矢 THỈ : cây tên, mũi tên. Tổng nét 5, Bộ thỉ 矢 thuộc Bộ Thủ 111
屎: hy, thỉ : phân, cứt. Tổng nét 9, Bộ thi 尸 thuộc Bộ Thủ 44
豕 THỈ : con heo, con lợn. Tổng nét 7, Bộ thỉ 豕 thuộc Bộ Thủ 152
豬: trư con heo, con lợn. Tổng nét 15, Bộ thỉ 豕 thuộc Bộ Thủ 152
舐 thỉ, thị, để: Liếm (lấy lưỡi). Tổng nét 10, Bộ thiệt 舌thuộc Bộ Thủ 135.
Tất cả những chữ THỈ trên không phải chữ thỉ tôi dùng. Chữ THỈ tôi dùng với nghĩa là bắt đầu, nó nằm trong cụm từ “vô thỉ vô chung”. Nhưng, lão nhà quê một chữ Hán bẻ đôi không biết thì làm thế nào???
Suốt đêm qua tôi mất ngủ, lục tung những cuốn sách Phật …, khổ nỗi nó toàn chữ Việt thôi. Mò mẫm mãi, cuối cùng tôi cũng tìm được chữ THỈ 始 với nghĩa bắt đầu.
Nhưng lại bế tắc : chữ trên giấy làm thế nào đưa lên mạng? Tôi viết to chữ 始 trên giấy rồi cứ ngồi ngây mà ngắm, chợt một tia sáng lóe lên, tôi dùng cách chẻ chữ : chữ 始 gồm 03 phần,bên trái là chữ 女 thuộc bộ thủ 38, góc trên bên phải là chữ 厶 khư, tư thuộc bộ thủ 28, góc dưới bên phải là chữ 口 khẩu thuộc bộ thủ 30.
Tôi mò tìm bộ 女 ở mục TÌM CHỮ trong từ điển Hán-Nôm, nó có từ 3 đến 27 nét. Tìm trong bộ 女 8 nét, loại trừ những chữ dị thể, cuối cùng tôi đã tìm được chữ 始 với nghĩa thuỷ, thí, thỉ. Loại trừ chữ Thí, còn lại chữ Thỉ, Thủy đều có nghĩa là bắt đầu.
Chữ Thỉ trong cụm từ “vô thỉ vô chung”, chữ Thủy trong từ Chung thủy.
Vậy là tôi đã chứng minh được chữ THỈ trong câu thơ “Không chung chẳng thỉ mãi luân đời” tôi dùng là đúng.