Điều Hành Viên Chính - Tr.Ban Đại Diện KVMB
Hiện Đang :   
Tham gia ngày : May 2011
Đến từ : Đại học Đại Nam Hà Nội
Tuổi: 73
Bài gửi : 3.829
Thanks
63.220
Thanked 39.183 Times in 3.821 Posts
Blog Entries6
THƠ THÁI THUẬN - NGUYỄN HỮU THĂNG dịch
LỜI GIỚI THIỆU
Thái Thuận, tên chữ là Nghiã Hoà, tên hiệu Lục Khê, biệt hiệu Lữ Đường, là một danh nhân thời Lê, sinh năm 1440, đỗ tiến sĩ năm 1475. Ông quê ở làng Liễu Lâm, phủ Siêu Loại (nay là huyện Thuận Thành), tỉnh Bắc Ninh, nhưng có thời gian dài sống và làm việc ở đất Thăng Long, nên có thể coi ông là danh nhân Kinh Bắc, đồng thời là danh nhân Thăng Long. Ông từng làm quan ở Viện Nội các hơn 20 năm, rồi được bổ nhiệm Tham chính tỉnh Hải Dương, về sau với tài thơ nổi tiếng, ông được vua Lê Thánh Tông đặc cách giữ chức Phó Nguyên suý Hội Tao Đàn.
Thơ chữ Hán của Thái Thuận được người đời sau ca ngợi không hề thua kém thơ Đường của các nhà thơ cổ đại nổi tiếng Trung Quốc. Nhà thơ Quách Tấn từng nhận xét: "Thơ Lữ Đường đủ loại: Thơ cảnh, thơ tình, thơ vịnh sử, thơ vịnh vật, thơ hoài cổ, thơ tức sự... Loại nào cũng nhã trí tinh công. Về thơ cảnh, từ Lý Trần đến Trịnh Nguyễn, phẩm cũng như lượng, tôi chưa gặp nhà thơ nào có thể vượt qua Lữ Đường".
Tác phẩm còn lại đến nay của Thái Thuận là tập “Lữ Đường thi di cảo” gồm hơn 200 bài thơ do con trai là Thái Khác và học trò là Đỗ Chính sưu tầm, biên soạn.
Người dịch thơ Thái Thuận trong cuốn sách này là người cùng quê Thuận Thành, Bắc Ninh với Thái Thuận. Các bài thơ dịch lần này đã cố gắng giữ nghệ thuật thơ Đường luật vốn có, đặc biệt là thể loại thất ngôn bát cú (100% thơ thất ngôn bát cú đều dịch theo đúng thể thơ này), đồng thời sử dụng từ ngữ tiếng Việt gần gũi với ngôn ngữ quê hương Thái Thuận; phần dịch nghĩa và chú thích điển tích được biên dịch ngắn gọn, dễ hiểu.
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc./.
Nhà xuất bản Văn học
Thanh Liêm xin trân trọng giới thiệu cùng quý vị độc giả một số thi phẩm dịch trong cuốn sách dịch thơ Tiến sỹ Thái Thuận của dịch giả Nguyễn Hữu Thăng - một thành viên rất tích cực của thi đàn chúng ta:
征妇吟
庭草成巢柳又丝
征夫何日是归期
半帘残月伤心夜
一枕啼鹃落泪时
塞北云长孤燕影
江南春尽老蛾眉
昨来几度 相思梦
曾到 君边知不知
CHINH PHỤ NGÂM
Đình thảo thành sào liễu hựu ty
Chinh phu hà nhật thị quy kỳ?
Bán liêm tàn nguyệt thương tâm dạ
Nhất chẩm đề quyên lạc lệ thì
Tái Bắc vân trường cô nhạn ảnh
Giang Nam xuân tận lão nga my
Sạ lai kỷ độ tương tư mộng
Tằng đáo quân biên tri bất tri
Dịch nghĩa:
KHÚC NGÂM NGƯỜI VỢ CÓ CHỒNG RA TRẬN
Cỏ nơi sân đã um tùm, liễu lại buông tơ
Ngày nào là ngày về của người đi chinh chiến?
Rèm vén nửa, trăng tàn, đó là đêm thương tâm
Một gối đơn, chim cuốc kêu, đó là lúc rơi nước mắt
Bên kia ải Bắc mây trải dài, bóng nhạn đơn côi
Bên này sông Nam xuân hết chân mày nhợt nhạt
Từ trước đến nay giấc mộng tương tư đã mấy lần
Thường đến bên chàng, chàng có biết hay không ?
Dịch thơ:
Cỏ dại đầy sân, liễu rủ tơ
Chàng đi chinh chiến đến bao giờ?
Trăng tàn, rèm vén, lòng sao tủi
Cuốc gọi, gối mình, lệ chẳng khô
Ải Bắc mây dày, chim nhạn lẻ
Sông Nam xuân hết, nét ngài thưa
Chàng ơi có biết bao thương nhớ
Đằng đẵng theo chàng mỗi giấc mơ.
Chú thích:
- Tái Bắc (phía bắc biên giới): Xưa chỉ vùng biên giới Trung Hoa giáp với xứ Hung Nô, nơi hay xảy ra chiến tranh.
- Giang Nam: Vùng đất nam sông Trường Giang, có nhiều cảnh đẹp.
*
* *
望夫山
化石山头几夕曛
伤心无路更逢君
天涯目断年年月
江上魂消幕幕云
清泪一斑花露滴
离情万种草烟分
湘妃若识 相思苦
不惜哀弦寄与闻
VỌNG PHU SƠN
Hóa thạch sơn đầu kỷ tịch huân
Thương tâm vô lộ cánh phùng quân
Thiên nhai mục đoạn niên niên nguyệt
Giang thượng hồn tiêu mộ mộ vân
Thanh lệ nhất ban hoa lộ trích
Ly tình vạn chủng thảo yên phân
Tương phi nhược thức tương tư khổ
Bất tích ai huyền ký dữ văn.
Dịch nghĩa:
NÚI VỌNG PHU
Đầu núi hóa đá đã bao nhiêu đêm ngày rồi
Đau lòng không còn đường gặp lại chàng lần nữa
Mỏi mắt nhìn trăng cuối chân trời năm này sang năm khác
Chiều chiều hồn tan theo đám mây trên sông
Sương đọng trên hoa như nước mắt trong vắt nhỏ từng giọt
Khói tỏa trên cỏ mang theo vạn mối tình ly biệt
Nàng Phi bên sông Tương nếu biết được nỗi khổ vì nhớ nhau
Chớ tiếc dây đàn buồn não nuột, xin gửi đến cùng nghe.
Dịch thơ:
Đêm ngày hóa đá đứng đầu non
Đau đáu chờ ai, mãi chẳng còn
Mắt mỏi nhìn trăng năm lại tháng
Hồn tan theo nước sớm rồi hôm
Sương rơi lệ khổ hoa sầu thảm
Khói tỏa tình đau cỏ tủi hờn
Nhắn gửi Tương Phi cùng tiếc nhớ
Cho nghe khúc nhạc trĩu u buồn
Chú thích:
- Tương phi: Nàng Phi bên sông Tương. Theo tích cổ: Vua Thuấn băng hà, hai bà vợ là Hoàng Vũ, Nữ Anh khóc ở sông Tương. Nước mắt lẫn máu rơi vào thân trúc hóa thành những chấm lốm đốm, gọi là ban ban trúc.