PDA

Xem phiên bản đầy đủ : Dịch thơ Nguyễn Du - Phan Thị Thanh Minh



PHAN THỊ THANH MINH
29-03-2013, 11:28 AM
Phan Thị Thanh Minh (Hà Nội)
dịch



Thời Vua Minh Mạng, Nguyễn Du đước cử làm chánh sứ sang Nhà Thanh báo tang vua Gia Long mất và cầu phong. Trong thời kỳ này ông có làm một số bài thơ, xin trích dịch 4 bài nói lên những tâm sự và nhận xét, phê phán của ông:

1) 幕 府 即 事 - Mạc phủ tức sự
阮 攸 - Nguyễn Du (1765–1820)

Nguyên văn chữ Hán:
徹 夜 鑼 聲 不 暫 停
孤 燈 相 對 到 天 明
經 旬 去 國 心 如 死
一 路 逢 人 面 盡 生
山 麓 積 泥 深 沒 馬
谿 泉 伏 怪 老 成 精
客 情 至 此 已 無 限
又 是 燕 山 萬 里 行

Phiên âm Hán Việt:
Triệt dạ la thanh bất tạm đình
Cô đăng tương đối đáo thiên minh
Kinh tuần khứ quốc tâm như tử
Nhất lộ phùng nhân diện tận sinh
Sơn lộc tích nê thâm một mã
Khê tuyền phục quái lão thành tinh
Khách tình chí thử dĩ vô hạn
Hựu thị Yên sơn vạn lý hành
Nguyễn Du
Dịch nghĩa:
Suốt đêm, tiếng thanh la không ngớt.
Ta ngồi bên ngọn đèn cô đơn cho đến sáng.
Xa nước mấy tuần, lòng như chết.
Dọc đường gặp toàn người lạ.
Ở chân núi bùn ngập đến bụng ngựa.
Quái vật ẩn nấp hai bên bờ suối lâu ngày đã thành tinh.
Đến đây, tình cảm người viễn khách đã vô hạn rồi.
Huống chi cuộc hành trình đến Yên sơn (kinh đô) còn vạn dặm.

Dịch thơ:
KỂ CHUYỆN Ở MẠC PHỦ

Tiếng thanh la đánh suốt thâu đêm
Đến sáng một mình bên ngọn đèn
Nhớ nước lòng buồn như muốn chết
Đi đường người gặp chẳng hề quen
Bùn lầy chân núi lún thân ngựa
Tinh quái bên khe ẩn xác hèn (già)
Tình cảm tha hương không có hạn
Huống đường vạn dặm tới non Yên.
Phan Thị Thanh Minh
(Hà Nội) dịch thơ

PHAN THỊ THANH MINH
29-03-2013, 11:29 AM
2)
鎮 南 關 - Trấn Nam Quan
阮 攸 - Nguyễn Du (1765–1820)

Nguyên văn chữ Hán:
李 陳 舊 事 杳 難 尋
三 百 年 來 直 到 今
兩 國 平 分 孤 壘 面
一 關 雄 鎮 萬 山 心
地 偏 每 為 傅 聞 誤
天 近 纔 知 降 澤 深
帝 闕 回 頭 碧 雲 表
鈞 韶 耳 畔 有 餘 音

Phiên âm Hán Việt:
Lý Trần cựu sự diểu nan tâm
Tam bách niên lai trực đáo câm (kim)
Lưỡng quốc bình phân cô lũy diện
Nhất quan hùng trấn vạn sơn tâm
Địa thiên mỗi vị truyền văn ngộ
Thiên cận tài tri giáng trạch thâm
Đế khuyết hồi đầu bích vân biểu
Quân thiều nhĩ bạn hữu dư âm
Nguyễn Du

Dịch nghĩa:
Việc cũ đời Lý, Trần xa xôi khó biết.
Chỉ biết cửa ải này có đến ngày nay đã ba trăm năm.
Bức thành lẻ loi phân chia hai nước,
Cửa ải hùng vĩ đứng trấn giữa muôn nghìn núi non.
Cách xa nhau, thường có những lời đồn đãi không đích xác, dễ hiểu lầm.
Gần trời mới biết ơn mưa móc thấm sâu dường nào.
Quay đầu trông về cửa khuyết ở ngoài tần mây biếc.
Bên tai còn nghe văng vẳng tiếng nhạc quân thiều.

Dịch thơ
ẢI NAM QUAN

Chuyện cũ Lý Trần khó hiểu xưa
Ba trăm năm ấy đến bây giờ
Phân chia hai nước cao thành dựng
Cách biệt đôi bên dãy núi trơ
Truyền lại hiểu lầm trời đất thấu
Thấm nhuần giáng xuống địa thiên mưa
Quay đầu trông thiếu tầng mây biếc
Nghe vọng nhạc buồn vẳng tiếng xa.
Phan Thị Thanh Minh
(Hà Nội) dịch thơ

PHAN THỊ THANH MINH
29-03-2013, 11:34 AM
3)
夾 城 馬 伏 波 廟 - Giáp Thành Mã Phục Ba miếu
阮 攸 - Nguyễn Du (1765–1820)

Nguyên văn chữ Hán:
六 十 老 人 筋 力 衰
據 鞍 被 甲 疾 如 飛
殿 庭 只 慱 君 王 笑
鄉 里 寧 知 兄 弟 悲
銅 柱 僅 能 欺 越 女
珠 車 畢 竟 累 家 兒
姓 名 合 上 雲 臺 畫
猶 向 南 中 索 歲 時

Phiên âm Hán Việt:
Lục thập lão nhân cận lực suy
Cứ an bị giáp tật như phi
Điền đình chỉ bác quân vương tiếu
Hương lý ninh tri huynh đệ bi
Đồng trụ cận năng khi Việt nữ
Châu xa tất cánh lụy gia nhi
Tính danh hợp thướng Vân Đài họa
Do hướng Nam trung sách tuế thì?
Nguyễn Du

Dịch nghĩa:
Người già tuổi sáu mươi thì gân sức suy.
Ông còn mặc giáp nhảy lên ngựa nhanh như bay.
Chỉ chuốc một nụ cười của nhà vua nơi cung điện.
Đâu biết anh em nơi quê hương thương xót cho ông!
Cột đồng chỉ dối được đàn bà con gái Việt.
Chứ như xe ngọc châu chở về, thị lại để lụy cho con cháu ông.
Tên tuổi ông (đáng lẽ) được ghi nơi bức họa Vân Đài.
Sao lại đòi nước Nam hằng năm phải cúng tế?

Dịch thơ:
ĐẾN MIẾU MÃ PHỤC BA (1)

Sức lực sáu mươi đã kém thay
Vẫn còn lên ngựa phóng như bay
Mong nơi cung điện vua cười phán
Chẳng kể anh em đau xót đầy
Đồng trụ chỉ lừa thôn nữ sợ
Ngọc xa thu lượm vợ con cay
Vân Đài danh họa sao không vẽ
Lại cúng thờ chi tại Việt đây?
Phan Thị Thanh Minh
(Hà Nội) dịch thơ

(1) Mã Viện đã già yếu, muốn sang đánh Hai Bà Trưng Nhảy lên ngựa ra vẻ mạnh khỏe- Vua cười khen phong là Phục Ba tướng quân. Khi đi em họ là Thiều Du nói: "Người ta sinh ra cốt ăn mặc vừa đủ thôi, nếu cầu thêm thừa thãi thì chỉ khổ thân" Mã Viện chết không được vẽ chân dung cùng 28 vị công thần TQ ở gác Vân Đài mà lại bắt xây miếu thờ ở Việt Nam nên Nguyễn Du chê trách. Khi sang đóng quân ở hồ Dâm Đàm (Hồ Tây) thấy diều lượn trên mặt hồ đầy khí lam chướng... Mã Viện hối hận nói: "Nay nghĩ lại lời Thiều Du nói đúng nhưng không làm sao được nữa"nên Nguyễn Du có bài thơ mỉa như bài dưới đây.

PHAN THỊ THANH MINH
29-03-2013, 11:39 AM
4)
題 大 灘 馬 伏 波 廟 - Đề Đại Than Mã Phục Ba miếu.
阮 攸 - Nguyễn Du (1765–1820)

Nguyên văn chữ Hán:
鑿 通 嶺 道 定 炎 墟
蓋 世 功 名 在 史 書
向 老 大 年 矜 钁 鑠
除 衣 食 外 盡 贏 餘
大 灘 風 浪 留 前 烈
古 廟 松 杉 隔 故 閭
日 暮 城 西 荊 棘 下
霪 潭 遺 梅 更 何 如

Phiên âm Hán Việt:
Tạc thông lĩnh đạo định Viêm khư
Cái thế công danh tại sử thư
Hướng lão đại niên căng quắc thước
Trừ y thực ngoại tẫn doanh dư
Đại Than phong lãng lưu tiền liệt
Cổ miếu tùng sam cách cố lư
Nhật mộ thành tây kinh cức hạ
Dâm Đàm di hối cánh hà như.
Nguyễn Du

Dịch nghĩa:
Đục xuyên qua đường Ngũ lĩnh, bình định cõi Nam
Công danh trùm đời ghi trên sử sách
Già lớn tuổi rồi còn khoe quắc thước
Ngoài cơm áo ra, mọi thứ là thừa
Sóng gió Đại Than còn để dấu công oanh liệt thời trước
Cây tùng, cây sam ở ngôi miếu cổ xa cách quê nhà
Chiều tà dưới đám gai góc phía tây thành
Nỗi hận ở Dâm Đàm, sau cùng ra làm sao?

Dịch thơ:
MỈA MIẾU MÃ PHỤC BA Ở ĐẠI THAN

Mở đường Ngũ lĩnh đánh gò Viêm
Tên tuổi công danh sử sách truyền
Già lão tuổi cao còn cậy sức
Cơm ăn áo mặc bội dư tiền
Đại Than tên Mã lưu ngày trước
Miếu Phục bách tùng cách cố viên
Chiều tối tây thành cây bóng tỏa
Nơi Tây Hồ hối hận sao yên!
Phan Thị Thanh Minh
(Hà Nội)

Phan Thị Thanh Minh (Hà Nội)
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hà Nội ngày 19.7.2012

TRẦN THỊ THANH LIÊM
25-05-2014, 05:44 PM
Em góp cùng chị một bài dịch thơ CBQ chị nhé:

Thơ Cao Bá Quát



薄暮思家

高伯适

城上凍雲千里陰,
梁園花柳瞙沉沉。
高堂兩處思兒淚,
薄宦三春感舊心。
對榻貧妻烹北茗,
敲門小女弄南音。
邦家有道知何用?
一病蹉跎歲自深。

Bạc mộ tư gia

Cao Bá Quát

Thành thượng đống vân thiên lý âm,
Lương viên hoa liễu mạc trầm trầm.
Cao đường lưỡng xứ tư nhi lệ,
Bạc hoạn tam xuân cảm cựu tâm.
Đối tháp bần thê phanh bắc mính,
Xao môn tiểu nữ lộng nam âm.
Bang gia hữu đạo tri hà dụng?
Nhất bệnh tha đà tuế tự thâm


Dịch nghĩa:

Chiều hôm nhớ nhà

Mây lạnh trên thành che rợp ngàn dặm

Hoa liễu vườn bên cầu mong manh rủ xuống

Hai chốn cha mẹ tuôn lệ nhớ con.

Chức quan nhỏ bạc bẽo làm cảm thương lòng mong mỏi của cha mẹ khi còn nhỏ

Ngồi trước giường, vợ nghèo nấu (pha) trà kiểu Bắc

Gõ cửa, con gái nhỏ chơi điệu phương Nam

Nước nhà có đạo (thịnh trị) biết dùng người cách gì đây?

Bệnh tật lay lắt kéo dài suốt cả năm.

Chú thích:

- Cao đường lưỡng xứ: Chỉ cha mẹ ở hai nơi.

- Tam xuân: Ba tháng mùa xuân, ám chỉ cha mẹ; xuất xứ từ thơ "Du tử ngâm" của Mạnh Giao đời Đường. Ý trong bài: Thương cha mẹ từng hy vọng khi anh em Cao Bá Quát thông minh từ nhỏ.

- Nam âm: Có thể chỉ điệu Nam ai, Nam bình nghe thật ảo não, tả tâm trạng công chúa Huyền Trân về xứ Chiêm Thành, rất hợp cảnh ngộ họ Cao.

- Hà dụng: Dùng cách gì đây. Kẻ sĩ gặp lúc nước nhà có đạo thì ra làm quan (xuất) gặp lúc nước nhà vô đạo thì ở ẩn (xử). Họ Cao cám cảnh cho mình “xuất” mà chỉ nhận cảnh đau ốm, chẳng đền đáp nổi ơn sinh thành.

Dịch thơ:

CHIỀU HÔM NHỚ NHÀ


Thành vắng mây che phủ lạnh mờ
Bên cầu trầm mặc liễu lơ thơ
Cao đường rơi lệ bao buồn nhớ
Chức nghiệp thương tâm luống vọng chờ
Trà Bắc vợ nghèo pha lạch cạch
Điệu Nam con trẻ hát ầu ơ
Sinh thời tuấn kiệt ai cầu nhỉ
Đeo đẳng thâm căn bệnh vật vờ.



Trần Thị Thanh Liêm