+ Trả lời chủ đề
Hiện kết quả từ 1 tới 5 của 5

Chủ đề: Thơ dịch - Nguyễn Văn Đức

  1. #1
    Bạn Mới
    Hiện Đang :    Nguyễn Văn Đức đang ẩn
    Tham gia ngày : Jun 2017

    Bài gửi : 8
    Thanks
    22
    Thanked 55 Times in 8 Posts

    Thơ dịch - Nguyễn Văn Đức

    ĐỘC TIỂU THANH KÝ
    Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
    Tây Hồ mai uyển tẫn thành khư.
    Cổ kim hận sự thiên nan vấn.
    Phong vận kỳ nan ngã tự cư.
    Chỉ phấn hữu thần liên tử hận.
    Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
    Bất tri tam bách dư niên hậu.
    Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
    Nguyễn Du
    Dịch nghĩa:
    Viếng thăm ngồi trước song cửa đọc sách.
    Vườn mai Tây Hồ nay đã thành gò hoang.
    Những oán hận xưa nay khó thấu tới trời.
    Nỗi oan kì lạ kiếp người thấy ta trong đó.
    Son phấn phải có thần của nó, chính thần đó mang nỗi đau sau khi giã biệt.
    Văn chương không có số mệnh, làm sao khỏi sự ưu phiền khi bị đốt cháy oan.
    Không biết sau hơn ba trăm năm nữa.
    Thiên hạ có người nào khóc Tố Như.

    Dịch thơ:
    ĐỌC KÝ TIỂU THANH(1)
    Thân phận Tiểu Thanh cực thế ư ?
    Hào hoa, tuyệt sắc giỏi thơ từ.
    Bấy nay hờn oán trời khôn thấu.
    Tái hiện đau buồn đất khó cư.
    Son phấn có thần, đau nỗi biệt.
    Văn chương vô mệnh, oán thân trừ.
    Ba trăm năm nữa nào ai biết.
    Liệu có bao người khóc Tố Như.
    Văn Đức dịch

    (1)Tiểu Thanh là cô gái tuyệt sắc, chữ đẹp, giỏi thơ văn. Số phận éo
    le, nàng lấy chồng, gặp người vợ cả ghen tuông quá mức, bắt nàng ở
    riêng dưới chân núi Cô Sơn hiu quạnh, thơ văn của nàng bị đốt phũ
    phàng. Nàng tuyệt mệnh khi còn quá trẻ. Nhân chuyến bắc hành (1813)
    Nguyễn Du đã đọc bài kí còn lại mấy trang và thơ văn sót lại, ông vô
    cùng thương xót, khóc người xưa, ngẫm tới phận mình, không biết ba
    trăm năm sau có ai người khóc mình.

    Xưa có thời gian dài dị bản bài Độc Tiểu Thanh ký (1) được lưu truyền
    làm cho nhiều độc giả và các nhà nghiên cứu rất phân vân: Chẳng lẽ Đại
    thi hào Nguyễn Du-từng là giám khảo kỳ thi hương năm 1807 đời Gia Long
    thứ 6,mà lại có bài thơ thất luật như vậy sao? Mà ở vào thời kì đó thơ
    luật đường ở Viêt Nam đã phát triển khá hoàn thiện về Niêm Luật và đối
    rất nghiêm chỉnh. Với bài Độc Tiểu Thanh kí sai niêm luật thì Nguyễn
    Du là gì dưới con mắt các sĩ tử và các bạn đồng liêu thời đó.
    Nhờ nhà văn, nhà nghiên cứu Linh Đàn (người ở Lan Đình Gio Linh)
    ghi theo "Thượng thi tập ngâm" của dòng họ Thượng thư Trần Đình -
    Quảng Trị, đã giúp chúng ta giải nỗi oan cho Nguyễn Du.
    Nguyễn Văn Đức
    (1)
    Chính bản xưa, hẳn sẽ là Dị bản:
    ĐỘC TIỂU THANH KÝ
    Tây Hồ mai uyển tẫn thành khư
    Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
    Chỉ phấn hữu thần liên tử hận
    Văn chương vô mệnh luỵ phần dư
    Cổ kim hận sự thiên nan vấn
    Phong vận kì nan ngã tự cư
    Bất tri tam bách dư niên hậu
    Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.

    Nguyễn Văn Đức

  2. 8 Thành viên dưới đây cảm ơn Nguyễn Văn Đức vì bài viết hữu ích này


  3. #2
    Avatar của Lê Đức Mẫn
    Điều Hành Viên-P.Ban Đại Diện KVMB
    Hiện Đang :    Lê Đức Mẫn đang ẩn
    Tham gia ngày : Jul 2012

    Tuổi: 82
    Bài gửi : 974
    Thanks
    17.062
    Thanked 11.438 Times in 974 Posts

  4. 8 Thành viên dưới đây cảm ơn Lê Đức Mẫn vì bài viết hữu ích này


  5. #3
    Bạn Mới
    Hiện Đang :    Nguyễn Văn Đức đang ẩn
    Tham gia ngày : Jun 2017

    Bài gửi : 8
    Thanks
    22
    Thanked 55 Times in 8 Posts
    DỊCH THƠ THÚY KIỀU

    Trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân có gần 1000 câu thơ do
    Kiều (572 câu) Thúc Sinh (110 câu), Sở Khanh (82 câu),Giác
    Duyên(46câu), Tống Ngọc (44 câu) v v..sáng tác.Thi hào Nguyễn Du có
    nhắc đến, nhưng không có tác phẩm nào được dịch.
    Tôi xin dịch đôi bài của Kiều để góp vui với Hội Kiều Học


    *Bài 1 (Kiều trước mộ Đạm Tiên)

    Sắc hương hà xứ dã
    Băng điếu thống tâm tai
    Minh nguyệt lãnh loan bị
    Án trần phong kính đài
    Ngọc tuy hoành thổ oánh
    Danh vị bạch tuyết mai
    Thương hữu như miên tửu
    Vô nhân nhất tửu bôi.
    Thúy Kiều

    *Bài 2 (trước khi rời mộ Đạm Tiên)
    (Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần. ND)

    Tây phong hà hối khí
    Trận trận sử nhân ai
    Thảm thiết như hàm oán
    Thê lương tự hữu hoài
    Thừa loan nghi sạ khứ
    Khóa hạc nhạ trùng lai
    Bất đoạn hương hồn xứ
    Thương thương xi ấn đài.! Thúy Kiều

    Dịch thơ: Nguyễn Văn Đức

    1 - VIẾNG MỘ ĐẠM TIÊN

    Sắc hương dẫu nhạt phai
    Thăm viếng đau lòng ai
    Trăng lạnh soi chăn gối
    Bụi mờ phủ kính đài
    Bùn đen sao vấy ngọc
    Tuyết trắng lại che mai
    Ly rượu bên bài vị
    Xin nâng chẳng ép nài.
    Văn Đức dịch thơ

    2 - TẠ TỪ

    Từ đâu gió đến đây
    Mấy trận não nùng thay
    Những tưởng thân hờn oán
    Hay đâu cảnh đắng cay
    Chim oanh vừa bay khuất
    Bóng hạc lại về ngay
    Chẳng mất cùng năm tháng
    Còn in rõ dấu giày.
    Văn Đức dịch thơ
    Lần sửa cuối bởi Nguyễn Văn Đức; 29-06-2017 lúc 11:30 PM

  6. 8 Thành viên dưới đây cảm ơn Nguyễn Văn Đức vì bài viết hữu ích này


  7. #4
    Avatar của TRẦN THỊ THANH LIÊM
    Điều Hành Viên Chính - Tr.Ban Đại Diện KVMB
    Hiện Đang :    TRẦN THỊ THANH LIÊM đang ẩn
    Tham gia ngày : May 2011
    Đến từ : Đại học Đại Nam Hà Nội

    Tuổi: 73
    Bài gửi : 3.829
    Thanks
    63.207
    Thanked 39.164 Times in 3.821 Posts
    Blog Entries
    6
    Xin góp cùng thi huynh một bài ạ:


    Thơ Cao Bá Quát


    薄暮思家

    高伯适

    城上凍雲千里陰,
    梁園花柳瞙沉沉。
    高堂兩處思兒淚,
    薄宦三春感舊心。
    對榻貧妻烹北茗,
    敲門小女弄南音。
    邦家有道知何用?
    一病蹉跎歲自深。


    Bạc mộ tư gia

    Cao Bá Quát

    Thành thượng đống vân thiên lý âm,
    Lương viên hoa liễu mạc trầm trầm.
    Cao đường lưỡng xứ tư nhi lệ,
    Bạc hoạn tam xuân cảm cựu tâm.
    Đối tháp bần thê phanh bắc mính,
    Xao môn tiểu nữ lộng nam âm.
    Bang gia hữu đạo tri hà dụng?
    Nhất bệnh tha đà tuế tự thâm



    Dịch nghĩa:

    Chiều hôm nhớ nhà

    Mây lạnh trên thành che rợp ngàn dặm

    Hoa liễu vườn bên cầu mong manh rủ xuống

    Hai chốn cha mẹ tuôn lệ nhớ con.

    Chức quan nhỏ bạc bẽo làm cảm thương lòng mong mỏi của cha mẹ khi còn nhỏ

    Ngồi trước giường, vợ nghèo nấu (pha) trà kiểu Bắc

    Gõ cửa, con gái nhỏ chơi điệu phương Nam

    Nước nhà có đạo (thịnh trị) biết dùng người cách gì đây?

    Bệnh tật lay lắt kéo dài suốt cả năm.

    Chú thích:

    - Cao đường lưỡng xứ: Chỉ cha mẹ ở hai nơi.

    - Tam xuân: Ba tháng mùa xuân, ám chỉ cha mẹ; xuất xứ từ thơ "Du tử ngâm" của Mạnh Giao đời Đường. Ý trong bài: Thương cha mẹ từng hy vọng khi anh em Cao Bá Quát thông minh từ nhỏ.

    - Nam âm: Có thể chỉ điệu Nam ai, Nam bình nghe thật ảo não, tả tâm trạng công chúa Huyền Trân về xứ Chiêm Thành, rất hợp cảnh ngộ họ Cao.

    - Hà dụng: Dùng cách gì đây. Kẻ sĩ gặp lúc nước nhà có đạo thì ra làm quan (xuất) gặp lúc nước nhà vô đạo thì ở ẩn (xử). Họ Cao cám cảnh cho mình “xuất” mà chỉ nhận cảnh đau ốm, chẳng đền đáp nổi ơn sinh thành.

    Dịch thơ:

    CHIỀU HÔM NHỚ NHÀ

    Thành vắng mây che phủ lạnh mờ
    Bên cầu trầm mặc liễu lơ thơ
    Cao đường rơi lệ bao buồn nhớ
    Chức nghiệp thương tâm luống vọng chờ
    Trà Bắc vợ nghèo pha lạch cạch
    Điệu Nam con trẻ hát ầu ơ
    Sinh thời tuấn kiệt ai cầu nhỉ
    Đeo đẳng thâm căn bệnh vật vờ.


    Trần Thị Thanh Liêm

  8. 6 Thành viên dưới đây cảm ơn TRẦN THỊ THANH LIÊM vì bài viết hữu ích này


  9. #5
    Avatar của TRẦN THỊ THANH LIÊM
    Điều Hành Viên Chính - Tr.Ban Đại Diện KVMB
    Hiện Đang :    TRẦN THỊ THANH LIÊM đang ẩn
    Tham gia ngày : May 2011
    Đến từ : Đại học Đại Nam Hà Nội

    Tuổi: 73
    Bài gửi : 3.829
    Thanks
    63.207
    Thanked 39.164 Times in 3.821 Posts
    Blog Entries
    6
    Thi lão Thanh Minh cũng dịch thơ ND đó thi huynh ạ:
    夾 城 馬 伏 波 廟 - Giáp Thành Mã Phục Ba miếu
    阮 攸 - Nguyễn Du (1765–1820)

    Nguyên văn chữ Hán:
    六 十 老 人 筋 力 衰
    據 鞍 被 甲 疾 如 飛
    殿 庭 只 慱 君 王 笑
    鄉 里 寧 知 兄 弟 悲
    銅 柱 僅 能 欺 越 女
    珠 車 畢 竟 累 家 兒
    姓 名 合 上 雲 臺 畫
    猶 向 南 中 索 歲 時

    Phiên âm Hán Việt:
    Lục thập lão nhân cận lực suy
    Cứ an bị giáp tật như phi
    Điền đình chỉ bác quân vương tiếu
    Hương lý ninh tri huynh đệ bi
    Đồng trụ cận năng khi Việt nữ
    Châu xa tất cánh lụy gia nhi
    Tính danh hợp thướng Vân Đài họa
    Do hướng Nam trung sách tuế thì?
    Nguyễn Du

    Dịch nghĩa:
    Người già tuổi sáu mươi thì gân sức suy.
    Ông còn mặc giáp nhảy lên ngựa nhanh như bay.
    Chỉ chuốc một nụ cười của nhà vua nơi cung điện.
    Đâu biết anh em nơi quê hương thương xót cho ông!
    Cột đồng chỉ dối được đàn bà con gái Việt.
    Chứ như xe ngọc châu chở về, thị lại để lụy cho con cháu ông.
    Tên tuổi ông (đáng lẽ) được ghi nơi bức họa Vân Đài.
    Sao lại đòi nước Nam hằng năm phải cúng tế?

    Dịch thơ:
    ĐẾN MIẾU MÃ PHỤC BA (1)

    Sức lực sáu mươi đã kém thay
    Vẫn còn lên ngựa phóng như bay
    Mong nơi cung điện vua cười phán
    Chẳng kể anh em đau xót đầy
    Đồng trụ chỉ lừa thôn nữ sợ
    Ngọc xa thu lượm vợ con cay
    Vân Đài danh họa sao không vẽ
    Lại cúng thờ chi tại Việt đây?
    Phan Thị Thanh Minh
    (Hà Nội) dịch thơ

    (1) Mã Viện đã già yếu, muốn sang đánh Hai Bà Trưng Nhảy lên ngựa ra vẻ mạnh khỏe- Vua cười khen phong là Phục Ba tướng quân. Khi đi em họ là Thiều Du nói: "Người ta sinh ra cốt ăn mặc vừa đủ thôi, nếu cầu thêm thừa thãi thì chỉ khổ thân" Mã Viện chết không được vẽ chân dung cùng 28 vị công thần TQ ở gác Vân Đài mà lại bắt xây miếu thờ ở Việt Nam nên Nguyễn Du chê trách. Khi sang đóng quân ở hồ Dâm Đàm (Hồ Tây) thấy diều lượn trên mặt hồ đầy khí lam chướng... Mã Viện hối hận nói: "Nay nghĩ lại lời Thiều Du nói đúng nhưng không làm sao được nữa"nên Nguyễn Du có bài thơ mỉa như bài dưới đây.

  10. 2 Thành viên dưới đây cảm ơn TRẦN THỊ THANH LIÊM vì bài viết hữu ích này


+ Trả lời chủ đề

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình