Miệng hát đông DAO anh lính xuống đầm KIẾM vài bông hoa SÚNG
Vế đối:
Tai nghe tiếng CUỐC lão nông lên chợ VỒ mấy ống điếu CÀY
Tôi rất thích câu đối nhưng tập mãi không được, hôm nay vào chuyên mục Câu đối đọc thấy nhiều bạn phân tích cũng vỡ vạc ra nhiều, xin được mượn ý của Lính Thuỷ sửa chút cho hợp với hoàn cảnh của lão quê post lên thử đối, LT ngại VỒ nhưng lão quê mà VỒ thì chắc mọi người cũng thông cảm. Có chỗ nào chưa được nhờ mọi người giúp đỡ. Như ý HT thì TIẾNG CUỐC chưa đối chuẩn với ĐỒNG DAO nhưng chưa tìm được từ nào thích hợp nên tạm để vậy
BXP
NGUYỄN HỮU THĂNG:
Sáng tác và dịch thuật
NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN
Hà Nội – 2018 LỜI GIỚI THIỆU Câu đối là thể loại văn học đặc biệt, ra đời cách đây khoảng 3000 năm . Thời xa xưa, người Trung Quốc gọi câu đối là “đào phù” (桃符), sau gọi là “đối liên” (對聯). Người xưa có quan niệm: “Nếu thơ văn là tinh hoa của chữ nghĩa thì câu đối là tinh hoa của tinh hoa”.
Câu đối xuất hiện và phát triển tại Việt Nam từ lâu đời, rất phổ biến. Đến bất cứ di tích lịch sử văn hóa nào, từ cung cấm, lăng tẩm của vua chúa, đến mọi đình chùa , đền miếu, nhà thờ họ, các gia đình truyền thống… khắp các làng quê Việt Nam đều thấy câu đối chữ Hán, chữ Nôm. Ngày Tết, gia đình Việt Nam nào cũng có “câu đối đỏ” cùng với “ bánh chưng xanh…”, Trong kho tàng văn học Việt Nam suốt chiều dài lịch sử, thể loại câu đối có một vị trí đáng trân trọng.
Nghệ thuật đối thể hiện cái hay cái đẹp của phong cách thơ văn cổ, đó là sự đối xứng, hài hòa, từ ý nghĩa, từ loại, đến thanh điệu bằng trắc, nghệ thuật “chơi chữ”. v.v… Câu đối như bài thơ chỉ có 2 câu, tuy không nhiều chữ nhưng được cân nhắc chọn lọc, có kết cấu chặt chẽ, âm điệu nhịp nhàng, nhiều câu mang ý nghĩa vô cùng thâm thúy, luôn đem đến cảm giác kỳ thú. Người xưa muốn thử tài một nho sĩ xem có thông minh, tài hoa, “hay chữ” hay không, thường lấy “mời đối” làm thước đo. Những giai thoại về đối đáp của sứ thần trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, thám hoa Giang Văn Minh… khi sang Trung Quốc đã đi vào lịch sử, tài ứng đối của các sứ thần thể hiện cả trí thông minh, vốn hiểu biết cũng như khí phách, thể diện của một dân tộc khiến triều đình phương Bắc phải nể phục. Trong lịch sử văn học Việt Nam, có rất nhiều danh sĩ học rộng tài cao, sáng tác nhiều câu đối hay nổi tiếng như Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát…
Ngay từ khi còn trẻ tôi đã thích tìm hiểu và thưởng thức câu đối. Những năm gần đây, khi đã nghỉ hưu, có điều kiện và thời gian giao lưu thơ phú với bạn bè, nhất là trên trang mạng Thi đàn Việt Nam (vnthidan.com) và Đôn Thư quê mẹ (donthuqueme.com), sinh hoạt câu lạc bộ Thơ dịch Hội Nhà văn Hà Nội…, câu đối trở thành một thú chơi thường xuyên hơn của tôi, nhất là vào dịp tết âm lịch. Những câu đối sáng tác và câu đối dịch rải rác, nay tập hợp thành sách để xuất bản , mong muốn được chia sẻ với những ai quan tâm, cùng sở thích .
Chắc chắn những câu đối sáng tác và dịch thuật của tôi không tránh khỏi hạn chế, sai sót. Rất mong nhận được sự góp ý của bạn đọc.
Nguyễn Hữu Thăng
Xin cảm ơn thầy Lê Đức Mẫn!
Sau đây xin giới thiệu cùng quý vị độc giả
CÂU ĐỐI SÁNG TÁC
của NHT: CÂU ĐỐI THỜ
Tặng ngôi đình thờ phúc thần ở Hải Dương
(Sáng tác cho 1 ngôi đình ở Hải Dương, Thành hoàng là người có công với nước và tạo lập ngôi làng)
Câu 1:
立邑开基神福大
扶民护国圣恩深
(Lập ấp khai cơ Thần phúc đại
Phù dân hộ quốc Thánh ân thâm)
Dịch nghĩa:
Thành lập làng,dựng nền móng, phúc của thần lớn lao
Giúp đỡ dân , bảo vệ nước ơn thánh sâu nặng
Dịch thành câu đối Việt:
Lập ấp xây nền Thần phúc lớn
Chăm dân giúp nước Thánh ân sâu
Câu 2:
神圣功勋千古记
乡村福禄万年兴
(Thần thánh công huân thiên cổ ký
Hương thôn phúc lộc vạn niên hưng)
Dịch nghĩa:
Công lao của thần thánh nghìn năm còn ghi lại
Phúc lộc của làng thôn muôn năm hưng thịnh
Dịch thành câu đối Việt:
Công lao thần thánh lưu thiên cổ
Phúc lộc hương thôn phát muôn đời