóa giải mã. Cho nên, giữa đêm mưa phương Nam, tôi cứ đọc lại Ỷ thiên Đồ long ký và đi tìm. Còn các bạn, các bạn đã tìm ra chưa?

Hansy
26-04-2013, 03:49 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

47.
SỬ KIẾM Ý BẤT SỬ KIẾM CHIÊU

Hôm nay là mồng Một tết Nhâm Ngọ (2002), rơi đúng vào ngày sinh của tôi. Nhà nho nói: “Đa thọ đa nhục”. Tôi đã “thọ” thêm được một tuổi nữa, lòng thực sự không cảm thấy hạnh phúc chút nào. Ấy bởi vì trong cuộc sống và sáng tạo của một người cầm bút, tuổi già thường được đồng hóa với sự trì trệ, sự mệt mỏi, sự thiếu lửa. Mà đã trì trệ, mệt mỏi, thiếu lửa thì e rằng cái mà ta viết ra được sẽ không còn cuốn hút bạn đọc như xưa. Văn chương, âm nhạc tối kỵ nhất là lối mòn, là rơi vào chủ nghĩa công thức. Có người nghĩ mình là tài hoa, viết ra những câu lạ, sử dụng một tập hợp những ngôn ngữ khó hiểu để lừa mị quần chúng, mong tự chứng tỏ tác phẩm mình mang trí tuệ. Không đâu! Đó là sự trí trá của hoa giả, loại hoa làm bằng nhựa hoặc giấy. Thoạt nhìn, ta nghĩ đó là hoa, thậm chí còn là hoa đẹp nữa bởi màu sắc rực rỡ, tươi tốt quanh năm. Nhưng không, nó chỉ là hoa giả, còn thua xa cả một bông hoa dại mọc lẻ loi ở bên đường. Văn chương cũng vậy, âm nhạc cũng vậy, phụ nữ cũng vậy luôn.

Mười hai giờ kém hai mươi đêm mùng một, có chàng thanh niên lang thang chết bên vệ đường, trước cư xá tôi ở. Đên nghe tiếng tụng kinh phát ra từ băng cassette, trông bóng đèn sáng một góc hè phố, tôi biết anh đã chết. Xác anh được đặt trên chiếc ghế bố, một tấm chăn mỏng trùm từ đầu đến chân. Ngày tết, chẳng có ai bán buôn, không tìm ra đượi nải chuối giằng bụng; một ai đó đã nảy ra sáng kiến giằng bụng bằng một con dao nhỏ. Phía trên đầu anh, có một chén cơm trắng, một chiếc hột vịt luộc. Nghĩa tử là nghĩa tận, chết là hết, không ai trách được anh điều gì nữa. Hàng xóm nói anh nghiện ma tuý, đã đau phổi lại thêm chứng đau gan. Chiều 30, trong khi mọi người tất bật chuẩn bị mua sắm, trang trí nhà cửa để đón tết thì một mình anh vật vã với cơn đau trên cái nền xi măng lề đường. Anh đã sinh ra, đã lớn lên, đã từng mơ ước và chắc chắn đã từng yêu. Nhưng rồi, một cú sốc nào đó trong đời đã đưa anh tìm đến với ma tuý và trượt dài trên con đường sầu thảm ấy. Cuối cùng, anh ra đi

Người đi trên dương gian
Thở hơi ấm (ư) từ ngàn năm

Đó là ca từ trong một bài hát mà tôi đã thuộc từ mấy mươi năm trước. Bây giờ thì hơi ấm từ ngàn năm đã thoát khỏi cái thân xác gầy guộc kia. Tôi cứ nhìn mãi hai ngón chân cái nhô lên sau làn chăn mỏng, hai ngón chân tiêu biểu của hai bàn chân, cứ muốn bước tới, bước tới. Cầu cho anh được tha thứ mọi lỗi lầm, được sống bình an trong cõi phúc. Tôi cho rằng anh cũng như bao nhiêu con người khác qua đời đều xứng đáng để được cầu chúc như vậy. Anh đã từng bị dè bỉu, khinh miệt, xa lánh. Nay anh qua đời, đúng là một sự giải thoát, một hạnh phúc cuối cùng. Cuộc sống buồn và đau quá. Ra đi là hơn, ra đi là hơn.

Đệ tử lâu đời lâu kiếp
Nghiệp chướng nặng nề
Tham giận kiêu căng
Si mê lầm lạc
Ngày nay nhờ Phật
Biết sự lỗi lầm
Thành tâm sám hối…

Tiếng kinh cầu dịu dàng, tiếng chuông, tiếng mõ đưa hồn anh đi.
Biên giới giữa sự sống và cái chết là hết sức mong manh, mong manh như sợi tơ nhện, mong manh như làn khói. Những nhân vật trong các bộ tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung đã chứng mình cho chúng ta thấy điều đó một cách cụ thể y như rằng họ đang sống và đã chết giữa cuộc đời chúng ta vậy.

Trương Thuý Sơn và Hân Tố Tố (Ỷ thiên Đồ long ký) được gọi là một đôi ngọc nhân. Họ thương yêu nhau, sống thành lứa đôi ở Băng Hoả đảo mà không hề bị ràng buộc bởi các giáo điều của hệ tư tưởng phong kiến. Họ tươi đẹp, thông mình, tài hoa, trinh bạch; hai con người như vậy quả là thế gian hãn hữu. Họ có một người con trai, mới mười tuổi cũng đã rất thông mình, tài hoa. Phía sau lưng Trương Thúy Sơn là phái Võ Đang; phía sau Hân Tố Tố là Bạch Mi giáo. Đó là hai thế lực cực thịnh trong võ lâm Trung Quốc thời Nguyên mạt. Một lứa đôi như vậy đáng lẽ phải được hưởng hạnh phúc lâu dài đến đầu bạc răng long. Ấy vậy mà khi trở về núi Trung Nguyên, sum họp gia đình chưa được một ngày, họ đã phải đối phó với những kẻ thù. Trương Thúy Sơn và Hân Tố Tố đã tự chọn cái chết, tự xử lấy mình như một thứ tự do cuối cùng mà con người có thể làm được.

Trong tác phẩm Hiện sinh là một thuyết nhân bản (L’Existentianisme est un humanisme), tác giả Jean Paul Sartre đã từng đề cập tới một điều mà ông gọi là trò ma thuật thể hiện ý chí, khát vọng về tự do cuối cùng của con người. Ông định nghĩa trò ma thuật ấy là một giải pháp giúp con người hư vô hoá hoàn cảnh khi con người không còn cách để chống chọi hoặc thoát ra khoải hoàn cảnh ấy. Thí dụ khí đứng trước một con cọp, người ta không thể đánh thắng con cọp hoặc bỏ chạy khỏi móng vuốt của nó thì tốt hơn hết người ta nên ngất xỉu. Trò ma thuật ngất xỉu giúp người ta quên đi hoàn cảnh đang đối mặt với con cọp. Ông gọi đó là tự do cuối cùng của con người. Chúng ta đều hiểu trang thái ngất xỉu có thể hư vô hoá được hoàn cảnh đang đối mặt với con cọp nhưhng hoàn toàn không giúp gì được cho con người giải quyết được hoàn cảnh ấy. Nhưng dầu sao, ngất xỉu vẫn là một giải pháp, giải pháp tình thế. Có còn hơn không!

Trở lại với Hân Tố Tố. Khi thấy chồng đã tự sát, Hân Tố Tố vẫn rất bình tĩnh, nắm tay con trai Trương Vô Kỵ, chỉ vào đám quần hùng ngồi quanh đó và dặn dò con: “Hài tử, ngươi hãy nhớ rằng tất cả những kẻ có mặt ở đây là kẻ thù của người”. Đôi mắt trẻ thơ của Trương Vô Kỵ long lên, đầy vẻ oán độc. Dặn con xong, Tố Tố mới tự sát, chết theo chồng. Có điều Tố Tố không ngờ là 10 năm sau, Vô Kỵ lớn lên, chẳng những không trả thù như lời mẹ dặn mà còn rộng lòng tha thứ cho tất cả những kẻ bức tử cha mẹ mình. Tự do cuối cùng của Trương Thuý Sơn và Hân Tố Tố là tự sát; tự do cuối cùng cùng của Trương Vô Kỵ là tha thứ.

Biên giới giữa sự sống và cái chết quả thật mong manh. Biên giới giữa quyền lực và sự sụp đổ cũng mong manh không kém. Trong Tiếu ngạo giang hồ, thật khó có một nhân vật thứ hai mà quyền lực có thể vượt qua nhân vật Nhạc Bất Quần. Nhạc Bất Quần là chưởng môn phái Hoa Sơn, một trong Ngũ Nhạc kiếm phái. Bản thân nhân vật này đã tinh thông kiếm pháp phái Hoa Sơn; lại hoạc được kiếm pháp của 4 phái còn lại là Hằng Sơn, Hành Sơn, Thái Sơn và Tung Sơn; đoạt luôn cả Tịch tà kiếm phổ của nhà họ Lâm ở Phúc Châu và luyện thành thứ kiếm pháp quỷ mị này. Lão vươn lên làm chưởng môn của Ngũ Nhạc phái (bỏ chữ kiếm), võ công kiêm toàn cả chính lẫn tà, có tham vọng cùng hai phái Thiếu Lâm và Võ Đang chia ba chân vạc. Quyền lực của lão cao đến vậy là cùng.

Để an tâm khẳng định quyền lực, lão phải tìm cách giết cho được đại đệ tử của mình là Lệnh Hồ Xung và người tình của chàng trai này là Nhậm Doanh Doanh. Lão chụp được cả đôi tìnhh nhân vào trong lưới cá và chuẩn bị thực hiện động tác sau cùng: rút kiếm ra, phóng vào mỗi người một kiếm là xong. Đúng lúc đó thì tiểu ni cô Nghi Lâm phái Hằng Sơn xuất hiện. Cô gái này có tâm địa từ bi, suốt đời chưa biết làm đau một cành cây, một cọng cỏ. Đối với cô, Lệnh Hồ Xung là bảo vật trên đời, bởi chàng trai này đã xả thân cứu cô, bảo vệ sự trong trắng của cô. Cho nên, hễ ai đụng đến Lệnh Hồ Xung là cô xả thân để cứu chàng. Như một quán tính, khi thấy Nhạc Bất Quần phóng kiếm vào Lệnh Hồ Xung, tiểu ni cô từ bi Nghi Lâm cũng phóng kiếm vào người Nhạc Bất Quần. Cô đã cứu được Lệnh Hồ Xung và Doanh Doanh. Nhạc Bất Quần chết, giấc mộng quyền lực mà lão đeo đuổi trên 50 năm cũng sụp đổ hoàn toàn.

Từ nhỏ tới lớn, tôi chỉ bị mẹ tôi đánh có một lần. Đó là lần tôi không bảo vệ được em tôi, để em tôi bị một kẻ lớn hơn tát vào má một cái. Nhìn thấy dấu tay trên má của em tôi, mẹ giận tôi quá, sẵn cái sàng gạo trên tay, mẹ cạch xuống đầu tôi. Tôi bị đòn, khóc không phải vì đau mà vì xấu hổ đã không đủ sức để bảo vệ em ruột của mình. Chuyện ấy xảy ra cách đây đã 38 năm nhưng mỗi khi nghĩ lại, tôi vẫn cảm thấy có tội với mẹ tôi, có lỗi với em trai tôi. Sau này, đi làm báo, tôi lại gặp thêm nhiều lần sống trong trạng thái đau đớn, xấu hổ nữa. Bạn đọc ở xa, đọc trên mặt báo hoặc sách, thấy tôi viết được một số bài đấu tranh cho công bằng xã hội, dám đụng đến một số người có quyền lực, dám bảo vệ cho người nghèo, đã viết thư, gọi điện khen tôi là người dũng cảm. Một số anh em trong giới cầm bút biết tôi đang dạy môn công tác phóng viên ở một trường chính quy tại thành phố và một số khoá giảng ngắn ngày tại các tỉnh miền Tây, đã có nhã ý xem tôi như là nhà báo có kinh nghiệm. Đông đảo bạn đọc yêu nhạc trên cả nước thấy tôi xuất hiện trên đài VTV (Hà Nội), HTV (TP.HCM), CTTV (Cần Thơ), BLTV (Bạc Liêu)… và các đài khác trên cả nước qua những chương trình riêng cứ nghĩ rằng tôi là hạnh phúc lắm.

Không phải vậy đâu! Tôi phải thường xuyên đối mặt với những đau đớn, xấu hổ. Bạn không thể hình dung được tôi đã cảm thấy xấu hổ cực kỳ khi hứa với lòng mình về chuyện một cháu gái mới 16 tuổi ở miền Tây rằng sẽ đưa vụ án cháu bị hiếp dâm ra ánh sáng, rằng sẽ tố cáo đích danh kẻ đã hiếp cháu và những kẻ bao che, ém nhẹm việc này nhưng cuối cùng đã không làm được. Bạn không thể hình dung được đã nhiều lần tôi ngồi trước những viên chức từng ăn tiền để làm án oan cho những người vô tội lương thiện, nói một cách hết sức nhã nhặn với họ để kiếm một số thông tin mà tôi biết chắc rằng một nửa thông tin là điều dối trá. Bạn không hình dung đuợc rằng một thời tôi đã đứng lớp dạy văn, biết rằng tác phẩm đang dạy dở ẹc mà miệng vẫn cứ phải bô bô khen hay. Những điều tôi không viết ra được cũng nhiền như số tóc có trên đầu tôi. Mà một người cầm bút đang biết mình đúng, mình trúng nhưng không viết ra được thì có gì đau đớn, xấu hổ bằng.

Bạn thân mến! Xin bạn chớ nản lòng khi tôi đưa bạn đi từ cái chết của một thanh niên lang thang đến số phận của Trương Thuý Sơn, Hân Tố Tố, Nhạc Bất Quần rồi nói đến tâm trạng xấu hổ của mình khi chưa làm tròn chức năng của một nhà báo trước bạn đọc. Bình chuyện nhân vật Kim Dung cái gì mà lạ vậy? Tôi mong được nhắc lại câu chuyện Phong Thanh Dương dạy Lệnh Hồ Xung học kiếm (Tiếu ngạo giang hồ): “Người đời thường sử dụng kiếm chiêu tức là thường quan tâm đến thước tấc, bộ vị, tư thế khi phóng kiếm. Mà hễ có kiếm chiêu, tất có chỗ sơ hở, tức là có chỗ để cho người khác phá chiêu. Như vật, để có thể khắc địch chế thắng, người sử kiếm không sử kiếm chiêu mà chỉ nên sử dụng kiếm ý”. Lệnh Hồ Xung đã học kiếm pháp các phái Hoa Sơn, Hằng Sơn, Tung Sơn, Thái Sơn, Hành Sơn; lại nhập tâm đao pháp của Điền Bá Quang và các thủ pháp phá giải kiếm pháp Ngũ Nhạc kiếm phái của Ma giáo. Phong Thanh Dương dạy Lệnh Hồ Xung đem tất cả các thứ chiêu thức tạp nhạp đó nối liền thành một dây, chỗ nào miễn cưỡng quá không nối được thì vứt bỏ. Sau khi nối thànhh một dây, Lệnh Hồ Xung phải quên sạch mọi thứ đã học. Đến bấy giờ mới sử kiếm ý, ý niệm đi tới đâu, thế kiếm đi tới đó, liên miên bất tuyệt như nước chảy mây trôi. Đó là một thứ kiếm pháp hoàn toàn đi ngược lại kiếm lý phổ thông: có khi phóng vào khoảng không, có khi mềm oặt như mất hết khí lực, có khi hung hiểm như con trường xà đột ngột chờ sẵn… Lệnh Hồ Xung sử kiếm ý đó mà lòng sung sướng như điên. Hai chữ phá chiêu trở thành vô nghĩa.

Tôi cũng học cách của Lệnh Hồ Xung, ý nghĩ đi tới đâu, phóng ngòi bút tới đó. Vâng, tôi đang sử bút ý.

Hansy
26-04-2013, 04:49 PM
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
KIM DUNG GIỮA ĐỜI TÔI

48.
KIỀU PHONG – KHÁT VỌNG CỦA TỰ DO

Trong 12 bộ võ hiệp tiểu thuyết của Kim Dung, tôi yêu nhất bộ Thiên Long bát bộ. Trong những nhân vật của Thiên Long bát bộ, tôi yêu nhất nhân vật Tiêu Phong (tức Kiều Phong), người anh hùng Khất Đan. Và trong cả chục ngàn nhân vật do Kim Dung dựng lên, tôi chọn Kiều Phong như một biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng.

Văn chương tiểu thuyết không phải là văn chương báo chí. Một tác phẩm tiểu thuyết ra đời là nhằm gởi đến người đọc một thông điệp. Các thông điệp ấy đôi khi ẩn tàng đâu đó trong tác phẩm đến nỗi một người đọc với thái độ lơ là c