+ Trả lời chủ đề
Trang 2/36 ĐầuĐầu 1 2 3 4 12 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 11 tới 20 của 355

Chủ đề: TẢN MẠN chuyện VÕ LÂM

  1. #11
    Banned
    Hiện Đang :    Hansy đang ẩn
    Tham gia ngày : Jan 2012

    Bài gửi : 0
    Thanks
    5.759
    Thanked 6.595 Times in 1.818 Posts
    5.
    ĐỊCH VÂN
    Kẻ lữ hành cô độc



    Chịu đựng sự khổ đau, trong tâm hồn lẫn thân xác, là điều chúng ta không thể nào tránh khỏi giữa cõi đời. Nhưng nếu thân tâm đều mang bệnh mà được sống trong sự thương yêu và thông cảm của người thân thì con người vẫn tìm thấy được niềm an ủi. Điều đó sẽ giúp họ chịu đựng để chiến đấu và chiến thắng. Điều kinh khủng nhất là thân xác bị tàn phế, lại phải chịu đựng nhiều nỗi oan ức không thể biện bạch, bị vu hãm vào chốn lao tù, người thân nghi ngờ, xã hội khinh bỉ, không bạn bè, không người thân thích, không nhà không cửa, trơ trọi một mình.

    Đó là cảnh ngộ thê thảm của Địch Vân trong Liên thành quyết.

    Kim Dung quả đã có một bước đi táo bạo khi xây dựng nhân vật Địch Vân. Đó là một anh nông dân khù khờ chân chất, cục mịch thô lỗ, phải chịu bao thảm cảnh trần gian, hòan toàn không có một chút ưu điểm gì để người đọc có thể trông đợi từ “người hùng” trong tiểu thuyết võ hiệp, cho dẫu là bản chất quỷ quyệt lưu manh của một Vi Tiểu Bảo!

    Đó thực sự là hình ảnh thuần túy của một “Hai Lúa võ lâm”.

    Địch Vân mồ côi từ bé, được sư phụ là Thích Trường Phát nuôi dưỡng. Anh chàng nông dân khù khờ này sống hồn nhiên bên cạnh một cô sư muội xinh đẹp Thích Phương. Cuộc sống êm ả trôi bên bờ tre đồng lúa, nếu như không có chuyện một ngày kia Địch Vân phải theo sư phụ và sư muội đến thăm sư bá Vạn Chấn Sơn, một đại gia chốn kinh sư.

    Từ đó, thảm họa liên tục đổ xuống đời anh ta.

    Chốn phồn hoa đô hội vẫn luôn tiềm ẩn vô vàn hiểm họa đối với biết bao con người chân chất một lần bước ra khỏi lũy tre xanh. Nếu như cô thôn nữ của Nguyễn Bính: “Hôm qua em đi tỉnh về. Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều”, thì Thích Phương lại khác, cô vẫn hồn nhiên chân chất, nhưng lại là nguyên nhân gây thảm họa cho sư huynh mình.

    Làm một anh nông dân cục mịch xấu xí lại dẫn một cô sư muội xinh đẹp thuở thanh mai trúc mã vào chốn kinh đô, thì có khác gì một đứa trẻ cầm vàng ròng đi vào giữa chợ. Không bị đánh cắp ắt sẽ bị trấn lột. Cũng không thể trách được cuộc đời. Cái cảnh cô thôn nữ xinh như đóa hoa đồng nội cứ xoắn tít bên anh “Hai Lúa” đã gây chướng mắt cho nhóm để tử của Vạn Chấn Sơn. Khi thấy một cô gái xinh đẹp sánh đôi với một anh chàng cục mịch, trong thâm tâm mọi người lại thấy uổng phí (!).

    Đó là một suy nghĩ rất đỗi quái dị nhưng lại được xem là bình thường ở con người. Sao lại “uổng” nếu như họ thực sự tìm ra “một nửa” của nhau? Làm như chỉ có những kẻ lắm tiền nhiều của và có thế lực mới “xứng đáng” với các cô gái đẹp kia.

    Đó cũng là suy nghĩ của gia đình Vạn Chấn Sơn. Sau khi ám toán Thích Trường Phát, bọn chúng bày ra một màn kịch vu cáo cho Địch Vân tội hiếp dâm và ăn cắp. Chú cừu non sụp bẫy một cách dễ dàng, bởi lẽ tâm hồn chất phát của anh ta không bao giờ hình dung nỗi trên đời lại có người tìm cách hãm hại nhau!

    Địch Vân bị chặt một bàn tay để “cảnh cáo” và bị tống giam vào nhà lao. Chưa hết bàng hoàng thì anh ta lại thường xuyên bị một bạn tù tên Đinh Điển vô cớ đánh đập tàn nhẫn. Đúng là bỗng dưng gánh chịu thảm cảnh bởi hồng nhan.

    Không hiểu tự bao giờ, trên trái đất này, từ đông sang tây, nhân loại bỗng dưng đồng loạt thi nhau lên án phụ nữ, xem như đó là nguồn gốc của mọi tai ương. Ở Hy Lạp, là câu chuyện về cái hộp Pandora(*). Trong Kinh Thánh là chuyện bà Eva. Ở Trung Quốc là quan niệm “hồng nhan họa thủy” (đàn bà đem lại tai họa như nước làm chìm đắm con người)! Có “đức” để có người đẹp, nhưng không có “tài” để giữ người đẹp đến nỗi phải mang họa vào thân. Người phương đông quả là khắt khe với khách má hồng.

    Nguyễn Du có câu thơ vịnh Dương Quý Phi chan chứa sự cảm thông:

    Tự thị cử triều không lập trượng
    Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành.

    (Do cả triều đình đều đứng như phỗng.
    Ngàn năm nhan sắc chịu oan khiên)

    Đó là sự cảm thông của một tâm hồn lớn đối với một dung nhan khuynh quốc.


    Dù sống trong cảnh đọa đày, Địch Vân vẫn tin rằng vị sư muội mình sẽ hiểu và cảm thông. Niềm hy vọng lớn của “cái hộp Pandora” dù hư ảo đi nữa thì vẫn có tác dụng giúp con người chịu đựng trong cảnh khổ đau. Cho đến khi nhận được bánh cưới của Thích Phương với con trai Vạn Chấn Sơn thì Địch Vân mới thực sự tuyệt vọng.

    Dường như Shakespreare có nói: “Kẻ đau khổ nhất là kẻ hạnh phúc nhất, bởi vì trên đời này không còn gì có thể làm cho y đau khổ nữa”. Nhưng đó chỉ có thể là cách nhìn của những bậc đạt ngộ hiểu thấu chân tướng của trần gian,còn đối với hầu hết những ai mang bản chất yếu đuối của con người, khi cuộc sống là cơn bệnh nan y vô phương cứu chữa thì cái chết vẫn là vị lương y đem lại liều thuốc giải thoát tốt nhất!

    Địch Vân cũng vậy, trong cơn khốn quẫn, anh ta đã tự tử, nhưng Đinh Điển đã cứu thoát vì nhận ra được bản chất chân thật của Địch Vân. Cũng chính nhờ Đinh Điển mà Địch Vân hiểu ra âm mưu của Vạn Chấn Sơn và mặt trái nhan hiểm của Thích Trường Phát, vị sư phụ mà anh hằng tôn kính.

    Cuộc sống với “lắm nỗi lạ lùng khắt khe” bắt đầu mở ra trước mắt anh ta những hang hố đen ngòm, khác biết bao với cảnh đời êm đềm bình dị với làng quê, đồng lúa ngày xưa.

    Đinh Điển bị ám toán chết sau khi cùng Địch Vân vượt ngục. Cái chết của người thân cuối cùng trên cõi đời, mà anh ta coi như kim chỉ nam của đời mình, đã khiến cho Địch Vân thực sự mất tất cả, hoàn toàn không còn một điểm tựa nào, “sans everything” (Shakespeare – As You Like It, II, Scence VII, 165)

    Ôm xác Đinh Điển đi trốn, Địch Vân lại rơi vào tay tên ác tăng Bảo Trượng của Huyết Đao môn – một tông phái Tây Tạng bị giang hồ nguyền rủa vì những hành vi tàn ác và đồi bại. Bảo Trượng chết, anh mặc áo choàng của Bảo Trượng để che thân thì bị nhận lầm là tên “tiểu dâm tăng”. Lúc sắp bị đánh chết thì chưởng môn phái Huyết Đao là Huyết Đao lão tổ, lại tưởng anh ta môn đồ của bản phái, cứu thoát và bắt cóc luôn cô nàng Thủy Sinh xinh đẹp của nhóm Linh Kiếm song hiệp đem đi.

    Đi theo Huyết Đao lão tổ thì mặc nhiên xác nhận mình là môn đồ của Huyết Đao môn, còn ở lại thì bị giết chết. Bản năng sinh tồn vẫn thắng, nên Địch Vân đi theo Huyết Đao lão tổ. Thế là tự nhiên Địch Vân trở thành một tên “tiểu dâm tăng” mà không còn cách gì biện bạch được.

    Đôi khi, chúng ta cũng gặp những hoàn cảnh ngộ nhận trớ trêu như thế trong đời. Mở miệng giải bày thì không được, mà để trong lòng lại ray rức khổ đau. Nên đôi khi cứ phó mặc cho dòng đời, để thời gian đem lại lời giải đáp.

    Nhưng gẫm ra thì đối với Địch Vân sự ngộ nhận của những người lạ kia nào có nghĩa lý gì so với sự ngộ nhận của Thích Phương? Người ta ngộ nhận ta, ta chỉ tức tối bực mình; còn người thân ngộ nhận mới là nỗi khổ.

    Khi cùng Huyết Đao lão tổ và Thủy Sinh bị bao vây trong núi tuyết, Địch Vân lại càng mất niềm tin vào cuộc sống khi chứng kiến sự đê hèn của Hoa Thiết Can. Một kẻ mang thân phận danh sĩ trên giang hồ, đứng hàng thứ hai trong nhóm “Lục Hoa Lưu Thủy” được nhiều người ngưỡng mộ, vậy mà khi đối diện với cái chết lại bộc lộ hết bản chất thô bỉ của một nhân vật đầy danh vọng.

    Kim Dung vẫn thường có những khám phá bất ngờ khi mở ra, trong những ngóc ngách u tối của chiều sâu tâm lý nhân vật, những điều mà ta chỉ thường gặp khi đọc Dostoieski hoặc Shakespeare.

    Càng ngày, Thủy Sinh lại phát hiện tên “tiểu dâm tăng” cục mịch kia là một người thuần hậu, còn Hoa Thiết Can - người anh kết nghĩa của cha nàng – chỉ là một kẻ bỉ ổi táng tận lương tâm.

    Khi tuyết tan, Hoa Thiết Can đã nhanh chóng dẫn quần hùng vào hang đá tìm giết hai kẻ “gian phu dâm phụ” kia, hòng che giấu những việc làm ti bỉ của mình. Y đã đánh một đòn tâm lý sâu sắc là bịa đặt những điều nhơ bẩn để vu cáo Thủy Sinh trước khi nàng kịp mở miệng.

    Khi người ta đã có định kiến về một người rồi thì tiếng nói của người ấy sẽ không còn giá trị nữa. Đây cũng là một chiến thuật mà các luật sư trong Dostoievski hay dùng để “khóa miệng” các nhân chứng trước tòa.

    Ai còn thèm nghe anh nữa khi nhân cách anh đã “có vấn đề”?

    Tên lưu manh Hoa Thiết Can trở thành người hùng. Thủy Sinh lại bị mọi người khinh bỉ, người yêu ngờ vực. Thị phi trong cuộc sống lắm khi bị đảo lộn, trắng đen bị đánh tráo mà con người, do ngu dốt hoặc bị bưng bít, vẫn cứ vô tình chấp nhận.

    Khi quay về nhà, Địch Vân lại có dịp hiểu thêm bao sự thật phủ phàng nữa về sư phụ và các vị sư bá. Cả ba đều là những tên học trò tham lam bất nghĩa, vì hám lợi đã âm mưu giết thầy để đoạt Liên thành quyết. Anh muốn giết Vạn Khuê để trả thù nhưng không nỡ. Thích Phương lại bị Vạn Khuê giết chết, bỏ lại cô bé Không Tâm Thái. Địch Vân càng kinh hoàng hơn khi chứng kiến cảnh từ khách giang hồ đến tri thức, từ bọn phú hào đến quan lại đều điên cuống cấu xé, chém giết nhau để tranh giành pho tượng Phật bằng vàng.

    Thich Trường Phát ám toán Địch Vân nhưng không thành, vì y không tin rằng trên cõi đời lại có người không cuồng điên vì châu báu, để rồi y cũng chết theo những người khác vì chất độc trong pho tượng Phật. Vàng và Máu. Ở cái thế giới điên đảo này thì hai từ đó sẽ mãi mãi đi chung.

    Sống trong một xã hội mà tri thức thì thô bỉ, kẻ có tiền của thì lưu manh, quan lại thì tham lam, thầy tu thì dâm đãng, sư phụ thì lọc lừa thủ đoạn, anh chàng “Hai Lúa” Địch Vân chỉ là một kẻ lữ hành cô độc. Anh không thể hiểu nổi và hòa nhập nổi vào cái thế giới đó, cũng như anh chàng Charlot đôn hậu cứ mãi mãi đứng bên lề của xã hội công nghiệp tất bật chỉ biết tôn vinh vật chất.

    Tâm hồn chất phác của Địch Vân sẽ mãi mãi ngỡ ngàng trước những tấn tuống nhơ bẩn của cuộc đời. Người nông dân phương Đông vẫn luôn mang tâm hồn đôn hậu chất phác mà sống giữa cõi tự nhiên. Điều đáng buồn cười là nền đạo lý – mà chúng ta thường dùng ngôn ngữ bác học để nghiên cứu, và trịnh trọng tranh biện nhau hòng khoe khoang kiến thức – lại chỉ được gìn giữ bởi những người dân quê hiền lành ít học.

    Nếu không có những người mà chúng ta gọi là “Hai Lúa” đó, thì nền đạo lý con người sẽ có nguy cơ bị đổ vỡ bởi thói ma mảnh trong cuộc sống “văn minh”.


    Tất cả đều đổ vỡ tan hoang trong tâm hồn anh “Hai Lúa” Địch Vân. Sau khi hợp táng nắm tro của Đinh Điển vào nấm mộ của Lăng Sương Hoa để hoàn thành tâm nguyện của một cặp Romeo và Juiliette phương Đông, Địch Vân quyết định dẫn bé Không Tâm Thái quay về hang núi cũ để làm lại cuộc đời mới, như anh nông dân Jean Valjean dẫn cô bé Cosette đi trốn, trong tác phẩm “Những người khốn khổ” của Victor Hugo. Trái tim thuần lương của anh không tìm ra chỗ trú giữa một xã hội đê tiện và bẩn thỉu.

    Giữa những cảnh lọc lừa thủ đoạn được che đậy dưới lớp áo phù hoa, sự ngây ngô chân chất của Địch Vân nổi bật lên như sự tương phản gay gắt trong một bức tranh biếm họa. Điều bất ngờ và cảm động nhất là khi quay về chỗ cũ, Địch Vân được bỗng gặp lại Thủy Sinh đang đứng chờ ngoài cửa động, cười mà nói “ Muội chờ đại ca ở đây đã lâu rồi! Muội biết thế nào đại ca cũng trở lại mà”. (Ngã đẳng liễu nễ giá ma cửu! Ngã tri đạo nễ chung vu hội hồi lai đích).

    Ắt hẳn khi cùng đoàn người quay về, Thủy Sinh cũng đã phải đối đầu với bao sự ngộ nhận, và ắt hẳn sự thô bỉ từ những người mà nàng tôn kính đã đẩy nàng vào sự cô độc. Chính trong tâm trạng đó Thủy Sinh mới thông cảm thêm sự cô độc của Địch Vân.

    Những con người biết tự trọng như nàng hoặc đôn hậu như Địch Vân sẽ không bao giờ tìm thấy hạnh phúc trong một xã hội tồn tại trên sự lọc lừa và man trá. Cái hang đá cũ là chỗ quay về tất yếu cho cả hai người. Những lời nói đơn giản mà thắm thiết của Thủy Sinh đã kết thúc tác phẩm, nhưng nó lại mở ra một chân trời bao la cho những kẻ lữ hành cô độc…
    ____________________

    (*) Chiếc hộp Pandora

    Ngày xưa không có thần thánh chỉ có Trời và Đất thôi. Trời và Đất là bậc phụ mẫu đầu tiên sinh ra giống người khổng lồ Titans. Giống người này cai trị thế giới hằng bao nhiêu thời đại. Sau cùng các vị thần, con của giống khổng lồ Titans này nổi loạn và lật đổ họ. Thần Zeus làm chúa tể toàn vũ trụ, vợ và cũng là em của thần tên Hera trở thành hoàng hậu.

    Vẫn chưa có người trên trái đất và cũng chưa có loài thú vật nào. Một người khổng lồ tên Prometheus được chọn để cai quản trái đất. Thế là Prometheus xuống hạ giới. Chàng lấy đất sét trộn với nước rồi nặn thành một hình người đứng thẳng vì chàng muốn loài người nhìn lên các vì sao chứ không nhìn xuống đất như loài vật vậy. Rồi Prometheus nghĩ:

    “Ta sẽ cho sinh vật này đủ các tài năng để vượt được muôn loài”.

    Nhưng không may, người em chàng tên Epimentheus, đã đem tất cả những tài năng đó ban cho loài vật: sức mạnh, lòng can đảm, sự khôn ngoan, lanh lẹ, lại cho tất cả cánh, móng, vuốt, sừng, vẩy… Chẳng còn giữ lại gì.

    Chàng Prometheus nhanh trí bèn nghĩ tới lửa. Ồ một món quà vĩ đại và huyền diệu !

    Prometheus nghĩ: với lửa con người có thể làm vũ khí áp chế được súc vật, làm các dụng cụ cày đất và thực hiện nghệ thuật. Con người không lông, không vẩy ư ? Lửa sẽ sưởi ấm chỗ ở, con người không còn cảnh phải lo sợ mưa, tuyết cùng gió bấc.”

    Prometheus trở lại trời, châm ngọn đuốc ở xe mặt trời rồi đem lửa xuống cho loài người. Chàng cảm thấy thật sung sướng.

    Nhưng trên trời cao ở Olympus, thần Zeus thấy vậy chau mày ghen tỵ với quyền lực của Prometheus. Thần Zeus nghĩ: “Sinh vật này đã biết cậy vào trời thì quả là nó hơn loài vật. Còn phải nói nó là địch thủ xứng đáng của chư thần, nhưng ta sẽ có cách kiểm soát quyền lực bất chính của nó.”


    Chiếc hộp Pandora

    Thế là thần Zeus dựng lên một người đàn bà đẹp như một nữ thần. Tất cả những vị thần khác đều ban cho nàng những tài năng. Tên nàng là Pandora, có nghĩa là tài hoa nhất bậc. Đích thân thần Zeus đem xuống tặng. Prometheus thấy vậy bèn lưu ý Epimetheus ngay: “Hãy coi chừng, tôi ngại quà của thần Zeus xảo quyệt này! Thần giận tôi lắm, vì tôi cả gan ăn cắp lửa đem xuống cho loài người.”

    Nhưng Epimetheus đã say mê nàng Pandora và đem nàng về nhà.

    Chàng Epimetheus còn giữ trong nhà một cái hộp đựng ít quà mà chàng chưa phân phát cho loài vật khi chàng tạo lên chúng. Chàng hết lời dặn Pandora đừng đụng đến chiếc hộp đó. Nhưng Pandora tính nết tò mò, vừa khi ở nhà một mình nàng bèn tới gần chiếc hộp, tự nhủ : “Ta chỉ ghé mắt nhìn vào xem có gì bên trong chắc chả sao đâu.” Rồi nàng mở nắp hộp, thế là một đàn bệnh dịch bay ra, Cùng là lòng đố kỵ hận thù, báo oán... tức khắc lan tràn khắp nơi. Pandora vội đậy nắp hộp lại, nhưng muộn mất rồi. Bình rỗng, chỉ còn sót lại một ít hy vọng. Và hy vọng không bao giờ rời bỏ loài người kể từ đó.


    Bạn nghĩ gì về câu chuyện này?
    Lần sửa cuối bởi Hansy; 08-02-2013 lúc 08:11 PM

  2. Thành viên dưới đây cảm ơn Hansy vì bài viết hữu ích này


  3. #12
    Banned
    Hiện Đang :    Hansy đang ẩn
    Tham gia ngày : Jan 2012

    Bài gửi : 0
    Thanks
    5.759
    Thanked 6.595 Times in 1.818 Posts
    6.
    NỖI LÒNG A TỬ



    J’ai rêvé j’allais t’épouser si jort que rien, rien ne pourrait nous séparer – que la mort
    Je pense qu’elle peut rapprocher, au contraire… oui, rapprocher ce qui a été séparé pendant la vie

    (-Anh mơ thấy anh sẽ cưới em, ước mơ mãnh liệt đến nỗi không có gì có thể ngăn cách được chúng ta – trừ cái chết.
    -Em thì nghĩ ngược lại rằng, chính cái chết mới có thể nối kết, vâng, nối kết được những gì đã bị cách ngăn trong cuộc sống)
    André Gide – La porte étroite

    Trên đây là lời đối thoại giữa Jérôme và Alissa, hai nhân vật chính trong tác phầm nổi tiếng La porte étroite của André Gide. Tác phẩm này đã được ngòi bút tài hoa của nhà thơ Bùi Giáng chuyển sang tiếng Việt với tựa đề “Khung cửa hẹp”.

    Alisa yêu Jérôme nhưng cô biết em gái mình là Juliette cũng yêu Jérôme, nên cô đã khước từ tình yêu để tìm đến Đấng Tối Cao qua “khung cửa hẹp” theo lời gọi thiêng liêng của tôn giáo. Cô đã đem cả tuổi xuân để làm chất phân bón cho loài cây chỉ nở những cành hoa cô liêu giữa vùng trời sa mạc, với ước vọng điên rồ rằng, cánh hoa của sự hy sinh sẽ tỏa hương thơm vào cõi Vĩnh Hằng huyền hoặc.

    Có lẽ cô tin sẽ tìm lại được Jérôme trong cõi chết – nơi mà những cặp tình nhân sẽ gặp lại nhau để nối lại những cung đàn dang dở. Juliette lập gia đình, Alissa qua đời, để lại nhân vật Jérôme cô liêu trong ngậm ngùi bi hận.

    Nào đâu là mộng hoài tuổi thanh niên, nào đâu là mùi hương xuân sắc, tất cà đều tan tác trong cơn lốc lặng lẽ của tình yêu ngang trái.

    Đọc đoạn văn trên lòng lại nhớ đến cô bé A Tử trong Thiên long bát bộ. Nếu ai đã từng đọc Khung cửa hẹp và Thiên long bát bộ ắt hẳn có người cho rằng sẽ khiên cưỡng khi đem hình ảnh Alissa – một nhân vật dịu dàng cô độc – đề nói về A Tử - một nhân vật nữ tinh quái và ác độc nhất trong mọi tác phẩm văn học cổ kim. So sánh Alissa với A Châu còn có thể được, vì cả hai đều là những “linh hồn bao dung”. Dù biết thế, nhưng trong thâm tâm, vẫn thấy giữa Alissa và A Tử, trong tận cùng sâu thẳm của tâm hồn, vẫn có điềm tương đồng: Đó là sự thiết tha trong tâm nguyện.

    Cuộc đời vẫn luôn có những người con gái đỏng đảnh và tai quái thường đem những kẻ yêu họ (mà họ không yêu lại, dĩ nhiên!) ra làm đối tượng chế giễu. Như một trò đùa và để thõa mãn cái tôi.

    Thuở còn đi học, đâu phải thiếu những cậu học trò phải bao phen xấu hổ bởi những lá thư tỏ tình vụng dại mà họ âm thầm nhét vào gầm bàn học lại trở thành “đề tài nghiên cứu” cho cả lớp!

    Nhưng tinh quái đến mức tàn ác như A Tử đối với Du Thản Chi có lẽ trên đời này chỉ có một. Cô đày đọa gã si tình kia đến thân tàn ma dại, chỉ để mua vui và đem gã làm vật hy sinh cho những trò luyện công tà quái.

    Cô cho cột gã vào ngựa rồi kéo lên để làm trò “diều người”, bắt gã để tay cho rắn rít cắn để cô luyện công phu “Hóa công đại pháp”. Tàn nhẫn nhất là cô cho người hầu dùng cái khuôn sắt nung cháy trùm lên đầu Du Thản Chi và hủy hoại khuôn mặt của kẻ si tình khốn khổ.

    Cô cũng không một chút động lòng khi biết Du Thản Chi đã hy sinh đôi mắt để đem lại ánh sáng cho mình. Cô không hiểu rằng trong tâm hồn cuồng điên si dại đó, máu và lệ của mối tình câm đã ngập tràn, như muốn nhận chìm cả mối hờn căm đã từng sục sôi thuở vượt Nhạn môn quan để trả mối phụ thù.

    Với A Tử, Du Thản Chi hay tất cả mọi người khác để chỉ là những con sâu cái kiến. Chúng hoàn toàn vô nghĩa và chỉ có một lý do duy nhất đáng để tồn tại là được dùng để phục vụ cho tham vọng của cô.

    Cô chỉ biết có Tiêu Phong. Cô dửng dưng tàn ác với tất cả mọi người, thậm chí với cả những người thân, nhưng với Tiêu Phong thì trái tim lạnh lùng và vô cảm kia lại sẵn sàng hy sinh tất cả. Hình ảnh người anh rễ đã chiếm trọn tâm hồn của cô bé mới mười mấy tuổi đầu. Càng tàn nhẫn với Du Thản Chi bao nhiều thì cô lại càng tha thiết với Tiêu Phong bấy nhiêu. Hai thái cực tàn nhẫn và đắm say cùng ở chung trong tim một thiếu nữ đã đẩy mối tình ngang trái vô vọng kia đến tận cùng thảm họa.

    Trái tim tàn nhẫn vô tình
    Chỉ chôn chặt mỗi bóng hình tỷ phu
    Hận lòng máu nhỏ thiên thu.


    Khi thấy Tiêu Phong luôn hờ hững với mình, cô từng ném độc châm vào Tiêu Phong để mong Tiêu phong sẽ bị thường, và sẽ ở mãi bên cô! Khi nghe cô kể chuyện Du Thản Chi hy sinh cặp mắt cho cô với giọng thản nhiên và giễu cợt, Tiêu Phong đã trách mắng cô bạc nghĩa, thì cô lại khóc òa lên và nói một câu mà mọi nam nhi trong thiên hạ đều phải động lòng: “Nếu như đại ca bị mù hai mắt thì muội cũng xin hiến đôi mắt mình để cứu đại ca”.

    Câu nói chí tình và tha thiết đó có “cứu vãn” được những điều tàn ác mà cô đã gây ra? Quả chữ tình đã gây ra bao oan nghiệt cho cõi trần gian. “Tu là cội phúc, tình là dây oan" (Kiều). Tu có là cội phúc hay không thì chưa thấy, nhưng tình là dây oan thì quả là nhiều.

    Sợi dây tình đã trói chặt số phận Tiêu Phong, Du Thản Chi và A Tử vào vòng tròn nghiệt ngã, mà các nhân vật đó chưa hẳn đã cắt đứt được, ngay cả khi họ cắp tay nhau đi về bên kia thế giới.


    Cõi chết vẫn là điểm tương phùng cho những cặp tình nhân bất hạnh. Không tin tưởng lắm về Ngày phán xét cuối cùng của mọi tôn giáo, hoặc sự cứu rỗi linh hồn nhờ vào một đấng Tối Cao, nhưng lại rất tin thuyết luân hồi, không phải theo nghĩa tôn giáo mà như là một hình ảnh của nghệ thuật.

    Những tâm nguyện chưa thực hiện, những tình yêu dang dở, những hoài vọng không thành… sẽ khiến cho cuộc sống trở nên chua chát và cõi đời trở nên ngậm ngùi biết mấy, nếu như chúng ta không tạo được niềm tin rằng chúng ta sẽ được tựu thành ở kiếp lai sinh?

    Trong bài thơ Adieu (Lời vĩnh biệt), Apollinaitre đã từng nói lên những lời tha thiết

    J’ai cueili ce brin de bruyère
    L’automne est morte souviens – t’en?
    Nous ne nous verrons plus sur Terre
    Odeur du Temps brin de bruyère
    Et suoviens – toi que je t’attends

    Ta ngắt đi một cành hoa thạch thảo
    Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
    Chúng ta sẽ không tương phùng được nữa
    Mộng trùng lai không có ở trên đời
    Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
    Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó


    (Bùi Giáng dịch)

    Bài thơ của Apollinaire nghe ngậm ngùi man mác, nỗi sầu trong thơ nghe như bàng bạc nhẹ nhàng, nhưng nó lại đậy con người đối diện với nỗi trống vắng khôn cùng “Nous ne nous verrons plus sur Terre” Chúng ta sẽ không tương phùng được nữa. Mộng trùng lai không có ở trên đời. Và bao hoài mộng, người ơi, xin hãy chờ đợi nhau trong hương thời gian và hồn thạch thảo.

    Trong khi đó, Nguyễn Du đã dìu chúng ta từ cõi lạnh giá về nơi ấm áp. Kiếp sau họa gặp, kiếp này hẳn thôi (Kiều). Lời thơ đó dù có đau thương nhưng vẫn còn nồng ấm vì nó mở ra cho chúng ta một khoảng trời, để ước mơ và hy vọng. Mộng trùng lai nếu không có ở trên đời thì còn có ở kiếp sau. Đó chính là lối về cho A Tử và cho cả Du Thản Chi lẫn Tiêu Phong.

    Tiêu Phong vẫn luôn ở bên cô nhưng cô hiểu “dẫu trong gang tấc gấp mười quan san” (Kiều), vì hình ảnh của người chị A Châu. Cô bị hoàng hậu nước Liêu lừa để đem thuốc độc cho Tiêu Phong uống, vì cô ngỡ đó là “thuốc yêu”, Tiêu Phong uống vào sẽ yêu cô mãi mãi!

    Liều “thuốc yêu” đó đã khiến Tiêu Phong mất hết nội lực, và bị bắt khi dẫn cô chạy trốn.

    Trách sao được cô bé tai quái tàn ác kia, khi hiệu quả của liều thuốc yêu là điều cô luôn mơ tưởng? Cõi đời, từ thuở xa xưa cho đến cả thời hiện đại, vẫn đâu thiếu những thiếu nữ nhẹ dạ cho rằng có một loại thuốc thần diệu nào đó giúp họ níu kéo được những trái tim phụ bạc hoặc đang theo đuổi một hình bóng khác. Vô lý là thế, nhưng họ vẫn tin, bởi vì những tâm hồn yếu đuối đáng thương kia sẽ bám víu vào đâu khi mà mọi nỗ lực chiếm hữu tình yêu đều dẫn vào tuyệt lộ?

    Chỉ đến khi Tiêu Phong ngả xuống tại Nhạn môn quan, cô mới thấy rằng, bây giờ vị tỷ phu mà cô trọn đời thương nhớ kia mới thực sự là của cô. Sẽ không còn ai tranh giành trái tim đó với cô nữa. Sẽ không còn những lời trách mắng, cũng như những lời răn dạy nghiêm khắc khi cô bày tỏ nỗi lòng, vì bị xem là đứa trẻ con.

    Chỉ bây giờ cô mới có quyền ôm vị tỷ phu một cách đắm say mà không bị phản đối, cự tuyệt. Đó có lẽ là giây phút đớn đau nhưng hạnh phúc nhất trong đời A Tử. Chỉ giờ đầy, cái chết mới nối kết được cho cô những gì đã bị cách ngăn trong cuộc sống.

    “…rapprocher ce qui a été séparé pendant la vie…” Cuộc sống đã đẩy mối tình trái ngang vào chốn tận tuyệt của thảm khốc, đoạn trường thì xin em hãy ghì siết lấy xác thân còn hơi ấm của người yêu để cung bậc trùng phùng được nối tiếp ở thế giới bên kia. O love! O life! Not life, but love in death! (Ôi tình yêu! Ôi cuộc sống! Không phải là cuộc sống, mà là tình yêu trong cõi chết – Shakespeare – Romeo & Juliet, Act 4, Scene 5).

    Hình ảnh A Tử móc mắt trả lại cho Du Thản Chi, rồi ôm xác Tiêu Phong rơi vào vực thẳm, quả quá đủ để đẩy mọi trang sách viết về bi kịch tình yêu vào bóng tối.

    Đứng bên hình ảnh đoạn trường kia, mọi cảnh tượng đau thương thảm khốc nhất của tình yêu trong mọi nền văn học đều trở nên mờ nhạt và ảm đạm.

    Và tin rằng, từ vực thẳm đó tại Nhạn môn quan, một bài tụng ca thIêng liêng sẽ bay vút lên tận cõi trời Đâu Suất để làm hồi sinh một tình yêu dang dở trái ngang.


    Lần sửa cuối bởi Hansy; 13-07-2013 lúc 02:24 AM

  4. 2 Thành viên dưới đây cảm ơn Hansy vì bài viết hữu ích này


  5. #13
    Banned
    Hiện Đang :    Hansy đang ẩn
    Tham gia ngày : Jan 2012

    Bài gửi : 0
    Thanks
    5.759
    Thanked 6.595 Times in 1.818 Posts

    Duyệt Tuyệt Sư Thái

    7.
    DIỆT TUYỆT SƯ THÁI
    Quái tượng chốn Thiền môn



    Không ít người, do không hiểu được những yếu tố sơ đẳng trong Phật học, cho rằng đạo Phật chỉ đưa con người đến chỗ bế tắc. Họ quên rằng có quá nhiều kẻ trốn vào thiền môn chỉ vì một lý do đơn giản là bị bế tắc khi đối diện với cõi thế. Bế tắc trong tư tưởng, trong tình cảm, thậm chí trong cơm áo.

    Thuở đức Phật còn tại thế, ngài đã từng cảnh báo có những kẻ quy y theo Phật chỉ để kiếm cơm! Thuở đó còn vậy, huống gì đến thời mạt pháp. Đối với những kẻ bế tắc đó thì Phật pháp, dù có quảng đại và nhiệm mầu đến mấy, cũng chỉ là một loại “cần câu cơm” giúp họ tạm thời làm ổn định những cơn quậy phá của cái bao tử rỗng, hoặc một loại “xi rô an thần” giúp họ làm dịu đi những cơn khủng hoảng thần kinh!

    Hàng mấy ngàn năm qua, tinh thần bao dung của Phật giáo luôn mở rộng vòng tay đón nhận bao nhiêu bậc lợi căn pháp khí, xả thân cầu pháp, thì đồng thời cũng đón nhận không ít rác bẩn bay theo làm ô uế chốn Thiền môn.

    Trong tác phẩm Kim Dung, bên cạnh môn phái Thiếu Lâm được xem như biểu tượng cho cái nôi võ học Trung nguyên và võ học Phật môn, còn có các môn phái của ni cô như Nga My, Hằng Sơn, hay phái Lạt Ma Tây Tạng hoặc Huyết Đao môn. Và trong những môn phái thờ Phật đó cũng có đủ dạng chúng sinh, đủ loại môn đồ. Bên cạnh những cao tăng đắc đạo cũng không thiếu những người muốn chạy trốn cõi nhân sinh hay những kẻ lưu manh thủ đoạn, vào cửa chùa để lợi dụng tấm áo cà sa.

    Có người đến với cửa Thiền vì khát khao tìm cầu diệu pháp trong cõi thanh tĩnh Như Lai, cho nên ta có những bậc giác ngộ như Độ Nạn, Độ Kiếp, Độ Ách, hay những vị cao tăng xả thân vì đời như Không Kiến, bao dung như Phương Sinh, Phương Chứng, khoáng đạt như Vô Sắc, từ hòa như Định Nhàn, thần thông như vị vô danh tăng trong Tàng kinh các. Có kẻ đại trí đại dũng do “buông đao mà thành Phật” vì cơ duyên chín muồi để họ ngộ ra điều nhiệm mầu trong hai chữ “sắc không” mà quy y cửa Phật, như Tiêu Viễn Sơn, Mộ Dung Bác, Tạ Tốn.

    Có kẻ tìm đến cửa chùa chỉ vì muốn lợi dụng của Thiền để thực hiện những thủ đoạn thâm độc như Viên Chân. Có kẻ gian hùng tìm đến cửa chùa để tạm trốn qua ngày đói rét, và theo đuổi giấc mơ trục lợi như Chu Nguyên Chương. Có kẻ tìm đến cửa chùa để chạy trốn quá khứ như Mục Niệm Từ. Có kẻ tìm đến cửa chùa chỉ vì muốn cưới ni cô (!) như Bất Giới hòa thượng. Có kẻ “bị đi tu”như Điền Bá Quang. Có người từ tấm bé do hoàn cảnh đưa đến với cửa Phật, nên đành phải âm thầm chấp nhận tấm áo nâu sồng mà gạt lệ làm ngơ trước cõi đời xuân sắc, như Nghi Lâm và Viên Tính.

    Do có hàng ngàn lý do đưa đẩy con người đi tu, cho nên chốn cửa Phật cũng có vô vàn nhân cách. Có kẻ làm bậc quốc sư của một nước, hàng năm vào Đại tuyết sơn để đăng đàn thuyết pháp, nhưng tâm lại đắm chìm trong cõi tham sân si một cách bệnh hoạn như Cưu Ma Trí. Bên cạnh những bậc đại trí đại bi cũng có những đại sư gàn dỡ như Giác Viễn, ngớ ngẫn như Hối Thông, hậu đậu như Hư Trúc, hồ đồ như Viên Ẫm, ác độc như Hỏa Công đầu đà, dâm đãng như đám thầy trò Huyết Đao môn, cố chấp như các đại sư Đạt Ma đường…

    Nhưng có lẽ chỉ có một con người quái dị đến với cửa Thiền bằng cả tấm lòng thành nhưng sát tâm còn nặng hơn cả những ma đầu ngoài đời. Đó là Diệt Tuyệt sư thái.

    Không rõ Kim Dung khi xây dựng nhân vật Diệt Tuyệt sư thái, có dựa vào một nguyên mẫu nào ngoài đời hay không. Nếu có thì đó quả là một thảm họa cho Phật giáo.

    Diệt Tuyệt sư thái là chưởng môn đời thứ ba của phái Nga Mi. Chỉ vì người yêu là Cô Hồng Tử chết về tay Dương Tiêu mà bà đem cả lòng phẫn hận đổ hết lên giáo đổ Minh giáo. Đối với giáo đồ Minh giáo, bà chỉ có một lập trường duy nhất là giết sạch. Diệt Tuyệt sư thái sáng tạo hai pho kiếm pháp “Diệt kiếm” và “Tuyệt kiếm” để thực hiện ý đồ của mình.

    Cái sát tâm kinh dị đó hoàn toàn đi ngược lại nền đạo lý thông thường, chứ chưa nói đến việc làm tổn thương một tôn giáo lấy từ bi làm gốc như Phật giáo. Nếu kinh điển chép rằng đức Phật, qua vô số những tiền thân, từng hân hoan xả thân để cứu độ con người hay cứu những sinh vật bé nhỏ theo tinh thần bố thí Ba la mật, thì môn đồ ngài là Diệt Tuyệt sư thái lại có thể ung dung giết sạch những người mà bà tự xem là phe đối nghịch.

    Cảnh tượng một ni cô cầm Ỷ Thiên kiếm lạnh lùng chém những giáo đồ Minh giáo giữa sa mạc mà không một chút băn khoăn, khi những người này không còn khả năng chống cự và thản nhiên ngồi tụng kinh siêu độ nói về cõi thế vô thường. Cảnh tượng đó nói lên toàn bộ sự bất lực của bạo lực trước đức tin.

    Là môn đồ của Phật, lẽ ra chính Diệt Tuyệt sư thái phải hiểu điều đó hơn ai hết. Nhưng bà vẫn làm điều đó có lẽ vì tự trong thâm tâm bà hiểu rằng bà chỉ tiêu diệt “tà ma ngoại đạo” trên danh nghĩa, nhưng thực ra là để báo thù riêng. Thậm chí bà còn biến mối thù của mình thành tôn chỉ của môn đệ.

    Thân nương nhờ cửa Phật mà tâm chỉ toan tính chuyện báo thù, đó quả là điều gây kinh hãi suốt cổ kim.


    Khi bà biết Kỷ Hiểu Phù có con với Dương Tiêu, bà vẫn không ngần ngại bỏ qua tất cả để truyền chức chưởng môn cho Kỷ Hiểu Phù. Và chỉ yêu cầu một điều là nàng phải tìm cách giết Dương Tiêu. Buộc đệ tử giết chồng để được truyền y bát, vị sư thái kia đã hành xử bá đạo hơn cả những kẻ đại ma đầu, nhưng bà vẫn ngang nhiên giơ cao lá cờ “tiêu diệt tà ma”. Khi tâm con người đã bám sâu vào định kiến thì họ vẫn thường có những sự cố chấp kỳ lạ đến mức ngu xuẩn. Khi Kỷ Hiểu Phù, vì tiếng nói chân chính của con tim, lắc đầu từ chối thì bà thản nhiên vung chưởng đập vỡ sọ môn đồ.

    Bà vì muốn Nga My hiển danh trên chốn giang hồ mà không từ một thủ đoạn nào. Khi bị giam cầm tại chùa Vạn An, bà truyền chức chưởng môn đời thứ tư cho Chu Chỉ Nhược, chỉ để Chu Chỉ Nhược sẽ tiếp tục ý định của mình. Ngôi chưởng môn tôn quý từ khi sư tổ Quách Tường sáng lập, đến tay Diệt Tuyệt sư thái đã biến thành món mồi đem ra để nhử môn đồ.

    Bà là người duy nhất biết được bí ẩn trong thanh đao Đồ Long và thanh kiếm Ỷ Thiên, nên căn dặn Chu Chỉ Nhược bằng mọi cách phải chiếm đoạt cho được. Bà biết giữa Trương Vô Kỵ và Chu Chỉ Nhược có mối tình thanh mai trúc mã nên đề nghị Chu Chỉ Nhược nếu cần thì dùng “mỹ nhân kế” dụ dỗ Trương Vô Kỵ để chiếm đoạt được đao Đồ long.

    Bà mong muốn Chu Chỉ Nhược, sau khi học được hai bí kíp võ công trong đao lẫn kiếm, sẽ trở nên nhân vật vô địch trong thiên hạ, và do đó, Nga My sẽ là Thái sơn Bắc đẩu của võ lâm…

    Dùng thủ đoạn “mỹ nhân kế” đã là hạ sách, mà đối với môn đệ Nga My thì việc đó lại càng hạ lưu thô bỉ, nhưng người đọc cũng có thế tạm cảm thông với bà, xem như đó là chuyện quyền biến tạm thời để thực hiện tâm nguyện muốn hoằng dương môn phái của một vị chưởng môn.

    Điều kinh khủng nhất là bà bắt Chu Chỉ Nhược phải thề độc với bà là, nếu nàng lấy Trương Vô Kỵ thì cha mẹ chết dưới mồ sẽ không được yên, bà sẽ biến thành quỷ ám ảnh suốt đời. Nếu nàng sinh con trai thì con trai sẽ làm tôi tớ, sinh con gái thì con gái sẽ làm đĩ chốn thanh lâu.

    Lòng thù hận thâm độc một cách quái dị và tàn nhẫn đến vậy, có lẽ cả đức Phật cũng phải không rét mà run!

    Khi Trương Vô Kỵ dùng Càn khôn đại na di cứu mọi người nhảy ra khỏi tháp lửa thì bà là người duy nhất chịu chết để khỏi mang ơn tên “tiểu dâm tặc ma giáo” đó. Sự căm thù vô lý của bà khiến người đọc cũng không hiểu được bà nhận ra điểm xấu gì ở Trương Vô Kỵ. Có lẽ bà căm thù Trương Vô Kỵ chỉ vì anh ta là giáo chủ Minh giáo. Dưới mắt bà, giáo đồ phe Minh giáo đã toàn một loại xấu xa dâm đãng, huống gì giáo chủ còn sa đọa ghê tởm đến độ nào? Kết cục của chúng chỉ đáng kết thúc dưới thanh kiếm Ỷ Thiên của bà mà thôi.

    Đó có thể là lý do, nhưng chắc gì trong thâm tâm bà lại không ganh tỵ với thân phận của Trương Vô Kỵ và phe Minh giáo, mà theo bà, lẽ ra là của Chu Chỉ Nhược với phái Nga My?

    Là kẻ tu hành đứng đầu một môn phái lớn như Nga My, lẽ ra Diệt Tuyệt sư thái phải có được những sở đắc nhất định về Phật pháp để hiểu rằng chữ “ma” trong đạo Phật chỉ là khái niệm “ma chướng” che mờ Phật tính và ngăn cản con đường tu đạo, chứ nào phải là con người hay giáo phái cụ thể bị gán cho cái nhãn hiệu “tà ma”!

    Chính cái sát tâm bệnh hoạn của Diệt Tuyệt sư thái mới thực là cái “tà ma” cần diệt tuyệt. Kinh Niết Bàn chủ trương đến cả hạng người chuyên phỉ báng Phật pháp vẫn có thể thành Phật, thì những người phe Minh giáo bị cho là “tà ma ngoại đạo” đó há chẳng phải là những hạt giống của Như Lai sao? Với một tôn giáo lấy từ bi làm gốc như Phật giáo thì làm gì có khái niệm “tà ma ngoại đạo”.

    Chúng ta luôn bị lẫn lộn trong khái niệm và sự ngộ nhận đó đã gây ra biết bao thảm kịch trong suốt dòng lịch sự của nhân loại.

    Chư Phật dùng vô lượng phương tiện thiện xảo để hiện ra vô lượng hóa thân, tùy căn cơ mà hóa độ vô lượng chúng sinh trong khắp tam thiên đại thiên thế giới.

    Phẩm Phổ môn trong kinh Pháp Hoa bảo:

    “Người đáng dùng thân Duyên giác để độ giải thoát, liền hiện thân Duyên giác vì người đó mà thuyết pháp…
    “Người đáng dùng thân cư sĩ để độ giải thoát, liền hiện thân cư sĩ vì người đó mà thuyết pháp…
    “Người đáng dùng thân tỳ khưu ni để độ giải thoát, liền hiện thân tỳ khưu ni vì người đó mà thuyết pháp…”

    Nếu đức Phật xâm nhập vào chốn giang hồ thì, để hóa độ các nhân vật võ lâm, ắt hẳn ngài cũng sẽ có vô lượng hiện thân mà tùy nghi thuyết pháp.

    Với Lệnh Hồ Xung sẽ hiện thân lãng tử, với Tả Lãnh Thiền sẽ hiện thân Đại lực sĩ, với Hoàng Dược Sư sẽ hiện thân trưởng giả, với Nghi Lâm sẽ hiện thân đồng nữ, với Cưu Ma Trí sẽ hiện thân Năng đoạn kim cương Bồ Tát, với Tạ Tốn, Tiêu Viễn Sơn hay Mộ Dung Bác sẽ hiện thân Đại Tuệ Bồ Tát…

    Nhưng không hiểu đối với loại ni cô quái dị như Diệt Tuyệt sư thái, muốn thuyết pháp hóa độ thì đức Phật sẽ hiện thân gì?



  6. 2 Thành viên dưới đây cảm ơn Hansy vì bài viết hữu ích này


  7. #14
    Banned
    Hiện Đang :    Hansy đang ẩn
    Tham gia ngày : Jan 2012

    Bài gửi : 0
    Thanks
    5.759
    Thanked 6.595 Times in 1.818 Posts
    8.
    CHÂU BÁ THÔNG
    Trăm năm còn vị thành niên!



    Bảy mươi mới bước vào đời
    Tám mươi ta mới sang chơi láng giềng
    Tuổi mình còn vị thành niên
    Há cớ gì phải buồn phiền như ri?

    (Trần Văn Chánh)

    Mỗi khi đọc câu thơ tự trào dí dỏm của người bạn gởi tặng từ vùng Bắc Ninh xa lắc, lại nhớ đến Lão ngoan đồng Châu Bá Thông.

    Ở vào lứa tuổi mà Khổng Tử bảo là “tri thiên mệnh”, đã đủ dày dặn kinh nghiệm để hiểu được mệnh trời, ấy vậy mà vẫn thấy mình là kẻ “vị thành niên”! Cuộc sống vẫn luôn mênh mông đối với những người hồn nhiên lạc quan, luôn mang trong mình cái “xích tử chi tâm” của Lão ngoan đồng.

    Khổng Tử bảo: “Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tòng tâm sở dục, bất du củ” (Ba muơi tuổi thì ý chí đã kiên định, bốn mươi tuổi thì không còn ngờ, năm mươi tuổi thì hiểu mệnh trời, sáu mươi tuổi thì tai thuận, bảy mươi tuổi thì có thể làm theo lòng ham thích mà không còn sợ vượt quá khuôn phép nữa – Luận ngữ - Vi chính II, 4).

    Cho nên, “bảy mươi mới bước vào đời”! Lúc này đã có quyền “tòng tâm sở dục, bất du củ” rồi.

    Ở cái tuổi “sang chơi láng giềng” thì người hàng xóm lọm khọm là láng giềng đã đành, thậm chí cái chết cũng là kẻ láng giềng. Lúc đó thì làm kẻ “sang chơi láng giềng” theo thể điệu “Être-pour-la-mort” (hữu thể hướng tử) của Heidegger!

    Đối với nhà thơ Nguyễn Công Trứ, cái chơi “Tân nương dục vấn tân lang kỷ. Ngũ thập niên tiền nhị thập tam” (tạm dịch: Người đẹp muốn hỏi tuổi ta. Năm mươi năm trước mới hăm ba chứ gì!), ở cái tuổi bảy mươi ba, nghĩa là mới “vào đời” được ba năm, thì dĩ nhiên những đào nương xuân xanh hơ hớ trong tiếng ca và sênh phách luôn là kẻ láng giềng của vị Doanh điền sứ tài ba và “chịu chơi” nhất trong nền văn học Việt Nam này.

    Cụ Nguyễn Công Trứ tựa như nhân vật Alexis Zorba của nhà văn Hy Lạp Nikos Kazanzaki, luôn thấy mình ở lứa tuổi đôi mươi, yêu mê đắm, sống say sưa, làm việc hết mình để tận hưởng hết cái thanh sắc của trần gian cho đến lúc xuôi tay nhắm mắt. Cái tố chất “chịu chơi” của Alexis Zorba hoặc của Uy Viễn tướng công dù hiếm, nhưng vẫn còn có thể tìm thấy ở một đôi người, chứ cái tố chất hồn nhiên như đứa trẻ con chơi đùa giữa đời của Châu Bá Thông thì chỉ có có thể tìm thấy trong chính Lão ngoan đồng!

    Nếu chọn trong tất cả tác phẩn Kim Dung một nhân vật được mọi tầng lớp độc giả yêu thích, kể cả trẻ con, thì có lẽ đó chính là Châu Bá Thông. Một nhân vật suốt đời chỉ biết chơi đùa, luôn tìm cách trốn tránh mọi trách nhiệm trong đời mà lại được mọi độc giả yêu mến, điều đó mới là lạ lùng.

    Người ta nói Lên ba thì cười, lên mười thì mắng, có nghĩa cùng một câu nói, nếu ở miệng đứa bé lên ba nói ra thì thấy ngộ nghĩnh đáng yêu, còn ở miệng đứa bé lên mười thì lại thấy hỗn xược vô lễ. Cái “thực” không đổi khác mà lại sinh ra hai tâm trạng yêu ghét, bởi vì câu nói của đứa bé lên ba hoàn toàn xuất phát từ trạng thái hồn nhiên vô tâm. Mà ở trên đời, những gì xuất phát từ cái tâm hồn nhiên đều dễ dàng tiếp cận và làm cảm động được lòng người một cách đằm thắm sâu xa.

    Châu Bá Thông được độc giả yêu mến bởi ông luôn là “đứa bé lên ba” đó.

    Sau khi vô tình gây nên mối tình oan nghiệt tại cung điện Đoàn Nam đế, Châu Bá Thông lại suốt đời chạy trốn Anh Cô, không phải vì ông là kẻ bội bạc vô tình, mà chỉ vì không muốn mang trách nhiệm với cõi đời, nghĩa là không có khái niệm “làm người lớn”.

    Thân ở trong cõi đời, nhưng tâm lại hoàn toàn không muốn vướng bận lụy phiền của cõi nhân gian.

    Con người khi sinh ra là một đứa bé hồn nhiên, rồi lớn lên, vượt qua giai đoạn ấu thơ để vào đời, và từng bước khám phá ra những điều huyền ẩn. Nhưng chính trong quá trính khám phá để “trưởng thành” ấy, con người dần đánh mất tính hồn nhiên mà Thượng đế đã phú bẫm cho từ thuở ban sơ. Cái “xích tử chi tâm” dần bị chai sạn bởi những nghiệt ngã của cuộc sống.

    Con người, để tồn tại và để cạnh tranh vượt lên cao hơn người khác bằng mọi thủ đoạn mưu ma chước quỷ, cứ ngày càng xa dần vườn địa đàng của tuổi thơ. Cái tâm hồn nhiên kia bị tập nhiễm quá nhiều điều thô bỉ, đê tiện cùng những thói quen dối trá lọc lừa mà chỉ khi có cơ duyên thoát khỏi những hệ lụy ấy, con người mới có thể sực tỉnh để chợt hiểu ra những trò nhảm nhí mà mình cứ mê mải múa may trên sân khấu đời.

    Bộ sách Mạnh Tử gồm mấy vạn lời, suy cho cùng cũng chỉ là nỗ lực giúp con người khôi phục lại cái tâm hồn nhiên đó mà thôi. “Đại nhân giả bất thất kỳ xích tử chi tâm” (Bậc đại nhân không đánh mất đi tấm lòng con trẻ - Mạnh Tử, Ly Lâu hạ). Châu Bá Thông chính là bậc đại nhân “bất thất kỳ xích tử chi tâm” đó.

    Hầu hết những cao thủ võ lâm đều xem võ học là phương tiện để thỏa mãn tham vọng bành trướng uy quyền và khoáng trương cái tôi. Chỉ có Châu Bá Thông xem võ học là mục đích tự thân. Thích học võ, vui học võ, say mê học võ. Hễ gặp ai có những tuyệt kỹ lạ lùng, như Dương Qua hay Kim luân Pháp vương là Châu Bá Thông sẵn sàng bái làm sư phụ để xin học. Như một đứa trẻ ham mê đồ chơi lạ.

    Và chỉ có cái tâm hồn nhiên của trẻ thơ mới có thể sáng tạo ra những điều kỳ diệu từ những cái tưởng chừng rất đỗi tầm thường.


    Cậu hoàng tử bé trong tác phẩm Le petit prince của Saint-Exupéry luôn ngạc nhiên trước những trò bận rộn của người lớn. Mà chỉ có những đứa bé hồn nhiên mới thấy hết được cái vẻ trịnh trọng điên đảo của người lớn.

    Ông Bùi Giáng có lẽ cũng đã dùng cái tâm trẻ thơ để chuyển ngữ tác phẩm trên thành Hoàng tử bé bằng một ngôn ngữ vô cùng hồn nhiên thơ mộng, khác hẳn những cuốn sách dịch cà rỡn khác của ông.
    Châu Bá Thông cũng chính là cậu Hoàng tử bé đáng yêu kia.

    Tô Đông Pha hỏi Tạo vật hà như đồng tử hý! (tạo vật sao lại giống như đứa bé chơi đùa đến vậy!). Tạo hóa với đại lực lượng, đại ý chí mà lại biết chơi đùa cũng chỉ vì có cái tâm hồn nhiên của trẻ thơ.
    Châu Bá Thông suốt đời chỉ biết chơi đùa chỉ vì cái tâm đó.

    Chỉ vì một lời thách thức vớ vẩn mà Châu Bá Thông phải vượt mấy ngàn dặm từ Trung nguyên cho đến vùng hoang mạc xa xôi để tìm một lá cờ, giống như đứa trẻ chơi trò cút bắt, Châu Bá Thông chính là “đồng tử hý” vậy.

    Nhờ cái tâm hài nhi ưa đùa bỡn mà Châu Bá Thông không hề thù hận ai, kể cả Hoàng Dược Sư là người đã đánh gãy chân ông và bắt giam ông trên đảo hàng chục năm. Ngồi trong thạch động, không có bạn chơi thì tự mình chơi với mình bằng cách dùng hai tay đánh với nhau. Kết quả là ông sáng tạo ra môn tuyệt kỹ độc đáo nhất võ lâm: “Song thủ hỗ bác”. Hai tay vừa hỗ tương vừa công kích lẫn nhau, tạo thành uy lực vô lượng, như hai đối cực âm và dương cùng vận hành trong vòng tròn thái cực.

    Để học được môn võ công kỳ diệu này thì bài học vỡ lòng là phải dùng hai tay để vẽ cùng lúc một vòng tròn và một hình vuông. Mới nghe thì tưởng chừng như đơn giản, nhưng không ai học được. Cái công phu “phân tâm nhị dụng” (chia lòng ra làm hai để ứng dụng vào hai việc khác nhau) đó chỉ có hai người là Quách Tĩnh và Tiểu Long Nữ tiếp thu nổi.

    Quách Tĩnh học được là nhờ cái tâm đôn hậu chân chất, Tiểu Long Nữ học được là nhờ cái tâm hư tĩnh như mặt nước hồ thu, không hề vướng bụi trần.

    Châu Bá Thông vai vế ngang với Hồng Thất Công, Hoàng Dược Sư lại nài nỉ kết giao tình huynh đệ với Quách Tĩnh, là kẻ lẽ ra phải kêu mình bằng sư thúc tổ. Về sau, ông lại kết giao với Dương Quá, hạng con cháu của Quách Tĩnh nữa.

    Chỉ tiếc một điều, có lẽ tại Lão ngoan đồng “kỵ” phái nữ sau “sự cố Anh Cô”, nếu không có lẽ ông đã kết nghĩa huynh với cô bé Quách Tương rồi. Hai tâm hồn khoáng đạt như vậy mà không có cơ duyên để kết nghĩa thì quả là điều uổng phí của trần gian.

    Phật giáo chủ trương tất cả chúng sinh đều bình đẳng trước Tam bảo, thì mọi khách giang hồ đều bình đẳng trước cái tâm của Châu Bá Thông.

    Cuối cùng thì cuộc trốn chạy Anh Cô cũng phải chấm dứt, cùng với cái chết trong cơn sám hối của Cừu Thiên Nhận. Châu Bá Thông và Anh Cô về sống chung, làm người láng giềng của Đoàn Nam đế. “Tám mươi ta mới sang chơi láng giềng”. Nhưng dẫu cho đến lúc đó, vẫn cho rằng Châu Bá Thông vẫn là kẻ “vị thành niên”.

    Mọi người chúng ta ai cũng đã có lần có được cái tâm Châu Bá Thông, rồi lại đánh mất đi. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là dường như không ai muốn tìm lại cái tâm đó, có lẽ sợ bị mang tiếng là “trẻ con”! Chúng ta say sưa xác lập những giá trị, rồi luôn tìm mọi cách để chiếm đoạt những giá trị do chính chúng ta dựng nên, trong cái “thế giới người lớn” đầy những lễ nghi phiền toái cùng những dối trá lọc lừa.

    Chính trong tiến trình xây dựng và chiếm đoạt các giá trị đã làm nảy sinh biết bao xung đột, hận thù. Rồi chúng ta lại vắt óc tìm mọi cách hòa giải, cũng bằng kiểu cách khệnh khạng của “người lớn”, mà có khi nào chịu hiểu rằng, chính cái kiểu cách khệnh khạng đó lại là mầm mống đẻ ra thêm các xung đột khác.

    Thiên Sơn mộc trong Nam hoa kinh của Trang Tử chép: “Thuyền lớn vượt sông, có con đò nhỏ không người trôi đến chạm vào, thì dù là người có bụng hẹp hòi cũng không giận. Nhưng nếu trên đò có người, tất thuyền lớn sẽ hô hoán lên. Nếu gọi một hai lần mà không nghe ắt sẽ gọi lần thứ ba, rồi buông lời thóa mạ theo ngay. Lúc trước không giận mà bây giờ giận, vì lúc trước là chiếc đó không (hư) mà bây giờ là đó có người (thực). Người ta nếu biết làm mình trở thành chiếc đò không để trôi giữa đời, thì ai mà hại được? (Nhân năng hư kỷ dĩ du thế, kỳ thục năng hại chi?)”.

    Châu Bá Thông chính là “con đò không” đó để rong chơi trong cõi giang hồ, đã biết “hư kỷ dĩ du giang hồ”. Cái tâm “hư kỷ” của Châu Bá Thông là cái tâm tự nhiên, vượt trên cả chữ “năng”. Ông không cần tập “năng hư kỷ” mà tự nhiên đã là “hư kỷ’ rồi.

    Có người hỏi thiên sư Triệu Châu: “Con chó có Phật tính không?”. Ông đáp “Vô!”. Tâm Châu Bá Thông cũng chính là chữ “Vô” đó.

    Cái tâm hài nhi của Châu Bá Thông là điều mà mọi tôn giáo và triết học chân chính đều nỗ lực muốn tìm lại. Hình ảnh ngây thơ của Chúa Hài Đồng hay nụ cười hồn nhiên của đức Phật Di Lặc luôn nhắc nhở ta về cái tâm Châu Bá Thông mà ta vô tình đánh mất.

    Và sẽ vô cùng hạnh phúc cho ai, ở những năm tháng cuối đời tìm được cái tâm Châu Bá Thông ngay giây phút cận kề của cõi không hư.



  8. 2 Thành viên dưới đây cảm ơn Hansy vì bài viết hữu ích này


  9. #15
    Banned
    Hiện Đang :    Hansy đang ẩn
    Tham gia ngày : Jan 2012

    Bài gửi : 0
    Thanks
    5.759
    Thanked 6.595 Times in 1.818 Posts

    Lăng Sương Hoa

    9.
    LĂNG SƯƠNG HOA
    Cái chết của nhành lục cúc



    Khi sáng tạo nên cái trần gian điên dại và đầy hương sắc này, thì vẻ hùng vĩ của biển rộng núi cao, nét xinh tươi của oanh ca liễu rũ, trăng hoa sương tuyết, tiếng róc rách của sông lạch suối khe… dường như chưa làm hài lòng Hóa công, nên ngài phải sáng tạo thêm người phụ nữ.

    Dường như mọi phụ nữ trên cõi đời này hiểu rằng Thượng đế tạo ra họ là để điểm tô thêm cho cái trần gian vốn đã đầy hương sắc, cho nên tự ngàn xưa, đối với họ, giữ gìn sắc đẹp vẫn luôn là điều cực kỳ trọng đại.

    Với phụ nữ, nhan sắc lắm khi còn quan trọng hơn cả mạng sống. Nhậm Doanh Doanh khi bị Nhạc Bất Quần dùng lưới bắt tại Hoa Sơn thi nàng hiểu rằng cái chết là điều tất yếu. Vậy mà khi Nhạc Bất Quần muốn hủy hoại nhan sắc nàng thì nàng lại hoảng kinh. Chu Chỉ Nhược khi bị giam cầm tại chùa Vạn An cùng bao nhân vật của Lục đại môn phái, thì chuyện sống chết đã sớm bỏ ngoài lòng, nhưng khi Triệu Mẫn dọa dùng dao rạch mặt thì cô lại xiêu hồn lạc phách. Cả cô nàng Triệu Mẫn bướng bĩnh tinh quái là thế cũng không khỏi đứng tim, khi Thanh dực bức vương Vi Nhất Tiếu cảnh báo sẽ hủy hoại khuôn mặt kiều diễm của cô, nếu như cô đụng tới Chu Chỉ Nhược. Khang Mẫn bị A Tử hành hạ dã man nhưng vẫn còn tỉnh táo để tỏ tình với Kiều Phong, cô nàng không chết vì vết thương trí mạng mà chết vì đau khổ và kinh hãi khi soi thấy khuôn mặt bị tàn phá của mình trong tấm gương đồng.

    Chúng ta không thể cay đắng như Hamlet của Shakespeare: “God hath given you a face, and you make yourselves another” (Thượng đế đã ban cho ngươi một gương mặt, và ngươi đã tự biến mình thành một gương mặt khác – Hamlet – Act II, Scene 1, 153-154), bởi lẽ phụ nữ vẫn còn muốn làm đẹp ngay cả khi đi đối diện với Diêm vương!

    Chả trách nền công nghiệp mỹ phẩm trên thế giới lại thu được những món tiền khổng lồ từ thói đỏm dáng đáng yêu của phụ nữ.

    Giai thoại thiền tông Nhật Bản kể rằng, ni cô Ryonen, sinh 1797, là một người có nhan sắc quyến rũ và thiên tài về thi ca. Năm mười bảy tuổi, bà phục vụ cho hoàng hậu, tương lai rực rỡ đang chờ đón bà như một công nương của triều đình. Bỗng nhiên hoàng hậu qua đời, bà chợt ngộ ra lẽ vô thường của cõi thế, nên xuống tóc đi tu.

    Bà đến thành phố Endo, xin làm đệ tử của thiền sư Tetsugyu, nhưng vị thiền sư này từ chối vì bà quá đẹp. Vị thiền sư đó hiểu rằng cái nhan sắc lộng lẫy đó tuy là vật báu của trần gian, nhưng lại không thể phù hợp với chốn thiền môn vốn luôn đạm bạc với cuộc sống nâu sòng. Ắt hẳn nó sẽ gây nên ba đào nơi cửa Phật. Tâm bà tuy không động nhưng sẽ làm lụy đến tâm người. Bà bèn tìm đến thiền sư Hakuo, nhưng vị thiền sư này cũng từ chối vì lý do trên.

    Ryonen hiểu rằng chính nhan sắc đẹp đẽ của bà là vật chướng ngại ngăn cản không cho mình đạt được điều tâm nguyện, nên bà bèn dùng lửa nóng hủy hoại hết khuôn mặt xinh đẹp, nhờ đó bà được thiền sư Hakuo nhận làm đệ tử. Và cũng nhờ thế mà bà mới chuyên chú vào việc tu thiền và trở thành một thiền sư nổi tiếng.

    Hủy hoại dung mạo để cầu đạo, ni cô Ryonen đã làm một việc còn kỳ diệu hơn cả việc nhị tổ Huệ Khả quỳ giữa trời tuyết, cắt một cánh tay dâng lên sư tổ Đạt Ma để xin truyền tâm ấn. Ni cô Ryonen có lẽ là hiện tượng hiếm hoi và kỳ lạ của thiền môn, bởi lẽ đâu phải người con gái nào đem thân bỏ chốn am mây cũng đều ngộ ra lẽ vô thường của hai chữ “sắc không”. Nhan sắc đó cũng là hư không đấy.

    Chỉ có những tâm hồn thiết tha cầu đạo như Ryonen khi ngộ được lẽ “bất trụ sắc sinh tâm, ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” (1) và “nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai” (2) của kinh Kim Cương thì mới có thể thực hiện được điều kỳ diệu đó.

    Cái tìm được sẽ lớn hơn hàng vạn lần cái nhan sắc mất đi: đó là thành toàn điều tâm nguyện. Việc xả thân cầu đạo đó dù kỳ lạ nhưng vẫn có thể xảy ra, vì khi tuệ kiếm vung lên thì trần duyên đứt đoạn. Cái thân xác này, khi được quán tưởng đến chỗ rốt ráo, cũng chỉ là cái túi da đựng bao điều dơ bẩn, thì nào sá gì một chút dung nhan?

    Nhưng đó là chuyện chốn thiền môn, còn ở trần gian đầy sai biệt này thì con người vẫn cứ vĩnh viễn đội mũ triều thiên lên nhan sắc. Vì nếu không thế thì cuộc đời ắt sẽ u ám và buồn tẻ lắm biết ngần nào!

    Vậy mà vẫn có một người con gái dám hủy hoại dung nhan kiều diễm của mình để giữ tròn sự thủy chung với người chỉ một lần gặp gỡ: Đó là Lăng Sương Hoa trong Liên thành quyết.

    Đinh Điển là người mê hoa. Tình cờ trong một buổi dạo chơi hội hoa cúc, Đinh Điển gặp được đệ nhất mỹ nhân vùng là Lăng Sương Hoa, tiều thư của quan tri phủ Lăng Thoái Tư. Sự đồng cảm trong những giò lục cúc đã đem hai người lại gần nhau. Tình yêu âm thầm nảy nở giữa kẻ lang bạt giang hồ với một tiểu thư khuê các. Những cánh hoa tươi thắm và ngát hương đã chứng kiến cho mối tình của họ và làm băng nhân cho những lần gặp gỡ. “Tôi cùng em mơ những chốn nào. Ước nguyền chung giấc mộng trăng sao. Sánh vai một mái lầu phong nguyệt. Hoa bướm vì em nghiêng cánh trao” (Đinh Hùng – Phạm Đình Chương).

    Lăng Thoái Tư là một người văn võ song toàn, y là một long đầu trong Long sa bang, lại thi đổ tiến sỹ, làm Hàn Lâm học sỹ. Y nuôi tham vọng tìm được kho tàng của Lương Nguyên đế và luyện được Thần Chiếu công. Biết được Đinh Điển đang giữ Liên thành quyết – bộ giải mã những bí ẩn về chỗ cất giấu kho tàng – và bí cấp Thần Chiếu công, nên Lăng Thoái Tư lập mưu chiếm đoạt. Y vờ cho Lăng Sương Hoa mời Đinh Điền đến để bàn chuyện tác hợp lương duyên. Rồi dùng hoa độc tẩm thuốc mê để bắt Đinh Điển.

    Sống trong cảnh tra tấn dã man chốn lao tù, với xương tỳ bà đã bị xuyên thủng, nhưng Đinh Điển vẫn tìm thấy nguồn an ủi. Hằng ngày, anh ta từ cửa sở nhà tù nhìn lên mái lầu xa, vẫn luôn thấy được những chậu hoa đặt nơi cửa sổ của phòng Lăng Sương Hoa, như một biểu tượng của tình yêu.

    Cảnh đưa tin của Đinh Điền và Lăng Sương Hoa giống như anh chàng Hời trong truyện Tô Hoài. Một người ngồi dệt vải, khi nghe mùi hương thoang thoảng lan trong cảnh đêm thanh tĩnh của cành hoa lài ném qua cửa sổ, là biết đã đến giờ hẹn với người yêu.


    Lăng Sương Hoa sợ cha nàng ép duyên nên nàng quyết định hủy hoại dung nhan để không còn ai muốn cưới mình nữa. Chỉ có vậy nàng mới giữ trọn tình yêu son sắt với Đinh Điển. Một quyết định làm người đọc tê buốt tâm can, vì điều đó ngẫm ra còn kinh khủng hơn tự vẫn. Chỉ có một sự hòa điệu của cung bậc tri âm trong tình yêu chân chính mới có thể giúp người con gái xinh đẹp làm một điều mà ngay cả Thượng Đế cũng phải bàng hoàng. Nàng không muốn xuất hiện với khuôn mặt xấu xí, mà để những chậu hoa thay mặt cho mình ngỏ những lời yêu.

    Hoa thay dáng người. Hoa còn là người còn, và tình yêu vẫn ngát xanh màu lục cúc. Gặp nhau và yêu nhau nhờ những cành hoa, truyền tin cho nhau cũng nhờ những cành hoa. Mối tình thơ mộng đó bị vĩnh viễn cách ngăn vì lòng tham ngu xuẩn của người cha. Mà tự cổ chí kim, có kẻ nào bị lòng tham chi phối mà lại không trở nên ngu xuẩn, và do đó dễ trở nên tàn bạo?

    Khi Lăng Sương Hoa qua đời trong u sầu đau khổ, Lăng Thoại Tư còn âm hiểm rắc thuốc độc lên quan tài để đánh lừa Đinh Điển. Kẻ si tình đến ôm quan tài và trúng ngay chất độc của hoa Kim Ba Tuần. Nhưng Lăng Thoại Tư đã làm một điều thừa. Làm sao Đinh Điển có thể sống được nữa khi Lăng Sương Hoa đã vì mình mà qua đời trong sầu hận? Địch Vân hợp táng nắm tro tàn của Đinh Điển với Lăng Sương Hoa, và trồng hoa thật nhiều quanh mộ để đôi tình nhân được yên nghỉ giữa ngàn hoa.

    Trong vở kịch Hamlet, khi hoàng hậu Gertrude rắc hoa lên nấm mộ của Ophelia đã nói những lời tha thiết, mà ta muốn dùng để khắc lên nấm mộ Sương Hoa. “Sweets to the sweet! Farewell!” (Những nhánh hoa dịu dàng xin gởi đến một cành hoa đằm thắm. Xin vĩnh biệt) (Shakespeare – Hamlet, Act V, Scene I, 239).

    Chinh phục được trái tim của người mình yêu, chịu chấp nhận thiệt thòi để tìm thấy hạnh phúc. Điều đó dễ. Khi biết rằng trái tim người mình yêu đã vĩnh viễn thuộc về kẻ khác nên biến sự thất vọng thành hận thù, đem tang tóc gieo rắc khắp thiên hạ để trút nỗi hờn căm, như Lý Mạc Sầu hay Mai Phương Cô, điều đó tuy có quá quắt nhưng vẫn là chuyện thường tình.

    Biết rằng người mình yêu đã tìm thấy hạnh phúc nơi người khác, nên chấp nhận hy sinh tình yêu và, trong nổi cô đơn đau đớn, cứ mãi âm thầm cầu nguyện cho họ được hạnh phúc bằng tất cả trái tim, như Nghi Lâm, điều đó khó.

    Nhưng trong tình yêu đam mê vô vọng lại dám chấp nhận chết thay cho người mình yêu để họ được hạnh phúc với người khác, như Trình Linh Tố và Công Tôn Lục ngạn, điểu đó cực khó.

    Nhưng càng khó hơn nữa khi một người con gái xinh đẹp dám hủy hoại dung nhan để giữ trọn chữ thủy chung. Sự hy sinh kỳ diệu đó chỉ xảy ra với những người phụ nữ dịu hiền có trái tim nhân hậu bao dung.

    Tình yêu thuần khiết được nâng lên tầm một tôn giáo, và kẻ si tình như một kẻ hành hương tìm về tuyệt đích, trong hình ảnh của người thương. Du Thản Chi là kẻ si tình vĩ đại nhưng mối tình cuồng si dữ dội đó vẫn cứ quằn quại đớn đau trong nỗ lực chiếm hữu đầy tuyệt vọng. Nó thiếu đi một chút thanh thản của một tín đồ đã “giác ngộ”.

    Tình yêu của Lăng Sương Hoa sẽ mãi mãi thắp sáng lên trong tâm thức nhân gian những ánh lửa nhiệm mầu, mà chúng ta đôi lần thấy thấp thoáng trong Gitanjali của Tagore. Và trong ánh lửa đó vẫn hoài ánh lên màu thắm tươi của một nhành lục cúc.
    _______

    (1) Thân không trụ vào hình sắc mà sinh khởi; không nên trụ vào đâu cả để sinh khởi tâm.
    (2) Nếu thấy được các hình tướng đều là phi hình tướng, ấy chính là thấy được Như Lai.


    Lần sửa cuối bởi Hansy; 13-07-2013 lúc 02:26 AM

  10. 3 Thành viên dưới đây cảm ơn Hansy vì bài viết hữu ích này


  11. #16
    Banned
    Hiện Đang :    Hansy đang ẩn
    Tham gia ngày : Jan 2012

    Bài gửi : 0
    Thanks
    5.759
    Thanked 6.595 Times in 1.818 Posts

    A Châu

    10.
    HOÀI CẢM A CHÂU



    Tại rừng hạnh, lần đầu sơ ngộ, khâm phục bản lĩnh chàng, vị anh hùng đỉnh thiên lập địa, chọc trời khuấy nước. Chùa Thiếu Thất, thêm một lần thọ ơn cứu mạng. Tụ Hiền Trang, cảm kích chàng không ngại xả thân bảo vệ cho một thiếu nữ không thân thích đã gần đất xa trời, đau xót thay con mãnh long từng được võ lâm kính phục trong chớp mắt đã thành kẻ thù số một của thiên hạ quần hùng. Nhạn môn quan, trùng phùng Tiêu Phong, bao nhiêu tình cảm biến thành tình yêu sâu sắc tự bao giờ. A Châu nguyện đem cả sinh mạng và cuộc đời đặt vào bàn tay Tiêu Phong, bàn tay của hán tử cả thiên hạ quay lưng, bị xem là Liêu cẩu, đổ vấy bao tội lỗi tày đình.

    Nếu trần gian ai cũng biết ai
    ai còn phải vì ai mà cảm khái.

    (Tản Đà)

    Giữa dương trần đâu dễ kiếm kẻ tri âm, khúc Dương Xuân Bạch Tuyết đâu phải ai cũng có thể họa cùng? Làm bang chủ Cái bang kiêu hùng, chỉ biết đến rượu và võ công, hay tên tội đồ bị cả võ lâm truy đuổi thì có ý nghĩa gì khi Tiêu Phong tìm được A Châu. Người anh hùng cuối cùng đã có một tri kỷ hồng nhan, cuộc đời này còn chi hối hận?

    Hãy cùng vẽ nên bức tranh đời yên ả, phi ngựa như bay trên thảo nguyên bao la, vứt bỏ lại sau lưng ân oán tình thù, gió tanh mưa máu giang hồ, chỉ có bấy cừu, đàn dê, tiếng sáo du mục dìu dặt hòa cùng giọng cười vui vẻ, vô lo.

    Tiếc rằng hạnh phúc vĩnh viễn chỉ lung linh và mong manh như chiếc bình pha lê đặt trên thành bậu cửa sổ. Dù người ta cố gắng trân trọng nâng niu, chỉ một cơn gió cố tình thổi qua, chiếc bình sẽ vỡ tan thành trăm nghìn mảnh.

    Một đứa bé mồ côi chưa hề biết đến vòng tay mẹ, một thiên kim tiểu thư giòng dõi vương giả phải làm nữ tì Mộ Dung gia đến khi trùng phùng phụ mẫu, A Châu lại rơi vào nghịch cảnh éo le: phụ thân là kẻ thù không đội chung trời với người yêu!

    Tuy chưa một ngày dưỡng dục nhưng công ơn sinh thành chưa lúc nào đến đáp? Mong ước trả thù lại là khát vọng nung nấu của người yêu, sao đành cản ngăn? Chỉ còn cách hy sinh tấm thân này, chỉ còn xem cảnh đuổi ngựa chăn dê, cuộc sống vô tư lự kia mãi mãi là mộng tưởng. Hiếu và tình đã bức người kiều nữ đến bước đường cùng.

    Lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng A Châu báo hiếu, người con gái dịu hiền kia thay cha nhận lấy cái chết oan uổng trên tay Tiêu Phong. A Châu ra đi, mưa phủ nhòa nhân thế, cả bầu trời cùng vương hương ly biệt. Hỡi ơi, “Ai thương tử biệt, ai sầu sinh ly” (Tản Đà). Đến phút cuối cuộc đời, điều duy nhất nàng lo lắng chỉ là sợ Tiêu Phong quạnh quẽ cô đơn. Đáng trân trọng cho tấm lòng kiều nữ!

    Màn sương mù mà Mã phu nhân trong cơn ghen tuông mù quáng cố tình giăng ra đẩy Tiêu Phong vào hiểu lầm oan nghiệt đã tan đi, hé mở một sự thật đau đớn, trần trụi cùng thi thể lạnh giá của A Châu, khóe mắt nàng hãy còn vương vấn ân tình.

    Tiêu Phong và chúng ta chỉ biết ngậm ngùi thốt lên hai chữ “Giá như…”

    Cái chết của A Châu nhẹ như lông hồng nhưng nỗi đau, niềm ân hận của Tiêu Phong lại nặng tựa Thái Sơn. Nàng để lại ông cùng trái tim tan nát và cõi lòng chết lặng. Mối ân tình sâu nặng của nàng biết lấy gì đền đáp? “Ơn em, hôm sớm ngậm ngùi. Kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau. Tạ ơn em, tạ ơn em…”

    Tiểu Kính hồ, mai táng A Châu, chôn theo cả trái tim mình, Tiêu Phong bắt đầu những chuỗi ngày đày đọa, tiếp tục sống vì câu hỏi lớn về thân thế vẫn treo lơ lủng trên đầu, vì một lời hứa chăm sóc cô em vợ tai quái A Tử?

    Bạn vẫn thường bắt gặp những chiếc lá hãy còn xanh mà đành rơi rụng. Và ngày mai sẽ có những lá khác sẽ mọc lên thay thế. Nhưng chỉ có cây mới hiểu chiếc lá mới, dù xanh đấy, dù đầy nhựa sống đấy, nhưng vĩnh viễn không phải là chiếc lá ngày xưa. Cũng giống như con người, có bao người đi ngang qua cuộc đời ta, dù chỉ là thoáng chốc nhưng vết thương họ để lại trong lòng thì khôn nguôi, chẳng bao giờ khỏi. Dù cho A Tử có cố gắng đến đâu, có si tình đến mấy nhưng nàng vĩnh viễn không thể thay thế A Châu.

    Lòng cuồng điên vì nhớ
    Ôi đâu người, đâu ân tình cũ
    Chờ hoài nhau trong mơ
    Nhưng có bao giờ thấy nhau lần nữa

    (Hoài cảm – Cung Tiến)

    Trái tim Tiêu Phong rộng lớn để cùng đau với thiên hạ bách tính nhưng cũng nhỏ bé chỉ đủ ấp ủ một bóng hình đến suốt đời. Lời bài hát cũng thê thiết như tâm sự Tiêu Phong. Đâu rồi mối tình khắc cốt ghi tâm, có bao lâu còn được nhìn thấy nụ cười nàng tươi hơn nắng sớm, ánh mắt nàng đằm thắm như sương mai?

    Tất cả còn lại chỉ là những mảnh vụn ký ức đẹp đẽ mà Tiêu Phong trân trọng giữ gìn.

    Tiết Thanh minh, Thôi Hộ quay lại nơi xưa, vẫn hoa đào tươi thắm cười trong gió xuân nhưng còn đâu đôi má hồng ngày trước?

    Nhân diện bất tri hà xứ khứ
    Đào hoa y cựu tiếu đông phong

    (Đề tích sở kiến xứ - Thôi Hộ)

    Bánh xe rồng lăn đến kinh thành. Ao cũ vườn xưa, Đường Minh Hoàng chỉ còn biết ngậm ngùi rơi lệ cho nàng phi tử mặt ngọc đẹp hơn phù dung, mày ngài tươi hơn dương liễu.

    Quy lai trì uyển giai y cựu
    Thái Dịch phù dung, Vị Ưởng mi
    Phù dung như diện, liễu như mi
    Đối thử như hà bất lệ thùy?

    (Trường hận ca – Bạch Cư Dị)

    Lưu Nguyễn trở lại non tiên, mây trôi nước chảy như ngày xưa nhưng đã mất rồi sinh khí, bóng hình tiên nữ vĩnh viễn tan biến vào hư vô, không còn được thấy dù chỉ trong khoảnh khắc mơ hồ.

    Đào hoa lưu thủy y nhiên tại
    Bất kiến đang thời khuyến tửu nhân

    (Tái đáo Thiên Thai – Tào Đường)

    Tâm trạng của con người trong nỗi sầu tương tư thì ngàn năm vẫn tha thiết như nhau.

    Tiêu Phong dừng trước Nhạn Môn quan mà xót xa tưởng nhớ lời hẹn ước xưa. Tiếng sáo Nhạn Môn vẫn vang lên réo rắt như ngày trước mà sao nghe đầy đau thương tiếc nuối, “thiết tha ngân lên lời xưa”. Vẫn cảnh đuổi ngựa chăn dê yên bình nhưng thiếu mất bóng dáng của ai kia. Cảnh bình yên đến đâu cũng chỉ là trống rỗng? Cảnh vật vẫn đây mà người xưa đâu tá? Lối xưa cỏ cây tàn úa, đường phủ rêu xanh đợi chờ vô vọng bước chân ai?

    Anh chầm chậm nghe tất cả buổi chiều
    Vào chầm chậm ở trong hồn hiu quạnh

    (Xuân Diệu)


    Tiêu Phong phải tiếp tục sống với linh hồn bị đầy đến tận cùng sự quạnh quẽ, cô đơn. Người xưa đã ra đi biền biệt, chỉ còn ta trơ trọi, giữa mênh mông đất trời. Từng khoảnh khắc thời gian chậm chậm héo tàn, thấm vào lòng người, gợi lên mối sầu thê lương, bi thiết. Năm tháng trôi qua, kỷ niệm ùa về giết chết hồn người. Nỗi niềm thương nhớ chỉ còn biết chôn chặt nơi đáy tim và âm thầm mang xuống tuyền đài mà thôi.

    Thời gian tựa cánh chim bay
    qua dần những tháng cùng ngày
    Còn đâu mùa cũ êm vui
    Nhớ thương biết bao giờ nguôi?

    (Hoài cảm – Cung Tiên)

    Người anh hùng lại mang nặng vào mình món nợ công danh, nễ mặt nghĩa huynh mà lên ngôi đại vương Nam Viện. Chén rượu Tiêu Phong lại tiếp tục uống, nhưng rượu hôm nay cũng đâu phải rượu ngày xưa, bởi ta cũng đâu còn con người ngày trước. Chén rượu ngày xưa nâng lên giữa bao bằng hữu, hào khí ngất trời, còn giờ đây lắng đọng lại sau mỗi giọt rượu cay chỉ là nỗi sầu đắng khôn nguôi? Sầu lại cánh sầu. Tự cổ chí kim “Nhi nữ tình trường, anh hùng khí đoản”.

    Éo le thay, Nguyệt lão se chi sợi tơ oan nghiệt cột chặt A Tử vào mối tình tuyệt vọng với tỷ phu. Một cô bé xem mạng người như cỏ rác lại có thể yêu đắm say đến hy sinh bản thân, đến quay lưng với kẻ si mê cô ngây ngốc Du Thản Chi.

    A Tử vô tình với Du Thản Chi, Tiêu Phong hờ hững mối tình A Tử. Vòng tròn tình yêu oan nghiệt lắm thay?

    Tình yêu A Tử đã đưa Tiêu Phong vào tuyệt lộ. Trách nàng chăng hay phải trách tình yêu khiến con người mù quáng mà vô tình tổn hại người yêu? Nhưng chính những sai lầm của A Tử đã mang lại cho Tiêu Phong những giây phút đồng đạo, trùng phùng hai nghĩa đệ dù tất cả đã muộn màng.

    Hai tiếng “bang chủ” giờ nghe sao quá nghẹn ngào, cay đắng. Hân hoan trong chớp mắt rồi lại đau đớn nghĩ đến sinh linh hai nước sắp máu chảy đầu rơi, vui mừng trong khoảnh khắc để trở lại với thực tại quần hùng đang bị vây khổn tại Nhạn Môn quan.

    Lại là ải Nhạn Môn, tại đây mẫu thân Tiêu Phong vùi thân nơi vực thẳm, khơi lên mối thù khôn nguôi trong lòng Tiêu Viễn Sơn, để khi ông tìm thấy sự thanh thản chốn Phật môn, con trai ông phải tiếp tục vẫy vùng tuyệt vọng trong vòng tục lụy trần gian.

    Hình ảnh A Châu lại trở về, để người anh hùng đau đớn ngẩn ngơ “Hỏi trời xanh có chăng định mệnh khiến đời tôi sao mãi lênh đênh?”. Ngày xưa, A Châu không còn cách nào khác khi đứng giữa Tình và Hiếu, hôm nay Tiêu Phong phải đứng trước lòng trung quân ái quốc, tình bằng hữu và cả thiên hạ sinh linh.

    Đất Tống dù có bao ký ức đau thương nhưng chứa đầy tình cố cựu, là tình cảm yêu thương của nghĩa phụ nghĩa mẫu, là tình sư phụ truyền dạy võ công, nhân nghĩa trí tín, là tình bằng hữu, huynh đệ cùng vào sinh ra tử, là tình yêu sâu đậm duy nhất trong đời. Nước Liêu là Tổ quốc đích thực, là cội nguồn, là quê hương.

    Một bên là công dưỡng dục, một bên là ơn sinh thành.

    Giúp Tống, tiếng bất trung lưu đến muôn đời. Giúp Liêu, sao đành quay lưng với bao huynh đệ vì mình mà sẵn sàng hy sinh?

    Để trọn vẹn đành tuẫn tiết. Dùng mũi tên để cứu lấy bách tính thiên hạ và giải thoát cho linh hồn bởi trái tim Tiêu Phong thực sự chết cùng A Châu.

    Chiều tà phủ xuống Nhạn Môn quan, nhuốm màu máu lửa. Vẫn chưa đủ thảm thiết hay sao, bày thêm chi cảnh A Tử móc mắt trả lại Du Thản Chi rồi ôm Tiêu Phong nhảy xuống vực sâu muôn trượng? Không có được trái tim tỷ phu, ôm lấy xác chết Tiêu Phong trong tay, A Tử tìm được chút dư hương hạnh phúc úa tàn. Còn gì thê lương hơn cái chết của A Tử, còn gì tuyệt vọng hơn cảnh Du Thản Chi gào thét tên người yêu giữa Nhạn Môn? Cố chấp lắm vậy người ơi?

    Xin lại dùng lời bài hát “Hoài cảm” để kết thúc đoản thiên này. Hoài cảm A Châu, Tiêu Phong suốt đời đợi chờ cố nhân nhưng tất cả xin hẹn kiếp sau.

    Chờ nhau hoài cố nhân ơi
    Sương buồn che kín nguồn đời
    Hẹn nhau một kiếp xa xôi
    Nhớ nhau muôn đời mà thôi

    (Hoài cảm – Cung Tiến)

    Vài năm hay vài trăm năm nữa, có lẽ cảnh Nhạn Môn vẫn nguyên vẹn như xưa. Tiếng sáo du mục vẫn ngân lên réo rắt giữa đàn gia súc hiền lành. Từng đàn hồng nhạn nam di vội vã vượt quan ải. Nước chảy mây trôi, tất cả đều không biết đến đôi tình nhân khổ mệnh mà cuộc sống bình dị nhất nơi Nhạn Môn quan chỉ là ký ức xa mờ…

    Lệ sầu vương mắt ai…



  12. 2 Thành viên dưới đây cảm ơn Hansy vì bài viết hữu ích này


  13. #17
    Banned
    Hiện Đang :    Hansy đang ẩn
    Tham gia ngày : Jan 2012

    Bài gửi : 0
    Thanks
    5.759
    Thanked 6.595 Times in 1.818 Posts

    Quách Tương

    11.
    QUÁCH TƯƠNG
    Tiểu Muội



    Không hiểu sao những nhân vật như Hoàng Dung và Triệu Mẫn lại hoàn toàn không để lại trong tôi một ấn tượng sâu sắc nào, dù có thể họ đã làm say mê nhiều thế hệ độc giả. Đôi phen muốn cầm bút viết về Hoàng Dung, theo lời đề nghị của bạn bè, nhưng không tài nào viết nổi.

    Dường như luôn có một cái gì đó đè lên ngọn bút khiến cho cảm hứng cạn nguồn ngay từ dòng chữ đầu tiên. Người phụ nữ xinh đẹp dĩ nhiên là vưu vật của tạo hóa, nhưng một người phụ nữ vừa tài hoa vừa xinh đẹp, lại vừa thủ đoạn và mưu mẹo tinh quái, như Hoàng Dung và Triệu Mẫn, thì họ không còn là vưu vật nữa mà chỉ là sự sai lầm của hóa công!

    Người Tây thường bảo “Do not to be too smart!” (Đừng có tinh ranh quá!).

    Người phụ nữ đã xinh đẹp lại tinh ranh quá sẽ là hiểm họa. Họ hưởng quá nhiều từ hóa công, và khi họ đem những quà tặng quá đỗi hào phóng đó của hóa công để làm thành lợi khí trong những mưu mẹo thủ đoạn nhằm thủ lợi cho mình, thì điều đó chắc chắn sẽ bào mòn đi lòng vị tha đẹp đẽ của phụ nữ. Tâm hồn họ sẽ trở nên khô cằn và đầy nghi kỵ.

    Hoàng Dung luôn ngờ vực và đề phòng Dương Quá, cho rằngchàng ta là một tên xảo quyệt nguy hiểm như Dương Khang. Chỉ đến ngày sinh nhật của Quách Tương thì người đàn bà tài sắc vẹn toàn, quá đổi vẹn toàn này, mới nhận ra được một điều mà cái tâm đôn hậu của Quách Tĩnh đã cảm nhận từ lâu. Cái đầu đầy thông minh của sự lý tính như Hoàng Dung sẽ khó lòng tiếp cận và cảm nhân được cái đẹp thuần nhiên trong tâm hồn.

    Có lẽ Kim Dung đã giúp hóa công sửa lại sai lầm khi để Hoàng Dung sinh ra hai chị em Quách Phù và Quách Tương.

    Giai thoại văn học Anh kể rằng, có một phụ nữ xinh đẹp đến gặp văn hào G. Bernard Shaw và đế nghị muốn được có với ông một đứa con, với lý do: “Đứa bé sẽ tuyệt với biết ngần nào nếu như nó có khuôn mặt của em và bộ óc của anh”. Nhà văn hài hước nổi tiếng thế giới này đã từ chối bằng câu trả lời hóm hĩnh: “Tôi lại e rằng cuộc đời nó sẽ là bi kịch nếu như nó mang khuôn mặt của tôi và bộ óc của cô!”.

    Sản phẩm nhà văn muốn nói đến, qua câu chuyện hài hước trên, như là một biểu tượng di truyền những mặt hạn chế của cha mẹ, lại có thực trong tác phẩm của Kim Dung, qua nhân vật Quách Phù. Đã có bài viết về Quách Phù, nhưng dường như chưa có ai viết về Quách Tương, trong khi chính cô bé này mới là nhân vật nữ sảng khoái đệ nhất võ lâm.

    Sống ở đời chỉ để lai rai khoái hoạt thì trong các nhân vật chính của Kim Dung, nam có lẽ chỉ có mỗi một Lệnh Hồ Xung, và nữ chỉ có mỗi một Quách Tương. Trong khi Quách Phù quá đỗi phù phiếm hời hợt, giống như một “con gà công nghiệp” đúng với cái tên “Phù”, thì Quách Tương lại hào sảng đáng yêu biết bao.

    Có lẽ khi vừa lọt lòng, cô bé “Tiểu đông tà” này đã phải gặp nhiều cảnh hung hiểm lỳ lạ, bị nữ ma đầu Lý Mạc Sầu bắt đi, được Dương Quá cứu thoát, lại phải uống sữa beo để sống nên tính tình mười phần cổ quái, khác hẳn cô chị nhạt nhẽo, vừa ngu đần vừa đỏng đảnh.

    Cảnh ba chị em Quách Phù, Quách Tương và Quách Phá Lỗ ghé vào quán rượu ven đường đã làm nổi bật nét tương phản sâu sắc giữa hai chị em. Trong khi cô chị Quách Phù luôn muốn giữ phong cách lạnh lùng khinh khỉnh của một “đại gia chi nữ” giữa đám “phàm phu tục tử” trong một quán rượu bình dân thì cô em Quách Tương lại hào sảng cởi cành thoa ngọc đem cầm cho chủ quán để đãi tất cả thực khách xa lạ uống rượu giữa trời tuyết đổ.

    Thử tưởng tượng khi đang rong ruỗi giữa một buổi chiều đông lạnh giá, bạn ghé vào một quán nhỏ bên đường để uống vài ly rượu cho ấm bụng, mà chỉ dám uống dè chừng vì túi tiền không cho phép. Bỗng dưng trong đám thực khách có một cô bé xinh đẹp đứng lên cầm cành thoa đưa cho chủ quán đổi thành rượu để đãi bạn cùng mọi người có mặt, xin mọi người hãy uống thoải mái để cùng vui, và xua đi cái giá buốt của chiều đông! Thử hỏi có gì trên đời thống khoái hơn thế, và có ly rượu nào ngon hơn, ấm lòng hơn?

    Chỉ một chi tiết đó đã quá đủ xứng đáng để mọi anh hùng hào kiệt lẫn bọn tửu đồ trong thiên hạ nối đuôi nhau tới xin kết giao với cô bé Quách Tương!

    Khi bình tác phẩm Tây sương ký của Vương Thục Phủ, Kim Thánh Thán nêu ra 33 điều thống khoái trong đời, trong có điều thứ hai rất cảm động mà mọi người vợ trên đời nên “khắc cốt minh tâm”(!):

    “Người bạn xa mười năm, thình lình đến chiều hôm. Mở cửa chào nhau xong, chẳng kịp hỏi đi thuyền hay đi bộ, cũng chẳng kịp mời ngồi ghế hay ngồi giường!...
    Hàn huyên qua loa, liền chạy mau vào nhà trong, sẻ hỏi mẹ đĩ: “Mình có được như bà Đông Pha, sẵn có rượu để dành không?”. Mẹ đĩ tươi cười, rút cành trâm vàng đưa cho…
    Tính ra có thể thiết khách được ba ngày…
    Chẳng sướng lắm sao?”
    (Mái Tây, Nhượng Tống dịch, NXB Tân Việt, 1960, tr.313).

    Đó quả là một điều thống khoái trên đời cho những đức ông chồng có tính quảng giao và là niềm tự hào của những bà vợ hiền suốt kim cổ đông tây!

    Đem cành trâm vàng trên đầu đưa cho chồng đem bán để đãi bạn, điều đó dù cực kỳ tuyệt diệu và cực khó đối với phụ nữ trênđời, nhưng dù sao cũng còn chút giới hạn. Đó là đãi bạn. Mà lại là bạn cố tri mười năm gặp gỡ.

    Đằng này cô bé Quách Tương lại đem cành thoa cực quý đổi rượu để đãi những người không hề quen biết chỉ để vui, và để truyền cái vui đó đến người khác trong quán rượu, thì cái tâm đó e còn vượt quá cái tâm chiều chồng của vị hiền thê kia nữa.


    Nhà văn Mai Thảo kể rằng, có lần gặp Bùi Giáng đi lang thang qua tòa soạn, bèn kéo nhà thơ này vào và xin bài thơ để kịp in số đặc biệt về ông. Họ Bùi bèn xin một chai bia rồi ngồi làm một mạch mấy chục bài thơ ngay tại chỗ, mà bài nào cũng là tuyệt bút. Trước sự kinh ngạc của nhà văn Mai Thảo, Bùi Giáng chỉ mĩm cười: “Vui thôi mà!” rồi mang khăn gói tiếp tục lang thang

    Đó cũng chính là cái “Vui thôi mà!” của cô bé Quách Tương trong quán rượu. Một người dùng thơ giữa đời, một người dùng cành thoa ngọc trong truyện, những việc làm ngẫu hứng đó có chỗ giống như cái tâm “vô công dụng hạnh” của Phật giáo.

    Làm mọi việc với cái tâm rỗng không, Tâm vô sở trụ. Vui thôi mà!

    Lễ sinh nhật của cô bé Quách Tương có lẽ là cảnh tượng lạ lùng và hứng thú nhất trong bộ Thần điêu hiệp lữ. Trong khi bên ngoài đại hội quần hào đang diễn ra sôi nổi thì trong căn phòng nhỏ của mình, một cô bé mười mấy tuổi đầu lại ngồi uống rượu, cười nói đắc chí với biết bao kỳ nhân dị sỹ ẩn cư trên chốn giang hồ.

    Cảnh tượng đó khiến Hoàng Dung ngẩn cả người nhưng lại khiến người đọc cực kỳ thống khoái, chỉ muốn xin ngồi vào bàn để nâng chén mừng ngày sinh nhật cô Quách Tương tiểu muội.

    Đành rằng những người này theo lời mời của Dương Quá mà đến mừng sinh nhật cô, nhưng thử hỏi người tay quái kiệt chọc trời khuấy nước như Tuyệt hộ thủ Thánh nhân sư thái hay Chuyển luân vương Trương Nhất Manh làm gì có thể ngồi uống rượu vui vẻ với một cô nhóc theo thể điệu “bình bối luận giao”, nếu như họ gặp một cô nương phù phiếm và nhạt nhẽo kiểu Quách Phù?

    Phàm đạo kết giao trong thiên hạ, gặp nhau lần đầu, chỉ cần nửa câu nói hay một ngụm rượu thôi cũng đủ để xác định người đó đáng là bạn hay không.

    Mà là bạn để uống rượu lại càng khó. Đã uống rượu là phải nói chuyện. Tửu nhập ngôn xuất mà. Trong những cuộc gặp gỡ lần đầu đó, nếu có rượu ngon thì dĩ nhiên là điều thống khoái, nhưng khi câu chuyện đã thực sự vui thì rượu có nhạt một chút cũng không sao, niềm vui sẽ truyền hơi ấm để làm chén rượu nhạt thêm nồng.

    Chỉ có người nhạt mới khiến cho rượu và câu chuyện nhạt theo. Mà uống rượu với người nhạt thì chán lắm. Lúc đó thì mọi loại rượu thượng hảo hạng trong thiên hạ có uống vào cũng đều nhạt hơn rượu gạo nước ba!

    Chỉ trong quan hệ làm ăn giữa xã hội, con người mới chấp nhận uống rượu cùng người nhạt (mà những kẻ đã mê tiền thì phải là người nhạt!), để tìm mọi cách moi được số tiền không nhạt đằng sau con người nhạt, chứ những tay quái kiệt giang hồ, có cần gì đến bọn tục sỹ kia!

    Trong bài “Tây Thi: từ Lý Bạch đền Kim Dung”, có nói rằng, trong tác phẩm Việt nữ kiếm, Kim Dung đã nối tiếp cung bậc Ô thê khúc của Lý Bạch để cực tả dung nhan tuyệt thế của Tây Thi bằng sự sững sờ của cô bé chăn dê A Thanh, chứ không tả trực tiếp sắc đẹp của người con gái đất Việt. Trong Thần điêu hiệp lữ, Kim Dung cũng dùng bút pháp đó để cực tả tính cách hào sảng đáng yêu của cô bé Quách Tương, bằng cách tả Hoàng Dung đứng lén nhìn cô con gái mới mười mấy tuổi đầu của mình uống rượu cực kỳ hàohứng cùng các nhân vật quái dị trong võ lâm mới gặp lần đầu tiên trong ngày sinh nhật. Vui thôi mà!

    Sau những tháng ngày phiêu bạt giang hồ tìm Dương Quá trong vô vọng, Quách Tương xuống tóc đi tu để sáng lập nên phái Nga My. Điều đó quả là một thiệt thòi quá lớn cho bọn hào sỹ võ lâm, nhưng cũng là lẽ tất nhiên, bởi thử hỏi trong đám mày râu, có ai xứng đáng với cô gái đáng yêu đó? Trừ nhân vật Dương Quá mà cô thầm yêu thì trong cõi giang hồ họa chăng chỉ có Lệnh Hồ Xung!

    Đọc xong Thần điêu hiệp lữ, chúng ta chỉ muốn dẫn Quách Tương đến gặp Kim Thánh Thán, để xin nhà phê bình hãn hữu cổ kim này thêm vào lời bạn của ông điều thống khoái thứ 34:

    “Có được một tiểu muội như Quách Tương để cùng nhau rong chơi và “Lai rai chén rượu giang hồ”, chẳng cũng sướng sao?”.



  14. 3 Thành viên dưới đây cảm ơn Hansy vì bài viết hữu ích này


  15. #18
    Banned
    Hiện Đang :    Hansy đang ẩn
    Tham gia ngày : Jan 2012

    Bài gửi : 0
    Thanks
    5.759
    Thanked 6.595 Times in 1.818 Posts

    Hoàng Dược Sư

    12.
    HOÀNG DƯỢC SƯ
    Một cõi trời riêng



    Chính tà nguồn cội là đâu?
    Độc tôn duy ngã chốn Đào Hoa chơi
    Mênh mông tiếng sáo trùng khơi.


    Cây dừa và cây thông là hai loại cây mà ai cũng biết. Cây dừa bình dị và dân dả quá, còn cây thông thì tự ngàn xưa đã được đưa vào văn học như là biểu tượng của người quân tử. Nhiều khi ngắm chúng, lại liên tưởng đến hai hình ảnh trái ngược nhau trong cuộc đời.

    Cây dừa ở dưới gốc trơ trụi, nhưng khi đã lên cao thì rất nhiều cành lá và trái xúm xít bám vào, trong khi suốt từ gốc đến hết phần thân không hề có một lá nào.

    Nó giống như hình ảnh của lợi danh và quyền lực. Con người thuở hàn vi chẳng ai ngó ngàng đến, nhưng hễ đã nắm được quyền lực hay tiền bạc thì lập tức có hàng trăm ngàn người vây quanh. Càng lên cao càng nhiều người xu phụ. Lắm kẻ lưu manh giảo hoạt như chiếc lá dừa vươn ra rất rộng, thường làm ra vẻ sẵn sàng liều mình che chở cho thân cây. Để rồi khi cái ngọn dừa cao ngất kia bị ngã xuống thì cành lá tua tủa đang xúm xít vây quanh lập tức tan tác hết, chỉ còn trơ lại cái gốc xù xì.

    Con cóc sẽ phải trở về với chân tướng con cóc, dù có thể cuộc đời đã có lúc dùng tiền bạc và quyền lực để biến nó thành con thiên nga trong hoang tưởng.

    Hình ảnh đó có lẽ không được nên thơ lắm, nhưng lại thấy nó phản ánh rất đúng một khía cảnh của cuộc sống. Đó có thể là trường hợp của Tinh túc lão quái Đinh Xuân Thu. Khi chiến thắng thì được đệ tử tung hô như thần linh, nào là “thần thông quảng đại, sánh ngang nhật nguyệt, uy vũ trùm đời”…, nhưng khi thất bại thì đệ tử trở mặt ngay để mạt sát như loài chó lợn!

    Trái lại, cây thông thì phía dưới um tùm xanh tươi nhưng càng lên cao thì cành lá càng thóp lại dần. Cái xúm xít ở dưới thưa dần đi. Khi đến đỉnh chỉ còn trơ ngọn lá cô đơn, một mình đâm vút lên cao. Và nó vẫn kiêu ngạo đứng trơ vơ để chống chọi với cái giá buốt của mùa đông. Mặc cho gió thổi và tuyết phủ, cây thông vẫn sừng sửng để đắm chìm trong nỗi cô liêu trầm mặc. Đó là hình ảnh của nghệ thuật và phong cách tài hoa thực sự (đương nhiên là có những cái tài hoa nửa mùa!).

    Ở mức độ càng thấp thì càng đông người phụ họa, càng lên cao thì số lượng người chia sẻ được càng vơi dần. Đến chỗ cao chót vót thì người nghệ sỹ sẽ phải đối diện với cô đơn, dù cái tâm của họ có thể ôm trùm cả thên hạ. Truyện Kiều đã đi vào lòng người cả mấy trăm năm, làm say mê mọi người là thế, nhưng tâm sự của Nguyễn Du vẫn là một ẩn ngữ thiên thu. Nó mãi mãi cô đơn, như ngọn thông lẻ loi đứng giữa trời.

    Đọc Kim Dung, nhân vật Hoàng Dược Sư luôn làm liên tưởng đến hình ảnh cây thông, dù nhân vật cổ quái này chưa gợi lên trong lòng nhiều người những tình cảm mặn mà thật sự.

    Không có nhân vật nào có kiến thức bách khoa và văn võ toàn tài như Hoàng Dược Sư, kể cả Tạ Tốn và Nhậm Ngũ Hành – hai tay quái kiệt võ lâm. Cầm kỳ thi họa, dịch lý, bát quái ngũ hành, trận pháp, võ công… tất cả đều đạt đến chỗ tột đỉnh của tinh hoa. Vậy mà không rơi vào chỗ tạp học như Tô Tinh Hà. Tô Tinh Hà vì ham mê tạp học mà võ công sa sút, bị sư đệ Đinh Xuân Thu làm tan vỡ cả môn phái.

    Hoàng Dược Sư thì khác hẳn. Trấn pháp trên đảo Đào Hoa sẵn sàng vây khổn những kẻ nào liều lĩnh dám dặt chân lên đảo. Cây ngọc tiêu réo rắt trên sóng biển sẽ là vũ khí cực kỳ lợi hại để giao đấu nội lực với các đại cao thủ võ lâm. Võ công đủ trấn áp một phương với ngoại hiệu Đông Tà. Kiến thức uyên bác trùm đời đủ để “cưỡng từ đoạt lý”. Dung mạo đẹp đẽ uy nghi đủ để mọi người kính nễ kiêng dè.

    Còn gì đáng thêm vào nữa cho nhân vật mang chứa trong mình hầu như toàn bộ tinh hoa của nhân loại?

    Nhưng Hoàng Dược Sư gây được ấn tượng vô cùng sâu sắc đối với người đọc không bởi chỉ tại cái tài hoa mà chính ở chỗ tính tình cổ quái cao ngạo. Ông cao ngạo không phải chỉ vì giỏi, mà vì ông muốn đạp đổ thị phi, xóa nhòa mọi ranh giới chính tà trong cõi giang hồ để đẩy tự do và suy tưởng cá nhân đến chỗ tuyệt đối.

    Chữ “tà” trong ngoại hiệu Đông Tà của ông không có nghĩa đơn giản là đối lập với “chính” trong phạm trù “tà chính”, mà nó có nghĩa rằng dưới mắt ông, mọi nỗ lực muốn kiến tạo một ranh giới rạch ròi giữa chính và tà chỉ là điều ngu xuẩn. Chính tà, thiện ác chỉ là sản phẩm được nhào nặn theo cái nhìn và ý muốn của những con người có ý chí hùng bá, như Hoàng Dược Sư hay Nhậm Ngũ Hành.

    Nếu như Nhậm Ngũ Hành, sau khi cướp lại ngôi giáo chủ từ tay Đông Phương Bất Bại, muốn vạch lại dòng chảy của lịch sử theo ý chí của mình, thì Hoàng Dược Sư lại kiêu hãnh đứng một bên, hoặc đứng trên cái dòng chảy ấy, vì nó không thể hòa hợp được với tâm hồn của kẻ tài hoa tuyệt đỉnh như ông. Có lẽ chính trong những suy tưởng đó ông mới thực sự là kẻ cô đơn vì không có kẻ đồng thời nào chia sẻ được. Chỉ sau này ông mới gặp được một người bạn vong niên là Dương Quá, chỉ vì anh chàng này dám yêu và cưới sư phụ - một điều đại cấm kỵ của võ lâm.

    Nhưng sự chia sẻ đó cũng chỉ mới ở một phần nhỏ: Vượt qua được định kiến của xã hội.

    Cũng như Nguyễn Du làm quan cho triều Nguyễn luôn giữ thái độ buồn rầu mà hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng đó là tâm sự hoài Lê! Thật ra, đó chỉ là tâm sự cô đơn của những kẻ tài hoa tuyệt đỉnh không muốn để mình bị cuốn trôi theo dòng chảy của lịch sử mà không tìm được người đồng điệu.

    Nếu Hoàng Dược Sư thiết kế một đảo Đào Hoa thơ mộng giữa đại dương để kiêu ngạo một mình rong chơi một cõi, thì Nguyễn Du lại đạm nhiên lễ nhượng xây nên một tòa Tân thanh lặng lẽ giữa cõi bể dâu để mở ra những trận du hí thần thông. Trong khi đảo Đào Hoa như thiên la địa võng vây hãm con người thì tòa Tân thanh lại lãng đãng sương mù để mở rộng vòng tay ôm lấy toàn nhân loại, nhưng cả hai đều là những “một cõi trời riêng” làm nơi trú ẩn của những cây thông xanh cô độc!

    Hoàng Dược Sư cho cắt lưỡi và đâm thủng tai những kẻ nô bộc để biến chúng thành những người câm điếc, không muốn chúng đóng vai trò của những sứ giả thông tin vì ông gần như muốn cắt đứt mọi quan hệ với xã hội bên ngoài, không muốn cho những kẻ không xứng đáng đặt chân đến cõi riêng đó.

    Dẫu những kẻ nô bộc kia toàn là những tên lưu manh đầu trộm đuôi cướp, giết người không gớm tay, đáng để giết đi. Nhưng việc làm đó của ông, dưới quan điểm đạo lý bình thường ta sẽ cho là man rợ. Ông trừng phạt bọn người gian ác kia có lẽ vì muốn “Thế thiên hành đạo”, muốn thay trời để xử lý tội ác, theo kiểu của riêng ông, vì rõ ràng ông không tin gì vào cái gọi là “đạo lý trần gian”. Nói theo ngôn ngữ của các nhà hiện sinh thì có thể Hoàng Dược Sư muốn làm điều ác vì điều thiện đã được con người từ thuở xa xưa tranh nhau làm cả rồi!

    Nhưng nếu đạo lý “dĩ bạo dịch bạo” (dùng điều bạo ngược để thay cho điều bạo ngược) vẫn tràn lan trong cõi thế. Và bạo lực cùng thù hận vẫn là động cơ góp phần thúc đẩy dòng chảy của lịch sử nhân loại thì ngẫm ra, vị chúa đảo Đào Hoa kia chắc gì đã “tà”? Khi bị nghi oan là đã tàn sát những người trong đám Giang Nam lục quái, ông cũng chẳng thèm đính chính, vì cho rằng đó không xứng đáng với mình.

    Như cây thông xanh hiên ngang reo trong ngàn cơn gió giá buốt mùa đông, Hoàng Dược Sư vẫn luôn lạnh lùng kiêu ngạo với cõi trời riêng.


    Hoàng Dược Sư cực kỳ kiêu ngạo và có đôi phần tà quái thì đó cũng là lẽ đường nhiên, nếu quả như trên cõi đời có thể tồn tại một nhân vật tổng hợp được ngần thứ ấy nơi một con người.

    Hình tượng Hoàng Dược Sư như muốn vượt cả những thiên tài khổng lồ thời Trung cổ Tây phương: Leonardo da Vinci hay Mitchelangelo Buonarroti. Nếu Leonardo vừa là họa sỹ, kỹ sư vừa là nhà soạn nhạc và nhà khoa học hay Mitchelangelo Buonarroti vừa là họa sỹ, nhà điêu khắc, vừa là nhà kiến trúc và nhà thơ, thì Hoàng Dược Sư còn hơn thế nữa: ấy là sở đắc về võ công!

    Nhưng tự xưa đấng tạo hóa luôn “đồ toàn”, nên khi Ngài đem những chất liệu ưu mỹ nhất để tạo nên những con người tài hoa đủ điệu như Hoàng Dược Sư, thì Ngài lại bắt họ phải gánh chịu một bi kịch nào đó trong cuộc sống, để cho những tạo vật khác khỏi so bì.

    Tưởng chừng như với bản lĩnh nghiêng trời như Hoàng Dược Sư, thì trên đời này không có gì lại không bị khuất phục dưới ý chí của ông. Và hai chữ “bất khả” có lẽ không thể tồn tại trong cuốn tự điển sống của vị đảo chúa Đào Hoa. Với Hoàng Dược Sư thì muốn là được, như lời nói của Caesar là luật lệ. Nhưng nếu đối với giang hồ, cái bóng khổng lồ của chúa đảo Đào Hoa bao trùm lên mọi cao thủ võ lâm như một tượng đài bất khả xâm phạm, thì nỗi khổ của ông lại bắt nguồn từ một chỗ tưởng chừng êm ấm nhất: gia đình.

    Trong các tác phẩm võ hiệp, bi kịch gia đình của các nhân vật giang hồ thường là cảnh toàn gia bị thảm sát như Tạ Tốn, Lưu Chính Phương để đẩy những nhân vật đó vào chỗ tận cùng khổ lụy, thì đối với Hoàng Dược Sư lại khác. Người vợ hiền của ông vì vắt kiệt cả sức lực để ghi nhớ Cửu âm chân kinh nên phải sớm qua đời, để lại đứa con gái thông minh tuyệt đỉnh là Hoàng Dung.

    Cô “con gái rượu” này làm ông phải bao phen lao đao vất vả vì cô mãi chạy theo Quách Tĩnh, một kẻ mà dướí mắt ông chỉ là một tên thô lậu ngu xuẩn, không đáng giá một xu.

    Đó mới thực sự là nỗi thống khổ của bọn tài tử cổ kim!

    Cuộc đời vẫn thường đem những thứ vớ vẩn như thế để chơi khăm khách tài hoa, bắt con kình ngư phải ngắc ngoải trong vũng nước bùn, như một lời răn đe giễu cợt. Cha tài hoa tuyệt đỉnh, con gái thuộc hàng cực phẩm nhân gian, thì chàng rễ lại lù đù như một anh “Hai Lúa”.

    Khi Tây độc Âu Dương Phong đem cháu là Âu Dương Khắc, còn Hồng Thất Công dẫn đồ đệ là Quách Tĩnh đến đảo Đào Hoa cầu hôn, ông thấy thà chấp nhận Âu Dương Khắc còn hơn để Hoàng Dung kết thân cùng Quách Tĩnh, dù ông thừa biết Âu Dương Khắc là loại người bạc hạnh, bởi một lý do đơn giản là anh chàng công tử Bạch đà sơn dù sao cũng phong lưu nho nhã và có chút tài hoa. Có lẽ với ông, nhân cách còn có thể giũa mài chứ tục cốt thì khó lòng hoán cải, như bài thơ vịnh trúc của Tô Đông Pha:

    Nhân khả thực vô nhục
    Bất khả cư vô trúc
    Vô nhục linh nhân sấu
    Vô trúc linh nhân trúc
    Nhân sấu thượng khả phi
    Tục sỹ bất khả y


    (Có thể ăn không thịt. Không thể sống không trúc. Không thịt khiến người gầy. Không trúc khiến người tục. Người gầy mập có ngày. Kẻ tục đành bó tay).

    Tục cốt quả là hết thuốc chữa. Dù một kẻ kiến thức bác cổ thông kim hay tiền của trùm đời nhưng nếu bản chất là tục cốt thì vẫn là tục cốt, vì những kiến thức vay mượn hay ngọc ngà châu báu vẫn không thể che giấu nỗi cái cốt lõi của con người.

    Dưới mắt những kẻ tài hoa thì đúng là “Tục sỹ bất khả y”.

    Chính nổi cô đơn trong suy tưởng cùng với nỗi buồn về gia đình đã khiến cho con người tài hoa như Hoàng Dược Sư lắm phen phải ngớ ngẩn như một kẻ tâm thần.

    Ông bố tài hoa tung hoành khắp thiên hạ, dưới mắt xem không có người, vậy mà đành lòng chấp nhận một chàng rễ lù đù lậu đậu. Tấm lòng của người cha đã đánh bạt sự kiêu ngạo ngất trởi. Hình ảnh Hoàng Dược Sư cuống cuồng tìm con trên biển là hình ảnh đáng yêu nhất của nhân vật này, chứ không phải sự kiêu ngạo lạnh lùng đôi khi vớ vẫn như bắt bọn cao thủ Hầu Thông Hải chui qua đáy quần mình mà đi. Hành động đó khiến Hoàng Dược Sư trở nên rẻ tiền như tên bán thịt bắt Hàn Tín lòn trôn giữa chợ.

    Ở điểm này Hoàng Dược Sư thua xa Nhậm Ngã Hành, chưa nói gì đến Tạ Tốn. Nhưng chính hình ảnh dung tục đó, trong một sát na, đã kéo Hoàng Dược Sư ra khỏi “một cõi trởi riêng” mà về với “cõi người ta” vốn đầy những cái tầm thường dung tục.

    Hình ảnh vị thanh y quái khách ẩn hiện thất thường với mặt nạ da người trơ lỳ vô cảm và cây ngọc tiêu vẫn là biểu tượng hấp dẫn người đọc vì sự lạnh lùng cao ngạo, vì tài hoa tột đỉnh và trên hết là sự cô đơn.

    Và đảo Đào Hoa giữa đại dương mênh mông sóng nước kia sẽ không chỉ là của riêng của Hoàng Dược sư mà là một đảo Đào Hoa mang nghĩa tượng trưng trong tâm tưởng mỗi chúng ta, để những khi bị cuộc đời đẩy vào nỗi cô đơn cùng tột, ta sẽ quay về tìm lại chính mình trong “một cõi trời riêng”.



  16. 4 Thành viên dưới đây cảm ơn Hansy vì bài viết hữu ích này


  17. #19
    Banned
    Hiện Đang :    Hansy đang ẩn
    Tham gia ngày : Jan 2012

    Bài gửi : 0
    Thanks
    5.759
    Thanked 6.595 Times in 1.818 Posts

    Viên Tính

    13.
    Vài suy nghĩ về

    VIÊN TÍNH



    Câu chuyện trong Phi Hồ ngoại truyện của Kim Dung xoay quanh bi kịch gia đình không hấp dẫn lắm, nhưng số phận của các nhân vật Trình Linh Tố cùng ni cô Viên Tính và các câu kệ trong kinh Pháp Cú ở cuối tác phẩm đã để lại trong lòng người một ấn tượng sâu sắc.

    Trình Linh Tố mang trái tim đôn hậu về bên kia thế giới với nỗi ngậm ngùi của một A Tử với Tiêu Phong. Yêu một người mà trái tim người đó đã hoàn toàn về một kẻ khác, có lẽ không một nhân vật nữ nào đáng tội nghiệp hơn Trình Linh Tố.

    Kim Dung đã viết về cô bằng những lời tha thiết ngậm ngùi, chắc là để an ủi linh hồn của cô thôn nữ thông minh tuyệt đỉnh, thấu hiểu hết mọi độc vật trong thiên hạ kia. Sự thông minh của cô hàm chứa sự chất phác đơn giản, khiến người đọc sinh lòng cảm mến. Nó khác hẳn lối thông minh ma mãnh, thủ đoạn và nặng phần trình diễn của Hoàng Dung.

    Nhưng ở đây, chỉ xin ghi lại một vài cảm nhận từ nhân vật Viên Tính.

    Viên Tính là một ni cô, nhưng cũng như Nghi Lâm trong Tiếu ngạo giang hồ, vị ni cô này đi tu chỉ vì sự nghiệt ngã của hoàn cảnh. Cả hai nhân vật nữ xinh đẹp này xuất gia bởi một lý do đơn giản là khi vừa lớn lên, họ thấy mình sống trong một ngôi chùa!

    Mẹ Viên Tính là Ngân Cô, một cô gái làng chài xinh đẹp, bị tên cường hào Phụng Thiên Nam hãm hiếp mà mang thai. Cha Ngân Cô đến nhà tên cường hào phân trần thì bị đánh đập tàn nhẫn, về nhà uất ức buồn phiền mà chết. Gia tộc lại cho rằng Ngân Cô là nguyên nhân gây nên cái chết của cha, nên không cho cô mặc hiếu phục, không cho lạy quan tài và đòi bắt cô bỏ rọ thả sông!

    Chi tiết này chỉ có một hai dòng trong nguyên tác, nhưng đối với người đọc lại có tác động mãnh liệt như một bản cáo trạng về thân phân nghiệt ngã của người phụ nữ Á Đông ngày trước.

    Ngân Cô trốn khỏi thị trấn, sinh con xong, lang thang ăn mày và lần mò về lại quê nhà. Một thanh niên bán cá thương hại muốn dang tay bảo bọc hai mẹ con thì bị tên cường hào giết chết, ngay trong ngày cưới. Ngân Cô phải chạy đến nương nhờ nhà Thương Bái. Vị “ngụy đại hiệp” này thấy Ngân Cô xinh đẹp nên động lòng dục. Ngân Cô bị làm nhục phải treo cổ tự vẫn.

    Một vị sư thái là cao nhân tiền bối của võ lâm xuất hiện, cứu Viên Tính mang về Hồi Cương, nuôi dạy nên người.

    Đến tuổi trưởng thành, Viên Tính, với một thân võ công, bèn từ Hồi Cương tìm về Trung Nguyên để trả thù cho mẹ. Nhưng làm sao tìm ra một giải pháp báo thù trọn vẹn, khi mà kẻ thù của mẹ lại chính là cha mình, dù đó là một người cha đầy tội lỗi?

    Đạo lý phương Đông không bao giờ cho phép người con trực tiếp lên án cha mẹ, đừng nói chi đến chuyện giết, cho dẫu đó là những người mang trọng tội. Đạo lý, nếu cần phải duy trì để giữ giềng mối cho sự vận động của guống máy xã hội, sẽ được thực hiện bởi trời, bởi phép nước hoặc bởi một người nào khác.

    Trong sách Mạnh Tử, Đào Ứng đã đặt vấn đề cùng Mạnh Tử:

    Ông Cổ Tẩu – cha vua Thuấn – là người cực ác giết người phải tội chết. Ông Cao Dao là người chấp pháp muốn bắt ông Cổ Tẩu thì vua Thuấn phải xử lý thế nào?

    Đây là vấn nạn thường đặt ra trong nền văn hóa nhân loại để con người phải tìm sự điều hòa giữa đạo trời và đạo người, để làm sao cho xã hội vẫn tốt đẹp mà lương tâm con người vẫn thanh thản.

    Vua Thuấn là con thì phải bảo vệ cho cha là đạo trời. Nhưng vua Thuấn lại là vua nên theo luật phải xử tội cha để duy trì trật tự xã hội là đạo người. Làm thế nào để điều hòa sự tương xung bất khả vãn hồi?

    Giải pháp mà Mạnh Tử đưa ra là sự điều hòa mang ý nghĩa sâu xa đượm đầy tính nhân văn cao viễn trong bầu không khí cổ đại phương Đông, mà mãi đến ngày nay vẫn còn là bài học kinh điển về đạo lý làm người.

    “Thuấn sẽ xem việc bỏ thiên hạ như bỏ một đôi dép rách, lén cõng cha đi trốn, lần theo bờ biển mà ở, suốt đời vui vẻ, vui mà quên đi thiên hạ”. (Thuấn thị khí thiên hạ do khí tệ sỉ dã, thiết phụ nhi đào, tuân hải tân nhi xử, chung thân hãn nhiên, lạc nhi vong thiên hạ) (Mạnh Tử, Tận Tâm thượng).

    Nếu vua Thuấn cứ căn cứ theo phép nước để ông Cao Dao chiếu theo luật xử tử cha mình, cho đúng với nghĩa “minh quân” hay “thiết diện vô tư” thì trước mắt có thể duy trì được giềng mối xã hội đấy, nhưng chắc chắn sẽ để lại một vết thương trầm trọng không gì cứu vãn được trong đạo lý làm người cho thế hệ mai sau.

    Thần thoại Hy Lạp cũng có một câu chuyện tương tự. Agamemnon, vua xứ Mycenae, khi dẫn đoàn quân viễn chinh Hy Lạp quay về sau chiến thắng thành Troy, thì bị hoàng hậu Clytemnestra cùng người tình là Aegisthus lập mưu giết chết.

    Con trai Agamemnon và Clytemnestra là Orestes, với sự trợ giúp của chị là Electra, đã giết chết mẹ và Aegisthus để trả thù cho cha.

    Tưởng rằng như thế là công bằng, vì nợ máu phải trả bằng máu. Nhưng ngay sau đó Orestes bị các nữ thần Eumenides trừng phạt, mãi cho đến khi có sự can thiệp của nữ thần Athena.

    Đông hay Tây đều cho rằng việc giết cha hay mẹ để đòi lại sự công bằng cho người đã khuất phải là nhiệm vụ của thần linh, của trời, chứ không phải của con người.


    Theo lời sư phụ dặn, Viên Tính phải ba lần cứu Phụng Thiên Nam thoát chết dưới tay Hồ Phỉ, như để trả món nợ tình phụ tử, dù nàng chỉ là cái bào thai nghiệt oan của một tên dâm ác, và đến khi trưởng thành vẫn không biết đến cha.

    Kim Dung quả thực sâu sắc khi để Phụng Thiên Nam chết thật đột ngột bởi những lưỡi “vô ảnh ngân châm” của một tên gian ác khác là Thang Bái. Rồi ông lại bố trí cho Viên Tính hạ sát Thang Bái. Thật không có giải pháp nào hoàn hảo hơn được nữa.

    Nếu như Kim Dung để Phụng Thiên Nam giao đấu rồi chết dưới tay Thang Bái hoặc Hồ Phỉ, trước sự chứng kiến của Viên Tính, thì người đọc vẫn không lấy làm thỏa mãn. Mà có thể cả Viên Tính cũng cảm thấy ray rứt trong lòng, dù nàng đã lập thệ chỉ cứu Phụng Thiên Nam đúng ba lần.

    Giải pháp của Kim Dung là sự điều hòa mang tính đạo lý rất sâu xa.

    Và cũng chính trong bước đường tầm thù, khi gặp Hồ Phỉ, Viên Tính lại vướng vào chữ tình. Đối với Viên Tính là sự oan nghiệt, vì nàng đã lập lời trọng thệ sẽ kế thừa y bát của sư phụ, sẽ suốt đời làm bạn với thanh đăng cổ Phật, như để đền đáp ơn trùng sinh tái tạo.

    Ở đoạn cuối tác phẩm, những lời bộc bạch tâm sự của nàng trước nấm mộ song thân Hồ Phỉ thật cảm động:

    “Giá như ngày trước ta không lập lời trọng thệ trước sư phụ, thì có thể trọn đời theo y đến tận chân trời, hành hiệp trượng nghĩa, há chẳng hay ư? Hỡi ơi, Hồ đại ca! Đại ca đau khổ, nhưng có biết chăng tiểu muội còn thương tâm gấp mười?”.

    “Giá như…”. “Phải chi…” vẫn luôn là câu nói tiếc nuối của con người, để hoài thương quá khứ hoặc nguôi đi một chút hận lòng. Cuộc sống là một cuộc thi mà mỗi thí sinh chỉ có một tờ giấy duy nhất để làm bài, không cho ai làm nháp!

    Nếu như các chữ “Giá như…”. “Phải chi…” không còn trong tự điển của cuộc sống thì Nguyễn Du lấy đâu ra chỗ để viết “Đoạn trường tân thanh”?

    Nỗi lòng Viên Tính là vậy, nhưng thái độ kiên quyết và dứt khoát của nàng trước lời tHỉnh cầu của Hồ Phỉ lại khiến người đọc bao xiết cảm thông. Cuộc đời nàng vốn đã đầy trầm luân khổ hạnh, mang ơn tái tạo của sư phụ thì làm sao nàng có thể phản bội lời thề để tìm hạnh phúc riêng tư? Đó cũng chính là tâm trạng phân vân của Thúy Kiều khi gặp lại gia đình ở chốn thảo am.

    Trùng sinh ơn nặng bể trời
    Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi.


    Mười lăm năm lưu lạc bị đày đọa trong chốn phong trần, gặp lại gia đình và người yêu cũ có còn niềm vui mừng nào hơn nữa? Nhưng ơn trùng sinh tái tạo của sư Giác Duyên lấy gì để đền đáp? Nhiều nhà phê bình cho đó là thái độ không thực lòng của Thúy Kiều, thì nghĩ cũng thực lòng không hiểu họ đọc Kiều theo kiểu nào, và đọc để làm gì?

    Một người đã mười lăm năm trầm luân lưu lạc, đã bị đẩy đến tận cùng nỗi thống khổ của nhân gian, phải nhờ dòng nước dìm sâu hết mọi tủi nhục của đời người, lại được một sư thái cứu lên và nương thân nơi cửa Phật, thì người đó có thể nhìn đời bằng đôi mắt hồn nhiên của ngày cùng hai em dạo chơi trong ngày lễ đạp thanh, hay đôi mắt đau buồn nhưng vẫn còn hy vọng của ngày phải lìa nhà theo Mã Giám Sinh?

    Trùng lai quả là điều người đã mòn mỏi chờ đợi, nhưng còn ơn trùng sinh, lòng người sao nỡ?

    Tìm mối điều hòa cho xuôi chéo mát mái giữa những xung đột, giữa hiếu và tình, giữa hạnh phúc và trách nhiệm… vẫn là những vấn đề muôn thuở của con người. Lắm khi thoát được ra khỏi vòng tranh chấp, con người đã thấy đời đổ tan hoang với những nổi lòng thê thiết.

    Thúy Kiều theo cha mẹ về đoàn tụ với gia đình là một ách điều hòa, Viên Tính quay về lại Hồi Cương để vĩnh viễn chai tay Hồ Phỉ phải chăng cũng là một cách điều hòa? Bài kệ của nàng trước lúc chIA tay là để cảnh tỉnh Hồ Phỉ hay để nhắc nhở chính mình?

    Nhất thiết ân oán hội
    Vô thường nan đắc cửu.
    Sinh thế đa ưu sự
    Mệnh nguy ư thần lộ.
    Do ái cố sinh ưu
    Do ái cố sinh bố.
    Nhược ly ư ái giả
    Vô ưu hựu vô bố.


    (Mọi ân oán đời này
    Đều vô thường chóng phai
    Cõi thế nhiều khổ não
    Đời người như sương mai
    Do ái sinh sợ hãi
    Do ái sinh ưu phiền
    Kẻ nào lìa chữ ái
    Tâm mới được an nhiên)

    Không có tác phẩm nào của Kim Dung để lại cho người đọc một cảm giác bâng khuâng như trong đoạn cuối của Phi Hồ ngoại truyện. Không vui tươi như Tiếu ngạo giang hồ, không thê thảm như Thiên long bát bộ. Người đọc không buồn đau mà chỉ có một cảm giác hụt hẫng và trống rỗng. Như tâm trạng Hồ Phỉ đứng bên nấm mộ song thân cùng bình cốt hôi của Trình Linh Tố, nhìn theo bóng Viên Tính xa dần.

    “Viên Tính lắc đầu, cứ thúc ngựa đi. Hồ Phỉ nhìn theo bóng nàng. Tám câu Phật kệ vẫn còn văng vẳng bên tai.
    Con bạch mã đứng bên cạnh chàng nhìn theo bóng Viên Tính đi mỗi lúc một xa, bỗng nhiên hý lên một tiếng bi thương. Nó không hiểu vì sao vị chủ nhân cũ của nó không hề ngoảnh đầu nhìn lại”.


    Chi tiết Viên Tính “Thúc ngựa lặng lẽ bỏ đi mà không hề ngoảnh đầu nhìn lại” quả thật cảm động.

    Đạo Phật chủ trương “Khổ hải vô biên, hồi đầu thị ngạn” (biển khổ mênh mông, quay đầu là bến). Nhưng trong trường hợp này lại khác. Nếu Viên Tính quay đầu nhìn lại thì nàng sợ rằng sẽ không thấy bến, mà chỉ thấy một biển tình, biển khổ, và nàng sợ những con sóng trong biển đó sẽ kéo nàng trôi dạt, không biết đến những bờ bến nơi đâu.



  18. 4 Thành viên dưới đây cảm ơn Hansy vì bài viết hữu ích này


  19. #20
    Avatar của phamanhoa
    Bạn Tri Kỷ
    Hiện Đang :    phamanhoa đang ẩn
    Tham gia ngày : Aug 2012
    Đến từ : HCM City

    Tuổi: 74
    Bài gửi : 3.016
    Thanks
    13.179
    Thanked 13.956 Times in 2.980 Posts
    Blog Entries
    19
    TIÊU PHONG

    Anh hùng cái thế vướng hàm oan,
    Ôm nỗi ngậm ngùi bỏ Cái Bang.
    Hồn gởi Trung nguyên, tình mãi nợ,
    Thân về Quan ngoại, hận còn mang.
    Chạnh nhìn Tống quốc mù binh lửa,
    Đành chống Liêu vương gây tóc tang.
    Giấc mộng cùng săn chồn đuổi thỏ,
    Chôn vùi vực thẳm Nhạn Môn Quan.

    phamanhoa
    Lần sửa cuối bởi phamanhoa; 14-02-2013 lúc 07:19 PM

  20. 3 Thành viên dưới đây cảm ơn phamanhoa vì bài viết hữu ích này


+ Trả lời chủ đề
Trang 2/36 ĐầuĐầu 1 2 3 4 12 ... CuốiCuối

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình