Trần Thế Nhân xin trân trọng cảm ơn mọi người đã cùng góp ý đầy thiện chí xây dựng tìm hiểu về chủ đề này!
“Ngũ Độ Thanh là dạng thơ giàu nhạc điệu. đó là dạng thơ có từ thời nhà Hán với Nhạc phủ rồi đến khi Luật Thi ra đời. Các tiền nhân xưa đã kết hợp Nhạc phủ vào ĐưỜng Thi và nổi trội hơn cả là Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu với 4 câu đầu trong bài thơ :
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Mọi người khi nhìn vào 4 câu này đều cho rằng Thôi Hiệu (khoảng 704–754 đời Đường Huyền Tông) làm bài thơ này là thơ Cổ Phong chứ ko phải thơ Đường (sai luật, điệp từ Hoàng Hạc đến 3 lần) nhưng nếu tìm hiểu kỹ thì đây là sự cách tân của ông với 4 câu đầu làm theo điệu thức từ thời kỳ đầu của Nhạc phủ Nam triều (Mã Mậu Nguyên khi chú giải Hoàng Hạc Lâu cho ta biết: “Bốn câu đầu bài thơ này dùng ba chữ hoàng hạc liên tiếp nhau, kiểu câu này bắt đầu từ nhạc phủ Nam triều, người đời Đường đưa nó vào luật thi, hình thành một loại biệt điệu của thất ngôn luật thi”. Xin xem: Mã Mậu Nguyên tuyển chú: Đường thi tuyển, Thượng Hải Cổ Tịch xuất bản xã, bản 1999).
Ngoài nhạc phủ Nam triều ra, ở đầu đời Đường, Thẩm Thuyên Kỳ từng sử dụng điệu thức này khi trước tác Long trì thiên. Như vậy, sáng tạo của Thôi Hiệu là kế thừa truyền thống. Ông không bịa chuyện, cũng không hoàn toàn “hư cấu” nên mô thức mới. Thôi Hiệu đã tìm được sự gợi ý từ những sáng tạo của tiền nhân. Chính điều này đã khiến những cách tân của ông, như nói ở trên, đã không gây sốc đối với độc giả. Lý Bạch sau khi đọc biết ngay đó là bài thơ vô tiền khoáng hậu, đành chấp nhận gác bút.
Một câu hỏi tiếp: tại sao cũng kế thừa tiền nhân (không chỉ Thẩm Thuyên Kỳ, sau Thôi Hiệu còn có Lý Bạch cũng sử dụng mô thức này), song chỉ có Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu lưu danh thiên cổ?
Cùng với những phân tích ở bài viết trước, chúng tôi xin nhấn mạnh thêm, chính Thôi Hạo, qua mô thức tự sự / trữ tình được thực hiện bởi những âm thanh được lạ hóa đến mức cực đoan ở liên thứ hai đã thổi hồn vía Thịnh Đường vào câu chuyện truyền thuyết, khiến Hoàng Hạc Lâu của ông vượt qua tiền nhân và làm bó tay tất thảy thi nhân đời sau, không ai - kể cả Lý Bạch - có thể làm hay hơn được.
Nói đến luật thi Thịnh Đường, phải kể đến Đỗ Phủ. Những sáng tạo mới mẻ về luật thi đã đem lại cho Đỗ Phủ vinh dự lớn lao, trở thành tập đại thành của thơ ca Thịnh Đường, được đời sau phong danh hiệu Thi Thánh. Một số tác phẩm luật thi của ông như Đăng cao, Thu hứng bát thủ đã trở
thành những đỉnh cao của thể loại này về cả quy mô và sự đa dạng. Thế nhưng, những sáng tạo luật thi của Đỗ Phủ đi theo con đường chính cách, do vậy trước nay chỉ có những lời trầm trồ khẳng định, chứ ít có những ý kiến trái chiều. Thôi Hạo thì khác. Sáng tạo luật thi của ông không chỉ xuất hiện ở thời kỳ đầu, mà còn thuộc loại độc nhất vô nhị. Điều đó đã tạo ra khoảng cách thẩm mỹ nhất định đối với người đọc đương thời và tạo nên hố ngăn cách đối với độc giả ngày nay - những người bị đứt gãy với văn hóa văn học truyền thống.
Nói tóm lại, với những tìm tòi và kế thừa tinh hoa truyền thống, với những sáng tạo vượt bậc đưa luật thi lên tầm cao mới, đặc biệt hơn, với những cách tân táo bạo nhằm cải biến luật thi, phá vỡ khuôn khổ chật hẹp, mở rộng chiều kích của thể loại này, Thôi Hạo xứng đáng được coi là nhà cách tân luật thi hàng đầu thuộc thời kỳ thứ nhất của “cải cách văn phong văn thể” ở đời Đường. Cống hiến của Thôi Hạo cho luật thi vì thế thuộc loại tiên phong, vượt tầm thời đại. Có lẽ bởi thế mà hai vị thi luận gia nổi tiếng nhất thời cổ đại là Nghiêm Vũ và Kim Thánh Thán đều nhất trí cho HHL không chỉ là tác phẩm luật thi, mà còn là trước tác “đệ nhất”. HHL của Thôi Hạo quả đã từng tạo ra hố ngăn cách giữa cổ nhân và kim nhân, song tác phẩm này cũng sẽ lại chính là nhịp cầu xóa đi khoảng cách, kết nối truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế
Vậy thơ Đường Luật Ngũ Độ Thanh là 1 dạng thơ được kết hợp nhạc tính của thời kỳ Nhạc phủ với thi luật thời Đường chứ không phải là sự “vẽ vời” của những người chơi thơ đương đại như nhiều người lầm tưởng. Dạng thơ này là cách sắp xếp các thanh làm sao cho nó hài hòa và có âm bổng trầm khác nhau. Khi làm thơ Ngũ Độ Thanh mọi người đôi khi rất nản chí vì phải gò ép và mất thời gian vì phải vận dụng rất nhiều từ ngữ để sắp xếp làm sao 1 câu có 5 thanh dấu: 1 câu thơ thất ngôn bát cú có 4 thanh bằng 3 thanh trắc hoặc 4 trắc 3 bằng, trong đó:
+ 1 câu thất ngôn bát cú 4 thanh bằng 3 thanh trắc: thì 2 thanh bằng có cùng dấu (không dấu hoặc dấu huyền) không được đứng liền kề nhau, 3 thanh trắc thì tùy nghi mà sắp xếp Sắc – Hỏi – Ngã – Nặng sao cho phù hợp với câu thơ.
+ 1 câu thất ngôn bát cú 4 thanh trắc 3 thanh bằng: thì câu thơ đó phải đầy đủ 4 thanh Sắc – Hỏi – Ngã – Nặng, 3 thanh bằng thì 2 thanh Không hoặc thanh Huyền không được đứng liền kề nhau.”
Theo thiển ý cá nhân thì dòng thơ NDT này rất không có lợi cho sự giữ gìn và phát triển sự trong sáng thuần Việt của Tiêng Việt. Những câu phương ngữ, thành ngữ, luyến láy sẽ không còn chỗ đứng.
TTN lấy làm khó hiểu khi Thi hữu Nắng Xuân “nói có sách, mách có chứng” từ Rẽ Rọt? tại sao cứ phải phức tạp hóa rồi đi giải thích? Trong khi với câu thơ này thì tiếng Việt có từ “Thẽ Thọt” _ ai đọc cũng hiểu ngay!
TTN rất đồng tình với Các thi hữu về cái nhìn khách quan đầy nhân văn!
TTN