Những "con đường xưa Em đi"
Ba Con Đường Tạo Thành Ngã Ba Tháp
Nam Bắc 9
Đại Lộ Phan Thanh Giản
ÐẠI LỘ PHAN THANH GIẢN: Ðây là con đường xương sống, huyết mạch nối đảo quốc Bến Tre với thế giới bên ngoài; từ bến đò Cái Cối đến Ngã Ba Tháp gọi là đại lộ Phan Thanh Giản, phần tiếp theo nằm trong hệ thống liên tỉnh lộ 6 đi Mỹ Tho về hướng Bắc.
- Ðoạn 1: Từ bến đò sau nầy là đầu cầu Cái Cối đến bùng binh xã An Hội nơi có giếng phun. Tại khu vực bến đò, ghe các nơi, nhất là ghe từ miệt Cái Mơn đem cây cảnh, cây ghép, tháp...đến bán. Họ khuân cây mẫu lên để dọc theo đường Hùng Vương và một phần đại lộ Phan Thanh Giản phía vách tường Ty Công Chánh. Các loại cây lai tạo nầy mau có trái và năng suất cao, mua về trồng chừng mùa sau là có ăn khỏi phải ươm từ hạt.
Sắp tết đây là khu vực chợ hoa: Lan, mai, cúc, trúc, hồng, huệ, vạn thọ, có cả dưa hấu nữa ... đủ mặt, dập dìu nam thanh nữ tú đi xem có, đi mua có. Ai cũng muốn có cụm hoa tươi mang về trang hoàng cho có không khí Xuân.
Chợ hoa tới trưa ngày được tính là ba mươi âm lịch thì tan, nhiều khi bán không hết phải lẳng lặng bỏ mà về, chỉ khổ thân mấy Cô Bác quét dọn chợ! Thời gian trước nữa chợ hoa ở Bến Lở bên kia đường trước nhà hàng khách sạn Ðại Huê ở đầu đường Hùng Vương.
Nhân đây nói về khách sạn Ðại Huê: Năm nào cũng được cụ hiệu trưởng Huỳnh Văn Chưn (thân phụ thầy Huỳnh Thành Công, bào huynh thầy Huỳnh Thành Thới hiện ở vùng Sydney, Australia) đặt trước mấy phòng, hôm trước ngày thi tuyển vào đệ thất ông thuê mướn xe đưa đám sĩ tử Ba Tri lên để hôm sau ứng thí.
Buổi tối tắm xong ông kêu vài đứa đấm lưng giùm, trước khi ngủ ông còn dặn ôn bài nếu mà ông không nghe tiếng đọc bài là biết tay ông! Ông nói vậy chứ ông lảng tai rất nặng.
Ông thương NhàQuê lắm, học trò ruột của trường. Lần đầu từ trường xã vào ngồi trong sân trường chờ ông xếp lớp để học lớp nhì, ông nhìn tướng một hồi rồi đuổi về, vì trông NhàQuê còn nhỏ quá không đủ sức học! NhàQuê tự chứng minh cho ông thấy là mình được lên lớp.
Ba của NhàQuê khi về nhà còn khen NhàQuê gan dạ; Các bạn nhớ rằng thời đó Ba gọi ông Hiệu Trưởng là "Quan Ðốc Học" chớ không được "lơ tơ mơ" nói chuyện tay đôi đâu!
Học sinh trường Tiểu Học Bổ Túc Ba Tri do phần đông ở các xã xa xôi mang theo cơm trưa vào quận lỵ học, tan trường chiều cố gắng về nhanh, nhất là những tháng mặt trời mau lặn, muốn vậy phải trốn xếp hàng, khi nào hàng ngũ ngay ngắn mới theo thứ tự: đi bộ ra trước, xong mới tới xe đạp. Biết tụi nhà xa ưa "dù", ông hiệu trưởng đã ra đứng sẳn ngoài đường nắm chóp mấy đứa dọt trốn ra trước, ông kéo đám "nhảy dù" vào bắt đứng sau cùng, ông còn rầy: Bộ tụi bây "Ngoại càn khôn" hả!.
Khách sạn Ðại Huê kể là loại lớn mà lúc đó không có phòng tắm riêng và cũng không có nhà vệ sinh riêng cho từng phòng, phần dùng chung nầy nằm phía gần đường Nguyễn Trung Trực nhất.
Trở lại Đại Lộ Phan Thanh Giản, tại ngã ba bến đò Cái Cối có nhà thuốc tây Bến Tre quay cửa cả hai bên cửa chánh ra đại lộ Hùng Vương như đã nói rồi, bên hông tiệm phía đại lộ Phan Thanh Giản có vài sạp bán sách báo nho nhỏ, tiếp theo là ngã ba đường Hàng Chiếu.
Dãy tiệm kế tiếp có Ðại Sanh; tiệm nầy sau tận thế bán lèo tèo nước tách giặt đồ vì ông còn bận lo vụ tàu cây, tàu sắt!
Tại ngã ba đường Hàng Gà có nhà thuốc tây Thúy Lan như đã nói các phần trước.
Từ ngã ba đường Hàng Chuối đến bùng binh: Tiệm tiện của anh Nghĩa có các anh Tám Huốn, Ba Nhơn học việc, hai anh nầy thường đi chơi đêm, dặn NhàQuê tối bỏ ghế bố cá nhân của hai anh sẳn ngoài sân giùm. Khi nào không đi chơi đêm hai anh thường bàn chuyện quấn dây điện cho dynamo, NhàQuê không hiểu ất giáp gì hết cả!
Sau anh ba Nhơn có xưởng hàn tiện "Nhơn Thạnh" ở Ba Tri, làm ăn rất khấm khá "Nhất Nghệ Tinh Nhất Thân Vinh"! Vĩnh biệt anh Nhơn!
Tiếp đến cùng phía là nhà thuốc đông y Trương Kim Châm, đi xe từ Ba Tri lên đến cầu Chẹt Sậy đã thấy bảng quảng cáo: "Trương Kim Châm Hoa Ðà Tái Thế" Chắc ý nói ông tài giỏi cỡ Hoa Ðà, Biển Thước đã cứu được Quan Vân Trường khi đó vết thương đã bị thấm độc tới xương.
Theo truyện Tàu thì sách vở về môn mổ xẻ ít đau nhờ điểm huyệt đã bị cháy hết chỉ còn lại sách thiến gà, thiến heo mà thôi!
Không nghe ai nói cụ Trương Kim Châm giỏi về môn gì, chỉ thấy bảng hiệu nhà thuốc cũng lấp lánh như của tiệm bánh kẹo Vũ Hồ, chắc có liên quan nhau??
Bạn Phan Khánh Thoại sau học kỹ thuật Phú Thọ trọ ở đây, có lẽ họ hàng chứ ở đây không có vẻ gì chuyên trị nấu cơm tháng.
Ở Ba Tri có ông Nguyễn Văn Ân trương bảng là Ðông Y Sĩ hạng A; hai ông thầy thuốc tài sức phân định ra sao đây?? Các con thầy Ân đặt theo tên thuốc: Băng Phiến, Long Não, Châu Sa, Mạch Ðông, Liên Kiều...
Nói về tiệm thuốc Bắc, nhiều đấng mày râu đã từng đau khổ vì thuốc xức lác "hiệu ông già", ai có qua cầu mới hay: Ðể vậy thì ngứa rấm rức khó chịu, nhìn trước nhìn sau mới dám gãi, vì thường "lác nhà ta" ưa trú đóng chỗ "phải chẳng"; Nếu muốn trị cho dứt nọc thì theo điềm chỉ của người bị trước thì chỉ có thuốc xức lác hiệu ông già là công hiệu hơn cả.
Ði mua thuốc xức lác cũng là chuyện dở khóc dở cười: Vào tiệm nói vừa đủ nghe với nhỏ xẩm "bán cho chai thuốc xức lác", nhỏ sợ "chú chệt" ba của nhỏ và những khách đang mua bán trong tiệm nghi nhỏ nói chuyện lén với trai An Nam; Nhỏ nói lớn: Nị nói cái gì? Thuốc gì, lác hả? Nói lần đầu đã khó, giờ lập lại trước mặt bá quan văn võ thì chỉ muốn độn thổ cho rồi. Nhỏ Xẩm thấy ghét!!
Có thuốc rồi lén kiếm chỗ kín đáo góc nhà, vạch ra phết một mẻ, vừa rát nhảy dựng, vừa nóng dù có quạt máy cũng chưa đủ sức hạ nhiệt chứ đừng nói chi quạt giấy, quạt mo... nhào lăn lộn một hồi cơn khốn khó cũng qua, vài ba lần thì tuyệt nọc. Có người nói đâm lá muồn xức cũng hết; nhưng đi tìm kiếm món lá nầy e lộ "bí mật quốc da"!
Tiếp đến cửa hông tiệm nước Huê Liên có vài bàn phía ngoài cho khách, từ đây có thể nhìn thông suốt hai hướng đại lộ PhanThanh Giản và nhìn qua "Nhà Dây Thép".
Ngang ngã ba Hàng Chuối bên kia đường, nằm trong khu Công Chánh là tháp nước, phân phối nước"Phông Tên" cho một phần nhu cầu cư dân tỉnh lỵ, Các bạn hãy nhìn độ lớn tháp nước và dân số ngày mỗi tăng thì sẽ thấy vấn đề. Trên tháp nước còn có cái Ốc Hụ báo giờ làm việc và tan sở hành chánh, nó còn dùng báo động; Nhưng NhàQuê chưa được nghe bao giờ!
-Ðoạn 2: Từ bùng binh trước công sở xã An Hội đến đường Gia Long
Bùng binh xã An Hội có thể gọi là công trường, nơi đây NhàQuê đã đặt bước chân đầu tiên tiếp xúc chốn phồn hoa đô hội Bến Tre, lúc đó công trường nầy dùng làm bến xe đò đi các Quận, xuống xe rồi NhàQuê lóc thóc chạy theo Ba sợ lạc thì vô phương biết đường về xứ đồng chua nước mặn của mình.
Vì là lần đầu nên được căn dặn rất kỹ: Coi chừng móc túi! Trước khi đi chị cho mấy cây kim tây gài cẩn thận. Thực ra NhàQuê có được ít tiền chẳng là bao do anh chị cho dằn túi ăn bì bún, uống nước mía...coi như tiền trả trước cho chuyện kể về "Nước Bến Tre" sau khi hồi hương: Em đi về nói cho chị nghe với nghen!
Tới được "Nước Bến Tre" là ước mơ của nhiều bạn niên thiếu của NhàQuê, thả các bạn ấy vào rừng bắt cua bắt cá các bạn không bao giờ nao núng sợ lạc vậy mà nghe nói lên chốn thị thành thì sợ không biết đường về và người thị thành thì khác, không thể tin được theo cách nghĩ người miền quê.
Các Bạn có tưởng tượng được rằng hiện vẫn còn nhiều người chưa lần nào lên tới tỉnh thành không? Có đấy! Nếu không có vụ "bắt quân dịch" chắc nhiều bạn của NhàQuê chưa qua khỏi cầu Bắc Mỹ Tho.
NhàQuê không biết phải mô tả thế nào về hình dáng công trường trước xã An Hội; Nó không đúng là hình chữ nhật vì có một góc bị nơi có miếu thờ trong trại lính lấn ra; nhưng nó đủ rộng cho một tụ tập lớn, nhiều lần nó dùng làm nơi trình diễn văn nghệ, chiếu phim công cộng và cũng nhiều lần là nơi làm khán đài chánh trong ngày Quốc Khánh 26 tháng 10. Từ năm 1956 đến 1960 năm nào cũng có diễn hành, duyệt binh: Các đơn vị diễn hành đứng dọc hai bên đại lộ Phan Thanh Giản từ công trường đến Ngã Ba Tháp, chào đón vị chủ lễ trong quân phục đại lễ uy nghi, đi xe mui trần đến Tháp đặt tràng hoa. Xong quay về khán đài đọc diễn văn mà các loa phóng thanh treo dọc bên đường làm "thiên chức " của nó khọt khẹt như người mắc chứng ho kinh niên.
Bọn NhàQuê dùng thì giờ nầy chấm điểm các bạn nữ cùng trường hoặc các trường tư thục chứ chưa lần nào nghe các ông ấy nói gì và nói bao lâu.
Khi nào có lệnh Tập Họp! Tập Họp! mới trở về hàng ngũ của mình để đi "Ðề Phi Lê". Lần cuối cùng năm 1961 (?) cũng tương tự như vậy, nhưng phần diễn hành bất thình lình bị hủy bỏ vì nghe đâu là khán đài bị ném lựu đạn sét: Lép!
Sự việc nầy được kể là màn dàn cảnh của ông Phạm Ngọc Thảo để lấy niềm tin do quá khứ của ông không đủ sức thuyết phục! Do dàn cảnh nên ngu sao mà ném lựu đạn thật! Thế mà nghe nói ông Chánh Án ngất xỉu. NhàQuê chỉ được nghe kể lại, chứ có ở đó chắc cũng phải thay quần khác.
Ít tháng sau ông Phạm Ngọc Thảo đem vào trường thả những bạn liên quan nhiều vụ việc và các bạn nầy trở lại cùng "theo anh em học hành như xưa". Màn biểu diễn ngoạn mục nhất của ông là đánh mõ đánh phèng la hợp tấu như Redskins Band.
Cái đặc điểm của cái công trường nầy mà không nơi nào có là: đi lại, giao thông rất lộn xộn, đi ngang đi tắt; Sau có xây bồn giếng phun chủ đích hướng dẫn lưu thông theo chiều mũi tên vẽ, mà thấy không cải thiện được là bao.
Chung quanh công trường là: Trụ sở xã An Hội chiếm một cạnh. Ðường Nguyễn Ðình Chiểu mà dãy phố từ nhà thuốc tây Bình Dân đến tiệm nước Huê Liên hướng cửa ra dành một cạnh khác. Cạnh phía trước cửa Ty Bưu Ðiện mà sau nầy có nhà sách Trúc Giang. Cạnh thứ tư có phòng thông tin mới xây, thay thế phòng thông tin cũ trên đường Nguyễn Du, phòng thông tin cũ đó hướng ra nhà lồng thịt..
Qua khỏi bùng binh cho đến ngã tư Phan Thanh Giản-Gia Long bên trái là trại lính, bên phải có ký túc xá nữ sinh và cây xăng đã nói trong phần đường Gia Long.
- Ðoạn 3: Từ ngã tư Gia Long đến ngã tư Nguyễn Tri Phương
Ðoạn nầy là khu trường học có bảng cấm bóp còi từ hai hướng giao thông, hai bên có hai dãy trường lầu mới cất, trông tổng quát giống y hệt nhau nên NhàQuê gọi là chị em được sanh ba mà chú trai đã có nói nằm trong khu cuối trường Nữ Tiểu Học. Chú trai trở thành trai đầu lòng trường Trung Học Công Lập Kiến Hòa khi trường rời khu ở đậu về "Vương Quốc" mới.
Cô phía trái có tên riêng Trường Cộng Ðồng Dẫn Ðạo, cuối dãy tức gần đường Nguyễn Tri Phương có văn phòng Ban Giám Ðốc trường Trung Học Công Lập Bến Tre.
Hầu hết các phòng học dãy phía phải đều dành cho Trung Học. Số học sinh tăng dần theo các niên khóa về sau, số lớp ngày càng nhiều nên lấn dần dần các phòng trệt của trường tiểu học Phan Thanh Giản, có lúc lấn thêm qua Trường Cộng Ðồng Dẫn Ðạo.
Việc lấn chiếm nầy diễn ra liên tục trong sáu năm liền từ 1954 đến 1960. NhàQuê cứ ngỡ là trường mình ai dè ở đậu. Vì không biết mình ở đậu nên bọn NhàQuê và hai cấp lớp anh chị trước đó thoái mái như ở nhà mình. Ở nhà mướn hay ở đậu khổ lắm bà con ơi!
Hai bên đều có trụ cổng tương xứng, riêng phía phải có câu đối: "Trước noi gương tiền bối. Sau nối chí cụ Ngô".
Cửa sắt mở đóng đầu giờ học. Buổi sáng học sinh tụm năm, tụm ba đấu láo như pháo Xóm Mới Gò Vấp trong lúc chờ cổng mở.
Chính nơi đây được Hồ Ngọc Sánh tả lại trong bài luận văn tả cảnh ngày nhập trường:....mùi các chị xông lên nồng nặc...(Tác giả bài luận muốn nói các nữ sinh xức dầu thơm). Chỉ cần một câu trong bài luận là bạn Hồ Ngọc Sánh đi thẳng một lèo vô "lịch sử học sinh áo bà ba trắng"!. Thầy Trịnh Huế khi trả lại bài, đọc cho cả lớp nghe và phê: Nguy Hiểm ! Sẽ trở lại đây trong loạt bài Những "ngôi trường xưa Em học".
- Ðoạn 4: Từ ngã tư Nguyễn Tri Phương đến ngã tư Hai Bà Trưng.
Bên phải có hai công xá lầu mà gia đình bạn Bs Bùi Trọng Cường ngụ trong một, công xá kia cạnh đó có vài cây đủng đỉnh thấy thèm lắm mỗi khi có việc muốn trang trí như cắm trại chẳng hạn... cuối phía nầy là cây xăng chú Ba Hóa (Quá ??), gia đình bạn Lan và Hoàng.
Phía trái dùng làm bến xe một thời gian dài, bến xe dựa lưng phần đáy chữ U vào hàng rào nhà đèn, thực ra cũng chẳng dựa lưng hẳn vì các quán ăn cất bao quanh hình chữ U đó. Về sau bến xe dời đi, các quán dời theo một bước chẳng rời nhau. Bến Xe giờ nhường chỗ cho Quán Cơm Xã Hội vừa rẻ, vừa no nức bao tử; Cái gì mới chế tạo ra cũng phẩm lượng tốt, càng về sau càng..t..ê..nặng.
- Ðoạn 5: Từ ngã tư Hai Bà Trưng đến Tháp.
Phía phải đầu tiên là cửa sau của cơ quan quân sự, cái khu kín mít nầy có nói đi nói lại mấy lần rồi mà cũng chưa hết, vì biết cái gì trong đó mà nói; Thôi cho nó là "Không phận sự cấm vào" đi! Ði chỗ khác chơi cho mát!
Liền đó có chỗ mát thiệt: Hồ Tắm, không biết hội viên có giá đặc biệt không chứ mỗi lần tắm cũng mất năm "Tì" thời vua trước, NhàQuê không nhớ có tính giờ hay không?
NhàQuê chưa làm công việc truyền nhiễm bịnh lác đó bao giờ!
Nơi đây cũng nhiều lần tổ chức thi bơi lội. Có mấy năm thi bơi đường dài 3000m tức 120 hồ mỗi hồ 25m; Khởi hành có 4 tay đua, chỉ có hai anh em Lê Văn Hai và Lê Văn Ba tỉnh Vĩnh Bình là về tới đích. NhàQuê nghe tiếng Phan Hữu Dõng, con kình ngư của Việt Nam nhưng chưa được xem lần nào.
So với các kình ngư nam nữ hiện nay trong các kỳ tranh giải thế giới hay Olympic thì kỷ lục nội địa của ta chưa thấm vào đâu! Mỹ, Úc, Ðức đang là các cường quốc về môn nầy, thấy họ bơi mà mát mắt! Thành tích xít xao giữa các thứ hạng: Xem Jenny Thompson, người giữ nhiều kỷ lục thế giới, mỗi sải tay của nhỏ như với tới huy chương vàng! Olympic Hy Lạp vừa qua nhỏ Natalie Coughlin đỡ nhẹ 5 huy chương vàng, nhỏ có chiều cao khiêm nhường hơn các tay bơi khác mà lập được thành tích ấy quả là kỳ tài, nhỏ lúc nào cũng cười tươi như hoa.
Có cái nghe lạ lắm bà con ơi! Bơi 400 mét tự do trước đây nói: Lục sĩ A đoạt huy chương vàng cự ly 400 mét bơi tự do. Bây giờ phải nói vận Ðộng viên A chiếm huy chương vàng bơi tự do nội dung 400 mét mới thời trang! Nhớ nhe bà con!
Thỉnh thoảng có biểu diễn môn lướt ván tổ chức trên sông, khán giả đứng nghẹt trên bờ; Vui quá bà con ơi!
Trên lề đường vừa rời khỏi Hồ Tắm để đến Tháp sẽ gặp trụ cây số 85: Ðó là mốc hiệu báo nơi đó cách Sài Gòn 85 Km, trụ bên dưới sơn trắng, bên trên sơn đỏ, số 85 viết trong phần sơn đỏ; Khác "code" với trụ cây số trên đường tỉnh lộ sơn dưới trắng trên xanh.
Mà các bạn biết người ta tính khoảng cách hai thành phố là tính từ chỗ nào của thành phố nọ đến chỗ nào của thành phố kia không?? Nhờ anh bạn vong niên Ðặng Văn Ðiền mà NhàQuê biết.
Anh có kiến thức rộng rãi về nhiều lãnh vực trong đời sống hàng ngày, điều tâm đắc nhất là anh dạy: khi bị hỏi thì nên trả lời bằng câu hỏi để biến thế thụ động thành thế thượng phong. "Nghệ thuật" nầy xem ra ít người làm được! Thí dụ bị hỏi: Bạn và cô B chia tay nhau rồi phải không? Nên trả lời: Sao anh nghĩ là chúng tôi có vấn đề? Người hỏi bị đặt ngược lại trong thế bị động!
Khoảng trống từ hồ Tắm đến Tháp là công viên nhỏ, bao quanh có hàng phi lao cao vút, gỗ cây dương đi xoáy, cứng nên thường được dùng làm răng cối xay.
Thời chưa có nhà máy xay lúa, ở thôn quê muốn có gạo trắng để ăn hàng ngày phải qua nhiều khâu chế biến:
- Ðầu tiên là xay lúa: Lúa phơi nắng đã để nguội được đổ vào cối xay gồm hai thớt âm dương: Thớt dương cố định bên dưới, thớt âm nhẹ hơn bên trên và quay tròn được, thế mới nghịch đời! Lúa qua giữa hai thớt đó bị răng nghiền tróc vỏ, lúa phải phơi cho dễ tróc vỏ nhưng không được nóng dễ bị nát gạo.
- Vê hay quạt: Ðể tách gạo lứt và trấu (vỏ) ra riêng.
- Giã: Dùng cối và chày nện làm các hạt gạo lứt bị nện và cọ xát lẫn nhau tróc đi lớp bọc bên ngoài (cám). Trong đêm trăng tiếng chày khua...là trong giai đoạn nầy.
-Xàng, Giừn: Tách cám và gạo trắng ra riêng.
Thế các bạn đã biết tại sao các bà cụ, nội, ngoại, tập con cháu tiếc từ hạt cơm đổ rơi rớt! Vì qua các khâu vừa nói đã công sức rồi chưa kể giai đoạn cấy trồng.
Trên lề đường chung quanh Tháp có ít nhất bốn băng đá, NhàQuê và anh bạn khác hay chiếm ghế phía Hồ Tắm đi lên nầy, để ngắm ông đi qua bà đi lại, đôi khi cộng số xe, đôi khi chấm thi hoa hậu; Vậy là cô bạn nào có ngang đây cũng đã từng được bọn NhàQuê chấm điểm xếp hạng mà chẳng bao giờ hay biết. Giờ biết ra chắc chỉ chửi Ðồ Quỷ nè là cùng!
Lâu ngày làm NhàQuê trở thành tật có thể gọi là bịnh, theo đó thì NhàQuê tự biết mình hiện nay mang hai chứng bịnh kinh niên:
- Thấy bảng số xe hay bất kỳ cái gì dính dáng tới các con số là tự động cộng, nên về mặt làm toán cộng nhất là cộng sổ sách bằng miệng, cộng nhẩm ít ai sánh kịp.
- Trên chuyến xe, tàu hoặc chỗ đám đông là chấm hoa hậu dù không ai mời làm giám khảo và cũng chẳng có tiêu chuẩn gì rõ rệt, chỉ theo cảm tính riêng.
Các bạn có ai bịnh nầy không??? Thấy chẳng hại ai nên chưa cần chữa trị. NhàQuê đặt cho bịnh nầy là: Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui.
Ðây nói về phía bên trái của đoạn đường nầy: Tới một đoạn là dãy phố nhiều căn, căn đầu tiên có cô xẩm khá đẹp, chắc kén chọn hoài nên quá lứa. Tuy nhiên cũng nhiều ông quan ve vãn nghe đâu có ông ST gốc Miên dính; Tin nầy "với sự dè dặt thường lệ". Trước nhà có mấy cây dạ lý đêm ngang qua hương thơm thoang thoảng.
Các căn kế tiếp NhàQuê không nhớ theo thứ tự: Của các ông cựu Db Lê Quang Hảo, thầy Nguyễn Quý Ninh, thầy Phan Văn Sáu...đến căn chót hay áp chót hiện nay của gia đình anh Mười Tốt, rể Ba Tri, mấy năm trước qua điện thoại anh nói " Chú NhàQuê à! Chắc tui về bển chứ tui không muốn chết bên nầy". Thôi tiện dịp tới quán giải khát anh Mười Tốt, tụi mình xả hơi chút, mỗi đứa làm một ly "cà phê giúp trí nhớ" đi!
Thầy Phan Văn Sáu sau thông gia cùng bác Lê Quang Hảo, bạn Phan Ngọc Gia con thầy có nhà sách không biết căn nhà mình hay căn của bên vợ? Thầy Phan Văn Sáu là Tổng Giám Thị trường THKH tiếp sau thầy Trần Văn Ðinh.
Thầy được đám quỷ sứ đặt tên là "Robert Six" chắc thầy không hay biết vụ nầy. Cũng như thầy hiệu trưởng Bùi Văn Mạnh có tên là Monsieur Richard, thầy Hiệu Trưởng không cho học trò ở không, thấy lớp nào có giờ trống hay Gs thình lình vắng mặt là thầy ôm bài in ronéo sẳn, phần nhiều trích từ "Le livre unique" đến lớp để dạy, đọc chậm thầy rầy tơi bời. Ngán thấy mồ! Nên thấy thầy vừa lên cầu thang là xúm nhau í ới chạy "Tây tới tụi bây ơi!" hoặc "Tây tới! Tây tới!" y như ở thôn quê báo động mỗi lần nghe lính Tây đi ruồng; Có bài nói về gia đình Richard nên tụi nó đặt tên cho thầy theo chuyện ấy Monsieur Richard s'habite à Paris...(có trật chánh tả xin tha lỗi, sợ Tây lắm!) Cũng có khi chạy lầm đường gặp thầy giả lả hồi chánh, phụ ôm bài như đệ tử rước tôn sư chí ư chăm học...
Trong năm đệ nhất đầu tiên năm 1962 có bạn tên Nguyễn Sinh Tố, bạn không phải học sinh THKH từ các lớp dưới và có lẽ bạn học ban A, nên sau khi bên lớp ban A còn chỗ trống có chỗ cho bạn chuyển sang. Thầy Robert xuất hiện cửa lớp ra hiệu xin phép Gs, thầy hỏi vọng vào "Sinh Tố A hay B?", bạn Bắc Kỳ duy nhất trong lớp nầy cũng tếu "Sinh Tố B!!". Thế là bạn quyết định ở lại học chung lớp đệ nhất B với đám bạn mới Nam Kỳ. Bạn Sinh Tố nhỏ con sao lại ngồi bàn chót đáng nghi lắm!! Về phía nam cũng còn một số bạn nữa tân tòng: Huỳnh Khắc Hiệp, Mai Huỳnh Tài (khu công chánh Mỹ Tho), Võ Minh Quân (hãng cà rem trên đường Nguyễn Trung Long Mỹ Tho), Nguyễn Thanh Hải, Huỳnh Tài (Thắng Nhì Vũng Tàu), Phạm Thành Ngọc (Ngọc Phật Giáo Ðồ, tên đặt cho bạn vì bạn đánh kẻng bải khóa trong vụ tranh đấu Phật Giáo lan tới trường học và tiếp đó...)
Bên nữ qua kỳ thi phần I sau sáu năm sàng lại chỉ một nhúm còn chưa hết bàng hoàng: Trần Thị Quang, Yên Thị Ngọc Ðiệp, Lê Thị Tươi, Trần Thị Sương, Nguyễn Thị Tuyết, Nguyễn Thị Thu Hà, Phan Thanh Vân là hết, mấy "Bà Cụ" nầy ngày ấy chiếm hai bàn và quét lớp dùm cho các ông Tú 1 đã lớn rồi không làm vụ lặt vặt đó nữa.
Trong đó Nguyễn Thị Tuyết và Nguyễn Thị Thu Hà là hai bạn mới từ trường tư hay ở đâu chuyển về; Thế mà bạn Tuyết đắc cử ngay phó lớp, phụ tá cho NhàQuê: Bầu cử dân chủ, phổ thông. trực tiếp và kín đàng hoàng à nhe! Nói lên đây để các Bạn thấy việc học hành thi cử thuở trước nặng nề nhiêu khê biết dường nào!!...Thi cử ơi là thi cử, ta thù mi!
Bạn Nguyễn Sinh Tố đi học bằng xe Vélo Solex, là một trong ba chiếc trong trường vào thời ấy; Chiếc thứ nhì của Nguyễn Thị Ngọc Mai và chiếc thứ ba của thầy Nguyễn Văn Bon, sau thầy Bon đi làm Hiệu Trưởng Trường Trung Học Bến Tranh (Tân Hiệp-Ðịnh Tường) sau nữa các phương vị cao hơn bên Hành Chánh.
Vélo Solex giống như xe đạp, có máy đàng trước, nếu không hạ cần để chạy máy thì đạp tà tà cũng được, xe trông thanh nhã, nữ sinh đi loại nầy xinh xắn thêm lên dù là phải ráng nhịn bánh, kẹo, khô mực nướng, cầy cóc xoài ổi ngâm cam thảo để mua xăng. Nói vậy chứ nó chẳng "uống" là bao.
Thầy Phan Văn Sáu và thầy Trần Văn Ðinh đều thượng thọ. Vĩnh biệt nhị vị!!
Các bạn Jacqueline, Nguyễn Quý Trinh, Nguyễn Ái Linh, Nguyễn Thanh Bình...con thầy Nguyễn Quý Ninh đều cùng môn phái bọn NhàQuê, cái cô Ái Linh trông mỏng mảnh dễ thương lắm! Mà mấy cô đã dễ thương rồi ưa kết bạn, đợi chờ đi học cùng đường. Mấy cô kia cũng dễ thương luôn, như là:...!!
Dãy phố vừa nói mặt tiền nhìn ra đại lộ Phan Thanh Giản, phần hậu quay ra đường Lê Văn Duyệt trống trải nên mỗi căn phố nầy có phần sân vườn phía sau tới tận đường Lê Văn Duyệt. Sâu thiệt sâu !!
Tiếp theo nữa là khuôn viên rộng vừa phải cho biệt thự cũng là phòng mạch Bs Lê Văn Huê. Biệt thự nầy được xây cất về sau nên dáng vẻ tân kỳ đẹp mắt! À, mà con Bs Huê là bạn Châu phải không? Lâu ngày NhàQuê lẩn thẩn quá không nhớ rõ!
Qua khỏi tường biệt thự Bs Huê lại là khu công viên khác, nhỏ hơn công viên bên kia đường, bao quanh vẫn là hàng dương reo vi vu mùa gió tết, công viên nhỏ hơn vì trên đó có "Hội Trường Công Chức" xây theo chiều nối Phan Thanh Giản và Lê Văn Duyệt. Hội Trường nầy theo tên gọi thì ai cũng biết "nhiệm vụ lịch sử" của nó, đôi khi nó dùng làm nơi phát thưởng cuối năm học. Dùng làm nơi trình diễn thi văn nghệ mà có lần Nguyễn Duy Liêm rủ NhàQuê tới phụ vỗ tay cho con nhỏ Hồng Nhung dự thi với bài "Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím", bữa đó nhỏ mặc áo tím thiệt và con nhỏ Thanh Ngọc với bài "Chiều Thương Ðô Thị". Vỗ tay quyết liệt và hai thí sinh được loại ngay vòng đầu!
NhàQuê đoán trước được từ khi nhỏ mới xuất hiên: Ai đời nước da không được sáng mà chọn màu tím thì "Sậm"phải biết! Ðiểm phục sức cũng chiếm một phần.
Hội Trường Công Chức còn dùng làm nơi dạy Anh Văn về đêm, Mỹ thật bằng xương bằng thịt dạy nên canh gác cẩn thận: Sợ Plastic lắm! Cũng có khi dùng làm nơi quàng quân nhân, công chức cấp cao của tỉnh tử nạn vì công vụ.
Tháp nằm vị trí ngã tư của Phan Thanh Giản và con đường xỏ xâu, tạo được lưu thông theo chiều vòng tròn.
Có bốn lối đi vào chân tháp từ bốn phía đường, chung quanh có trụ thấp và dây lòi tói nối nhau làm rào, tất cả sơn trắng. khối tháp đế vuông, nhỏ dần về phía ngọn, trên cùng có hình "đỉnh đồng", bốn phía hông tháp có đắp chữ nổi: Tổ Quốc Ghi Ơn. Như có nói tháp xây đâu lâu lắm rồi và ý nghĩa mỗi giai đoạn mỗi khác.
-Ðoạn 6: Từ Tháp đến nơi gặp nhau của ba con đường Trần Quốc Tuấn, Phan Thanh Giản và Lê Văn Duyệt.
Khởi đầu đoạn nầy hai bên có vài cây phượng vĩ báo Hè sang mỗi năm, sau đó hai bên có hai hàng "cau kiểng lão làng" đứng thẳng tấp, du khách có cảm tưởng như được hàng quân danh dự đón chào.
Phía phải có bến xe đi Sài Gòn, phía trái là bến xe đi các quận, xe lôi, xe lam đi cầu bắc Tân thạch, đi Hàm Long...Ðoạn đường nầy ngày nay đóng, cả khu vực đó gồm hai bến xe trở thành công viên.
Nhân đây xin được nói về vài loại phương tiện đi lại, chuyên chở trên bộ thời ấy:
** Xe đò: Ðầu máy đủ hiệu, đủ hình dáng phần nhiều tuổi cao, có khi khởi động bằng tay quay, các xe đi các Quận thường hành khách xuống phụ đẩy(xô) NÓ mới chịu lên đường, nên các cụ nầy được mang quốc tịch Liên Xô: xe Liên Xô
Thùng xe đóng thiệt bự để chở tối đa hành khách vậy mà có khi còn phải đu, đeo nhất là chuyến chót, hành lý, hàng hóa chất trên mui nếu nhiều phải trả thêm tiền, cũng không có căn bản nào để gọi là nhiều!
Hành khách có khi cũng ngồi trên mui dành cho hàng hóa nếu muốn mau tới nơi tới chốn, trong trường hợp nầy phải xuống xe đi bộ qua trạm kiểm soát mới leo lên trở lại.
Vì là của tư nhân nên màu sắc cũng khác nhau. Về sau vô nghiệp đoàn nên sơn lại cùng màu. Cung ít cầu nhiều xe đò luôn luôn vi phạm qui định về giao thông chuyên chở nên mấy thầy cảnh sát khoái loại xe nầy lắm!
Xe Á Ðông đi Sài Gòn cao cấp hơn, gọn ghẽ sạch sẽ hơn. Trên quốc lộ và đường liên tỉnh họ vẫy chào nhau rất lịch sự, thực chất là họ báo động nhau về các trạm kiểm soát đang kiếm ăn đột xuất. Ðồng nghiệp giúp nhau tránh thủ tục ..của mấy thầy cảnh sát mà!
** Xe Lam và Xe Daihatsu: Xe Lam là loại xe ba bánh chuyên chở hành khách các tuyến đường tầm trung chừng 20 Km, Xe Lam là tên được đọc gọn từ Lambretta, đầu tiên là loại xe hai bánh, máy đặt phía sau đều hai bên, xe lambretta tranh thị trường với bạn đồng hương Ý Ðại Lợi của mình là xe Vespa máy cũng đặt phía sau nhưng chỉ một bên, trong lúc cuộc tranh hùng bất phân thắng bại thì khoảng 1960 xe lam đưa ra thị trường loại chuyên chở ba bánh, chở được tám người đã chật như nêm rồi; Tuy nhiên thực tế con số không dừng ở 10 do có hai khách thân ngồi hai bên người lái, và còn đu đeo phía sau được ít nhất hai người nữa.
Sau 1968 loại xe Nhật Daihatsu nhảy ra góp mặt trong lãnh vực chuyên chở nầy, anh chàng trông thanh lịch, dáng vẻ của chiếc xe "Van" cỡ nhỏ. Ở Bến Tre hai loại xe nầy thường chạy tuyến đường Tân Thạch, Hàm Long, Mỹ Lòng, Giồng Trôm và từ Quận Lỵ đi các Xã.
** Xe Xích Lô Máy: Ba bánh có động cơ làm sức đẩy, chở được hai khách phía trước, người lái phía sau điều khiển xe bằng tay lái như "Gui Ðông" xe gắn máy.
Khách có cảm tưởng mình đang được head-on với xe ngược chiều. Ngày nay loại xe nầy vẫn còn ở Sài Gòn; Nhưng xích lô máy mất hẳn trên đoạn Bến Tre-Cầu Bắc Tân Thạch. May phước!!
Từ Mỹ Tho sang cụ hiệu trưởng Phùng Văn Tài, vị Hiệu Trưởng thứ nhì của trường Trung Học Bến Tre, Cụ chỉ dùng loại xe nầy mà thôi và chỉ chở một mình Cụ, lúc nào Cụ cũng mặc bộ đồ trắng, áo tay dài cài khuy, nón cối trắng cài quay cẩn thận, khi ngồi xe hai tay của cụ mở rộng ra hai thành xe. Có người nói Cụ "thủ kỹ"vậy là vì số tử vi của Cụ sao đó??
Khi nói chuyện với học sinh bao giờ Cụ cũng nói: Nhân danh Hiệu Trư.. ở.. ng Trư.. ờ.. ng Tru.. ng Học Bến Tr.. e . Cụ đánh lưỡi và kéo dài các chữ có vần TR ... Cụ nói câu đó trước rồi mới vô các vấn đề khác.
** Xe Lôi Gắn Máy: Là xe gắn máy kéo theo thùng sau chở khách, tất cả các loại xe gắn máy đều có dùng vào "công tác" nầy được: Từ Mobylette, Goebel, Motobecane, TWN ...nhưng gọn và mạnh là anh Folish. Khi qua khúc vòng tròn nơi Tháp vốn mặt đường không được xây nghiêng bù trừ sức ly tâm mà các bác chở khách vẫn giữ nguyên tốc lực, các bác đu thân mình bù cho sức ly tâm đó. Khách đi xe về đến nhà cảm thấy hôm nay mình may mắn!!
** Xe Xích Lô Ðạp và Xe Lôi: Hai loại xe không cơ giới nầy đưa rước trong phạm vi tỉnh lỵ, xích lô đạp thì phổ thông nhưng xe lôi chỉ có ở vài tỉnh lỵ mà thôi.
Tổng Thống Mỹ Lyndon Baines Johnson lúc còn là Phó khi sang Sài Gòn cũng làm được một Pô đi xích lô đạp với Bác Xích Lô chắc là đã lựa chọn kỹ lắm mấy đời!!
Nơi gặp nhau của Ðại lộ Phan Thanh Giản với Trần quốc Tuấn và Lê Văn Duyệt còn có hai con lộ nhỏ là Lộ Hàng Keo và Lộ Chợ Lạc Hồng nên địa điểm đó như là ngã sáu; nhưng do tên đã có sẳn nên ai cũng gọi là Ngã Ba Tháp.
NhàQuê