+ Trả lời chủ đề
Hiện kết quả từ 1 tới 8 của 8

Chủ đề: Thơ dịch - Trần Thị Thanh Liêm

  1. #1
    Avatar của TRẦN THỊ THANH LIÊM
    Điều Hành Viên Chính - Tr.Ban Đại Diện KVMB
    Hiện Đang :    TRẦN THỊ THANH LIÊM đang ẩn
    Tham gia ngày : May 2011
    Đến từ : Đại học Đại Nam Hà Nội

    Tuổi: 74
    Bài gửi : 3.835
    Thanks
    63.254
    Thanked 39.240 Times in 3.826 Posts
    Blog Entries
    6

    Thơ dịch - Trần Thị Thanh Liêm

    Thơ Cao Bá Quát

    薄暮思家

    高伯适

    城上凍雲千里陰,
    梁園花柳瞙沉沉。
    高堂兩處思兒淚,
    薄宦三春感舊心。
    對榻貧妻烹北茗,
    敲門小女弄南音。
    邦家有道知何用?
    一病蹉跎歲自深。


    Bạc mộ tư gia

    Cao Bá Quát

    Thành thượng đống vân thiên lý âm,
    Lương viên hoa liễu mạc trầm trầm.
    Cao đường lưỡng xứ tư nhi lệ,
    Bạc hoạn tam xuân cảm cựu tâm.
    Đối tháp bần thê phanh bắc mính,
    Xao môn tiểu nữ lộng nam âm.
    Bang gia hữu đạo tri hà dụng?
    Nhất bệnh tha đà tuế tự thâm


    Dịch nghĩa:

    Chiều hôm nhớ nhà

    Mây lạnh trên thành che rợp ngàn dặm

    Hoa liễu vườn bên cầu mong manh rủ xuống

    Hai chốn cha mẹ tuôn lệ nhớ con.

    Chức quan nhỏ bạc bẽo làm cảm thương lòng mong mỏi của cha mẹ khi còn nhỏ

    Ngồi trước giường, vợ nghèo nấu (pha) trà kiểu Bắc

    Gõ cửa, con gái nhỏ chơi điệu phương Nam

    Nước nhà có đạo (thịnh trị) biết dùng người cách gì đây?

    Bệnh tật lay lắt kéo dài suốt cả năm.

    Chú thích:

    - Cao đường lưỡng xứ: Chỉ cha mẹ ở hai nơi.

    - Tam xuân: Ba tháng mùa xuân, ám chỉ cha mẹ; xuất xứ từ thơ "Du tử ngâm" của Mạnh Giao đời Đường. Ý trong bài: Thương cha mẹ từng hy vọng khi anh em Cao Bá Quát thông minh từ nhỏ.

    - Nam âm: Có thể chỉ điệu Nam ai, Nam bình nghe thật ảo não, tả tâm trạng công chúa Huyền Trân về xứ Chiêm Thành, rất hợp cảnh ngộ họ Cao.

    - Hà dụng: Dùng cách gì đây. Kẻ sĩ gặp lúc nước nhà có đạo thì ra làm quan (xuất) gặp lúc nước nhà vô đạo thì ở ẩn (xử). Họ Cao cám cảnh cho mình “xuất” mà chỉ nhận cảnh đau ốm, chẳng đền đáp nổi ơn sinh thành.

    Dịch thơ:

    CHIỀU HÔM NHỚ NHÀ

    Thành vắng mây che phủ lạnh mờ
    Bên cầu trầm mặc liễu lơ thơ
    Cao đường rơi lệ bao buồn nhớ
    Chức nghiệp thương tâm luống vọng chờ
    Trà Bắc vợ nghèo pha lạch cạch
    Điệu Nam con trẻ hát ầu ơ
    Sinh thời tuấn kiệt ai cầu nhỉ
    Đeo đẳng thâm căn bệnh vật vờ.


    Trần Thị Thanh Liêm

    http://tiengtrungdainam.edu.vn
    Lần sửa cuối bởi TRẦN THỊ THANH LIÊM; 25-05-2014 lúc 05:42 PM


  2. #2
    Bạn Thâm Giao
    Hiện Đang :    PHAN THỊ THANH MINH đang ẩn
    Tham gia ngày : Jan 2013
    Đến từ : Hà Nội

    Tuổi: 89
    Bài gửi : 216
    Thanks
    3.437
    Thanked 2.596 Times in 215 Posts
    府 即 事 - Mạc phủ tức sự
    阮 攸 - Nguyễn Du (1765–1820)

    Nguyên văn chữ Hán:
    徹 夜 鑼 聲 不 暫 停
    孤 燈 相 對 到 天 明
    經 旬 去 國 心 如 死
    一 路 逢 人 面 盡 生
    山 麓 積 泥 深 沒 馬
    谿 泉 伏 怪 老 成 精
    客 情 至 此 已 無 限
    又 是 燕 山 萬 里 行

    Phiên âm Hán Việt:
    Triệt dạ la thanh bất tạm đình
    Cô đăng tương đối đáo thiên minh
    Kinh tuần khứ quốc tâm như tử
    Nhất lộ phùng nhân diện tận sinh
    Sơn lộc tích nê thâm một mã
    Khê tuyền phục quái lão thành tinh
    Khách tình chí thử dĩ vô hạn
    Hựu thị Yên sơn vạn lý hành
    Nguyễn Du
    Dịch nghĩa:
    Suốt đêm, tiếng thanh la không ngớt.
    Ta ngồi bên ngọn đèn cô đơn cho đến sáng.
    Xa nước mấy tuần, lòng như chết.
    Dọc đường gặp toàn người lạ.
    Ở chân núi bùn ngập đến bụng ngựa.
    Quái vật ẩn nấp hai bên bờ suối lâu ngày đã thành tinh.
    Đến đây, tình cảm người viễn khách đã vô hạn rồi.
    Huống chi cuộc hành trình đến Yên sơn (kinh đô) còn vạn dặm.

    Dịch thơ:
    KỂ CHUYỆN Ở MẠC PHỦ

    Tiếng thanh la đánh suốt thâu đêm
    Đến sáng một mình bên ngọn đèn
    Nhớ nước lòng buồn như muốn chết
    Đi đường người gặp chẳng hề quen
    Bùn lầy chân núi lún thân ngựa
    Tinh quái bên khe ẩn xác hèn (già)
    Tình cảm tha hương không có hạn
    Huống đường vạn dặm tới non Yên.
    Phan Thị Thanh Minh


  3. #3
    Điều Hành Viên
    Hiện Đang :    hoanggiao đang ẩn
    Tham gia ngày : Feb 2014

    Tuổi: 64
    Bài gửi : 4.458
    Thanks
    30.429
    Thanked 29.987 Times in 4.483 Posts
    Blog Entries
    1
    CHIỀU HÔM NHỚ NHÀ

    Thành vắng mây che phủ lạnh mờ
    Bên cầu trầm mặc liễu lơ thơ
    Cao đường rơi lệ bao buồn nhớ
    Chức nghiệp thương tâm luống vọng chờ
    Trà Bắc vợ nghèo pha lạch cạch
    Điệu Nam con trẻ hát ầu ơ
    Sinh thời tuấn kiệt ai cầu nhỉ
    Đeo đẳng thâm căn bệnh vật vờ.


    Trần Thị Thanh Liêm




    NHỚ NHÀ CHIỀU HÔM

    Hiu quạnh sương giăng khói phủ mờ
    Thương hàng liễu rủ cảm lời thơ
    Lòng cha cách mặt ngày ngày nhớ
    Nghĩa mẹ ngăn sông phút phút chờ
    Bạn đợi ly trà pha vấn vít
    Con về tiếng nhạc đổ ào ơ
    Đời mình bậnh tật gieo neo mãi
    Cốt nhục tình thâm dạ chẳng vờ

    Hoàng Giao
    Lần sửa cuối bởi hoanggiao; 25-05-2014 lúc 06:41 PM
    http://vnthihuu.net/image.php?type=sigpic&userid=60789&dateline=140742  1116


  4. #4
    Bạn Thâm Giao
    Hiện Đang :    PHẠM MINH KHÔI đang ẩn
    Tham gia ngày : Jan 2013
    Đến từ : Hà Nội

    Bài gửi : 207
    Thanks
    2.319
    Thanked 2.163 Times in 206 Posts
    Dịch thơ

    NGUYỄN PHI KHANH 阮 飛 卿 (1355-1429)
    Tên thật là Nguyễn Ứng Long, hiệu Nhị Khê. Ông sinh khoảng 1355 tại Nhị Khê, huyện Thượng Phúc, Phủ Quốc Oai, trấn Sơn Nam Thượng(nay là Nhị Khê, Thường Tín, Hà Nội).Tổ tiên của ông vốn ở xã Chi Ngại, huyện Phượng Nhãn, trấn Kinh Bắc.Ông là phụ thân của anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi.Ông đỗ tiến sĩ năm Giáp Dần(1374). Năm 1402 làm Học sĩ Viện Hàn Lâm , rồi lần lượt được thăng quan. Cuối cùng làm Tư Nghiệp Quốc Tử Giám. Năm 1407 ông bị quân Minh bắt đem sang Trung Quốc rồi mất ở đó khoảng năm 1429. Tác phẩm của ông có: Nhị Khê thi tập( đã mất) và Nguyễn Phi Khanh thi văn. Bài “Đề Huyền Thiên tự” trích ở tập Nguyễn Phi Khanh thi văn.
    1- Nguyên tác 題 玄 天 字
    阮 飛 卿
    仙 家 一 簇 聳 雲 岑
    路 入 煙 蘿 窅 蓧 深
    樹 影 長 年 圍 古 澗
    花 枝 清 午 囀 幽 禽
    官 閒 我 得 修 身 訣
    老 去 天 知 學 道 心
    若 見 赤 松 憑 寄 語
    佳 遊 何 日 果 幽 尋

    Phiên âm : ĐỀ HUYỀN THIÊN TỰ
    Nguyễn Phi Khanh

    Tiên gia nhất thốc tủng vân sầm,
    Lộ nhập yên la yểu điệu thâm.
    Thụ ảnh trường thiên vi cổ giản,
    Hoa chi thanh ngọ chuyển u cầm.
    Quan nhàn ngã đắc tu thân quyết,
    Lão khứ thiên tri học đạo tâm.
    Nhược kiến Xích Tùng bằng ký ngữ
    Giai du hà nhật quả u tầm.


    Dịch thơ I: ĐỀ CHÙA HUYỀN THIÊN


    Một cụm nhà tiên cao ngất mây
    Lối đi dây quấn, khói sương dầy.
    Bầy chim lặng tiếng giữa trưa vắng
    Suối cổ in hình mãi tán cây
    Bí quyết tu thân ta đã biết
    Tuổi già học đạo có trời hay.
    Xích Tùng , nếu gặp đôi lời nhắn
    Vui thú khi nào thỏa chí đây ?
    Phạm Minh Khôi (phỏng dịch)


  5. #5
    Bạn Thâm Giao
    Hiện Đang :    PHẠM MINH KHÔI đang ẩn
    Tham gia ngày : Jan 2013
    Đến từ : Hà Nội

    Bài gửi : 207
    Thanks
    2.319
    Thanked 2.163 Times in 206 Posts
    NGUYỄN PHI KHANH (1335-1429)
    Nguyên tác : 春 寒
    阮 飛 卿

    凝 雲 漠 漠 露 沈 沈
    釀 作 餘 寒 十 日 陰
    帶 雨 有 痕 粘 樹 絮
    傷 春 無 語 隔 花 禽
    書 齋 寂 寂 惟 高 枕
    世 事 悠 悠 正 抱 衾
    安 得 此 身 同 橐 籥
    和 風 噓 遍 九 州 心

    Phiên âm: XUÂN HÀN
    Ngưng vân mạc mạc lộ trầm trầm
    Nhưỡng tác dư hàn thập nhật âm
    Đái vũ hữu ngân niêm thụ nhứ
    Thương xuân vô ngữ cách hoa cầm.
    Thư trai tịch tịch duy cao chẩm
    Thế sự du du chính bão khâm.
    An đắc thử thân đồng thác thược
    Hòa phong hư biến cửu châu tâm.

    Dịch nghĩa: XUÂN LẠNH
    Mây giăng đầy trời,.sương mờ mịt đất
    Đông tàn xuân đến nhưng cái lạnh chưa qua
    Nước mưa còn đọng lại trên cành hoa
    Thương cảm mùa xuân không có tiếng chim hót
    Trong phòng vắng vẻ , nằm gối đầu cao
    Trùm chăn khi việc đời còn bao bộn bề.
    Giá mà thân ta trở thành bễ lò kia
    Thổi làn hơi ấm đến khắp mọi nơi
    Dịch thơ I: XUÂN LẠNH
    Sương mờ mịt đất, mây đầy trời
    Xuân đến, đông tàn, lanh chửa thôi.
    Mưa đọng , cành hoa bao giọt nước
    Xót xuân , chim chóc bặt tăm hơi .
    Thư phòng vắng vẻ , đầu cao khểnh
    Công việc bộn bề , chăn quấn ngơi.
    Giá biến được thành lò bễ nhỉ ?
    Thổi làn hơi ấm khắp nơi nơi.
    Phạm Minh Khôi (dịch)


  6. #6
    Bạn Thâm Giao
    Hiện Đang :    PHẠM MINH KHÔI đang ẩn
    Tham gia ngày : Jan 2013
    Đến từ : Hà Nội

    Bài gửi : 207
    Thanks
    2.319
    Thanked 2.163 Times in 206 Posts
    Nguyễn Trãi 海口夜泊有感
    一 蹩 江 湖 數 十 年
    海 門 今 日 繫 吟 船
    波 心 浩 渺 滄 州 月
    樹 影 參 差 浦 漵 煙
    往 事 難 蕁 時 易 過
    國 恩 未 報 老 堪 憐
    平 生 獨 抱 先 憂 念
    坐 擁 寒 衾 夜 不 眠

    Phiên âm: HẢI KHẨU DẠ BẠC HỮU CẢM
    Nhất biệt giang hồ sổ thập niên
    Hải môn kim nhật hệ ngâm thuyền.
    Ba tâm hạo diểu thương châu nguyệt
    Thụ ảnh sâm si phố tự yên.
    Vãng sự nan tầm thời dị quá
    Quốc ân vị báo lão kham liên.
    Bình sinh độc bão tiên ưu niệm
    Tọa ủng hàn khâm dạ bất miên.


    Dịch thơ: ĐÊM CỬA BIỂN CẢM HỨNG
    Giang hồ lưu lạc đã mười niên
    Cửa biển đêm nay lại buộc thuyền.
    Mặt sóng mênh mang, trăng bãi chiếu
    Ánh cây lố nhố , khói trùm lên.
    Việc xưa bóng cũ , khôn dìu lại
    Ơn nước,thân già chửa báo đền.
    “Lo trước hưởng sau” ôm chí cả
    Khoác chăn ngồi lạnh đợi qua đêm.
    Phạm Minh Khôi (dịch).


    Dịch thơ LB: ĐÊM CỬA BIỂN CẢM HỨNG
    Giang hồ lưu lạc mười niên
    Đêm nay cửa biển neo thuyền thơ chơi.
    Nước mênh mông , bãi sáng ngời
    Một vùng khói sóng, cây thời bóng im.
    Thời qua , việc cũ khó tìm
    Thân già ơn nước chưa đền đáng thương.
    Bình sinh chí cả* một đường
    Khoác chăn ngồi suốt đêm trường khôn khuây.
    Phạm Minh Khôi (dịch).
    *"lo trước hưởng sau"


    Và hai bài viết cũ của Nguyễn Trãi
    Nguyễn Trãi (1380-1442) .Đỗ tiến sĩ năm 1400
    Anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa


  7. #7
    Bạn Thâm Giao
    Hiện Đang :    PHẠM MINH KHÔI đang ẩn
    Tham gia ngày : Jan 2013
    Đến từ : Hà Nội

    Bài gửi : 207
    Thanks
    2.319
    Thanked 2.163 Times in 206 Posts
    Tiến tới kỷ niệm 250 sinh của Đại thi hào Nguyễn Du

    NGUYỄN DU
    (1765 - 1820)

    • Đây là bài “U cư Kỳ nhất” 幽 居 其一

    Dịch thơ: Ở NƠI U TỊCH (Bài 1)
    Hoa, lá cành đào rụng tả tơi
    Một gian nhà nát cửa then rời
    Trọ lâu quên hẳn mình là khách
    Sống mãi nên hay tuổi lão rồi.
    Giả ngố , xa quê , phòng thói tục
    Giữ mình , đời loạn , sợ người thôi.
    Bạc đầu lưu lạc danh chưa có
    Ngọn gió tây *làm khăn nhỏ rơi.
    Phạm Minh Khôi (dịch)


    Dịch thơ lục bát: Ở NƠI U TỊCH (bài 1)
    Lá, hoa đào rụng tả tơi
    Một gian nhà nát, cửa rời lỏng then
    Năm chầy già đã đeo bên
    Trọ lâu thân khách lãng quên mất rồi
    Tha hương giả ngố phòng đời
    Giữ mình thời loạn sợ người hại ta
    Bạc đầu sự nghiệp qua loa
    Gió tây thổi rớt khăn sa nhỏ rồi.
    Phạm Minh Khôi (phỏng dịch)

    • Theo tôi biết , bài này tác giả viết trong khoảng 10 năm đi ở ẩn(1786-1795),tránh né nhà Tây Sơn , và
    ngầm trách vì nhà Tây Sơn mà làm lỡ giở công danh của mình. Câu kết của bài thơ đã nói lên điều đó
    (ý tại ngôn ngoại ? )


    Nguyễn Du (1765-1820 ) 阮攸
    幽 居 其 二
    十 載 風 塵 去 國 賒
    蕭 蕭 白 髮 寄 人 家
    長 途 日 暮 新 遊 少
    一 室 春 寒 舊 病 多
    壞 壁 月 明 蟠 蜥 蜴
    荒 池 水 涸 出 蝦 蟆
    行 人 莫 誦 登 樓 賦
    強 半 春 光 在 海 涯


    Âm Hán Việt:
    U CƯ KỲ NHỊ
    Nguyễn Du

    Thập tải phong trần khứ quốc xa
    Tiêu tiêu bạch phát ký nhân gia.
    Trường đồ nhật mộ tân du thiểu
    Nhất thất xuân hàn cựu bệnh đa.
    Họa bích nguyệt minh bàn tích dịch
    Hoang trì thủy lạc xuất hà ma.
    Hành nhân mạc tụng “Đăng lâu phú”
    Cưỡng bán xuân quang tại hải nha(nhai).


    Dịch nghĩa: Ở NƠI U TỊCH (bài 2)

    Mười năm gió bụi sống xa quê hương
    Đầu bạc lốm đốm còn phải ăn nhờ ở đậu
    Đường đi còn dài, trời đã về chiều, lại không tìm ra bạn mới
    Một căn nhà lẻ ,giữa mùa xuân lạnh ngắt ,bệnh cũ nhiều- tái phát
    Dưới ánh trăng ,con thạch sùng leo lên vách nát
    Ao hoang nước cạn hết, chỉ còn thấy ếch nhái
    Khách đi đường đọc bài “phú lên lầu” ( chẳng ích gì)
    Quá nửa đời người ta còn ở nơi chân trời đất khách.

    *”Đăng lâu phú” : bài phú làm khi lên chơi thành Giang Lăng ở Kinh Châu của Vương Xán (177-217)
    Vương Xán là nhà thơ nổi tiếng nhất, tiêu biểu nhất của Kiến An thất tử, cuối đời Đông Hán.
    Không nên nhầm với bài thơ “Đăng lâu” của Đỗ Phủ .

    .
    Dịch thơ (Đường Luật):

    Ở NƠI U TỊCH (vắng vẻ, tối tăm)

    Gió bụi mười năm biệt cố hương.
    Phơ phơ đầu bạc , đất người nương
    Bệnh nhiều xuân lạnh nhà đơn chiếc
    Bạn ít, chiều sang , bước dặm trường
    Trăng sáng ,thạch sùng leo vách nát
    Nước khô ,ếch nhái quậy đầm hoang
    Đi đường đừng ước “lên lầu” ngóng
    Quá nửa đời còn giạt một phương
    Phạm Minh Khôi (phỏng dịch)



    Dịch thơ lục bát :

    Ở NƠI U TỊCH (vắng vẻ, tối tăm)

    Mười năm ly biệt cố hương
    Tóc đầu trắng toát còn nương đất người
    Đường dài , bạn ít , chiều rồi
    Nhà đơn, bệnh lắm, xuần thời lạnh tê
    Thạch sùng leo vách , trăng khuya
    Ao khô ếch nhái dãi dề vọng vang
    “Lên lầu” đừng đọc đi đường
    Nửa đời rồi vẫn tha hương buồn tình.
    Phạm Minh khôi (phỏng dịch)


  8. #8
    Avatar của TRẦN THỊ THANH LIÊM
    Điều Hành Viên Chính - Tr.Ban Đại Diện KVMB
    Hiện Đang :    TRẦN THỊ THANH LIÊM đang ẩn
    Tham gia ngày : May 2011
    Đến từ : Đại học Đại Nam Hà Nội

    Tuổi: 74
    Bài gửi : 3.835
    Thanks
    63.254
    Thanked 39.240 Times in 3.826 Posts
    Blog Entries
    6
    Thơ chữ Hán Lê Quý Đôn:

    Lê Quý Đôn 黎貴惇(1726 - 1784) tự Doãn Hậu 允厚, hiệu Quế Đường 桂堂, thuở nhỏ có tên là Lê Danh Phương 黎名芳. Ông quê ở xã Diên Hà, phủ Tiên Hưng, trấn Sơn Nam hạ (nay thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Lê Quý Đôn thi đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ nhị danh năm Nhâm Thân niên hiệu Cảnh Hưng 13 (1752) đời vua Lê Hiển Tông. Ông từng giữ nhiều chức quan và được cử làm phó sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc). Sau khi mất được tặng chức Thượng thư Bộ Công, gia phong Dĩnh quận công. Lê Quý Đôn là bác học lớn, ngoài biên soạn sách về nhiều lĩnh vực ông còn sáng tác, có tập thơ Quế Đường 桂堂詩集(Quế Đường thi tập) lưu hành ở đời.

    香海寺

    黎貴惇

    幾年軒豁遠塵埃,

    秋水春山一鍳開。

    江月不隨流水去,

    天風常送海濤來。

    僊棋喚客催詩思,

    玉影留人動壯懁。

    盡日登臨無限興,

    夕陽咫尺近蓬萊。

    Hương Hải tự

    Lê Quý Đôn

    Kỷ niên hiên khoát viễn trần ai,

    Thu thuỷ xuân sơn nhất giám khai.

    Giang nguyệt bất tuỳ lưu thuỷ khứ,

    Thiên phong thường tống hải đào lai.

    Tiên kỳ hoán khách thôi thi tứ,

    Ngọc ảnh lưu nhân động tráng hoài.

    Tận nhật đăng lâm vô hạn hứng,

    Tịch dương chỉ xích cận Bồng Lai.

    Dịch nghĩa:

    CHÙA HƯƠNG HẢI

    Lê Quý Đôn

    Chùa này cao rộng, xa cách chốn trần ai đã bao năm rồi

    Nước mùa thu, núi mùa xuân, vẻ đẹp ấy như tấm gương lớn mở ra trước mắt

    Vầng trăng trên mặt sông không trôi đi theo dòng nước

    Gió trời thường đưa sóng biển gầm gào vẳng tới

    Bàn cờ tiên gọi du khách thôi thúc tứ thơ

    Bóng ngọc lưu giữ người khiến tinh thần thêm phấn chấn hào hùng

    Cả ngày lên cao nhìn xa ngắm cảnh hứng thú vô cùng

    Dưới ánh chiều tà, cảnh Bồng Lai tưởng như gần trong gang tấc

    Chú thích:

    - Chùa Hương Hải: ngôi chùa cổ nằm ở xã Phú Vệ, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.

    - Bồng Lai: theo truyền thuyết là tên một trong ba quả núi có tiên ở (Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu). Đây nói cảnh đẹp tuyệt trần

    DỊCH THƠ:
    CHÙA HƯƠNG HẢI
    Lê Quý Đôn
    Ngôi chùa xa cách lối trần ai
    Cảnh đẹp hằng lưu rất rộng dài
    Suối chẳng làm trôi trăng buổi tối
    Gió còn thổi lại sóng hôm mai
    Cờ tiên đãi bạn tình luôn thắm
    Dáng ngọc chiêu hiền nghĩa khó phai
    Hương Hải Chí Linh về đất Phật
    Dương tà tưởng lạc cõi Bồng Lai.
    Trần Thị Thanh Liêm dịch


  9. 3 Thành viên dưới đây cảm ơn TRẦN THỊ THANH LIÊM vì bài viết hữu ích này


+ Trả lời chủ đề

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình