Nắng Xuân
11-04-2013, 10:44 AM
CẢM NHẬN BAN ĐẦU
VỀ 3 BÀI THƠ THUẬN NGHỊCH ĐỘC
Có lẽ đây là kỷ lục lần đầu tiên trong một cuộc thi thơ đường luật trên NET lại có đến xấp xỉ 10% bài dự thi là viết Thuận nghịch độc, một trong vài thể thơ khó, kén người chơi, người đọc nhất hạng. Trong 4/43 bài thơ dự thi viết TNĐ đã nói trên có tới 3 bài được chọn vô Chung khảo với số phiếu tuyệt đối 3/3. Sự thật này gây cho tôi vừa ngạc nhiên vừa thích thú nhưng cũng có phần e ngại, bởi trình độ của bạn thơ lên cao đến thế không biết mình có đủ khả năng thẩm định hay chưa?
Cũng may, trong những ngày đầu phát động cũng có một vài tranh luận nho nhỏ và chúng tôi, những thành viên được vinh hạnh mời tham gia BGK đành vừa bào chữa vừa tự trấn an mình bằng cách nhìn nhận rằng với "thời gian có hạn", bằng "trình độ có hạn" cố gắng hết sức để đánh giá "cái vô hạn của kiến thức" trong các bài dự thi một cách công tâm.
Thật sự khó khăn cho chúng tôi ngay từ ban đầu bởi các bài dự thi năm nay đều viết khá nhuyễn. Hầu hết các tác giả đều nắm được lý thuyết khá vững cũng như hiểu rõ gu của đường luật Cổ Mộ phái. Phần lớn các bài viết đều phối thanh tốt, tròn vận, đảo thanh vần rất ít điệp thanh, điệp vần và hiếm gặp một số lỗi hay bệnh. Việc chọn 10 bài vô Chung khảo phải trải qua sự đắn đo cân nhắc hết sức kỹ lưỡng và rất may là sự lựa chọn của 3 thành viên trong BGK không sai khác nhiều lắm. Thực tế ngoài một bài thất luật 1 chiều nghịch (do t/g vô tình quên để ý rà soát lại) có thể nói hầu hết bài thơ dự thi đều khá hay, chọn bài này hay bài khác vào chung khảo cũng chỉ chênh nhau một 10 một 8. Dù sao kết quả đã công bố cũng là mực thước tương đối được thừa nhận.
Kết quả cuối cùng vẫn còn ở phía trước, vì vậy tôi xin chia sẻ với bạn đọc vài cảm nhận của tôi lần lượt về 3 bài TNĐ đã nói trên theo đúng thứ tự mà BTC đã đánh số (chưa hề có ngụ ý xếp hạng ở đây). Tôi xin được phép nhận xét chung vì cả 3 bài đều thiên về cảnh sắc, đều có sự đầu tư công phu trong việc chắt lọc ngôn ngữ chắc hẳn tác giả của chúng phải là những người có năng lực viết bẩm sinh, có chiều sâu suy nghĩ và vốn sống khá dày dạn. Những năm gần đây, số lượng các tác giả viết TNĐ, họa thơ TNĐ cũng như số lượng bài thơ viết theo lối TNĐ ngày càng nhiều thể hiện trào lưu tìm tòi, khám phá khá phát triển nhưng cũng mang lại nỗi buồn cho các nhà thơ, nhà phê bình và người đọc bởi đa số viết chưa tới. Phần lớn các bài thơ TNĐ trên NET bị gượng ép câu chữ, gò uốn nghĩa đến mức gây khó chịu cho người đọc. Nhẹ nhất thì cũng khổ độc hoặc lỗi phách...
NẮNG XUÂN
Nà nuột nắng xuân biển tiếp trời
Nắng hòa xuân gội sóng đầy vơi
Hoa bừng cội nắng xuân vời vợi
Lá trổ cành xuân nắng ngợi ngời
Xòa nước rải xuân trao nắng ngọt
Trải mùa ươm nắng đón xuân tươi
Ta chờ nắng thắm nồng xuân mộng
Ngà ngọc chiếu xuân nắng mỉm cười.
Cười mỉm nắng xuân chiếu ngọc ngà
Mộng xuân nồng thắm nắng chờ ta
Tươi xuân đón nắng ươm mùa trải
Ngọt nắng trao xuân rải nước xòa
Ngời ngợi nắng xuân cành trổ lá
Vợi vời xuân nắng cội bừng hoa
Vơi đầy sóng gội xuân hòa nắng
Trời tiếp biển xuân nắng nuột nà.
Nguyên Xuân
Bài NẮNG XUÂN có không gian trải rộng, một bức tranh xuân với toàn cảnh thiên nhiên từ hương vườn cỏ nội lá hoa đến biển trời sóng nước... Tất cả cùng hòa quyện trong làn nắng ấm chan hòa làm lay động lòng người "Ta chờ nắng thắm nồng xuân mộng". Đó chính là điểm nhấn của bài thơ, nó thoát hẳn ra khỏi sự miêu tả cảnh vật thông thường. Ngoài ra một số từ nhân cách hóa rất gợi như: nà nuột, gội, bừng, trổ, trải, rải, ươm... dù đâu đó đã nhiều t/g vận dụng, nhưng t/g đưa vào bài thơ rất khéo léo, ý vị và không trùng lắp nhằm tạo dựng một phong cách riêng. Cặp từ láy "vời vợi", "ngời ngợi", được đảo ngữ một cách sáng tạo, ít thấy nhưng quả thực vẫn rất sáng nghĩa chứ không gượng ép như một số từ của nhiều bài viết khác trên NET. Ba dấu nặng ở cuối các câu 3, 5, 7 (một kiểu thượng vỹ, theo một số tài liệu) chiều thuận và một lỗi thanh ở câu 2 chiều nghịch tạo một nét duyên như chiếc răng khểnh của cô gái xuân thì.
SẮC XUÂN
Vàng rực sắc mai nắng ngập đầy
Ngát thơm nồng ấm má hây hây
Vang âm trống hội vào thôn xóm
Rạng ánh xuân thì đến đó đây
Nhang khói quyện hòa hương tỏa cuộn
Rượu trà nâng chúc ý mê say
Tràn dâng chữ nghĩa tình ngây ngất
Làng bản kết thân mãi tháng ngày.
Ngày tháng mãi thân kết bản làng
Ngất ngây tình nghĩa chữ dâng tràn
Say mê ý chúc nâng trà rượu
Cuộn toả hương hoà quyện khói nhang
Đây đó đến thì xuân ánh rạng
Xóm thôn vào hội trống ấm vang
Hây hây má ấm nồng thơm ngát
Đầy ngập nắng mai sắc rực vàng.
Kiều Thành
Bài SẮC XUÂN cũng là một bài thơ rất hay dưới ngòi bút có vốn sống phong phú và mang đậm bản sắc vùng miền. Nổi bật là có sự hòa trộn, giao lưu văn hóa Kinh–Thượng (thôn xóm–bản làng). Độc giả dễ dàng đoán biết tác giả đến từ Tây Nguyên và không phải là môn sinh CM phái chính thống bởi sự phối âm và đảo vần chưa được chú ý. Nhiều lỗi "lưng ong" (theo lý thuyết của Cổ Mộ phái) và chiều nghịch có hai vần "trầm bình thanh" (dấu huyền) liền kề ở câu 1 và câu 2 phạm một trong những điều kỵ. Tuy vậy, những lỗi này luôn nhận được sự cảm thông của bạn thơ và cả độc giả bởi sự khó thể hiện của một bài thơ TNĐ. Đặc biệt, phách thơ truyền thống (4/3 hoặc 2/2/3) không bị phá vỡ đã làm tăng hiệu quả nhịp điệu của bài thơ. Nội dung bài thơ cũng rất có giá trị khi thơ gắn liền với cuộc sống buôn làng, mùa xuân, lễ hội. Chỉ tiếc là ché rượu cần, nhịp chiêng, tiếng đàn T'rưng và bóng dáng của các cô sơn nữ... bị giới hạn bởi khuôn khổ ngôn ngữ mà người đọc chỉ có thể kết nối đến bằng sự liên tưởng.
XUÂN
Xuân hoà nghĩa quyện thắm đời xuân
Toả sắc thêm hồng rạng nét xuân
Xuân đến cảnh ngời bông hé nhụy
Gió lồng hương dịu vẻ tràn xuân
Xuân dào dạt ý khơi nồng rượu
Mắt chứa chan tình ngấm đượm xuân
Xuân ánh trải đều soi sáng mãi
Xuân đầy nguyện ước mộng tròn xuân.
Xuân tròn mộng ước nguyện đầy xuân
Mãi sáng soi đều trải ánh xuân
Xuân đượm ngấm tình chan chứa mắt
Rượu nồng khơi ý dạt dào xuân
Xuân tràn vẻ diụ hương lồng gió
Nhụy hé bông ngời cảnh đến xuân
Xuân nét rạng hồng thêm sắc toả
Xuân đời thắm quyện nghĩa hoà xuân.
Kiều Thành
Bài XUÂN có sự khác biệt bởi kết hợp nhiều hình thức nghệ thuật. Có thể nói đến nay, TNĐ một vần duy nhất chưa xuất hiện hay chí ít thì cá nhân tôi chưa từng bắt gặp. Điệp từ "XUÂN" được lặp đi, lặp lại khá nhiều, có câu đến 2 lần, nhưng không nhàm. Sự phối thanh, chắt lọc ngôn ngữ được đầu tư khá công phu, không hề vướng thi bệnh. Về mặt nội dung, bài thơ rất đạt khi biết liên kết giữa xuân với đời, xuân tình, xuân nghĩa, cùng với nét xuân, sắc xuân, vẻ xuân, ý xuân... khắc họa thành một mùa xuân mộng ước. Xuân được cảm nhận bằng mắt, ngấm như men rượu, thấm đượm và lan tỏa... Khuyết duy nhất của bài XUÂN là chưa khai thác hết vẻ đẹp toàn bích của các yếu tố tạo nên cảnh xuân, ngoài hương, hoa, gió vẫn thiếu màu xanh của lá, sự lung linh của nước, sức lan tỏa của nắng, phong thái nhàn hạ của mây... Tất nhiên, đòi hỏi thì luôn "vô hạn" và sự thể hiện bao giờ cũng dừng ở mức "hữu hạn" và tôi rất bằng lòng với mức "hữu hạn" này.
Cần Thơ, ngày 23 tháng 3 năm 2013
Nắng Xuân
VỀ 3 BÀI THƠ THUẬN NGHỊCH ĐỘC
Có lẽ đây là kỷ lục lần đầu tiên trong một cuộc thi thơ đường luật trên NET lại có đến xấp xỉ 10% bài dự thi là viết Thuận nghịch độc, một trong vài thể thơ khó, kén người chơi, người đọc nhất hạng. Trong 4/43 bài thơ dự thi viết TNĐ đã nói trên có tới 3 bài được chọn vô Chung khảo với số phiếu tuyệt đối 3/3. Sự thật này gây cho tôi vừa ngạc nhiên vừa thích thú nhưng cũng có phần e ngại, bởi trình độ của bạn thơ lên cao đến thế không biết mình có đủ khả năng thẩm định hay chưa?
Cũng may, trong những ngày đầu phát động cũng có một vài tranh luận nho nhỏ và chúng tôi, những thành viên được vinh hạnh mời tham gia BGK đành vừa bào chữa vừa tự trấn an mình bằng cách nhìn nhận rằng với "thời gian có hạn", bằng "trình độ có hạn" cố gắng hết sức để đánh giá "cái vô hạn của kiến thức" trong các bài dự thi một cách công tâm.
Thật sự khó khăn cho chúng tôi ngay từ ban đầu bởi các bài dự thi năm nay đều viết khá nhuyễn. Hầu hết các tác giả đều nắm được lý thuyết khá vững cũng như hiểu rõ gu của đường luật Cổ Mộ phái. Phần lớn các bài viết đều phối thanh tốt, tròn vận, đảo thanh vần rất ít điệp thanh, điệp vần và hiếm gặp một số lỗi hay bệnh. Việc chọn 10 bài vô Chung khảo phải trải qua sự đắn đo cân nhắc hết sức kỹ lưỡng và rất may là sự lựa chọn của 3 thành viên trong BGK không sai khác nhiều lắm. Thực tế ngoài một bài thất luật 1 chiều nghịch (do t/g vô tình quên để ý rà soát lại) có thể nói hầu hết bài thơ dự thi đều khá hay, chọn bài này hay bài khác vào chung khảo cũng chỉ chênh nhau một 10 một 8. Dù sao kết quả đã công bố cũng là mực thước tương đối được thừa nhận.
Kết quả cuối cùng vẫn còn ở phía trước, vì vậy tôi xin chia sẻ với bạn đọc vài cảm nhận của tôi lần lượt về 3 bài TNĐ đã nói trên theo đúng thứ tự mà BTC đã đánh số (chưa hề có ngụ ý xếp hạng ở đây). Tôi xin được phép nhận xét chung vì cả 3 bài đều thiên về cảnh sắc, đều có sự đầu tư công phu trong việc chắt lọc ngôn ngữ chắc hẳn tác giả của chúng phải là những người có năng lực viết bẩm sinh, có chiều sâu suy nghĩ và vốn sống khá dày dạn. Những năm gần đây, số lượng các tác giả viết TNĐ, họa thơ TNĐ cũng như số lượng bài thơ viết theo lối TNĐ ngày càng nhiều thể hiện trào lưu tìm tòi, khám phá khá phát triển nhưng cũng mang lại nỗi buồn cho các nhà thơ, nhà phê bình và người đọc bởi đa số viết chưa tới. Phần lớn các bài thơ TNĐ trên NET bị gượng ép câu chữ, gò uốn nghĩa đến mức gây khó chịu cho người đọc. Nhẹ nhất thì cũng khổ độc hoặc lỗi phách...
NẮNG XUÂN
Nà nuột nắng xuân biển tiếp trời
Nắng hòa xuân gội sóng đầy vơi
Hoa bừng cội nắng xuân vời vợi
Lá trổ cành xuân nắng ngợi ngời
Xòa nước rải xuân trao nắng ngọt
Trải mùa ươm nắng đón xuân tươi
Ta chờ nắng thắm nồng xuân mộng
Ngà ngọc chiếu xuân nắng mỉm cười.
Cười mỉm nắng xuân chiếu ngọc ngà
Mộng xuân nồng thắm nắng chờ ta
Tươi xuân đón nắng ươm mùa trải
Ngọt nắng trao xuân rải nước xòa
Ngời ngợi nắng xuân cành trổ lá
Vợi vời xuân nắng cội bừng hoa
Vơi đầy sóng gội xuân hòa nắng
Trời tiếp biển xuân nắng nuột nà.
Nguyên Xuân
Bài NẮNG XUÂN có không gian trải rộng, một bức tranh xuân với toàn cảnh thiên nhiên từ hương vườn cỏ nội lá hoa đến biển trời sóng nước... Tất cả cùng hòa quyện trong làn nắng ấm chan hòa làm lay động lòng người "Ta chờ nắng thắm nồng xuân mộng". Đó chính là điểm nhấn của bài thơ, nó thoát hẳn ra khỏi sự miêu tả cảnh vật thông thường. Ngoài ra một số từ nhân cách hóa rất gợi như: nà nuột, gội, bừng, trổ, trải, rải, ươm... dù đâu đó đã nhiều t/g vận dụng, nhưng t/g đưa vào bài thơ rất khéo léo, ý vị và không trùng lắp nhằm tạo dựng một phong cách riêng. Cặp từ láy "vời vợi", "ngời ngợi", được đảo ngữ một cách sáng tạo, ít thấy nhưng quả thực vẫn rất sáng nghĩa chứ không gượng ép như một số từ của nhiều bài viết khác trên NET. Ba dấu nặng ở cuối các câu 3, 5, 7 (một kiểu thượng vỹ, theo một số tài liệu) chiều thuận và một lỗi thanh ở câu 2 chiều nghịch tạo một nét duyên như chiếc răng khểnh của cô gái xuân thì.
SẮC XUÂN
Vàng rực sắc mai nắng ngập đầy
Ngát thơm nồng ấm má hây hây
Vang âm trống hội vào thôn xóm
Rạng ánh xuân thì đến đó đây
Nhang khói quyện hòa hương tỏa cuộn
Rượu trà nâng chúc ý mê say
Tràn dâng chữ nghĩa tình ngây ngất
Làng bản kết thân mãi tháng ngày.
Ngày tháng mãi thân kết bản làng
Ngất ngây tình nghĩa chữ dâng tràn
Say mê ý chúc nâng trà rượu
Cuộn toả hương hoà quyện khói nhang
Đây đó đến thì xuân ánh rạng
Xóm thôn vào hội trống ấm vang
Hây hây má ấm nồng thơm ngát
Đầy ngập nắng mai sắc rực vàng.
Kiều Thành
Bài SẮC XUÂN cũng là một bài thơ rất hay dưới ngòi bút có vốn sống phong phú và mang đậm bản sắc vùng miền. Nổi bật là có sự hòa trộn, giao lưu văn hóa Kinh–Thượng (thôn xóm–bản làng). Độc giả dễ dàng đoán biết tác giả đến từ Tây Nguyên và không phải là môn sinh CM phái chính thống bởi sự phối âm và đảo vần chưa được chú ý. Nhiều lỗi "lưng ong" (theo lý thuyết của Cổ Mộ phái) và chiều nghịch có hai vần "trầm bình thanh" (dấu huyền) liền kề ở câu 1 và câu 2 phạm một trong những điều kỵ. Tuy vậy, những lỗi này luôn nhận được sự cảm thông của bạn thơ và cả độc giả bởi sự khó thể hiện của một bài thơ TNĐ. Đặc biệt, phách thơ truyền thống (4/3 hoặc 2/2/3) không bị phá vỡ đã làm tăng hiệu quả nhịp điệu của bài thơ. Nội dung bài thơ cũng rất có giá trị khi thơ gắn liền với cuộc sống buôn làng, mùa xuân, lễ hội. Chỉ tiếc là ché rượu cần, nhịp chiêng, tiếng đàn T'rưng và bóng dáng của các cô sơn nữ... bị giới hạn bởi khuôn khổ ngôn ngữ mà người đọc chỉ có thể kết nối đến bằng sự liên tưởng.
XUÂN
Xuân hoà nghĩa quyện thắm đời xuân
Toả sắc thêm hồng rạng nét xuân
Xuân đến cảnh ngời bông hé nhụy
Gió lồng hương dịu vẻ tràn xuân
Xuân dào dạt ý khơi nồng rượu
Mắt chứa chan tình ngấm đượm xuân
Xuân ánh trải đều soi sáng mãi
Xuân đầy nguyện ước mộng tròn xuân.
Xuân tròn mộng ước nguyện đầy xuân
Mãi sáng soi đều trải ánh xuân
Xuân đượm ngấm tình chan chứa mắt
Rượu nồng khơi ý dạt dào xuân
Xuân tràn vẻ diụ hương lồng gió
Nhụy hé bông ngời cảnh đến xuân
Xuân nét rạng hồng thêm sắc toả
Xuân đời thắm quyện nghĩa hoà xuân.
Kiều Thành
Bài XUÂN có sự khác biệt bởi kết hợp nhiều hình thức nghệ thuật. Có thể nói đến nay, TNĐ một vần duy nhất chưa xuất hiện hay chí ít thì cá nhân tôi chưa từng bắt gặp. Điệp từ "XUÂN" được lặp đi, lặp lại khá nhiều, có câu đến 2 lần, nhưng không nhàm. Sự phối thanh, chắt lọc ngôn ngữ được đầu tư khá công phu, không hề vướng thi bệnh. Về mặt nội dung, bài thơ rất đạt khi biết liên kết giữa xuân với đời, xuân tình, xuân nghĩa, cùng với nét xuân, sắc xuân, vẻ xuân, ý xuân... khắc họa thành một mùa xuân mộng ước. Xuân được cảm nhận bằng mắt, ngấm như men rượu, thấm đượm và lan tỏa... Khuyết duy nhất của bài XUÂN là chưa khai thác hết vẻ đẹp toàn bích của các yếu tố tạo nên cảnh xuân, ngoài hương, hoa, gió vẫn thiếu màu xanh của lá, sự lung linh của nước, sức lan tỏa của nắng, phong thái nhàn hạ của mây... Tất nhiên, đòi hỏi thì luôn "vô hạn" và sự thể hiện bao giờ cũng dừng ở mức "hữu hạn" và tôi rất bằng lòng với mức "hữu hạn" này.
Cần Thơ, ngày 23 tháng 3 năm 2013
Nắng Xuân