PDA

Xem phiên bản đầy đủ : Trang thơ dịch Nguyễn Hữu Thăng



Nguyễn Hữu Thăng
23-01-2014, 10:50 PM
TĨNH DẠ TƯ
Lý Bạch

Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương

Dịch thơ:
Bản dịch 1:
Xúc cảm đêm trăng

Bên giường trăng vằng vặc
Trắng đất ngỡ sương sa
Ngẩng lên nhìn trăng sáng
Cúi xuống nhớ quê nhà.

Bản dịch 2:
Đầu giường vằng vặc ánh trăng
Mơ màng những tưởng sương giăng nhạt nhòa
Trông lên lồng lộng Hằng Nga
Cúi đầu chạnh nhớ quê nhà nao nao.


ĐỀ TÂY LÂM BÍCH
Tô Thức
Hoành khán thành lĩnh trắc thành phong
Viễn cận câo đê các bất đồng
Bất thức Lư sơn chân diện mục
Chỉ duyên thân tại thử sơn trung

Dịch thơ:

VIẾT TRÊN VÁCH ĐÁ CHÙA TÂY LÂM
Nhìn ngắm dọc ngang đỉnh thành hòn
Xa gần cao thấp khác nhau hơn
Lư Sơn dáng dấp nào biết được
Vì đứng trập trùng giữa núi non.
Nguyễn Hữu Thăng dịch

TRẦN THỊ THANH LIÊM
08-02-2014, 01:46 AM
Dịch thơ Nguyễn Du 讀小青記
阮攸
西湖花苑盡成墟,
獨吊窗前一紙書。
脂粉有神憐死後,
文章無命累焚餘。
古今恨事天難問,
風韻奇冤我自居。
不知三百餘年後,
天下何人泣素如。

Độc Tiểu Thanh ký
Tây hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như

Dịch nghĩa:
Đọc truyện ký nàng Tiểu Thanh
Vườn hoa cạnh Tây Hồ đã thành bãi hoang,
Ta chỉ viếng nàng qua bài ký đọc trước cửa sổ mà thôi.
Son phấn có linh hồn chắc phải xót vì chuyện này xảy ra sau khi chết,
Văn chương không có mệnh mà cũng bị liên lụy, đốt đi còn sót .
Mối hận cổ kim, thật khó mà hỏi ông trời.
Ta tự coi vì cùng vận phong nhã mà mắc nỗi oan lạ.
Chẳng biết ba trăm năm sau,
Thiên hạ ai là người khóc Tố Như?

Dịch thơ:
Hoa đẹp Tây Hồ hóa bãi hoang
Trước song đọc ký viếng thăm nàng
Người đi, son phấn hồn còn xót?
Giấy cháy, văn chương mệnh chẳng tàn!
Mối hận cổ kim trời đó biết?
Nỗi oan phong nhã kẻ này mang!
Ba trăm năm tới nào hay nữa
Ai sẽ vì ta lệ chứa chan?
(Nguyễn Hữu Thăng dịch)

Nguyễn Hữu Thăng
08-02-2014, 06:43 PM
Thơ dịch của Nguyễn Hữu Thăng

漫成其一
阮廌
眼中浮世總浮雲,
蝸角驚看日晉秦。
天或喪斯知有命,
邦如有道亦羞貧。
陳平自信能為宰,
杜甫誰憐已誤身。
世事不知何日了,
扁舟歸釣五湖春。

Mạn thành kỳ 1
Nguyễn Trãi
Nhãn trung phù thế tổng phù vân,
Oa giác kinh khan nhật Tấn Tần.
Thiên hoặc táng tư tri hữu mệnh,
Bang như hữu đạo diệc tu bần.
Trần Bình tự tín năng vi tể,
Đỗ Phủ thùy liên dĩ ngộ thân.
Thế sự bất tri hà nhật liễu,
Biển chu quy điếu Ngũ Hồ xuân.

Dịch nghĩa:
Tản mạn (Bài 1)
Nhìn vào cuộc thế đều là mây nổi cả
Sợ thấy cảnh Tấn Tần đấu tranh nhau hằng ngày như chuyện sừng ốc sên
Khi Trời đã bỏ mất nền văn thì biết là có số mệnh
Nước có đạo đức mà nghèo thì cũng xấu hổ
Trần Bình tự tin có thể làm tể tướng
Đỗ Phủ ai ngờ bị lầm lẫn mà thân phải khổ
Việc đời không biết ngày nào xong
Nên chèo một con thuyền nhỏ về câu cá mùa xuân ở Ngũ Hồ.

Chú thích:
- Tấn Tần: Tấn và Tần là hai nước vào đời Xuân Thu ở Trung Quốc thường đánh nhau, ví như hai nước trong sách Trang Tử, một đằng gọi sừng con ốc sên (oa giác) là “man”, đằng kia gọi là “xúc”, và cứ thế tranh cãi mãi.
- Trần Bình người Trung Quốc, thuở nhỏ nhà nghèo, làm việc chia thịt trong làng xã, được các phụ lão khen, bèn nói nếu làm được tể tướng trong thiên hạ thì cũng sẽ làm tốt như việc chia thịt. Về sau quả nhiên giúp Lưu Bang Hán Cao Tổ làm đến chức Tả Thừa Tướng.
- Đỗ Phủ: Đại thi hào đời nhà Đường. Người đại tài nhưng khổ suốt đời, nói: "Nho quan đa ngộ thân", nghĩa là cái mũ nhà Nho lắm khi bị hiểu lầm, sinh liên lụy. Ý nói đạo Nho có lúc chẳng hợp thời.
- Ngũ Hồ: Một hồ lớn ở Tô Châu (Trung Quốc) thường được dùng để chỉ nơi ở ẩn của những nhân vật không thích công danh phú quý nữa và tránh mọi liên lụy. Như trường hợp của Phạm Lãi, sau khi giúp Việt Vương Câu Tiễn báo thù được Ngô Vương Phù Sai, đã bỏ đi ở ẩn, ngao du ở Ngũ Hồ. Đường thi có câu:
Thùy giải thừa châu tầm Phạm Lãi
Ngũ Hồ yên thủy cộng vong ky.
(Ai biết thuyền con tìm Phạm Lãi
Ngũ Hồ mây nước chuyện đời khuây).

Dịch thơ:
Mắt nhìn thời cuộc đám phù vân
Tranh cãi sừng sên, đấu Tấn Tần
Trời đã mất văn buồn mệnh yếu
Nước tuy có đạo thẹn đời bần
Trần Bình tin số lừng danh phận
Đỗ Phủ nhầm đời khổ tấm thân
Biết đến khi nào xong thế sự
Ngũ Hồ câu cá thỏa thuyền xuân.
(NHT dịch – 14/7/2013)


晚立
阮廌
長天漠漠水悠悠,
黃落山河屬暮秋。
羨殺花邊雙白鳥,
人間累不到滄洲。

Vãn lập
Nguyễn Trãi
Trường thiên mạc mạc thủy du du,
Hoàng lạc sơn hà thuộc mộ thu.
Tiện sát hoa biên song bạch điểu,
Nhân gian luỵ bất đáo thương châu.

Dịch nghĩa:
Đứng trông cảnh chiều
Trời rộng bát ngát, nước mênh mông
Lá vàng rụng, nước non đã vào cuối thu
Lòng mến bắt gặp đôi chim trắng bên hoa
Nhân gian chẳng ai cần đến nơi cồn bãi này.

Chú thích:
- Thương châu: Cồn bãi, thường ngụ ý nơi ở ẩn

Dịch thơ:
Trời cao bát ngát nước mênh mang
Non nước cuối thu điểm lá vàng
Say ngắm bên hoa chim trắng đậu
Nhân gian chẳng lụy bãi cồn hoang.
(NHT dịch – 16/7/2013)


和鄉先生韻柬諸同志
阮廌
愁來咄咄漫書空,
天地無窮嘆轉蓬。
世事灰心頭向白,
衰顏借酒暈生紅。
覽輝擬學鳴陽鳳,
遠害終為避弋鴻。
淪落天涯俱是客,
年來出處略相同。

Hoạ Hương tiên sinh vận giản chư đồng chí
Nguyễn Trãi
Sầu lai đốt đốt mạn thư không,
Thiên địa vô cùng thán chuyển bồng.
Thế sự hôi tâm đầu hướng bạch,
Suy nhan tá tửu vựng sinh hồng.
Lâm huy nghĩ học minh dương phượng,
Viễn hại chung vi tị dặc hồng.
Luân lạc thiên nhai câu thị khách,
Niên lai xuất xứ lược tương đồng.

Dịch nghĩa:
Hoạ thơ của Hương tiên sinh gửi bạn cùng chí hướng
Chao ôi ! Mối sầu đến viết lên đầy trời!
Khó cho ta là phiêu dạt như ngọn cỏ bồng trong trời đất vô biên này
Cuộc đời khiến lòng người nguội lạnh như tro tàn, tóc bạc dần
Thần sắc kém, mượn rượu để làm ửng đỏ lên
Nhìn ánh sáng muốn bắt chước chim phượng hót trong ánh dương
Rốt cuộc làm chim hồng tránh mũi tên để xa nguy hại
Chúng ta đều là khách chìm lạc ở chân trời
Lâu nay ra làm quan hay về ở ẩn đều khá giống nhau.


Chú thích:

- Đốt đốt: Theo 4 chữ "Đốt đốt quái sự” liên quan đến Ân Hạo có tiếng là quan võ thanh cao người đời Tấn (Trung Quốc). Làm đô đốc, đánh giặc bại trận bị giáng chức nặng nhưng không hề tỏ lời oán hận, suốt ngày chỉ dùng ngón tay viết lên không mấy chữ trên, có nghĩa là "Chao ôi, chuyện lạ!".
- Hôi tâm: Bản Ức Trai Thi Tập phiên là khôi, nhưng chính gốc là chữ hôi, đi với tâm (hôi tâm: lòng mất hết hứng thú).
- Dương phượng: Do chữ "phượng minh triêu dương" trong Kinh Thi nghĩa là chim phượng kêu đón ánh mặt trời buổi sáng. Đây ngụ ý chỉ người hiền tài gặp thời buổi sáng sủa. Giả Nghị thời nhà Hán viết điếu văn cúng Khuất Nguyên trong đó có câu:
Phượng hoàng tường vụ thiên nhẫn hề
Lâm huy tức nhi hạ chi.
(Phượng hoàng bay cao nghìn trượng
Thấy có ánh sáng thì đáp xuống)
Ngụ ý người hiền tài chỉ có thể phục vụ một chế độ sáng suốt.

Dịch thơ:
Nỗi sầu chi chít viết tầng không
Trời đất mênh mang dạt cỏ bồng
Tóc bạc, đời trôi lòng đã lạnh
Da xanh, rượu uống sắc thêm hồng
Hướng dương chim phượng theo nguồn sáng
Lánh đạn cánh hồng tránh cõi vong
Góc biển chân trời ta ẩn dật
Bấy nay đi, ở vẫn tương đồng.
(NHT dịch – 17/7/2013)

Nguyễn Hữu Thăng
12-03-2014, 11:05 AM
Dịch thơ Đào Tiềm (Đào Uyên Minh)
雜詩其二
陶潛
白日淪西河,
素月出東嶺。
遙遙萬里輝,
蕩蕩空中景。
風來入房戶,
夜中枕席冷。
氣變悟時易,
不眠知夕永。
欲言無予和,
揮杯勸孤影。
日月擲人去,
有志不獲騁。
念此懷悲悽,
終曉不能靜。

Tạp thi
Đào Tiềm (Đào Uyên Minh)
Bạch nhật luân tây a
Tố nguyệt xuất đông lĩnh.
Dao dao vạn lý huy,
Đãng đãng không trung cảnh.
Phong lai nhập phòng hộ,
Dạ trung chẩm tịch lãnh.
Khí biến ngộ thì dị,
Bất miên tri tịch vĩnh.
Dục ngôn vô dư hoà,
Huy bôi khuyến cô ảnh.
Nhật nguyệt trịch nhân khứ,
Hữu chí bất hoạch sính.
Niệm thử hoài bi thê,
Chung hiểu bất năng tĩnh.

Dịch nghĩa:
Thơ tạp (Bài 2)
Mặt trời trắng lặn xuống rặng núi phía tây
Vầng trăng trong mọc lên từ ngọn núi phía đông
Ánh sáng soi xa vời vợi ngàn dặm
Bóng trăng trùm không trung mênh mông
Gió thổi tới tràn vào cửa phòng
Nửa đêm chăn gối lạnh
Khí hậu thay đổi, nhận ra thời tiết đã đổi thay
Không ngủ biết đêm dài
Muốn nói chuyện không có người đáp lại
Nâng cốc mời cái bóng cô đơn của mình
Ngày tháng bỏ con người mà đi
Có chí mà không được mời ra thi thố
Nghĩ đến điều này lòng buồn thê thảm
Suốt đêm dài chẳng thể tĩnh tâm.

Dịch thơ:
Mặt trời lặn khuất đằng tây
Trăng trong đã mọc bên này núi đông
Sáng soi vời vợi tầng không
Trăng tràn khắp chốn mênh mông đất trời
Gió đưa hiu hắt phòng người
Se se đêm lạnh bồi hồi gối chăn
Đã nghe thời tiết chuyển vần
Năm canh trằn trọc bâng khuâng đêm dài
Tâm tình biết tỏ cùng ai
Mình ta nâng cốc lại mời bóng ta
Tháng ngày vùn vụt đi qua
Chí trai đã có gần xa chẳng mời
Nghĩ suy, lòng những ngậm ngùi
Suốt đêm trăn trở khôn nguôi nỗi sầu
(NHT dịch – 23/9/2013)

Nguyễn Hữu Thăng
20-05-2014, 08:51 PM
Trần Minh Tông
Trần Minh Tông 陳明宗 (1300-1357), tên huý là Trần Mạnh 陳孟, là con thứ tư vua Trần Anh Tông. Trong 15 năm làm vua (1314-1329) và 28 năm làm thượng hoàng (1329-1357), Trần Minh Tông đã ban hành nhiều chính sách nhằm củng cố thêm cơ nghiệp nhà Trần. Qua thơ, Minh Tông tỏ ra là một vị vua có tinh thần chủ động, năng nổ với việc nước, ưu ái đối với các bề tôi giỏi, thương yêu dân chúng trong bờ cõi và cả dân chúng các nước láng giềng. Tác phẩm có "Minh Tông thi tập", 1 quyển, nay đã mất. Hiện chỉ còn 25 bài thơ.

白藤江
陳明宗
挽雲劍戟碧巑岏,
海唇吞潮捲雪瀾。
綴地花鈿春雨霽,
撼天松籟晚霜寒。
山河今古雙開眼,
胡越贏輸一倚欄。
江水渟涵斜日影,
錯疑戰血未曾乾。

Bạch Ðằng giang
Trần Minh Tông
Vãn vân kiếm kích bích toàn ngoan,
Hải thẩn thôn triều quyển tuyết lan.
Xuyết địa hoa điền xuân vũ tễ,
Hám thiên tùng lại vãn sương hàn.
Sơn hà kim cổ song khai nhãn,
Hồ Việt doanh thâu nhất ỷ lan.
Giang thuỷ đình hàm tà nhật ảnh,
Thác nghi chiến huyết vị tằng can.

Dịch nghĩa:
Sông Bạch Đằng
Núi biếc cao vút, tua tủa như gươm giáo kéo lấy tầng mây,
Áng mây hình trai biển nuốt thuỷ triều cuộn làn sóng bạc.
Hoa vàng điểm tô mặt đất lúc mưa xuân vừa tạnh,
Tiếng sáo thông rung chuyển trời khi sương chiều lạnh lẽo.
Non sông này xưa nay đã hai lần thắng mở mặt mày
Cuộc thắng thua giữa Hồ và Việt thoảng qua như một lúc dựa vào lan can.
Nước sông chan chứa rọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối,
Còn ngỡ là máu chiến trường thuở trước chưa từng khô.

Dịch thơ:
Như giáo như gươm núi ngút ngàn
Triều dâng mây nổi sóng mênh mang
Tạnh mưa mặt đất tô hoa thắm
Nổi gió rừng thông vút sáo vang
Non nước xưa nay hai trận thắng
Việt Hồ thua được thoáng thời gian
Ánh tà đỏ ối tràn sông nước
Tưởng máu chiến trường vẫn lổ loang.
Nguyễn Hữu Thăng dịch

Nguyễn Hữu Thăng
24-05-2014, 02:14 AM
薄暮思家
高伯适
城上凍雲千里陰,
梁園花柳瞙沉沉。
高堂兩處思兒淚,
薄宦三春感舊心。
對榻貧妻烹北茗,
敲門小女弄南音。
邦家有道知何用?
一病蹉跎歲自深。

Bạc mộ tư gia
Cao Bá Quát
Thành thượng đống vân thiên lý âm,
Lương viên hoa liễu mạc trầm trầm.
Cao đường lưỡng xứ tư nhi lệ,
Bạc hoạn tam xuân cảm cựu tâm.
Đối tháp bần thê phanh bắc mính,
Xao môn tiểu nữ lộng nam âm.
Bang gia hữu đạo tri hà dụng?
Nhất bệnh tha đà tuế tự thâm

Dịch nghĩa:
Chiều hôm nhớ nhà
Mây lạnh trên thành che rợp ngàn dặm
Hoa liễu vườn bên cầu mong manh rủ xuống
Hai chốn cha mẹ tuôn lệ nhớ con.
Chức quan nhỏ bạc bẽo làm cảm thương lòng mong mỏi của cha mẹ khi còn nhỏ
Ngồi trước giường, vợ nghèo nấu (pha) trà kiểu Bắc
Gõ cửa, con gái nhỏ chơi điệu phương Nam
Nước nhà có đạo (thịnh trị) biết dùng người cách gì đây?
Bệnh tật lay lắt kéo dài suốt cả năm.

Chú thích:
- Cao đường lưỡng xứ: Chỉ cha mẹ ở hai nơi.
- Tam xuân: Ba tháng mùa xuân, ám chỉ cha mẹ; xuất xứ từ thơ "Du tử ngâm" của Mạnh Giao đời Đường. Ý trong bài: Thương cha mẹ từng hy vọng khi anh em Cao Bá Quát thông minh từ nhỏ.
- Nam âm: Có thể chỉ điệu Nam ai, Nam bình nghe thật ảo não, tả tâm trạng công chúa Huyền Trân về xứ Chiêm Thành, rất hợp cảnh ngộ họ Cao.
- Hà dụng: Dùng cách gì đây. Kẻ sĩ gặp lúc nước nhà có đạo thì ra làm quan (xuất) gặp lúc nước nhà vô đạo thì ở ẩn (xử). Họ Cao cám cảnh cho mình “xuất” mà chỉ nhận cảnh đau ốm, chẳng đền đáp nổi ơn sinh thành.

Dịch thơ:
Mây lạnh thành cao trải mịt mờ
Bên cầu hoa liễu rủ lơ thơ
Lệ buồn, đôi chốn bao nhung nhớ
Quan nhỏ, ba xuân những đợi chờ
Trà Bắc vợ nghèo pha lúi húi
Điệu Nam con dại hát ầu ơ
Nước nhà thịnh trị dùng chi nhỉ?
Bệnh tật quanh năm cứ vật vờ.
(Nguyễn Hữu Thăng dịch – 26/4/2014)

PHUONG VU
21-12-2016, 03:46 PM
雜詩其二
陶潛
白日淪西河,
素月出東嶺。
遙遙萬里輝,
蕩蕩空中景。
風來入房戶,
夜中枕席冷。
氣變悟時易,
不眠知夕永。
欲言無予和,
揮杯勸孤影。
日月擲人去,
有志不獲騁。
念此懷悲悽,
終曉不能靜。

Tạp thi
Đào Tiềm (Đào Uyên Minh)
Bạch nhật luân tây a
Tố nguyệt xuất đông lĩnh.
Dao dao vạn lý huy,
Đãng đãng không trung cảnh.
Phong lai nhập phòng hộ,
Dạ trung chẩm tịch lãnh.
Khí biến ngộ thì dị,
Bất miên tri tịch vĩnh.
Dục ngôn vô dư hoà,
Huy bôi khuyến cô ảnh.
Nhật nguyệt trịch nhân khứ,
Hữu chí bất hoạch sính.
Niệm thử hoài bi thê,
Chung hiểu bất năng tĩnh.

Dịch nghĩa:
Thơ tạp (Bài 2)
Mặt trời trắng lặn xuống rặng núi phía tây
Vầng trăng trong mọc lên từ ngọn núi phía đông
Ánh sáng soi xa vời vợi ngàn dặm
Bóng trăng trùm không trung mênh mông
Gió thổi tới tràn vào cửa phòng
Nửa đêm chăn gối lạnh
Khí hậu thay đổi, nhận ra thời tiết đã đổi thay
Không ngủ biết đêm dài
Muốn nói chuyện không có người đáp lại
Nâng cốc mời cái bóng cô đơn của mình
Ngày tháng bỏ con người mà đi
Có chí mà không được mời ra thi thố
Nghĩ đến điều này lòng buồn thê thảm
Suốt đêm dài chẳng thể tĩnh tâm.

Dịch thơ:
Mặt trời lặn khuất đằng tây
Trăng trong đã mọc bên này núi đông
Sáng soi vời vợi tầng không
Trăng tràn khắp chốn mênh mông đất trời
Gió đưa hiu hắt phòng người
Se se đêm lạnh bồi hồi gối chăn
Đã nghe thời tiết chuyển vần
Năm canh trằn trọc bâng khuâng đêm dài
Tâm tình biết tỏ cùng ai
Mình ta nâng cốc lại mời bóng ta
Tháng ngày vùn vụt đi qua
Chí trai đã có gần xa chẳng mời
Nghĩ suy, lòng những ngậm ngùi
Suốt đêm trăn trở khôn nguôi nỗi sầu
(NHT dịch – 23/9/2013)

Lê Đức Mẫn
22-12-2016, 10:13 AM
Кинжал
Михаи́л Ю́рьевич Ле́рмонтов

Люблю тебя, булатный мой кинжал,
Товарищ светлый и холодный.
Задумчивый грузин на месть тебя ковал,
На грозный бой точил черкес свободный.

Лилейная рука тебя мне поднесла
В знак памяти, в минуту расставанья,
И в первый раз не кровь вдоль по тебе текла,
Но светлая слеза - жемчужина страданья.

И чёрные глаза, остановясь на мне,
Исполнены таинственной печали,
Как сталь твоя при трепетном огне,
То вдруг тускнели, то сверкали.

Ты дан мне в спутники, любви залог немой,
И страннику в тебе пример не бесполезный:
Да, я не изменюсь и буду твёрд душой,
Как ты, как ты, мой друг железный.

Dịch thơ:
THANH ĐOẢN KIẾM
M.Iu.Ler-man-tốp

Ta yêu em, đoản kiếm luyện công phu
Ta yêu em, vẻ lạnh lùng sáng quắc
Người Gru-di-a phục thù rèn thật sắc
Người Tréc-ni-a mài để giành lấy tự do

Khi tiễn đưa, bàn tay như cánh hoa
Trao tặng em, kỷ vật bền biết mấy
Lưỡi kiếm lần đầu không vương máu chảy
Mà long lanh giọt lệ ngọc sầu đau

Cặp mắt đen huyền cứ nhìn ta rất lâu
Bao thần bí trong nỗi buồn da diết
Như trước lửa đèn lung linh ánh thép
Khi tỏ khi mờ lấp lánh dưới hàng mi

Thanh kiếm tình yêu thầm lặng theo đi
Với giang hồ là tấm gương sáng nhất
Cũng như em, một bạn bè gang sắt
Trái tim ta sẽ mãi mãi kiên cường.
NGUYỄN HỮU THĂNG dịch

Lê Đức Mẫn
22-12-2016, 10:15 AM
野望 其一
杜甫
納納乾坤大,
行行郡國遙。
雲山兼五嶺,
風壤帶三苗。
野樹侵江闊,
春蒲長雪消。
扁舟空老去,
無補聖明朝。

Dã vọng (bài 1)
Đỗ Phủ
Nạp nạp càn khôn đại,
Hàng hàng quận quốc diêu.
Vân sơn kiêm Ngũ Lĩnh,
Phong nhưỡng đới Tam Miêu.
Dã thụ xâm giang khoát,
Xuân bồ trưởng tuyết tiêu.
Biên chu không lão khứ,
Vô bổ thánh minh triều.

Dịch nghĩa:
Ngắm đồng
Bát ngát trời đất rộng,
Hàng hàng châu quận trải xa.
Mây núi bao phủ Ngũ Lĩnh,
Gió châu thổ thổi tới Tam Miêu.
Cây dại lấn cả vùng sông rộng,
Cỏ bồ xuân mọc đầy khi tuyết tan.
Chỉ con thuyền của lão ông là trôi mãi,
Thời của vị thánh anh minh cũng đâu có chi.

Dịch thơ (1):
Đất trời nhìn bát ngát
Châu quận trải hàng hàng
Ngũ Lĩnh mây trùng điệp
Tam Miêu gió ngập tràn
Lấn sông cây dại mọc
Rã tuyết cỏ bồ lan
Thuyền lão trôi cô quạnh
Thời anh minh chẳng màng.
Dịch thơ (2):
Đất trời bát ngát bao la
Hàng hàng châu quận trải xa vô cùng
Mây giăng Ngũ Lĩnh trập trùng
Gió tràn châu thổ đến vùng Tam Miêu
Sông đầy cây dại lấn theo
Tuyết tan, xanh ngắt bao nhiêu cỏ bồ
Thuyền trôi, ông lão đơn cô
Thời anh minh chẳng bao giờ thấy đâu./.

NGUYỄN HỮU THĂNG dịch
(Anh NHT nhờ đăng giup)

PHUONG VU
23-12-2016, 03:10 PM
野望 其一
杜甫
納納乾坤大,
行行郡國遙。
雲山兼五嶺,
風壤帶三苗。
野樹侵江闊,
春蒲長雪消。
扁舟空老去,
無補聖明朝。

Dã vọng (bài 1)
Đỗ Phủ
Nạp nạp càn khôn đại,
Hàng hàng quận quốc diêu.
Vân sơn kiêm Ngũ Lĩnh,
Phong nhưỡng đới Tam Miêu.
Dã thụ xâm giang khoát,
Xuân bồ trưởng tuyết tiêu.
Biên chu không lão khứ,
Vô bổ thánh minh triều.

Dịch nghĩa:
Ngắm đồng
Bát ngát trời đất rộng,
Hàng hàng châu quận trải xa.
Mây núi bao phủ Ngũ Lĩnh,
Gió châu thổ thổi tới Tam Miêu.
Cây dại lấn cả vùng sông rộng,
Cỏ bồ xuân mọc đầy khi tuyết tan.
Chỉ con thuyền của lão ông là trôi mãi,
Thời của vị thánh anh minh cũng đâu có chi.

Dịch thơ (1):
Đất trời nhìn bát ngát
Châu quận trải hàng hàng
Ngũ Lĩnh mây trùng điệp
Tam Miêu gió ngập tràn
Lấn sông cây dại mọc
Rã tuyết cỏ bồ lan
Thuyền lão trôi cô quạnh
Thời anh minh chẳng màng.
Dịch thơ (2):
Đất trời bát ngát bao la
Hàng hàng châu quận trải xa vô cùng
Mây giăng Ngũ Lĩnh trập trùng
Gió tràn châu thổ đến vùng Tam Miêu
Sông đầy cây dại lấn theo
Tuyết tan, xanh ngắt bao nhiêu cỏ bồ
Thuyền trôi, ông lão đơn cô
Thời anh minh chẳng bao giờ thấy đâu./.

NGUYỄN HỮU THĂNG dịch
(Anh NHT nhờ đăng giup)
Chuc anh L Đ M chóng khoe nhé!