+ Trả lời chủ đề
Trang 1/4 1 2 3 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 35

Chủ đề: Những "ngôi trường xưa Em học" (Đoản Văn) - NhàQuê

  1. #1
    Avatar của NhàQuê
    Bạn Tri Kỷ
    Hiện Đang :    NhàQuê đang ẩn
    Tham gia ngày : Oct 2011
    Đến từ : Connecticut - United States

    Tuổi: 80
    Bài gửi : 1.403
    Thanks
    607
    Thanked 3.506 Times in 1.159 Posts

    Những "ngôi trường xưa Em học" (Đoản Văn) - NhàQuê



    Những "ngôi trường xưa Em học"





    Đoản 1- Cổ Thụ


    Trừ những khi mây xuống thả vòi là đà thấp hơn ngọn cây, báo hiệu cơn mưa ập đến. Còn không, từ bên nầy của cánh đồng rộng tôi trông thấy làng Tân Thủy của tôi mờ mờ màu xanh núi, giăng ngang tựa tranh vẽ, bầu trời nhạt hơn phía sau.


    Trên con đường dẫn từ quận lỵ Ba Tri về hướng Ðông băng qua cánh đồng ấy, tôi về trễ hơn các bạn khác mỗi ngày: Tôi đi bộ!

    Khi bắt đầu vượt đoạn đường tôi luôn nhìn Cổ Thụ làng tôi vấn kế, Cổ Thụ nhìn thằng bé đi học về mỉm cười lúc trong lòng tôi vẫn còn rộn rã lời khen của thầy, âm vang chưa tan hết. Những lúc tôi đi đầu cúi thấp vô hồn chắc Cổ Thụ cũng rưng rưng.

    Có khi tôi phải đứng chờ có người đi cùng mới dám vượt qua khu trâm bầu của chòm Ðìa Ðôi gần khoảng giữa, đám trâu đen, trâu cò đang cằn từng cọng cỏ gần đó cho biết rằng mấy đứa chăn lẩn khuất đâu đấy, sẵn sàng nhảy ra bắt nạt tôi: Thằng bé cũng đã giữ trâu cho người chú không con trai của mình, tựa chúng, nhưng tôi không hung hãn như.
    Dù không nhìn thấy trâu, qua chòm Ðìa Ðôi tôi vẫn chạy hết tốc lực sau đó vừa đi vừa thở như người tập thể dục bất đắc dĩ; Những lần như vậy Cổ Thụ nhìn tôi dáng có chút đăm chiêu, nhưng cũng có vẻ ngầm khuyến khích.

    Cổ Thụ đứng ven con lộ đất dẫn đến cuối làng, gần đoạn khởi hành hơn. Phải nói rằng con lộ đất đi dưới chân Cổ Thụ mới đúng, vì anh chàng cát bủng nầy né rẽ đi hướng khác mấy lần trong thời loạn lạc, nhường chỗ cho địa đạo, giao thông hào; Nhà tôi không xa nơi ấy.

    Không ai biết Cổ Thụ bao nhiêu tuổi, Ba Má tôi nói hồi đó giờ vẫn vậy, không lớn thêm cũng không có dấu hiệu gì già cỗi. Có thể từ xa xưa lắm những hạt mầm bị sóng triều xô giạt vào cồn cát vừa nhô lên khỏi mặt biển đôi chút, bám được rễ bắt đầu sự sống: Cuối cùng chỉ một cây non thoát được các đợt tấn công liên tiếp của sóng triều.

    Dấu chỉ bên dưới lớp đất nói rằng làng tôi là cồn cát càng ngày càng lấn biển ra xa. Khu rừng nước mặn mọc thêm dàn hàng ngang tiến về hướng Ðông lần sau khác lần thấy trước, củng cố thêm trong tôi lịch sử hình thành con giồng tên gọi Giồng Bông nơi tôi được sinh ra.

    Cây xanh mơn mởn tín hiệu hứa hẹn về vùng đất tươi tốt, hấp dẫn nhóm người đầu tiên đến đây dựng lều cắm trại định cư ...

    Theo Chúa Nguyễn "Nam Tiến" bằng cách nầy cách khác Tổ Tiên tôi xua dần lớp cư dân thời tiên khởi lập làng...Tôi, hậu duệ nhóm người lấn chiếm dựng nên quê tôi hiện giờ: Tôi nghĩ vậy!

    Ðứng vươn cao, Cổ Thụ nhìn bao hưng phế đổi dời đời nầy qua đời khác: Ði xa Cổ Thụ đứng trông theo đến khi không còn chấm nhỏ, vui mừng gần như nhón gót cao thêm cho rõ, coi có đúng kẻ trở về đấy không.

    Cổ Thụ hát reo bốn mùa gió lộng, ủ rũ u buồn vĩnh biệt mỗi lần đám tang đi qua dưới chân Người. Lo âu cho kẻ ra khơi sinh nhai giạt trôi không trở lại...
    Từng mắt lá Cổ Thụ như nghe, như thấy bao khắp và xúc cảm với từng hơi thở nhẹ của quê tôi.
    Cổ Thụ chắc cũng vui mừng mùa bội thu, rầu rầu những năm sâu rầy phá hoại.

    Gần giáp Tết, Cổ Thụ nhìn gió chướng từng cơn lọc qua khu rừng nước mặn, nhìn từng đợt sóng bổ ghềnh hùng hổ ập vào rồi lại kéo ra như muốn xô ngã khu rừng chông chênh đang cố ráng sức chống chọi, chơi vơi chao đảo như người chỉ còn có một chân phải trụ lưng vào cồn cát phía sau phụ lực.

    Có lẽ Cổ Thụ cũng nhìn thấy thằng bé trùm kín chăn nhai trộm bánh phồng sống mới phơi một nắng, bị Má bắt gặp lôi ra rửa miệng giữ răng. Mật chiếc bánh nếp trôi ngọt ngào qua cổ cùng âm vang tiếng sóng bổ ghềnh như rượt đuổi nhau luồn dưới lòng đất, không những qua tai mà ngấm sâu đưa tôi vào giấc ngủ nhẹ nhàng không mộng mị: Tuổi thơ tôi đấy!

    Rồi một ngày kia, đao phủ thủ nghiện rượu về từ hướng Bắc, chém nhát đầu tượng trưng làm hồn tôi, người vốn buộc phải câm: Ðau rướm!

    Làng tôi nghèo đến độ cần gỗ để đóng vài chiếc bàn ghế học trò cho trẻ em thế sao! Không! Cổ Thụ là cây củ chi, mã tiền,... độc dược, vô dụng từ nhánh tới lá, thân cũng nguy cơ ngộ độc. Sao lại mang ra làm thế chứ!

    Sau mấy ngày đau đớn Cổ Thụ gục ngã: Ðám chim chóc đủ màu đủ loại sống chung bao đời hốt hoảng vội vàng rời tổ, đậu nhờ những cây lân cận ngơ ngác đứng nhìn lại. Rồi như đồng loạt kêu lên ai oán cùng lúc Cổ Thụ đổ nhào, âm thanh như một chấn động khác biệt chưa lần nào nghe thấy. Ðám chim chưa muốn tản mác bay đi, đám chim mỗi lần đi qua tôi dừng lại nhìn lên, không còn sợ trên ấy có người khuất mặt như ngày xưa còn nhỏ chẳng khi nào.

    Từ đó làng tôi không còn như ca dao, có lũy tre xanh, có cây cổ thụ.
    Cổ Thụ làng tôi cao nhất trong vùng, cao hơn bất kỳ cổ thụ những nơi tôi đã đi qua. Không còn dấu mốc nào để dễ dàng nhận biết từ xa, rằng gần đó có ngôi nhà lợp lá: Ba Má Anh Chị Em tôi, cái chùm hạnh phúc ấy quây quần bên nhau một thời.


    Làm làn khói thoát ra từ lò hỏa thiêu, tôi hòa tan vào mây phiêu du về bên ấy, biết tôi có còn nhận ra được chốn xưa không. Cổ Thụ còn đâu để cho tôi xin mây một lần xà xuống thấp. Tôi chẳng có chút nào so được con chim nhỏ nhất ngơ ngác rời tổ ngày nọ.


    NhàQuê May 19, 2005





    TuyểnTập/HànhHương/ĐiễnĐànTINHKHÔI

    Thơ: Tầm Cao Ngôn Ngữ


  2. Thành viên dưới đây cảm ơn NhàQuê vì bài viết hữu ích này


  3. #2
    Avatar của NhàQuê
    Bạn Tri Kỷ
    Hiện Đang :    NhàQuê đang ẩn
    Tham gia ngày : Oct 2011
    Đến từ : Connecticut - United States

    Tuổi: 80
    Bài gửi : 1.403
    Thanks
    607
    Thanked 3.506 Times in 1.159 Posts


    Những "ngôi trường xưa Em học"



    Đoản 2- Ðình Làng



    Hai đình, bốn miễu và một lăng của làng tôi năm nào cũng có cúng kỳ yên, vía hay tương tự, những năm đặc biệt trúng mùa bao giờ cũng có rước hát bội về ít nhất là ba đêm diễn, đoàn hát xong nơi nầy dọn tiếp qua nơi khác; Ðó là dịp hẹn hò của trai gái làng quê tôi đang mùa đồng khô, trăng tỏ, tương đối rảnh rỗi trước mùa vụ mới.

    Từ nhà tôi qua khỏi Cổ Thụ không xa, ngôi đình Tân Hòa mái ngói âm dương, cổng dáng hình lăng miếu, hai cây dương hai bên cao không đều nhau có lẽ một cây được trồng lại sau.
    Đình tọa lạc trên phần đất độ hơn hai mẫu tây, có mấy cây sao thẳng hàng còn lại là vú sữa, gia đình Ông Từ chăm sóc quét dọn đình cũng được dành cho một phần vừa ở, vừa trồng trầu.
    Không ai gọi tên đình Tân Hòa, thậm chí có người không biết; Ðó là trường vỡ lòng đầu đời của tôi: Ðình làng Tân Thủy.

    Một buổi sáng tôi mặc quần áo mới chẳng khác nào ngày Tết, ôm cặp đệm cũng mới màu chiếu trơn, có viền bìa vải bông cho đừng vuột chỉ may, trong đó có nhiều thứ Ba Má tôi mua cho và dặn tên từng món, có vài món hơi lạ tôi chưa biết dùng để làm gì; Tuy nhiên tôi cũng trân trọng xếp chúng gọn gàng trong ấy. Ngày hôm trước Má tôi nấu chè cúng vái, cầu cho tôi học sáng láng, ăn chè xong tôi kiểm lại đồ đạc mấy lần sợ có ai mở ra coi thử làm lệch thứ tự theo ý tôi, tay kia tôi xách bình mực nâu đi theo Má: Tôi đi học không khóc như những đứa khác, trước khi đi tôi sợ Má quẹt lọ lên trán xin phép Ông Táo như những lần cũng đi hướng ấy về quê ngoại đám giỗ. Không, lần nầy Má tha!

    Mấy đứa khác gặp trên đường không có vẻ lo âu như tôi, chúng đi một mình mà còn nhìn tôi chế nhạo, học trò mới: dốt!

    Má nói chuyện với chú sáu Niên gì đó, Chú ghi ghi chép chép, tôi đứng bên cạnh có khi tôi nhìn xuống quyển sổ Chú ghi, có lúc tôi nhìn đám đông xếp ngồi từng nhúm đang xù xì to nhỏ nhau.
    Chú ngưng viết, nhịp thước mấy lần lên bàn của Chú, tụi nó nín khe trở lại.

    Mọi việc kết thúc khi Má dặn: Nó làm biếng Chú cứ việc uýnh! Mấy đứa dưới ra hiệu roi mây nẹt đít tôi thấy rõ ràng mấy giây trước đây khi tôi nhìn hướng chúng, làm tôi cũng hơi chùng xuống đôi chút.

    Ðến khi Chú chỉ chỗ ngồi cho tôi, tụi nó lấn còn có chút xíu, tôi đặt đít vào như phải trướng lấn lại cả hai phía: lưỡng đầu thọ địch.
    Trên mặt bàn hai đứa hai bên khuỳnh tay, cùi chỏ gần đụng nhau chừa chỗ nghiêng nghiêng vừa đủ tôi đặt bình mực, cặp tôi chỉ được ghé chút, còn phần dư phải tựa trên đầu gối.

    Suốt buổi ấy sư phụ tôi chưa truyền phép mầu gì, quyển vở còn trắng tinh, bụng trống như lúc ra đi không chữ nào trong đó.
    Lúc cho về tôi khoanh tay "Thưa thầy em về" như mọi đứa khác, từ nay tôi không gọi thầy tôi là chú nữa.

    Má tôi qua khỏi Cổ thụ đôi chút đón tôi vinh qui, vì từ đoạn đó tới nhà tôi không có đứa nào cùng đường, chúng đã rẽ vào xóm trước khi.

    Em tôi bỏ trò chơi bắn cu li một mình vừa một lúc làm hai vai, hai đối thủ. Em chạy lại chạm nhẹ tay tôi: Có gì hôn? Ý em tôi hỏi có bị đòn hay biến cố trọng đại nào không, tôi cười lắc đầu và nó an tâm hiểu rằng đi học là chuyện dễ dàng. Tôi giấu em cuộc chiến đấu từ cả hai cánh vừa qua của tôi.

    Hai ông lấn tôi từ bữa sau trở đi dễ thương lạ, hai ổng nhường chỗ cho tôi thoái mái: Hai ông làm thầy kèm tôi; Làm thầy thì phải hy sinh chứ! Người lớn mà! Ðâu lại giành chỗ với trò hay ít ra là đàn em.
    Thầy phóng mấy chữ cái trên tập bằng viết chì rồi hai thầy "lấn chỗ" chỉ tay vào chữ đọc trước tôi đọc theo kèm theo lời hăm dọa: Tụi tao đọc ba lần mà không đọc lại được như tụi tao hồi trước là đuổi học.
    Tôi hiểu hai thầy xưa kia thông minh rất mực và nay có quyền tâu lại Thầy đuổi tôi.

    May phước, sau lần thứ hai là tôi đi suông. Kế tiếp tôi còn được chừa chỗ rộng hơn, không bị thình lình đụng tay khi tôi dùng viết mực đồ theo lằn chì mấy chữ cái thầy phóng.

    Vần xuôi: Bê a ba, bê á bá ...em mờ a ma, em mờ á má ... tôi thanh toán gọn mấy ngày kế tiếp và thêm ít ngày nữa tôi xong phần vần xuôi, phải từ giã hai thầy "lấn" để qua nhóm vần ngược ngồi góc bên kia. Hai thầy cũng tự hào dạy giỏi.


    Tôi không nhớ rõ tôi học ở đó bao lâu nhưng tôi biết rằng tôi đã tiến qua giai đoạn tự chép theo bài thầy biên trên bảng vuông vức màu xám treo trên tường và làm toán cộng trừ không số giữ.

    Thời gian đó tôi lần lượt được chuyển học chung nhiều nhóm khác nhau ngồi riêng góc tùy theo trình độ tôi tiến lên được, thuở ấy chúng tôi gọi là được lên lớp.

    Thầy tôi bị ruồng bắt lính trong một đêm nào. Không còn ai thay thế dạy cái lớp học đủ mọi trình độ đó.
    Một buổi sáng u buồn chúng tôi ra về, giã từ cái nhà đãi ăn của ngôi đình làng dùng làm trường lớp đầu đời của tôi và có lẽ cũng của các bạn cùng thuở.

    Ngôi trường đình có cánh đồng rộng bên kia đường trước cổng chúng tôi cho diều hát vi vu mùa khô, trong lớp chúng tôi ngồi lắng nghe đoán biết được nó đang lên cao hay lượn xuống, tàn cây vú sữa cho chúng tôi bóng mát nô đùa mỗi lúc được ra chơi.
    Tôi thấy mấy đứa con gái thường nhảy dây, đánh thẻ, ít khi thuộc bài lại khóc nhiều hơn hết trong buổi sáng lạc thầy đó.


    Ít lâu sau Thầy tôi trốn về được. Ngang qua nhà, thấy Má tôi, Thầy nói vọng vào: Tui mới về nè chị Tư !
    Má tôi dừng Thầy lại nói chuyện mấy câu, tôi chạy ra mừng, ngỡ thầy vài ngày nữa sẽ dạy lại.

    Không, thầy tôi vĩnh viễn bỏ thiên chức khai hoang. Vĩnh biệt Thầy!


    NhàQuê May 21,2005






    Đình Làng, Ngôi Trường Đầu Đời

    Mái vẫn rêu phong trước sau êm vắng
    Uy nghi ngầm phảng phất nét hiển linh
    Sắc vua phong thuở trước cẩn cung nghinh
    Ơn đức bổn Thần tiếp nhau truyền rạng

    Nhớ Má cúng cầu mong tôi sáng láng
    Trước hôm nao dẫn đến gặp thầy xưa
    Đứng khoanh tay, lắng tiếng dưới hăm đưa
    Nhìn khúc roi xơ, lòng mình tự vấn

    Rồi chút nữa đây “mấy ông” xúm lấn
    Ngơ ngác trùng vây lọt thỏm giữa lòng
    Xóm dưới đầu trên có vẻ đợi trông
    Chờ thầy xếp cho tôi cùng chung dãy

    Tàng lá xum xuê cánh tay rộng trải
    Bóng mát rợp che trong ngõ lối ngoài
    Nhớ buổi vỡ lòng… giờ tít chân mây
    Mất dấu Trường xưa, Đình ngùi thế sự

    NhàQuê


    Bên Kia Đình Làng

    Hai nhành rẽ phướng giữa tầng bay
    Uống gió no đầy túy lúy say
    Vụt thoắt lên cao tìm hướng núi
    Vòng vèo lượn xuống bỡn vòm cây
    Hồ pha giấy phất diều đâu sợ
    Nhợ mảnh sườn oằn sáo lắc lay
    Nhắc đến nơi xưa vui thú ấy
    Trường ĐÌNH chạnh nhớ khóe mi cay

    NhàQuê



    TuyểnTập/HànhHương/ĐiễnĐànTINHKHÔI

    Thơ: Tầm Cao Ngôn Ngữ


  4. Thành viên dưới đây cảm ơn NhàQuê vì bài viết hữu ích này


  5. #3
    Avatar của NhàQuê
    Bạn Tri Kỷ
    Hiện Đang :    NhàQuê đang ẩn
    Tham gia ngày : Oct 2011
    Đến từ : Connecticut - United States

    Tuổi: 80
    Bài gửi : 1.403
    Thanks
    607
    Thanked 3.506 Times in 1.159 Posts


    Những "ngôi trường xưa Em học"






    Đoản 3- Qua Ðồi Cát Nóng



    Vào mùa nắng, các làng ven biển quê tôi có thể nói gọn không ai muốn bước chân ra đường. Sức nóng làm đôi mắt lúc nào cũng chực khép vào giấc ngủ nặng nề nhơm nhớp mồ hôi đang xô tới; Tôi thằng bé đi học về dưới từng hạt nắng bốc lửa ấy!


    Anh Mười và anh Út mặc áo dài trắng khăn đóng đen dạy học công quả cho chùa, chúng tôi học trong ngôi trường lợp lá mới cất theo chiều dọc con đường đi, mấy cây cột còn mùi cây rừng chưa khô hẳn, chưa tróc hết vỏ.

    Trường mới của tôi bên trong rào của thánh thất Cao Ðài Thiên Tiên, các cơ sở phụ thuộc của chùa kể cả phòng thuốc nam làm thành các dãy tách biệt sau ngôi chánh điện nguy nga mái ngói, có hai tháp cao phía trước hình dáng quen thuộc như những chùa Cao Ðài trông thấy đó đây, chúng tôi thường gọi hai tháp ấy là lầu chuông lầu trống. Các loại cây, rễ, lá có thể làm thuốc thường được bọn học trò chúng tôi mang tới hiến, góp phần công quả và có lúc chúng tôi bỏ lớp vụt ra phụ khiêng, kéo các đệm, nia thuốc đang phơi khi cơn mưa đột nhiên ập nhanh đến.

    Trường gần ranh giới làng tôi với làng kế cận: Thuộc làng bên. Tôi lại có thêm bạn mới, nhiều đứa sau nầy cùng tôi ra trường Tổng, nhưng trong những ngày nầy chúng không về cùng đường với tôi, vì tôi từ làng khác tới học nhờ. Sau mấy bài thử sức, tôi theo các bạn mới không vất vả gì.

    Thế nhưng đến khi thầy cho về là lúc trí óc tôi phải hoạt động căng thẳng, nghĩ cách qua đồi, qua nổng cát nóng hừng hực, con đường duy nhất phải vượt qua, không cách nào khác. Trong lúc nổng cát dường như thu gom hết sức nóng từ mặt trời lên đến giờ, đem chúng trải dọc lối về của tôi.

    Tôi nhẩm tính từ đám cỏ khô nầy đến đám gần nhất xem có thể chạy nổi một mạch không, nhẩm tính những đám cỏ nào còn sót lại chưa gãy rụm mấy ngày trước, lúc tôi nhào lên đứng bằng một bàn chân, bàn chân kia ghé tạm lên trên chờ đổi thế cho nhau, đến khi cả hai nguội để có thể chạy nhanh qua “đoạn đường chiến binh” kế tiếp.

    Ðường đi dọc lưng đồi, hai bên lối đi cây xương rồng gai nhọn tua tủa còn sống nổi, nhưng xem ra chúng cũng bệ rạc, xen kẽ vài đám gò mả, nơi đó không có loại cây có khía nhiều gai ấy, đám mả còn chút ít cỏ khô cho chỗ đứng tạm.
    Xa dưới triền đồi, mấy chòm tre gai mốc thít như ngủ gục, như trôi trên làn sức nóng chập chờn. Mặt trời cao vút bên trên mà sao sức nóng phả khí thế đáng sợ!

    Phải chạy năm hơi mới tới cây keo già không còn cành nào phía đường đi, tàng lá đều nghiêng về một bên phủ kín cái giếng lạn chứa tạp nham đủ loại bị gió cuốn tới.
    Ðứng trên rễ cây đảo mắt xem chừng trên ấy nghe nói thỉnh thoảng có bà mẹ xõa tóc nằm võng ru con.
    Con tắc kè trong bọng cây không biết bao lớn, cất tiếng đến giật mình, tùng dấu hù dọa thằng bé, thúc nó bỏ chạy tiếp, vượt qua đám duối tháng trước còn rậm rạp, giờ xơ xác, bên trong nhiều lúc có ma chọi đất ra, người gan dạ dám lận theo mấy miếng gạch vụn chọi lại thì nghe tiếng ma bỏ chạy.

    Cuối cùng tôi cũng nghĩ ra được miếng mo cau hay “thịnh soạn” hơn là một hộp giấy dày làm cứu tinh đem theo, khi không còn bụi cỏ khô nào.

    Cơn mưa đầu mùa ập xuống, cũng chỉ làm đồi nổng cát phủ được lớp da ướt bốc khói râm rức, bên dưới lớp da ấy khi vít thử chân, lớp cát khô quánh vẫn đang nằm thách thức.


    Ngôi trường thứ hai tôi đấy! Không có con chữ, phép tính nào mà tôi không đổi bằng gót chân mỗi ngày một chai dày thêm.

    NhàQuê June 01, 2005


    Con Lộ Đất

    Em kể lại tôi nghe
    Con đường xưa bây giờ tráng nhựa
    Vẫn vắt ngang qua mấy ấp quê mình
    Những cây cao cây còn cây đà đốn
    Nhìn lạ làm sao!

    Trong ký ức một mình tưởng lại
    Con đường làng cát nóng vuột da
    Tôi thằng bé chân trần đi học
    Băng qua nổng cao khổ ơi là
    Chạy từ đoạn một

    Đầu trên kia có miễu Bà Bèo
    Phía nọ giáp làng bên Giồng Nần, Đục Mộ
    Người ở xa biết làm sao nhớ
    Riêng tôi quen như từng ngón tay mình
    Chia phe phục kích

    Đi học sớm chun vô bụi núp
    Đợi tụi nó ngang nhảy ra hù
    Mới vô trường đà trèo lên một bậc
    Sách chẳng nói nhất quỷ nhì ma đó ư
    Đường thêm ma nữa

    Con ma giờ đây nhớ thương đường cũ
    Đêm chiêm bao đi lại bao lần
    Vẫn y nguyền từng chùm cây dại
    Nhàn hạ trổ hoa đâu chờ Xuân

    Tôi thằng bé chân trần
    Ước bỗng làm hạt cát!!

    NhàQuê 2005




    TuyểnTập/HànhHương/ĐiễnĐànTINHKHÔI

    Thơ: Tầm Cao Ngôn Ngữ


  6. Thành viên dưới đây cảm ơn NhàQuê vì bài viết hữu ích này


  7. #4
    Avatar của NhàQuê
    Bạn Tri Kỷ
    Hiện Đang :    NhàQuê đang ẩn
    Tham gia ngày : Oct 2011
    Đến từ : Connecticut - United States

    Tuổi: 80
    Bài gửi : 1.403
    Thanks
    607
    Thanked 3.506 Times in 1.159 Posts


    Những "ngôi trường xưa Em học"






    Ðoản 4: Cánh Chim Bay



    Như sự giã từ trong âm thầm trước chuyến đi xa, tôi làm người say ghé những chỗ thân quen nói miên man chuyện trên trời dưới đất, mưa nắng, mùa màng...tất cả những thứ ấy và nhiều hơn nữa đã đóng gói vào một góc hồn tôi trong số hành lý không thể nào đong đếm được, có cái cùng có thứ chỉ riêng: Chúng là Quê Hương bây giờ tôi ngàn dặm.

    Tôi đi lại đoạn tỉnh lộ 26, có cầu Bà Hiền bắt ngang con rạch tưới ngọt cánh đồng chỉ có vụ mùa. Những tháng nát rạ chờ mùa vụ mới, đám trẻ chúng tôi và xóm bên kia dàn trận đánh nhau chọi bùn chí chóe hai bên bờ rạch, ngay cả đứa ốm yếu cũng góp phần xắn bùn tiếp tế hay giữ quần áo, cập vở cho các tráng sĩ ra trận được an tâm.

    Trận đánh lần sau mãnh liệt hơn lần trước, hai bên tìm cách qua sông chọc thủng phòng tuyến của nhau, bắt tù binh trát bùn, trấn nước...Những con người dũng cảm ngày nào đã trôi theo dòng thời gian và hai bờ cuộc chiến có thật, cuộc chiến kết thúc bi thảm không như...

    Từ chỗ trống trải nhìn xuyên ruộng rẫy thấy được bến Ðường Tắt, nơi đó cùng các bạn trai khác, tôi đã phụ vác cây rừng vừa sức mình về làm vách cho trường mới cất chưa quá hai trăm thước gần nhà tôi.

    Tôi nhớ hoài bữa cơm canh mướp tép rang ngon chi lạ ở nhà thầy sau buổi phụ vác cây ấy. Thầy vai em trong họ hàng, nhưng không vì thế mà được thiên vị.

    Lớp tư thuở đó có vài bạn học chung vai cô chú tôi, cũng có mấy bạn vài năm sau có vợ lấy chồng, mấy bạn gái ngồi các bàn trước, lưng họ che chắn làm tôi vất vả phải đứng lên đọc chữ trên bảng rồi ngồi xuống chép, khi họ dựa vào bàn sau cũng làm chúng tôi khốn đốn, nét chữ răng cưa.

    Gần cuối năm thầy bỏ đi kháng chiến thỉnh thoảng thầy ghé nhà thăm Ba Má và hỏi thăm sự học hành của tôi. Lâu sau trong trận đánh nào đó thầy tôi, viên Huyện Ðội Trưởng đã hy sinh cho lý tưởng của mình: Vĩnh biệt thầy Nguyễn Tấn Hồng!

    Tôi lại hằng ngày qua cây cầu ván không lan can trên tỉnh lộ đến học tiếp ở trường "Nhà Việc Cháy". Trường gần công sở xã, nơi người dân thiếu thuế, thiếu xâu bị bắt "đóng trăn". Cái Nhà Việc được cất lại trên nền công sở cũ đã bị thiêu hủy thời Nhật Ðảo Chánh. Gần như những bạn trường ấy không nhớ gì khi tôi nhắc có lần tôi đã học chung với họ, vì tôi đến đó vài tháng cuối niên khóa. Không biết tôi có được kể là cựu học sinh trường sơ học Tân Thủy không nhỉ? Xin cho tôi với chứ! .......


    Vào mùa vụ, sau buổi học tôi theo Ba Má sang bên kia rạch, đi phụ làm cỏ, bè dăm mạ, ôm đất đắp bờ ...Chiều nào bầy cò trắng cũng bay khoan thai về hướng rừng xa, chốc sau đám le le rợp trời diễn tập đội hình, khi bay chung khi tách riêng, đổi hướng rồi lại nhập vào. Không nhớ ngày đó tôi nghĩ gì khi ngắm nhìn chúng mà giờ nầy tôi là cánh chim lìa đàn bay đi. ./.


    NhàQuê June 16, 2005






    Thơ: NhàQuê
    Phổ nhạc:Thanh Ngọc (Milano)




    Click để nghe:


    Theo Cánh Chim Bay/thơ NhàQuê/nhạc Thanh Ngọc





    (Theo Cánh Chim Bay - Thơ: NhàQuê; Nhac:Thanh Ngọc) - Thân tặng nhà thơ NhàQuê



    Theo Cánh Chim Bay

    Có một dòng sông chảy tận đây
    Trong tôi tưởng nhớ suốt từng ngày
    Ra đi vẫy biệt lòng đau cắt
    Gởi lại âm thầm dạ xát xay
    Xứ lạ luôn dành nguyên góc nhỏ
    Quê xa vẫn cất trọn tim nầy
    Nghe ai nhắc đến tên dưng bỗng
    Muốn được thành chim chớp cánh bay

    Bay qua chốn cũ xóm nhà tôi
    Nén những bâng khuâng cố tưởng hồi
    Cổ Thụ vươn cao giờ hạ đốn
    Đình xưa bóng rợp trước đùa chơi
    Trông theo dáng nhỏ vừa tan học
    Thấy lại y nguyên đủ khoảng đời
    Ước được sau cùng nương cánh giạt
    Lần nhìn trước lúc biệt xa khơi

    NhàQuê



    TuyểnTập/HànhHương/ĐiễnĐànTINHKHÔI

    Thơ: Tầm Cao Ngôn Ngữ


  8. Thành viên dưới đây cảm ơn NhàQuê vì bài viết hữu ích này


  9. #5
    Avatar của NhàQuê
    Bạn Tri Kỷ
    Hiện Đang :    NhàQuê đang ẩn
    Tham gia ngày : Oct 2011
    Đến từ : Connecticut - United States

    Tuổi: 80
    Bài gửi : 1.403
    Thanks
    607
    Thanked 3.506 Times in 1.159 Posts


    Những "ngôi trường xưa Em học"





    Ðoản 5: Vượt Cánh Ðồng Ma



    Thế rồi tôi cũng học hết lớp tư, từ nhà tôi đến trường Tổng, trường dạy tới lớp ba, Trường Sơ Học Xã Diệu không xa lắm đi về hướng Quận.


    Trường có hai phòng học vách ngăn bằng lá nằm dọc theo tỉnh lộ 26 bên ngoài vòng rào bót có cả nhà lồng chợ.

    Mấy đứa bàn chót có thể thò tay qua chỗ rách khều ghẹo với mấy đứa lớp bên kia, có lần tôi bị méc và bị thầy đòn vì trò nghịch ngợm đó: Tôi lọt bẫy vì chúng quấy tôi trước, đến khi tôi thò qua thì chúng hè nhau giữ chặt tay tôi lại.

    Trường nào cũng vậy, vẫn theo phong tục con gái ngồi hết mấy bàn đầu, vẫn theo truyền thống ngoại giao khép kín giữa trai gái cùng lớp, lằn ranh phân biệt ấy chưa bên nào vi phạm, điểm thấy rõ nhất là phía gái đã bắt đầu mang theo và ăn lén xoài ổi, kẹo bòn bon trong lớp mà không biết hối lộ bên trai chút nào, trả lễ chúng tôi cũng chẳng nương tay nên thỉnh thoảng "giới thiệu" các cô nàng tình nguyện trả bài lúc mấy trự chưa kịp nuốt hết, lắc lư, trợn trắng! Họ gọi chúng tôi là Ðồ Quỷ từ đó.

    Trong lớp tôi có nhiều đứa là con các viên chức địa phương, họ thường chểnh mảng bài vở, nhưng thầy cũng "không nỡ" nặng tay. Bọn trai chúng tôi tiến tới giai đoạn cởi mở rủ bạn bè về nhà ăn cơm có gì ăn nấy, xong tắm ao tắm đìa, trèo cây hái trái...Ngôi trường qui tụ đủ học sinh các xã chung quanh, do nền ngoại giao phát triển đó nên chúng tôi thông thuộc mọi lối đi ngang đi tắt trong vùng.

    Chỉ trong gần một năm lớp ba, chúng tôi học tới ba thầy khác nhau vì lần lượt mấy thầy bị gọi đi lính, sau nầy đọ lại với lịch sử đó là những năm chiến tranh Việt Pháp đi vào giai đoạn kết thúc (1953-1954). Do vô tư của tuổi trẻ chúng tôi chưa có mảy may nào quan tâm tới thời cuộc, vẫn thả dòng vui chơi học hành theo ngày tháng đi qua.

    Ðã xong hai kỳ thi xét lên lớp , một biến cố xảy ra cắt ngang nếp sống đều đặn thường nhật của tôi: Anh tôi trốn lính, mấy ngày sau đó anh đi tu lánh nạn. Cái ông Cai Tổng hay dẫn đám lính đốt nhà những gia đình có người đào ngũ, có khi bắn giết cả nhà nếu người trốn mang theo vũ khí hay gây thiệt hại; Gia đình Ba Má Anh Chị Em tôi tức tốc rời bỏ ngôi nhà êm ấm, có giàn bầu tự tay tôi trồng chăm bón đang trĩu quả, trốn đến cuối làng gần rừng làm chòi sống tạm gần như màn trời chiếu đất mấy ngày đầu; Khổ nào cho xiết!

    Mươi ngày sau tình hình lắng dịu, Ba xin Bác tôi một nền nhà cho gia đình trú ngụ vẫn cuối làng, xa nơi nhà chưa dám trở về của tôi. Má tôi lại dẫn tôi qua xã khác xin học lớp ba với người bác họ: Thầy Tô Văn On.

    Mỗi sáng tôi đi ngược hướng mặt trời mọc băng qua cánh đồng rộng đến trường Vĩnh Hòa có cây duối cao trước cửa lớp, nơi ấy tôi có nhiều bạn mới chia phe bắn u du giữa hai buổi học sáng chiều, lần cuối cùng thằng Tín thọ tiển nơi mắt và trò chiến tranh nầy đi vào dĩ vãng chúng tôi. Mốc thời gian được nhắc lại cả Niêm và tôi nhận ra nhau có thời học chung lớp, tôi ở đó chỉ có mấy tuần lễ cuối niên học.

    Tan học buổi chiều tôi lại đi ngược hướng mặt trời, băng qua cánh đồng ban sáng nổi tiếng ma, nhất là ngang đám cây chùm quân, nơi nghe đồn có người bị ma giấu cho ăn đất sét, qua đó đi càng lẹ tôi nghe hình như có người đang rượt theo.


    Thời gian cuối năm lớp ba ấy tôi hai lượt đi về, ánh nắng sau lưng, tôi đuổi theo bóng của tôi đang đỗ dài phía trước như đuổi theo tương lai một cách vất vả nhưng không kém phần bền chí.

    Con đường tôi qua không đoạn nào bằng phẳng cả!


    NhàQuê June 24, 2005




    TuyểnTập/HànhHương/ĐiễnĐànTINHKHÔI

    Thơ: Tầm Cao Ngôn Ngữ


  10. Thành viên dưới đây cảm ơn NhàQuê vì bài viết hữu ích này


  11. #6
    Avatar của NhàQuê
    Bạn Tri Kỷ
    Hiện Đang :    NhàQuê đang ẩn
    Tham gia ngày : Oct 2011
    Đến từ : Connecticut - United States

    Tuổi: 80
    Bài gửi : 1.403
    Thanks
    607
    Thanked 3.506 Times in 1.159 Posts


    Những "ngôi trường xưa Em học"





    Đoản 6: Bác Nông Phu


    Ðời Bác chưa biết Sài Gòn, Bác chẳng có việc gì để tới chốn Trường An đó. Tuy thế Bác không như phần nhiều hàng xóm láng giềng quanh năm ôm khư khư vạt lúa mùa, chưa đi xa hơn các làng lân cận. Bác đôi lần tới thị thành tỉnh lỵ đó chứ! Dù ít ỏi vậy mà Bác vẫn đến đúng nơi đúng chỗ.

    Bác dắt con lần đầu tiên của cả hai hành hương thánh địa Cao Ðài, viếng tịnh xá nơi Ðức Lý Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương nhập tịnh, rồi kế nữa khi Ngài qui tiên.

    Lần đứng trước Chánh Án Tòa Hòa Giải Rộng Quyền Bến Tre tuyên thệ làm thế vì khai sanh cho con, qua đó Bác đã ký gởi ước vọng tỏa mát tựa bóng mây, tấm lòng người cha mong đứa bé sau nầy thoát khỏi vùng bao đời tăm tối. Không có lần đó một mảnh đời riêng đã rẽ đi hướng khác.

    Thằng bé nhớ mãi ngày Bác đong đưa con cúi bện rơm, khói không tan được trong lớp sương dày đặc, vẽ thành vệt dài dọc theo con đường băng qua cánh đồng rộng dẫn về hướng Tây.

    Vài giờ nữa mặt trời sẽ lên từ phía sau lưng; Cha con vượt ngang khoảng đêm sắp tàn, đến sớm ngồi chờ trong sân Trường Tiểu Học Bổ Túc Ba Tri ngày đầu tiên của niên khóa, nơi ấy cũng có lác đác vài cha mẹ dẫn con từ các xã xa tới.

    Mãi tới học trò đã đâu đó vô lớp rồi, ông Ðốc Học Huỳnh Văn Chưng mới giải quyết đến nhóm người ngồi chờ.

    Ông nhìn thằng bé nhỏ xíu nghi ngờ không biết Nó đủ sức học nổi lớp nhì, lớp moyen hay không?

    Thằng bé gan dạ dám trình Ông tất cả bài thi đều đạt điểm cao. Thế rồi mọi chuyện cũng qua, thằng bé được xếp vô lớp nhì F chưa có thầy cô nào chánh thức phụ trách, quý thầy thay phiên dạy tạm hàng ngày trong mấy tháng liền.

    Trong ba dãy trường, chỉ dãy lớp của nó lợp lá, phòng học có lần làm phòng bỏ thăm, trong xó góc Nó thấy được hàng đống hình Ðức Quốc Trưởng in sẳn mặt bị gạch tréo.

    Ngài xấu xí quá nhiều so với hình chính Ngài ngự trên giấy bạc đang lưu hành.

    Vị Vua mới không long bào, nguyên là vị tể tướng từng mấy lần quì nhận tước đã soán ngôi Ngài qua ấy...

    Ông Hiệu Trưởng đã sửng sốt khi đến lớp nhất D công bố và nhìn mặt thằng bé "Thủ Khoa". Ông ngỡ rằng Nó ngồi đâu cuối lớp, ai dè Nó đứng dậy từ bàn đầu Ông không hay.

    Từ đó thằng bé được cả trường biết mặt, thầy cô nhớ tên dù năm trước Nó cũng đã một lần lảnh thưởng nhất lớp.

    Lần nầy Nó gom hết ba phần: nhất mỗi lớp, phần thưởng Tổng Thống và phần thưởng đặc biệt do một người địa phương có phương vị gần như thành viên Nội Các, gởi tặng cho học sinh đứng nhất qua kỳ thi riêng của tất cả học sinh được xếp nhất nhì ba trong mỗi lớp.

    Phần thưởng đặt ra lần đầu tiên và có nhiều sách quý, đến ông Hiệu Trưởng phải nhắn thằng bé đem cho ông mượn đọc trong một thời gian, nhiều quyển còn bút tích ghi chú của ông.

    Bác nông phu chân đất thật sự xúc động trong số khách dự lễ phát thưởng năm ấy, lần đầu tiên được danh dự nhận thơ mời. Cả hội trường ít nhất ba lần vỗ tay, nhìn thằng bé lên nhận thưởng rồi nhìn người cha; Bác nông phu áo vải ngồi lạc chung quanh những lụa là.

    Bác nông phu thân phụ tôi, Ba tôi đó!

    Trong tiềm ẩn Người có tất cả những đặc điểm anh hùng mà tôi tôn kính. Lần hãnh diện tôi mang lại cho Người chưa thấm vào đâu so với công mà tôi năm dài tháng rộng được hưởng dưới bóng mát mênh mông của Người.

    NhàQuê 2005




    TuyểnTập/HànhHương/ĐiễnĐànTINHKHÔI

    Thơ: Tầm Cao Ngôn Ngữ


  12. Thành viên dưới đây cảm ơn NhàQuê vì bài viết hữu ích này


  13. #7
    Avatar của NhàQuê
    Bạn Tri Kỷ
    Hiện Đang :    NhàQuê đang ẩn
    Tham gia ngày : Oct 2011
    Đến từ : Connecticut - United States

    Tuổi: 80
    Bài gửi : 1.403
    Thanks
    607
    Thanked 3.506 Times in 1.159 Posts


    Những "ngôi Trường xưa Em học"




    Đoản 7: Muối




    Thuở ấy tuổi hoa niên, tôi hòa nhập vào dòng chảy chính cùng các bạn khác mỗi ngày một đông dần thêm: Tôi là học sinh

    Trường Trung Học Công Lập Bến Tre, Trường Trung Học Kiến Hòa tên gọi về sau. Tôi hãnh diện là!

    Chúng tôi đến từ nhiều hoàn cảnh khác nhau, đến từ nhiều nơi chốn khác nhau, cách trú ngụ cũng khác nhau, đến từ nhiều giai tầng xã hội khác nhau, tuổi tác cũng khác nhau ...cái chung là chúng tôi theo đuổi cùng một chương trình giáo dục phổ thông đồng đều của chính phủ lần đầu tiên của tỉnh tôi: Tỉnh có ba dãy cù lao, có ngút ngàn dừa xanh lả ngọn quanh năm trỉu quả, có cánh đồng lúa hát vui mùa lên đòng ngậm sữa, có mấy cánh rừng nước mặn kiêu hãnh trực diện thách thức từng cơn sóng dữ biển Ðông...


    Nếu có một thang biểu để xếp hạng có lẽ tôi ở trong nhóm thấp kém nhất về nhiều mặt, không hiểu sao tôi đã che dấu tung tích nghèo nàn thiếu thốn của mình suốt tháng năm ròng rã nơi “cửa Khổng sân Trình" ấy.

    Tôi cố thủ trong vỏ ốc mặc cảm hàn vi của mình. Tuy nhiên tôi cũng có vài bạn để gần gũi, vì tôi đã có lần ngủ đêm trong cái nhà người bạn: Cái nhà trống trước trống sau, vách phên rách nát, bà mẹ phải tha phương làm mướn làm thuê, lâu lâu về cho chút tiền và anh em họ đùm bọc nhau giữa hai kỳ mẹ về với đàn con rồi lại ra đi.
    Vài bạn khác mà em gái phải hy sinh việc học hành để hàng ngày vun xới mảnh vườn bên cạnh người cha không còn chân nào sau ngày hòa bình tạm thời lập lại...

    So các bạn ấy tôi thầm nghĩ tôi còn diễm phúc ít ra là trong hai năm đầu tiên khi Ba tôi chưa đột ngột từ trần.
    Sự ra đi của Người làm gia đình tôi nghiêng hẳn! Lần đó có vài bạn hay tin tới thăm trễ, nhưng làm tôi hổ thẹn thân thế mình trong thời gian dài trước khi tôi nhận ra nghèo không phải là một điều gì ghê gớm!
    Bây giờ không trễ tôi xin tạ lỗi cùng các Bạn, vì những ý nghĩ chưa lần nào nói ra ấy và đã tiếp các bạn xơ xài, không xứng đáng những nghĩa cử ưu ái mà các bạn từ xa lặn lội đến thăm.
    Các Bạn còn khuyến khích tôi đừng bỏ học...

    Sau mỗi mùa Hè, tôi trở lại trường tóc hoe da nám của mấy tháng theo thuyền buồm ra biển, sang sông bắt xò nghêu, lặn lội vô rừng bắt cua bắt cá. Số tiền kiếm được phụ giúp một phần vào chi phí ăn ở cho năm học kế tiếp. Thiên nhiên thời ấy cũng góp phần...Các em tôi đều dừng lại ở tiểu học cùng Má tôi lo cái nguồn lợi huyết mạch: lò nấu muối.

    Ba tôi một tá nông dành dụm mua được hai mẫu ruộng rẫy trước đã mướn. Mỗi năm có một vụ mùa vào những tháng nước ngọt, hai mẫu đất thiếu trước hụt sau vì gò và rạch xẽo cũng được tính vào diện tích chung, còn phần trằn thì năm nào lúa cũng bị nước chảy mẹp. Trúng mùa cho lắm cũng chỉ hơn trăm giạ đôi chút. Thế còn hơn nhiều gia đình khác chạy gạo từng ngày!

    Từ tôi còn nhỏ lắm, Ba Má tôi đã làm thêm việc nấu muối, nấu nước mặn lọc ra từ đất nhiễm nước biển, lớp đất trắng mốc thít, công việc nầy đòi hỏi nhiều sức cần lao từ bước đầu tiên đi nạo vét lấy đất có chứa muối cho đến khi vớt được những hạt muối trắng ngần kết tinh từ lò nấu liên tục không ngừng nghỉ ngày đêm, bên cạnh đó phải có đủ củi đốt cho dù là cây tươi, chuyện nầy không phải dễ dàng!

    Về sau nước mặn dùng để nấu thành, do lọc từ muối hột khi làng tôi đã được du nhập kỹ thuật làm ruộng muối từ Phan Thiết


    và lò nấu được chụm bằng trấu làm cho công việc chế biến nầy đỡ vất vả hơn nhưng cũng phải liên tục ngày đêm. Muối hột và trấu đều mua thiếu được trả dần.

    Muối bọt, thành phẩm đó phần lớn bán chịu cho đồng bào vừa di cư vào Nam, họ dùng trong khâu sản xuất mắm tôm, mắm ruốc (cho đến năm 1960 họ rời đi nơi khác vì cuộc sống đe dọa), mọi việc thiếu chịu vần lân dây chuyền như vậy dựa vào lòng tin lẫn nhau.
    Ngoài việc đã có đủ lúa ăn, "kinh tế phụ" gia đình tôi như thế đó!

    Sau khi Ba tôi mất, đáng lẽ tôi đã phải bỏ học, chuyện đó ắt phải vậy và tôi cũng sẳn sàng! Hàng xóm láng giềng và nhất là bên phía nội tôi khuyên Má tôi để tôi ở nhà phụ giúp gia đình: Lấy Giạ Ðong Lúa, Không Ai Lấy Giạ Ðong Chữ

    Vâng, chính lời khuyên ngàn vàng ấy Má tôi nhất quyết hy sinh thêm nữa cho tôi theo đuổi việc học cho đến hết bậc đệ nhất cấp theo suy tính của Người.
    Phải hiểu điều kiện sinh sống ngày đó ở nông thôn mới thấy hết gánh nặng trỉu vai của Má tôi vừa tự chất thêm lên cho mình.

    Tôi lại đến trường lòng ngổn ngang không tả xiết!... Tôi đã chiến đấu không kém phần dũng cảm bên cạnh các bạn đồng song có cuộc sống an lành hơn tôi trong nhiều năm dài, tôi cho là thế!

    Ðứng nhìn mặt đất tuyết phủ trắng, nhìn từng đống tuyết lem luốc bị ủi vào xó góc bãi đậu xe, tôi thường so sánh với màu muối bọt và muối hột thuở nào với nhà tôi đứng cạnh. Nàng hiểu tôi hơn tất cả, đã đi bên tôi suốt bốn mươi năm rồi. Thân Phụ nàng đã thi ân giúp tôi theo học được năm cuối cùng bậc trung học, mức thang chót tôi cơ hồ không với tới... Nàng chẳng khác là bao nấc thang tiểu thơ cao thẳm, vòi vọi về một bên ...

    Trong trí tưởng hồ như Ba Má tôi mờ mờ mỉm cười nơi phía an nhiên...

    Xin đời đời nhớ ơn! và tôi đã đến!

    Tôi còn nhớ rõ lắm, lần đầu tiên bước lên bục giảng ở một tư thục, nơi học sinh không đồng phục, một thứ biểu tượng của kỷ luật mà tôi chỉ mới rời bỏ tháng trước đây. Tôi bắt đầu nghiệp dĩ bằng bài muối Clorua Natri: NaCl

    NhàQuê 2005




    TuyểnTập/HànhHương/ĐiễnĐànTINHKHÔI

    Thơ: Tầm Cao Ngôn Ngữ


  14. Thành viên dưới đây cảm ơn NhàQuê vì bài viết hữu ích này


  15. #8
    Avatar của NhàQuê
    Bạn Tri Kỷ
    Hiện Đang :    NhàQuê đang ẩn
    Tham gia ngày : Oct 2011
    Đến từ : Connecticut - United States

    Tuổi: 80
    Bài gửi : 1.403
    Thanks
    607
    Thanked 3.506 Times in 1.159 Posts


    Những "ngôi trường xưa Em học"


    Đoản 8: Trung Học Tư Thục Nguyễn Du




    (Di ảnh Thầy Nguyễn Văn Phước, Hiệu Trưởng Trung Học Tư Thục Nguyễn Du, Ba Tri Kiến Hòa)



    Nếu vị giám khảo không rộng lượng, chấm bài toán kỳ thi tuyển vào đệ thất trường công mà tôi làm bài sai từ đầu tới cuối, chắc tôi đã rơi đài .


    Tôi cũng nhận biết ngay được vì kết quả toàn số lẻ thập phân, lúc đó tôi không còn đủ thì giờ để chép đầu bài rồi làm lại từ đầu trên tờ giấy khác.

    Cách giải hoàn toàn đúng theo trình tự. Ðến nay, tôi vẫn thắc mắc là do tôi chép đầu bài thi sai vài con số nào đó hay lỗi do hai vị giám thị viết lên bảng sai.

    Cũng may tôi trúng tuyển hạng thấp, nếu không tôi đã là học sinh trường trung học tư thục Nguyễn Du có lẽ.

    Một cách rộng rãi, tôi cho 80m x 20m = 1600 m2 là các cạnh và diện tích toàn thể khuôn viên nhà trường gồm hai phòng học trong một thời gian dài và sân bóng chuyền có cái giếng hộc ở cuối, mỗi lần banh ra ngoài hoặc ra lộ hoặc va vào tường hoặc nóc nhà lân cận làm láng giềng thường xuyên méc với văn phòng dù họ cũng là phụ huynh học sinh.
    Sự thực chưa chắc trường Nguyễn Du đạt được diện tích "lớn" như vậy!

    Tôi đến lớp học của trường lần đầu tiên với sự hướng dẫn và giới thiệu của vị giám thị, khi ấy trường đã được mười tuổi trong suốt chiều dài chung hai mươi năm lịch sử của nó. Trước đó tôi chỉ ngang qua, dù rất nhiều bạn tôi theo học ở đây. Tôi chỉ nhận dạy ở đó nhiều nhất là 8 giờ mỗi tuần, thường thì 4 giờ cho đến ngày miền Nam đổi chủ và trường xóa sổ.

    Một cạnh 20 mét vừa nói tiếp xúc với tỉnh lộ 26, đoạn đó tỉnh lộ theo hướng Nam Bắc trước khi nó quẹo đúng 90 độ đổi hướng Tây Ðông để ra biển cách nơi đây khoảng bảy cây số; Do đó kiến trúc chánh của trường là hai phòng học không hướng ra đường mà lại nhìn về hướng Nam, hướng ngôi Giáo Ðường. Tôi không tìm hiểu có phải phần đất trường tọa lạc được mướn của Nhà Thờ hay không.

    Tôi quên chưa nói cho các bạn biết trường Nguyễn Du nằm gần rìa phía Bắc của quận lỵ Ba Tri, Quận quê tôi. Thầy hiệu trưởng gắn bó hai mươi năm thủy chung với nó, có người gọi thầy là chủ trường.

    Chưa bao giờ tôi thấy thầy ăn mặc cẩu thả, bỏ áo ngoài quần hay mang dép, chưa bao giờ! Thầy mang giày da, áo veston, nón nỉ thoạt nhìn tưởng thầy sắp sửa đi đâu đó. Không, thầy sắp sửa bữa nhậu mỗi chiều ngay trên hàng hiên ngôi nhà lá của thầy gần căn chót của dãy trường hai lớp học, nhà thầy xa đường lộ hơn, cũng quay cửa về hướng Nam, tiếp theo nữa còn vài nhà khác hàng xóm thầy, họ không có đường nào tiện lợi hơn là qua cửa nhà thầy rồi qua sân các lớp học vốn hẹp lại còn lổm ngổm xe đạp trong những ngày có lớp để ra lộ cái, ra tỉnh lộ 26.

    Thầy du học ở Pháp về, mấy năm đầu thầy dạy Pháp Văn sau chắc già yếu thầy không đứng lớp nữa.

    Chiều nào khi hết giờ dạy ở phòng gần nhà thầy, cách mấy cũng không thoát được khi thầy gọi qua, cùng ngồi trên hàng hiên đó đối ẩm.

    Khổ nỗi thầy không cần mồi, kiểu nầy tôi chịu không thấu nên thường phải có món nhấm riêng cho, có thể là sớt ra từ phần dành cơm chiều cho thầy, chí ít cũng là đậu phộng rang. Thầy không uống "sét" bao giờ, phải pha “sô đa” tuy chỉ là cognac nội hóa, thỉnh thoảng mới có Beehive hay Rivalet.

    Thầy không ép nhưng theo thầy cho phải lễ, đã là chuyện vất vả dù tôi thuộc hạng cứng đang lên!

    Dĩ nhiên rượu vào lời ra, thầy kể chuyện những ngày thầy còn là "dân cậu" con điền chủ, xó xỉnh hầm rượu nào ở Paris cũng có ít nhiều lần thầy đến đó. Thầy "kiên trì giáo dục" hoài đến nỗi tôi thuộc lòng, cộng thêm sách vở nên lần đến Paris tôi đã dễ dàng kiểm chứng vài điều thầy kể khi xưa.

    Một món tôi không học được ở thầy là môn đá gà, thầy mê lắm. Nhiều lúc vị giám thị vào lớp nhắc nhở học sinh đóng học phí đúng hạn, phải dừng nói vì đám gà nòi trong chuồng sát vách gáy vang làm cả lớp cười rộ. Mùa lạnh lớp học um khói do đám gà nòi được sưởi ấm thêm cho dù đã nghệ ngãi đúng mức. Ðám học trò vẫn thường đổ thừa khói quá chúng làm bài không được chứ không phải do chúng không thuộc bài.

    Chiếc xe lôi đậu chờ thầy và thằng "đệ tử" mang bịch đệm có gà chiến trong ấy đi theo, thì ai cũng biết hôm nay có nhiều trận gà hấp dẫn đâu đó.

    Nhớ rằng thầy vẫn khoác veston như hằng ngày khi bước ra khỏi cửa, thầy là người duy nhất trong trường gà mặc như vậy, trong lúc giới mộ điệu có nhiều cụ ông bới tóc củ tỏi...

    Các quán nhậu dã chiến di chuyển theo trường gà như vệ tinh không thể thiếu được, đo đó cũng tạo được hưng phấn như xem đá gà mà nhiều người cho đá gà là một nghệ thuật.

    Sau 1980 tôi có vài lần thưởng thức món da gà nòi xào lăn và thịt gà nòi "hon đu đủ", thời gian nầy đá gà bị cấm, gà đá được tròng cựa sắt nên trận đấu diễn ra rất nhanh và bên thắng còn được "bắt xác" gà thua vì vậy có món nhậu hấp dẫn nầy: Da gà đã được nghệ ngãi dòn ngon thì phải biết!.

    Trong chín năm đầu tiên, Nguyễn Du là trường trung học duy nhất toàn quận Ba Tri, học sinh của trường đủ loại "quốc tịch" của mười sáu xã trong quận và tương đối đông đúc, phải mướn thêm phòng học bên Nhà Thờ. Ðến năm thứ mười lăm cất thêm một phòng học thứ ba quay cửa ra sân bóng chuyền thay thế cho phòng mướn Nhà Thờ đã hết hạn.

    Mỗi cấp có được hai lớp, nét đặc biệt là học sinh dù cùng lớp nhưng tuổi đời chênh lệch nhau nhiều, thời chiến tranh nên điều nầy dễ hiểu.
    Ở quận miền quê như vậy, thầy cô đã có gia đình hay còn độc thân đi ăn cưới học sinh của mình là chuyện thường, thường như phụ huynh nhờ con mình "thỉnh" thầy tới ăn giỗ hay đám cúng kiến gì đó.

    Ngoài vị giáo sư trụ cột sắp xếp môn dạy và thời biểu, con gái ông hiệu trưởng các buổi không học cùng phụ giúp vị giám thị lo việc sổ sách và được mấy thầy "cưng" lắm vì Bé chi xuất trả lương, có khi "kẹt" mấy thầy mượn trước nữa, thế mà vẫn bỏ bao thơ lịch sự đúng mức.

    Trường dù nghèo, ở vị trí khiêm nhường nhưng đã hoàn thành vai trò của nó sau hai mươi năm giảng dạy.

    Không có thống kê chính xác về tổng số học sinh đã học ở trường đệ nhất cấp nầy; Tuy nhiên tôi khẳng định là nhiều học sinh đã là Bác Sĩ, hoàn tất Cao Học, Sĩ Quan Võ Bị, Sĩ Quan Hải Quân, Sĩ Quan Không Quân, Sĩ Quan Thủ Ðức... đủ các binh chủng và chuyên môn kỹ thuật... có nhiều người mang cấp bậc Ðại Tá không kể chiến tuyến, cũng có nhiều cấp chỉ huy, viên chức thuộc ngành Cảnh sát Quốc Gia, đông nhất phải kể nghề giáo giảng dạy đủ các cấp lớp,... lại cũng có người đạt học vị Tiến Sĩ (Ph.D) tại Hoa Kỳ...Các cựu học sinh Nguyễn Du là doanh nhân thành đạt nhan nhản. Rộng lớn hơn phải kể từ cấp Xã Ấp cho đến Quận Huyện Tỉnh Thành đều có bóng dáng lãnh đạo mà ngày xưa đã có thời theo học Nguyễn Du.


    Tất cả đều góp phần với đất nước trong phương vị của họ.

    NhàQuê 2005




    TuyểnTập/HànhHương/ĐiễnĐànTINHKHÔI

    Thơ: Tầm Cao Ngôn Ngữ


  16. Thành viên dưới đây cảm ơn NhàQuê vì bài viết hữu ích này


  17. #9
    Avatar của NhàQuê
    Bạn Tri Kỷ
    Hiện Đang :    NhàQuê đang ẩn
    Tham gia ngày : Oct 2011
    Đến từ : Connecticut - United States

    Tuổi: 80
    Bài gửi : 1.403
    Thanks
    607
    Thanked 3.506 Times in 1.159 Posts


    Những "ngôi trường xưa Em học"

    Đoản 9: Ban Khánh Tiết



    Đình làng tôi cũng như tất cả các đình khác trong vùng, đều có cử ra Ban Khánh Tiết, quý cụ trong ban ấy đều là những người được kính trọng, uy tín đầy mình.

    Ban Khánh Tiết họp nhau bàn định phân công, lo liệu công việc trong năm, cúng kiến, mời và trả lễ các đình làng bên khi được mời lại, trong đó lần quan trọng nhất là cúng kỳ yên của mỗi đình thường có rước hát bội về diễn ba đêm, vở tuồng nào kết thúc cũng rất có hậu.
    Đình nào không làm đủ bài bản như vậy coi như " mất mặt" với các làng khác. Vì tôi đi học rồi mưu sinh nên thực sự không sống ở làng nhiều, chỉ hiểu lờ mờ như vậy. Có vài lần dự đám cúng nhưng là khách mời của đình.

    Không hiểu gì cả mà có lần tôi làm trưởng ban khánh tiết mới tréo cẳng ngỗng. Khen ai khéo đặt ra cái ban nầy trong mỗi lớp của trường trung học. Tên thật sự của nó là Trưởng Ban Trật Tự Khánh Tiết và Vệ Sinh, nghe dài dòng văn tự quá cỡ thợ mộc!!

    Số là mới lót tót từ dưới quê lên tỉnh học, đường xá ngang dọc còn chưa rành, còn sợ đi lạc vậy mà "có chức" liền, sướng không???

    Trong lớp tôi có tới bốn đứa cùng quận nên sau khi các "chức vụ có ăn" đã bị phe thành thị chiếm hết rồi: Nào là Trưởng Lớp, Phó Lớp, Trưởng Ban Học Tập và Báo Chí, Trưởng Ban Thể Thao và Du Ngoạn, Thủ Quỷ...nên ba ông kia đẩy tôi ra kiếm chút cháo, vớt đỡ con vịt đẹt!!

    Chắc là do ông "Ba Tri Thi Tập: Đào Phát Đạt" nhanh miệng giới thiệu người đồng hương là tôi vào "Chức Trưởng Ban Trật Tự Khánh Tiết và Vệ Sinh".

    Tôi đắc cử dễ dàng nhờ tôi nhỏ con!! Cám ơn các bạn cùng lớp chỉ mới ngày đầu tiên chưa quen nhau mà tín nhiệm tối đa "trong cuộc bầu cử phổ thông, trực tiếp và kín"!
    Các bạn tôi quả có đầu óc khôi hài!!

    Năm sau tôi ngán quá, lớp lại cử bạn khác, ông "Hộ Pháp" làm trưởng ban nhiệm kỳ mới; Lại cũng óc khôi hài, phải to con mới giữ nổi trật tự!!

    Tôi được xếp hàng trong giới lãnh đạo, trình diện "nội các" nhận tràng pháo tay có cả reo huýt sáo của mấy ông "trật búa" tôi biết về sau nầy .

    "Nhậm chức" rồi tôi mới hiểu đây là chức vụ quan trọng vào hàng bậc nhất về nhiệm vụ: Tôi phân công quét lớp một cách "Quốc Pháp Bất Vị Thân" đồng đều và ai tới phiên cũng phải vì lợi ích tập thể mà thi hành.

    Nghe nói ở các lớp nam nữ hổn hợp bọn con trai sướng lắm, khỏi làm vụ nầy, vì các cô nàng muốn chứng tỏ "ba đảm đang" nên làm tất, dịp cho người khác coi giò coi cẳng hiền thục, có thể sợ đám con trai khám phá ra "đồ chua" bánh kẹo giấu trong học bàn cũng nên. Lớp toàn nam chúng tôi thì rắc rắc!!

    Chổi cùn phải báo cho Thủ Quỷ xuất tiền mua cây khác, việc giữ chổi mới là chuyện rắc rối, thượng phiên bàn giao hạ phiên, lỡ khi họ quên tôi phải đem về nhà ở trọ, chứ để góc lớp đã có mất rồi: Sách xưa có nói ăn cắp chổi thì nghèo mạt rệp vậy mà vẫn mất có tức hôn?!?!
    Ở nhà cũng không hiểu tôi vô trường làm tới chức gì mà lảnh được nhiều "chổi chà" như vậy!

    Rồi lại còn vụ lau bảng, phải nhúng ướt miếng bọt biển mỗi lần đổi giờ của Giáo Sư, mà hồ nước trong nhà vệ sinh ít khi đầy lại còn nhìn vô muốn phát ói... Bảng phải được lau sạch cuối giờ mà đứa nào cũng mới mười một, mười hai tuổi nên phải nhảy mới với tới mấy chữ thầy viết trên cao, làm như đang ôn các động tác tập thể dục!

    Nói trưởng ban cho nghe gồ ghề vậy chớ trong năm chung quy chỉ có vụ quét lớp, lau bảng là thường xuyên các ngày học.

    Trật tự thì đâu ai ớn cái thằng nhỏ con nhất, còn khánh tiết tôi chẳng biết làm gì trừ lần tổ chức tiệc chia tay nghỉ Hè mọi người hùn tiền đi mua kẹo bánh và nước ngọt, cái khó là đứa nghèo quá thì có bao nhiêu hùn bấy nhiêu, vậy mà tôi làm được dịp để cho ban văn nghệ hát xướng: Hôm nay đây còn vui trông thấy nhau...

    Trong lớp cũng có vài người không biết học ở đâu cứ mỗi lần rảnh rỗi như tiệc chia tay Hè ngày hôm đó, lại ưa cầm tay người khác hành nghề.

    Trước khi nó phán, nó bắt tự mình kiểm soát lại chỉ tay coi có đúng là : bàn tay trái nào cũng có chỉ tay hình chữ AI, bàn tay phải rõ ràng chữ ỈA.

    Xong thủ tục rồi bắt đứng dậy xem tướng mạo: Tụi nó phán tôi rằng cuộc đời mầy không khi nào làm được cấp trưởng. Sách Tam Thế Diễn Cầm cũng nói tôi như vậy.


    Tất cả đều trật: Tôi có làm Trưởng Ban Trật Tự Khánh Tiết và Vệ Sinh; Nghề của chàng!!!

    NhàQuê 2005





    TuyểnTập/HànhHương/ĐiễnĐànTINHKHÔI

    Thơ: Tầm Cao Ngôn Ngữ


  18. Thành viên dưới đây cảm ơn NhàQuê vì bài viết hữu ích này


  19. #10
    Avatar của NhàQuê
    Bạn Tri Kỷ
    Hiện Đang :    NhàQuê đang ẩn
    Tham gia ngày : Oct 2011
    Đến từ : Connecticut - United States

    Tuổi: 80
    Bài gửi : 1.403
    Thanks
    607
    Thanked 3.506 Times in 1.159 Posts


    Những "ngôi trường xưa Em học"



    Đoản 10: Nhan Sắc


    Em có thể cô bé cột hai tà nhảy cò cùng bạn là cụ bà quá sáu mươi hoặc lưng chừng khoảng giữa là nhân vật nữ một thời nào đó trong đời rụt rè bước qua ngưỡng cửa trở thành nụ hoa nức ra từ nách lá trang điểm tạo phấn hương quyến rủ ngẩn ngơ Anh hay Ta là một hoặc nhiều người lại cũng có thể là con đường góc phố em qua con đò em sang hàng bữa hay dòng sông dịu dàng có ai ngờ cuồn cuộn tự dưới sâu Em với Ta thuở nào ngờ nghệch.

    Guốc mộc Em khua càng ngày thêm vần điệu nắng sớm nắng chiều toa rập cùng chiếc nón nhạc thơ mong manh đôi má ửng hồng ẩn náu làn môi giấu giếm thẹn thùng bất chợt Anh nhìn buâng quơ lời không rõ nghĩa giật mình mẹ hỏi mấy lần luýnh quýnh lời thưa cốc đầu em hăm he dấu nhẹm liếc chừng ai lảng vảng gần xa con chữ đọc qua đọc lại mấy lần khô khốc trôi biệt tăm tăm không dính lại chút nào chỗ chứa kia có gì rất mới bám chặt như keo trí khôn đi đâu mất biệt khù khờ đến chẳng dám nhìn nhau


    Hoa phượng Hè nào cũng rực đỏ chói chang theo gió lay lay chẳng nói lời gì buồn mênh mông da diết khoảng cách không xa bên nào cũng ngơ ngơ ngẩn ngẩn trông hướng trời kia thơ viết hoài không dám gởi biết làm sao nhận lại hồi âm có dáng quen quen nháng tới nháng lui mấy lần đứng chờ góc phố giả bộ tình cờ huyên thuyên trời trăng mây nước không thấm vào đâu không dàn bài nhập đề đi đâu chưa tới kịp hay còn đang ấp úng


    Em có thể đến từ Mõ Cày Thạnh Phú Giồng Trôm Ba Tri Bình Đại chiều em về Chợ Giữa Ba Lai Sơn Đông Cái Nứa Hữu Định Tú Điền mang ước mơ rộn ràng phố thị rải thơ lên những con đường mấy mươi năm có nhòe nhoẹt chút nào hai tà hãy để gió bay chấp chới cơn mơ trắng ngần ngăn nào vừa nhét vội phong thư thương nhớ một trời hồng cây cỏ xanh hơn làn sóng ngầm không dáng hình rõ rệt âm thầm lắc lư từng con đường góc phố

    Phố thị rộn ràng dòng suối trắng chảy ngang qua những cây me sân trường bốn góc hồ kia làm sao quên em được có dù đóng kín gạo bài phờ phạc hao gầy phập phồng dò thấy tên em trên bảng hay nước mắt rơi thất thểu chẳng muốn bước ra hàng quán rất gần có biết Hè bên ngoài vẫn vậy nhiều thêm vài Hè nữa em rời nơi đó sang trang rẽ nhánh con phà phía Bắc chở giấc mơ em con đường Duy Tân cây dài bóng mát


    Cổng trường xưa vẫn mở mỗi mùa đã là dĩ vãng chợt nhớ chợt thương về ngang quay lại thôi thì em vui màu áo mới có còn chăng bối rối nhìn nhau không hay giờ chỉ còn xả giao kiểu cách tiên nữ xuống phàm cổ tích đã xa đua chen ráo riết sóng cuốn ào ào mờ mờ dấu chân chim vội vàng khỏa lấp dáng hình đổi thay nhận ra đâu dễ tình cờ gặp lại bao năm có phải đấy không sao giờ lạ quá trao đổi dè chừng

    Thiên Địa Phong Trần Hồng Nhan Đa Truân lòng thắt quặn đau nước non binh lữa mới đó khăn sô em chít Cổ Lai Chinh Chiến Kỷ Nhân Hồi em có mặc màu nào đi nữa có đổi thay được kiếp người đâu chăm bón cây non đứng thẳng trở mình xanh tươi hoa lá xum xuê ơn em vô cùng tận thấm thía Nước Trong Leo Lẻo Cá Đớp Cá Trời Nắng Chang Chang Người Trói Người em có vui lòng xương gởi nơi xa


    Gọi tên nhau muốn rơi nước mắt mới đó mấy chục năm con đường xưa em đi thay đổi đã nhiều cứ khép đôi mi em vẫn rõ ràng hiện ra vẫn rộn ràng góc phố lung linh soi bóng hồ kia bởi em và ta có thật cõi phàm trần nầy xin ngợi ca em là Nhan Sắc đẹp vô ngần cám ơn Em

    NhàQuê Sep 25, 2006





    TuyểnTập/HànhHương/ĐiễnĐànTINHKHÔI

    Thơ: Tầm Cao Ngôn Ngữ


  20. Thành viên dưới đây cảm ơn NhàQuê vì bài viết hữu ích này


+ Trả lời chủ đề
Trang 1/4 1 2 3 ... CuốiCuối

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình