Đặc điểm nhận dạng: Cánh viền nâu tối mảnh, con cái có viền đen rộng hơn. Các con đực của giống Lampides thể hiện một kiểu vẩy giới tính độc nhất vô nhị, mặt dưới của chúng cũng độc đáo và không giống bất cứ một giống họ hàng gần gũi nào. Loài Lampides boeticus có mặt trên con đực màu đỏ đun ánh tím với hai đốm đen ở cuối cánh sau. Mặt trên con cái màu nâu với vùng gốc cánh màu xanh da trời nhạt. Trên cánh sau có các dải nhạt màu ở sau ô cánh và gần mép cánh. Có một đuôi ngắn. Mặt dưới: Màu nâu nhạt, có dải trắng xuyên qua nửa cuối của các cánh. Ở vùng 1b và 2 của cánh sau có hai đốm vàng bò - da cam ánh kim. Sải cánh: 24-36mm.
Sinh học sinh thái: Đặc điểm chung: Gặp ở bãi cỏ, trảng cỏ trống có nắng và nơi có thảm thực vật tốt. Khi thấy người thường bay một lúc khá lâu mới đậu lại nên khó quan sát. Loài này thường gặp ở vùng làng quê và thành phố, công viên và vườn, trên bờ và bãi sông. Chúng xuất hiện quanh năm ở độ cao khác nhau. Bướm bị hấp dẫn bởi một số cây có hoa. Tại Hồng kông, sâu non thích ăn lá cây Lục lạc và những cây khác thuộc họ Đậu Fabaceae
Phân bố: Loài bướm di cư này có phân bố rất rộng từ châu Âu đến châu Phi và châu Á qua San-đơ-lan đến Ôx-trây-li-a và quần đảo Hawai. Gặp khắp nơi ở Việt Nam, phổ biến, ở các độ cao,trong các khu nông nghiệp và trảng cỏ, cây bụi
Giá trị, tình trạng và biện pháp bảo vệ:
Là loài thường gặp và có phổ phân bố rất rộng.
74- Chi Larinopoda
B.2.557- Bướm xanh Eurema – Larinopoda eurema
Larinopoda eurema là một loài bướm ngày thuộc chi Larinopoda, họ Bướm xanh Lycaenidae, được tìm thấy ở Guinea, Sierra Leone, Liberia, Côte d'Ivoire và miền tây Ghana.
Larinopoda aspidos là một loài bướm ngày thuộc chi Larinopoda, họ Bướm xanh Lycaenidae, được tìm thấy ở vùng Volta của Ghana, và ở Togo và Nigeria.
Đây là một loài rừng mưa nhiệt đới, nhưng có thể được tìm thấy ở những khu vực khá xáo trộn như khoảng trống, và dọc theo các con đường và đường mòn đăng nhập.
76- Chi Lepidochrysops
B.2.560- Bướm xanh Glauca – Lepidochrysops glauca
Lepidochrysops glauca là một loài bướm ngày thuộc chi Lepidochrysops, họ Bướm xanh Lycaenidae. Nó được tìm thấy ở Zimbabwe, Malawi, Botswana và Nam Phi.
Sải cánh dài 35–40 mm đối với con đực và 38–48 mm đối với con cái. Bướm trưởng thành bay từ tháng 9 đến tháng 12 và từ tháng 1 đến tháng 4. Có hai lứa trưởng thành một năm.
Ấu trùng ăn chi Húng quế Ocimum họ Hoa môi Lamiaceae và chi Lantana họ Cỏ roi ngựa Verbenaceae.
Nguồn : Wikipedia & Internet
(30 Tết rồi, không thể nằm mãi, phải vùng dậy thôi. ngoài kia trời đẹp lắm!)
Lepidochrysops praeterita là một loài bướm ngày thuộc chi Lepidochrysops, họ Bướm xanh Lycaenidae. Nó được tìm thấy ở Nam Phi, từ Potchefstroom ở tỉnh Tây Bắc đến Walkerville ở Gauteng và Sasolburg ở bang Orange Free.
Sải cánh dài 36–42 mm đối với con đực và 38–44 mm đối với con cái. Con trưởng thành bay từ đầu tháng 9 đến tháng 11. Có một lứa một năm.
Ấu trùng ăn chi Becium họ Hoa môi Lamiaceae
77- Chi Leptomyrina
B.2.562- Bướm xanh Gorgias – Leptomyrina gorgias
Leptomyrina gorgias là một loài bướm ngày thuộc chi Leptomyrina, họ Bướm xanh Lyc. Nó được tìm thấy ở miền nam châu Phi.
Sải cánh dài 18.5–29 mm đối với con đực và 25–32 mm đối với con cái. Con trưởng thành bay quanh năm với cao điểm vào tháng 11 và tháng 3.
Ấu trùng ăn các loài chi Kalanchoe, chi Crassula và chi Cotyledon họ Lá bỏng hay Trường sinh Crassulaceae.
Leptomyrina lara là một loài bướm ngày thuộc họ Bướm xanh. Nó được tìm thấy ở Nam Phi, ở Fynbos, Nama Karoo và Succulent Karoo trên khắp West Cape đến East Cape, trong nước của Nhà nước Tự do Orange, ở nước Anh và miền Bắc Cape.
Sải cánh dài 20–29 mm đối với con đực và 23–31 mm đối với con cái. Con trưởng thành bay từ tháng 8 đến tháng 4. Có vài thế hệ mỗi năm vào mùa hè và mùa xuân.
Ấu trùng ăn bay quanh năm với cao điểm vào tháng 11 và tháng 3.
Ấu trùng ăn các loài chi Kalanchoe,
chi Crassula và chi Cotyledon họ Lá bỏng hay Trường sinh Crassulaceae.
Leptotes plinius là một loài bướm ngày thuộc chi Leptotes, họ Bướm xanh Lycaenidae, được tìm thấy ở Sri Lanka, Ấn Độ đến Úc. Loài này được mô tả lần đầu tiên bởi Johan Christian Fabricius vào năm 1793.
Ấu trùng ăn các cây họ Đậu Fabaceae, họ Bạch hoa đan hay họ Đuôi công Plumbaginaceae và một số trong họ Cam quýt Rutaceae.