+ Trả lời chủ đề
Trang 6/8 ĐầuĐầu ... 4 5 6 7 8 CuốiCuối
Hiện kết quả từ 51 tới 60 của 76

Chủ đề: VIỆT SỬ GIAI THOẠI - tập 3

  1. #51
    Avatar của buixuanphuong09
    Bạn Tri Kỷ
    Hiện Đang :    buixuanphuong09 đang ẩn
    Tham gia ngày : May 2011

    Tuổi: 85
    Bài gửi : 49.663
    Thanks
    38.391
    Thanked 102.996 Times in 33.572 Posts
    Blog Entries
    2
    48 - NGÔ DẪN MẤT GIA TÀI

    Tháng 6 năm Quý Mão (1363), đời vua Trần Dụ Tông (1341- 1369), triều Trần có một vụ án hơi khác thường. Bị can là Ngô Dẫn, lúc ấy đang làm trại chủ xã Đại Lai, bị triều đình ra lệnh tịch thu toàn bộ gia sản. Đầu đuôi vụ án này được sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 7, tờ 25 b) chép lại vắn tắt như sau :

    “Trước đây, về đời vua Trần Minh Tông, cha của Ngô Dẫn có bắt được một viên ngọc rết rất lớn, bèn đem đến Vân Đồn (để bán). Các thuyền buôn tranh nhau mua. Một người chủ thuyền do muốn được vật lạ đó, liền đốc hết của cải để mua. Dẫn nhờ vậy mà giàu có. Vua Trần Minh Tông đem Công chúa Nguyệt Sơn gả cho Dẫn. Dẫn cậy giàu có, thông dâm với người con gái khác, lại có những lời lăng nhục Công chúa. Công chúa đem những việc ấy tâu Vua. Dẫn được tha tội chết nhưng bị tịch thu gia sản".

    Lời bàn :

    Cha của Ngô Dẫn bắt được ngọc rết, cứ tưởng phút chốc trở nên giàu có là may, có biết đâu ham của mà quên dạy con, kể cũng như bỏ mất một viên ngọc con quý hơn cả ngọc rết nhiều lần nữa.
    Vua Trần Minh Tông cũng vì ham của mà gả con cho nhà giàu, cho nên,Công chúa Nguyệt Sơn thực đã bị rẻ rúng trước khi về nhả chồng rồi đó vậy.
    Một viên ngọc mà làm mờ mắt không biết bao người, kể cả thiên tử, chuyện khó tin mà có thật, quả đáng sợ lắm. Một khi của quý hơn người thì hạnh phúc đành phải ngậm ngùi mà chào vĩnh biệt thôi.
    Triều đình tịch thu gia sản của Ngô Dẫn là để trừ mầm hại cho phong hóa chăng? Xem ra, triều đình lúc ấy cũng coi của hơn người, nếu không thì đã dùng hình pháp khác.
    Viên ngọc rết, gớm thay!

  2. #52
    Avatar của buixuanphuong09
    Bạn Tri Kỷ
    Hiện Đang :    buixuanphuong09 đang ẩn
    Tham gia ngày : May 2011

    Tuổi: 85
    Bài gửi : 49.663
    Thanks
    38.391
    Thanked 102.996 Times in 33.572 Posts
    Blog Entries
    2
    49 - PHÉP XỬ THẾ CỦA TRẦN NHẬT DUẬT

    Trần Nhật Duật (1254 - 1330) là Hoàng tứ thứ sáu của vua đầu triều Trần là Trần Thái Tông (1225 - 1258), tước Chiêu Văn Đại vương, làm quan thờ trải bốn đời vua là Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông và Minh Tông. Vào triều, Nhật Duật là Tể tướng, chính sự nhờ ông mà thêm phần rành mạch; về thái ấp, Nhật Duật là bậc nghiêm cẩn mà nhân từ, phong lưu mà vẫn liêm khiết, phong hóa một vùng cũng nhờ ông mà thêm phần tốt đẹp. Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 7, tờ 3b và tờ 4a) có đoạn chép về ông như sau :

    “Ông là người hòa nhã, độ lượng, mừng vui hay giận dữ đều không lộ ra nét mặt, trong nhà không bao giờ chứa roi để đánh gia nô, nếu có đánh thì cũng kể rõ tội rồi sau mới đánh. Có lần ông sai gia đồng giữ thuyền, tên này bị gia đồng của Quốc phụ (chỉ Trần Quốc Chẩn - ND) đánh. Có người đến mách, ông hỏi :
    - Có chết không ?
    Người đó trả lời :
    - Chỉ bị thương thôi.
    Ông nói :
    - Không chết thì thôi, mách làm gì ?
    Lại có người kiện thị tì của ông với Quốc phụ, Quốc phụ sai gia đồng tới bắt. Người thị tì chạy vào trong phủ, người đi bắt đuổi đến nhà giữa, bắt trói ầm ĩ. Phu nhân khóc lóc nói với ông :
    - Ân chúa là Tể tướng, Bình Chương (chỉ Trần Quốc Chẩn) cũng là Tể tướng. Vì ân chúa nhân từ, nhu nhược, nên người ta mới coi khinh đến nước này.
    Nhật Duật vẫn ung dung không nói, xong, chậm rãi sai người ra bảo kẻ thị tì rằng :
    - Mày cứ ra đi, ở đâu cũng đều có phép nước cả".

    Lời bàn :

    Làm cho tướng giặc hung hãn phải khiếp sợ như ông từng làm mới là khó, chứ làm cho đám gia nô thân phận thấp hèn phải khiếp sợ thì có khó gì. Nhà Nhật Duật không chứa roi, ấy là bởi ông muốn chí nhân với thiên hạ. Không chấp nhất sụ vụn vặt, ấy cũng là phép xử thường của đấng đại trượng phu. Nhật Duật ung dung nên giữ được hòa khí, trong thì cốt nhục được tương than, ngoài thì đồng liêu được hòa hiếu. Thế gọi là đại nghĩa. Ông tin ở phép nước, nước nhà há lại chẳng tin ông?

  3. #53
    Avatar của buixuanphuong09
    Bạn Tri Kỷ
    Hiện Đang :    buixuanphuong09 đang ẩn
    Tham gia ngày : May 2011

    Tuổi: 85
    Bài gửi : 49.663
    Thanks
    38.391
    Thanked 102.996 Times in 33.572 Posts
    Blog Entries
    2
    50 - THƯỢNG HOÀNG TRẦN MINH TÔNG VỚI VIỆC CHỌN NGÀY

    Tháng 7 năm Canh Ngọ ( 1330), Thuận Thánh Bảo Từ Hoàng thái hậu mất tại am Mộc Cảo (Yên Sinh, Hưng Yên). Bà là Hoàng hậu của vua Trần Anh Tông và là thân mẫu của vua Trần Minh Tông. Ngày 15 tháng 2 năm Nhâm Thân, Trần Minh Tông (bấy giờ đã nhường ngôi cho con là Trần Hiến Tông để lên làm Thái thượng hoàng) cho phụ táng bà vào Thái Lăng (tức lăng của Trần Anh Tông). Sách Đại Việt sứ kí toàn thư (bản kỉ, quyển 7, tờ 5 b) và sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (chính biên, quyển 9, tờ 33) có ghi lại việc này vắn tắt như sau :
    “Trước đó, Thượng hoàng sai các quan chọn ngày chôn cất.
    Có người bác đi, nói rằng :
    - Chôn năm nay tất hại đến người chủ tế.
    Thượng hoàng sai hỏi lại người đó rằng :
    - Ngươi biết là sang năm ta nhất định chết à ?
    Người đó trả lời không biết. Thượng hoàng liền nói :
    - Nếu sang năm mà ta chết thì lo xong việc chôn cất mẫu hậu sớm chẳng hơn là chết rồi mà vẫn chưa lo được việc đó ư. Lễ cát hung phải chọn ngày là vì coi trọng việc chứ đâu phải câu nệ họa phúc như các nhà âm dương.
    Rốt cuộc vẫn cử hành lễ phụ táng ấy".

    Lời bàn :

    Âm dương gia cho việc chọn ngày là hệ trọng, vì cho rằng việc này liên can mật thiết đến an nguy của người cử hành. Minh Tông thì khác, Nhà vua chọn việc trước, chọn ngày sau, nếu chỉ được phép chọn một trong hai thì Nhà vua chọn việc chứ không phải chọn ngày. Xem chuyện này, ai dám bảo người xưa là cổ hủ. Chép xong đoạn sử trên. Quốc Sử Quán triều Nguyễn phê ngay ba chữ là : "có kiến thức", gọn gàng mà đầy đủ lắm thay. Ai đó còn mê muội với chuyện ngày lành tháng tốt há chẳng nên đọc chuyện này cho kĩ đó sao?

  4. #54
    Avatar của buixuanphuong09
    Bạn Tri Kỷ
    Hiện Đang :    buixuanphuong09 đang ẩn
    Tham gia ngày : May 2011

    Tuổi: 85
    Bài gửi : 49.663
    Thanks
    38.391
    Thanked 102.996 Times in 33.572 Posts
    Blog Entries
    2
    51 – ĐỨC ĐỘ CỦA THUẬN THÁNH BẢO TỪ HOÀNG THÁI HẬU

    Thuận Thánh Bảo Từ là Hoàng hậu của vua Trần Anh Tông (1293 - 1314) và là thân mẫu của vua Trần Minh Tông (1314 - 1329). Bà vốn là con gái của Hưng Nhượng Đại vương Trần Quốc Tảng, tức cháu nội của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Bà sinh năm nào không rõ, chỉ biết mất vào tháng 7 năm Canh Ngọ (1330). Bình sinh, bà là người đức độ, rất được người đương thời kính trọng. Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 7, tờ 1 a-b và tờ 2 a) chép rằng :

    "Thái hậu nhân từ. Các con của Anh Tông, dù là do vợ thứ sinh ra, Bà cũng rất yêu dấu, chăm sóc như con mình. Công chúa Huệ Chân được Anh Tông yêu quý, Thái hậu cũng rất yêu nàng. Công chúa Thiên Chân là con đẻ của Thái hậu, nhưng khi được ban thức gì thì bà cho Huệ Chân trước, sau mới đến Thiên Chân. Anh Tông mất, Thái hậu càng chăm sóc Huệ Chân hơn trước. Đến như đối xử với các cung tần cũng rất thịnh tình, như nữ quan trong cung là Vương thị (mẹ đẻ của Huệ Chân), được Vua (Anh Tông - ND) yêu mà có thai, Thái hậu đã lấy cả Song Hương Đường (phòng ngủ của chính Thái hậu) cho làm nơi sinh nở. Vương thị sanh xong thì mất. Cung nhân ngầm tâu với Thượng hoàng (Anh Tông - ND) là Thái hậu giết Vương thị, nhưng Thượng hoàng vẫn biết Thái hậu là người nhân từ, liền nổi giận lấy roi đánh người cung nhân ấy. Thái hậu biết vẫn chẳng để bụng".

    Lời bàn :

    Sau khi chép lại chuyện này cho gọn hơn, các tác giả sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 9, tờ 31) phê rằng : "Rất phải đạo đàn bà, nghìn xưa ít có". Đạo đàn bà là gì ? Hẳn là mỗi thời quan niệm một khác, nhưng thời nào mà chẳng sợ sự hẹp hòi và ghen tuông.

    Dân gian có câu :
    Bao giờ bánh đúc có xương
    Bao giờ dì ghẻ biết thương con chồng.

    Nguyễn Du cũng viết :

    Rằng tôi chút phận đàn bà.
    Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.

    Ít ra thì Thuận Thánh Bảo Từ Hoàng thái hậu cũng là một trong những ngoại lệ khả kính của hai câu tổng kết này vậy.

  5. #55
    Avatar của buixuanphuong09
    Bạn Tri Kỷ
    Hiện Đang :    buixuanphuong09 đang ẩn
    Tham gia ngày : May 2011

    Tuổi: 85
    Bài gửi : 49.663
    Thanks
    38.391
    Thanked 102.996 Times in 33.572 Posts
    Blog Entries
    2
    52 – SỞ HỌC CỦA TRẦN NHẬT DUẬT

    Không thấy sử chép chuyện quý tộc họ Trần đi thi, nhưng sở học của những nhân vật như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nguyên Đán ... v.v.. quả là đáng phục vô cùng. Đây chỉ xin theo Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 7, tờ 2 a-b và tờ 3 a) để kể riêng sở học của Trần Nhật Duật, người được coi là nhà ngôn ngữ học lỗi lạc ở cuối thế kỉ XIII đầu thế kỉ XIV :

    "Nhật Duật thích chơi với người nước ngoài, thường cưỡi voi đến chơi ở thôn Bà Già. Thôn này có từ hồi Lý Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành. Vua Lý bắt được người Chiêm rồi cho về ở đấy, theo tiếng Chiêm mà đặt tên thôn là Đa-gia-ly, sau người đời gọi sai thành thôn Bà Già. Nhật Duật đến chơi, có khi đến ba bốn ngày mới về.
    Nhật Duật lại hay đến chơi chùa Tường Phù, nói chuyện với nhà sư người Tống, ở lại lâu mới về. Người nước ngoài đến kinh sư, thường kéo đến nhà ông. Nếu là khách Tống thì ông kéo ghế ngồi gần, chuyện trò suốt buổi, nếu là người Chiêm hay người các dân tộc thì theo phong tục của họ mà tiếp đãi.
    Đời Nhân Tông ( 1278 - 1293), sứ nước Sách-mã-tích (tức nước Tumasik, thuộc nhóm Mã Lai - Đa Đảo - ND) sang cống, (triều đình) không tìm được người phiên dịch, chỉ có Nhật Duật là dịch được. Có người hỏi ông vì sao biết tiếng nước họ, ông trả lời rằng thời Thái Tông (1225 - 1258), sứ nước ấy sang, nhân có giao du với họ nên hiểu được đôi chút tiếng nước họ. Nhân Tông từng nói: "Chú Chiêu Văn (chỉ Trần Nhật Duật, vai chú ruột của vua Nhân Tông - ND) có lẽ là kiếp sau của người phiên lạc nên mới giỏi tiếng các nước đó". Hồi làm Tể tướng, ông thường qua nhà một người Tống là Trần Đạo Chiêu, nói chuyện với nhau hàng giờ không mỏi. Anh Tông biết chuyện, nói với ông rằng : "Tổ phụ là Tể tướng (Nhật Duật vai ông của Anh Tông nên Anh Tông gọi là tổ phụ - ND), Đạo Chiêu tuy là người Tống, nhưng đã có Hàn lâm phụng chỉ (chức quan lo phiên dịch - ND), há nên ngồi nói chuyện với hắn".
    Theo lệ cũ, sứ Nguyên sang phải sai người biết tiếng để phiên dịch. Tể tướng không được nói chuyện trực tiếp với họ, làm thế để lỡ có gì sai sót thì đổ lỗi cho người phiên dịch. Nhật Duật thì không thế. Tiếp sứ Nguyên, ông thường nói chuyện thẳng với họ mà không mượn người phiên dịch. Khi sứ xong việc, về nơi nghỉ ngơi thì dắt tay cùng về, ngồi uống rượu vui vẻ như bạn quen biết. Sứ Nguyên hỏi ông : "Ông là người Chân Định (vùng thuộc tỉnh Hà Bắc cua Trung Quốc ngày nay - ND) tới làm quan ở đây chớ gì?". Nhật Duật ra sức cãi lại nhưng họ vẫn không tin, có lẽ vì hình dáng và tiếng nói của ông giống người Chân Định".

    Lời bàn :

    Ai từng học ngoại ngữ mới biết học ngoại ngữ khó như thế nào. Học một lúc thông thạo cả tiếng Trung Quốc, tiếng Mông Cổ, tiếng Chăm, tiếng Tumasik, tiếng các dân tộc ít người… như Trần Nhật Duật lại càng khó hơn. Học đến độ nói tiếng nước ngoài chẳng khác gì người nước ngoài, khiến không thể tin đó là người Việt học thông thạo đến độ có thể từ tiếng nước này mà suy đoán đúng được tiếng của nước khác cùng một ngữ hệ, thì cổ kim chẳng mấy ai được như Nhật Duật.
    Tước Đại vương, chức Tể tướng, giàu không ai bằng ông, sang cũng chẳng ai bằng ông, và bận quốc gia đại sự chắc cũng chẳng mấy ai như ông, vậy mà ông vẫn ham học dám học và học giỏi. Điều cần nói thêm là Nhật Duật sống rất nghệ sĩ, trong nhà không lúc nào dứt tiếng đàn ca. Đọc sử, có người hỏi rằng : Nhật Duật học vào lúc nào mà giỏi thế. Ôi, cái sai khó sửa đã chứa đựng ngay trong câu hỏi này. Ở đời, chỉ nên hỏi nhau là học như thế nào chớ đừng bao giờ hỏi là học vào lúc nào. Tạo hóa có cho ai thêm riêng một giờ trong một ngày đâu.

  6. #56
    Avatar của buixuanphuong09
    Bạn Tri Kỷ
    Hiện Đang :    buixuanphuong09 đang ẩn
    Tham gia ngày : May 2011

    Tuổi: 85
    Bài gửi : 49.663
    Thanks
    38.391
    Thanked 102.996 Times in 33.572 Posts
    Blog Entries
    2
    53 - CHUYỆN ĐOÀN KHUNG XÉT ĐOÁN VIỆC CHỮA CHÁY

    Đoàn Khung làm quan thời Trần suốt ba đời vua là Thánh Tông, Nhân Tông và Anh Tông. Thời Trần Anh Tông (1293 - 1314) ông giữ chức Kiểm pháp quan, nổi tiếng là bậc xét án minh bạch, vẫn được vua khen là người thông minh và nhớ lâu.
    Thực sự, chức vụ ban đầu của ông là Nội thư gia. Bởi chức ấy mà ông luôn có dịp được hầu cận Nhà vua, có điều kiện thuận lợi để thi thố tài năng của mình ngay trước mặt vua. Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 5. tờ 37a và 37b) có chép một đoạn khá độc đáo thời ông làm chức Nội thư gia đời Trần Thánh Tông ( 1258 - 1278) như sau :
    "Hồi đó, nhà dân ở kinh thành thường bị cháy về ban đêm. Vua ra ngoài thành xem xét việc chữa cháy. Nội thư gia Đoàn Khung đi theo. Vua sai điểm xem người nào đến chữa cháy và ai đã đến trước. Khung ấn đầu từng người một, bảo ngồi xuống để đếm, xong, tâu rõ người nào đến trước, người nào đến sau. Vua hỏi : "Tại sao biết được?". Khung trả lời : “Thần ấn đầu từng người, thấy ai tóc thấm mồ hôi và có tro bụi bám vào nhiều thì đó là người đến trước và cố sức chữa, người nào đầu tóc không có mồ hôi và tro bụi khô bay là người đến sau không kịp chữa”.
    Vua cho là giỏi, có ý cất nhắc để dùng".


    Lời bàn :

    Vua đích thân đi xem xét việc chữa cháy, đó âu cũng là một sự lạ. Vua kiên nhẫn xem xét cho đến lúc qua cơn hỏa hoạn, lại còn sai quan ghi nhận công lao của từng người chữa cháy, sự ấy có lẽ còn lạ hơn. Gặp được vua ấy,bậc có tài trí như Đoàn Khung được cất nhắc là phải lắm. Tài mọn mà còn được đấng chí tôn biết đến, huống chi kế sách mưu lược lớn của lương thần. Thuật dùng người của Thánh Tông thật dáng để cho chúng ta suy gẫm lắm thay !

  7. #57
    Avatar của buixuanphuong09
    Bạn Tri Kỷ
    Hiện Đang :    buixuanphuong09 đang ẩn
    Tham gia ngày : May 2011

    Tuổi: 85
    Bài gửi : 49.663
    Thanks
    38.391
    Thanked 102.996 Times in 33.572 Posts
    Blog Entries
    2
    54 -DOÃN ĐỊNH VÀ NGUYỄN NHƯ VI BỊ BÃI CHỨC

    Năm Nhâm Ngọ (1342), triều Trần sai trùng tu Ngự sử đài. Việc xong, Thượng hoàng Trần Minh Tông ngự tới xem xét, cùng đi có quan Ngự sử Trung tán là Lê Duy theo hầu. Bởi việc này mà các quan Giám sát Ngự sử là Doãn Định và Nguyễn Như Vi bất bình, rồi cũng vì bất bình mà hóa ra gàn dở nên cả hai bị bãi chức. Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 7, tờ 11 b và 12 a) chép rằng :
    “Bấy giờ đã trùng tu xong Ngự sử đài. Sáng sớm, Thượng hoàng ngự tới, Ngự sử Trung tán Lê Duy theo hầu. Thượng hoàng trở về cung rồi Doãn Định và Nguyễn Như Vi mới đến. Cả hai bèn làm sớ kháng nghị, nói là Thượng hoàng không được vào Ngự sử đài, lại còn hặc tội Lê Duy không biết can ngăn, lời lẽ rất gay gắt. Thượng hoàng gọi họ đến, dụ rằng :
    - Ngự sử đài cũng là một trong các cung điện, chưa từng có cung điện nào mà thiên tử lại không được vào. Vả chăng, trong Ngự sử đài xưa kia còn có chỗ để thiên tử giảng học, các bạ thư chi hậu dâng hầu bút nghiên cũng ở đó cả. Đó là việc cũ về việc thiên tử vào Ngự sử đài. Ngày xưa, Đường Thái Tông còn xem cả thực lục, huống chi là việc vào Ngự sử đài.
    Bọn Định cố cãi, mấy ngày vẫn không thôi. Vua (chỉ Trần Dụ Tông -- ND) dụ họ hai ba lần cũng không được, bèn bãi chức hết cả.

    Lời bàn :

    Theo điển lễ, thiên tử không nên tới ngự sử đài, ấy là vì làm thế sẽ tạo ra sự thân mật quá mức bình thường, khiến các quan Ngự sử khó bề can gián khi vua có lỗi. Thiên tử phải chăm chú đọc sử, nhưng chỉ là sử viết về cha ông đã khuất của mình, học chỗ hay, tránh chỗ dở và nghiêm xét lời bình phẩm của sử gia để sửa đức chính, chứ không được đọc thực lục là sử viết về chính mình, cốt giữ cho sử gia sự khách quan và trung thực, không bị mang vạ khi viết về chỗ dở của thiên tủ đang trị vì. Thượng hoàng Minh Tông ngự đến Ngự sử đài ngay sau khi mới trùng tu ấy là sự thường, không trái điển lễ. Doãn Định và Nguyễn Như Vi trách cứ cả Thượng hoàng trong việc này là quá đáng. Làm phức tạp một việc vốn chỉ rất đơn giản là điều tối kị của đấng chăn dân. Ôi, chính trực và gàn dở vốn dĩ hoàn toàn khác nhau, vậy mà sao người đời dễ lầm lẫn thế !

  8. #58
    Avatar của buixuanphuong09
    Bạn Tri Kỷ
    Hiện Đang :    buixuanphuong09 đang ẩn
    Tham gia ngày : May 2011

    Tuổi: 85
    Bài gửi : 49.663
    Thanks
    38.391
    Thanked 102.996 Times in 33.572 Posts
    Blog Entries
    2
    55 - BẢO UY VƯƠNG VỚI CÁI GIÁ CỦA MỘT TẤM ÁO

    Tháng 6 năm Đinh Hợi (1347), Bảo Uy Vương phạm tội, bị triều đình nhà Trần đuổi khỏi kinh sư, nói là cho làm chức Phiêu kị Tướng quân ở trấn Vọng Giang (đất Diễn Châu, Nghệ An ngày nay) nhưng Bảo Uy Vương đi chưa đến nơi thì đã bị võ sĩ của triều đình đuổi theo và giết chết. Vì sao một quý tộc cao cấp như Bảo Uy Vương lại bị giết chết một cách thê thảm như vậy. Đầu đuôi vụ án này được sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 7, tờ 13 b và tờ 14 a) chép lại như sau :
    “Buổi đầu dựng nước, thuyền buôn nước Tống sang dâng người nước Tiểu Nhân, thân dài bảy tấc, tiếng như ruồi nhặng, không thông ngôn ngữ, lại dâng một tấm vải hỏa hoãn, giá mỗi thước ba trăm quan tiền, cất giữ nhiều đời làm của quý. Sau, đem may áo cho Vua (đây chỉ Trần Dụ Tông - ND), vì cắt hơi ngắn nên Vua sai cất trong nội phủ. Bảo Uy Vương tư thông với cung nhân và lấy trộm áo ấy. Một hôm, Bảo Uy mặc áo ấy vào trong, mặc thêm áo khác che ở ngoài rồi vào chầu, tâu việc trước mặt Thượng hoàng, ngờ đâu, tay áo trong lộ ra. Thượng hoàng trông thấy, có ý nghi bèn sai người kiểm xét lại, quả thấy áo quý cất giữ đã mất. Người cung nhân (tư thông với Bảo Uy Vương) sai thị tì già đến nhà Bảo Uy Vương lấy áo đem về, rồi ngầm đem vào cung dâng trình. Thượng hoàng không nỡ giết, đuổi Bảo Uy ra làm quan ở trấn ngoài, nhưng lại sai võ sĩ đi thuyền nhẹ đuổi theo, trên sông Vạn Nữ (tức sông Trinh Nữ ở Yên Mô, Ninh Bình) thì kịp, giết chết Bảo Uy Vương, quăng xác vào bãi cát rồi về".

    Lời bàn :

    Người nước Tiểu Nhân, chắc chỉ là người lùn không rõ lái buôn Trung Quốc bắt ở đâu đem đến, có lẽ sử cũ thấy lạ nên chép là người nước Tiểu Nhân. Vải hỏa hoãn cũng tức là vải hỏa cán, được sách xưa giải thích nhiều cách khác nhau, khi thì bảo là vải chịu lửa, khi lại nói vải giặt bằng lửa, đại khái, ta cứ cho là thứ vải vừa quý vừa lạ.
    Xưa nay, có thể có kẻ “đói ăn vụng, túng làm càn" còn nhu đường đường là đấng vương tước như Bảo Uy, có đâu nghèo đến nỗi phải ăn trộm áo vua.
    Tư thông với cung nhân đã là một lần ăn trộm, ấy là trộm tình. Mượn tay cung nữ để lấy áo vua là lại thêm một lần ăn trộm nữa, ấy là trộm của. Sinh ra trên nhung lụa mà vẫn ăn trộm thì con người ấy chẳng đáng sống giữa cõi đời. Cái giá của tấm áo mà Bảo Uy phải trả sao mà đắt thế !

  9. #59
    Avatar của buixuanphuong09
    Bạn Tri Kỷ
    Hiện Đang :    buixuanphuong09 đang ẩn
    Tham gia ngày : May 2011

    Tuổi: 85
    Bài gửi : 49.663
    Thanks
    38.391
    Thanked 102.996 Times in 33.572 Posts
    Blog Entries
    2
    56 – HIẾN TỪ TUYÊN THÁNH THÁI HOÀNG THÁI HẬU

    Hiến Từ Tuyên Thánh Thái hoàng Thái hậu nguyên là trường nữ của Đại vương Trần Quốc Chẩn, được vua Trần Minh Tông sách phong làm Hoàng hậu vào tháng 12 năm Quý Hợi (1323). Đến năm Đinh Dậu ( 1357), Trân Minh Tông mất, bà được vua Trần Dụ Tông tôn phong làm Thái hoàng Thái hậu. Ngày 14 tháng 12 năm Kỉ Dậu (1369), bà bị kẻ tiếm ngôi là Dương Nhật Lễ giết chết. Nhân cách của bà ra sao, sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 7, tờ 30 a-b và tờ 31 a-b) vừa chép vừa bàn rất xác đáng như sau :

    Thái hậu vốn tính nhân hậu, có nhiều công lao giúp rập. Trước kia. khi Minh Tông còn ngự ở Bắc cung, có tên gác cổng bắt được một con cá bống trong giếng Nghiêm Quang, mồm có ngậm vật lạ, moi ra thấy có chữ, toàn những lời trù yểm, ghi tên Dụ Tông, Cung Túc, Thiên Ninh (đều là con đẻ của Hiến Từ). Tên gác cổng cầm lá bùa tâu lên vua. Minh Tông sợ lắm, truyền bắt hết cung nhân, bà mụ, thị tì ra tra hỏi. Thái hậu thưa :
    - Khoan đã, sợ trong đó có kẻ bị oan, thiếp xin tự mình bí mật xét hỏi trước.
    Minh Tông nghe theo. Thái hậu sai người hỏi tên gác cổng :
    - Gần đây, phòng nào trong cung có mua cá bống ?
    Tên gác cống trả lời là Thứ phi Triều Môn. Thái hậu nói cho Minh Tông biết, Minh Tông lập tức ra lệnh tra xét cho ra. Thái hậu tâu rằng :
    - Đây là việc trong cung, không nên hở ra ngoài. Thứ phi Triều Môn là con gái của Cung Tĩnh Vương, nếu để hở ra thì Quan gia sẽ sinh hiềm khích với Thái úy. Thiếp xin bỏ qua chuyện này, không xét hỏi nữa.
    Minh Tông khen bà là người hiền. Đến khi Minh Tông băng, vị tướng quân là Trần Tông Hoắc muốn tỏ ra trung thành với Dụ Tông, bèn thêu dệt việc này, làm Thái úy xuýt nữa bị hại, nhờ Thái hoàng cố sức cứu đỡ mới thoát. Người bấy giờ ca ngợi bà là đã trọn đạo làm mẹ, tuy là phận con trưởng, con thứ không giống nhau, mà lòng nhân từ của bà thì đối với con nào cũng thế. Với bà, ân nghĩa vua tôi, cha con, anh em, không một chút thiếu sót, từ xưa đến nay chưa ai có được như vậy. Người xưa có nói "Nghiêu, Thuấn trong nữ giới", Thái hậu được liệt vào hàng ấy. Bà từng hối tiếc về việc lập Nhật Lễ. Sau Nhật Lễ ngầm đánh thuốc độc giết bà".
    Người kể chuyện không dám góp thêm lời bàn, chỉ xin có một chú thích nhỏ : mấy chữ "Nghiêu Thuấn trong nữ giới" vốn là lời vua Tống Anh Tông (Trung Quốc) ca ngợi Cao Hoàng hậu nhà Tống, nguyên văn phiên âm Hán Việt là "Nữ trung Nghiên Thuấn”.

  10. #60
    Avatar của buixuanphuong09
    Bạn Tri Kỷ
    Hiện Đang :    buixuanphuong09 đang ẩn
    Tham gia ngày : May 2011

    Tuổi: 85
    Bài gửi : 49.663
    Thanks
    38.391
    Thanked 102.996 Times in 33.572 Posts
    Blog Entries
    2
    57 - CHU VĂN AN

    Chu Văn An sinh năm nào không rõ, chỉ biết ông mất vào năm Canh Tuất (1370), được vua Trần Nghệ Tông (1370 - 1372) truy tặng tước Công và được tòng tự (cho được thờ tự) ở Văn Miếu. Ông tên chữ là Linh Triệt, hiệu là Tiều Ẩn, thụy là Văn Trinh. Sử cũ đã trang trọng dành nhiều đoạn để ca ngợi danh tiết của ông, nay xin theo Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 7, tờ 34a-b và tờ 35a-b) kể tóm lược như sau:

    "(Chu Văn) An người Thanh Đàm (nay là Thanh Trì, ngoại ô Hà Nội - ND), tính cương nghị, thẳng thắn, sửa mình trong sạch, bền giữ tiết tháo, không cầu lợi lộc. Ông ở nhà đọc sách, học vấn tinh thông, nổi tiếng khắp cõi, học trò đầy nhà. Có người đỗ đại khoa như Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát, làm đến chức Hành khiển mà vẫn nghiêm giữ lễ học trò, khi đến thăm thầy thì lạy ở dưới giường, được nói chuyện với thầy vài câu rồi mới đi xa là lấy làm mừng lắm. Kẻ xấu thì ông nghiêm khắc quát mắng, thậm chí la thét không cho vào. Ông sống trong sạch, thẳng thắn, nghiêm nghị, lẫm liệt đáng sợ đến như vậy đấy.
    Vua Minh Tông mời ông làm Quốc tử giám Tư nghiệp và dạy Thái tử. Vua Dụ Tông ham chơi bời, lười chính sự, quyền thần lắm kẻ coi thường phép nước, (Chu Văn) An khuyên can mà Dụ Tông không nghe, bèn dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần, đều là những kẻ có thế lực, được Vua yêu, người bấy giờ gọi sớ ấy là "thất trảm sớ". Nhưng, sớ ấy dâng lên mà không được Vua trả lời, ông liền treo mũ áo mà về quê.
    Ông thích núi Chí Linh (Hải Dương - ND), bèn đến ở đấy, khi nào có triều hội lớn thì về kinh sư. Dụ Tông đem chính sự giao cho ông nhưng ông từ chối không nhận. Hiến Từ Thái hoàng Thái hậu bảo :
    - Ông ta là người không thể bắt làm tôi được, ta làm sao mà có thể sai bảo được ông ta.
    Vua sai nội thần đem quần áo ban cho ông, ông lạy tạ ơn xong rồi đem cho người khác hết, thiên hạ cho ông là bậc cao thượng. Đến khi Dụ Tông băng (1369 ), giềng mối họ Trần xuýt mất, nghe tin các quan lập vua mới (chỉ Trần Nghệ Tông - ND), ông mừng lắm, chống gậy đến xin bái yết, xong lại trở về quê, từ chối không nhận chức gì cả. Ông mất, Vua sai quan đến tế, ban tặng tên thụy là Văn Trinh. Ít lâu sau lại lệnh cho ông được tòng tự ở Văn Miếu".

    Lời bàn của sử thần Ngô Sĩ Liên :

    "Người hiền được dùng ở đời thường lo vua không thi hành điều sở học của mình. Vua thì dùng người hiền mà hay lo người hiền không theo ý muốn của mình. Cho nên, vua tôi gặp nhau, từ xưa đã là rất khó. Nho gia nước Việt ta được dùng rất nhiều, nhưng kẻ thì chỉ nghĩ đến công danh kẻ thì lo làm giàu, kẻ chỉ xu phụ, kẻ chỉ cốt ăn lộc giữ thân, ít ai chịu để tâm đến đạo đức, lo nghĩ việc giúp vua, nêu đức tốt để cho dân được nhờ. Tô Hiến Thành thời Lý và Chu Văn Trinh đời Trần có lẽ cũng gần được (là người để tâm đến đạo đức, giúp vua nêu gương sáng cho đời). Nhưng Hiến Thành gặp được vua sáng nên công danh sự nghiệp được thấy ngay đương thời, còn Chu Văn Trinh đời Trần không gặp được vua anh minh nên chính học của ông phải đến đời sau mới thấy được. Văn Trinh thờ vua thì thẳng thắn mà can ngăn, xuất xử thì làm theo nghĩa lí, đào tạo người tài thì công khanh đều ở cửa nhà ông mà ra, tiết tháo của ông cao thượng đến thiên tử cũng không bắt làm bề tôi được. Huống chi, tư thế đường hoàng mà đạo làm thầy được nghiêm, giọng nói lẫm liệt mà bọn nịnh hót phải sợ. Ngàn năm về sau, nghe phong độ của ông, há kẻ điêu ngoa lại không thành liêm chính, kẻ yếu hèn lại không biết tự lập hay sao? Nếu không tìm hiểu nguyên cớ, thì ai biết thụy hiệu của ông xứng đáng với con người của ông. Ông xứng đáng được coi là ông tổ của Nho gia nước Việt để thờ trong Văn Miếu. Những người khác như Trần Nguyên Đán là bậc hiền tài trong khanh sĩ, cùng họ với vua, tuy có khí phách trung phẫn nhưng lại bó tay bỏ mặc vận nước không biết làm sao, chỉ lánh quyền tướng quốc để mong bảo toàn gia thuộc. Trương Hán Siêu là quan văn học, tài vượt hẳn mọi người, tuy cứng cỏi, chính trực nhưng lại chơi với kẻ không đáng chơi, gả con gái cho người không đáng gả. Họ so với Văn Trinh có gì đáng kể, huống hồ những kẻ còn kém hơn hai ông này”.
    (Đây là lời Ngô Sĩ Liên, cơ sở chứng cứ của những lời bàn này đến nay vẫn chưa được biết đầy đủ. Sinh thời Trương Hán Siêu không chơi với văn quan hay võ quan mà chỉ thích giao du với hoạn quan Có lẽ vì thế mà bị Ngô Sĩ Liên cho là “chơi với những kẻ không đáng chơi” chăng ? Riêng việc gả con cho những người không đáng gả thì vẫn chưa rõ, chỉ xin dẫn nguyên văn lời của Ngô Sĩ Liên mà thôi (ND).



+ Trả lời chủ đề
Trang 6/8 ĐầuĐầu ... 4 5 6 7 8 CuốiCuối

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình