+ Trả lời chủ đề
Trang 1/2 1 2 CuốiCuối
Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 14

Chủ đề: Tham Khảo Các Luật Thơ Trong Sáng Tác

  1. #1
    Avatar của Trần Vi Thông
    Ban Quản Trị
    Hiện Đang :    Trần Vi Thông đang ẩn
    Tham gia ngày : Feb 2011
    Đến từ : Sài Gòn

    Bài gửi : 1.681
    Thanks
    10.122
    Thanked 19.667 Times in 1.602 Posts
    Blog Entries
    83

    Thumbs up Tham Khảo Các Luật Thơ Trong Sáng Tác

    Thể theo yêu cầu của một số Thành viên, và cũng để thuận tiện khi tra cứu luật thơ các thể loại. VNTH sẽ trích đăng nơi này những kiến thức cơ bản về luật thơ để các bạn tham khảo.


    ĐƯỜNG LUẬT

    Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


    Thơ Đường luật hay Thơ luật Đường là thể thơ Đường cách luật xuất hiện từ đời nhà Đường (Tang), Trung Quốc. Thơ Đường luật gọi là thơ cận thể để đối lập với thơ cổ thể, không theo cách luật ấy[1].

    Vì giáo dục, thi cử... đều bằng tiếng Hán, nên từ lâu người Việt Nam đã sáng tác thơ văn bằng tiếng Hán, trong đó có thơ theo luật Đường.

    Nguyễn Thuyên là người đầu tiên đưa tiếng Việt vào thơ văn, đặt ra thể thơ Hàn luật, là sự kết hợp thơ Đường luật với các thể thơ dân tộc Việt [1].

    Thể loại thơ này của Việt Nam kéo dài từ thời nhà Trần cho đến nửa đầu thế kỷ 20. Kể từ phong trào Thơ Mới trở đi, số người trong nước làm luật thi đã bị giảm đi đáng kể.

    Bố cục một bài thơ Thất ngôn bát cú Đường luật gồm 4 phần: Đề, thực, Luận, Kết. -"Đề" gồm 2 câu đầu,câu đầu goị là câu phá đề, câu thứ 2 gọi là câu thừa đề, chuyển tiếp ý để đí vào phần sau. -"Thực" gồm 2 câu tiếp theo, giải thích ró ý đầu bài. -"Luận" gồm 2 câu tiếp theo nữa, phát triển rộng ý của đầu bài. -"Kết" là 2 câu cuối, kết thúc ý toàn bài.

    Thơ Đường luật nghiêm khắc ở 3 chỗ: Luật, Niêm và Vần. Về hình thức, thơ Đường luật có các dạng "thất ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu bảy chữ) được xem là dạng chuẩn, biến thể có các dạng: "thất ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu bảy chữ), "ngũ ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu năm chữ), "ngũ ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu năm chữ) cũng như các dạng ít phổ biến khác. Người Việt Nam cũng tuân thủ hoàn toàn các quy tắc này.

    Luật

    Luật thơ Đường căn cứ trên thanh bằng và thanh trắc, và dùng các chữ thứ 2-4-6 và 7 trong một câu thơ để xây dựng luật. Thanh bằng gồm các chữ có dấu huyền hay không dấu; thanh trắc gồm các dấu: sắc, hỏi, ngã, nặng.

    Luật bằng trắc

    Nếu chữ thứ 2 của câu đầu tiên dùng thanh bằng thì gọi là bài có "luật bằng"; nếu chữ thứ 2 câu đầu dùng thanh trắc thì gọi là bài có "luật trắc". Trong một câu, chữ thứ 2 và chữ thứ 6 phải giống nhau về thanh điệu, và chữ thứ 4 phải khác hai chữ kia. Ví dụ, nếu chữ thứ 2 và 6 là thanh bằng thì chữ thứ 4 phải dùng thanh trắc, hay ngược lại. Nếu một câu thơ Đường mà không theo quy định này thì được gọi "thất luật".

    Ví dụ: xét câu "Bước tới đèo Ngang bóng xế tà" trong bài Qua Đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan, có các chữ "tới" (thứ 2) và "xế" (thứ 6) giống nhau vì đều là thanh trắc còn chữ "Ngang" là thanh bằng thì đó là bài thất ngôn bát cú luật trắc.

    Luật bằng trắc trong thể Thất ngôn tứ tuyệt và Thất ngôn bát cú có thể nôm na liệt kê như sau, nếu chỉ vần bằng bằng chữ "B", vần trắc bằng chứ "T", những vần không có luật để trống, thì luật trong các chữ thứ 2-4-6-7 có thể viết là:

    1. Luật vần bằng

    Thất ngôn tứ tuyệt

    Câu số Vần Ví dụ: Mời trầu1 của Hồ Xuân Hương
    1 B T B B Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
    2 T B T B Này của Xuân Hương mới quệt rồi
    3 T B T T Có phải duyên nhau thì thắm lại
    4 B T B B Đừng xanh như lá, bạc như vôi
    Chữ thứ 1 2 3 4 5 6 7

    Thất ngôn bát cú

    Câu số Vần Ví dụ: Thương vợ1 của Trần Tế Xương

    1 B T B B Quanh năm buôn bánmom sông
    2 T B T B Nuôi đủ năm con với một chồng
    3 T B T T Lặn lội thân khi quãng vắng
    4 B T B B Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
    5 B T B T Một duyên hai nợ âu đànhphận
    6 T B T B Năm nắng mười mưa dám quản công.
    7 T B T T Cha mẹ thói đời ăn ở bạc!
    8 B T B B Có chồng hờ hững cũng như không!

    Chữ thứ 1 2 3 4 5 6 7

    2. Luật vần trắc

    Thất ngôn tứ tuyệt

    Câu số Vần Ví dụ: Phong Kiều dạ bạc (楓橋夜泊)
    của Trương Kế (张继 Zhang Jì) Phiên âm Hán-Việt
    1 T B T B 月落烏啼霜滿天 Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
    2 B T B B 江楓魚火對愁眠 Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
    3 B T B T 姑蘇城外寒山寺 Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
    4 T B T B 夜半鐘聲到客船 Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
    Chữ thứ 1 2 3 4 5 6 7

    Bản dịch tiếng Việt của Tản Đà (chuyển thể thành lục bát):

    Đỗ thuyền đêm ở bến Phong Kiều
    Trăng tà chiếc quạ kêu sương
    Lửa chài cây bãi sầu vương giấc hồ
    Thuyền ai đậu bến Cô Tô
    Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San

    Thất ngôn bát cú

    Câu số Vần Ví dụ: Nhớ bạn phương trời1 của Trần Tế Xương

    1 T B T B Ta nhớ người xa cách núi sông
    2 B T B B Người xa, xa lắm nhớ ta không
    3 B T B T Sao đương vui vẻ ra buồn bã!
    4 T B T B Vừa mới quen nhau đã lạ lùng
    5 T B T T Lúc nhớ, nhớ cùng trong mộng tưởng
    6 B T B B Khi riêng, riêng cả đến tình chung
    7 B T B T Tương tư lọ phải là trai gái,
    8 T B T B Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng
    Chữ thứ 1 2 3 4 5 6 7

    Luật đối

    Nguyên tắc cố định của một bài thơ Đường là ý nghĩa của hai câu 3 và 4 phải "đối" nhau và hai câu 5, 6 cũng "đối" nhau. Đối thường được hiểu là sự tương phản (về nghĩa kể cả từ đơn, từ ghép, từ láy) nhưng bao gồm cả sự tương đương trong cách dùng các từ ngữ. Nếu một bài thơ Đường mà các câu 3, 4 không đối nhau, các câu 5, 6 không đối nhau thì được gọi "thất đối".

    Ví dụ: hai câu 3, 4 trong bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:

    Lom khom dưới núi tiều vài chú
    Lác đác bên sông chợ mấy nhà,2
    "Lom khom" đối với "lác đác" (hình thể và số lượng - thực ra hai câu này chưa phải đối hoàn chỉnh), "dưới núi" đối với "bên sông" (vị trí địa hình), song nếu nối hình ảnh hai câu trên "lom khom dưới núi" và "lác đác bên sông" thì vì một câu diễn tả về cảnh động, còn một câu diễn tả về cảnh tĩnh, nên sự đối lập có thể chấp nhận được. Một điểm nên chú ý là cách dùng từ láy âm "lom khom" chỉ dáng người của câu trên, và "lác đác" chỉ số lượng của câu dưới. Hai vế tiếp: "tiều vài chú" đối với "chợ mấy nhà" (đối lập về số lượng và tĩnh/động). Sự đối lập của hai vế cuối có thể coi là hoàn chỉnh. Xin xem thêm về thơ đối hoặc Câu đối Việt Nam để hiểu thêm về luật đối trong thơ.

    Niêm

    Các câu trong một bài thơ Đường giống nhau về luật thì được gọi là "những câu niêm với nhau" (niêm = giữ cứng, ở đây được hiểu là giữ giống nhau về luật). Hai câu thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ nhì của hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Ở những câu theo nguyên tắc là cần phải niêm, nếu tác giả sơ xuất mà làm thành không niêm thì bài đó bị gọi là "thất niêm".

    Nguyên tắc niêm trong một bài thơ Đường chuẩn (thất ngôn bát cú) như sau:

    câu 1 niêm với câu 8
    câu 2 niêm với câu 3
    câu 4 niêm với câu 5
    câu 6 niêm với câu 7
    Chẳng hạn với luật vần bằng:

    - B - T - B B
    - T - B - T B
    - T - B - T T
    - B - T - B B
    - B - T - B T
    - T - B - T B
    - T - B - T T
    - B - T - B B

    Ví dụ: Xét trong bài thơ Qua đèo Ngang, hai câu thứ 2 và thứ 3:

    Cỏ cây chen đá lá chen hoa
    Lom khom dưới núi tiều vài chú

    Vần

    Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Trong một bài thơ Đường chuẩn, vần được dùng tại cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Những câu này được gọi là "vần với nhau". Nếu một bài thơ Đường mà chữ cuối của một trong các câu này không giống nhau về vần thì được gọi "thất vận".

    Những chữ có vần giống nhau hoàn toàn gọi là "vần chính", những chữ có vần gần giống nhau gọi là "vần thông". Hầu hết thơ Đường dùng vần thanh bằng, nhưng cũng có các ngoại lệ.

    Ví dụ: hai câu 1, 2 trong bài Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:

    Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà
    Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
    hai chữ "tà" và "hoa" được xem là vần với nhau, nhưng ở đây là "vần thông" vì chỉ phát âm gần giống nhau.

    Biến thể

    Ngoài dạng thơ Đường chuẩn luật là "thất ngôn bát cú" còn có các biến thể sau:

    Thất ngôn tứ tuyệt

    Thực chất là một bài "thất ngôn bát cú" đem bỏ đi bốn câu đầu hoặc bốn câu cuối. Luật bằng trắc và niêm, vần... vẫn giữ nguyên, có thể bỏ luật đối ở hai câu 3, 4 hoặc 5, 6. Lúc này nó sẽ thành một bài thơ "bốn câu ba vần" mà Nguyễn Du đã nhắc trong truyện Kiều.

    Ví dụ: bài thơ sau của Quách Tấn

    Từ buổi thuyền đưa khách thuận dằm
    Trông chừng bến cũ biệt mù tăm
    Cảm thương chiếc lá bay theo gió
    Riêng nhớ tình xưa ghé đến thăm

    Ngũ ngôn tứ tuyệt

    Thực chất là bài thất ngôn tứ tuyệt đem bỏ đi hai chữ đầu ở mỗi câu; các chữ còn lại vẫn giữ nguyên luật bằng trắc, niêm và vần.

    Ví dụ: từ bài trên mà thành

    Thuyền đưa khách thuận dằm
    Bến cũ biệt mù tăm
    Chiếc lá bay theo gió
    Tình xưa ghé đến thăm

    Ngũ ngôn bát cú

    Cũng là từ bài thất ngôn bát cú bỏ hai chữ đầu ở mỗi câu mà thành, luật bằng trắc, niêm và vần ở các chữ còn lại vẫn giữ nguyên.

    Yết hậu
    Yết Hậu3 (yết: nghỉ; hậu: sau) là lối thơ có ba câu trên đủ chữ, còn câu cuối cùng chỉ có một chữ.

    Ví dụ: bài Lươn

    Cứ nghĩ rằng mình ngắn,
    Ai ngờ cũng dài đườn.
    Thế mà còn chê trạch:
    Lươn!

    Vô Danh


  2. #2
    Avatar của Trần Vi Thông
    Ban Quản Trị
    Hiện Đang :    Trần Vi Thông đang ẩn
    Tham gia ngày : Feb 2011
    Đến từ : Sài Gòn

    Bài gửi : 1.681
    Thanks
    10.122
    Thanked 19.667 Times in 1.602 Posts
    Blog Entries
    83
    KỸ THUẬT THƠ VIỆT NAM HIỆN ÐẠI
    VÀ TIÊU CHUẨN ÐÁNH GIÁ MỘT BÀI THƠ

    Bài của Nguyễn Vũ Văn

    LỜI NÓI ÐẦU


    Ðây là những nhận xét của tôi sau nhiều năm làm thơ và xem thơ, tuy rằng tôi làm thơ rất ít. Những nhận xét này không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót và sai lầm, nhưng tôi không thể kìm lòng mà không viết ra một vấn đề mà từ xưa đến nay có lẽ chưa có ai làm, đó là kỹ thuật thơ Việt Nam hiện đại, và nhân tiện đó đi tìm những tiêu chuẩn cho một bài thơ hay.

    Nếu bài viết này khơi lên được những lời phê bình hay bổ khuyết cho để vấn đề nêu ra được sáng tỏ, đó là điều làm tôi mãn nguyện.

    Ngoài ra, vì thiếu sót tài liệu, tôi mạn phép trích dẫn một số câu thơ của tôi, mong độc giả lượng thứ.

    Tôi cũng xin cảm tạ các bạn Bồ Tùng Linh, Mai Ninh, Bùi Tiến Hoàng và Mai Anh Tuấn trong nhóm Siliconband đã góp ý kiến và tài liệu cho bài này.

    Nguyễn Vũ Văn
    vanvung@teleport.com
    http://www.teleport.com/~vanvung/

    Kể từ khi đất nước bị chia cắt vào năm 1954, thi ca miền Nam với những đỉnh cao như Vũ Hoàng Chương và Ðinh Hùng còn mang đậm nhiều nét cổ điển. Cho tới năm 1956, khi tạp chí Sáng Tạo ra đời cùng với sự xuất hiện của một số nhà thơ ngoài nhóm Sáng Tạo, văn thơ miền Nam đã có một sắc thái tân kỳ về nội dung cũng như kỹ thuật. Từ đó kỹ thuật thơ Việt Nam càng ngày càng đổi mới, tiến triển, nhưng cũng mang lại không ít ngỡ ngàng cho số đông độc giả. Một số bài thơ có vẻ khó hiểu khiến người ta không chấp nhận được. Và những bài thơ hay không được thưởng thức. Bởi vì không có tác giả nào nói ra kỹ thuật của mình và có lẽ cũng không có ai khác đề cập đến.
    Ngược lại, người ta vẫn ca tụng một số bài thơ mà không chú ý đến kỹ thuật kém cỏi. Vàng thau lẫn lộn.

    Bởi vậy bài này được viết nhằm mục đích nêu lên một số đặc điểm của thơ hiện đại, về hình thức cũng như nội dung và kỹ thuật, đồng thời đề nghị những tiêu chuẩn của một bài thơ hay.

    Trước hết, chúng tôi cố gắng xác định cách hợp vận mà nhiều người còn lầm lẫn, sau đó sẽ nêu lên các đặc điểm khác về thơ.



    Ðoạn 1. CÁCH HỢP VẬN

    Nguyên tắc : vần bằng hợp với vần bằng, vần trắc hợp với vần trắc. (Trong âm nhạc, bằng có thể hợp vận với trắc, thí dụ: nhà hợp vận với nhá).

    Âm vận : Cách hợp vận trong thơ không có căn bản ngữ âm (phonetics) nào cả, ở đây tôi chỉ dựa theo cách hợp vận cổ truyền mà phân biệt như sau.

    Âm vận có 2 loại toàn vận và bán vận.

    Toàn vận : 2 từ chỉ khác nhau về phụ âm đầu. Thí dụ: a) tình, mình, khinh, linh. b) ta, mà, la, tha.

    Bán vận : 2 từ khác nhau trong nguyên âm hay trong nguyên âm và phụ âm cuối.

    A.- Bán vận trong nguyên âm : Những âm họp thành nhóm sau đây hợp vận với nhau:

    1/ a, ă, â, o, ơ, ô, u, ư, oa, ua, ưa. Thí dụ: a) tha, mo, lu, thư, thoa, qùa, cua, thưa. b) lạ, thố, thụ, thóa, qụa, thủa, thửa, lựa. c) chang, rằng, nằm, lầm. d) thôn, mun,

    2/ i, e, ê, oe, ue, uê, uy. Thí dụ: a) thi, me, ve, que, quy. b) thí, lẹ, thế, nhuệ. c) thịt, khét, chết. d) em, quen, đêm.

    3/ ai, ay, ây, oi, ôi, ơi, oai, ui, ưi, ươi, uôi. Thí dụ: a) thai, chay, khoai, mòi, thôi, lơi, thui, người, nguôi. b) thái, cậy, mọi, đổi, củi, ngửi, lưới, đuối.

    4/ i, uy, uya

    5/ ia, uya.

    6/ i, e, ê, iê, uyê. Thí dụ: a) tin, men, lên, thiên, thuyền. b) tịt, lét, tết, khiết, khuyết, tuyệt, tiếc, tích.

    7/ a (+phụ âm), o (+phụ âm), ô (+phụ âm), u (+phụ âm), ư (+phụ âm), ươ (+phụ âm). Thí dụ: chang, trong, nung, lưng, chương, chuông; trọng, chúng, thượng, chuộng, nướng; nóc, được.

    8/ oa (+phụ âm), uâ (+phụ âm), uô (+phụ âm). Thí dụ: a) loan, luân. b) thoát, khoác, luật, thuốc. c) loang, khuôn, chuông, khuân, khuâng.

    9/ ao, âu.

    10/ eo, oeo, êu, iêu, yêu, iu.

    Tóm tắt, nguyên âm chia làm 2 nhóm chính có âm phân biệt: (a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư ) và (i, y, e, ê) . Nếu 2 nhóm này mà hợp vận với nhau thì bằng cách bắc cầu từ âm nọ qua âm kia, thì bất cứ 2 âm (2 nguyên âm hay 2 nhóm nguyên âm trong một từ) nào cũng có thể hợp vận với nhau.

    B. Bán vận trong nguyên âm và phụ âm cuối . Nguyên âm thì theo nguyên tắc trên. Phụ âm cuối có thể thay đổi như sau:

    1/ c, ch, t, p. Thí dụ: lắc, trách, tát, chập.

    2/ n, nh, m. Thí dụ: a) than, cành, chàm. B) cận, thánh, cám.

    3/ n, ng. Thí dụ: a) than, thong, không, thằng. B) cận, thắng, cống.

    Thơ tự do rất hợp với bán vận. Trong thể thơ này, vần hợp nhau chan chát (thí dụ: hình, tình) làm câu thơ kém hay.

    Ðiều tối kỵ trong âm vận : dùng 2 chữ giống nhau trong 2 vần kế tiếp hay trong 3 câu lục bát kế tiếp, ngoại trừ trường hợp nhắc đi nhắc lại để nhấn mạnh. (Nguyên tắc chung là tránh điệp ngữ). Thí dụ:


    Nhà em mái tranh
    Trắng giàn dây mơ
    Bây giờ hoa cũ
    Rụng hoài trong mơ (Phạm thiên Thư - Giàn mơ)

    Tôi phải dỗ như là tôi đã lớn
    Phải thẹn thò như sắp cưới hay vừa yêu
    Phải nói vơ vào, rất vội: người yêu
    Nếu ai có hỏi thầm: ai thế (Nguyên Sa - Tuổi 13)

    Những câu thơ lạc vận :

    Thơ lạc vận có rất nhiều trong các tạp chí và Web sites, không tiện trích dẫn ra đây.

    Thỉnh thoảng trong bài thơ có một hai chỗ lạc vận thì còn có thể bỏ qua. Chứ cả đoạn lạc vận thì bài thơ không còn giá trị.

    Ngay cả những nhà thơ nổi tiếng cũng có những câu lạc vận, do vô tình hay cố ý. Thí dụ:

    Từ ngày đàn rẽ đường tơ,
    Sao tôi không biết hững hờ nàng đan .
    Kéo dài một chiếc áo len ,
    Tơ càng đứt mối, nàng càng nối dây.
    Khánh ơi, còn hỏi gì anh?
    Xưa tình đã vỡ, nay tình còn nguyên. (Thâm Tâm - Gửi T.T.Kh)

    Buồm lên biển tím chênh vênh,
    Một đêm gã bỏ tình nhân lại bờ.
    Lòng qùy nhớ mặt trời xa,
    Vào quán biển hỏi thăm ngườ i xa xưa (Phạm thiên Thư - Quán rượu ven biển)

    Con chim én cùng với thơ bay trong nắng
    Trên môi anh dường có ngọn cỏ thơm
    Là ngón tay nào trong mười ngón tay em
    Có cả nụ hôn đầu quanh quất đó...
    Tháng Giêng và anh rủ nhau ngồi dưới phố
    Tô môi hồng xin nhớ cánh sen non
    Tháng Giêng chờ một chút lượng xuân em
    Nụ cười đó, anh chờ xuân vĩnh viễn (Nguyên Sa - Tháng giêng và anh)

    Sao hương sắc lên mắt mình tình tứ
    Và đôi mắt nhìn tôi ngập nhừng chim sẻ (Nguyên Sa - Tuổi 13)

    Em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh
    Anh đã trông lên bằng đôi mắt chung tình (Nguyên Sa-Áo lụa Hà Ðông)

    Có phải tôi chưa được quen
    Làm sao buổi sáng đợi chờ em ?
    Hay từng hơi thở là âm nhạc
    Ðàn xuống cung trầm mắt nhơ ?thương ? (Nguyên Sa - Tương Tư)

    Nguồn : http://nmchau.club.fr/forum/viewtopic.php?t=7


  3. #3
    Avatar của Trần Vi Thông
    Ban Quản Trị
    Hiện Đang :    Trần Vi Thông đang ẩn
    Tham gia ngày : Feb 2011
    Đến từ : Sài Gòn

    Bài gửi : 1.681
    Thanks
    10.122
    Thanked 19.667 Times in 1.602 Posts
    Blog Entries
    83
    Ðoạn 2. HÌNH THỨC THƠ

    I. Sự chọn lựa thể thơ

    Thể thơ có nhiều: thơ đều chữ, không đều chữ và thơ tự do. Ở đây tôi không nói đến thơ Ðường luật mà chỉ nói đến các thể thơ mới.

    1/ Thơ đều chữ thay đổi từ 2 đến 8 chữ trong một câu.

    Loại 2 chữ cũng như loại 3 chữ khiến hơi thơ ngắn, và bài thơ cũng thường ngắn, không nói gì được nhiều. Người dùng loại thơ này nhằm mục đích nói lên những âm thanh ngắn như tiếng nức nở, tiếng mưa rơi...

    Thí dụ :

    Sương rơi
    Nặng trĩu
    Trên cành
    Dương liễu
    Nhưng hơi
    Lạnh lùng
    Hiu hắt
    Thấm vào ...
    (Nguyễn Vỹ - Sương rơi)

    Loại 4 chữ phổ biến hơn, nhưng coi chừng dễ biến thành vè.
    Thế nào là vè? Vè là thơ dân gian, loại thường thấy là Sớ Táo Quân.
    Vè có thể là thơ 2 hay 3 chữ, nhưng thường dùng thể 4 chữ hay lục bát. Vè 4 chữ dùng liên vận, tức là 2 câu liền nhau vần với nhau, thay đổi giữa bằng và trắc. Vè không chia bài thơ thành từng đoạn 4 câu.

    Loại 4 chữ chia từng đoạn 4 câu và dùng cách vận (giống 4 câu đầu của thể thất ngôn) thì hay hơn liên vận.

    Loại 5 chữ thường chia đoạn 4 câu và dùng cách vận.

    Loại 6 chữ cũng ít được dùng, nhưng thỉnh thoảng vẫn thấy trên thi đàn.

    Xuân hồng có chàng tới hỏi
    - Em thơ chị đẹp em đâu ?
    - Chị tôi hoa ngát cài đầu
    Ði hái phù dung trong nội !
    (Huyền Kiêu - Tình sầu)

    Thể thơ từ 4 đến 6 chữ cho hơi thơ trung bình, thích hợp với phong thái nhẹ nhàng, trang trọng.

    Loại 7 chữ rất phổ biến. Niêm luật không còn trói buộc, miễn là đọc lên, câu thơ không trúc trắc. Thể thơ này thích hợp với phong thái trang nghiêm, cổ kính.

    Loại 8 chữ là thể thơ hoàn toàn Việt nam, dùng liên vận, nhưng cũng ít được dùng. Thể thơ này thường diễn tả những tình cảm tha thiết, hùng tráng. Ðiển hình nhất là bài "Hổ nhớ rừng" của Thế Lữ. Gần đây Nguyên Sa hay dùng thể thơ này.

    Dĩ nhiên câu thơ càng dài thì có tính cách kể lể nhiều hơn và không cần xén bớt từ.

    Thơ đều chữ biến thể có chêm ít câu không đều chữ, hoặc thay đổi số câu (thay vì thông thường là 4) trong đoạn. Thể thơ này thường xảy ra với loại 4, 5 hay 6 chữ.

    Thí dụ về thay đổi số chữ trong câu:

    --thơ 5 chữ

    Khoảng thời gian loãng đó
    Không có mặt nàng
    Mưa đỏ miền cao nguyên
    Núi đồi sầu lụn bại
    Khi tôi trở về
    Thành phố lạnh khoang xe
    Mây sương lòng thung lũng
    Và ngàn thông co ro
    (Nguyễn Vũ Văn - Trên con đường nhà thờ)

    --thơ 8 chữ

    Hãy biến cuộc đời thành những tối tân hôn (9 chữ)
    Nếu em sợ thời gian dài vô tận
    Tháng sáu trời mưa, em có nghe mưa xuống (9 chữ)
    Trời không mưa em có lạy trời mưa ?
    Anh vẫn xin mưa phong tỏa đường về
    Anh vẫn cầu mưa mặc dầu mây ảm đạm (9 chữ)
    (Nguyên Sa - Tháng sáu trời mưa)

    Thay đổi số câu trong đoạn:

    Anh đứng đây là đâu
    Em cười như lá mỏng
    Khép cửa vào chiêm bao
    Anh đứng đây là đâu
    Em nói như gió nghẹn
    Chiều nghiêng mây Thị Mầu
    (Hoàng Cầm - Chuyện trăm năm)

    2/ Thơ không đều chữ có lục bát và song thất lục bát.

    Song thất lục bát không còn được dùng.

    Lục bát là loại phổ biến nhất vì dễ làm, nhưng người mới làm thơ cũng dễ biến nó thành vè. Dễ làm nhưng khó sửa. Làm câu nào là chết câu ấy. Bài thơ làm xong rồi, muốn thêm bớt một đoạn là cả một vấn đề bởi vì vần thơ cấu kết với nhau theo kiểu liên hoàn, vừa yêu vận (vần nằm giữa câu) vừa cước vận (vần ở cuối câu).

    3/ Thơ tự do.

    Loại thơ này rất thông dụng nhưng đòi hỏi kỹ thuật và sự sáng tạo nhiều nhất. Nhiều người cho rằng người mới làm thơ nên làm các loại thơ khác trước khi làm thơ tự do, để nắm vững kỹ thuật và âm điệu.

    Một loại thơ tự do đặc biệt là thơ xuôi, có hình thức như văn xuôi. Loại thơ này cần hơi thơ dài, mặc dù bị cắt thành từng câu ngắn, và dường như không chú ý đến âm vận.

    Thí dụ:

    Làm thế nào để quên được nhau. Hạt mưa kia long lanh nỗi nhớ niềm từ biệt, hoàng hôn màu khói nhạt. Hôm nay quê hương từ bỏ, anh đau đớn làm đứa con hoang đầu xó chợ...
    Hỡi Liên, những Liên và Liên
    Dù một chút đau thương, từ chối, tổ quốc ta chạy dài trên địa ngục, xòe mở hai bàn tay anh khóc đó - những cánh tay gầy trơ xương, chọn. Con đường đi buổi chiều hấp hối, ôi buổi chiều sương mù.
    (Thanh Tâm Tuyền - Liên, những bài thơ tình thời xa cách)

    Tôi giữ em lại trên một hè phố đông người. Em đừng ngần ngại. Tôi bảo rằng: tôi yêu em.
    Tôi nói không thẹn thùng, không đắn đo dò xét. Bởi vì em ơi tôi không phải là gã lái buôn hỏi giá hàng trong một buổi chợ chiều hỗn loạn. Cũng không phải là ngưoòi thư ký già ngồi mân mê vài chiếc đinh ghim và mưu toan làm chủ sự...
    (Nguyên Sa - Ngỏ ý)

    II. Cách chấm câu và xuống dòng

    Về cách chấm câu, mỗi người một ý. Có người chấm câu rất cẩn thận, có người không chấm câu. Người ta cho rằng việc xuống dòng không có dấu chấm phẩy bao hàm sự kéo dài ý nghĩa của câu thơ, "những khoảng trống có ý nghĩa".

    Theo ý tôi, thơ lục bát nên có chấm câu vì mỗi ý thường chỉ gói tròn trong 2 câu lục và câu bát kế tiếp.

    Lại có người không viết hoa ở đầu câu, làm như bài thơ chỉ là một trích đoạn.

    Cũng có người chấm câu ở giữa dòng mà không xuống hàng. Nguyễn xuân Thiệp chẳng hạn, chấm câu giữa dòng và không viết hoa:


    hỡi gió mùa
    đã thổi từ cội nguồn xa tới cửa hiện thời
    thổi qua những rặng núi. những dòng sông. những xóm làng. thành phố quê hương tôi
    (Nguyễn xuân Thiệp - Tôi cùng gió mùa)

    Trong thơ tự do, chỗ xuống dòng là để qua một ý thơ khác, để thay cho một dấu chấm hay dấu phẩy, để ngắt hơi thơ, để nhấn mạnh một chữ hay cụm từ hoặc để thể hiện một thanh âm...

    Dưới đây là thí dụ về sự nhấn mạnh bằng cách xuống hàng:

    Hôm nay
    Nghe lời hát quen quen
    Người đàn bà ấy mang tên
    Lời từ biệt
    Trên một sân ga vắng
    Tiếng kèn trầm của một chuyến ô-tô-ray
    Ðầy dĩ vãng
    (Thanh Tâm Tuyền - Bao giờ)

    Những câu "Hôm nay", "Lời từ biệt" và "Ðầy dĩ vãng" được xuống dòng để nhấn mạnh.

    Dấu phẩy rất cần thiết cho ý nghĩa cũng có thể bị tước bỏ. Trong câu dưới đây, tác gỉa muốn nói chờ đợi nhiều người chứ không phải một người :

    Tôi chờ đợi
    một người không
    nhiều người
    (Thanh Tâm Tuyền - Bài ngợi ca tình yêu)

    Dù sao, cách chấm câu cũng chỉ là tiểu tiết, không ảnh hưởng đến phẩm chất bài thơ.

    Nguồn : http://nmchau.club.fr/forum/viewtopic.php?t=7


  4. #4
    Avatar của Trần Vi Thông
    Ban Quản Trị
    Hiện Đang :    Trần Vi Thông đang ẩn
    Tham gia ngày : Feb 2011
    Đến từ : Sài Gòn

    Bài gửi : 1.681
    Thanks
    10.122
    Thanked 19.667 Times in 1.602 Posts
    Blog Entries
    83
    Ðoạn 3. NỘI DUNG

    1/ Dàn ý

    Ít nhà thơ nào làm thơ có dàn bài (plan). Tuy nhiên, với những bài thơ có phân đoạn, hoặc thơ tự do, việc sắp xếp lại các câu thơ cho có trình tự hợp lý là điều cần thiết.

    2/ Ý thơ

    Bài thơ hay phải có ý thơ mới lạ. Mới lạ trong chi tiết, trong cách so sánh, cách liên tưởng... Ý thơ có thể rất tinh tế, sát với thực tế, nhưng cũng có thể rất cường điệu.

    Ðể tả sự trống vắng trong tâm hồn :

    Sao tuổi trẻ qúa buồn
    Như bàn ghế không bầy
    (Thanh Tâm Tuyền - Dạ khúc)

    Ðể diễn tả vẻ buồn :

    Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm
    Như con mèo ngái ngủ trên tay anh
    (Nguyên Sa - Nga)

    Ðể diễn tả mái tóc vàng và đôi mắt nâu :

    Tôi sẽ sang thăm em
    Ðể những mái tóc màu củi chưa đun
    Mầu gỗ chưa ai ghép làm thuyền
    Lùa vào nhau nhóm lửa ...
    Hay đôi mắt màu thóc đang say
    Mầu vàng khô pha lẫn sắc nâu gầy
    (Nguyên Sa - Tôi sẽ sang thăm em)

    Ðể diễn tả mái tóc mun :

    Mùa tóc mun
    Ðẹp những khu rừng không bóng cây
    (Thanh Tâm Tuyền - Mai)

    Ðể diễn tả bàn tay trắng nõn, đôi mắt long lanh và đôi mắt ngọc bích :

    Những ngón tay dài ướp trọn mấy ngàn thu
    Mà men sáng trong xanh màu trăng vời vợi
    ...
    Hay một đêm nao nước lụt Ngân Hà
    Thượng Ðế đưa sao mang gửi về khóe mắt ?
    ...
    Mắt dịu ngọt đúc từ rừng ngọc bích
    Hay linh hồn trăm phiến đá chân tu ?
    (Nguyên Sa - Ðẹp)

    Ðể diễn tả bước chân nặng nề và nỗi lòng chất chứa :

    Ta về từng bước chân là núi
    Thăm thẳm lòng mang một biển sâu
    (Khoa Hữu - Trở về)

    Ðể diễn tả sự đành tâm chia ly :

    Người đi, ừ nhỉ người đi thật
    Mẹ thà coi như chiếc lá bay
    Chị thà coi như hạt bụi
    Em thà coi như hơi rượu cay
    (Thâm Tâm - Tống biệt hành)

    Ðể diễn ta tình trạng giải phóng, tự do cá nhân :

    Tôi chờ đợi
    Cười lên sặc sỡ
    La qua mái ngói
    (Thanh Tâm Tuyền - Bài ngợi ca tình yêu)

    Buồn vì tuổi trẻ bất lực :

    Hôm nay
    Tuổi nhỏ khóc trên vai
    (Thanh Tâm Tuyền - Bài ngợi ca tình yêu)

    Vân vân.

    Ðể kết thúc đoạn này, tôi xin nhắc đến loại thơ tượng trưng. Tượng trưng chứ không phải biểu tượng. Trong bài thơ loại này, tác giả có thể dùng bất cứ cái gì để tượng trưng cho đối tượng mà tác giả ngầm nói tới.

    Thí dụ bài này:

    Cánh đồng con ngựa chuyến tàu

    Trên cánh đồng hoang thuần một màu
    Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi
    Tàu chạy mau mà qua rất lâu
    Tàu chạy mau tàu chạy rất mau
    Ngựa rượt tàu rượt tàu rượt tàu
    Cỏ cây cỏ cây lùi chóng mặt
    Gò nổng cao rồi thung lũng sâu
    Mặt trời mọc xong mặt trời lặn
    Ngựa gục đầu gục đầu gục đầu
    Cánh đồng a ! cánh đồng sắp hết
    Tàu chạy mau càng mau càng mau
    Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ
    Như giữa nền nhung một vết nâu
    (Tô thùy Yên)

    Bài này nói về kiếp số con người. Chuyến tàu là thời gian, cánh đồng là đời người, con ngựa là con người.

    Hy vọng

    Con bướm lạc vào cánh đồng
    Ðóa hoa thành ruộng lúa
    Con bướm khóc giữa cánh đồng
    Hồn hoa thành đứa nhỏ
    Con bướm chết trong bàn tay
    (Nguyễn Vũ Văn)

    Bài này nói về niềm hy vọng bị bóp chết bởi sự lừa dối.

    Nguồn : http://nmchau.club.fr/forum/viewtopic.php?t=7


  5. #5
    Avatar của Trần Vi Thông
    Ban Quản Trị
    Hiện Đang :    Trần Vi Thông đang ẩn
    Tham gia ngày : Feb 2011
    Đến từ : Sài Gòn

    Bài gửi : 1.681
    Thanks
    10.122
    Thanked 19.667 Times in 1.602 Posts
    Blog Entries
    83
    Ðoạn 4. TỪ NGỮ

    Bài thơ hay không nên dùng những từ ngữ đã dùng nhiều trong văn thơ, nhất là tính từ, tỉ dụ như : (lòng) tê tái, (dài) lê thê, não nùng... Tuy nhiên, ta có thể làm mới những từ ấy bằng cách dùng nó theo ý nghĩa khác đi một chút. Thí dụ chữ "thăm thẳm" thường dùng để chỉ chiều sâu, Tô Thùy Yên dùng cho tiếng chó tru (trong bài "Góa phụ") để nói lên âm thanh dài và cao. Thanh Tâm Tuyền dùng "điệu nhạc gầy" để nói lên những nốt nhạc cao ("Dạ khúc").

    Thanh Tâm Tuyền còn dùng từ "cười sặc sỡ" ("Bài ngợi ca tình yêu"). Không biết ông muốn nói "cười sặc sụa", "cười muôn màu, đủ mọi kiểu", hay là "cười điên dại" ("điên dại" thì có liên quan gì đến "sặc sỡ" ?) :

    Tôi chờ đợi
    cười lên sặc sỡ
    la qua mái ngói
    thành phố ruộng đồng
    bấu lấy tim tôi
    thành nhịp thở
    (Thanh Tâm Tuyền - Bài ngợi ca tình yêu).

    Một bài thơ bình dị, không có từ mới, vẫn có thể là bài thơ hay, rất hay, miễn là có góc cạnh mới lạ, lời thơ giản dị, trong sáng, hay nồng nàn, thành khẩn...Thí dụ :

    Em tan trường về
    Ðường mưa nho nhỏ
    Chim non giấu mỏ
    Dưới cội hoa vàng
    Bước em thênh thang
    Áo tà nguyệt bạch
    Ôm nghiêng cặp sách
    Vai nhỏ tóc dài
    (Phạm Thiên Thư - Ngày xưa Hoàng thị)

    Hay là:

    Nhớ chăng Barbara
    Hôm ấy mưa rơi hoài xuống Brest
    Anh gặp em ở phố Xiêm
    Em mỉm cười
    Và anh cũng mỉm cười
    (Thanh Tâm Tuyền - Barbara, dịch thơ Jacques Prévert)

    Hay là:

    Ðón em suốt bãi sông Hằng
    Cát muôn kiếp mãi nhớ lần gặp xưa
    Hẹn về dù nắng dù mưa
    Hẹn về dù sớm dù trưa cũng về
    (Tô Thùy Yên - Suốt bãi sông Hằng)


    Sáng tạo

    Ngoài ra, thơ hay cần từ ngữ sáng tạo. Thi sĩ mất nhiều thì giờ ở điểm này. Sáng tạo không phải là chế ra chữ mới, mà dùng chữ đã có với nghĩa khác thường. (Chế ra chữ mới cũng được thôi, nhưng nếu người đọc không hiểu thì lại thành thơ bí hiểm.)

    Hãy xem những từ gạch dưới :

    Em về, cát bụi òa lên
    Trăm thương nghìn nhớ vỡ rền thế gian
    (Tô Thùy Yên - Suốt bãi sông Hằng)

    Tiếng kèn hát mãi than van
    Ðiệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng
    (Thanh Tâm Tuyền - Dạ khúc)

    Người đàn ông trở dậy sau giấc ngủ trưa
    Mặt trời sáng lòa
    Một người nào đội nón đi ra
    Tiếng guốc bốc cháy lên hàng cây tù tội
    (Nguyễn Vũ Văn - Cảm giác buổi chiều)

    Tô Thùy Yên phục hồi cổ ngữ. Một cách làm mới thơ ? Hãy xem:

    Ðêm nằm, lệ chảy mòn tay
    Nghe chừng đá nát vàng phai đến điều
    (Hái rau)

    Ðòi phen toan đẩy cửa liều
    Ra cùng thiên hạ vui chiều ngửa nghiêng
    (Suốt bãi sông Hằng)

    Thảng như con ngựa già vô dụng
    Chủ bỏ ngoài trăng đứng một mình
    (Góa phụ)

    Hề, ta trở lại gian nhà cỏ
    Giữa cánh đồng không bên kia sông
    (Hề, ta trở lại gian nhà cỏ)

    Dưới đây là những chữ do tác giả sáng chế ra, để độc giả tự tìm hiểu :

    Rừng đưa mái võng treo triền
    Như quằn chiều sánh, như lền gió qua.
    (Tô Thùy Yên - Hái rau)

    Nổi chìm, lệ lợ máu lền
    Ðau thương thôi đã pha rền tử sinh
    (Tô Thùy Yên - Suốt bãi sông Hằng)

    Những ý thơ thách đố độc giả:

    Em nói như gió nghẹn
    Chiều nghiêng mây Thị Mầu
    (Hoàng Cầm - Chuyện trăm năm)

    Mây thành thổi lửa
    Nẻo Ðông Triều khép mở gió kỳ lân
    (Hoàng Cầm - Ðêm thổ)

    Vừa khi vuốt tóc nhìn chênh bến
    Chợt thấy dài xanh ngất nước mây
    Hoa khô xây bậc cho thềm ngọc
    Một phím đàn đôi bốn cánh bay
    Ngự đỉnh dài ánh nguyệt xuyên xanh
    Ðón chào nữ chúa khóc vô thanh
    (Hoàng Cầm - Ngã ba sông)

    Biểu tượng

    Thi ca thường dùng biểu tượng, thí dụ mùa xuân hay mầu hồng chỉ sự tốt đẹp, mùa đông hay màu xám chỉ sự buồn rầu, chết chóc. Biểu tượng có tính cách phổ quát, được mọi người chấp nhận. Thơ hay cũng cần làm mới biểu tượng.

    Thí dụ, Trần Dạ Từ dùng hoa và trái thay cho mùa xuân :

    Hoa và trái một đêm nào thức dậy
    Nghe mộng đời xao xuyến giấc xuân xanh
    (Mộng đời)

    Riêng Thanh Tâm Tuyền có lối dùng biểu tượng rất độc đoán :

    Sao tuổi trẻ qúa buồn
    Như con mắt giận dữ
    (Dạ khúc)

    Giận dữ không thể là biểu tượng cho cái buồn. Con mắt giận dữ có thể buồn, nhưng buồn không nhất thiết có nét giận.

    Nếu đã đi từ Hà Nội xuống Hải Phòng hay sang Bắc Ninh
    Nếu đã đi từ Sài Gòn xuống Vĩnh Long hay lên Thủ Ðầu Một
    Chuyến xe vẫn chỉ thuộc một mình
    (Bao giờ)

    Những đoạn đường nói trên cũng không buộc phải là đoạn đường độc hành.


    Ðiệp ngữ

    Nguyên tắc chung là tránh điệp ngữ trong cùng một câu hay trong những câu liên tiếp, như dưới đây :


    Quê nhà ôi những đêm tàn lửa
    Phía mặt trời ai gọi lửa lên
    (Khoa Hữu - Trở về)

    Hay là :

    Mười năm thế giới già trông thấy
    Ðất bạc màu đi, đất bạc màu
    (Tô Thùy Yên - Ta về)

    Những trường hợp dùng điệp ngữ :

    1 - để nói đến ý của chính chữ đó:


    Ôi, mê hoặc ngày ta trở lại
    Núi còn đây tưởng núi hoang đường

    (Khoa Hữu - Trở về)

    Ta rảo quanh làng hóng chuyện phiếm
    Ðời người cũng chuyện phiếm mà thôi
    (Tô Thùy Yên - Ta về)

    2 - để nhấn mạnh :

    Mặt trời mọc !
    Mặt trời mọc !
    Rưng rưng mùa hoa gạo
    (Quách Thoại - Trăng thiếu phụ)

    3 - để diễn tả một động tác kéo dài hay lập đi lập lại :

    Trên cánh đồng hoang thuần một màu
    Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi
    Tàu chạy mau mà qua rất lâu
    Tàu chạy mau tàu chạy rất mau
    Ngựa rượt tàu rượt tàu rượt tàu
    (Tô Thùy Yên - Cánh đồng con ngựa chuyến tàu)

    4 - để tạo âm hưởng đặc biệt :

    Ở đây ta có dăm người bạn
    Phúc tự tâm, không lý đến đời
    Ở đây ta có dăm pho sách
    Và một dòng sông, mấy cụm mây...
    Dòng sông hiền triết trôi vô lượng
    Dòng sông hiền triết chảy vô tâm
    Mà ta ngưỡng vọng như sư phụ
    Mà ta thân thiết tựa tri âm...
    (Tô Thùy Yên - Hề, ta trở lại gian nhà cỏ)

    Anh sẽ vuốt tóc em cho đêm khuya tròn giấc
    Anh sẽ nâng tay em cho ngọc sát vào môi
    Anh sẽ nói thầm như gió thoảng trên vai
    Anh sẽ nhớ suốt đời mưa tháng sáu
    (Nguyên Sa - Tháng sáu trời mưa)

    5 - để mở rộng ý phụ :

    Dưới đây là một bút pháp nhằm mở rộng một ý mà vẫn giữ tính cách thống nhất của ngữ pháp :

    Nhân danh dân chủ tự do
    Chúng bán đầy đường súng đạn
    Chúng bán đầy đường sinh mạng
    Dạy nhau cách giết người
    Lấy tội ác viết tiểu sử
    (Nguyễn Vũ Văn - Vì sao)

    Trong đoạn thơ trên, câu thứ 3 nhằm mở rộng ý của câu thứ 2 (súng đạn = sinh mạng) mà vẫn giữ được chữ "Chúng" làm chủ từ (subject) cho 2 câu cuối cùng.

    Nguồn : http://nmchau.club.fr/forum/viewtopic.php?t=7


  6. #6
    Avatar của Trần Vi Thông
    Ban Quản Trị
    Hiện Đang :    Trần Vi Thông đang ẩn
    Tham gia ngày : Feb 2011
    Đến từ : Sài Gòn

    Bài gửi : 1.681
    Thanks
    10.122
    Thanked 19.667 Times in 1.602 Posts
    Blog Entries
    83
    Đoạn 5. BÚT PHÁP

    Bút pháp là cách hành văn, bao gồm cả cú pháp (syntax, syntaxe), lối viết (style) và cách diễn đạt (tournure, turn of phrase).
    Bút pháp thơ thật là đa dạng. Có những cách mà các nhà thơ đều dùng để cô đọng thơ, so sánh đối tượng, làm mới thơ... Ở đây tôi xin nói đến một số bút pháp chung và bút pháp đặc biệt của Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, và Nguyễn xuân Thiệp.

    A.BÚT PHÁP CHUNG

    1. Dùng từ đồng cách (apposition)

    Ðồng cách từ là bút pháp phổ biến nhất để giải thích, so sánh, mở rộng ý nghiã của một từ ...

    Thí dụ :

    Ðôi khi anh muốn tin
    Ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
    Mà bên cỏ hoa quyến rũ cánh tay em
    Vòng ân ái
    (Thanh Tâm Tuyền - Lệ đá xanh)

    = Cánh tay em là vòng ân ái.

    Trán mênh mông, cánh sông dài
    Thổ ngơi xuôi mái, hồn ngoài châu thân
    (Viên Linh - Nghi hoặc nỗi gì)

    = Trán mênh mông như cánh sông dài

    2. Xén bớt những từ để cô đọng lời thơ

    Xin đọc đoạn thơ này:

    Em độc thoại lời kinh ánh xanh
    Trăng lu khuya mỏi nén nhang tàn
    Chó tru thăm thẳm ngây thiên địa
    Mái ngói nghiêng triền trái rụng lăn
    ...
    Ngọn đèn hư ảo chong linh vị
    Thắp trắng thời gian mái tóc em
    (Tô Thùy Yên - Góa phụ)

    Bạn có thể nhận thấy những từ gọt bỏ nếu diễn ý như sau :


    Em độc thoại lời kinh ánh xanh
    Trăng lu, về khuya, vì mỏi nên nén nhang tàn
    Chó tru thăm thẳm làm ngây ngất thiên địa
    Trên mái ngói nghiêng triền, trái rụng lăn xuống
    ...
    Ngọn đèn hư ảo chong linh vị
    Thắp trắng thời gian trên mái tóc em

    Thí dụ 2 :

    Ðôi khi anh muốn tin
    Ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
    Mà bên cỏ hoa quyến rũ cánh tay em
    Vòng ân ái
    (Thanh Tâm Tuyền - Lệ đá xanh)

    Diễn ý :

    Ðôi khi anh muốn tin
    Rằng ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
    Mà bên cỏ hoa là cánh tay em quyến rũ

    Thí dụ 3 :

    Hồn thảo mộc giấc ngủ
    Nằm mơ những ngôi sao mặt trăng
    (Thanh Tâm Tuyền - Mai)

    Diễn ý :


    Trong giấc ngủ, hồn như hồn của thảo mộc
    Nằm mơ những ngôi sao và mặt trăng

    Thí dụ 4 :

    Tao nhớ mày những rừng giang đồi sắn
    Ðiếu thuốc lào tê tái lúc tinh mơ
    Ngọn rau hoang tô canh ảm đạm
    (Nguyễn Vũ Văn - Nhớ người vượt biển)

    Diễn ý :

    Tao nhớ mày cùng những rừng giang, đồi sắn
    Cùng điếu thuốc lào tê tái lúc tinh mơ
    Cùng ngọn rau hoang làm nên tô canh ảm đạm

    3. Xén bớt từ để làm mới thơ

    Những từ trong ngoặc dưới đây đã được lược bỏ để làm mới cú pháp :

    Nhớ em một đóa thanh tao
    Kết tinh nữ sắc từ (khi) vào trần gian.
    (Nguyễn Vũ Văn - Sợi tóc)

    Ngàn (năm) xưa ai từng ở nơi này
    Rồi đến (năm) ngàn sau ai đến đây
    (Phạm Thiên Thư - Liềm trăng)

    Vân vân


    4. Thêm từ

    Nhiều từ được thêm vào cho ý thơ có vẻ mới lạ, nhưng thật ra không có tác dụng gì.

    Thí dụ những từ gạch dưới trong các câu này :

    Hôm nay
    tuổi nhỏ khóc trên vai
    (Thanh Tâm Tuyền)

    Hôm nay chợt nhớ thương người
    Tiếng ve mùa cũ rụng rời vai anh
    (Trần Dạ Từ - Nụ hôn đầu)

    Khuya buồn tủi nhục môi em
    Mưa bay nhỏ nhẹ qua thềm bơ vơ
    (Phạm Công Thiện - Ngày sinh của rắn)

    5. Ðổi chữ

    Thay vì "tôi chờ đợi lớn lên như giông bão" :

    Tôi chờ đợi
    Lớn lên cùng giông bão
    (Thanh Tâm Tuyền - Bài ngợi ca tình yêu

    6. Mượn cái này tả cái khác :

    Ðể tả nỗi khao khát ra biên giới mà vùng vẫy :

    Ðường nào ra biên giới
    Gió vẫy vùng cỏ cây
    (Nguyễn Vũ Văn - Cỏ úa)

    7. Kết hợp ý của các mệnh đề độc lập (independent clauses).


    Thí dụ 1 :

    Khúc tình ca thần nữ
    Người con gái khỏa thân
    Vung lên từng chuỗi ngọc
    Trong miền sương mong manh
    (Nguyễn Vũ Văn - Trên con đường nhà thờ)

    Câu thứ nhất độc lập với các câu sau về ngữ pháp, nhưng kết hợp với ý của các câu đó thành một chi tiết duy nhất.

    Thí dụ 2 :

    Chiếc cửa sổ nào ai mở ra
    Tiếng dương cầm bâng khuâng một thời dĩ vãng
    (Nguyễn Vũ Văn - Cuối thu)

    Hai câu trên hàm ý tiếng đàn thoát ra từ cánh cửa sổ mở rộng.

    8. Cụ thể hóa những cái trừu tượng


    Ðây là nỗi buồn lởn vởn :
    Nỗi buồn như bầy chiên
    Vây quanh chàng mục tử
    (Nguyễn Vũ Văn - Những cánh tay của gió)

    9. Trừu tượng hóa những cái cụ thể

    Nghe thiên thu cũng trở trời
    Áo phơi mùa trước như lời bỏ quên
    (Tô Thùy Yên - Suốt bãi sông Hằng)

    Sợi tóc đen như một chuỗi cười
    Trên chùm môi lá biếc
    (Thanh Tâm Tuyền - Tháng giêng)

    10. Dùng đảo ngữ

    Ðảo ngữ thường được dùng với mục đích :

    - thỏa mãn âm vận hay âm điệu :

    Ðôi khi anh muốn tin
    Ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
    Mà bên cỏ hoa quyến rũ cánh tay em
    Vòng ân ái
    (Thanh Tâm Tuyền - Lệ đá xanh)

    Quản chi lớp lớp hư hình
    Dài đêm đăm đắm mắt nhìn quầng thâm
    (Tô Thùy Yên - Suốt bãi sông Hằng)

    Vừa khi vuốt tóc nhìn chênh bến
    Chợt thấy dài xanh ngất nước mây
    (Hoàng Cầm - Ngã ba sông)

    - thay đổi bút pháp :

    Người về như sóng
    Buồn tôi quanh năm
    ...
    Bóng hình chia đôi
    Sầu tôi lụ khụ
    (Du Tử Lê - Một bài thơ nhỏ)

    B. BÚT PHÁP NGUYÊN SA

    Nguyên Sa có một lối viết đặc biệt, luôn luôn nghĩ ra những chi tiết rất nhỏ, ngộ nghĩnh, vẩn vơ, đôi khi chẳng có ý nghĩa gì, nhưng đó lại là chất thơ của ông.


    Bầu trời mây ở dưới áng mây cong
    Em có muốn anh giữ giùm phân nửa?
    ....
    Bài hát đó mang cho anh hò hẹn
    Em nhớ mang vàng cho cúc, ngọc cho lan
    Mang cầu vồng cho khoảnh khắc mưa tan
    Và môt chút vai em cho huệ trắng...
    ....
    Yêu cuộn tròn trong tám chữ mây qua
    Khi em tới lượn vòng trên mái tóc...
    (Tháng giêng và anh)

    Em có đứng ở bên bờ sông
    Làm ơn che khuất nửa vừng trăng
    Anh về có nương theo giòng nước
    Anh sẽ tìm em trong bóng trăng
    (Paris có gì lạ không em)

    Nguyên Sa ưa dùng công thức : "A hay là B", "sao không A mà như có A", "sao không A để cho tính cách/hậu qủa của A", và "có phải A nên có tính cách/hậu qủa của A".

    1. "A hay là B"

    Ðôi khi B chẳng có ý nghĩa gì, chỉ là ý tưởng vơ vẩn.

    Có phải em mang trên áo bay
    Hai phần gió thổi, một phần mây
    Hay là em gói mây trong áo
    Rồi thở cho làn áo trắng bay?
    Có phải mùa xuân sắp sửa về
    Hay là gió lạnh lúc đêm khuya
    Hay là em chọn sai màu áo
    Ðể nắng thu vàng giữa lối đi?
    (Tương tư)

    Nắng thu vàng có liên quan gì đến gió lạnh và màu áo? Nếu nắng thu vàng là màu áo thì có liên quan gì đến gió lạnh?

    Hay là :

    Muôn vì hành tinh rung nhè nhẹ
    Hay ly rượu tàn run trên môi
    Người về trên một dòng sông xanh
    Trên một con tàu hay một ga mông mênh
    Sao người không chọn sông vắng nước
    Hay nước không nguồn cho sông đi quanh?
    (Tiễn biệt)

    Sông vắng nước để cho nước cạn, người không đi xa. Sông đi quanh để cho thuyền đi vòng trở lại.

    2. "Sao không A mà có như có A"

    Sao người không là một con đường
    Sao tôi không là một ga nhỏ
    Mà cũng có những giờ gặp gỡ
    Cũng có những giờ chia tan ?
    (Tiễn biệt)

    3. "Sao không A để cho có tính cách/hậu qủa của A"

    Sao người không là vì sao nhỏ
    Ðể cho tôi nhìn trong đêm thâu ?
    Sao người không là một cung đàn
    Cho tôi mềm lòng trong tiếng than
    (Tiễn biệt)

    4. "Có phải A nên có tính cách/hậu qủa của A"

    Có phải tên người là âm thanh vô vọng
    Nên mắt buồn le lói thoáng bơ vơ
    Hay một đêm nao nước lụt Ngân Hà
    Thượng Ðế đưa sao mang gửi về khóe mắt ?
    (Ðẹp)

    Nguyên Sa cũng hay hỏi tại sao :

    Tay anh dài sao em không gối mộng
    Thơ anh say sao chẳng uống cho đầy
    Mắt thuyền trôi anh chèo cả hai tay
    Sao chẳng ngự cho hồn anh xuống nhạc
    (Người em sống trong cô độc)

    Bút pháp này gợi nhớ đến bài Tống biệt hành của Thâm Tâm:

    Ðưa người ta không đưa qua sông
    Sao có tiếng sóng ở trong lòng ?
    Trời chiều không thắm không vàng vọt
    Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?

    C. BÚT PHÁP THANH TÂM TUYỀN

    Những chữ "vậy em biết không" dưới đây tạo ra một âm hưởng đặc biệt, tha thiết :

    Chẳng là anh ngông cuồng kiếm tìm tổ quốc vậy em biết không. Mà tổ quốc ngàn đời nín thở vì t rời th ì xanh mà khổ đau nói sao cho hết. Chẳng là anh chót yêu em vậy em biết không ? Mà khi yêu nhau, trong những đêm sao hằng hà, làm thế nào để quên được nhau.
    (Thanh Tâm Tuyền - Liên, mặt trời tìm thấy)

    Nếu bạn muốn khóc cho những cuộc tình tan vỡ mà không ra được nước mắt, bạn sẽ viết như thế nào ? Còn Thanh Tâm Tuyền thì mượn đôi mắt của người khóc:

    Hãy cho anh khóc bằng mắt em
    Những cuộc tình duyên Budapest
    (Thanh Tâm Tuyền - Hãy cho anh khóc bằng mắt em)

    Nói đến một con người tội lỗi trong cái "tôi" :

    Tôi xin một chỗ qùy thầm kín
    Cho đứa nhỏ linh hồn
    Sợ chó dữ
    Con chó đói không màu
    ...
    Em bé quàng khăn đỏ ơi
    Này một con chó sói
    Thứ cho sói lang thang
    (Phục sinh)

    Nỗi buồn vì tuổi trẻ bất lực :

    Hôm nay
    Tuổi nhỏ khóc trên vai
    (Thanh Tâm Tuyền - Bài ngợi ca tình yêu)

    Thanh Tâm Tuyền có một bút pháp rất "Tây". Hãy xem ông diễn tả :

    - Người đàn bà nhớ lại những câu thơ cũ :

    Những lời thơ rất cũ
    Gõ cửa trái tim nàng
    (Mai)

    - Một người đàn bà đã ra khỏi đời mình :

    Người đàn bà ấy mang tên
    Lời từ biệt
    (Bao giờ)

    Một bút pháp đặc thù Thanh Tâm Tuyền hay sử dụng là dùng một đối tượng khác để diễn tả đối tượng mình đang nói tới. Bạn buồn ư ? Ðừng nói "tôi buồn", mà nói "trời buồn" hay "con ngựa buồn".

    Thật vậy, để diễn tả nỗi buồn trong đôi mắt, TTT dùng mắt ngựa thay cho mắt đối tượng. Bạn có thể thay bằng một con vật khác và ý thơ không thay đổi:

    Con ngựa buồn
    Lửa trốn con ngươi
    (Bài ngợi ca tình yêu)

    Ðể diễn tả một sự tương thuộc, TTT dùng cỏ và hoa thay cho hai đối tượng, nhưng bạn cũng có thể thay bằng hai cái gì khác :

    Cỏ của hoa và hoa của cỏ
    Những ngón tay những ngón chân những nụ cười
    (Cỏ)

    D. NGUYỄN XUÂN THIỆP : THƠ TÙY BÚT

    Tùy bút là một thể loại hồi ký ngắn ghi lại những cảm nghĩ liên quan đến một ngoại cảnh nào đó.

    Trong một số bài, Nguyễn xuân Thiệp làm thơ như viết tùy bút, như văn xuôi có vần, không dùng biểu tượng, không thắc mắc về từ ngữ mới, và không dùng các bút pháp thông thường của thi ca như đã đề cập trong đoạn này. Lời văn giản dị. Ý thơ tinh tế, cái tinh tế của thể tùy bút.

    Hãy đọc :

    này em. chưa đan xong chiếc áo len quàng cổ
    thì gió mùa đêm nay đã đến đầy phòng
    thổi rung liếp cửa
    em có nghe tình ta âm vang dưới bầu trời hun khói
    âm vang qua đồng cỏ tranh
    lại gặp nhau
    tôi cùng gió mùa
    để đêm nay có người lục lại gối chăn trong hòm cũ
    tìm lại chiếc gương xưa
    để sớm mai
    hồng má trẻ con
    se môi thiếu phụ
    để người đi xa một sớm quay về
    (Tôi cùng gió mùa)

    khi bầy chim ngủ đỗ ở những ngoϮ cây bên bìa rừng
    cuخg cất tiếng hót
    đợi ngày lên
    chúng tôi. những tình nhân thất laϣ nhau trên mặt đất
    không được nhìn thấy nhau
    chỉ nghe tiếng nói. như từ giấc mơ naد
    của dòng sông. đã lãng quên
    (Mùa cuối)

    Nguồn : http://nmchau.club.fr/forum/viewtopic.php?t=7


  7. #7
    Avatar của Trần Vi Thông
    Ban Quản Trị
    Hiện Đang :    Trần Vi Thông đang ẩn
    Tham gia ngày : Feb 2011
    Đến từ : Sài Gòn

    Bài gửi : 1.681
    Thanks
    10.122
    Thanked 19.667 Times in 1.602 Posts
    Blog Entries
    83
    Ðoạn 6. ÂM ÐIỆU


    Tiếng Việt là một ngôn ngữ tự nó đã có âm điệu, 6 thanh tạo nên một thang âm trầm bổng. Cho nên bài thơ nào cũng có âm điệu, chỉ có vấn đề là hay hoặc dở. Âm điệu phụ họa được với ý thơ là hay, âm điệu trúc trắc là dở.

    Người biết ngâm thơ có thể ngâm bất cứ bài thơ nào. Tuy nhiên, có những bài thơ chỉ để đọc hoặc chỉ nên đọc, chứ không ngâm bởi vì âm điệu gần như văn nói. Thí dụ như một số bài thơ của Thanh Tâm Tuyền, nhất là trong tập "Tôi không còn cô độc". Hãy xem một bài :

    tôi buồn khóc như buồn nôn
    ngoài phố
    nắng thủy tinh
    tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ thanh tâm tuyền
    (Thanh Tâm Tuyền - Phục sinh)

    Thơ Việt nam hay hơn thơ Tây phương về âm điệu, diễn ngâm không nhất thiết cần lấy giọng và làm điệu bộ như kịch sĩ, bài thơ hay tự nó đã chứa âm điệu phù hợp với nội dung. Những lời thơ trong Truyện Kiều và Chinh Phụ Ngâm chẳng hạn, là chứng minh hùng hồn cho âm điệu tuyệt tác.

    Thơ mới cũng không thiếu những âm điệu đủ mọi phong thái. Thí dụ :

    Âm điệu hùng tráng :

    Sóng lớp lớp rượu ba tuần thuở ấy
    Tiếng vang vang như thần kêu qủy hét,
    Trời ngập ngập như quân khiêu tướng thét
    Gọi qúa khứ vị lai những u hồn
    Muôn nghìn đời linh thiêng không sống chết
    (Lý đông A - Chính khí Việt)

    Âm điệu hào sảng, khí khái :

    Người đi, ừ nhỉ người đi thật
    Mẹ thà coi như chiếc lá bay
    Chị thà coi như hạt bụi
    Em thà coi như hơi rượu cay
    (Thâm Tâm - Tống biệt hành)

    Âm điệu dồn dập :

    Trên cánh đồng hoang thuần một màu
    Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi
    Tàu chạy mau mà qua rất lâu
    Tàu chạy mau tàu chạy rất mau
    Ngựa rượt tàu rượt tàu rượt tàu
    ...
    Mặt trời mọc xong mặt trời lặn
    Ngựa gục đầu gục đầu gục đầu
    (Tô thùy Yên - Cánh đồng con ngựa chuyến tàu)

    Âm điệu tha thiết :

    Hỡi Liên những Liên và Liên
    Làm thế nào để quên được nhau. Hạt mưa kia long lanh hỗi nhớ niềm từ biệt, hoàng hôn bàng hoàng màu khói nhạt. Hôm nay quê hương từ bỏ, anh đau đớn làm đứa con hoang đầu đường xó chợ...

    (Thanh Tâm Tuyền - Liên, mặt trời tìm thấy)

    Âm điệu trầm buồn, từ cao xuống thấp dần rồi nghẹn lại :

    Bây giờ là mùa thu trời xuống thấp buồn vô cùng

    (Thanh Tâm Tuyền - Khai từ một bản anh hùng ca)

    Âm vận và ngữ âm là những yếu tố của âm điệu.

    Âm vận gồm nhiều vần trắc có âm thái sắc cạnh có khả năng diễn tả những tình cảm mạnh. Thí dụ :

    Một ngày lạnh nước người không tri kỷ
    Ta vỗ án hét thành ca chính khí
    Ðông thê thê như gió thổi u hồn
    Thấu buốt tận lòng người trong cốt tủy.
    (Lý đông A - Chính khí Việt)

    Bài thơ có nhiều âm bằng cho âm điệu ngang ngang phù hợp với tâm trạng buồn bã, hoang mang, bàng hoàng... Thí dụ :

    Sương lan mờ, bờ sông tường gần nhau
    Sương lan mờ và hồn tôi nghe đau
    (Xuân Diệu - Sương mờ)

    Sài Gòn chiều nay trời còn mưa không em
    Ðường về hình như nhà ai đang lên đèn
    Sầu tư nghe về nghìn trùng trong tim
    Trời còn mưa, mưa hoài, mưa trong đêm
    (Huy Phương - Mưa chiều)

    Phần lớn những bài thơ loại này có ý thơ sáo rỗng, gượng gạo, vì cố tìm cho ra những âm bằng.

    Sự thống nhất âm điệu

    Thơ lục bát và thất ngôn có âm điệu trầm bổng đặc biệt. Còn thơ tự do có âm điệu gần với văn nói hơn. Một câu thơ 6 chữ trong thể lục bát với một câu thơ 6 chữ trong thể tự do có âm điệu khác hẳn nhau. Khi ta làm thơ, chính âm điệu của câu thơ đầu tiên dẫn đến các câu sau theo một thể thơ nào đó.

    Một số người cho rằng bài thơ không như bản nhạc, cần thống nhất âm điệu để có một âm hưởng thuần nhất. Do đó không nên xen lẫn hai thể thơ trong một bài, như chêm mấy câu lục bát hay thất ngôn trong một bài thơ tự do.


    Phân biệt âm điệu và hơi thơ

    Hơi thơ ví như khoảng cách giữa những dấu lặng hoặc chỗ ngân dài trong một bản nhạc. Hơi thơ góp phần thay đổi âm điệu, có thể là những chỗ xuống dòng hay dấu chấm câu trong bài thơ. Cũng có khi một hơi thơ bao gồm cả mấy dòng thơ, tùy theo ý thơ.

    Thể thơ là yếu tố chính của hơi thơ. Thể thơ càng dùng câu thơ dài thì hơi thơ càng dài. Hơi thơ ngắn dùng để diễn tả những âm thanh ngắn như lời tán thán, hô khởi, tiếng nức nở, nghẹn ngào, tiếng mưa rơi, vân vân. Hơi thơ dài dùng để diễn tả những tình ý tha thiết, lời kêu gọi hùng hồn, vân vân. Như đã nói trong thể thơ.



    KẾT LUẬN

    Ta có thể rút ra những yếu tố của một bài thơ hay theo thứ tự ưu tiên:

    1. Ý mới, chi tiết mới.
    2. Bút pháp chọn lọc.
    3. Không dùng từ ngữ cũ. Từ ngữ mới càng hay.
    4. Hợp vận.
    5. Âm điệu và hơi thơ thích hợp.
    6. Dàn ý hợp lý.
    Ý thơ và bút pháp là những yếu tố quan trọng nhất.

    Ý niệm "mới" hay "cũ" đề cập ở trên là dựa vào kinh nghiệm đọc thơ nhiều.

    Ðó là tiêu chuẩn xét một bài thơ hay về phương diện khách quan. Về phương diện chủ quan, đánh giá một bài thơ hay còn tùy thuộc trình độ kiến thức của người đọc. Tốc độ cảm nhận thơ cũng vậy, nhưng nó còn tùy thuộc cả kinh nghiệm sống và kinh nghiệm đọc thơ. Người có kiến thức rộng, người đã từng trải hoàn cảnh như trong bài thơ và người đọc thơ nhiều sẽ cảm nhận bài thơ mau chóng hơn những người khác.

    Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết để có thể đánh giá một bài thơ làbài thơ phải có thể hiểu được. Vâng, không hiểu thì làm sao biết thơ hay ?

    Nói cách khác, bài thơ phải tự giải thích được, không cần tác giả giảng nghĩa. Với những bài thơ khó hiểu, tác giả cần phải tự hỏi mục đích làm thơ của mình là gì : để thưởng thức riêng mình hay cho người khác cùng thưởng thức. Nếu có một vài người khác tự họ hiểu được bài thơ, thì cũng coi như bài thơ có thể hiểu được. Còn không ai có thể hiểu được thì nhà thơ nên đặt lại vấn đề : có thể diễn tả một cách dễ hiểu hơn mà vẫn giữ được bản sắc kỹ thuật của mình hay chăng ? Nếu không thì tác gỉa sẽ muôn đời cô độc.

    Nguồn : http://nmchau.club.fr/forum/viewtopic.php?t=7


  8. #8
    Avatar của Trần Vi Thông
    Ban Quản Trị
    Hiện Đang :    Trần Vi Thông đang ẩn
    Tham gia ngày : Feb 2011
    Đến từ : Sài Gòn

    Bài gửi : 1.681
    Thanks
    10.122
    Thanked 19.667 Times in 1.602 Posts
    Blog Entries
    83
    Thi ca và nghệ thuật

    Nơi xuất phát ra thơ


    Tứ diệu đế: Đất – Nước – Gió – Lửa, tạo nên đời sống vạn vật và con người. Nó cũng tạo nên Thơ. Tinh túy thơ từ đó phát sinh. Và con người biết khai thác, tận dụng làm sinh thú

    Thơ...

    cho đời sống tinh thần của mình.

    Nguyên lý của Trời đất tự bao giờ có. Chẳng ai biết, rồi nó ban phát cho muôn loài, được gọi là thiên nhiên. Sông núi hữu tình, hoa nở bốn mùa thắm xinh, khí trời nóng ấm, mát lạnh. Chất thơ mênh mang không thể thiếu hòa quyện vào đời sống, tâm hồn con người, để con người vui sống, sinh tồn hiện hữu và hưởng thụ. Người ta gọi đó là nghệ thuật mà nghệ thuật là cái đẹp. Thi ca là cái đẹp. Những tác phẩm được gọi là nghệ thuật đều tỏa ra ngạt ngào vẻ đẹp.
    Tứ diệu đế thăng hoa thành cái đẹp, mà con người phải tìm kiếm. Đi tìm cái đẹp, dĩ nhiên cái đẹp là một sự vật đã có sẵn. Có sẵn không phải là nó lộ diện, hiện hình, mà ta phải đi tìm kiếm. Đi tìm bằng cách sáng tác. Người sáng tác là nghệ sĩ. Nghệ sĩ tạo nặn ra, làm ra, tìm ra cái đẹp để đáp ứng, cầu toàn cái nhu cầu đời sống tâm linh. Do vậy mà người nghệ sĩ là người suốt đời đi tìm. Họ tìm trong thiên nhiên, Trời đất con người. Họ tìm nơi chính họ. Cào cấu nơi chính tư duy của họ. Họ gào thét từ niềm đau, từ trong sâu thẳm cuộc sống để làm nên nghệ thuật. Vậy thì tính chất của nghệ thuật được gạn lọc từ nơi chốn xù sì nhất, ảm đạm nhất, hoang vu nhất. Nó được lấy ra từ một hố thẳm nào thâm sâu nơi con người. Một nơi tăm tối nào từ vực sâu, rồi người nghệ sĩ dùng tài năng, kiến thức của mình mài dũa, gột rửa, lau chùi rồi nó sẽ được ban cho một thứ ánh sáng huyền diệu, một thứ hào quang đặc biệt nào mà người nghệ sĩ hà hơi vào, biến nó thành cái đẹp. Họ không thể dễ dàng kiếm ngay ra được một thứ vật quí hiếm, mà phải cất công đi tìm khó nhọc, có khi cái giá phải trả bằng máu hay bằng mạng sống của họ!
    Chúng ta thấy người nghệ sĩ điêu khắc, từ khi nắm một vật vô tri, vô hình như thỏi đất đá, gỗ sắt, không phải anh làm chỉ ngày một ngày hai, mà nó trở thành ra pho tượng nghệ thuật theo ý mình. Người họa sĩ đứng trước một khung vải cũng phải ưu tư, tìm tòi, để kiếm ra một đường nét, một mầu sắc, một bố cục cho riêng minh. Cái bố cục và đường nét của bức tranh làm cho bức tranh độc đáo, bắt mắt người thưởng ngoạn, phải tốn biết bao lần phác họa, có khi vẽ đi vẽ lại, thử nghiệm mệt mỏi, si mê điên dại mới vừa ý. Phải tìm để mong bắt gặp một nguồn ánh sáng phép lạ nào soi chiếu vào người mẫu, vào cảnh vật hữu tình, làm hứng khởi. Vóc dáng mà anh vừa tìm thấy, hay khuôn mặt vừa bắt gặp trong trí tưởng trừu tượng hay hiện thực mà anh cho là nghệ thuật. Ôi chao! Bao nhiêu là khổ cực và nhẫn nại mà kể.
    Nhà văn cũng vậy, khi đặt bút viết, anh ta phải suy nghĩ, ưu tư với đề tài mà mình sẽ viết ra. Văn thể, cốt truyện, bút pháp, sao cho câu văn chữ nghĩa lôi cuốn người đọc. Anh ta phải biết gieo hạt mầm sự sống vào tác phẩm thì nó mới thật, mới linh động, lúc đó người đọc mới khám phá ra được sự diệu kỳ của văn chương. Còn người làm thơ, đi tìm tứ thơ, đi tìm ngôn ngữ, nhạc tính cho thơ. Anh ta đi tìm cái gợi hứng, cái xúc động, nguồn cảm hứng để viết nên bài thơ, mong làm rung động lòng người, là người phải sống thực trước đã. Làm thơ mà thiếu cái cảm xúc thực của đời sống, thì không thể gọi được là một thi sĩ tài năng. Bài thơ mà không rung động được lòng người thì chỉ là một bài thơ vô hồn, một bài thơ vô hồn là một bài thơ chết. Nó chỉ là một cái xác chữ không hơn.
    Nghệ thuật viết văn, tính chất của sự thật dù là hư cấu trong tác phẩm tự nó đã nói lên giá trị cái phẩm hàm để cảm hóa và thuyết phục người đọc. Nghệ thuật phải vượt lên cao hơn lòng thù hận. Vì lòng thù hận chỉ là cái ngã tầm thường, nó làm giảm đi cái giá trị lớn lao của văn chương, của tác phẩm. Nó là mớ bòng bong để tuyên truyền. Nội lực tài năng và bản lãnh của nhà văn là ở chỗ đó. Tư cách là ở chỗ đó.
    Có không ít bài thơ mà chúng ta thấy, chữ nghĩa quá mầu mè ướt át, hay người làm thơ dùng chữ cầu kỳ giả tạo, cốt để làm dáng uyên bác rởm. Ý nghĩa thì vô hồn, tẻ hạt, không có tăm dáng của cảm xúc.
    Chúng ta nên nhớ, thơ không dựa và gối đầu lên thứ lý trí vô tri nhạt nhẽo, mà cái nôi của thơ là chiều rộng của cảm xúc và tư tưởng. Thơ dù là thơ Tự do, thơ Đường luật, thơ tiền chiến hay thơ Tân Hình thức (THT), thơ không thể nào là một chuỗi tự sự, kể lể dài dòng, thiếu ẩn dụ gợi mở.
    Thơ THT Việt thời gian gần đây sa đà vào một khuyết điểm lớn là: kể chuyện dài dòng, lê thê. Hơn thế nữa thơ THT lại câu nệ vào số chữ trong câu như 7 chữ hay 8 chữ, giống và rập khuôn thơ Tiền chiến, khiến người đọc và nhất là người làm thơ rất khó chịu, vì sự gò bó vào số chữ qui định trong mỗi câu thơ. Nó làm mất sự tự do lẫn cảm hứng khi làm thơ.
    Tuy nhiên thơ THT khác thơ vần Tiền chiến là: nó không lệ thuộc vào vần bằng trắc nên người ta còn gọi là thơ không vần. Là thơ không vần thì chỉ loại bỏ được việc gò bó vần điệu, khỏi phải đi tìm chữ để cho đúng vần khi đi tìm ý thơ để câu thơ không bị ảnh hưởng cảm hứng. Nhưng ngược lại, THT tự sự, kể lể như đã nói ở trên nên nó thiếu chất thơ, ít nhạc tính. Thơ THT giống như một đoản văn ngắn. Thiển nghĩ những người thích làm thơ THT Việt cần phải khắc phục để sự phát triển lâu dài và người thưởng ngoạn không bị nhàm chán.

    Nên chăng, người làm thơ THT nên loại bỏ một số chữ qui định mỗi câu thơ. Nghĩa là không ấn định số chữ qui định trong mỗi câu thơ, nhưng vẫn giữ cách xuống hàng đột ngột khi câu chưa hết ý. Chúng ta có thể hiểu như là cách làm thơ Tiền chiến phá thể?
    Những người thao thức cách tân thơ, làm mới thơ, đó là một cần thiết trong nghề thơ, trong nghệ thuật thơ. Chúng ta trân trọng những nhà thơ có tâm huyết đó. Sáng tạo có nghĩa là làm mới. Vì khi họ không làm mới được nữa, thì sáng tạo cũng không còn tiếp tục được. Lúc đó việc làm thơ cũng chỉ là một việc làm giống như loài trâu, bò nhai lại cái bã của mình và của người khác đã nhả ra.
    Còn nhớ hồi gặp nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lúc còn sinh tiền ở Sài Gòn, tôi hỏi. “Sao lúc này anh lại vẽ bộ bỏ viết nhạc rồi sao? “Anh trả lời.” Mình viết nhạc lúc này gặp bế tắc, nên quay sang vẽ một thời gian xem sao. “Cách trả lời đó là lòng tự trọng và khiêm nhường của một người nghệ sĩ lớn.
    Những năm sau này âm hưởng dòng nhạc họ Trịnh lan tràn khắp nơi, khiến nhiều người viết nhạc bắt chước, nhái theo âm giai, cung điệu âm nhạc của anh. Ngay cả những người đã có tiếng tăm. Họ quên rằng mỗi người sáng tạo, tác phẩm làm ra phải có một cá tính riêng thì mới được gọi là căn cước của người nghệ sĩ ấy. Người ta không ngạc nhiên khi thấy giới sáng tác âm nhạc Việt Nam đi thụt lùi so với giới nghệ sĩ biểu diễn.
    Nhưng làm mới nghệ thuật đến đâu? Làm mới đến chừng nào là do tài năng của người nghệ sĩ ấy thuyết phục thì việc làm mới đó mới có ý nghĩa.
    Trong ý nghĩa làm mới thơ, không phải cứ nghĩ ra được một thể thơ mới thì mới gọi là làm mới thơ, là Cách tân thơ. Không phải bất cứ lúc nào, hay bất cứ ai cũng có thể phát minh ra một thể thơ mới được, một trường phái mới được.

    Bất luận một thể thơ nào cũng có thể làm mới. Làm mới ở đây là làm mới ngôn ngữ, làm mới thi pháp, làm mới hình thức, làm mới nội dung, ý nghĩa bài thơ.v.v…

    Thơ vần
    Lâu nay tôi làm thơ Tự do mà không làm thơ vần. Không làm thơ vần, không có nghĩa là bỏ hẳn, là đành đoạn chia tay. Lâu lâu không làm, lắm khi cũng nhớ. Như nhớ một người con gái đã xa. Đến một lúc nào ngồi buồn một mình, suy nghĩ vẩn vơ lại mong có dịp gặp lại.
    Dẫu biết thơ vần như Lục bát, thơ 7 chữ hay 8 chữ Tiền chiến, nó giống như một cái hkhuôn bánh đã có sẵn. Cách làm thì giống như một thứ bột đã xay nhuyễn, nhồi bóp theo một loại công thức, rồi đổ vào khuôn, nó sẽ cho ta một loại bánh giống nhau. Tuy vật liệu có gia giảm để làm khác đi mùi vị, nhưng hình thức cái bánh thì cùng một loại. Để tránh đi nhàm chán, người làm thơ phải biết cách tân làm mới.
    Nói ngán thơ vần thì nói vậy. Nhưng tình cờ được đọc một bài thơ vần hay thì cũng rất là thú vị. Do vậy mà duyên nợ với thơ vần, không thể nào bỏ được. Lúc buồn tình cũng thỉnh thoảng ngâm nga đọc lại, rồi khi có hứng thì cũng bằng bằng trắc trắc, tìm chữ gieo vần. Thế là ta lại tình ý với nàng vui vẻ, mà bấy lâu nay ta đã ngoảnh mặt như một kẻ phụ tình. Cứ thế cuộc đời làm thơ của tôi luôn luôn “diễn biến một cách phức tạp“.
    Trong một bài tiểu luân về thơ trước đây tôi có viết rằng: Làm thơ Tự do. Thơ vần hay thơ THT, tùy theo thời gian hay nhu cầu cảm xúc của tâm hồn mà người làm thơ xử dụng một thể thơ nào cho phù hợp với tâm hồn cảm nhận vào thời gian lúc đó, chứ không nhất thiết là phải làm một thể thơ nào nhất định. Người làm thơ thường thay đổi tâm tánh, nghĩa là thay đổi cái tâm cảnh lúc làm thơ.
    Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền được coi như là nhà thơ Tự do. Ông là một trong những nhà thơ cách tân “cách mạng “nhất trong lịch sử thi ca Việt Nam. Nhưng đến khi vào tù ông lại quay sang làm thơ vần. Khi sang Mỹ ông mới cho in một tập thơ vần lấy tên là: Thơ Ở Đâu Xa, là như vậy chứ không phải là một lý do nào khác.
    Có lắm người suy luận theo ý mình và cho rằng ông làm thơ vần ở trong tù, mục đích là cho dễ nhớ, dễ thuộc! Hay là ông bỏ lối thơ Tự do hiện đại để quay trở lại với lối thơ cũ.

    Làm nghệ thuật khó hay dễ
    Có người hỏi tôi: Làm thơ có khó không? Tôi xin trả lời: Bất cứ là làm việc gì, nếu không biết thì đều khó cả, huống chi là làm nghệ thuật. Làm thơ là làm nghệ thuật. Vẽ tranh là làm nghệ thuật. Viết nhạc là làm nghệ thuật. Nhưng làm nghệ thuật phải cho ra là làm nghệ thuật, nghĩa là phải vẽ cho đẹp, viết cho hay. Làm nghệ thuật như thế thì khó. Rất khó. Còn nếu làm dở, thì dễ ẹc. Vì nó đâu phải là nghệ thuật!
    Thế nào là thơ dở? Thơ dở trước tiên là một bài thơ không có hồn. Đọc lên không gây được cảm xúc. Nó bắt chước, rập khuôn, vần vè. Thứ thơ ghép chữ dễ dãi. Nó chắp vá những từ ngữ sáo mòn cũ rích với nhau sao cho có vần để người nghe được xuôi tai, câu trên khớp với câu dưới về bằng trắc, mà không cần một cảm xúc nào, một ý tưởng nào.
    Còn thế nào là một bài thơ hay thì cũng khó nói, nó tùy cảm nhận nơi người đọc. Nhưng theo tôi, trước hết muốn làm được một bài thơ hay thì bài thơ đó phải đánh động được lòng người. Khi mình đọc bài thơ đó lên, bài thơ phải gây được xúc dộng, xúc động trong cảm xúc, vì người làm thơ có nhận được cảm xúc thì khi viết ra mới làm xúc động lòng người. Đánh đánh động trái tim người thưởng ngoạn. Nói tóm lại người thi sĩ càng nhận được nhiều cảm xúc nghĩa là họ đặt cả tâm hồn mình vào được bài thơ, thì người đọc càng xúc động. Thế là một bài thơ có thể gọi được là hay. Tuy nhiên để gây được xúc động lòng người, nó còn phải hội đủ nhiều điều kiện khác như, ý tưởng, ngôn ngữ, thi pháp, lý luận.v.v… Nói chung, muốn làm được một bài thơ hay, thì người thi sĩ phải có năng khiếu, tài năng và nghiêm túc trong cách làm. Nghĩa là anh ta không được phép dễ dãi với chính mình. Không được theo đuôi hay bắt chước phong trào nhất thời của quần chúng.
    Sự dễ dãi làm thơ ở đây là cái hời hợt, cái lười biếng trong suy nghĩ của một người làm nghệ thuật thiếu tài năng, một người nghệ sĩ không chịu học hỏi. Đã là người nghệ sĩ tài năng, thì người nghệ sĩ đó phải chịu khó học hỏi suốt đời. Có học hỏi thì mới có sáng tạo. Sáng tạo ở đây là sáng tạo nên cái mới, cái tự mình nghĩ ra, tự mình làm ra, không giống những cái đã có, của những người đi trước. Nói như thế, không phải là chúng ta gạt bỏ không biết trân quí, gìn giữ những kinh nghiệm quí giá mà người xưa để lại.
    Cái nguồn cảm hứng của một người có tài năng, là họ biết học tập cái ý tưởng của những danh nhân bằng cách đọc sách hay nghiên cứu tìm tòi nghệ thuật trong thiên nhiên vũ trụ. Trong cái khuôn mẫu Thượng đế ưu ái dành cho con người, mà kinh nhà Phật gọi là Tứ diệu đế: Gió – Lửa – Nước – Đất đã có sẵn, như đã nói ở trên. Có như thế thì ta mới hiểu được sự mầu nhiệm của nghệ thuật. Nó là phần cứu cánh của tâm linh con người. Đó cũng là ý nghĩa sống của người văn nghệ sĩ trong các môn nghệ thuật.
    Nghệ thuật còn là sự nhạy bén và chắt lọc những suy tưởng triết lý và văn học trong đó: nghệ thuật nghe, nghệ thuật nhìn và nghệ thuật ẩm thực. Tất cả đều là một thứ nghệ thuật sống. Đó là văn học, là linh hồn của loài người. Thứ tinh thần không thể thiếu, và tốt đẹp không gì sánh nổi.
    Trong các loại hình nghệ thuật, thi ca là vị vua, là vương giả của các loại hình nghệ thuật. Vì thi ca là linh hồn cái đẹp của những cái đẹp. Nó là tiếng nói của ngợi ca. Chỉ có con người mới nhận thức được thi ca và biết dùng thi ca để ca ngợi sự vật, ca ngợi con người. Sự thanh khiết đó làm chuyển hóa vũ trụ và nó cũng dùng để làm thăng hoa con người. Trong muôn vàn cái đẹp của sự thăng hoa, thì Mỹ nhân là sự tột cùng trong hết thảy cái đẹp đê thi ca ngợi khen.
    Ở đây chúng ta đang thảo luận về nghệ thuật thi ca. Về một người làm thơ và cái khó hay dễ trong việc làm thơ. Cái đề tài về thơ thì thật là đa dạng, thú vị và được nhiều nhà phê bình nói đến. Vì ở nước ta rất nhiều người thích làm thơ, nhưng lại rất ít người am hiểu về thơ, họ coi thơ chỉ là thứ gì dễ tiêu khiển, là một nghệ thuật dân gian tầm thường. Những người ít học những nông dân hay ngay cả đứa trẻ chăn trâu chăn bò, cũng có thể biết làm thơ, dù chỉ là vọc vạch vần vè. Nhưng để phân biệt được thơ hay vần vè thì họ lại không phân biệt được. Nghĩa là họ làm thơ theo một thứ quán tính nào đó đã có từ thủa ấu thơ.
    Trong văn học Việt Nam, những nhà thơ có thực tài để chọn lọc ra được những bài thơ hay thì không nhiều so với số lượng người làm thơ rất đông.
    Làm được thơ hay để được công nhận là một nhà thơ, không phải người làm thơ nào cũng có thể đạt được. Trước hết vị đó phải là một người có năng khiếu bẩm sinh, phải là người có học vấn, có kiến thức rộng, là người có tâm cơ, có tấm lòng nhân ái đối với tha nhân và sau hết phải là người yêu thơ, đến sống chết với thơ trong mọi hoàn cảnh. Thì đó mới gọi được là một nhà thơ có thực tài. Xứng đáng được người đời tôn vinh là thi sĩ.

    Sáng tạo và nghệ thuật
    Sáng tạo là tự mình nghĩ ra, tự mình làm ra, như đã dẫn ở trên. Đó là những người làm nghệ thuật.
    Người sáng tạo thơ nhìn sự vật bằng trực giác, bằng sự đơn sơ tự nhiên như những bông hoa, đến độ thì nở ra, như khói sương u trầm đỉnh núi. Nó tự nhiên như nhiên, giống nụ cười của bé thơ. Người sáng tạo không biết lý luận và giải thích bằng lý trí khi anh ta, chị ta đang sáng tác. Lúc mà họ chỉ còn nỗi đam mê tột cùng, say đắm tột cùng. Nhà thơ lúc đó chỉ biết viết ra những gì vừa nảy sinh, trong phút giây linh diệu. Nỗi ngẫu hứng tuôn trào cuồn cuộn thác đổ, như một làn khói xanh, bềnh bồng như áng mây đang bay lượn vô tận trên trời. Những câu thơ, chữ nghĩa tượng hình trong tâm hồn người thi sĩ lúc đó hầu như bất diệt. Nó hiện ra, tuôn ra, tuôn trào khí phách không sao kìm giữ được. Lúc đó không có luật tắc, không có lý luận, chỉ có nỗi cô đơn thăm thẳm trong phút giây linh hiện ở trạng thái ngây ngất, say mê, dồn dập và ngông cuồng. Bởi chàng đang được uống một thứ rượu hạnh phúc tuyệt vời, không gì sánh được của trần gian.
    Người làm thơ trực nhận sự vật, nên thở ra cái vừa lĩnh hội đã trực nhận. Cái mơ hồ lãng đãng kết nên một chữ, một câu, một đoạn. Trong khoảng không trừu tượng, nhiều khi lại đầy ắp tất cả. Nó chỉ muốn trào ra, phọt ra, chỉ muốn ban phát thứ gì đẹp nhất, thơ mộng nhất cho người vừa thụ nhận sự kết tụ, để họ viết ra cái nóng hổi từ con chữ được nâng nưu trân quí, mà thi sĩ gọi là thơ. Phút trừu tượng ấy hiện ra ở trong đầu rồi tỏa ra bát ngát ở trước mặt, ở chung quanh. Nó là một thực tại để sống, để bay lượn hiện hình. Nó đã trở nên một hiện thực sự thật, không còn là những hiện tượng vô hình. Nó là nguyên nhân làm nên người thi sĩ lúc bấy giờ, chứ tuyệt nhiên con người không thể nào làm nên hay tạo dựng nên thi sĩ. Cái thơ mộng không thể nào làm nên bằng lý trí được. Mà thơ mộng lại là cái chất của thi sĩ. Bởi tâm hồn của hắn được nuôi dưỡng bằng mật ong tình yêu. Bằng cỏ cây hoa lá, núi rừng và biển hồ, bằng khung trời lồng lộng. Và hơn thế nữa bằng sự tự do tuyệt đối! Tâm hồn ấy cũng được tạo thành bằng những âm thanh, bằng tiếng chim ca, tiếng suối reo, được hòa nhập vào cái đẹp của đất trời. Do vậy mà thi ca đã trở thành nghệ thuật làm đẹp cuộc đời. Chả thế mà nhà văn Dostoiepki của Liên Xô đã nói: “Cái đẹp cứu chuộc thế giới “.
    Những câu thơ hay đã làm rung động lòng người, mà người thi sĩ là tác nhân làm cho thiên nhiên có nhiều sức sống hơn, sinh động hơn và đẹp đẽ hơn. Một đặc điểm nữa trong việc làm thơ là sự nhìn thấy. Nhìn thấy những gì ẩn náu trong sự vật, làm cho sự vật hiện hữu hơn, hiện thực hơn, bát ngát hơn trong cõi thường hằng của sự suy tưởng. Nó tạo nên sự rung động sự vật cả ngoài hiện thể. Những câu thơ do vậy mà người xưa thường xuất khẩu thành chương, trong lúc cao hứng ngâm vịnh. Cái nhìn xuyên suốt không phải lúc nào cũng được xuất hiện. Nó chỉ ban phát cho người có một tâm hồn lớn lao, cho người có thực tài soi rọi những tâm lực yêu thương vào trong cuộc sống.
    Làm thơ cũng giống như yêu. Trong lòng cảm thấy thiết tha mãi, bâng khuâng mãi. Lúc nào tứ thơ cũng hiện hình như nhìn thấy người mình yêu ở trong sâu thẳm nhất, mênh mông nhất, dù người yêu ở nơi chốn nào không hiện diện. Ngay cả khi nhà thơ đang ngủ, hình ảnh cũng hiện về mê say. Tình yêu có khác chăng chỉ là sự nhớ thương. Vậy thì. Tình yêu là sự nhớ thương. Bởi hai người yêu nhau lúc nào họ cũng chỉ muốn sống bên cạnh người mình yêu, cho bớt nhớ thương! Nên xúc động của những người yêu nhau và thi sĩ thì cùng một tầng số.


    Làm thơ và tim hiểu thơ
    Hiểu về thơ đã, rồi mới làm thơ, hay làm thơ rồi mới tìm hiểu về thơ?
    Thường thì người ta làm thơ rồi mới tìm hiểu về thơ, đó là phần đông ở Việt Nam chúng ta. Nó không giống những nước phương Tây khác là, họ tìm hiểu về thơ rồi, biết thơ là gì rồi, họ mới làm thơ. Nghĩa là họ phải được học thi ca (poestry) ở trường lớp trước khi họ cầm bút làm thơ. Do vậy thường những nhà thơ của họ là những người có học thức uyên bác, có năng khiếu, là những người có tài năng thực sự. Ngay cả những vị vua chúa thời xa xưa cũng rất trọng vọng nhà thơ, thi sĩ tài năng được mời vào cung đình để đọc thơ cho vua chúa và các quan chức nghe Thời nay nhà thơ ở phương Tây vẫn còn được mọi người kính trọng. Thơ được mọi thức giả xem ngang hàng với Kinh Thánh. Được đọc vào những ngày lễ trọng đại của Quốc gia.
    Làm thơ rồi mới tìm hiểu về thơ. Chẳng là chúng ta nghe ca dao từ hồi nằm nôi. Bà ru, mẹ ru, chị ru. Thứ âm nhạc vần điệu nhịp nhàng, êm như gió thoảng, “ngọt như đường cát mát như đường phèn “, thấm nhuần trong dòng nước thánh tuổi thơ. Chả thế mà nó làm dịu đi niềm đau ngay lúc đứa trẻ mới chào đời. Lúc mà mẹ đi chợ xa chưa về kịp, lúc mà mẹ còn đang nhọc nhằn tỉa bắp trồng khoai ngoài đồng ruộng chưa về, lúc mẹ còn phải tảo tần buôn bán ngoài chợ. Niềm đau bé thơ là đói khát, hay khi trái gió trở trời. Những trận ban nóng ngút trời mà mẹ không biết làm sao để dỗ dành cho con nín, con ngủ, lúc đó thì câu ca dao của mẹ, của chị cất lên theo tiếng à ơi, vỗ về tâm hồn non nớt của con, của em. Và thế là thơ đã đưa con, đưa em đi vào giấc ngủ, vào cõi mộng mơ đầu đời. Thơ ca dao lúc đó là một phép lạ nhiệm mầu đi vào tiềm thức tuổi thơ, vỗ về tinh thần con trẻ, dỗ cho con trẻ khỏi khóc, dỗ cho con cười. Ca dao thần tiên hòa vào dòng sữa ngọt từ lúc con người vừa lọt lòng mẹ.
    Và như thế, ca dao, câu hò ở nông thôn đã là bản sắc cho con người Việt Nam ngay từ thủa sơ sinh cho đến khi khôn lớn. Lúc biết đọc biết viết thì cái hồn thơ nó đã nằm sẵn nơi tình cảm con người, nó mai phục một cách tự nhiên, một cách không có ý thức nơi con người. Vậy những câu ca dao đầu đời là gì? Đó là những dòng thơ lục bát, những câu thơ lấy trong kinh nghiệm đời sống nghệ thuật dân gian thường ngày. Cái đời sống ấy thế mà nó có tác dụng giáo dục con người, bởi thời xa xưa hay cận đại, mấy gia đình nghèo có tiền cho con đến trường đi học. Phải là những gia đình giàu có hay con nhà khá giả mới có tiền cho con đến thày Đồ học lấy dăm ba chữ Thánh hiền. Đa số những con nhà dân giả chỉ biết dạy con học đạo làm người bằng lời khuyên, bằng gương sáng của người xưa và bằng ca dao tục ngữ, bằng câu hát, câu hò .
    Những câu ca dao như: Công cha như núi Thái sơn – Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Hay, Có công mài sắt có ngày nên kim. Hay, Không thày đố mày làm nên.v.v… không biết có từ bao giờ. Có lẽ nó nó được lưu truyền từ lâu lắm. Nó có từ hàng ngàn năm rồi cũng nên. Cho nên người có học hay người không có học cũng biết thế nào là ca dao, tục ngữ và nôm na họ gọi đó là thơ. Đến khi có dịp ngẫu hứng, hay lúc “tức cảnh sinh tình”, thì người có năng khiếu, cứ theo vần bằng trắc mà làm thơ. Lúc đầu thì vò vẽ bằng trắc sao cho ăn khớp với nhau nhịp nhàng. Cứ câu trên bằng thì câu dưới trắc, theo mẫu ca dao đã có sẵn, chẳng cần biết thế nào là niêm luật. Còn hiểu thế nào là một bài thơ thất ngôn, ngũ ngôn hay lục bát thì rồi dần dà sẽ biết sau. Do vậy số rất đông người Việt Nam làm thơ vì đã được thấm nhuần ca dao mẹ từ trong máu thịt.

    Thơ tình
    Những người mới bắt đầu học làm thơ, thường thì họ hay làm thơ tình. Có phải làm thơ tình dễ làm không? Có thể. Khi đến tuổi dậy thì, trai gái yêu nhau muốn tỏ tình, ai mà không e thẹn run rẩy khi gặp cái người mà mình để ý, cái người làm mình sợ hãi. Cái người lỡ làm mình thương trộm nhớ thầm. Nhưng biết thố lộ cùng ai? Thôi thì ta làm ít câu thơ cho đỡ sầu “vạn cổ “rồi lén đem trao nàng vậy! Nếu sợ quá không biết nhờ cậy ai hay không dám đưa trao, thì đành bạo gan đánh liều chứ biết làm sao, thôi thì ta lén bỏ trộm bài thơ vào cặp của nàng lúc giờ nàng ra chơi!
    Tình yêu là mục đích và cứu cánh của con người đi vào đời sống. Vậy thì tình yêu là ý nghĩa của cuộc sống. Là nhu cầu cần thiết mà ai cũng phải khát khao. Một nhu cầu tâm linh cần được nuôi dưỡng để vượt thoát đớn đau tìm về cội nguồn hạnh phúc. Nó đương nhiên lớn lên theo sự phát triển thể chất và tinh thần, bởi nó muốn vượt thoát cô đơn, nó muốn được ve vuốt, mơn trớn không những của người thân yêu cốt nhục của mình, mà của cả tha nhân đồng loại. Đến một lúc nào đó, một phút giây nào đó nó muốn yêu thương và muốn được yêu thương. Tình yêu đến với con người ngay trước khi con người ý thức được về tình yêu. Nó đương nhiên như một nhu cầu sinh lý của đời sống.
    Cái sinh linh khi còn nằm trong bụng mẹ, lớn dần lên với tình mẫu tử cho đến khi nó ra đời, cái nhu cầu yêu thương ấy đã được ôm ấp nâng niu và được bảo vệ không ai có thể tách rời được tình yêu thương mẹ con. Cho đến tuổi thành niên, tình thương từ cha mẹ, anh em, chuyển sang một thứ tình yêu thương khác là tình yêu trai gái. Thế là những vần thơ khóc gió thương mây thành hình. Lúc đó đôi mắt của họ dõi theo một bóng hình nào mà họ thấy bâng khuâng, rung động rôi tương tư không phút nào nguôi. Những vần thơ tương tư đó bật ra, bởi một con tim đau khổ và sung sướng. Thơ bắt đầu đến với người muốn làm thơ từ đó.

    Thơ và đạo
    Tiến trình diễn tiến theo thời gian, người làm thơ bắt đầu làm thơ tình, nay đã có nhiều suy tư hơn, nhiều niềm đau hơn và nhiều kinh nghiệm hơn, tự nó dần chuyển sang một trạng thái suy tư về cuộc sống, về kiếp nhân sinh. Cái đòi hỏi đương nhiên của con người, đi từ tình yêu trai gái, tình thương ruột thịt tới một đời sống trọn vẹn hơn đó là một nhu cầu. Và bên kia cái đời sống đang cần, đi tìm câu trả lời và lý giải là một mong muốn cấp bách, bao la như một bầu trời. Con người cứ thắc mắc, cứ ưu tư, cứ đòi hỏi, mà nhu cầu trả lời về kiếp nhân sinh, cái kiếp cụ thể mà mình đang sống, thì không sao thỏa mãn được. Rất giới hạn. Con người càng lý giải và càng tìm cách trả lời thì những thắc mắc, những vấn nạn càng gia tăng. Càng lúc câu hỏi càng hóc búa, cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay cũng không thể trả lời thỏa đáng được. Vậy thì chỉ có thi ca chỉ có thơ, may ra mới giải quyết được phần nào cái vấn nạn, cái lý giải của sự tồn sinh của con người, mà mọi triết lý, mọi tư tưởng, văn chương, các loại hình nghệ thuật, hay khoa học trên trần gian này, xem ra bất lực! Tựu trung chỉ còn lại là một nguồn rung động là Thơ và Đạo (đạo lý làm người). Tiếng hát bâng khuâng của ngàn năm với thiên nhiên mưa nắng làm hạnh phúc cho đời sống tâm linh con người.

    Kết luận
    Thơ bắt đầu tri kỷ với con người như thế và kết thúc với tri kỷcủa nó là như thế. Cái học của người làm thơ, hay cái học vấn của con người nói chung. Cái cốt lõi không hẳn là tri thức, là kiến thức mà là cái đạo lý làm người.
    Cái đạo lý làm người mới xem qua thì thấy dễ học hơn là cái kiến thức chuyên môn về kỹ thuật của ngành học. Vì muốn nhận được sự hiểu biết có tri thức thì phải đến trường, đến lớp để học tập. Phải có điều kiện về tài chánh tiền bạc, sức khỏe.
    Còn cái đạo lý học làm người thì ai cũng có thể học được, không cần phải đến trường lớp. Nhưng để tiếp thu được cái đạo đức làm người đó. Thì lại rất là khó khăn. Nhiều người học hành đã thành đạt, làm ông nọ bà kia, tiền bạc dư giả, giầu có. Nhưng cái đạo lý làm người. Học không cần phải tốn tiền, thì chưa học được. Có khi đến hết đời, người đó vẫn trơ tráo làm một kẻ bất nhân!
    Cái loại bất nhân có học thức lại còn gây nguy hiểm hơn loại bất nhân không có học. Suy cho cùng, cái đạo lý làm người cũng xuất phát từ lòng yêu thương con người mà ra. Nếu không có tình yêu thương thì sẽ không nẩy mầm ra được đạo lý, sẽ không hiểu được cách làm một con người cho ra một con người, sẽ không hiểu được sự cao quí của con người hơn những sinh vật nào khác.
    Cách thể hiện lương tri đành rằng là do sự giáo dục, là do được giáo dục. Nhưng cái đạo lý và kiến thức phải đi song hành thì mới trọn vẹn. Bằng không thì cách chọn lựa, làm một con người có đạo đức vẫn xứng đáng hơn, làm người hơn, là làm một người có bằng cấp, có học vấn mà không có đạo đức. Vì đạo đức làm người là một hành vi của một tinh thần cao thượng. Đời sống vật chất ta có, nó phải gắn liền với đời sống tinh thần cao cả, thì mới gọi được là một đời sống con người đầy đủ. Đời sống đầy đủ vật chất và tinh thần là một là như vậy.

    Thơ và đạo bao gồm là nghệ thuật. Nghệ thuật hay cái đẹp CHUYỂN HÓA Thế Giới./.



    Nguồn : © Đàn Chim Việt
    http://www.danchimviet.info/archives/31083


  9. #9
    Avatar của TRẦN THỊ THANH LIÊM
    Điều Hành Viên Chính - Tr.Ban Đại Diện KVMB
    Hiện Đang :    TRẦN THỊ THANH LIÊM đang ẩn
    Tham gia ngày : May 2011
    Đến từ : Đại học Đại Nam Hà Nội

    Tuổi: 73
    Bài gửi : 3.829
    Thanks
    63.211
    Thanked 39.164 Times in 3.821 Posts
    Blog Entries
    6
    Rất cảm ơn tiền bối nhà thơ Trần Vi Thông về những bài nghiên cứu rất hay & bổ ích ở trên. M học làm bài thơ nhỏ sau rất mong dc H & quý thi hữu chỉ giáo. Trân trọng!

    HỌC LÀM THƠ

    Ban đầu tôi học thơ lục bát,
    Sau học Đường thi thật kỳ công.
    Nào là niêm, luật, vần, bằng, trắc,…
    Học mãi kết quả vẫn bằng không.

    Đường thi kim cổ gom triết lý,
    Lục bát dân gian điểm nét thiền.
    Tầm sư học đạo lòng ham muốn,
    Trải rộng chiếu thơ tới mọi miền.

    Luận về thi phú dăm bảy loại…
    Tôi chung tình lục bát, Đường thi.
    Niêm luật trắc bằng chưa tường tận,
    Tiền bối ơi xin chỉ giáo đi.

    Trần Thị Thanh Liêm
    Web: tiengtrungdainam.com
    Lần sửa cuối bởi TRẦN THỊ THANH LIÊM; 19-07-2011 lúc 01:34 AM


  10. #10
    Avatar của Tran Xuan Sinh
    Bạn Tri Kỷ
    Hiện Đang :    Tran Xuan Sinh đang ẩn
    Tham gia ngày : Oct 2012

    Tuổi: 78
    Bài gửi : 10.801
    Thanks
    51.743
    Thanked 56.645 Times in 10.887 Posts
    Blog Entries
    3
    Cảm ơn gửi Bác Trần Vi Thông
    Chỉ giúp anh em, cả tấm lòng
    Tứ đế diệu kỳ, tâm thanh thản
    Cuộc đời sắc sắc lại không không.

    Trần Xuân Sinh
    Lần sửa cuối bởi Tran Xuan Sinh; 12-11-2012 lúc 10:51 AM


+ Trả lời chủ đề
Trang 1/2 1 2 CuốiCuối

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình