PDA

Xem phiên bản đầy đủ : Ngọc Châu giới thiiệu phần 5&6 của tập thơ 108 BÀI THƠ ĐƯỜNG CHỌN DỊCH



Ngọc Châu
12-12-2013, 11:27 AM
Ngọc Châu giới thiệu tập
"108 BÀI THƠ ĐƯỜNG CHỌN DỊCH"

(Dịch giả Phạm Đình Nhân là Chủ tịch Quỹ Giải thưởng Phạm Thận Duật, nguyên Phó Giám đốc Trung tâm UNESCO Thông tin tư liệu LS&VHVN, hiện ở 110 Ngõ 158 Ngọc Hà, Ba Đình, Hà Nội
Năm nay bác đã trên 80 tuổi, thuộc vào lớp người "xưa nay hiếm". Hiếm vì là nhà thơ cao tuổi đã đành, nhưng hiếm nhất chính là vi bác thông hiểu Hán tự. Lớp người như bác đúng là càng ngày càng ít đi đối với đất nước chúng ta hiện nay. Vậy nên khi nhận được tập "108 BÀI THƠ ĐƯỜNG CHỌN DỊCH" của bác gửi tặng tôi nghĩ mình có trách nhiệm phải giới thiệu càng rộng rãi càng tốt tới mọi người yêu thơ - nhất là với những người yêu thích thơ luật Đường (TLĐ), hiện đang sinh hoạt ở rất nhiều Câu lạc bộ TLĐ trên toàn quốc. Cũng là góp phần nhỏ vào việc lưu giữ cho thế hệ sau một tài liệu tham khảo cho kho tàng thơ Đường thu thập được từ trước đến nay.
Tập thơ gồm 108 bài thơ chọn dịch, chia làm hai phần.
Phần thứ nhất gồm 50 bài thơ Đường của 30 nhà thơ Trung quốc xếp theo vần A-B-C, phần thứ hai gồm 58 bài thơ chữ Hán của 36 nhà thơ Việt Nam xếp theo thời gian.
Tuy Ngọc Châu có được học 6 năm Trung văn ở trường phổ thông nhưng từ ngày ấy đến nay ít dùng, tri thức về Hán học rất hạn chế nên chỉ mong muốn được giới thiệu tới nhiều độc giả mà không dám luận bình gì về các bản dịch. Phần này xin giành cho người đọc có những phẩm bình sau khi đọc tác phẩm thơ của dịch giả Phạm Đình Nhân (mail của bác Nhân: (phdinhnhan@gmail.com ), điện thoai: 04.37221708 – 0987552467
Do dung lượng tập thơ khá dài nên mỗi lần chỉ giới thiệu từ 1 đến 2 tác giả, Ngọc Châu cũng mạn phép làm theo người xưa là góp thêm một số bản dịch của mình chỉ để cho sự cảm nhận bài thơ nguyên tác được phong phú hơn mà thôi.)
(Tiếp phần 5)

18. MẠNH HẠO NHIÊN
(689 – 740)

Mạnh Hạo Nhiên, tên huý là Hạo, tự Hạo Nhiên, quê ở Tương Dương, sống ẩn cư ở núi Lộc Môn thuộc tỉnh Hồ Bắc. Ông làm quan, từng giữ chức Tân khách Mạc phủ. Sống có khí tiết song lại thích an nhàn nên từ quan về ở ẩn. Ông mất năm 740 để lại tác phẩm Mạnh Hạo Nhiên thi văn tập gồm 4 cuốn.

34. XUÂN HIỂU
Nguyên tác : 春 晓
春 眠 不 覺 晓
处 处 聞 啼 鳥
夜 来 風 雨 聲
花 落 知 多 少


Phiên âm : Xuân hiểu
Xuân miên bất giác hiểu
Xứ xứ văn đề điểu
Dạ lai phong vũ thanh,
Hoa lạc tri đa thiểu!

Dịch thơ :
Buổi sáng mùa xuân
Phạm Đình Nhân
Dịch 2006
Tỉnh giấc xuân trời sáng,
Tiếng chim hót nơi nơi,
Suốt đêm mưa gió thét,
Hoa rụng biết bao rồi!

Sáng xuân
Ngọc Châu
Dịch 2013

Sáng xuân bừng tỉnh giấc nồng
Chim vui ca hát rộn trong vườn nhà
Đêm qua mưa gió đến là
Lá cành rơi rụng, xác hoa đầy vườn!

19. TÀO ĐƯỜNG


Tào Đường, nhà thơ đời Vãn Đường, không rõ năm sinh và năm mất. Ông tên chữ là Nghiêu Tân, hiệu là Tố Quá đạo sĩ, người Quế Châu.


35. LƯU NGUYỄN DU THIÊN THAI
Nguyên tác : 劉 阮 遊 天 台
樹 入 天 台 石 路 新
雲 和 草 静 囧 無 塵
煙 霞 不 醒 生 前 事
水 木 空 疑 夢 後 身
往 往 雞 鳴 巖 下 月
時 時 犬 吠 洞 中 春
不 知 此 地 歸 何 處
須 就 桃 原 問 主 人

Phiên âm : Lưu Nguyễn du Thiên Thai,
Thụ nhập Thiên Thai thạch lộ tân,
Vân hoà thảo tĩnh, quýnh vô trần.
Yên hà bất tỉnh sinh tiền sự,
Thuỷ mộc không nghi mộng hậu thân.
Vãng vãng kê minh nham hạ nguyệt
Thời thời khuyển phệ động trung xuân.
Bất tri thử địa quy hà xứ,
Tu tựu Đào Nguyên vấn chủ nhân.

Dịch thơ :
Lưu Nguyễn chơi Thiên Thai

Phạm Đình Nhân
Dịch 2007

Vào động Thiên Thai vách đá ngăn,
Cỏ cây mây lá, sạch phong trần.
Khói sương chẳng ngộ sinh tiền kiếp,
Rừng suối không còn mộng hậu thân.
Gà gáy âm vang trăng dưới núi,
Chó kêu văng vẳng động mùa xuân.
Nơi đây không biết là đâu nhỉ,
Vào tận Đào Nguyên hỏi chủ nhân.

Lưu Nguyễn dạo Thiên Thai
Ngọc Châu
Dịch 2013

Thiên Thai vách động đá ngăn
Cỏ che, mây chắn, bụi trần sạch băng
Tiền kiếp gió sương cản giăng
Suối rừng rửa sạch phù vân mai ngày
Gáy vang gà gọi trăng đầy
Chó kêu đâu đó vui vầy động xuân
Đây là đâu, khách tần ngần
Đào Nguyên tìm hỏi chủ nhân cho tường.

20. THÔI ĐỒ

36. XUÂN TỊCH LỮ THỨ
Nguyên tác : 春 夕 旅 次
水 流 花 謝 兩 無 情
送 盡 東 風 過 楚 城
蝴 蝶 夢 中 家 萬 里
杜 鵑 枝 上 月 三 歌
故 園 書 動 經 年 絕
花 髮 春 崔 兩 鬢 生
自 是 不 歸 歸 便 得
五 湖 煙 景 有 誰 爭

Phiên âm : Xuân tịch lữ thứ
Thuỷ lưu, hoa tạ, lưỡng vô tình,
Tống tận đông phong quá Sở thành.
Hồ điệp mộng trung gia vạn lý,
Đỗ quyên chi thượng nguyệt tam ca.
Cố viên thư động kinh niên tuyệt,
Hoa phát xuân thôi lưỡng mấn sinh.
Tự thị bất quy, quy tiện đắc,
Ngũ hồ yên cảnh hữu thuỳ tranh?

Dịch thơ :
Đêm xuân xa nhà

Phạm Đình Nhân
Dịch 2007
Hoa trôi nước chảy khéo vô tình,
Nhờ gió đông đưa tận Sở thành.
Giấc điệp mơ nhà xa vạn nẻo,
Đầu cành quyên hót nguyệt ba canh.
Thư nhà đã vắng tròn năm lẻ,
Hoa đón xuân cùng tóc bạc nhanh.
Không về, về cũng do mình quyết,
Mây khói Ngũ Hồ đẹp tựa tranh.

Đêm xuân lữ khách
Ngọc Châu
Dịch 2013

Vô tình - nước chảy, hoa trôi
Gió đông đưa đẩy tận nơi Sở thành
Đầu cành quyên hót ba canh
Xa nhà vạn nẻo mơ quanh đêm dài
Tròn năm vắng thư nhà rồi
Đón xuân tóc bạc da mồi bên hoa
Về hay không cũng do ta
Ngũ Hồ mây khói đúng là cảnh tranh.

21. THÔI HIỆU
( ? – 754)

Thôi Hiệu, nhà thơ đời Đường, người Biện Châu nay là huyện Khai Phong tỉnh Hà Nam. Đỗ tiến sĩ năm Khai Nguyên thứ 13, đời Đường Huyền Tông (năm 725). Làm quan đến chức Tư huấn Viên ngoại lang.
37. HOÀNG HẠC LÂU
Nguyên tác : 黄 鶴 楼
昔 人 已 乘 黄 鶴 去
此 地 空 餘 黄 鶴 楼
黄 鶴 一 去 不 復 返
白 雲 千 载 空 悠 悠
睛 川 厯 厯 漢 陽 樹
芳 草 萋 萋 鵡 洲 鸚
日 暮 關 鄉 何 處 是
烟 波 江 上 使 人 愁


Phiên âm : Hoàng Hạc lâu
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.
Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Dịch thơ :
Lầu Hoàng Hạc (1)

Phạm Đình Nhân
Dịch 2007
1. Ai cưỡi hạc bay lâu quá rồi
Để lầu Hoàng Hạc mãi đơn côi
Hạc vàng bay mãi không quay lại
Mây trắng lượn hoài mãi chẳng thôi
Anh Vũ bờ non xanh cỏ biếc
Hán Dương sông lặng bóng cây ngồi
Hoàng hôn gợi nhớ quê đâu nhỉ?
Sương khói trên sông buồn chẳng nguôi
Phạm Đình Nhân
Dịch 2005

2. Hạc vàng ai cưỡi đi rồi,
Còn đây Hoàng Hạc lẻ loi một lầu.
Hạc vàng bay mất từ lâu,
Nghìn năm mây trắng trên đầu còn bay.
Hán Dương cổ thụ còn đây,
Vũ Châu(2) thơm ngát tràn đầy cỏ non.
Chiều hôm quê cũ đâu còn,
Trên sông khói sóng nỉ non giấc sầu.

Hoàng Hạc lâu
Ngọc Châu
Dịch 2013

Ai cưỡi hạc bay đi mất rồi
Chỉ còn Hoàng Hạc lầu đơn côi
Rời xa, mãi mãi chim vàng vắng
Quanh quẩn, muôn đời mây trắng trôi
Anh Vũ bờ xanh màu cỏ mọc
Hán Dương sông mát bóng cây ngồi
Hoàng hôn gợi nhớ quê đâu tá
Khói quyện sóng buồn chẳng thể nguôi.

38. TRƯỜNG CAN HÀNH
Nguyên tác : 長 干 行 (其一)
君 家 何 處 住
妾 住 在 橫 塘
停 船 暫 借 問
或 恐 是 同 鄕
長 干 行 (其二)
家 臨 九 江 水
来 去 九 江 側
同 是 長 干 人
生 小 不 相 識

Phiên âm : Trường Can hành (Kỳ 1)
Quân gia hà xứ trú,
Thiếp trú tại Hoành Đường.
Đình thuyền tạm tá vấn,
Hoặc khủng thị đồng hương.

Trường Can hành (Kỳ 2)
Gia lâm cửu giang thuỷ,
Lai khứ cửu giang trắc,
Đồng thị Trường Can nhân,
Sinh tiểu bất tương thức.
Dịch thơ :
Trường Can hành khúc (kỳ 1)
Phạm Đình Nhân
Dịch 2006

Nhà chàng ở nơi đâu?
Hoành Đường nhà thiếp đấy.
Dừng thuyền ta thăm hỏi,
Hẳn ta đồng hương đây?

Trường Can hành khúc (kỳ 2)

Phạm Đình Nhân
Dịch 2006

Nhà anh bên Cứu Long giang
Cứu Long nơi ấy anh thường lại qua
Trường Can quê của chúng ta
Vì em còn nhỏ sao mà biết anh.

Khúc hát đường Trường Can (1)

Ngọc Châu
Dịch 2013

Xin hỏi, nhà chàng nơi đâu
Còn thiếp ở Hoành Đường đấy
Dừng thuyền ta hỏi thăm nhau
Dễ là đồng hương, chắc vậy.

Khúc hát đường Trường Can (2)

Nhà anh miền đất chín sông
Cửu giang vẫn thường qua lại
Trường Can hẳn là quê chung
Hậu sinh nàng chưa biết tới.


22. THÔI HỘ

Thôi Hộ quê ở Bác Lãng, nay là Hà Bắc. Đỗ tiến sĩ năm Trinh Nguyên thứ 12 (796), làm quan đến chức Tiết độ sứ.

39. ĐỀ ĐÔ THÀNH NAM TRANG
Nguyên tác : 題 都 城 南 莊
昔 年 今 日 此 門 中
人 靣 桃 花 相 映 紅
人 靣 不 知 何 處 去
桃 花 依 舊 笑 東 风

Phiên âm : Đề Đô thành nam trang
Tích niên kim nhật thử môn trung,
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng.
Nhân diện bất tri hà xứ khứ,
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.
Dịch thơ :
Viết ở trại phía nam Đô thành
Phạm Đình Nhân
Dịch 2004
1. Chốn đây, ngày ấy, năm nào,
Người xinh sánh với hoa đào hồng tươi.
Má đào nay ở đâu rồi,
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông?

Dịch 2012

2. Năm trước ngày nay tại chốn này
Hoa đào, má phấn đỏ hây hây
Má hồng nay đã đi đâu nhỉ?
Để lại hoa đào với gió mây
3. Ngày này năm trước ở nơi đây
Má phấn hoa đào đẹp ngất ngây
Nay đến má hồng không thấy nữa
Đào hoa năm trước vẫn còn đây

Thơ viết ở nam trại Đô Thành

Ngọc Châu
Dịch 2013

Năm xưa ngày ấy ở chốn này
Hoa đào bên má thắm ngất ngây
Má thắm giờ đây đâu rồi nhỉ
Để một đào hoa hóng gió tây

23. TRẦN ĐÀO

Trần Đào tự là Tung Bá. Quê ở Hà Dương tỉnh Giang Tây. Nhiều lần thi không đỗ, ông về ở ẩn, tự xưng là: “Tam giáo bố y” (áo vải của ba giáo). Bài thơ Lũng Tây hành được xem như bài thơ hay nhất trong dòng thơ biên tái của Trần Đào.

40. LŨNG TÂY HÀNH
Nguyên tác : 儱 西 行
誓 掃 匈 奴 不 顧 身
五 千 貂 錦 塟 胡 塵
可 憐 無 定 河 骨 邊
猶 是 春 閨 夢 裏 人


Phiên âm : Lũng Tây hành
Thệ tảo Hung nô bất cố thân,
Ngũ thiên điêu cẩm táng hồ trần.
Khả liên Vô Định hà biên cốt,
Do thị xuân khuê mộng lý nhân.

Dịch thơ :
Hành khúc Lũng Tây

Thề diệt Hung Nô không tiếc thân,
Năm nghìn tướng sĩ đã lìa thân,
Bên dòng Vô Định đầy xương cốt,
Thương kẻ khuê phòng mộng gối xuân.
Dịch 2007

Hành khúc Lũng Tây

Ngọc Châu
Dịch 2013

Xả thân thề diệt Hung Nô
Năm nghìn tráng sĩ chung mồ nơi đây
Dòng Vô Định xương chất đầy
Thương bao khuê phụ đêm ngày chờ mong

(tiếp phần 6)

24. TRƯƠNG HÚC
(658 - 747)
Trương Húc tên chữ Bá Cao, người Tô Châu, tỉnh Giang Tô. Ông là nhà thơ và là nhà thư pháp nổi tiếng thời nhà Đường, Trung Quốc. Trong thời Khai Nguyên, đời vua Đường Huyền Tông, Trương Húc làm quan đến Thường Thục Úy, về sau thăng đến Hữu suất Phủ trưởng, nên còn được gọi là Trương Trưởng sử. Ông cùng với Hạ Tri Chương, Trương Nhược Hư và Bao Dung được người đương thời liệt vào “Ngô trung tứ sĩ” (Bốn danh sĩ đất Ngô). Ngoài tài thơ, hay rượu, Trương Húc còn là một nhà thư pháp nổi tiếng. Đặc biệt ông giỏi “cuồng thảo”,là một trong nhiều hình thức viết chữ trong nghệ thuật thư pháp. Do vậy, ông và Hoài Tố, người cùng thời, được người đời xưng tụng là “Cuồng thảo nhị tuyệt” tức hai bậc tuyệt đỉnh về cuồng thảo, là “Điên Trương, Tu‎ý Tố” nghĩa là Trương Húc điên và Hoài Tố say.Tương truyền, Trương Húc đã lấy cảm hứng từ những màn múa kiếm của Công Tôn Đại Nương rồi đưa vào phong cách viết đặc biệt của mình..

41. ĐÀO HOA KHÊ
Nguyên tác 桃 花 谿
隱 隱 飛 橋 隔 野 煙
石 磯 西 畔 問 漁 船
桃 花 盡 日 隨 流 水
洞 在 清 溪 何 處 邊
Phiên âm : Đào hoa khê
Ẩn ẩn phi kiều cách dã yên,
Thạch kỵ tây bạn vấn ngư thuyền :
Đào hoa tận nhật tùy lưu thủy,
Động tại thanh khê hà xứ biên?
Dịch thơ:
Suối hoa đào
Phạm Đình Nhân
Dịch 2004
Một chiếc cầu treo ẩn khói sương,
Hỏi thăm thuyền cá đậu bờ mương
Ngày tàn nước chảy hoa trôi hết,
Động tại khe xanh, đâu nẻo đường?


Suối hoa đào
Ngọc Châu
Dịch 2013

Cầu treo ẩn giữa khói sương
Hỏi thuyền câu tựa bờ mương đôi lời:
Ngày tàn nước chảy hoa trôi
Khe xanh tìm đến mong người chỉ cho?


25. TRƯƠNG KẾ
( - 756 - )
Tên chữ là Ý Tốn. Quê Tương Châu (Hồ Bắc). Đỗ Tiến sĩ năm Thiên Bảo thứ 14 đời Đường Huyền Tông (năm 756), làm chức Diêm thiết Phán quan. Cuối đời Đường Đại Tông, vào triều làm Tư bộ Viên ngoại lang.

42. PHONG KIỀU DẠ BẠC
Nguyên tác : 枫 橋 夜 泊
月 落 烏 啼 霜 滿 天
江 楓 漁 火 對 愁 眠
姑 蘇 城 外 寒 山 寺
夜 半 鐘 聲 到 客 船

Phiên âm : Phong kiều dạ bạc
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Dịch thơ:
Thuyền đêm đậu bến Phong Kiều
Phạm Đình Nhân
Dịch 2004

1. Quạ réo, trăng tà trời đẫm sương,
Bến phong, ánh lửa, giấc sầu vương.
Cô Tô, đêm vắng Hàn Sơn tự
Vẳng tiếng chuông ngân tới chủ xuồng.

Dịch 2011

2. Trăng tà, quạ rú, trời sương,
Bến Phong, ánh lửa, buồn vương giấc hồ
Hàn San ngoài trấn Cô Tô
Nửa đêm vẳng tiếng chuông chùa vọng ngân

Thuyền đêm đậu bến Phong Kiều

Ngọc Châu
Dịch 2013

Quạ kêu sương lúc trăng tà
Cầu Giang ánh lửa lập lòa sương đêm
Cô Tô ai đậu con thuyền
Hàn San chuông gọi nửa đêm vọng về.

26. TRƯƠNG TỊCH
(765 – 830)

Trương Tịch tự là Văn Xương. Quê ở Ô Giang, Hoà Châu tỉnh An Huy. Ông thi đỗ tiến sĩ năm 799 đời Đường Đức Tông. Đang làm Bí thư lang, được Hàn Dũ tiến cử làm Quốc tử bác sĩ. Rồi lên chức Thuỷ bộ Viên ngoại lang. Cuối cùng làm Quốc tử tư nghiệp.

43. TIẾT PHỤ NGÂM

Nguyên tác : 節 婦 吟
君 知 妾 有 夫
贈 妾 雙 明 珠
感 君 缠 绵 意
系 在 红 羅 孺
妾 家 高 樓 連 苑 起
良 人 執 戟 明 光 裏
知 君 用 心 如 日 月
师 夫 誓 擬 同 生 死
完 君 明 珠 雙 淚 垂
恨 不 相 逢 未 嫁

Phiên âm : Tiết phụ ngâm
Quân tri thiếp hữu phu,
Tặng thiếp song minh châu.
Cảm quân triền miên ý,
Hệ tại hồng la nhu.
Thiếp gia cao lâu liên uyển khởi,
Lương nhân chấp kích Minh Quang lý.
Tri quân dụng tâm như nhật nguyệt.
Sư phụ thệ nghĩ đồng sinh tử.
Hoàn quân minh châu song lệ thuỳ,
Hận bất tương phùng vị giả thi.

Dịch thơ :
Khúc ngâm tiết phụ
Phạm Đình Nhân
Dịch 2007
Biết em đã có chồng,
Tặng em đôi ngọc châu.
Cảm ơn chàng ngỏ ý,
Bên mình em giữ lâu
Lầu gác nhà em gần ngự uyển,
Chồng em đứng gác cửa Minh Quang.
Biết chàng tâm sáng như vầng nguyệt,
Tình nghĩa vợ chồng cốt thuỷ chung.
Gửi lại hạt châu đôi dòng lệ,
Tiếc không cùng gặp lúc còn xuân.

Tiết phụ ngâm

Ngọc Châu
Dịch 2012

Biết rằng em có chồng
Vẫn tặng đôi châu ngọc
Giấu tình chàng trong bọc
Cài vào áo lót hồng
Lầu nhà, Ngự Uyển gần không
Chồng vác kích canh cửa hồng Minh Quang
Biết lòng chàng sáng như gương
Nghĩa phu thê em phải mang trọn đời
Ngọc châu trả lại chàng thôi
Tiếc thay người chẳng gặp người trước kia.


27. VƯƠNG CHI HOÁN

Vương Chi Hoán quê ở Tịnh Châu nay là huyện Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Ông sinh vào thời nhà Đường. Thơ ông nổi tiếng một thời, thường hay cùng với Vương Xương Linh, Thôi Quốc Phu và Trịnh Hộ xướng hoạ. Ông thi nhiều lần không đỗ. Thơ của Vương Chi Hoán thường được các nhạc công thời đó phổ nhạc

44. XUẤT TÁI
Nguyên tác : 出 塞
黃 河 遠 上 百 雲 間
一 片 孤 城 萬 仞 山
笛 羌 何 須 怨 楊 柳
春 風 不 度 玉 門 關


Phiên âm : Xuất tái
Hoàng Hà viễn thướng bạch vân gian,
Nhất phiến cô thành vạn nhận san.
Khương địch hà tu oán dương liễu,
Xuân phong bất độ Ngọc Môn quan.

Dịch thơ :
Ra ngoài biên ải

Phạm Đình Nhân
Dịch 2006
Hoàng Hà xa tắp trắng mây đan
Một bức thành đơn giữa núi ngàn.
Tiếng sáo Khương sao ai oán liễu,
Gió xuân chẳng đến Ngọc Môn quan.

Ngoài biên ải

Ngọc Châu
Dịch 2013

Hoàng Hà mờ trắng mây đan
Trường thành đơn độc giữa ngàn non xa
Sáo Khương ai oán liễu tà
Gió xuân chẳng đến quan hà Ngọc Môn

45. ĐĂNG QUÁN TƯỚC LÂU

Nguyên tác : 登 鹳 雀 樓
白 日 依 山 盡
黄 河 入 海 流
欲 窮 千 里 目
更 上 一 層 樓

Phiên âm : Đăng Quán Tước lâu
Bạch nhật y sơn tận,
Hoàng Hà nhập hải lưu.
Dục cùng thiên lý mục,
Cánh thướng nhất tằng lâu.

Dịch thơ :
Lên lầu Quán Tước

Phạm Đình Nhân
Dịch 2006
Mặt trời đã khuất núi cao,
Hoàng Hà uốn lượn chảy vào biển khơi.
Muốn nhìn ra tận chân trời,
Một tầng lầu nữa, xin mời leo lên.

Lên lầu Quán Tước

Ngọc Châu
Dịch 2013

Mặt trời khuất hẳn phia non cao
Uốn lượn Hoàng Hà nhập biển trào
Ai muốn nhìn nơi trời tiếp đất
Mời leo tầng nữa thử xem sao.

28. VƯƠNG DUY
(699 – 759)

Vương Duy tên chữ là Ma Cật, người huyện Ky thuộc phủ Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Đỗ tiến sĩ năm 21 tuổi đời Đường Huyền Tông, làm quan đến Lại Bộ Lang trung. Khi có loạn An Lộc Sơn, ông bị ép ra làm việc. Sau hết loạn, ông được tha và phục chức nhờ ở bài thơ Ngưng Bích trì. Về sau ông làm đến Thượng thư Hữu thừa. Ông còn giỏi về âm nhạc và hội họa. Tranh sơn thuỷ của ông nổi tiếng đại biểu cho phái Nam Tông. Người đời thường khen ông là “trong thơ có hoạ, trong hoạ có thơ”. Đối với Phật giáo đương thời, ông có địa vị cao trong Thiền phái Nam tông. Người đời sau gọi ông là Thi Phật (Lý Bạch được gọi là Thi Tiên, Đỗ Phủ được gọi là Thi Thánh)


46. NGƯNG BÍCH TRÌ

Nguyên tác : 凝 璧 池
萬 户 傷 心 生 也 烟
百 何 官 日 再 朝 天
秋 槐 花 落 空 宮 俚
凝 璧 池 头 奏 管 絃

Phiên âm : Ngưng Bích trì
Vạn hộ thương tâm sinh dã yên,
Bách quan hà nhật tái triều thiên.
Thu hòe hoa lạc không cung lý,
Ngưng Bích trì đầu tấu quản huyền.

Dịch thơ :
Ao Ngưng Bích (1)

Phạm Đình Nhân
Dịch 2004
Muôn dân đau khổ bao giờ yên?
Quan lại khi nào được yết thiên?
Hoa hòe thu rụng, quanh cung trống,
Ngưng Bích đàn vang tiếng sáo huyền

Thơ viết ở ao Ngưng Bích

Ngọc Châu
Dịch 2013

Muôn dân khổ bao giờ yên
Trăm quan còn được ngước lên bệ rồng?
Hòe thu rụng, cung trống không
Đàn vang Ngưng Bích, sáo cùng họa theo.

47. TRÚC LÝ QUÁN

Nguyên tác: 竹 里 館
獨 坐 幽 篁 裏
彈 琴 復 長 嘯
深 林 人 不 知
明 月 来 相 照
Phiên âm : Trúc lý quán
Độc toạ u hoàng lý,
Đàn cầm phục trường khiếu,
Thâm lâm nhân bất tri,
Minh nguyệt lai tương chiếu

Dịch thơ:
Quán Trúc Lý

Phạm Đình Nhân
Dịch 2006

1. Một mình bên khóm trúc,
Đánh đàn, lại hát vang
Rừng thẳm ai biết được
Trăng sáng chiếu ánh vàng.

2. Một mình dưới bụi tre xanh,
Chơi đàn ta lại một canh hát dài,
Rừng sâu chẳng có một ai,
Ánh trăng sáng rực chiếu hoài đến ta

Quán Trúc Lý
Ngọc Châu
Dịch 2013

Mình ta bên khóm trúc
Chơi đàn rồi hát vang
Nơi rừng xanh ai biết
Rực sáng ánh trăng vàng.

29. VƯƠNG HÀN
( - 710 - )
Tên chữ là Tử Vũ. Người đất Tần Dương, Tĩnh Châu (Sơn Tây) Trung Quốc. Đỗ Tiến sĩ đời Đường Huệ Tông (năm 710). Làm quan đến chức Giá bộ viên ngoại lang. Cuối đời làm Tư mã tại Dao Châu

48. LƯƠNG CHÂU TỪ
Nguyên tác: 涼 州 詞
葡 淘 美 酒 夜 光 杯
欲 飮 琵 琶 馬 上 催
醉 臥 沙 場 君 莫 笑
古 来 征 戰 幾 人 回


Phiên âm: Lương Châu từ
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi,
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi.
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu,
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
Dịch thơ:
Khúc từ biệt Lương Châu

Phạm Đình Nhân
Dịch 2003

1. Rượu ngon muốn một chén say,
Đàn kia, ngựa đấy vơi đầy dục ai!
Sa trường mặc kẻ say dài,
Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về?

Dịch 2012

2. Rượu quý Bồ Đào muốn thỏa thuê
Tỳ bà lại dục ngựa mau đi
Say mềm nằm đó ai chê được
Chinh chiến từ xưa mấy kẻ về


3. Bồ Đào rượu ngọt chén lưu ly
Muốn uống, tỳ bà thúc ngựa đi
Say ngủ chiến trường cười cũng mặc
Xưa nay chinh chiến mấy ai về?



Giã từ Lương Châu

Ngọc Châu
Dịch 2013

Rượu bồ đào chén lưu li
Tì bà đã giục ngựa đi mất rồi.
Sa trường say, ngủ môi cười
Xưa nay chính chiến mấy người hồi quê?

30. VƯƠNG XƯƠNG LINH
( ? – 756)

Nhà thơ Trung Quốc đời Đường. Tự là Thiều Bá. Quê đất Giang Ninh, tỉnh Giang Tô. Đỗ tiến sĩ năm 727 đời Đường Huyền Tông được bổ làm Hiệu thư lang. Sau vì sơ xuất bị hạ làm chức Uý tại Long Tiêu, phía tây sông Tương. Khi trở về quê nhà gặp lúc loạn lạc, bị Thứ sử Lư Khâu Hiến giết chết vì tư thù.
Vương Xưong Linh được người đương thời gọi là Thi Thiên tử.

49. KHUÊ OÁN
Nguyên tác : 閨 怨
閨 中 少 婦 不 知 愁
春 日 凝 粧 上 翠 樓
忽 見 陌 頭 楊 柳 色
悔 教 夫 壻 覓 封 侯

Phiên âm: Khuê oán
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu.

Dịch thơ :
Hận phòng the
Phạm Đình Nhân
Dịch 2007

Phòng the thiếu phụ há chi sầu,
Tô điểm, ngày xuân lên trước lầu.
Bỗng thấy ven đường vương sắc liễu,
Hối xui chàng kiếm tước phong hầu.

Nỗi lòng khuê phụ
Ngọc Châu
Dịch 2005

Tươi trẻ nàng đâu biết nỗi sầu.
Điểm trang xuân sắc bước lên lầu.
Ngắm đường xanh liễu lòng chợt hối.
Xui chàng chinh chiến mộng "phong hầu".

50. TÂY CUNG XUÂN OÁN
Nguyên tác : 西 宮 春 怨
西 宮 夜 靖 百 花 香
慾 卷 珠 帘 春 恨 長
邪 抱 雲 和 深 見 月
嚨 巃 澍 色 印 昭 扬

Phiên âm : Tây cung xuân oán
Tây cung dạ tĩnh bách hoa hương,
Dục quyển châu liêm xuân hận trường,
Tà bão Vân hoà thâm kiến nguyệt,
Mông lung thụ sắc ấn Chiêu Dương.
Dịch thơ :
Oán hận mùa xuân ở Tây cung

Phạm Đình Nhân
Dịch 2006

Đêm thanh hoa ngát chốn Tây cung,
Gượng vén rèm châu hận nhớ mong,
Ôm ấp cung đàn trăng sáng tỏ,
Chiêu Dương cây khuất b óng mông lung

Oán hận mùa xuân ở Tây cung

Ngọc Châu
Dịch 2013

Đêm thanh hoa ngát Tây cung
Vén rèm vừa hận vừa mong một người
Ôm đàn dạo dưới trăng ngời
Mông lung cây khuất bóng trời Chiêu Dương


(Còn tiếp phần 7)