+ Trả lời chủ đề
Trang 4/8 ĐầuĐầu ... 2 3 4 5 6 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 31 tới 40 của 71

Chủ đề: TRUYỆN NGẮN - Hansy - Sưu tầm

Hybrid View

  1. #1
    Banned
    Hiện Đang :    Hansy đang ẩn
    Tham gia ngày : Jan 2012

    Bài gửi : 0
    Thanks
    5.759
    Thanked 6.595 Times in 1.818 Posts
    27
    Di sản của nội

    Huỳnh Mẫn Chi


    Khu vườn đang um tùm, xanh tốt. Anh hai của Liễu đốn phá sạch trơn từ đời nào. Khu vườn chỉ còn là miếng đất trơ trọi. Khi đó, xung quanh, vườn tược của người khác vẫn xum xuê cây trái. Liễu bận rộn ôn thi đại học ngoài thị trấn mấy tháng. Vừa đặt chân về nhà, Liễu đã bật khóc gia sản ông nội để lại có bấy nhiêu đó, anh hai đốn phá làm gì. Anh hai của Liễu lại nằng nặc, anh cho mình hành động như vậy là đúng, sáng suốt. Thế là bỏ lỡ mấy nhánh cam ngoài nắng chang chang, anh hai Liễu đứng sừng sộ với em gái:
    - Thời buổi bây giờ, người ta trồng bưởi Ấn Độ, quýt Trung Quốc, xoài Thái Lan, cam Mỹ… Chứ những thứ này để làm gì?

    Liễu nhìn anh hai mình khá lâu. Cô bất mãn nên bỏ vào nhà. Liễu không thể ngờ khu vườn của ông nội ngày trước giờ chỉ là một khoảng đất trống, lam nham. Phá phách như vậy, anh hai của Liễu lại cho là nâng cấp vườn tược. Nhìn mấy nhánh cam sành le phe, yếu ớt như sợ nắng, sợ gió, Liễu chán ngán đến khổ sở. Cô không hiểu anh hai mình có ý định làm giàu kiểu gì. Hàng măng cụt trước ngõ, anh chặt đến sát gốc. Mấy cây mít Tố Nữ mọc ven sông, anh cũng không chừa. Anh tưởng mình giỏi giang lắm sao. Xứ sở này là của xoài cát Hòa Lộc nhưng chưa chắc, vườn nhà ai trồng nhiều bằng khu vườn nhà mình. Anh hai quên rồi sao. Ông nội đã trồng trọt cách đây hàng mấy chục năm làm sao anh biết, mà nhớ. Lúc ấy, anh em Liễu chắc gì đã có trên đời này. Chẳng lẽ như vậy, anh hai Liễu tàn sát chúng sạch sẽ, không một chút nương tay sao. Đã vậy, miệng anh hai Liễu lại cứ oang oang với cô em gái:
    - Mày đi học làm gì chứ? Thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng không biết.

    Liễu im lặng. Cô bươn bả lao ra hàng cam Mỹ vừa trồng một vài ngày. Tức tối, giận dữ, Liễu đưa tay nhổ hết nhánh cam lên rồi quay sang nhổ nhánh khác. Anh hai Liễu không hề can ngăn cô em gái. Anh lại nhìn cô em gái mĩm cười nhợt nhạt.
    - Mày cứ nhổ, tao trồng lại mặc tao.

    Liễu dừng tay. Ngoái đầu lại nhìn anh hai, cô bật khóc nghẹn ngào. Anh hai Liễu không nói lời nào. Nhặt từng nhánh cam mà Liễu vừa nhổ lên, anh trồng xuống đất trở lại. Liễu đứng bất động. Giọng nghèn nghẹn không nên lời, nước mắt tuôn ướt đẫm đôi má.

    Bà nội Liễu mất sớm. Cha mẹ Liễu lại đông con. Cho nên, Liễu và anh Hai về sinh sống cùng với ông nội. Lúc ấy, anh em Liễu còn nhỏ lắm. Liễu chưa được mười tuổi đầu. Anh anh Liễu khoảng mười hai hay mười ba gì đó. Vậy mà sống với ông nội, Liễu và anh hai lại thích hơn ở với cha mẹ mình. Bởi vì, cha mẹ Liễu sống ở tận ngoài đồng. Còn ông bà nội Liễu, họ lại sống trong khu vườn cây cối ươm bông kết trái quanh năm, bốn mùa.

    Cho nên, anh em Liễu cứ la cà ngoài vườn suốt ngày. Nhà cha mẹ Liễu lại ở giữa cánh đồng chơi vơi. Ngày này tháng nọ, anh em Liễu bước đến đâu cũng gặp ruộng, cũng gặp đồng. Chưa kể những lúc đồng khô cỏ cháy, anh em Liễu đặt chân bước đến đâu, đất nẻ vây theo đến đó. Những lúc anh em Liễu hớ hênh, chân lọt thỏm xuống đất nẻ, hai đứa chì đứa kéo cả buổi, bàn chân vẫn còn nằm im dưới khe đất nẻ. Vào mùa mưa, chân cẳng anh em Liễu bước đến đâu, bùn xình dính chèn nhẹt đến đó. Liễu cũng không nghĩ sống ở miệt vườn là thiếu mưa, ít thấy nắng.

    Trời đất ở đâu mà chẳng có nắng, có mưa. Nhưng sống ở miệt vườn, Liễu vẫn thấy dễ chịu hơn. Vườn tược như đã làm giảm cái nắng, cái mưa. Trong khi đó, sống ở đồng, ở ruộng lại chan chát quanh năm. Sống ở vườn, Liễu còn được ăn trái này quả kia suốt ngày. Không những vậy, anh em Liễu còn leo trèo, phá tán triền miên. Anh Liễu hay lùng sục ngày cũng như đêm, ngoài vườn có tổ ong nào, anh ta đốt phá tổ nấy. Chim chóc làm tổ, đẻ chưa kịp nở, anh hai Liễu đã cho vào nồi luộc. Ông nội biết được. Ông gọi anh em Liễu đến rầy la. Liễu ấm ức lắm. Cũng may mỗi chuyện ấy, chứ ông nội Liễu ít khi nào la mắng anh em Liễu.

    Ngược lại, ông nội hay nhắc nhở chuyện học. Anh em Liễu sống với ông nội, chuyện gì cũng thích. Mỗi chuyện học, anh em Liễu ngao ngán. Bởi vì mỗi khi gặp ông nội, ngoài vườn, trong nhà, trên mâm cơm, ông đều nhắc đi nhắc lại một chuyện, anh em Liễu phải học hành cho đàng hoàng. Anh em Liễu cũng gục gặc cho qua chuyện. Nhưng anh em Liễu vẫn chưa một lần dễ dàng trốn thoát. Mỗi lần ông nội nhắc một tiếng, anh em Liễu vừa bày tập vở ra. Ông nội đã ngồi chờ canh cho hai anh em học. Không những vậy, ông còn kiểm tra bài vở anh em Liễu rất gắt gao. Liễu trả bài phải thuộc làu làu. Anh hai làm bài tập phải đúng hoàn toàn rồi mới được đi chơi. Còn không, dù có khuya lơ khuya lắc đến đâu, ông nội vẫn ngồi canh hai anh em Liễu học.

    Ông nội Liễu là một thầy giáo. Xóm làng ai cũng cảm phục ông. Người ta không những kính nể ông nội Liễu về chữ nghĩa, theo cái kiểu "tôn sư trọng đạo" mà còn tôn trọng ông những điều gì hay, nơi ông. Ông trồng mấy giàn trầu xanh tốt. Họ khen ông có tay canh tác. Bà mất, ông vẫn sống vậy. Họ lại khen ông khéo làm gà trống nuôi con rồi đến nuôi cháu. Ông dạy học. Cả xóm lại tôn ông là sư già của làng.

    Mỗi chuyện cũ rích, họ cứ nhắc mãi như thuộc về huyền thoại. Chuyện là trong thời kỳ giặc Pháp đô hộ. Ông nội Liễu đang là thầy giáo hẳn hoi, bỗng dưng, ông xí xô xí xào mấy tiếng với bọn lính Tây. Ngày hôm sau, đầu làng cuối xóm nhìn ông nội Liễu bằng ánh mắt ngưỡng mộ. Bởi hôm đó, ông đang trên đường ra ấp dạy. Vừa đến đầu ấp, bọn Tây năm bảy thằng, chúng đang đi lùng, khủng bố dân lành. Ông nội Liễu như đoán trước, ông giơ tay chào chúng. Chúng nhìn ông bất ngờ. Nói qua nói lại mấy câu, chúng kéo nhau về. Và kể từ hôm đó, ông nội Liễu trở thành thông dịch viên cho xóm làng một cách bất đắc dĩ. Không những vậy, làng này xóm kia, mỗi khi gặp ông nội Liễu, họ hay kêu réo ông dạy cho vài tiếng Tây. Ông nội Liễu không từ chối. Ông đọc trước, họ đọc theo sau. Vậy mà mỗi khi Tây xuất hiện, những người đó cứ ra đứng lấp ló. Một vài người nói tiếng Tây ba trầy ba trật mà vừa gặp Tây, họ vẫn nói rân trời tối đất. Nhiều thằng Tây tốt bụng, nó lắng nghe một lúc, nhíu mày nhăn nhó rồi dừng lại luyện giọng cho mấy người đó. Nhờ vậy, xóm làng ông nội Liễu sinh sống thời đó, ít người bị bọn Tây bắt bớ vô cớ.

    Đêm hôm đó, mười phút nữa là đến giờ giao thừa. Thế nhưng, Liễu chẳng thấy gì gọi là không khí của ngày Tết. Mặc dù nhà nội Liễu, họ hàng lối xóm cứ ra vào rất đông. Lẽ ra những ngày cận Tết, nhà mình có người thăm viếng nhiều vậy. Liễu phải vui, vì đây là chuyện hiếm thấy. Nhưng Liễu lại có linh cảm không mấy tốt lành. Đã vậy, loài quỷ quái chim Cú ăn đêm cứ bay là đà ở nhà nội Liễu, kêu thất thanh. Mọi người trong nhà nội đang nhỏ to bàn tính chuyện gì đó. Họ nhìn nhau hốt hoảng. Người nào người nấy đều tỏ thái độ lo lắng. Liễu nhìn mọi người khó hiểu. Cô dỏng tai nghe tiếng chim, mỗi lúc một gần.

    Bất ngờ, Liễu nghe tiếng kêu ấy xuất hiện ngay trên nóc nhà. Tiếng kêu Cú! Cú! Cú… vẳng ra rợn người. Mọi người trong nhà lặng thinh. Một vài tiếng thở dài, buồn bã. Ông nội Liễu nằm thở khó nhọc, mắt hướng về anh em Liễu, trông đợi. Anh em Liễu vội vã tiến đến cạnh ông nội. Nhìn ông, Liễu rưng rưng nước mắt. Ông gầy gò đi quá nhiều. Nằm sát chiếu sát giường, mắt sâu tròng, mặt mày hom hem hẳn đi. Liễu đang nhìn ông nội chăm chú. Bỗng dưng, mọi người vây lấy ông, sợ hãi. Ông vẫn nhìn anh em Liễu như muốn nói điều gì, nhưng rất khó khăn. Da dẻ ông nhạt dần, nhạt dần đến tím ngắt, mắt như đứng tròng, ông thều thào:
    - Thằng Lợi cố mà gìn giữ mảnh vườn này để chút hoa lợi, lo chuyện học hành. Con Liễu thì cái rương sách của ông đó…

    Ai nấy đều nghẹn ngào. Họ bảo ông nội Liễu đã ra đi lúc anh em Liễu đến ngồi bên cạnh. Thật ra, lời trăn trối ấy là của vong hồn, chứ thể xác đã chết từ lâu. Vì vậy, anh em Liễu phải nhớ lời của ông. Liễu bật khóc. Người ta kéo anh em Liễu sang một bên. Họ buộc hai ngón chân cái ông lại. Liễu chưa kịp nhìn mặt ông nội lần cuối, họ đã đắp kín mặt ông nội bằng chiếc mùi xoa trắng tinh, như bông.

    Năm đó, Liễu mới bước sang lớp chín. Anh hai Liễu thì đã học đến lớp mười hai. Và từ hôm đó, anh em Liễu vẫn sinh sống trong căn nhà của nội. Cha mẹ Liễu thỉnh thoảng vẫn tới lui căn nhà ấy. Nhưng chỉ để nhắc nhở, sai bảo, mỗi khi cần đến anh em Liễu. Không phải không thương con, cha mẹ nào chẳng thương con mến cái. Có lẽ, cha mẹ Liễu ít gần gũi với con cái lâu ngày trở thành thói quen. Và cứ thế, mạnh ai nấy sống, chuyện ai nấy làm. Cha mẹ Liễu lo chuyện đồng áng. Anh em Liễu lo chuyện vườn tược, học hành. Dần dà về sau, anh em Liễu trưởng thành. Tình cảm đối với cha mẹ, anh em Liễu luôn luôn thấy là trống vắng.

    Liễu học xong năm thứ ba đại học. Một hôm cô về thăm nhà, từ xa, Liễu thấy mọi người vây kín lấy căn nhà mình. Liễu vội vã chạy vào. Ngôi nhà cô từng sinh sống đã biến dạng. Mái ngói đã được xếp ngay hàng thẳng tắp ở lối ra vào nhà. Liễu đứng lớ ngớ. Cô nhìn căn nhà trống trơ, chỉ còn cái sườn trơ trọi dưới nắng, nước mắt chưa chan. Liễu loay hoay, dáo dác nhìn mọi người. Cô dõi mắt tìm kiếm anh Hai. Một tiếng ầm vang lên long trời lở đất. Liễu gần như muốn ngất cùng với căn nhà ngói ba gian đã sập mẹp nhúm, nằm ngổn ngang dưới đất. Vậy mà, tiếng vỗ tay, tiếng cười nói, tiếng vui mừng… lại vang lên rầm rộ. Liễu bật khóc. Cô khóc nức nở như chưa bao giờ được khóc. Con gái mười tám hai mươi tuổi đầu, Liễu khóc như trẻ con. Cô ngồi chèm bẹp xuống đất, giọng cứ gào cứ thét. Nội ơi! Nội hỡi! Anh hai Liễu đang lui cui dọn đống cây vụn, thấy vậy, liền bật dậy chạy đến bên Liễu, giọng hằn học:
    - Tao xây nhà mới. Chưa gì, mày về đây tru tréo, định trù ẻo tao hả?

    Liễu vẫn khóc. Không những khóc, cô còn gào to hơn nữa. Những người đang phụ anh hai Liễu giở nhà. Họ nhìn Liễu khó hiểu. Anh hai Liễu tức tối đến tím mặt bầm môi. Với sức khỏe như anh hai Liễu, cộng với cái bực tức này, chỉ một phát là Liễu tắt thở ngay. Chuyện xây nhà sửa cửa, đàn bà con gái giúp được gì mà về đây, la với lối. Nhưng anh hai Liễu còn kịp nghĩ, em mình là phận gái. Chứ mà vai u thịt bắp, anh ta đã hơn thua nó từ lâu rồi. Cho nên, anh hai Liễu cứ đi tới đi lui, bứt đầu bứt cổ. Cuối cùng, anh hai nhìn mọi người hô hoán lên:
    - Cái rương! Cái rương của nó đâu…

    Liễu đang khóc rỉ rả. Mọi người nhắc đến cái rương, cô giật mình đứng lên. Nét mặt hớt hãi, Liễu đi tìm cái rương. Bốn năm năm rồi, từ khi ông nội mất đến giờ, Liễu chưa một lần mở ra xem. Liễu muốn nhìn thấy vật gì trong đó. Những gì của ông nội để lại mong muốn mọi người phải giữ gìn. Chẳng mấy chốc, mọi người khiêng cái rương gỗ cũ kỹ đã bị mối mọt gặm đến đặt trước mặt Liễu. Anh anh Liễu tươi cười:
    - Tao biết lắm mà! Vàng bạc châu báu gì đó, mày cứ cất đi.

    Ngồi bên gia sản ông nội để lại, chiếc rương gỗ như đã mọc đầy nấm đầy mốc. Liễu không để ý đến anh hai. Cô muốn quên tất cả. Chuyện anh hai phá bỏ căn nhà mà ông nội từng gầy dựng, để xây nhà mới, Liễu cũng không muốn nghĩ ngợi nữa. Liễu chỉ bất ngờ khi mở rương ra. Chiếc rương này đối với Liễu, nó đã là vô giá. Nó giá trị hơn cả căn nhà mới, anh hai đang xây. Dù chiếc rương không chứa vàng bạc, nhưng nó lại chứa đầy sách vở. Quyển sách nào cũng dày cộm, to tướng. Bụi bặm bám đầy, sách lẫn vở, quyển nào quyển nấy vẫn còn mới tinh. Riêng những quyển sổ tay, những quyển tập ghi chép bằng bút mực, vẫn còn đậm nét. Liễu xem thoáng qua. Cô sắp xếp chúng lại, bỏ vào rương ngăn nắp, rồi khệ nệ mang đi.

    Quay lại thành phố, vừa học, Liễu vừa đọc sách, đọc nhật ký của ông nội in trên từng trang giấy. Từng nét chữ của ông nội để lại, Liễu đọc đến đâu lòng dạ đau xé đến đó. Những ngày tháng sống với ông nội Liễu đã bắt gặp. Nó vẫn nằm trong những trang nhật ký của ông. Cô như được sống những ngày có ông nội bên cạnh.

    Hình ảnh ông Hai hiên ngang hiện lên trên từng trang nhật ký của ông. Liễu say sưa đọc. Cô như đắm chìm vào những chiến công oanh liệt của ông Hai. Đọc đến đoạn ông Hai chỉ huy đánh thắng trận cây Bàng, Liễu thét lên vì mừng, vì sung sướng. Liễu thấy ông Hai sao mà hùng dũng, sừng sững và lồng lộng trước giặc ngoại xâm đến thế.

    Ông Hai như thế nào, Liễu không hình dung được. Liễu chỉ biết ông Hai là anh ruột của ông nội. Bà cố sinh chỉ hai người con: ông Hai và ông nội. Ông Hai tham gia kháng chiến rất sớm. Ngay từ bé, ông Hai đã vào chiến khu với công việc của một cậu bé giao liên, rải truyền đơn… Khi trưởng thành, ông Hai đã tham gia chỉ huy đánh nhiều trận lớn ở xã. Tất nhiên, ông Hai chỉ huy trận nào là thắng trận nấy. Theo ông nội kể, ông Hai rất có tài. Ông Hai biết làm thơ, viết nhạc và hát rất hay… Nói chung, những năng khiếu ấy của ông Hai cũng đủ tác động và kêu gọi tinh thần yêu nước của người dân trong làng.

    Đọc xong quyển nhật ký này, Liễu đọc đến quyển nhật ký khác. Quyển nào nhật ký của nội Liễu cũng thấy hình ảnh ông Hai trong đó. Ngay cả, khi đọc đến quyển tập học trò, Liễu mới thấy ông nội viết rất rõ, rất chi tiết về ông Hai. Liễu lại xúc động. Một quyển nhật ký mà trước đây, Liễu không muốn đọc, do nó đã nhàu nát. Khi đã đọc, mắt Liễu lại cay xé. Những giọt nước mắt long lanh, nó như đã làm lờ mờ câu chữ. Đọc đến đâu, Liễu đều có cảm giác ông nội cô đã hiện về. Ông kể cho Liễu nghe những câu chuyện của thời chiến tranh. Bởi vì, ông nội Liễu viết về ông Hai rất hay. Những câu chuyện dí dỏm đến ngộ nghĩnh, chất chứa bao tình cảm, bao nỗi buồn. Đặc biệt nỗi lòng của ông đối với ông Hai.

    Ông kể về tuổi thơ của đời mình. Những tháng ngày cơ cực của một cậu học trò hiếu học. Thời ông nội Liễu đi học, làm gì có trường lớp ở xã ở huyện, may là một vài lớp dạy biết đọc chữ, biết viết chữ trong các ngôi đình của làng. Còn muốn học cao hơn nữa, thời đó trường của Tây ở tận ngoài tỉnh. Thế là vì mê học, ông Liễu ra tỉnh học cùng với con cháu của Tây. Trong khi đó, gia đình rất nghèo. Trường học lại xa xôi, cách nhà đến mười lăm mười bảy cây số đường đồng, lẫn đường rừng. Người giàu đi học bằng xe ngựa. Họ trò nghèo như ông nội Liễu phải đi bộ quanh năm, suốt tháng. Vậy mà, ông nội Liễu lại đi bộ rất khỏe. Bốn giờ sáng, ông đã khởi hành. Bảy giờ tối, ông mới về đến nhà. Một vài người trong xóm nhìn ông nội Liễu ngạc nhiên. Họ chặn đường ông nội Liễu lại, nói lằng nhằng.

    Ông nội Liễu nghe xong, thản nhiên bỏ đi. Mặc kệ, ông nội Liễu là vậy, ai nói gì cứ nói. Ông nội Liễu vẫn đi học đều đều. Nhưng có ngày, ông nội Liễu đi học lại về rất sớm, chòm xóm nhìn ông lại thắc mắc. Ông nội Liễu không giải thích. Bởi vì những ngày đó, ông nội Liễu có đi bộ đâu mà về trễ. Xe ngựa của mấy người bạn chạy đằng trước.
    Ông nội Liễu cắm đầu cắm cổ chạy đua theo ngựa đằng sau. Chạy mãi nên ghiền, ông thấy như đã thành thói quen. Cho nên, mỗi khi tan trường, ông nội Liễu thường xuyên chạy bộ về nhà nhiều hơn là đi bộ.

    Thế nhưng cuộc sống, công việc, mọi thứ đâu như mình tưởng. Ông nội Liễu cũng vậy. Ngon trớn được một thời gian, ông cứ ngỡ mình chạy đua với ngựa suôn sẻ, năm này sang tháng nọ. Có ngờ đâu, một hôm ông đang cặm cụi chạy theo con ngựa cứ lao lộc cộc về phía trước. Bỗng nhiên, con ngựa nổi chứng. Nó dừng lại bất tử. Ông té nhào vào xe, mình mẩy trầy sướt, máu chảy ướt linh láng áo quần. Những lần té nặng, đám bạn chở ông vào nhà thương. Đôi lúc, ông phải nằm trong nhà thương điều trị mấy ngày vết thương mới lành. Nhưng chứng nào tật nấy, quắt quảy mấy ngày, ông nội Liễu lại chạy đua tiếp với ngựa. Dù gì có kinh nghiệm vẫn hơn, ông nội Liễu té đến độ lã hết hai đầu gối, còn gì phải sợ. Nhưng ông vẫn té, vẫn vào nhà thương chữa trị và vẫn chạy đua với ngựa. Cho đến một ngày, ông thành thầy giáo.

    Đọc đến đoạn nhật ký này, Liễu đã nhìn nhận nguyên nhân vì sao ông nội mình có nghị lực như vậy, đó là khí phách từ ông Hai. Bởi vì, từ những dòng đầu tiên cho đến trang cuối cùng trong nhật ký, ông nội Liễu luôn nhắc đến ông Hai. Liễu có cảm giác là tính cách, số phận, con người của ông Hai như đã thấm sâu vào lòng ông nội, qua nỗi căm thù giặc. Vì không chỉ ghi chép lại những chiến công hào hùng, nghĩa khí gan dạ, bất khuất kiên trung của anh mình, ông nội Liễu còn ghi chép lại những vần thơ réo rắt tận tâm can người đọc của ông Hai. Liễu lầm bầm. Cô cố gắng thuộc ngay những bài của ông Hai. Liễu như tự trách mình, ông Hai có nhiều bài thơ hay như thế này. Vậy mà trước đây, cô không hề hay biết.

    Liễu đem câu chuyện này kể cho anh hai nghe. Anh hai Liễu cứ dõi mắt nhìn vườn cam. Liễu hiểu anh hai cũng đang tâm trạng như mình. Cô cứ say sưa kể lể, rủ rỉ. Kể xong quyển nhật ký mà ông nội đã viết về ông Hai, Liễu quay sang anh hai:
    - Anh hai thấy ông nội mình hay chưa? Viết nhật ký như viết truyện lịch sử vậy?

    Anh hai Liễu, mắt vẫn không rời khỏi vườn cam, miệng tươi cười:
    - Tao chính là con cháu nội của ông Hai và của ông nội. Khu vườn tạp ngày nào, tao đã biến thành khu vườn "công nghiệp" đầy giá trị rồi.

    Liễu ngẩng mặt nhìn ra khu vườn, mỉm cười. Khu vườn cằn cỗi ngày nào, Liễu không ngờ, anh hai đã chăm chút và biến chúng trở thành nguồn kinh tế hàng tỉ bạc.

    Từ đó, Liễu thường đem những câu chuyện trong nhật ký của nội kể anh hai nghe. Câu chuyện nào cũng gắn liền với hình ảnh ông Hai trong chiến tranh. Về sau, anh hai Liễu thường thấy cô em gái ngồi đâu, cặm cụi ghi chép đó. Tất cả nhật ký ông nội để lại trong rương, Liễu chép nắn nót đưa vào quyển nhật ký mới. Thỉnh thoảng, Liễu đem ra đọc. Liễu đọc tới đọc lui đến thuộc lòng. Cô đã nắm rõ từng câu văn, dấu chấm, dấu phẩy trong mỗi trang nhật ký của ông nội.

    Giờ đây, Liễu đã trở thành một nhà văn, khá tên tuổi. Người đời hay khen Liễu giỏi giang, tài hoa. Độc giả thường xuyên gửi thư đến chia sẻ, cổ vũ. Bạn bè mỗi lúc một đông, một nhiều. Vậy mà, Liễu vẫn cứ ngậm ngùi mỗi khi nhớ đến ông nội. Liễu nghĩ. Những người đó, họ làm sao hiểu được. Truyện ngắn đầu tiên, tác phẩm đầu tay, danh tiếng hôm nay… Tất cả những thứ ấy, Liễu có được là nhờ từ trang nhật ký của ông nội.

    Và bây giờ, Liễu đã hiểu. Ông nội mất đi. Tài sản ông để lại cho hai đứa cháu qua nhịp thở cuối cùng, như một lời trăn trối. Vì sao, anh hai Liễu được thừa hưởng mảnh vườn, cây trái đang xum xuê, trĩu nặng. Liễu lại là chiếc rương gỗ mục nát, nhưng trong đó lại chất chứa hàng ngàn dòng nhật ký về cha ông ta một thời đã giữ nước và bảo vệ đất nước…

    Huỳnh Mẫn Chi
    Lần sửa cuối bởi Hansy; 28-08-2014 lúc 04:49 PM

  2. 2 Thành viên dưới đây cảm ơn Hansy vì bài viết hữu ích này


  3. #2
    Banned
    Hiện Đang :    Hansy đang ẩn
    Tham gia ngày : Jan 2012

    Bài gửi : 0
    Thanks
    5.759
    Thanked 6.595 Times in 1.818 Posts
    28
    Dở Chứng

    Nguyễn Thế Hoàng


    Ông Cần đã góa vợ năm năm. Nay thì ông cũng đã thất thập cổ lai hy. Lứa tuổi xế bóng của ông nếu ở Việt Nam đã chống gậy nhìn cuộc đời sắp kết thúc trong chuỗi dài nuối tiếc quá khứ. Nhưng ở xứ này đời sống vật chất có dư thừa nên nom ông còn quắc thước lắm. Dáng ông dong dỏng cao, da dẻ có chút hồng hào, có điều dáng đi của ông mất vẻ khoan thai, đôi lúc bước chân như lún xuống khập khễnh bởi xương cốt trễ biếng mệt mỏi.

    Ông Cần cố gắng tập thể dục sáng chiều, chịu khó sửa dáng đi cách đứng cố níu kéo lại chút nào như thời son trẻ. Hàm răng thưa thớt chiếc rụng chiếc long ra không được thẩm mỹ cho lắm, khổ sở cho việc nhai thức ăn trệu trạo. Ông Cần đến nha sĩ lắp ráp bộ răng xương đều đặn nõn nà. Nhờ bộ răng ngà ngọc khiến nụ cười tuổi già héo hắt có thêm chút duyên già, ăn uống ngon lành trơn tru. Lởm chởm vài chòm tóc mây lưa thưa mong manh trên da đầu bóng lưỡng , ông Cần thấy chướng mắt, lặn lội tìm thuốc mọc tóc rị mọ xoa xoa nắn nắn đêm ngày không nản chí.

    Ông Cần tốn công tìm tòi, thăm dò tìm mua nhiều loại dược thảo ngâm rượu đầy ắp chục hũ xếp hàng trong tủ chè. Sáng chiều ông siêng năng uống, cùng với những viên dược thảo, sâm nhung, tam tinh hải cẩu bổ thận hoàn, lọc nhung tinh, mật gấu, thuốc sáng mắt, sáng tai, thuốc đen tóc...cho da dẻ hồng hào thêm, ăn ngon ngủ ngon, bồi bổ gân cốt, phục hồi sinh lực, cải lão hoàn đồng...Ðâu chừng thời gian ông Cần như đang trên đà hồi xuân. Mà thật, ông Cần cảm thấy mình như hồi xuân thật đãy !

    Lúc nào tâm hồn ông cũng phơi phới, gặp ai ông cũng muốn gần gũi trò chuyện râm ran, yêu đời, yêu thiên nhiên cây cỏ, yêu cảnh vật quanh mình, yêu giấc ngủ nồng nàn đầy mộng đẹp...yêụ.và yêụ..để cuộc đời đâu còn xế bóng. Ông được mọi người khen tuổi già của ông đang "lột xác". Bạn bè đồng niên đồng tuế nhìn ông thèm muốn như ông. Những bà sồn sồn gặp ông ưa trêu chọc, cười duyên híp mắt, đấu hót vài câu bâng quơ. Cả lũ cháu ngoại của ông cứ xuýt xoa khi thấy ông, đứa nhỏ bá cổ bá vai, đứa lớn thì thầm khen ngoại lúc này đang độ hồi xuân trông đẹp lão lắm.

    Từ ngày định cư ở xứ này, vợ ông, người đàn bà đảm đang tháo vát miệt mài cùng ông tạo nên cơ nghiệp. Ông bà tạo được ba ngôi nhà, trong đó hai ngôi đã trả dứt nợ, đang cho thuê. Một tiệm sách báo, băng nhạc, tranh ảnh, dụng cụ âm nhạc khá lớn, lợi tức hằng tháng vào cũng đậm. Hai ông bà sống đầy đủ thoải mái bằng lợi tức tiền cho thuê nhà, tiệm sách báo hằng tháng vẫn còn dư ra gởi vào ngân hàng cho đến nay cũng đã được đôi trăm ngàn.

    Hai ông bà Cần sinh hạ ba người con. Hai cô con gái đem từ Việt Nam sang đã lập gia đình, có cơ sở làm ăn vững vàng với một lũ cháu ngoại hiền lành chăm học. Cháu ngoại lớn nhất cũng đã mười tám, nhỏ nhất cũng lên ba. Nay mai rồi ông cũng được lên chức Cố như bao nhiêu bạn bè cùng lứa. Thằng con trai duy nhất của ông nay đã hăm lăm, yên bề gia thất. Sau khi bà vợ qua đời, ông giao vợ chồng thằng con trai coi ngó tiệm sách báo dưới sự kiểm soát của ông hằng ngày. Tiền bạc mua vô bán ra ông Cần quản lý chặt chẽ. Ông trả lương tháng cho con trai con dâu theo qui chế công nhân. Ông lại còn giúp vợ chồng nó có nhà riêng đâu ra đó.

    Hằng ngày rảnh rỗi ông lái xe loanh quanh trong thành phố. Ðôi lúc tạt qua tiệm sách báo coi trong ngó ngoài, kiểm tra công việc. Năm khi mười họa ông ghé vào hai ngôi nhà đang cho thuê xem xét, hỏi han người chủ thuê đôi câu xã giao lấy lệ. Còn lại thì giờ ông quanh quẩn với mấy bạn già xế bóng vô công rỗi nghề đàn đúm tán dóc ở mấy quán cà phê qua điếu thuốc lá phì phèo, lâng lâng nụ cưòi lão giả an chi, xem đời như giấc kê vàng đã chín.

    Cuộc vui còn tiếp diễn bên ly rượu đĩa mồi tại nhà hàng tửu quán chiếm gần trọn thì giờ nhàn hạ của ông với nhiều người, già có, trẻ có. Chuyện trên ngàn dưới biển lia thia. Chuyện từ Ðông sang Tây không bỏ sót một mảy may nào. Nhưng lý thú và hấp dẫn nhất thường ngày là chuyện đàn ông con trai kể cả những vị tuổi hạc gần đất xa trời, da mồi tóc bạc, tay chân run rẩy, mắt mờ răng sún đã và đang về Việt Nam cưới vợ. Ông Cần nghe ngóng từ nhiều phía, bàn bạc, góp ý, hỏi han thật hấp dẫn, xôm tụ.

    Chính là một vấn đề thời sự nóng bỏng, sôi động đã và đang xảy ra bao nhiêu năm nay ở cái cộng động người Việt da vàng mủi tẹt. Nghe nhiều từ mọi nơi, nhập tâm, đã đánh động lòng ham muốn thèm khát của ông Cần. Thử bước thêm bước nữa có chết chóc gì ai, chứ tội gì phải chịu cảnh cô đơn chiếc bóng trong ngôi nhà lạnh lẽo từng đêm. Chả có gì là khó khăn, nhiêu khê, có tiền thì mộng ắt thành. Ông còn đủ sức phiêu lưu mà, chứ không phải như mấy lão già cọm rọm khi nghe ông hạ quyết tâm hành sự lại cười biếm nhẻ ông cho là ông thuộc loại già dịch, già mất nết, già bất lực, già dệ..hết xí quách rồi mà còn ham.

    Ông Cần oang oang trả đủa bốp chát :
    - Ai giỏi cùng tôi đọ sức nè. Gừng này càng già càng cay quắn khói. Bảy mươi có của cũng vừa mười lăm mà lị. Mai mốt tôi mang về một thục nữ yểu điệu đào tơ thì mấy ông đừng có chép miệng thòm thèm đó nhen.

    Một ông bạn già trong bọn cười ồ, chọc :
    - Nè, già Cần, mấy mụ già trầu tèm hem đang chờ ông đưa võng lọng về rước...làm đám ma đó ông Cần, chứ gái tơ, sồn sồn thấy ông là thưa bác, thưa ông thì còn làm ăn cái nổi gì.

    Ông Cần càng hênh hoang không kém :
    - Ðây này... cái mác Việt kiều ! lá bùa hộ mệnh xanh xanh ! bao nhiêu cũng lọt được hết. Cần này sẽ rước sang đây một em nõn nường tuổi vừa đôi chín xinh xinh như mộng...bảo đảm trăm phần trăm ăn chắc.

    Dứt lời, ông cười hì hì khoái chí thao thao thuyết giảng cho đám bạn già đang nghểnh cổ ngóng nghe :
    - Từ ngày bà má bầy nhỏ mất, nghe được chuyện này, tôi cũng đã nghĩ kỹ rồi. Thà cưới một cô trẻ đẹp nõn nà ở Việt Nam qua, dễ dạy, dễ sai khiến, còn dễ bắt nạt ăn hiếp, dễ làm tình làm tội, nó còn chiều chuộng hầu hạ hết mình, lại gái tơ thơm phức, ngon lành. Còn đàn bà ở đây hả ? thì như mấy cụ cũng biết, quả là ăn hiếp bắt nạt lên mặt hà rầm với chồng ghê gớm. Ðâu có dễ gì khơi khơi cưới mấy bả được. Chằn ăn trăng quấn lắm các cụ ơi ! Phải có nhà nè, có xe xịn nè, tiền bạc đầy ắp trong ngân hàng họ mới chịu. Tôi hãi sợ tính kiêu kỳ hách dịch, vòi vĩnh, đua đòi, treo cao giá ngọc lên chín tầng mây của họ đó mấy ông ơi ! Thôi thì cho họ ế suốt đời nằm queo, rong rêu phủ kín là vừa. Ai biểu ?

    Một ông bạn già mắt mủi hom hem lên tiếng phản đối :
    - Già Cần nói tầm bậy. Người ta lấy nhau ào ào ông không thấy sao ? Nồi nào vung nấy. Tại cái vung của ông chụp không vừa, còn than thở cái nỗi gì. Ở đây chưa ai thấy cái nạn trai thiếu gái thừa. Trai thừa thì có. Nên mới xảy ra cái tệ nạn đàn ông con trai kể cả mấy lão tuổi hạc xế bóng hoàng hôn đang sắp hàng rồng rắn võng lọng nghênh ngang tiến mạnh về hướng Việt Nam rước nàng thục nữ về dinh hú hí. Thật là ngon ơ !

    Nghe ông bạn già lẩm cẩm nào đó vừa mới nói chắc giọng, ông Cần như thấm ý quá chừng, miệng cười toe toét phô bộ răng xương vừa mới cấy cho bàng dân thiên hạ chiêm ngưỡng :
    - Này này ông bạn già ơi, điều đó mới là thể hiện tấm lòng bác ái, xả thân cứu giúp. Bao nhiêu trăm ngàn đàn bà con gái Việt Nam mới tuổi mười bốn mười lăm trở lên bị bán đi làm đĩ, đi làm cô dâu nô lệ tình dục ở xứ người để cho bọn đàn ông xứ Ðài, xứ Hàn, xứ Ma, Hồng Kông, Căm Bốt...gì đó, dày xéo nhớp nhơ bao tấm thân ngọc ngà trinh tiết...thật uổng thiệt, ông lại không biết. Mình làm ơn làm phước cứu giúp được người nào hay người đó. Tôi cũng đang là một thành viên đây. Có ông bạn già nào nữa làm kẻ đồng hành không ?

    Cả bọn ngồi ngóng mặt nghe vỗ tay rôm rốp, tán thưởng cho cái mắc dịch dở chứng của ông già Cần độ tuổi thất thập hiếm hoi. Họ nhao nhao giễu cợt ông là loại già mất nết sắp chui xuống lỗ mà còn ham. Ông Cần không giận còn vui miệng bảo rằng còn sống còn thở là còn yêu, yêu cho đến giây cuối cùng chun vô hòm mới goodbye my love. Có ai cấm mình yêu đâu. Già thì già chân tay, già mặt già mày nhưng quả tim thì vẫn phơi phới xuân tình mấy ông ạ.

    Ông Cần nói sao có đó. Ông mất hai đêm bóp trán thảo lá thư dài mùi mẫn, kể rõ sự tình, nỗi cô đơn góa bụa để gởi cho một người bạn già đồng niên tuế thân thiết cùng đơn vị ngày xưa đang ở Việt Nam tìm giùm mối hàng. Thư gởi đi ít ngày, ông ra dịch vụ chuyển tiền một ngàn mỹ kim làm quà ông bạn, và hứa hậu tạ bạn hiền khi công việc kết thúc.

    Ông chờ đợi từng ngày kết quả lá thư gởi đi và hơn tháng sau ông mới nhận được tin vui. Thư người bạn báo đã tìm được đóa hoa hàm tiếu nõn nà. Nàng tên Hoa, vừa tròn mười chín xuân xanh phơi phới, nhan sắc óng ả như ánh trăng rằm. Dân miệt vườn miền Tây Nam bộ. Nhà nghèo lắm nên mới chỉ học đến lớp chín, nàng phải ở nhà phụ giúp cha mẹ công việc trong nhà. Ăn không ngồi rồi trong lúc cha mẹ đầu tắt mặt tối kiếm cái ăn cái mặc, nàng nảy sinh muốn lấy chồng xứ Ðài cứu gia đình thoát cảnh nghèo đói và được cha mẹ chấp thuận ý định.

    Người bạn già viết tiếp. Ông được người quen mách bảo ông tìm đến nhà Hoa, sau khi kể lể ý định cùng gia cảnh của bạn cho họ nghe, Hoa và cha mẹ nàng vui mừng chấp thuận ngay cuộc hôn nhân, miễn sao ông con rễ thương vợ và giúp đở gia đình thoát cảnh nghèo đói là được rồi. Ông già vợ tương lai hối thúc ông con rễ tiến hành việc cưới xin càng sớm càng tốt. Nếu chậm ông ta sẽ gả con gái mình cho Ðại Hàn cũng đang có người đến mai mối.

    Thư viết tiếp báo cho ông Cần là còn rất nhiều mối ngon hấp dẫn vô cùng tuổi mới tròn trăng hơ hớ dậy thì. Ðề nghị ông có ai giới thiệu nhiều nhiều dẫn về Việt Nam cùng chuyến để rước các nàng về bên đãy mà hú hí tuổi già. Chậm chân là tụi Hàn, Ðài, Nhật, Hón Kón...chúng nó bợ hết uổng lắm.

    Ông Cần đọc đi đọc lại lá thư nhiều lần lòng mừng khấp khởi. Thế là bao nhiêu thục nữ Việt Nam đang ngóng chờ lấy chồng ngoại được sung sướng cuộc đời. Lòng ông đang trẻ lại như tuổi xuân được yêu. Tim ông rộn ràng thúc giục phải nhanh tay nhanh chân. Ðời còn bao lăm mà chần chờ uổng phí, mau hưởng thụ, không thì chết đi lại tiếc hùi hụi. Ông Cần mơ mơ màng màng hình dung cô vợ trẻ đẹp tương lai của mình. Hoa ơi ! nàng ơi ! nàng kiều nữ xinh đẹp bé nhỏ của ta ơi ! Anh quyết sẽ rước em về ngự trị trong ngôi nhà hạnh phúc của chúng ta tràn ngập màu hồng.

    Trong đám bạn già ông biết còn số các cụ cũng thèm của lạ, cũng thấp thỏm mơ về Việt Nam cưới vợ trẻ đẹp cùng giấc mơ như ông. Nếu ông vận động thì khối cụ tháp tùng cùng ông về cùng chuyến. Nhưng, thì giờ quá gấp, rũ rê bàn tính các cụ kéo sẽ dài thời gian lỡ mất cơ hội nghìn vàng. Ông Cần âm thầm đi một mình sau khi thu xếp công việc.

    Về tới Saigon ông Cần tìm ngay đến người bạn mai mối ở tận ngã 4 Bình Hoà. Lâu ngày hai bạn già gặp nhau, ôm nhau mừng rỡ. Ông thúc bạn ông là ông Hàn ngày mai đi gặp cha mẹ vợ tương lai ngay, xem mặt cô vợ trẻ. Ðêm đến, hai lão già gân khề khà tâm đắc bên mâm rượu thịt, chuyện trò râm ran kéo đến quá khuya.

    Sáng hôm sau ông Cần thuê xe 7 chỗ ngồi cùng vợ chồng ông Hàn trực chỉ Mỹ Tho đến Chợ Gạo, tiếp tục đi sâu vào vùng quê Thanh Bình. Gần trưa, xe ngừng trước ngôi nhà tôn vách đất. Thấy có khách lạ đi xe hơi đến, vợ chồng chủ nhà bỡ ngỡ, nhưng khi nhìn thấy vợ chồng ông Hàn họ đoán biết ngay sự việc. Mọi người chào nhau vài câu xã giao trong lúc ông Cần đang sửa lại áo quần cho tươm tất. Hôm nay ông lên bộ veston màu than tím, cà vạt thẳng nếp, đi giày bóng, tóc tai cũng đã mọc thêm lún phún vài sợi chải ép ra sau, nét mặt núng nính vui, cúi đầu chào vợ chồng chủ nhà trông ông rất đởm dáng.

    Chủ khách vào nhà an tọa trên những chiếc ghế mộc tróc sơn, chiếc bàn gỗ trầy vết loang lổ. Ông Hàn lên tiếng giới thiệu :
    - Chú thím tư Ngàn, đây là anh Cần, đại thương gia từ Mỹ vừa về hôm qua. Hôm nay đến ra mắt chú thím để bàn chuyện hôn nhân của anh Cần đây xin cưới cháu Hoa con gái chú thím như tôi đã có lời với chú thím tháng trước.

    Lời giới thiệu của ông Hàn như rơi vào thinh không nào ai có chú ý vì cả ba người đang lung túng trong suy nghĩ về cách xưng hô. Ðối với chú thím tư Ngàn nay chỉ mới trên bốn lăm, còn vị khách trước mặt, chàng rễ tương lai của gia đình xấp xỉ bảy mươi tròn. Loay hoay vài giây, nhìn nhau ngượng nghịu không biết phải xưng hô sao đây. Ông Cần nghĩ có nên xưng con, hay tôi với cha mẹ Hoa.

    Cuối cùng bởi con tim mù quáng thúc giục, ông thưa :
    - Dạ...thưạ..thưạ..anh chị Tự..đường xá xa xôi vạn dậm, công ăn việc làm, lần về lần khó...cuộc sống bận rộn cu ky một mình. Hôm nay được anh chị Hàn giới thiệu... tôi đến xin cầu hôn với em Hoạ..làm vợ. Anh chị Tư chấp nhận và miễn thứ cho những sơ sót cũng như lễ lộc...cần gì, anh chị cứ nói để...tôi lo.

    Ông Cần cố gắng chỉ nói được chừng ấy. Nói mà ngượng mồm thấy mồ. Mồ hôi rịn hai bên thái dương, trống ngực xập xình, quá ư là ngưọng ngùng, không còn tự nhiên trước mặt cha mẹ vợ chỉ bằng tuổị..con gái mình. Ông Cần đâu phải dân nhút nhát. Ông đã bao lần vào sinh ra tử trước bom đạn kẻ thù. Ông đã từng va chạm bao cú ''sốc'' trong cuộc sống. Ông đã từng là xui gia đàng trai, rồi đàng gái hênh hoang nói đạo lý, lễ nghi với mọi người. Vậy mà hà cớ gì hôm nay lại bấn loạn tinh thần trước mặt mấy người nhà quê chân chất.

    Thím tư Ngàn và bà vợ lão Hàn bụm miệng cười khanh khách khi nghe lão chàng rễ tương lai mặt mày đỏ lưỡng, ngượng nghịu tỏ bày. Chú tư Ngàn nét mặt bình thản nghiêm nghị, đáp lời :
    - Cám ơn ...ông... anh Cần. Tháng trước hai vợ chồng bác Hàn đến đây đánh tiếng trước xin con Hoa nhà tôi về làm vợ anh. Vợ chồng tôi chấp nhận. Mọi việc thì nên giản tiện thôi. Anh lo tổ chức Tiệc Ra Mắt họ hàng, dòng họ, bà con thân quen. Ðồng thời dẫn nhau ra Xã làm giấy kết hôn để anh mang về Mỹ lập hồ sơ bảo lãnh con Hoa về bên đó với anh. Vậy thôi.

    - Mình làm gọn nhẹ như vậy là tốt phải không chú thím tư và ông bạn già của tôi ? Ông Hàn tiếp lời - Này anh Cần, dù gì anh cũng là con rễ cưng của chú thím tư rồi đó. Từ lúc này anh phải gọi chú thím tư là ba là má mới phải phép. Còn e lệ gì nữa. Muốn có vợ trẻ thì phải uốn lưỡị..uốn lưỡi cong thêm chút nữạ..có được không ? Ông không nghe tôi là...mất vợ đấy.

    - Ðược rồi. Tôi nghe ông. Ông Cần vừa trả lời vừa quắc mắt trừng lão già Hàn xí xọn lắm chuyện.

    Ông rút trong túi áo xấp đô la năm ngàn dày cộm đặt trên bàn trước mặt cha mẹ vợ, lúng túng thưa :
    - Thưạ..ba,,má..! tôi có chút ít gởi... ba má. Còn Tiệc ra Mắt... tôi sẽ... chi trả.

    Mọi người lại một phen cười nghiêng ngửa nhìn lão chàng rễ xế bóng ăn nói lập bập thấy mà thương hại. Ông Cần sượng chín người. Một lần trong đời con tim quái ác nó hành hạ ông khắc nghiệt quá. Ông nhìn qua lão Hàn như dọ hỏi là sao không thấy Hoa thì cũng vừa lúc Hoa từ sau nhà bước ra chào mọi người. Giây phút đầu tiên nhìn thấy mặt cô vợ tương lai son trẻ mà ông Cần đang mơ nghĩ đến. Ông sững sờ ngất ngây dáng sắc của Hoa. Ông nghĩ gái miệt vườn sao mà đẹp lồng lộng vậy kìa !

    Tuy Hoa không son phấn, quần là áo lượt, chỉ quần vải áo thô sao trông quyến rũ lạ đời. Dáng nàng thon cao, đôi chân dài hấp dẫn ghê, nước da trắng như bông bưởi, cơ thể no tròn nở nang đầy đặn, suối tóc đen xõa dài quá thắt lưng, e ấp mấp mé khuôn mặt trái soan, đôi mắt to đen long lanh, đôi lông mày rậm đậm đà...ố là là ! đẹp ôi là đẹp..! ông Cần lâng lâng cảm giác thèm khát. Ðúng là lão Hàn đã nói Hoa là hoa khôi của trường những năm còn học lớp 9 trung học cơ sở MP thành phố Mỹ Tho. Ðiệu này khi về bên Mỹ mà chưng diện vào, vợ ta sẽ làm cho bao nhiêu lão già dịch ngẩn ngơ nhảy đổng, rồi ùn ùn sắp hàng một về Việt Nam cưới vợ hết không ai cản nổi cho mà xem.

    Ông Cần đứng dậy thập thò trước mặt kiều nữ miền sông nước Tiền Giang, chúm chím đôi môi run run :
    - Chàọ..em Hoa. Anh là Cần đến để xin ba má cưới em về Mỹ với anh.
    - Dạ. Chào ông. Hoa cúi đầu lí nhí đáp. Ba má đã nói chuyện này.
    - Em bằng lòng chứ Hoa ?

    Cô gái mười chín xuân xanh mơn mỡn thơm như múi mít tố nữ chau mày lộ vẻ chẳng mấy thích thú trước lão già đáng tuổi ông ngoại, ông nội sẽ là chồng của mình trong suốt cuộc đời. Nàng hời hợt đáp :
    - Chẳng biết nữa. Do ba má quyết định. Ông hỏi ba má.

    Mọi người tiếp tục trò chuyện trong bầu không khí chẳng mấy tự nhiên. Ông Cần mời mọi người lên xe ra thành phố Mỹ Tho làm một chầu ăn tối giao hửu để cố tạo sự gần gũi thân mật. Ba ngày sau Tiệc Ra Mắt diễn ra với hơn ba trăm thực khách tại một nhà hàng sang trọng trong thành phố Mỹ Tho. Mọi người chúc tụng lão chàng rễ có duyên vớ được cô vợ quá trẻ quá đẹp, bên cạnh những lời dèm pha biếm nhẻ đôi đủa lệch chiếc vắn chiếc dài. Già mắc dịch, già dê xồm, già bất lực hết xí quách...Chồng già vợ trẻ là duyên. Mai kia ông chết của tiền về tôi... Mặc họ bình phẩm khen chê chẳng làm cho ông nhụt chí khí. Ông chỉ cần biết ông đã vớ được cô vợ trẻ nõn nà, và lâu đài hạnh phúc tràn đầy của ông ở cái tuổi xế bóng hoàng hôn. Có điều ông hết sức bực mình họ đã phung phí quá lố cho cái Tiệc Ra Mắt khiến ông đã phải trả hơn chục ngàn mỹ kim đau ơi là đau !

    Làm giấy kết hôn xong, ông Cần xin ba má vợ đưa Hoa đi Saigon mua sắm nữ trang, quần áo, son phấn. Bà mẹ Hoa không muốn để con gái đi một mình, cứ bám sát Hoa làm lão Cần chẳng sơ múi gì được với cô vợ trẻ hơ hớ ngay cả cái nắm tay cũng chưa được, lại còn tốn thêm mớ tiền khá đậm sắm sửa cho bà mẹ vợ kỳ đà cản mủi.

    Chỉ trong một tuần lễ ông Cần đã lo xong công việc cưới vợ. Ông trở lại Mỹ gấp lập hồ sơ gởi Sở Di Trú Hoa Kỳ bảo lãnh cô vợ trẻ. Ông cũng đã ủy thác lão Hàn lo giấy tờ dịch vụ cho Hoa tại Việt Nam, và hai người sẽ liên lạc khi cần thiết. Cũng phải chi mất một số tiền không nhỏ cho lão Hàn. Chưa chi ông Cần đã mất trọn ba mươi lăm ngàn mỹ kim mang theo. Ông ước tính cũng sẽ mất thêm một khoản tiền kha khá nữa và thời gian chờ đợi độ năm, vợ ông mới đến được với ông trên đất Mỹ.

    Ông Cần thức giấc sau giấc ngủ chập chờn mệt mỏi. Khuya hôm qua ông phải thức suốt đón Hoa tại phi trường từ Việt Nam sang. Gặp lại Hoa, sự mệt mỏi và bệnh tật trong người ông tan biến. Ông vui mừng khôn xiết, nói cười huyên thuyên, vì từ đây Hoa đã thực sự ở trong vòng tay của ông. Nhưng khi nhìn dáng vẻ bơ phờ, đôi mắt nai tơ thờ thẫn vì say sóng ói mửa, vì mệt mỏi từng chặng đường, vì đã bị cảm thương hàn trước mấy ngày ra đi, ông lo lắng đưa vợ về nhà ngay, cạo gió, uống thuốc và nằm nghỉ ngơi trong phòng ngủ. Ông nằm bên cạnh trên giường với Hoa, vì bệnh hành ngất ngư, vừa mệt mỏi quá độ, ông lả người thiếp đi trong giấc ngủ.

    Bây giờ thức dậy, Hoa vẫn còn ngủ mê trong chăn ấm. Ông Cần ra ngoài làm vệ sinh, đi bách bộ mươi phút, trở lại ngồi tại phòng khách uống ly sữa tươi. Ông suy nghĩ thân phận mình. Gần nửa năm nay sau khi ở Việt Nam về, ông bị bệnh tiểu đường hành hạ đến kiệt sức. Ông còn mắc thêm chứng đau bao tử mà bác sĩ bảo rằng ông uống quá nhiều các loại thuốc ngâm rượu, các loại thuốc viên bồi bổ sinh lực nên bao tử đã bị loát trầm trọng. Hai chứng bệnh mắc dịch này hành hạ ông Cần ngày đêm đau đến nỗi có lúc kêu trời không thấu.

    Tuổi già sức yếu, tiết trời thường thay đổi, ông hay bị cảm cúm, nhức mỏi rũ liệt cơ thể, đôi lúc ông nằm liệt giường không còn thiết gì nữa. Ông Cần đau khổ không ngờ sức lực ông độ này giảm sút trầm trọng, da dẻ nhăn nheo, chân tay thường khi lập cập run rẩy, giảm sút năng lực ham muốn như năm vừa rồi. Những bất hạnh dồn dập xảy ra trong lúc vợ ông vừa Việt Nam qua, ông cảm thấy buồn buồn tức tối cho mình không còn cảm thấy hứng thú bên cạnh cô vợ tràn trề sinh lực. Lúc gặp nhau ở phi trường Hoa đã ngỡ ngàng hỏi sao lúc này trông anh ốm và già dễ sợ.

    Nghĩ vơ nghĩ vẩn rồi tự an ủi dù sao mình cũng có được cô vợ trẻ đẹp bên cạnh trong cuộc sống chấp nối cuối đời. Có điều chuyện về Việt Nam cưới vợ ông Cần giữ kín, con cháu và người ngoài chưa hề hay biết. Bây giờ công việc ông đã làm và sự có mặt của Hoa trong nhà này ông phải nói sao với lũ con cháu. Ông suy đi tính lại rồi gật gù cho cái lý thân già góa bụa, cần một người đàn bà sớm hôm kề cận chăm sóc nhau vui cảnh xế chiều, con cháu chấp nhận hay không rồi cũng đâu vào đó cả. Tuổi tác có chênh lệch là chuyện thường. Tình yêu đâu phân tuổi tác. Hai kẻ yêu nhau có sự đồng cảm bằng lòng là đủ. Luật pháp Hoa Kỳ chẳng bắt bẻ chuyện này. Ông bước thêm bước nữa là quyền của ông, ai có quyền cấm cản. Con cháu thông cảm lại nỡ làm tình làm tội ông sao ?!

    Hoa từ phòng ngủ đi ra dáng bơ phờ mệt nhọc ngồi xuống ghế đối diện. Ông Cần hăm hở bước đến vồn vã vuốt mái tóc vợ chảy dài xuống lưng đen mướt :
    - Em có khỏe được chút nào không ? Anh đưa em đi bác sĩ. Ði đường xa, thay đổi khí hậu, lại đang cảm thương hàn...anh lo lắm.

    Hoa lắc đầu :
    - Em đem thuốc uống mỗi ngày đây. Em cần nghỉ ngơi vài ngày em khỏe lại hà.
    Nói xong, Hoa vít đầu ông Cần hôn phớt trên gò má hóp của ông. Ông ôm ghì Hoa thật chặt vào lòng vuốt ve âu yếm. Cơn đau bao tử râm rang lại hành hạ khiến ông mất hứng thú lần đầu tiên trước cơ thể đầy đặn căng cứng, thơm phức của vợ đang thách thức cảm giác mời gọi. Mùi hương trinh nữ từ cô gái dậy thì thoang thoảng áp vào mặt mủi, khiến ông Cần đê mê chết cứng chịu không nổi.

    Ông ráng cả sức lực trong người ghì Hoa thật chặt vào lòng vuốt ve, mân mê, nắn bóp bấn loạn cùng khắp cơ thể săn cứng của Hoa để cố tạo sinh lực ham muốn thể xác... Nhưng sức lực của ông chồng già chỉ đến chừng đó.... chừng đó...ngưng lại... rồi giảm dần như quả bóng xì hơi, đến không còn tiếp tục làm ăn được gì khác nữa. Ông xịu mặt tủi thân cho sức khỏe tàn tạ với hai căn bệnh trời ơi của mình đã trên đà bất lực. Hoa thì đã nhìn thấy rõ nỗi đau khổ chán chường của lão già hết xí quách này. Ðáng thương hại cho ông ta !

    Mới chỉ một phút bên vợ mà ông đã muốn đứt hơi. Ông trở lại ghế ngồi thở hổn hển.
    Hoa nheo mắt liếc tình ông, nhõng nhẽo :
    - Chưa chi anh đã phờ người rồi. Ráng sức không chừng đứt gân máu, em sống với ai đây ? Có muốn gì thì cứ thủng thẳng...khỏe khoắn trong người.

    Ông Cần phác tay :
    - Ðâu có sao. Anh ráng chữa dứt bệnh, bồi bổ lại sức khỏe là em sẽ "mệt" với anh dài dài nghe chưa ?
    Hoa bụm miệng cười sằn sặc :
    - Ðược rồi. Em chờ anh. Coi ai mệt với ai cho biết.

    Hoa rảo mắt nhìn quang cảnh nhà, buột miệng khen :
    - Nhà anh đẹp quá, ở Việt Nam làm gì có được nhà như thế này.
    Ông Cần phồng mủi :
    - Nhà này là của em không phải một mà là ba ngôi nhà như vầy đều của em. Tiệm sách báo là của em. Tiền bạc trong ngân hàng là của em...và tất cả là của em. Tính ra cũng hơn triệu rưởi đô la đó cưng.

    Nghe ông Cần đon hót, Hoa nghĩ thầm mai mốt ông chết của tiền về tôi, là cái chắc, khỏi cần ông phải giới thiệu. Cứ giữ cái giấy hôn thú cho kỹ là chắc ăn.
    Hoa nói bâng quơ :
    - Anh nói thế. Em biết thế. Còn lũ con của anh nữa, phải chia cho chúng chứ ?.

    Ông Cần khoát tay ngoài ngoạy :
    - Không. Không bao giờ. Ở Mỹ không có chuyện để của, chia của cho con cái. Ai làm nấy ăn, đâu như ở Việt Nam. Anh chết, anh viết di chúc giao toàn bộ tài sản này cho em. Anh muốn cho đứa nào tùy ý, không cho cũng được, không đứa nào có quyền tranh giành. Nếu em không nhận, anh giao cho Hội từ thiện.

    Có tiếng xe hơi ầm ỉ trước nhà. Ông Cần nhìn ra hướng cửa sổ. Ba chiếc xe của ba gia đình ba đứa con đang đậu dọc trước nhà. Lũ chúng nó đủ mặt đang ào ạt xuống xe tiến vào nhà. Ông Cần sững sờ, mặt biến sắc... chợt nhớ rạ..chết rồị.! hôm nay sinh nhật của ông. Tuần trước chúng nó hẹn đưa ông đi biển, đãi ăn nhà hàng, mua quà tặng...mừng sinh nhật thứ 72 của ông. Cứ mãi lo cô vợ trẻ ông quên khuấy đi mất. Hai tay giựt giựt, đôi môi run run, ông lắp bắp tiếng được tiếng mất với Hoa :
    - Lũ...lũ...con cháụ..nó đến đủ mặt. Hôm naỵ..sinh nhật của anh...chúng...chúng nó đến...dẫn anh đi mừng sinh nhật... luôn dịp anh...anh giới thiệu em...với tụi nó.

    Lũ con cháu ùa vào đứng đầy phòng khách. Chúng thấy Hoa, nhìn trân trối. Hoa đang mặc bộ quần áo ngủ mỏng hở hang, nhầu nát, tóc tai lòa xòa. Chúng thi nhau hỏi cha :
    - Ai vậy ba ? Ba đem cô này về làm gì vậy ? Bồ à, bồ của ba..?
    - Cô nào đây hả ba ? Trông giống nhự..ở ngoài đường...
    - Ba đem gái ăn sương về nhà đây.

    Hai cô con gái lớn hỏi tới tấp. Lũ cháu ngoại chạy đến bá cổ ôm tay ông ngoại líu lo vòi vĩnh, hỏi han. Riêng Diễm, đứa cháu ngoại gái tuổi đã mười tám nhìn Hoa không chớp mắt, bĩu môi khinh khỉnh có lẽ nó nghĩ Hoa là gái điếm. Thằng con trai tên Mẫn và cô vợ cũng như hai chàng rễ cứ cười tủm tỉm nhìn Hoa rồi nhìn ông Cần với những ý nghĩ không mấy tốt.

    Ông Cần lấy lại bình tĩnh, líu lưỡi :
    - Ðây là...Hoạ..là má...má...của các con. Ba cưới ở Việt Nam vừa sang. Các con mừng cho ba.
    Cả bọn đồng ồ lên thảng thốt, bĩu môi khinh bĩ :
    - Má gì...mà trẻ măng ? Miệng còn hơi sữạ..vậy ba ?
    - Má chỉ bằng tuổi con Diễm cháu ngoại ba.
    - Con không chấp nhận. Con phản đốị..con phản đối.
    - Già rồi ba lại dở chứng, không sợ thiên hạ cười.
    - Còn cái cô này (Hoa) thèm đi Mỹ, dụ dỗ ông già hả ?

    Cứ thế, đứa một câu ào ào như vỡ chợ. Hoa cảm thấy chóng mặt đến khiếp đảm những lời dèm pha chửi mắng và hỗn hào của lũ con cháu ông Cần, đôi mắt nai tơ thất thần nhìn ông Cần cầu cứu. Nàng bật khóc rấm rứt, rồi vụt chạy vào phòng. Mẫn dõi theo chân Hoa có ý để trấn an nhưng nàng đóng mạnh cửa phòng ngủ.

    Thấy lũ con cháu phản ứng mạnh, ông Cần nạt :
    - Tụi bay im đi, không chấp nhận thì thôi. Ði, đi về hết.
    Lũ con cháu đâu cần nghe, chúng cứ lầy nhầy câu này câu kia với cha già, hăm he đòi đuổi Hoa ra khỏi nhà tức khắc. Không thì chúng xởn tóc, rạch mặt, trùm bao bố thả sông, chặn đường bêu xấu cho biết mặt.

    Mẫn lần bước sát cửa phòng ngủ, nghe tiếng khóc rấm rứt bên trong. Mẫn nói vọng vào:
    - Cô đừng khóc nữa. Chẳng có gì mà sợ.

    Lũ con cháu ra rả một hồi chán chê, đồng kéo nhau ra xe. Kỷ niệm sinh nhật của ông Cần như hủy bỏ, chẳng ai nhắc đến vì tai ách dở chứng của cha già trái tai gai mắt. Ông bị cú sốc quá đậm, không còn nói được lời nào, ngồi chết trân trong lòng ghế như một pho tượng đá.
    - Họ về hết rồi. Tiếng Mẫn giục. Mở cửa ra đi cô Hoa.

    Hoa hé cửa nhìn ra ngoài rồi nhìn sững Mẫn cũng đang nhìn nàng. Hai ánh mắt chạm vào nhau như tia sáng phản hồi thoáng chút bâng khuâng ngỡ ngàng thẹn thùng. Mẫn đang bị cuốn hút trước nhan sắc rực lửa của cô gái xa lạ qua lớp áo mỏng dính sát, hở hang. Vừa lúc vợ Mẫn đến giục chồng đi về.

    Bi hài kịch trình diễn được ông chồng thủ vai chính làm cho Hoa khốn đốn, mất ăn mất ngủ, khóc rấm rứt suốt ngày. Ông Cần đau đớn tột cùng thêm hai căn bệnh quái ác hành hạ liên miên, ông nằm liệt giường chẳng buồn ngồi dậy.

    Ngày tháng đi qua, cứ đôi ba hôm lũ con ông thay phiên gọi điện thoại đến hăm he, nhiếc mắng cô vợ trẻ của ông, còn dọa ông không đuổi Hoa ra khỏi nhà là chúng sẽ từ ông, vì ông đã làm vẩn đục hưong linh người mẹ của chúng.

    Ông Cần vẫn ngày ngày chữa bệnh, chăm chỉ bồi dưỡng sức khỏe hy vọng được tái phục hồi để một lúc nào đó đủ sức thỏa mãn nhu cầu với cô vợ trẻ hơ hớ. Cứ vài hôm ông lái xe đến bác sĩ khám, mua thuốc trị bao tử. Bác sĩ yêu cầu ông phải mổ, ông lại sợ không dám. Rồi ông đến đông y cắt thuốc trị tiểu đường. Cơ cực, càng uống thuốc, ông Cần vẫn cứ gầy rạc ra. Bệnh tiểu đường ngày thêm trầm trọng gần như tê liệt. Thời gian đó Mẫn vẫn thường canh chừng ông Cần lái xe ra khỏi nhà là ập vào tán tỉnh, hú hí với Hoa từng giờ.

    Ông Cần cưng chiều Hoa rất mực. Ông đưa Hoa dạo phố, mua sắm, ăn uống, dự tiệc tùng, hội hè đoàn thể...Ông vênh vênh hãnh diện đi bên cạnh cô vợ trẻ đẹp duyên dáng. Những bạn già của ông Cần cứ trố mắt nhìn ông và cô vợ trẻ bàn tán, khen chê trước một pha thời sự quá "hot" đang xảy ra rất ư là hấp dẫn.

    Ngày Hoa thi đậu bằng lái xe, ông Cần mua tặng vợ chiếc BMW láng cón gần năm chục xấp. Có xe Hoa lái một mình vào các chợ, mall, shop, nhà hàng để ăn uống mua sắm chưng diện theo ý thích, đồng thời có cơ hội tiếp xúc làm quen rất nhiều người. Nhờ thế, Hoa đang có được những cố vấn, những thầy đời bảo trợ tinh thần và tiếp nhận những hiểu biết mới trong cuộc sống. Hoa càng siêng năng học tiếng Anh lớp đêm, lớp ngày rút ngắn thời gian, tạo thế đứng tự lập không nhờ vã vào ai. Giờ thì Hoa đâu còn lo ngại lũ con cháu của lão Cần. Chúng mà hung hổn làm bậy là cứ gọi cảnh sát.

    Một hôm ông Cần thấy vợ mình có sự khác thường, nhan sắc giảm sút, ói ọe, chê cơm chê cá. Ông sinh nghi vặn hỏi, Hoa trả lời là không biết tại sao nữa. Do kinh nghiệm, ông biết Hoa đang có thai. Ông bấn loạn xây xẩm khi nghĩ rằng từ ngày Hoa về với ông đến nay tròn năm chưa một lần ông "chăn gối" với vợ cũng chỉ vì sức khỏe sa sút, bất lực. Có chăng, ông chỉ ôm ấp, vuốt ve vợ bên ngoàị..làm sao vợ mang bầu. Ông Cần đau khổ tức tối.

    Bụng Hoa ngày un cao rõ nét. Ông Cần càng điên tiết. Ông dấu kín sự thể đâu dám phân trần cùng ai. Ông ôm Hoa vào lòng, đôi tay run run xoa xoa bụng vợ âu yếm than vắn thở dài :
    - Anh chưa một lần ăn nằm với em mà, sao em lại có thai, nghĩ cũng lạ.

    Hoa lắc đầu không biết. Ông nhẫn nại :
    - Em cứ nói thật cho anh nghe. Dù gì đi nữa, anh không làm tình làm tội em. Anh cưng chiều em hết mình. Anh lại đang lo cung cấp tiền bạc cho ba má ở Việt Nam, gởi tiền cho ổng bả cất nhà. Em là vợ của anh. Em thấy không ? Nói đi em.

    Trầm ngâm một lúc, Hoa ứa nước mắt. Lòng cảm thấy tội nghiệp ông chồng già. Nàng không thể dấu được, đành nói :
    - Thằng ...thằng con trai của anh...đó anh. Nó luôn đến đây tán tỉnh và hãm em nhiều lần em ngất ngư, em sợ muốn chết. Nó làm dữ quá...không như anh đâu.

    Ông Cần choáng váng mặt mày gần muốn xỉu. Ông gầm lên :
    - Trời ơi là trời ! Mẫn ơi là Mẫn ! Màỵ..mày là thằng trời đánh thánh đâm. Tao sẽ diệt mày. Thứ đồ loạn luân. Mày cả gan lấy vợ tao, cưỡng hiếp mẹ kế của mày....

    Ông thả Hoa ra, ngồi ôm đầu bứt tóc,gầm thét tức tối thãm hại. Kiểu này thì đâu còn mặt mủi nào. Thiên hạ họ cười cho thúi đầu. Thôi thì hãy vục mặt xuống vũng bùn nhơ im hơi lặng tiếng chứ biết làm sao. Ðổ bể ra thì ôi thôi chịu sao cho nỗi búa rìu dư luận kể cả lũ con cháu quỷ quái kia. Ông đành ngậm hột vịt ăn tiền. Ông hận thằng con khốn kiếp phỏng tay trên. Ông chưa làm gì là nó đã làm rồi. Khốn nạn ! Nhiều lần ông muốn tống cổ nó khỏi tiệm sách báo của ông. Ông căn dặn Hoa chuyện lỡ làng, đừng cho ai biết. Xấu anh thì xấu em. Thôi thì, cứ coi là con của anh.

    Ðến ngày sanh, ông Cần túc trực bên vợ mãi đến nửa đêm Hoa mới sanh một bé trai. Mặc dù trong người ê ẩm mệt mỏi, Hoa nhìn ông Cần chọc quê :
    - Thằng nhỏ này là con trai của anh, hoặc cũng là cháu nội của anh đều đúng cả. Anh ráng mà nuôi nó để nối dõi.

    Ông Cần cúi gầm mặt nhìn thằng bé đỏ hỏn thấy mà ghét, muốn bóp mủi cho nó chết phứt cho rồi. Nghĩ mà ông không dám làm.

    Thằng bé ba tháng đã lật. Lúc này Hoa đẹp dữ dội, ai nhìn cũng trầm trồ mơ ước, đúng là gái một con trông mòn con mắt, đã thiệt. Hoa càng ăn mặc chưng diện, xài phí và thường lái xe đi rong nơi này nơi khác. Ông Cần thì chả còn ham muốn gì nữa vì bệnh già cùng hai chứng bệnh quái ác kia, đành chịu lép.

    Một hôm Hoa tính nhẩm mình đã đến Hoa Kỳ tròn hai mươi sáu tháng rồi. Ðến lúc này đã là thời điểm "giã từ quán trọ". Hoa nhờ luật sư - cũng chính là người tình đở đầu của Hoa vừa quen được, đẹp trai, hào hoa, phong độ - đưa đơn ra Tòa án xin ly dị ông chồng già bất lực.

    Ông Cần nhất quyết không ký đơn. Tòa phán quyết cuộc hôn nhân gượng ép, bất cân xứng, loạn luân, tác hại luân thường đạo lý cần giải tán. Tài sản chia hai. Ðứa nhỏ giao Hoa nuôi nấng. Ông Cần trách nhiệm cấp dưỡng đứa bé đến 18 tuổi tròn. Truy tố Mẫn tội loạn luân, cưỡng dâm mẹ kế.

    Ðơn ly dị kết thúc. Hoa được nhận ngôi nhà ông Cần đang ở và Tiệm Sách Báo cùng với số tiền trong ngân hàng được chia đôi vào khoảng bốn mươi lăm ngàn mỹ kim.

    Ông Cần vật vã mình mẩy, ngất xỉu chết đi sống lại. Ông dậm chân dậm cẳng, khóc lóc, nghiến răng, than thở, rên rỉ kêu Trời không thấu. Vợ với con, khốn kiếp ! Ðang sống thảnh thơi an nhàn trong tuổi già xế bóng, vật chất đầy đủ, con cháu thương yêụ..đâu còn thiếu thốn gì nữạ..hà cớ gì dở chứng thèm khát để đến nông nỗi này.

    Ông bậm môi, đấm ngực, nghiến răng trèo trẹo hầm hè :
    - Cũng tạị..cái thằng nhóc ó đâm nàỵ.mà ra cả! Thằng nhóc con rững mỡ này, có làm gì được đâu. Ðã bảo cứ ngủ yên cho thằng già này nhờ ! Mẹ kiếp ! Ðồ mắc dịch..!

    Nguyễn Thế Hoàng

  4. Thành viên dưới đây cảm ơn Hansy vì bài viết hữu ích này


  5. #3
    Banned
    Hiện Đang :    Hansy đang ẩn
    Tham gia ngày : Jan 2012

    Bài gửi : 0
    Thanks
    5.759
    Thanked 6.595 Times in 1.818 Posts
    29
    Đánh tráo

    Thiên Sơn


    Có một chuyện mà kể ra rất ít người tin. Nhưng tôi cam đoan với các bạn chuyện tôi kể đây là một sự thật. Một sự thật từng làm kinh động làng Hà. Tuy vậy lại không ai biết cho thật tường tận. Thì bây giờ nó đây, tôi đang hầu chuyện mọi người mà. Tôi sẽ cố gắng kể thật chi tiết và sau đó thì các vị tha hồ luận bàn về nó.

    Ông Hiền là một trí thức lớn.
    Trước hết ông là một nhà luân lý, một nhà đạo đức. Ông ăn uống kham khổ và tận tâm, tận lực với công việc suốt đời. Ngày còn trẻ ông công tác ở một trường đại học. Hàng ngày ông thường dành thời gian tiếp khách. Trong số đó chủ yếu là những người ngưỡng mộ ông, muốn học hỏi những điều hay, lẽ phải. Thỉnh thoảng ông lại dẫn sinh viên đi thực tập, khảo sát văn hóa dân gian. Ông sống gần gũi, giản dị như một người dân nhưng giọng nói dịu êm, phong thái điềm tĩnh, lịch thiệp, khả năng thấu hiểu những điều ẩn sâu trong tâm hồn con người khiến ông có sức thu hút một cách kỳ lạ với tất cả mọi người.

    Ông cũng được coi là một nhà văn hóa học bởi hầu như suốt đời ông quan tâm đến những bình diện rộng lớn của một nền văn hóa từ triết học, lịch sử đến tư tưởng. Nói chung ông là một người uyên bác, một người thông hiểu kiến thức Đông, Tây, kim cổ.
    Ấy vậy mà mấy năm trước một điều kỳ lạ đã xảy đến. Một hôm ông Hiền làm việc đến quá nửa đêm mới tắt đèn đi nằm. Ông tập trung tư tưởng vào một điểm nhỏ trên đỉnh đầu. Không hiểu sao ông lại nảy ra ý nghĩ tập xuất hồn theo cách của các đạo sĩ Ấn Độ truyền lại. Bỗng tai ông vang lên những tiếng u u kỳ lạ. “Xuất hồn để làm gì?”. Trong khoảng khắc ông tự hỏi và tự trả lời: “Nếu có được phép màu nhiệm này ta có thể đi đến bất kỳ đâu, am hiểu cả thế giới, cả vũ trụ... Nhưng hãy khoan tính chuyện xa xôi. Trời đêm nay đẹp, có rất nhiều sao sáng, nếu xuất được hồn ta sẽ chu du ở khắp các vì sao. Ta muốn nghiên cứu thêm cả thiên văn, có thể từ đây sẽ khởi đầu cho một hành trình mới tốt đẹp”. Với ý chí ấy ông dồn tất cả sức lực để mở rộng lối thoát trên đỉnh đầu. Trong một nháy mắt, ông Hiền cảm thấy lâng lâng, nhẹ bẫng và một luồng sáng từ đỉnh đầu ông phát ra, bay lên cao.

    Ông Hiền từ trên cao nhìn xuống thấy thể xác mình nằm trên giường. Mái tóc lấm tấm bạc, gương mặt đôn hậu toát lên một vẻ thanh khiết lạ thường. Tỏ ý hài lòng, ông Hiền tự nhủ: “Có một thể xác đẹp, một linh hồn toàn thiện như ta thật là một ân huệ của tạo hóa”.

    Thế rồi linh hồn ông vút lên cao nhìn thấu muôn vàn vì sao trong dãy ngân hà như những mảnh vàng li ti, lấp lánh và ánh trăng có màu sáng xanh dịu nhẹ. Ôi vũ trụ thật mênh mông! Ông bỗng cảm thấy tiếc nuối. Giá ta biết xuất hồn từ trước nhỉ? Ta đã có thể hiểu thêm biết bao nhiêu điều kỳ diệu của vũ trụ và thế gian này.

    Cứ như vậy, ông dạo khắp các vùng trời rộng lớn, cả những nơi không có đêm ngày. Cuối cùng ông hạ thấp độ cao. Nhưng trên đường trở về ông bỗng nghĩ đến việc ghé qua châu Âu và quan sát người Âu xem cuộc sống của họ bây giờ có gì đáng học tập không? Mải miết với những điều mới mẻ, khi quay trở về ông mới nhận ra mình không thể nhớ được đường. Đường xa muôn vạn dặm, bao núi sông, mây mù, vạn vật chuyển động rối loạn làm cho ông định hướng rất khó khăn. Nhưng nhất định phải trở về. Ông cố gắng phát huy hết tinh lực của mình...

    Gần đến sáng, rồi ông Hiền cũng đã tìm được đường về đến làng. Ông trở nên ngỡ ngàng. Hóa ra trước đây ông không để ý, chứ nơi mà ông thường sống cũng là một nơi không thua kém những chốn thần tiên trong vũ trụ là bao!

    Ông vào nhà thấy vợ đang gào khóc thảm thiết bên thể xác của mình lúc ấy tái nhợt, mắt nhắm nghiền và chỉ thoi thóp thở. Ông hiểu ra rằng, nếu không có linh hồn thì thể xác chỉ là một khối vật chất vô nghĩa. Linh hồn ông bắt đầu tìm cách nhập vào cơ thể. Nhưng, lạ sao ông không thể nào thực hiện được. Thì ra trước đó ông chỉ chú ý nhiều đến việc xuất hồn mà không học cách nhập hồn. “Trời ơi! Thật là khủng khiếp! Biết làm thế nào bây giờ?”

    Nhìn thấy vợ mình nức nở nên vô cùng xót xa, nhưng ông không thể nói, không thể làm bất cứ điều gì mà mình muốn. Thì ra không có thể xác, linh hồn cũng chỉ là một thực thể vô hình bất lực.

    Trong giây lát ông nghĩ đến tổ tiên. Có lẽ vậy, ông phải hỏi cho được cách nhập hồn trở lại. Nhưng khi ông gặp được thì tất cả các vị tiền bối trong dòng họ đều nghiêm nét mặt. Không ai biết cái điều mà ông Hiền cần giải đáp vì đó là chuyện chưa từng xảy ra đối với họ hồi đang sống.

    Sốt ruột, ông Hiền bay đi khắp nơi. Gặp bất kỳ linh hồn nào ông cũng hỏi. Nhưng, tất cả linh hồn đều là của người đã chết. Họ không thể nào hiểu nổi ông. Đối với họ, cái thể xác kia đã hư hỏng từ lâu rồi. Họ còn nói: “Thế gian đau buồn thế, trở lại với nó làm gì?”.

    Nhưng không thể nào nghe theo họ được. Nhất định ông Hiền phải tìm cách hỏi cho được cách nhập hồn. Trong muôn triệu linh hồn kia, chẳng lẽ không có ai đã gặp cảnh tương tự với ông Hiền. Ông Hiền hỏi mãi, hỏi mãi hết người này sang người khác và khi trời chập choạng tối ông đành thất vọng quay về nhà. Vợ ông vẫn khóc. Nhiều người thân từ các làng bên cũng đến. Con gái ông đi dạy học, lấy chồng cách ba mươi cây số cũng đã về. Mọi người chuẩn bị cho tang lễ... Ông Hiền nhìn xuống, cái xác của ông gầy tóp, xám ngoét và thở từng cơn chậm chạp. Một bác sĩ nói với người em ruột của ông: “Chắc khó qua được đêm nay”. Ông muốn hét lên, muốn làm cho mọi người hiểu ra rằng ông không chết, không muốn chết... Nhưng sự thực thì vô cùng nghiệt ngã. Ông không có cách gì để làm được điều mong muốn của mình.

    Bỗng trong nháy mắt ông thấy một linh hồn lạ từ phía cửa bay vào, sà sát xuống thể xác của ông. Hình như có một ý đồ xấu xa. Ông cũng sà sát xuống, cố tìm cách bịt kín ở phía trên đỉnh đầu đề phòng một âm mưu cướp xác. Nhưng mọi điều diễn ra nhanh chóng đến không thể tưởng tượng được. Linh hồn lạ, mà ông đoán là của một tên quỷ sứ hay kẻ bất lương từ cõi xa xôi nào đó đã chui thẳng vào thể xác ông qua một lỗ nhỏ ở bụng.

    Ông nhìn thấy rõ ràng cái thể xác xám ngoét của mình hồng dần lên và mi mắt động đậy. Sau đó là một hơi thở mạnh và hắn từ từ ngồi dậy. Khắp trong nhà ngoài ngõ dậy lên tiếng reo vui, tiếng nói, tiếng cười, tiếng trầm trồ bàn tán. Một số người bạn của ông, toàn những người uyên bác, thấu triệt kiến thức cổ kim cũng lấy làm kinh ngạc vì một chuyện chưa từng thấy bao giờ. Có người còn nói:
    - Vì tổ tiên thấy ông ấy còn làm dở dang mấy công trình nên chiếu cố cho sống lại cũng nên.

    - Không phải! - Ông thốt lên như thế nhưng không ai nghe thấy cả - Thật là oan. Đấy không phải là tôi. Một sự đánh tráo ghê tởm. Mọi người đừng tin những gì hắn nói...
    Ông thấy gã đánh tráo linh hồn nói bằng một giọng mỏi mệt, lơ lớ:
    - Tôi phải đi rửa mặt đây!

    Hắn rửa mặt. Và việc tiếp theo là đi thẳng vào bàn thờ đứng nghiêm trang ở phía trước. Người con gái của ông thắp ba cây hương đưa cho hắn. Vợ ông đứng bên cạnh và người nhà, bạn bè đứng hết cả phía sau. Hắn vái lạy rất đúng cách nói:
    - Nhờ ơn tổ tiên mà tôi còn được tiếp tục sống...

    - Không phải đâu! Không phải đâu! Đồ xảo trá... - Ông Hiền vô cùng phẫn nộ và đau khổ vì chưa bao giờ ông thấy có một điều bỉ ổi đến thế - Hắn dám mạo nhận cả tổ tiên để phỉnh nịnh, lừa dối mọi người. Một tội ác ghê rợn mà lịch sử loài người có lẽ chưa từng xảy ra. Mà có lẽ hầu như nhân loại chưa có mấy người hiểu được. Chính cái điều ấy bây giờ đang diễn ra trước mắt ông, và chính ông là nạn nhân của nó.

    Thắp hương xong, hắn quay lại bàn ăn cháo và nói chuyện với mọi người:
    - Chắc hai mẹ con lo lắng lắm ấy nhỉ? - Rồi hắn tiếp - Tôi làm sao mà chết ngay được, chết là có số mệnh cả.

    Hắn cười. Cố tỏ ra nhu mì nhưng vẫn có vẻ gì giả dối, trịch thượng. Con gái ông rỉ vào tai mẹ:
    - Bố có nét gì hơi khác. Mà bố hình như không nhớ tên con nữa...
    - Mẹ cũng nhận thấy thế... Ông ấy không giống như vậy... Đêm qua mẹ nằm mơ thấy ông nội của con về bảo: “Đó không phải là chồng con đâu. Hãy cảnh giác”. Mẹ cũng không hiểu mọi chuyện là ra làm sao nữa...

    Ông Hiền sung sướng vì vợ con ông đã nhận ra và bố của ông đã giúp. Nhưng liền đó vợ ông quay vào nói với hắn:
    - Bây giờ ông thấy trong người thế nào? Khiếp, mấy hôm vừa rồi ông làm mẹ con tôi lo quá!
    - Tốt rồi bà ạ... - Hắn nói và tỏ ra vẻ thân mật với bà làm ông Hiền điên tiết lên.

    Suốt mấy ngày liền ông Hiền bay lơ lửng khắp nơi trong nhà, bám theo từng bước chân bà. Ông nhận ra bà buồn và khóc khi ở nhà một mình. Suốt mấy chục năm trời yêu nhau, sống bên nhau bà thuộc hết từng cử chỉ, lời nói và thấu hiểu đến từng ý nghĩ của ông. Sao bây giờ ông lại có thể đổi thay ghê gớm đến như vậy...

    Càng ngày trên thân thể ông Hiền đã dần dần xuất hiện những đổi thay rõ nét. Đôi mắt bỗng ngả dần sang màu xanh lá cây, bộ râu quai nón mọc rậm từ hai bên tai ôm lấy cằm. Cái mũi nhô cao và giọng nói lơ lớ rất khó chịu. Ông Hiền nghĩ, kẻ đánh cắp thể xác của ta đang từng bước thay đổi nó, xóa đi hình ảnh thực của ta trước mắt mọi người, giết chết tình yêu của vợ con ta, gây khó hiểu cho làng xóm, bạn bè.

    Một ngày nọ. Đó là một ngày sầu thảm khi vợ ông phát hiện ra những tập bản thảo của chồng mình chưa kịp in cũng bị hắn lôi ra đốt. Bà xông vào giằng từ tay hắn và thét:
    - Ông điên rồi sao? Trời ơi... Tôi không thể ngờ được đến bây giờ ông lại trở thành người như thế này. Không! Ông không còn là chồng tôi nữa. Chồng tôi không bao giờ lại hành động như ông...

    Bà khóc nấc lên. Ông Hiền vô cùng phẫn uất nhưng đành chịu. Ông thương vợ mình vô hạn. Tại sao cuộc đời lại sinh ra những điều đau buồn đến thế. Ông tự hỏi và tự dằn vặt, xỉ vả mình. Nhưng điều ấy cũng nào có ý nghĩa gì. Không thể cam lòng như thế mãi.

    Ông lại quyết định đi hỏi tổ tiên:
    - Thưa tổ tiên, các ngài phải làm sao để cứu con. Kẻ đánh cắp thể xác đang bôi xấu hình ảnh con trước dân làng và tất cả người thân. Hắn còn thiêu hủy cả những gì con đã lao động gian khổ mấy chục năm mới có được... Một tội ác đến nhường ấy, các ngài phải mau mau giúp con, ngăn chặn lại càng sớm càng tốt.

    Các vị tiền bối nhìn ông Hiền lo lắng. Một vị nói:
    - Thì chúng ta cũng đang nghĩ cách đây. Khó lắm. Kẻ núp trong thể xác của con để làm điều ác, thật vô cùng gian xảo. Con có biết hắn đã từng rình rập tại nhà con bao nhiêu năm, theo dõi từng bước đi, giọng nói của con chỉ để đợi có dịp ám hại con. Thế mà con thì không bao giờ để ý đến. Nhiều lần ta đã đoán được âm mưu của hắn định báo cho con, nhưng con nào có chú ý để hiểu điều ta định nói.

    Một vị khác nói bằng giọng trầm tĩnh hơn:
    - Chúng ta cũng đã họp bàn cách giúp con, nhưng tình thế này, cả con và chúng ta đều phải đợi đã...

    Hiểu được tình thế khó khăn, ông Hiền dặn lòng phải thật kiên nhẫn. Phải hiểu hắn từ đâu đến, hắn thực sự muốn làm gì với thể xác của ông? Thế là từ đó ngày tháng cứ nặng nề trôi đi. Bao nhiêu ngày ông Hiền bám theo hắn từng bước chân nhưng hắn dấu gốc tích của mình rất kín. Công việc hàng ngày của hắn thật khó hiểu...

    Một hôm, vợ ông có việc phải ra khỏi nhà. Hắn liền đóng kín cửa lại. Hắn lục tìm chìa khóa mở tủ và lục lọi rồi lấy ra một cuốn sổ bìa cứng ghi chi chít bằng chữ nho và chữ quốc ngữ, thỉnh thoảng có thêm các trang phụ lục vẽ sơ đồ một cách rất công phu. Hắn liếc nhanh và cười lớn, tiếng cười xỉa vào không khí những tia sắc nhọn như tiếng sói:
    - Hừ, phả hệ hả? - Ta sẽ đốt! Đốt... Ta sẽ làm cho cả dòng họ này mất gốc. Hiểu chưa... Ta phải thắng...! Rồi ta sẽ viết lại lai lịch... Làm lại... Con cháu đời sau của dòng họ này sẽ chỉ là một lũ nô lệ, ngu sy tôn xưng ta là một vị anh hùng. Chúng sẽ phải quỳ gối, vái lạy cầu xin ân phúc từ những kẻ mà tổ tiên chúng coi là kẻ thù.

    Ông Hiền nhìn thấy tất cả. Ông thét lên và bật khóc nức nở. Nhưng không ai có thể hiểu được ông. Ngọn lửa bùng lên bén vào căn nhà. Nhưng cũng chính lúc ấy trời bắt đầu đổ một cơn giông.

    Cho đến tận giờ sự thật về tấn bi kịch của ông Hiền hầu như vẫn chưa có mấy ai được biết.

    Hà Nội, 29-4-2000
    Thiên Sơn

  6. Thành viên dưới đây cảm ơn Hansy vì bài viết hữu ích này


  7. #4
    Banned
    Hiện Đang :    Hansy đang ẩn
    Tham gia ngày : Jan 2012

    Bài gửi : 0
    Thanks
    5.759
    Thanked 6.595 Times in 1.818 Posts
    30
    Lòng Dạ Đàn Bà

    Thanh Mai


    Ông Bảy về hưu đã hai năm nay. Vợ ông khuất bóng từ lâu. Đứa con trai đã có gia đình mà tính ông lại chẳng thích làm gánh nặng cho con cháu nên ông sống một mình một cái chòi tranh cho khỏe. Có cháo ăn cháo, có rau ăn rau, có ba cộc ba đồng tiền hưu cũng đủ cho ông sống qua ngày.

    Ông dễ ăn dễ ngủ lắm. Chỉ cần mỗi ngày có cho ông một xị rượu đế, vài trái chùm ruột, trái xoài xanh hoặc con cá khô là đủ. Ông hay ngâm nga:

    Chữ tình cùng với chữ duyên,
    Cho thêm chữ nhậu mới bền duyên ta.


    Ông Bảy là một nhà thơ con cóc không tên nhưng có tuổi. Tướng ông cao khều, khô đét và đen thui như cây củi khô, vậy mà cũng có mấy bà góa để ý đến, có lẽ nhờ ông có duyên ăn nói, hay khôi hài. Bữa bà này đem đến cho ông bát cháo, bữa bà kia dúi cho ông con mực khô, lại có bà tặng ông cái …bô đi tiểu. Làm như ông chuyên đi đái bậy vậy. Ông đối với bà nào cũng vừa ân cần vừa lấp lửng, bí mật. Chẳng biết ông thương ai thích ai nữa. Lâu lâu nổi hứng sáng tác được một bài thơ con cóc ông chép ra mấy bản và tặng cho mỗi bà. Bà nào cũng gối đầu giường nâng niu cất kỹ, có dám hé ra cho ai coi đâu sợ con cháu nó cười cho thúi mũi.

    Cái chòi của ông làm bằng tre, lợp mái tranh, được dựng trên một cái ao nhỏ xíu, cạn queo. Ông ăn đó, rửa tay đó, và thậm chí tiểu xuống đó luôn. Ông cười ha hả khoe với bạn bè, con cháu:
    -Tối ngủ khi nào mắc tè tao chỉ cần nằm úp sấp lại. Khỏi phải đứng dậy đi tiểu, khỏe re!

    Mà khỏe thật! Già rồi ai chẳng mắc cái bệnh tiểu đêm. Cứ phải thức dậy lọm khọm đi tiểu vài lần mỗi đêm nhiều khi không ngủ lại được cực lắm chứ. Sướng cái nữa là khỏi phải treo mùng vì không có muỗi. Gió biển lồng lộng thổi tới từ xa nên mặc dù từ cái chòi không thấy biển đâu cũng ăn nhờ được cái quạt thiên nhiên này, chẳng có con muỗi chết tiệt nào xuất hiện để xin ông tí huyết cả.

    Mà chúng có xin ông cũng không có huyết mà cho. Có lần ông bị cái cánh quạt máy trần nhà thằng Tửng phang trúng cổ tay cắt đứt một khúc lòi cả mỡ trắng hếu. Vậy mà chẳng có một giọt máu nào nhỏ ra. Nói là mỡ trắng chứ chắc là lòi xương trắng đấy thôi vì tướng ông khô đét như củi khô thì làm sao có thịt mà còn nói đến mỡ. Và cái sướng thứ ba là nhà chòi của ông không có cửa, không có tường vách nên chẳng có thằng ăn trộm nào để mắt xanh tới. Ăn trộm là chuyên bẻ khóa, trèo tường, khoét vách mà chòi của ông chẳng có thứ nào thì làm sao chúng có thể hành nghề.

    Thằng ăn trộm nào lỡ có đi lạc vào chòi của ông chắc nó cũng khùng luôn vì chẳng có thứ nào ra hồn cho chúng thó. Cái nồi đất đen thủi đen thui để nấu cơm bị mẻ một miếng thật to ngay miệng nồi; cái nồi nhỏ để kho cá cũng gãy quai; cái ấm trà và ngay cả tách trà cũng mẻ; cái áo cái quần cũng rách, và ngay cả đôi dép nhựa cũng chiếc đực chiếc cái. Đôi dép vợ thằng Tèo mua tặng cha chồng hôm Tết, mới mang được hơn tháng khi đi ăn giỗ ở nhà hàng xóm ông mang lộn dép người ta về. Qua hôm sau thức dậy trời sáng mới thấy hai chiếc không giống nhau. Mặc kệ! Không giống nhau cũng đâu có sao, miễn không phải cùng một bên là được rồi. Ông Bảy bất cần đời, mang hai chiếc dép đực cái này cũng gần năm. Ai cười ông cũng tỉnh bơ.

    Vậy mà cũng có người giống tính ông Bảy, đó là người bị ông mang lộn dép. Năm sau đi ăn giỗ ông gặp lại một người mang y chang đôi dép cũng đực cái giống mình. Hai người tới nhà bà Sáu cùng lúc, cùng khám phá ra sự giống nhau của hai đôi dép quái chiêu, và cùng nhau đổi lại cho đúng đôi đực với đực, cái với cái. Hai người cùng hỉ hả vui mừng hết sức không phải vì tìm ra chiếc dép mà vì cho thiên hạ thấy rằng họ sai. Có còn bảo họ “không giống ai” nữa không.

    Ông Bảy hân hoan mang đúng đôi dép của mình về nhà. Tuần sau ông được mời tới nhà thằng Tửng nhậu mừng tân gia. Ai cũng bỏ giép bỏ giày ngoài cửa. Lần này cẩn thận hơn, khi ra về ông cầm đôi dép lên nhìn kỹ và đắc chí nói:
    -Ha ha! giống nhau. Đừng có cười tao lẩm cẩm nghe.

    Nhờ nhìn kỹ vậy nên lần này ông Bảy quá tài không lộn chiếc dép đực dép cái nữa. Chơi ngon hơn là ông lộn cả đôi! Đôi dép này mới hơn và hẹp hơn! Vậy mà ông cũng xỏ chân được và chẳng mảy may nhận ra.

    Mới lộn được một đêm ông chưa kịp khám phá thì sáng sớm hôm sau thằng Tửng chủ nhân của đôi dép tới ngay trước chòi réo:
    -Bác Bảy ơi bác Bảy, bác mang lộn dép của con rồi.
    Ông Bảy lê đôi dép chạy ra cãi:
    -Tao mang 2 chiếc giống nhau mà. Đây nè coi đi.

    Thằng Tửng lột đôi dép mốc thếch đang mang dưới chân ra nói:
    -Tối hôm qua lúc mọi người về con thấy mất đôi dép của mình mà lại dư ra một đôi không ai nhận là nghi bác Bảy lại mang lộn nữa rồi. Bác mang đôi dép của con chật ém mà không nhận ra hả?

    Thằng Tửng tế nhị không dám nói là đôi dép của nó còn mới sợ ông già nhột dạ. Ông Bảy nhận ra sự sai lầm của mình, lột đôi dép đổi lại cho thằng Tửng và giã lã:
    -Trời ơi! Tao không nhận mình đãng trí không được. Mà mày đừng nghĩ là tao tham đôi dép mới của mày nghe con.

    Thằng Tửng đâu dám nghĩ xấu ông Bảy mà lỡ có nghĩ bậy cũng sức mấy dám nói ra vì ông Bảy là người có ơn cứu mạng nó. Năm ngoái thằng Tửng bị thất tình uống thuốc chuột tự tử. Nó xùi bọt mép nằm trợn mắt gần chết thì ông Bảy có chuyện vào nhà kiếm...má nó. Thấy thằng nhỏ ngoặt ngoẹo như vậy ông Bảy chạy bay ra ngõ kêu xe lam để chở nó vào nhà thương. Ngẳng cái xe lam này từ đời tám hoánh ông cố nội của thằng Tửng, tới trước nhà thằng nhỏ thì tắt máy không nổ nữa. Ông Bảy cong đít đẩy hoài mà xe lam cứ khẹt khẹt được vài tiếng như ho gà rồi tắt tịt chứ không chịu nổ. Thằng Tửng gần chết chứ đầu óc còn nhận biết được. Nó thấy tướng ròm của ông Bảy đẩy yếu quá nên ...tức mình còn chút tàn hơi gượng dậy, lảo đảo chạy ra đẩy phụ chiếc xe. Có lẽ lúc đó ý tưởng cầu sinh của nó nổi lên. Nó đẩy xe toát cả mồ hôi, vãi cả nước đái, thấy mấy chục ông trời ông trăng mà xe vẫn không nổ. Đến khi hai ông cháu gần muốn bỏ cuộc, thu hết tàn hơi đẩy ra và hét lên một tiếng thì chiếc xe thổ tả gầm gừ và...nổ dòn. Cả ông Bảy và thằng Tửng cùng mừng rú và ngã lăn vào thùng xe thở dốc, mặt mày xanh rờn, rồi xỉu luôn tại chỗ.

    Xe chạy tới nhà thương, người ta phải đem cả hai vào phòng cấp cứu. Thằng Tửng may mắn được cứu mạng thoát chết. Người ta đoán có lẽ nhờ nó đẩy xe toát mồ hôi, vãi nước đái, tiết được phần nào chất độc ra ngoài nên nó mới sống được. Từ đấy nó coi ông Bảy như người có ơn lớn với nó, như cha mẹ tái sinh. Còn ai hỏi chọc nó sao hổng chịu yên phận chết mà còn chạy ra đẩy xe làm gì? Nó chỉ cười hí hí nói lúc đó nhìn thấy tướng ông Bảy vừa xấu vừa già mà còn có đàn bà con gái chịu đèn. Còn nó đẹp trai trẻ trung mắc mớ gì vì một đứa con gái mà bỏ mạng uổng quá xá. Hơn nữa chết đi chắc má nó buồn lắm vì chỉ có mình nó là con nên ráng sức phụ ông Bảy mà cứu mạng mình.
    Má thằng Tửng biết ơn ông Bảy cứu con mình lắm. Ba thằng Tửng đi bán muối từ khuya. Má nó cứ vài ba ngày nấu miếng canh, kho miếng cá bắt thằng Tửng bưng qua nhà cho ông Bảy. Bà có qua thì ông có lại. Ông Bảy có trồng vài luống rau, luống cà nên cũng gởi thằng Tửng đem về cho má nó.

    Bữa nọ thằng Tửng nói với ông Bảy:
    -Má con hỏi sao cà chua bác Bảy trồng có bí quyết gì không mà tròn to và chín đỏ đẹp quá vậy? Má con cũng có trồng cà chua mà trái không lớn được như vầy và khi lớn lại bị nứt chẳng đẹp tí nào.

    Ông Bảy tửng tửng nói:
    -Thì tối nào tao cũng tưới nó bằng nước tiểu mới ra lò nên tụi nó mắc cở phổng lên và đỏ mặt đẹp như vậy đấy.
    Vài ngày sau má thằng Tửng gởi qua tặng ông Bảy mấy trái dưa leo to tướng. Nó chuyển lời má mình:
    -Má con bắt chước cách của bác Bảy mà cà chua cũng vẫn đẹt và xấu. Chỉ có tụi dưa leo không cần tưới mà lại vọt to lên thôi.

    Biết gặp địch thủ chịu chơi, ông Bảy khoái chí lắm. Má thằng Tửng so ra nhỏ hơn ông cả chục tuổi, tướng tá có hơi mát da mát thịt nhưng cũng bắt mắt. Ông Bảy tuy tướng tá còm nhom muỗi chích không có máu nhưng chắc chắn cắt đầu gối cũng còn máu nên chịu đèn má nó rồi. Một bữa trả cái cà men cho thằng Tửng mang về, ông Bảy nhét vào đó miếng giấy nhỏ có đề vài câu ca dao ông chế thêm:

    Ơn trời mưa nắng phải thì,
    Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu.
    Thương em để bụng bấy lâu
    Anh xây nhà lầu anh sẽ cưới em...
    Vài bữa sau trong ơ cơm có mãnh giấy trả lời:
    Trời mưa nước chảy tèm lem
    Chờ ông đi cưới chắc em khô rồi.
    Đến chừng nước ngập cả đồi
    Biển Đông khô cạn nhà lầu mới xây?


    Ông Bảy không ngờ má thằng Tửng cũng đáo để đớp chát như vậy. Trả lời kiểu này có vẻ coi thường mình thuộc loại lè phè không thể nào vớ tới bả. Vài bữa sau nhân trời trở lạnh ông thả thêm một mẫu giấy vào bao cà pháo biếu má thằng Tửng:

    Cá sầu ai, cá chẳng quạt đuôi,
    Mền da tôi mượn dăm đôi ba ngày .
    Kẻo không lạnh lẽo thế này ,
    Tôi bị ...sưng phổi ai người lo cho???


    Thằng Tửng không ngờ nó là con chim xanh đưa thơ cho má nó và ông Bảy. Ngay hôm đó Má nó nhờ nó đem cho ông Bảy hộp thuốc Avil trị cảm và ho trong có câu trả lời :

    Ví dầu tình bậu muốn...ho
    Bậu nên uống thuốc đừng lo...mượn mền...
    Mền ai nấy đắp chớ nên
    Cho mượn mà đắp chẳng bền được lâu.


    Má thằng Tửng gởi cho ông Bảy hộp thuốc ho xong xù luôn, không cơm không cháo cho ông gì nữa cả. Chắc bả chỉ có ơn chứ không có tình. Mà thật ra má thằng Tửng phòng không gối chiếc lâu nay cũng cô đơn lắm lắm, không chịu ông Bảy cũng có lý do. Ba thằng Tửng ngày xưa tính khó đàng trời, lại thêm tính ghen nên má nó cũng khổ lên khổ xuống với chồng, hở tí là bị đánh đập, nhiếc mắng. Giờ một thân một mình, của nả chồng để lại không phải lam lũ, muốn ăn muốn chơi gì tùy ý, sướng như tiên. Thấy hoàn cảnh ông Bảy cũng tội nghiệp, có điều ổng đã lớn tuổi rước về rồi phải lo thang thuốc hầu hạ khác gì rước khổ vào thân. Thôi thì lơ đẹp cho xong, để lâu sinh tình thì khổ.
    Ông Bảy chỉ bị cảm lạnh sơ sơ, bây giờ nghe má thằng Tửng trả lời như vậy rồi lặng luôn, ông đổi qua thất tình cảm thương nàng ho sù sụ trông thảm thiết lắm. Nhưng trên đời này thiếu gì người có lòng! Bà sui của ông Bảy là một trong những người đó. Bà sui cũng góa chồng được mấy năm nay nên về ở chung nhà với vợ chồng thằng Tèo để hủ hỉ và nhân thể trông dùm mấy đứa cháu ngoại. Nghe tin anh sui bị bịnh nằm chèo queo, bả động lòng thương nấu cháo tự tay bưng qua chòi cho ông Bảy. Bà sui nhỏ nhẻ hỏi thăm :

    Anh sui bị cảm lạnh không?
    Ăn tô cháo nóng ấm lòng nhen anh.
    Cháo này tui bỏ nhiều hành,
    Ăn xong anh sẽ khỏe nhanh tức thì.


    Ông Bảy bị người đẹp bỏ nằm chèo queo mấy hôm nay. Đang buồn tình hết sức thì lại được một người đẹp khác qua hỏi thăm lại tận tay bưng cháo tới mời tận miệng. Ông Bảy tủi thân mủi lòng muốn khóc. Bà sui dù gì cũng là... « fan » mê thơ của ông một thời. Hồi đó nghe xấp nhỏ nói bà sui khen thơ con cóc của ông nên ông cũng có tặng cho bả vài bài và mỗi dịp gặp nhau hai bên chuyện trò rôm rả hợp ý tâm đầu lắm.

    Nhưng một hôm tình cờ ông nghe bà sui khoe với bạn :
    -Tui sống hơn 20 năm với chồng không bao giờ cãi với ổng một tiếng. Ổng có la có ăn hiếp tui cũng im ru không cãi lại.
    Người bạn tấm tắc khen và hỏi:
    -Trời ! Sao chị nhịn hay vậy?

    Bà sui khoe :
    -Tui không thèm cãi mà bỏ vào chùi cầu tiêu coi như trả đũa ổng.
    Người bạn ngạc nhiên:
    -Sao lại đi chùi cầu tiêu mà là trả đũa?
    Bà sui đắc chí :
    -Tui lấy bàn chải đánh răng của ổng mà chùi bồn cầu. Coi như trét phân vô miệng ổng! Cần chi cãi cọ khô nước miếng phải không?

    Ông Bảy nghe bà sui nói chuyện với bạn mà hết hồn hết vía! Chu choa ơi, bà này tàn độc thâm hiểm quá sức. Nghĩ lại bà xã của mình hồi còn sống chắc không chơi cái màn này vì bả đâu có chịu nhịn mà cãi lại ùm trời. Mới hay nhìn sự vật thấy vậy mà thực chất thì thường lại khác đi. Tốt nước sơn chắc gì bên trong là gỗ tốt? Ông kể lại và dặn dò thằng con trai của mình coi chừng con vợ được má nó truyền nghề chùi cầu tiêu thì nguy.

    Thằng Tèo cười hì hì :
    -Có cách ! Mỗi lần chửi nó xong con sắm cái bàn chải đánh răng khác khỏi lo nó chơi màn chùi cầu tiêu! Ba đừng lo!

    Ông Bảy yên tâm cho thằng con trai nhưng từ đó ông mất hứng không còn tặng thơ cho bà sui nữa và nếu có gặp cũng lơ là bãi buôi dăm câu chuyện rồi tìm cách dông mất.
    Nhưng nay bà sui có lòng đem cháo qua trong lúc tối lửa tắt đèn như thế này, tâm hồn con người đang lúc chùng xuống, áo não thê lương thì làm sao không cảm động đậy được.

    Ông Bảy vừa húp cháo vừa thầm thì cho tự mình nghe :
    Cháo hành này chẳng gì bì,
    Ăn vào lỡ...bị chùi...gì...cũng cam.


    Mới thấy đàn ông dù nhiều tuổi, nhiều kinh nghiệm cũng vẫn dễ bị dụ như thường. Chỉ cần chút mật ngọt, chút dịu dàng là...tiêu đời dễ như chơi.

    Tình ông sui bà sui chưa kịp tiến triển thì bà sui chắc bị lây bịnh ông sui, nằm liệt. Bà sui không ăn được, không ngủ được, không nói được, và ngay cả không đi... qua chòi ông sui được. Ông Bảy qua thăm mà bà sui không thể mở mắt nhìn và không chào chàng được một tiếng. Bịnh thật là nặng, không khéo đi điện kỳ này! Vợ chồng thằng Tèo phải mời bác sĩ tới nhà coi bịnh cho bà ngoại xấp nhỏ. Bác sĩ cho chuyền một chai nước biển và một chai chất đạm dây nhợ lòng thòng coi tội hết sức.

    Bác sĩ thật hay! Mới chuyền được 1 tiếng đồng hồ thì bà sui mở mắt ra được. Việc đầu tiên là bả ngoắt tay kêu con gái tới, thì thào nói :
    -Nhớ để dành 2 chai nước biển bán ve chai nghen con!

    Trời ơi! Không ngờ bà sui có tật hà tiện. Cũng chẳng sao, bả hà tiện cũng là chắt bóp lo cho gia đình, có sao đâu. Nhưng đến cái màn sau này thì ông Bảy hết còn biện hộ cho bà sui được nữa. Số là sau khi lành bệnh, thỉnh thoảng mỗi năm bảy bữa, vào lúc trời chiều sâm sẩm bà sui lại thân chinh đem qua tặng ông Bảy trái mãn cầu, trái vú sữa, hoặc trái ổi xá lị chín rục thơm nức mũi. Bà sui còn ân cần tận tay lột hoặc cắt trái cây mời ông ăn, vừa ăn vừa tán chuyện tào lao trên trời dưới đất. Ông khà hớp rượu, rồi kể chuyện tiếu lâm, bà cười nắc nẻ. Có khi vui quá bà một tay ôm bụng rũ ra cười, còn tay kia thì thì cầm miếng trái cây đút vô miệng ông ra chiều muốn trám cái miệng tiếu lâm không cho nói tếu nữa. Thật là vừa vui vừa...tình !

    Một bữa sáng nọ bà sui sai thằng cháu nội bưng qua cho ông Bảy hủ dưa cải trông ngon đáo để. Ông Bảy nhắn với thằng cháu :
    -Con về nói với bà Ngoại ông Nội cảm ơn nhiều nhen. Dưa cải ngon lắm, ông Nội thích lắm, để tối nay ông Nội nhắm với rượu.

    Thằng cháu nội mới lên tư thật tình méc :
    -Con thấy có con gián nằm trong dưa cải. Bà Ngoại vớt con gián ra quăng cho gà ăn. Rồi Ngoại cầm hủ dưa lên nhìn tới nhìn lui và nói dưa cải bỏ uổng quá, thôi đem tặng cho « thằng chả ». Rồi Ngoại kêu con biểu đưa hủ dưa cải này qua cho ông Nội. « Thằng chả » là tên của ông Nội hở ?

    Ông Bảy nghe thằng cháu Nội ngây thơ nói mà mặt mày méo xẹo và lòng buồn rười rượi. Hóa ra bả coi mình như thùng nước cơm chứa đồ ăn bỏ đi. Sao bả không lấy dưa cải này nấu cháo heo mà lại đem tặng mình. Rồi ông rùng mình nghĩ đến mấy thứ trái cây bà sui đem qua tặng hôm giờ. Tại sao lại đem qua vào lúc trời chập choạng không mấy sáng ? Tại sao lại cứ dục mình ăn ngay mà không để đến hôm sau ?

    Ông Bảy dò hỏi thằng cháu nhỏ :
    -Bà Ngoại có hay mua trái cây không vậy ?
    -Dạ có ! Bà Ngoại mua để trên bàn thờ ông Ngoại.
    -Bà Ngoại có cho con ăn trái cây cúng không ?
    Thằng cháu vừa chằn môi ra điều ghê sợ vừa lắc đầu ngoay ngoảy :
    -Trái cây bà Ngoại cúng trên bàn thờ lâu thật lâu, mềm èo có nhiều con giòi ngo ngoe gớm lắm con không ăn đâu.

    Ông Bảy lạnh mình, người mọc gai ốc. Không biết bà sui có phải chỉ là hà tiện hay là chơi ông như chơi lão chồng ngày nào. Lão chồng hồi còn sống bị trét phân vào miệng. Còn ông thì bị cho ăn giòi!

    Ông Bảy vẫn không biết rằng, ông đã có tội lớn tày đình với bà sui vì ngày nào đã dám lơ đẹp bả mà “thân” với má thằng Tửng. Ông cũng không biết rằng bà sui đã thì thầm nhiều lần với ông chồng đang ngồi ngậm tăm trên bàn thờ:

    “Thằng chả” tưởng mình ngon lắm hả?

    Thanh Mai


  8. Thành viên dưới đây cảm ơn Hansy vì bài viết hữu ích này


  9. #5
    Banned
    Hiện Đang :    Hansy đang ẩn
    Tham gia ngày : Jan 2012

    Bài gửi : 0
    Thanks
    5.759
    Thanked 6.595 Times in 1.818 Posts
    31

    ĐỆ NHẤT KIẾM SĨ

    ThaiNC


    Trời gần về chiều, nhưng cơn nắng gay gắt vẫn bao trùm vạn vật. Dưới sức cuồng nộ của thần Mặt Trời, ngọn Hồng Lĩnh nằm yên chịu đựng. Thoai thoải ven sườn núi đến con đường mòn tận đằng xa, cả rừng cây rậm rạp bị ngự trị và khuất phục trước uy vũ thiên nhiên lặng yên không di động; ngoại trừ một bóng trắng đang di chuyển an nhiên trên con đường.

    Khách bộ hành là một người đàn ông đứng tuổi. Chiếc áo choàng màu trắng dình đầy bụi đường vì quãng đường dài trước khi đến đây.Vầng trán rộng dưới chiếc nón rộng vành lấm tấm hài hạt mồ hôi, nhưng đôi mắt sáng không tỏ vẻ gì nhọc mệt, chân vẫn nhịp bước tiến về phía trước.

    Khi đã đến chân núi, khách dừng lại quan sát địa thế. Có hai con đường đi lên núi. Một ở phía đông, và một ở phía tây.Tây lộ thẳng tắp và đầy dốc đá hiểm trở. Đông lộ thoai thoải và ngoằn ngoèo như con rắn uốn mình lên núi. Cả hai đường đều rất hẹp chỉ đủ một người lách qua. Khách dợm mình định lên tây lộ để rút ngắn quãng đường. Bỗng ông chú ý thấy bên đông lộ một quyện khói bốc lên. Phía dưới thấp thoáng một mái tranh ẩn mình trong lùm cây sum xuê. Té ra ở ngọn núi trơ trọi giữa một vùng hoang vu này cũng có người cư ngụ. Có lẽ gia đình của tiều phu hay thợ săn chi đây. Khách chợt cảm thấy một niềm vui nho nhỏ loé lên trong lòng. Nhìn về phía mặt trời nhẩm tính thời gian vẫn còn rộng rãi, ông quyết định đi con đường phía đông.

    Nguời áo trắng khoan thai tiến lên. Càng về phía trên, ông nhận thấy những cụm hoa rừng thành từng hàng thẳng thớm. Đi thêm đoạn nữa, quả nhiên căn nhà tranh gọn ghẽ xuất hiện trong tầm mắt. Ông tiến đến đưa tay gõ cửa.

    Đợi một chút, quả nhiên cánh cửa bật mở. Một người đàn ông sừng sững bên trong.
    Người áo trắng chắp tay nói:
    -Ông anh, tôi có việc lên đỉnh núi đi ngang đây, có thể xin ông chén nước?
    Người đàn ông ngần ngừ trong giây lát, rồi né sang một bên nhường lối:
    -Được, mời ông vào nhà nghỉ mệt.

    Khách theo gia chủ bước vào trong. Đây là một căn nhà nhỏ ba gian. Phòng ngòai có chiếc bàn gỗ và bốn cái ghế đẩu để tiếp khách, mặc dù ở chốn hoang dã này khách của gia chủ chắc cũng rất hiếm hoi. Chung quanh phòng thật đơn sơ, vài bộ da thú và đôi sừng hươu khá lớn tại góc phòng. Phía bên kia tường treo một chiếc cung sắt và ống tre chứa đầy tên. Sự bày biện trong nhà khiến khách đóan chừng gia chủ sinh sống bằng nghề săn bắn. Không biết ông ta sống một mình hay có gia đình?

    Khách đang suy nghĩ, gia chủ đã trở ra kéo ghế ngồi đối diện.
    -Mời ông đợi trong giây lát. Tiện nội đang châm trà.
    Té ra ông ta còn có vợ ở đây
    -Không dám làm phiền nhiều. Xin ông anh chén nước mưa là đủ rồi.

    Chủ mỉm cười thân mật -Chúng tôi ở đây chẳng mấy khi được tiếp khách. Nhưng dù sao cũng cho phải phép, Chẳng hay…đại hiệp có việc gì phải lên núi? Từ đây lên đến ngọn còn khá xa, đừng đi rất hiểm trở.

    Chủ nhà tinh ý đóan được khách phải là một bậc kiếm khách giang hồ qua dáng cách khoan thai, thái độ trầm hùng, và nhất là thanh kiếm gác bên cạnh.
    Khách trả lời
    -Tôi có hẹn cùng người bạn trên đỉnh núi đêm nay.

    Chủ nhà khá ngạc nhiên khi nghe khách nói. Kể cũng kỳ lạ. Thiên hạ thiếu chi chổ ấm cúng thoải mái, lại cùng nhau hò hẹn lên ngọn núi trơ trọi. Nhưng nghĩ lại khách giang hồ thường có nhũng hành động người thường không thể hiẻu được nên cũng không hỏi gì thêm.

    Giữa lúc đó, người vợ của gia chủ đã mang trà lên, rót đầy hai chén.
    -Mời đại hiệp dùng trà.
    - Cám ơn đại tẩu. Khách đáp lễ.
    Chủ và khách cùng bưng chén nhắp vài ngụm nhỏ. Khách bắt chuyện
    -Thật không ngờ giữa chốn núi non hoang dã như vầy lại có gia đình ông anh cư ngụ.

    Cảnh trí thật hùng vĩ. Đúng là một nơi lý tưởng.
    -Đại hiệp nhận xét đúng đó. Chỉ có điều hơi bất tiện là mỗi lần xuống làng giao dịch đổi chác phải nửa ngày đường. Nhưng rồi cũng quen…
    -Ông anh làm nghề săn bắn ở đây?

    Chủ gật đầu
    -Đúng vậy. Gia đình tôi mấy đời đều lấy nghề săn bắn làm kế sinh nhai. Đó là lý do chúng tôi phải làm nhà ở đây, cách biệt với xóm làng chung quanh.
    -Vậy chẳng hay ông anh đã có cháu để nối nghiệp?

    Nghe hỏi, gia chủ lộ vẻ phiền muộn, trả lời
    -Không dấu gì đại hiệp. Tôi cùng nhà tôi chung sống đã lâu nhưng chỉ có môt mụn con trai. Năm nay nó mười tuổi.

    Kể cũng là hiếm muộn, nhưng nghĩ lại thì dù sao có được đứa con nối dõi tông đường thì cũng mãn nguyện rồi. Vậy mà…
    Chủ nói tới đây bỗng dừng lại, lặng lẽ lắc đầu
    -Chuyện gì xảy ra cho cháu? Khách hỏi
    Chủ buồn bã:
    -Tôi cũng không rõ lắm. Cách đây mấy bữa, tôi dẫn nó vào rừng tập bắn, về nhà bỗng lâm ra bệnh nặng.

    - Bệnh gì? Chắc là ông anh đã mời thầy thuốc?
    - Dĩ nhiên. Chỉ một đúa con thôi nên chúng tôi lo lắm. Tôi đã mời hai thầy lang nổi tiếng nhất của hai làng gần đây về chẩn mạch. Vậy mà cả hai đều không rõ bệnh gì. Họ có cho toa hốt thuốc, nhưng vẫn không thấy hiệu nghiệm gì cả. Hà…
    Khách lộ vẻ ngạc nhiên.
    -Bệnh cháu làm sao?

    Chủ rầu rĩ nói:
    -Căn bệnh rất lạ đời. Như tôi nói hôm vào rừng tập bắn cung xong về nhà, nó bỗng than lạnh. Đại hiệp thấy lạ lùng không chứ? Giữa trời đang nóng bức như vầy…Càng lúc cơn lạnh càng tăng, hành hạ nó đến chết giấc dù tôi đã đắp chăn ấm và đốt lò sưởi chung quanh cách mấy cũng không giảm.Tội nghiệp, cũng có lúc tỉnh dậy muốn nói gì đó mà không thành lời.Khi tỉnh khi mê . Có lẽ…không qua khỏi. Hà….

    Chủ nhà dứt câu, thở dài ảo não làm khách aí ngại. Quả là một điều bất hạnh. Hai vợ chồng đều đứng tuổi, chỉ có một mụn con an ủi lúc về già và để nối dõi. Vậy mà đứa con đó đang bị tử thần đe dọa bằng căn bệnh kỳ lạ..

    Một ý nghĩ thoáng qua, khách nói
    -Tôi tuy không phải là thầy thuốc, nhưng cũng biết chút ít về y lý. Ông anh có thể để tôi xem qua cháu được không?

    Chủ nhìn khách nghi ngờ. Bệnh tình của con ông đến thầy lang nổi tiếng còn đành bó tay, huống chi…Nhưng càng nhìn khách, thấy đôi mắt sáng cương nghị, dáng cách ung dung, gia chủ bỗng thấy một niềm hy vọng lóe sáng. Nói cho cùng, gia đình ông đang lúc tuyệt vọng. Đâu còn gì có thể tệ hơn nữa?
    Ông phấn khởi
    -Thật là may mắn. Nếu đại hiệp chữa được cho cháu. Ơn này chúng tôi không bao giờ dám quên. Mời đại hiệp.

    Nói xong, gia chủ đứng dậy dẫn lối cho khách vô phòng bên trong.
    Vừa bước vào, khách đã thấy luồng hơi nóng hừng hực từ hai lò sưởi đang đỏ chói than hồng. Trên giường, một thằng bé đang thiu thiu ngủ dưới tấm chăn dày cộm trùm kín từ cổ tới chân, chỉ chừa khuôn mặt trắng bệt. Bên cạnh giường, mẹ đứa bé ngồi yên lặng nhìn con buồn bã. Thấy khách buớc vào, bà đứng dậy lùi lại phía sau nhường lối.

    Khách áo trắng ngồi xuống. Ông luồn tay dưới chăn nắm lấy cổ tay thằng bé để xem mạch. Trong khi đó, hai vợ chồng người thợ săn tựa cửa nhìn vào dáng diệu hồi hộp. Họ đang tuyệt vọng nên hễ có cơ may nào cứu vãn tình thế đều cố nắm lấy, dù tia hy vọng đó có mong manh.

    Cả bốn người, kể cả đứa bé mắc bệnh mê man trên giường đều bất động. Độ chừng tàn nửa nén nhang, khách buông tay chậm chạp đứng dậy. Chủ nhà tiến đến run run hỏi:
    -Đại hiệp thấy thế nào?

    Khách trầm ngâm chưa trả lời, vợ gia chủ đã quỳ xuống khóc thút thít
    -Đại hiệp, xin cứu độ. Chúng tôi nhớ ơn suốt đời.
    Khách ngưng luồng tư tưởng đang tranh đấu dữ dội trong đầu, cúi xuống nâng người mẹ đau khổ lên
    -Đại tẩu, đừng làm vậy. Tôi sẽ cố gắng.Tôi đang suy nghĩ về bệnh tình của cháu đây mà.

    Người chồng dù sao cũng còn bình tĩnh hơn, nắm áo vợ kéo ra ngoài “Để cho đại hiệp suy nghĩ” Ông thì thầm.

    Còn lại một mình khách áo trắng trong phòng. Ông chắp tay sau lưng, trán nhăn tít nhìn đứa bé. Nó thật đáng hương.Giữa trời mùa hạ, lại thêm hai lò sưởi chung quanh, vậy mà thỉnh thoảng răng nó đánh vào nhau nghe cồm cộp.
    Mình có nên chữa cho nó không?

    Thì ra khách đã rõ nguyên nhân gây ra căn bệnh, và biết mình có thể cứu đứa bé thoát khỏi vòng tay tử thần. Điều làm ông suy nghĩ là có nên ra tay chữa trị đứa bé lúc này hay không mà thôi.
    Tại sao ?
    Khách vốn là một bậc đại hiệp nức tiếng võ lâm, luôn cứu khổn phò nguy. Vậy hôm nay vì cớ gì ngần ngại với đứa bế tội ngiệp này. Muốn biết rõ nguyên nhân, chúng ta phải ngược giòng thời gian khoảng mười năm.

    ***

    Mười năm trước, chốn giang hồ bỗng xuất hiện hai tay đại cao thủ. Một người hành hiệp ở phương Bắc, người kia ở phương Nam. Cả hai cùng khá trẻ trên dưới ba mươi, và võ công của họ thật cao cường không ai chống nổi. Lấy con sông Trường Giang làm ranh giới, mọi người gọi họ là Nam Kiếm và Bắc Kiếm, vì cả hai đều lấy kiếm làm binh khí.. Tất cả mọi phái võ thời bấy giờ đều công nhận hai người có võ công cao nhất. Nhưng ai là người giỏi hơn trong hai người là một câu hỏi không thể trả lời. Cả Nam lẫn Bắc kiếm đều thuộc giới hiệp nghĩa, chung mục đích trừ gian diệt bạo, nên họ chưa bao giờ giao chiến cùng nhau. Thâm chí cũng chưa có kẻ nào được dịp giao đấu với cả hai người để mà bình phẩm, ngoại trừ vài tên đại đạo, nhưng chúng đều đã ra…người thiên cổ. Vì vậy, ngôi vị đệ nhất kiếm vỏ lâm hơn mươi năm qua vẫn còn để trống.

    Đó là những điều giang hồ đồn đãi. Một sự thực mà chỉ có hai người biết rõ, đó là họ đã bí mật thử tài nhau hai lần, và không ai thắng được ai. Mỗi lần thủ huề như vậy, họ đã hẹn thời hạn năm năm cùng nhau tái đấu để quyết định ngôi vị tay kiếm đệ nhất.
    Hôm nay là ngày hẹn lần đấu thứ ba của họ. Nơi định là đỉnh núi Hồng Lĩnh hoang vu không ai qua lại này. Và khách áo trắng chính là Nam Kiếm trên đường đến nơi quyết đấu.

    Chính vì tầm quan trọng của cuộc so tài đêm nay đã làm khách áo trắng suy nghĩ mãnh liệt. Lúc bắt mạch đứa bé xong, ông biết nó bị gió ma xâm nhập. Gío Ma chỉ là tiếng gọi của dân gian chứ thật ra chỉ là một luồng gío chướng cực hàn thỉnh thoảng thổi qua những vùng núi hoang vu và dễ dàng giết hại những ai chẳng may bị nó thổi qua. Vì nguồn gốc hiếm hoi của nó mà những đại phu thường tình của dân gian ít ai rõ căn nguyên, nguồn gốc, và do đó không thể chữa trị bằng những phương thuốc thông thường được. Tuy nhiên đây không phải là căn bệnh bất trị. Những đại phu giỏi và hiểu căn nguyên có thể đặc chế những toa thuốc cực nhiệt và từ từ có thể chữa được. Nhưng ở nơi hoang vu này làm sao có được đại phu giỏi? Hơn nữa bệnh tình thằng bé này đã đến hồi nguy kịch, không còn thì giờ nữa. Ông thấy là nó đã không thể cầm cự được nữa rồi.

    Thật là khó nghĩ. Khách áo trắng biết rằng phương pháp duy nhứt ngay bây giờ để cứu sống đứa bé là ông phải dùng công lực bản thân của ông biến thành nhiệt khí thay thế cho thuốc truyền vào đứa bé thì mới có thể hóa giải làn gío ma trong người nó.. Dĩ nhiên cứu chữa xong, ông sẽ bị tổn hao công lực nghiêm trọng cần tịnh dưỡng một thời gian dài để phục hồi.

    Nếu là ngày khác, ông nào có sá chi, và sẽ không ngần ngại ra tay ngay. Nhưng hôm nay lại khác. Trước đối thủ đồng sức đồng tài, ông cần bảo tồn hoàn toàn chân lực để chiến đấu. Điều khó khăn là không thể để đến ngày mai. Mạch của thằng bé quá yếu ớt. Khó lòng qua khỏi đêm nay. Ông cũng không thể dời lại cuộc chiến. Quân tử nhất ngôn. Một lời hứa nặng tựa Thái Sơn.

    Ông phải quyết định. Danh dự hay lương tâm? Hơn mười năm ngang dọc, khách áo trắng chưa bao giờ phải đứng trước tình thế nan giải.

    “ Cạcch…Cạccchhh..”
    Đứa bé đang lên cơn lạnh, răng đánh vào nhau làm tim ông đau nhói. Ông bỗng nhớ lại lúc mẹ nó quỳ xuống van nài. Đôi mắt bà đầy vể thiết tha cầu khẩn. Ôi lòng mẹ thương con vô bờ bến. Ông cũng nhớ ánh mắt người cha rực niềm hy vọng khi đưa ông vào chẩn mạch. Ngày xưa ông chỉ là đứa con mồ côi được thầy nuôi nấng dậy dỗ từ thuở ấu thơ, chưa một lần được hưởng tình mẫu tử thiêng liêng. Khi trưởng thành xuống núi, ông là kiếm sĩ cô đơn sống với tha nhân, không có gia đình để được hân hạnh làm cha…

    “Cạacchhh…cạacch..”
    Cơn lạnh đang hành hạ đứa bé mãnh liệt. Ông thấy từ khóe mắt nó hai giọt nước mắt chảy xuống gò má. Hình như nó đang tỉnh, muốn kêu cha kêu mẹ mà không thành tiếng. Hơi thở của nó trở nên mạnh hơn và khò khè dồn dập. Nó đang hấp hối.

    Khách áo trắng tuốt kiếm ra khỏi vỏ nâng ngang mày. Mười năm qua thanh kiêm này chưa bao giờ thua. Tuy hai lần nó không thể chiến thắng trước Bắc Kiếm, nhưng cũng chưa thua.

    Kiếm trong tay, kiếm sĩ quay lại nhìn đứa bé. Ông cảm thấy như người nằm kia không phải là thằng bé con ông thợ săn nữa. Ông thấy rõ ràng là người thầy năm xưa của ông đang hấp hối trên giường bệnh, nói với ông câu sau cùng “Kiếm để cứu, không phải để thắng. Kiếm có thể giết, nhưng là giết một để cứu mười.” Mười năm qua ông đã luôn luôn vâng lời thầy dạy. Tay kiếm của ông cứu khổn phò nguy. Kiếm của ông đã từng nhúng máu không biết bao nhiêu cường hào, giặc cướp… trừ hại cho nhân gian. Thầy của ông chưa bao giờ dạy ông trở thành đệ nhất kiếm sĩ. Chưa bao giờ.

    Ông bừng tỉnh. Là đệ nhất, hay đệ nhị kiếm, hay thậm chí đệ thập kiếm thì ông vẫn là ông, vẫn là một kiếm sĩ trừ gian diệt bạo theo đúng lời thầy dạy. Nhưng nếu bây giờ ông quay lưng thì mạng sống thằng bé chắc chắn sẽ bị tử thần cướp đi, và cuộc đời còn lại của vợ chồng người thợ săn tốt bụng này sẽ là những ngày dài cô quạnh.

    Không suy nghĩ gì thêm, khách nhảy phóc lên giường. Một tay đỡ đứa bé dậy, tay kia ấn vào lưng, tập trung tất cả tinh thần và công lực bắt đầu cuộc chữa trị…

    Hai vợ chồng thợ săn kiên nhẫn đợi bên ngoài. Không biết thời gian là bao lâu, cửa phòng bật mở. Khách áo trắng chậm chạp bước ra, dáng điệu mệt mỏi.

    Người chồng đưa tay đỡ khách, run giọng hỏi
    -Đại hiệp, ông…không sao chứ?

    Người vợ vùng chạy vào bên trong.
    Trên giường, đứa con của bà đang thiêm thiếp. Khuôn mặt trắng bệt lúc nãy nay đã ửng hiện vài nét hồng hào. Rõ ràng nhất là nhịp thở. Nhịp thở đều đặn và thông suốt. Trên người nó chỉ còn tấm chăn nhẹ đắp đến ngực. Hai lò sưởi đã tắt tự hồi nào. Làn sinh khí mồn một trên nét mặt đứa bé cho bà biết rằng, nó đã qua cơn bão dữ. Bà muốn chạy lại ôm con nhưng cố dằn, vội chạy ra ngoài hướng về khách áo trắng quỳ lạy liên hồi. Bà muốn nói muôn ngàn tiếng cám ơn nhưng không thể thốt nên lời, chỉ để hai giòng nước mắt tuôn tầm tã. Người chồng tuy chưa vào thăm con, nhưng thấy hành động của vợ cũng đủ hiểu. Bất giác, ông cũng quỳ xuống bên vợ…

    Khách áo trắng ngồi xếp bàn yên lặng, không hề biết đến những gì trước mặt mình. Ông đang đi tới cảnh giới vô ngã để phục hồi chân lực đã thất thoát.
    Một lúc khá lâu, khách mở bừng mắt. Bên ngoài trời đã tối, chỉ còn ánh nến leo lét duy nhất trong căn nhà. Người chồng mừng rỡ.
    - Đại hiệp đã tỉnh.
    Khách nhìn ra bên ngoài hỏi:
    - Bây giờ là canh mấy?

    Người chồng trả lời
    -Độ chừng tàn canh một, sắp sang canh hai.
    Khách lẩm nhẩm gật đầu, hỏi tiếp
    -Cháu đã tỉnh chưa?
    - Nó vẫn còn ngủ. Để tôi kêu nó dậy tạ ơn đại hiệp.

    Khách xua tay đứng dậy
    -Đừng. Cứ để cho cháu ngủ càng nhiều càng tốt. Khí lạnh không còn nữa, nhưng nó vẫn còn yếu. Khi nào cháu dậy, ông anh cứ cho nó ăn cháo loãng, đợi ngày mai vào làng bổ vài thang thuốc bổ. Tịnh dưỡng khoảng nửa tháng là không còn lo gì nữa.Tôi phải đi ngay bây giờ để kịp giờ hẹn cùng người bạn.

    Người vợ chủ nhà mới từ phòng con bước ra bỗng lên tiếng,
    -Trời đã tối, đường lên núi hiểm trở, đại hiệp lại không quen lối. Hay để ông nhà tôi lên núi mời bạn đại hiệp xuống đây hội ngộ có nên chăng?

    Khách mỉm cười
    -Cám ơn hai vị. Người bạn tôi tính tình kỳ quái. Ngoài tôi ra không chịu gặp ai đâu.
    Nói xong ông cương quyết đi về chiếc bàn nhỏ, cầm thanh cổ kiếm đeo lên lưng. Hai vợ chồng chủ nhà thấy khách đã quyết, không dám ngăn trở, cùng nhau vái vị ân nhân
    - Đại hiệp nhất định phải đi, chúng tôi không dám cản. Ơn cứu mạng cháu chưa có gì đền đáp. Khi xong việc, mời đại hiệp ghé lại đây lần nữa để cháu có dịp bái tạ.
    - Xin vâng. Khi trở về tôi sẽ ghé lại thăm cháu và hai vị.

    Đoạn khách chậm rãi bước ra khỏi nhà, tiếp tục trên con đường ngoằn ngoèo dẫn lên đỉnh núi. Hai vợ chồng thợ săn cùng nhìn theo ân nhân cho đến khi bóng ông khuất hẳn trong tầm mắt.

    Khách áo trắng lầm lũi tiến lên ngọn Hồng Lĩnh. Giờ hẹn với tay kiếm phương Bắc là canh ba. Có lẽ y đã đến và đang chờ. Đêm nay trăng sáng ngời đỉnh núi. Không khí ban đêm mát dịu và tĩnh lặng. Khách áo trắng bước đều trong một tâm hồn thanh thản. Ông nhớ lại lúc dùng dằng chưa dứt khoát chịu cứu trị cho đứa bé. Chỉ chậm trễ chút nữa, ông có thể ân hận suốt đời. Lương tâm đã bình yên, ông trở lại là một kiếm sĩ. Danh dự không cho phép ông hủy bỏ cuộc tranh tài đêm nay dù biết phen này nắm chắc phần thua. Ông sẽ ra tay quyết đấu. Dù đây chỉ là ấn chứng võ học, không phải hận thù quyết tử, nhưng ông cũng hiểu rằng khi đã đến chỗ quyết định tối hậu làm sao tránh khỏi sơ xẩy, mà đao kiếm thì vô tình… Nếu ông có gục ngã, xuống suối vàng cũng không hổ thẹn gặp lại thầy, vì ông đã sống và chết như một kiếm sĩ chân chính.

    ***

    Chân vẫn nhịp bước chẳng mấy chốc đã lên tới đỉnh. Dưới ánh trăng, một bóng người đứng chờ sẵn. Bắc Kiếm. Áo choàng đen phất phới. Chòm râu quai nón trên gương mặt phong trần, oai vĩ. Người áo đen đứng đó trầm hùng, vững chãi như ngọn Hồng Lĩnh, tựa hồ như không có gió bão nào, không có sức mạnh nào có thể lay chuyển được. Đằng kia, khách áo trắng điềm tĩnh tiến lên. Bước chân ông siêu thoát như mây trôi,như nước chảy, tưởng chừng không gì trên đời có thể cản được bước tiến của ông. Hai tay kiếm chưa đối mặt mà khí thế đấu chiến của họ đã bao trùm không gian.

    Cuối cùng họ đã đối diện nhau, kính cẩn chào. Người áo đen lên tiếng trước
    -Năm năm cách biệt, bạn vẫn như xưa
    -Bạn cũng vậy. Khách áo trắng cười nhẹ.
    -Hai lần trước, chúng ta đều không phân thắng bại. Năm năm trôi qua, sức thành tựu của mỗi người không thể bằng nhau mãi. Đêm nay tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ quyết định được. Nếu còn huề nữa, lời hẹn năm năm xin hủy bỏ, vì ta sẽ vĩnh viễn không thắng được bạn.

    Khách áo trắng mỉm cười một mình. Chính ông cũng có ý định như trên trước khi đến đây. Nhưng bây giờ mọi sự đã thay đổi.
    -Bạn yên tâm. Đêm nay chúng ta nhứt định sẽ phân thắng bại.
    Người áo đen ngạc nhiên

    - Bạn tin tưởng sẽ thắng ta như vậy ư?
    Khách áo trắng cười lớn
    - Không phải. Ta nói sẽ phân thắng bại, nhưng không có nghĩa là ta sẽ thắng và bạn sẽ bại.
    - Hay lắm, vậy chúng ta bắt đầu là vừa.

    - Được. Lần trước tôi ra chiêu trước. Lần này mời bạn.
    Người áo đen cười sảng khoái
    - Được lắm. Ta ra tay đây

    Câu nói vừa dứt, thanh thiết kiếm đã nằm trong tay. Người và kiếm từ từ tiến lại. Khách áo trắng cũng đã hoành thanh cổ kiếm mầu bạc chờ đợi. Khi khoảng cách giữa hai người vừa thu ngắn một nửa, người áo đen dừng lại cất tiếng.
    -Khoan. Ta có điều muốn hỏi.
    -Điều gì?

    -Bạn đã lên núi bằng con đường phía Đông hay con đường phía Tây?
    -Con đường phía…Tây. Sao?
    Người áo đen lắc đầu.
    -Bạn đi bằng đường phía Tây thì ta không có điều gì phải nói nữa. Chú ý. Ta ra chiêu đây.
    -Sẵn sàng.

    Sau một tiếng quát dài, người áo đen và kiếm đã nhập thành một khối, bắn về phía trước. Cùng lúc, vầng sáng bạc trong tay người áo trắng cũng trỗi dậy thành một vòng cầu đón tiếp khối kiếm đen.

    Tiếng binh khí bắt đầu chạm nhau thật dữ dội trong đêm trường. Hai thanh kiếm một trắng một đen xoắn tít lấy nhau. Kiếm khí mịt mù bao phủ cả một góc núi.

    Đây là lần giao chiến thứ ba. Họ đã biết tài nhau từ muời năm trước. Mỗi chiêu kiếm đưa ra là một tuyệt học được khổ luyện công phu. Hai đấu thủ lúc thì quấn lấy nhau như nhập thành một, lúc thì cùng bị tay kiếm người kia đẩy lùi phía sau, có khi di chuyển nhịp nhàng duới đất, có khi lại phi hành qua các tàng cây…hai thanh kiếm luôn chĩa thẳng vào nhau.

    Đang giao đấu kịch liệt, người áo đen Bắc Kiếm bỗng thét to
    -Ngừng tay. Và tháo lui.
    -Chuyện gì? Người áo trắng hỏi
    -Bạn có bệnh gì trong người không?
    -Không. Khách áo trắng cười dài.
    - Hay là bạn đã cùng tay cao thủ nào giao chiến trước khi lên đây?
    - Cũng không nốt. Tại sao bạn hỏi?

    Người áo đen trả lời
    -Chưa đến một trăm hiệp mà ta thấy tay kiếm của bạn không còn vững vàng nữa.
    -Bạn chỉ tưởng tượng. Ta nhớ nãy giờ bạn chưa thắng ta một chiêu nào cả.
    -Đúng vậy. Nhưng tiếp tục thêm một trăm hiệp nữa, có lẽ bạn sẽ thua đó.
    - Chưa chắc đâu. Tiếp tục đi. Bạn đừng nhiều lời nữa.

    Khách áo trắng nói xong vung kiếm tấn công liền tức khắc không để cho người áo đen suy nghĩ gì thêm. Cuộc chiến lại tiếp tục. Hai thanh trường kiếm vun vút dưới ánh trăng như hai con mãng xà quyện vào nhau kêu thét giữa không trung.

    Bỗng cả hai cùng thét lớn và dừng tay lại. Kiếm khí tắt hẳn. Hai đối thủ đứng đối diện nhau bất động. Thanh kiếm đen chỉa thẳng vào cổ khách áo trắng, và thanh kiếm bạc cũng chỉa vào người áo đen, cùng vị trí.
    Người áo đen nói trước
    - Đây là chiêu thứ mấy?
    -Chiêu thứ 199
    - Đúng vậy. Năm năm trước đây, ta với bạn cũng dừng lại ở đây. Ta nhớ là đã quá 200 hiệp.
    - 208 hiệp. Khách áo trắng tiếp lời- Ta và bạn cùng cách một ly , nên lấy đó làm hòa.
    -Bây giờ thì sao? Người áo đen hỏi

    Hai thanh kiếm vẫn bất động nguyên vị trí khi nó dừng lại. Nhìn kỹ thì thanh kiếm màu đen cách người áo trắng nửa ly. Thanh kiếm bạc cách xa người áo đen…một ly rưỡi.
    Khách áo trắng chậm rãi thu kiếm về
    - Ta thua rồi. Từ nay bạn là Đệ nhất kiếm.
    Người áo đen cũng thu kiếm lại bật tràng cười dài
    -Đệ nhất kiếm…ha ha ha. Ta là đệ nhất kiếm rồi sao?

    Sau tràng cười sảng khoái, người áo đen bỗng ngưng bặt, mắt loang loáng nhìn khách áo trắng-
    -Kỳ lạ. Thật là kỳ lạ. Năm năm trôi qua , kiếm của bạn không tiến lên mà hình như sút giảm? Tại sao? Bạn có gì dấu ta chăng?
    -Không có gì cả. Ta vẫn vậy. Chỉ vì bạn tiến bộ vượt bực mà thôi.

    Người áo đen lắc đầu
    - Bạn đừng dấu ta nữa. Tài nghệ của bạn ta đã rõ. Bạn yếu đi so với năm năm trước nên ta mới có thể thắng một cách dễ dàng như vậy.
    Người áo đen nói xong lộ vẻ đăm chiêu suy nghĩ trong thoáng chốc, bỗng mắt ngời sáng
    - À ! Ta biết rồi! Ta biết rồi…
    - Bạn biết gì?
    -Thực ra bạn không lên đây bằng con đường phía Tây. Bạn đã lên bằng con đường phía Đông.

    - Có gì khác biệt đâu.
    Người áo đen nói
    - Khác chứ. Trên con đường phía Đông có gian nhà tranh của gã thợ săn. Lúc ta đi ngang qua đó sáng nay đã biết đứa nhỏ con của họ trúng phải hàn phong cực âm, bệnh tình trầm trọng. Ta đã định ra tay cứu chữa…

    Ông dừng lại, thanh âm trầm xuống-…Nhưng nếu chữa cho nó, công lực sẽ bị hao tổn. Ta nghĩ đến cuộc chiến đấu cùng bạn tối nay nên dùng dằng không định. Cuộc đấu này quyết định danh dự đệ nhất kiếm. Ôi cái danh hiệu này đối với ta quan trọng quá, nên cuối cùng ta quyết định bảo tồn chân lực để chiến đấu trước. Ta định sau trận đấu ta sẽ trở lại cứu trị cho nó sau, mặc dù ta biết mạng nó mong manh chưa chắc đã qua khỏi khi ta trở lại.

    Bạn cũng lên đây bằng con đường đó, đã gặp đứa bé và đã chữa trị cho nó. Ta biết chắc như vậy vì tay kiếm của bạn không nhanh như xưa nữa. Người luyện võ chúng ta nếu không tiến thì cũng không thể lùi. Thần sắc của bạn an nhiên như vậy chắc không bệnh tật gì. Vừng này hoang vu nghèo nàn, không có đại đạo cao thủ nào cho bạn phải tổn sức. Vậy thì chuyện gì khiến bạn phải hao tổn công lực cho tay kiếm phải chậm đi? Chỉ có thằng bé bị âm hàn cần cứu chữa mà thôi. Bạn đã chữa trị cho nó dù bạn biết rằng như vậy là sẽ thất bại dưới tay ta.

    Ta cũng là kiếm sĩ. Ta cũng hiểu rằng kiếm pháp hay thanh danh chỉ là ngoại thân. Cái “TÂM KIẾM” kia mới là cốt tủy của một chân kiếm sĩ. Bạn lấy CỨU làm trọng, lấy THẮNG làm khinh, là kiếm thuật chân chính. Ta lấy CỨU làm khinh lấy THẮNG làm trọng, chẳng mấy chốc sẽ đi vào con đường tà kiếm. Hỡi ơi, trận chiến này thật ra không cần phải đấu. Bạn đã thắng ta tại căn nhà đó rồi. Cái vinh dự Thiên hạ đệ nhất kiếm này ngoài bạn ra không còn ai xứng đáng hơn. Ta thành thật bái phục…và giã biệt.

    Khách áo trắng im lặng. Ông không thể nói gì hơn, ngay cả vài lời khiêm tốn cũng là thừa thãi khi mà người đối diện đang cởi mở tấm lòng. Ông hỏi:
    -Sao không chờ đến sáng mà bạn phải vội vã đi.?
    Người áo đen tiến về con đường mé Đông chậm rãi xuống núi,

    -Ta xuống nhà ông thợ săn giúp cho thăng bé chóng phục hồi. Âu cũng là duyên. Bạn đã cứu nó, bây giờ tới phiên ta phải đền bồi. Đợi nó lành bệnh ta sẽ xin cha mẹ nó thu làm đồ đệ. Mười năm sau nó sẽ thay ta hành hiệp giang hồ. Nó sẽ dùng kiếm của ta, và cái tâm của bạn. Nó sẽ là một kiếm sĩ chân chính…Hahaha!

    Người áo đen bỗng trở nên sảng khoái trở lại. Ông đã tìm lại được chân lý, và hài lòng với giải pháp của mình.

    Tiếng cười nhỏ dần về phía dưới để lại khách áo trắng một mình trên ngọn Hồng Lĩnh. Vầng Thái dương lấp ló từ đằng xa báo hiệu một ngày mới. Vài cơn gió nhẹ ban mai thổi tung chiếc áo choàng trắng phất phơ. Ông nói nhỏ một mình “Ông bạn. Với tôi thì bạn cũng là một kiếm sĩ chân chính. Đệ nhất kiếm sĩ”

    ThaiNC

  10. Thành viên dưới đây cảm ơn Hansy vì bài viết hữu ích này


  11. #6
    Banned
    Hiện Đang :    Hansy đang ẩn
    Tham gia ngày : Jan 2012

    Bài gửi : 0
    Thanks
    5.759
    Thanked 6.595 Times in 1.818 Posts
    32
    Địa chỉ thần tình yêu

    Hàng Ưng


    Dưới mắt đáy của hộp trang điểm có địa chỉ của anh ấy.

    Bây giờ, anh ấy lại là người đàn ông sống độc thân. Khách sạn mà anh ấy được gọi là Làng thần ái tình. Cứ nghĩ đến cái tên gọi ấy, chị lại thấy náo nức trong lòng, tai chị cứ nóng bừng lên, con tim trong lồng ngực cứ nảy lên như đang nhảy một vũ điệu bốc lửa.
    Hôm qua, anh ấy và chị tình cờ gặp nhau trên đường. Hai người cùng nhau vào một tiệm cà phê. Họ ngồi với nhau rất lâu...

    Hai mươi năm trước, họ đã đến với nhau và dành cho nhau mối tình đầu trinh trắng, nồng nàn. Tình yêu ban đầu ấy đã để lại trong trái tim mỗi người những kỷ niệm mà cả đời không dễ quên. Họ nói với nhau những chuyện vui buồn trong thời gian xa cách. Hai trái tim bồi hồi thổn thức. Cốc cà phê được khuấy lên, những giọt cà phê đọng lại trên đầu lưỡi vừa ngọt vừa đắng...

    Đêm ấy, chị không sao ngủ được. Chị nằm im không dám làm kinh động tới giấc ngủ của chồng. Hán Thông, chồng chị, đang ngủ rất ngon giấc. Xung quanh yên tĩnh không hề có một tiếng động dù là rất nhỏ. Chị không dám trở mình. Dưới ánh trăng nhấp nhoáng, mắt chị không sao khép lại được.

    Dưới mặt đáy của hộp trang điểm có địa chỉ của anh ấy.

    Hôm nay, chị trang điểm rất cẩn thận. Nhìn trong gương, chị thấy mình vẫn rất xinh đẹp và quyến rũ đến mê người. Đúng, trang điểm là điều tối trọng yếu đối với người phụ nữ tuổi trung niên. Đã lâu chị biếng trang điểm vì thực ra khi đã có chồng thì người đầu tiên thưởng thức vẻ đẹp của người phụ nữ là người chồng nhưng chồng chị chỉ suốt ngày đi làm ở cơ quan, khi về nhà, còn bao nhiêu thời gian, anh lại chúi mũi vào đọc sách không hề để ý gì đến điều đó. Cuộc sống cứ nhạt nhẽo trôi đi một cách vô vị...
    Dưới đáy hộp trang điểm có địa chỉ anh ấy.

    Số phòng anh ấy ở trong khách sạn, chị đã nhớ như tạc vào óc. Chị hiểu rất rõ khi mình đến đó với anh ấy thì chuyện gì sẽ xảy ra. Chị dự cảm được rằng khi chị đến với anh ấy thì nhất định anh ấy sẽ không thể kìm nén được tình cảm đã nung nấu trong lòng anh suốt hai mươi năm qua và chắc rằng chị cũng sẽ không phòng giữ được. Nhưng tiếng gọi của những kỷ niệm của mối tình đầu cứ thiết tha trong lòng và thúc giục chị đến với anh. Chị biết rằng đối với tình yêu cần phải nghiêm túc không được vượt quá giới hạn nhất là bây giờ mình đã có chồng. Vì vậy, trong chị bỗng nảy sinh một ý nghĩ: “Mình không thể cùng một lúc sống với hai người đàn ông. Mình không thể lừa dối hai người đàn ông mà chị đều yêu quý và chị cũng không thể lừa dối chính bản thân mình. Nhất thiết chỉ được phép chọn một trong hai người”. Nghĩ đến đây, chị bỗng giật mình tự hỏi: “Sao mình lại có thể có ý nghĩ như vậy được?...”.

    Chị lại nói với chính mình: “Mình không nên đi! Hán Thông là một người chồng tốt. Mình rất yêu anh ấy. Anh ấy còn có đều gì không như ý mình nhỉ?”. Nhưng cũng không hiểu tại sao chị vẫn với lấy cái lược và đứng trước gương chải đầu, trang điểm, rồi chị mặc bộ váy áo rất đẹp. Chị thay cả bộ quần áo lót. Lúc này trông chị rực rỡ như một cô dâu mới...

    Chị đứng đối diện với cái gương, xoay người sang bên phải, xoay người sang bên trái tự ngắm mình. Chị vuốt má, cổ và xoa xoa bộ ngực của mình. Chị thấy mình còn xuân và đẹp lắm. Giá như chị đeo thêm một sợi dây chuyền thì cổ và ngực chị lại càng được tôn thêm vẻ ưu nhã. Chị đang ước ao như thế thì bỗng nghe tiếng bước chân đến gần chị. Hán Thông cười và nói:
    - Em thật đẹp! Em đeo thêm sợi dây chuyền này vào cổ thì vẻ đẹp lại càng được tôn lên thêm nhiều lần!

    Chị giật mình nghĩ: “Hán Thông từ trước đến nay rất ít khi về nhà buổi trưa cơ mà. Sao hôm nay anh ấy lại về?...”.
    Hán Thông nói xong, anh lấy từ trong hộp ra một sợi dây chuyền hạt trân châu rất đắt tiền đeo vào cổ cho vợ. Chị ngạc nhiên hỏi:
    - Sao anh lại biết em thích sợi dây chuyền này?

    Hán Thông nói:
    - Có hai lần, sau khi tan tầm, trên đường về, anh thấy em đứng trước quầy hàng có bán sợi dây chuyền này. Anh thấy em có vẻ thích nó nên anh mua tặng em.
    Hán Thông nói tiếp:
    - Có việc gì mà em có thể giấu được anh?

    Nghe Hán Thông nói, chị suy nghĩ rất nhiều về ẩn ý của câu nói đó. Chị liếc mắt nhìn trộm chồng và đọc được trong ánh mắt của chồng như ẩn chứa điều gì nhưng ánh mắt ấy lại tỏ ra bình thản như nước. Anh cúi xuống nhìn vào đế gương nơi để cái hộp trang điểm. Chị giật mình nghĩ: “Trời ơi, dưới mặt đáy của hộp trang điểm có địa chỉ của anh ấy”.
    Nhưng cảm ơn trời đất, anh ấy không hỏi một điều gì. Anh lại đi vào trong phòng đọc sách.

    Chị hít một hơi thật sâu cố trấn tĩnh lại nhưng cũng vẫn không có dũng khí để đối mặt với chồng. Chị chỉ nói:
    - Em đi đây!
    Hán Thông từ trong phòng đọc sách trả lời:
    - Chúc em và các bạn học cũ có một cuộc gặp mặt vui vẻ!

    Bạn học cũ hẹn gặp mặt nhau là cái lý do chị bịa ra để nói dối anh. Chị cầm lấy cái túi rồi vội vàng, luống cuống đi ra khỏi cửa như một tên trộm gặp may thoát nạn.
    - Này em...
    Nghe tiếng chồng gọi, chị lo sợ, hai chân như muốn khuỵu xuống. Chị quay lại nhìn chồng nở nụ cười gượng gạo như kẻ phạm tội.
    Hán Thông nói:
    - Em để quên cái hộp trang điểm này!
    Hán Thông cầm ra đưa cho vợ và giục:
    - Em đi nhanh đi kẻo muộn!...

    Trong lòng chị càng thêm luống cuống, chị sợ anh nhìn thấy thần thái của chị mà phát hiện ra vấn đề. Anh ấy là người thông minh và nhạy cảm. Nhưng Hán Thông không nói gì. Anh cầm cái hộp đưa tận tay cho chị. Chị không dám nhìn anh. Chị cố trấn an để anh không phát hiện ra điều gì trên gương mặt chị. Bởi vì dưới đáy hộp trang điểm có địa chỉ của anh ấy.

    Thực ra, chị không cần mang theo địa chỉ bởi lẽ chị đã thuộc nó như thuộc lòng bàn tay của mình. Chị lúng túng nói:
    - Em cảm ơn!...

    Đi được mấy bước, chị quay lại nhìn thăm dò thái độ của chồng. Hán Thông vẫn đứng trong nhà nhìn theo. Điều đó như là một sợi dây vô hình níu kéo chị lại. Anh đứng nhìn chị mỉm cười. Ánh mắt và nụ cười rất hồn hậu, ấm áp.

    Chị đi theo con đường nhỏ quanh co ra đường cái lớn. Bất giác, quay đầu lại, chị thấy anh đang bước những bước rất chậm rãi đi theo chị, trên mặt toát ra vẻ buồn thương cứ như là anh đi tiễn chị một đi không trở lại. Trong chị day dứt một suy nghĩ: “Nếu chồng chị đã phát giác ra chuyện của chị thì làm sao buổi trưa anh ấy lại mua dây chuyền đem về cho chị? Rồi khi biết chị để quên địa chỉ thì anh ấy lại chạy theo đưa cho chị nhỉ? Giả như anh ấy hoàn toàn chưa biết gì thì tại sao khi tiễn chị, anh ấy lại lặng lẽ, đau buồn như rơi vào cảnh sinh ly tử biệt?...”.

    Chị ngồi vào trong xe taxi và bảo lái xe cho xe chạy. Nhưng lái xe không hiểu sao xe đến nơi rồi mà khách lại bảo cho xe quay trở lại nơi xuất phát. Rồi xe lại quay đầu chạy đến nơi cần đến nhưng chị không xuống xe. Ngồi trên xe, chị nắm chặt sợi dây chuyền hạt trân châu trong tay và thấy nó nóng như hòn than. Sợi dây chuyền như mũi kim đâm, làm đau đớn trái tim chị. Chị ngồi trong xe. Xe chạy đi, chạy lại không biết bao nhiêu lần. Cuối cùng, chị xuống xe ở nơi chị xuất phát.

    Chị vào đến cửa, móc túi lấy chìa khóa mở cửa. Nhưng kìa cửa nhà đã mở. Chị bước vào nhà, lòng chị ấm áp trở lại. Chị thấy mình giống như con chim nhỏ bay được về tổ ấm. Chị cảm thấy lòng mình rất yếu đuối. Tất cả đều im lặng. Chồng chị biết tất cả nhưng anh để cho chị tự do lựa chọn. Chị nhớ có một lần anh ấy cùng chị đi xem một bộ phim kinh điển về tình yêu của nước ngoài. Trên đường về nhà, Hán Thông nói: “Tình yêu là thứ tình cảm mà không thể cưỡng ép được...”.

    “Gia đình, lẽ nào không thể là địa chỉ của thần tình yêu sao?”. Chị ngửa mặt lên, nhắm mắt lại và tự hỏi mình như thế.
    Bỗng nhiên, chị cảm thấy có những giọt nước nóng hổi từng giọt, từng giọt rơi xuống trán mình.

    Lúc ấy, trời không mưa.

    Hàng Ưng

  12. Thành viên dưới đây cảm ơn Hansy vì bài viết hữu ích này


  13. #7
    Banned
    Hiện Đang :    Hansy đang ẩn
    Tham gia ngày : Jan 2012

    Bài gửi : 0
    Thanks
    5.759
    Thanked 6.595 Times in 1.818 Posts
    33
    ĐIÊN

    Khái Hưng

    Tôi đổi về Thái Bình đã hơn hai năm, mà chưa có dịp nào trở lại thăm nơi làm việc cũ.
    Lễ Phục sinh mới rồi, nhân được nghỉ bắc cầu thêm một ngày, tôi lên chơi Hà Nội, tình cờ gặp anh Thanh, người bạn trước cùng làm buồng giấy với tôi ở Vĩnh Yên. Anh em mừng ôn lại chuyện cũ, những cuộc chơi xưa.

    Hỏi thăm những người quen biết, khi tôi nhắc đến tên anh Mã, anh tham Mã, thì bạn thở dài bảo tôi:
    - Tội nghiệp! Nó điên đã sáu tháng nay.
    Tôi kinh ngạc:
    - Điên? Anh Mã điên?

    Bạn tôi vẫn điềm tĩnh, nói tiếp:
    - Từ ngày người bạn thân của anh ấy chết đi và anh ấy định tự tử chết theo không được là bệnh điên phát ra liền. Hình như vì trông thấy máu chảy, nên anh ấy bị một định kiến ám ảnh: anh ấy mơ màng thấy mình đã giết bạn, gặp ai cũng kể việc ám sát tưởng tượng một cách rất có thứ tự, nghe như thực vậy. May mà người ta biết anh ấy điên, nếu không có lẽ anh ấy ngồi tù.

    Tôi sửng sốt hỏi:
    - Lạ nhỉ? Nhưng người chết là ai thế?
    - Anh Hùng. Anh Hùng chủ đồn điền mà chúng mình đã cùng anh Mã về chơi mấy lần, anh có nhớ không?

    - Tôi nhớ lắm, tôi nhớ cái tính tình hào phóng của anh Hùng; nhớ cả người vợ rất đẹp của anh, một thiếu phụ trẻ tuổi, có học vấn, có nền giáo dục thức thời.
    Nghe bạn nhắc đến tên Hùng; thốt nhiên tôi thấy hiện ngay ra hình ảnh tươi cười và dáng điệu nhanh nhẹn của người đàn bà ấy. Tôi hỏi:
    - Anh Hùng, người khỏe mạnh, sung sướng như thế mà chết. Chết về bệnh gì?

    - Tự tử.
    - Tự tử! Vô lý!
    - Chẳng một mình anh cho là vô lý, mà ông thầy thuốc khám tử thi cũng nói như vậy. Cho đến cả các báo cũng nhao lên về cái chết khả nghi ấy. Nhưng may mà anh ấy tự tử thật, chứng cớ hiển nhiên còn đó...

    Rồi anh Thanh lại đem kể cho tôi nghe đầu đuôi câu chuyện:
    - Cách đây sáu tháng, một hôm vào buổi giữa trưa, bỗng nghe có tiếng súng nổ ở nhà Hùng. Người ta chạy đến coi thấy anh Hùng nằm trên giường ngủ, áo lót mình và khăn giải nệm hơi vấy máu, bên cạnh có một cây súng bắn chim. Bên giường, vợ Hùng gục đầu xuống khóc. Ngồi ở một cái ghế gần đấy, Mã, người bạn rất thân của Hùng, hai bàn tay ôm đầu có vẻ buồn rầu đau đớn.

    Tài xế của Hùng lên ngay tỉnh lỵ báo tin và gọi điện thoại cho thân phụ người chết.
    Hai giờ sau ông thầy thuốc cùng ông án sát ở tỉnh về khám xét tử thi. Thì lạ quá, cứ theo đường đi của viên đạn, người chết bị giết chớ không phải tự tử; không phải tự tay người chết bóp cò được, phát súng phải ở tay người khác bắn và đứng cách xa một quãng ít ra là vài thước. Ông án tạm xướng lên cái thuyết: người chết để súng nằm trên bụng và dùng ngón chân cái ấn cò, rồi tiếng nổ giựt mạnh quá văng súng ra một bên.
    Hỏi người vợ xem có lấy cây súng ở trên thây người chết ra không, thì nàng nói nghe tiếng nổ, mới hoảng hốt ở buồng bên chạy sang, và vẫn thấy các vật y nguyên như thế.
    Còn Mã, người bạn chí thân của Hùng, chàng chỉ ngồi khóc và ấp úng trả lời viên thẩm phán rằng chẳng biết vì lẽ gì Hùng lại tự tử.

    Hình như chàng buồn quá nên quẫn cả trí nghĩ. Đến lượt người tài xế và người bếp, họ đều khai như nhau rằng khi tới buồng chủ, thấy chủ ngắc ngoải sắp chết, đương thì thầm dặn dò bà Hùng và ông Mã những gì mà họ không nghe rõ.

    Người vợ có nhận là đúng, và khai thêm rằng người sắp chết xin lỗi họ, và một mảnh giấy người chết cầm trong tay trái cũng chứng thực điều đó. Mảnh giấy có mấy hàng ngòng ngoèo sau đây:

    "Tôi xin cha tôi, vợ tôi và bạn tôi thân nhất trên đời của tôi tha lỗi cho tôi. Vì mắc bệnh đau tim, tôi đã hèn nhát trốn nợ đời"
    Hùng


    Chữ viết chính là chữ Hùng, tuy lệch lạc, dòng lên dòng xuống như chữ người ốm nặng. Nhưng có thể cho rằng người ta lúc sắp tự tử, cảm động quá không có can đảm để trấn tĩnh mà viết được như thường. Chữ tên ký thì thực là nét chữ Hùng. Các nhà giám định đã thẩm tra kỹ lưỡng và đều công nhận như thế.

    Chiều hôm ấy, thân phụ người chết ở Hà Nội đi ô tô lên. Bấy giờ ông án và ông thầy thuốc sắp sửa mổ tử thi khám nghiệm, nhưng ông cụ không muốn người ta phạm đến xác thịt con mình, cố nài xin thôi để khâm liệm, mai táng. Ông nói cứ tin ở bức thư tuyệt mệnh của người chết cũng đủ.

    Thế rồi sáng hôm sau cất đám. Trong bọn đi đưa, người ta lưu ý nhất đến Mã. Chàng khóc lóc thảm thiết. Không ai ngờ tình bằng hữu lại thân mật được đến như thế.
    Khi chôn xong, Mã thì thầm khấn khứa rất lâu rồi vì thương quá, ngất đi ở trên mộ. Người nhà Hùng phải khiêng về ấp. Thế là Mã lên cơn sốt, bất tỉnh nhân sự. Ba hôm sau bệnh Mã lui thì bỗng người ta lại nghe có tiếng súng nổ. Tiếng súng thứ hai này cách tiếng súng trước đúng bốn ngày. Có lẽ Mã lên cơn sốt làm mê mẩn, nên đã vớ lấy súng bắn chim tự chĩa vào ngực bóp cò. May mà tay người ốm còn yếu, cầm súng không được vững, nên viên đạn đi lệch, chỉ sượt trái tim.
    Từ đó, Mã mắc bệnh điên.
    +
    + +
    Tôi nghe câu chuyện, đăm đăm ngẫm nghĩ, trong lòng nẩy mối ngờ vực vẩn vơ. Tôi hỏi:
    - Thế bây giờ anh Mã ở đâu?
    - Tôi vừa đến thăm. Anh ấy xin phép sáu tháng ăn nửa lương về nghỉ tại Hà Nội. Nhà ở phố B... Số tám.

    Tính tò mò của tôi đã lên tới cực điểm. Tôi giơ tay bắt tay Thanh rồi vội vã lại phố B... thăm bạn cũ.

    Tôi tuy làm cùng sở với Mã trong mấy năm, chúng tôi lại hợp tính nhau lắm, nhưng tôi vẫn không biết gia thế anh ấy ra sao, mãi khi đến nhà, tôi mới rõ anh ấy là con nhà giầu có và hình như được cha mẹ chiều chuộng lắm thì phải.

    Lúc bấy giờ, ông thân Mã đi chơi vắng. Tôi chỉ gặp có một mình bà mẹ. Bà cụ ôn tồn mời tôi ngồi chơi rồi buồn rầu bảo tôi:
    - Đã năm, sáu hôm nay, em nó không hé răng nói một lời, suốt ngày chỉ ngồi nhìn qua cửa sổ như mơ mộng điều gì. Rõ khổ quá! Nhà tôi xưa nay có ai mắc bệnh điên như thế bao giờ đâu?

    Sau khi thuật lại một cách rất tường tận bệnh trạng của con trong mấy tháng, bà cụ lại tiếp:
    - Người ta mách tôi rằng ông lục sự Thanh Oai có bài thuốc chuyên môn chữa bệnh điên. Tôi đã mời đến chữa cho em; ông ta bảo điên mà hay nói thì rất nhẹ, chỉ sợ ngồi lì cả ngày không nói câu nào mà thôi. Vì thế, ít bữa nay tôi thấy em nó bỗng như câm bặt, không chuyện trò lảm nhảm nữa mà tôi lo.

    Tôi xin phép đến buồng bệnh nhân. Bà cụ bảo người nhà đưa tôi lên một gian phòng ở trên gác.
    Mã đang ngồi xem quyển tiểu thuyết chữ Pháp, thấy tôi bước vào ngước mắt đăm nhìn.
    Tôi đứng dừng lại, không vội tiến. Mã hất hàm như để hỏi tôi việc gì. Tôi ngả đầu chào và xưng tên. Anh liền mỉm cười, đứng dậy ra bắt tay tôi, rồi kéo tôi ngồi xuống ghế mà bảo tôi rằng:
    - Được tiếp một người bạn ở Vĩnh Yên về chơi, tôi lấy làm sung sướng quá.

    Tôi đương ngờ vực câu ấy có vẻ điên vì thấy Mã quên rằng tôi đã đổi về Thái Bình từ lâu rồi, thì anh lại tiếp luôn:
    - ở đây, thấy mọi người họ đều cho tôi là điên, tôi nói gì họ cũng không tin, nên tức mình tôi giả câm, đã năm sáu hôm nay. Rồi anh sẽ rõ tôi điên hay lành.
    Dứt lời, Mã dõng dạc cất tiếng gọi người nhà bảo pha nước, dáng điệu khoan thai, giọng nói của một người không mất trí khôn.

    Tôi đưa mắt ngắm quanh cái buồng có cửa sổ rào chấn song sắt và so sánh với một phòng nhốt người điên ở nhà thương Phủ Doãn. Khi ta đã có định kiến ấy, nó gợi ra trong trí ta biết bao ý tưởng giống loại với nó. Đến nỗi quyển tiểu thuyết bạn tôi đương cầm ở tay, tôi cũng cho là phải điên rồ mới thích đọc được.

    Tôi còn mải mơ màng với những ý nghĩ viển vông thì một câu hỏi của Mã làm tôi giật mình như người tỉnh ngủ:
    - Anh còn nhớ anh Hùng không?
    Tôi vờ:
    - Anh Hùng nào?

    - Anh Hùng chết năm, sáu tháng trước ấy mà!... Anh không xem nhật trình hay sao mà không biết chuyện anh Hùng tự tử ở một cái đồn điền thuộc tỉnh Vĩnh Yên? Thực ra anh ấy không tự tử đâu. Chính anh ấy bị ám sát mà kẻ ám sát chính là tôi.
    - Không, đâu phải.
    - Cả anh nữa, anh cũng không tin tôi nốt! Nhưng được, dù anh tin hay không tin tôi cũng xin anh hãy lắng tai nghe những lời tôi kể sau đây.

    Rồi hình như vì thuật đi thuật lại nhiều lần, nên đã thuộc lòng câu chuyện, Mã nói trơn tru, lời văn gọn gàng và bóng bẩy (có lẽ đó là triệu chứng của bệnh điên chăng?):
    "- Tôi là một người trọng danh dự như thế nào, anh và các anh em bạn tôi đã biết, nhất khi danh dự lại có dính líu đến một người đàn bà. Mà các anh cũng chẳng lạ rằng đối với bằng hữu tôi là một người rất tốt, rất trung thành, tận tâm tận lực. Anh đừng vội cười mà cho là tôi khoe khoang, muốn phô những nết tốt của mình ra. Không cần gì tôi phải khoe khoang, và tôi cũng không còn được phép khoe khoang nữa kia mà, vì tôi là một kẻ sát nhân.

    "Vâng, tôi không khoe khoang. Tôi phô những đức tính kia ra nếu đó có thể gọi được là đức tính (Mã điểm một nụ cười chua chát) là chỉ cốt để tỏ cho anh hay rằng một người như thế mà khi mê muội, khi bị ái tình nhục thể huyền hoặc, mờ ám, cũng trở nên được một tên giết người tầm thường, đê tiện, hèn mạt.

    "Trời ơi! Có thể như thế được không? Có thể yêu vợ bạn rồi giết chết bạn được không? Đó là ái tình ư? Không, đó là một tính cách cầm thú của bản năng con vật ẩn núp, lẩn quất trong linh hồn con người... Khốn nạn! Đồ khốn nạn! Sao không nhốt nó vào nhà pha! Mau! Tống cổ nó vào ngục thất mau!".

    Mã lớn tiếng thét rồi hình như mất hết nghị lực, đưa hai bàn tay lên bưng mặt khóc rưng rức, lẩm bẩm nói những gì, tôi không rõ. Tôi đứng dậy, khép cái cửa ra cầu thang gác, sợ ở nhà ngoài, bà mẹ nghe tiếng kêu gào mà lên, thì tôi sẽ không được nghe chuyện.
    Tiếng giầy đi trên ván khiến Mã ngửng mặt lên, có lẽ tưởng tôi bỏ ra đi. Anh vội vàng chạy theo níu tôi ngồi xuống ghế, và mỉm cười - cái cười đầy nước mắt - bảo tôi:
    - Anh phải nghe hết câu chuyện đã.
    - Nhưng anh đừng hét nữa kia. Anh hét thế tôi sợ lắm, không dám ngồi gần anh đâu.

    Mã lại mỉm cười:
    - Oan khổ, anh coi tôi như một thằng bé con lên ba, lên bốn. Hoặc giả anh cho tôi là thằng điên thực. Nếu tôi điên sao không nhốt tôi vào nhà điên, lại để tôi tự do sống như một thằng lừa dối, một thằng phản bạn, một thằng giết người sống cái đời tự do, yên lặng của nó? Anh ạ, có lần tôi đã có làm cho điên thực, để họ nhốt vào nhà điên vì họ không muốn bỏ tù tôi, họ không muốn làm tội. Không những họ không tố giác tôi, họ lại còn không để tôi tự tố cáo tôi nữa. Đã mấy lần tôi định đến sở cẩm, đến tòa án, tự đưa tay vào xích, tự lăn mình vào lưới pháp luật, nhưng lần nào cũng bị người ta tóm được. Rồi người ta nhốt tôi vào cái buồng kín mít này nó cũng chẳng kém gì cái nhà tù. Họ còn dọa hễ tôi phá phách quá lắm để tìm lối trốn thoát, thì họ sẽ bỏ tôi vào cái cũi sắt nữa kia. ấy vì thế ít khi thả lỏng tôi thế này và cho tôi được phép tiếp bạn bè trong chốc lát. Rồi anh coi, họ sắp lên đuổi anh ra ngay bây giờ.

    Tôi lo lắng nhìn cái cửa ra thang gác, nóng ruột muốn biết câu chuyện giết người của Mã, câu chuyện có lẽ chỉ những người ngu ngốc, đần độn, hay điên cuồng mới không tin là có thực.

    "- Anh đã làm việc ở Vĩnh Yên, chắc anh cũng có biết anh Hùng. Một người hào hiệp, thẳng thắn như anh Hùng, ai mà không quen, ai mà không muốn gần gũi chơi bời.
    "Tôi thì khác. Tôi thương mến anh Hùng ngay từ khi còn cùng nhau theo học lớp ba trường Hàng Vôi. Tình bằng hữu một ngày một thêm khăng khít. Rồi hai người cùng thi đậu bằng thành chung. Anh Hùng kế nghiệp cha, ra làm đồn điền, còn tôi theo đuổi việc học tại trường Pháp Chính. Chúng tôi mến nhau chẳng khác anh em ruột thịt. Hơn nữa, chúng tôi yêu nhau như một cặp tình nhân vậy.

    "Nhưng khổ cho chúng tôi, không may cho tình bằng hữu thiêng liêng (anh ngừng lại một giây và gạch hai chữ thiêng liêng bằng một cái nhếch mép độc địa, cái nhếch mép nửa giống như cười, nửa giống như mếu), không may cho tình bằng hữu thiêng liêng của chúng tôi, anh Hùng lấy vợ. Không may nữa, vợ anh là người... bậy bạ... lẳng lơ...
    "- Trời ơi! Con thiếu phụ! Con ác phụ! Sao tôi không giết nó? Sao tôi lại giết bạn tôi?".

    Tôi nhìn ra cửa ngắt lời:
    - Nếu anh còn gào thét thì tôi xin về.

    Mã dịu lời:
    - "Nhiều lần đến thăm anh Hùng, tôi đã nhận thấy cặp mắt đa tình, cặp môi đa dục của nó. Tôi đoán chừng đối với anh Hùng, anh em đến chơi đông, một phần vì anh có lòng mến khách thực, nhưng một phần cũng vì con mụ đàn bà kia. Cái dung nhan rực rỡ, cái cười tình đằm thắm của nó, cái thân thể nở nang, uốn éo của nó đã quyến rũ người ta, đã thôi miên người ta, đã mê hoặc người ta.

    "Anh Hùng vẫn chẳng biết gì hết. Anh yêu thương vợ anh. Anh mê mẩn vợ anh đến nỗi chẳng nhìn thấy gì hết.
    "Nhưng tôi nhìn thấy. Tôi chỉ là bạn chồng nó chứ không phải là chồng nó. Tôi không nỡ để một người tốt như bạn tôi bị lừa dối. Tìm cách mở mắt cho người mù vì ái tình vẫn là một việc khó, khó hơn lấy lại ánh sáng cho một người mù thực, nhưng khó, tôi cũng không từ, không lui.

    "Năm ngoái, nhân một dịp nghỉ lễ, tôi về chơi đồn điền anh Hùng. Cố nhiên tôi gặp một lũ bạn giả dối, và trong số đó có thằng tình nhân khốn nạn của con đàn bà khốn nạn.
    "Trời ơi! Sao tôi không bắn chết hai đứa thất phu, thất phụ ngay hôm chúng nó tư tình với nhau ở sau một đống rạ sau đồng? Sao tôi lại để cho chúng nó thoát? Trời ơi! Nhưng tôi cũng chỉ là một thằng khốn nạn".

    Lần thứ hai, tôi ngắt lời bạn:
    - Kìa! Anh lại thét. Thôi tôi không nghe nữa.
    - "Xin lỗi anh, nhưng tôi khốn nạn lắm kia, Con dâm phụ thấy tôi biết chuyện bậy bạ của nó, thấy tôi rình mò, do thám nó, thì nó nghĩ ngay ra một quỷ kế, một kế mỹ nhân.
    "Nó than, nó khóc, nó kể lể, nó phàn nàn nhiều điều về anh Hùng, nào anh ác nghiệt, cay độc, tình phụ nó, ruồng rẫy nó, hàng tháng, hàng năm không yêu thương nó, mà nó thì nó rất thèm khát sự yêu thương...

    "Rồi không biết nó nói thực hay nói dối - còn ai hiểu được bụng nó - nó bảo ở trên này nó chỉ yêu có một người, nhưng nó không dám, nó không thể nói cho người ấy biết được. Nó đành chôn sâu trong trái tim, trong linh hồn khối tình tuyệt vọng.
    "Thế là bắt đầu sự đê hèn của tôi! Vì tôi đã hơi tin nó. Trời ơi! Anh Hùng ơi! Sao tôi còn vác được cái mặt dầy mà sống ở đời?"

    Mã bưng mặt khóc, khóc nức nở...
    Tôi chờ Mã, không thấy anh kể nốt, liền nhắc:
    - Câu chuyện chỉ có thế?
    Anh Mã vội vàng ngửng đầu lên, lau nước mắt trả lời:
    - Nếu chỉ có thế thì còn nói gì? Nhưng nào chỉ có thế.

    "Ngày tôi bắt đầu thương hại vợ bạn là ngày tôi sa chân xuống địa ngục. Vì từ thương hại cho tới thương yêu chỉ có một bước...
    "Mà bước ấy, tôi đã... qua. Anh Hùng ơi! Sao tôi khổ sở thế này?...
    "Trời ơi! Cái sắc đẹp! Cái sắc đẹp giết người!"

    Tôi chau mày bảo Mã:
    - Nếu anh không tĩnh tâm mà kể thì tôi hiểu sao được?
    "- Phải. Tôi mê man trong ái tình, trong dục tình.
    "Chiều thứ bẩy nào tôi cũng phải mò về đồn điền bạn để tình tự với vợ bạn. Chúng tôi yêu nhau điên cuồng đến nỗi dám định cùng nhau đi trốn. Mà bạn tôi vẫn thẳng thắn, vẫn không ngờ vực mảy may.

    "Thế rồi một buổi trưa chủ nhật..."
    Mã như nghẹn lời không nói được nữa. Hai hàng nước mắt chảy ròng. Tôi rùng mình ghê sợ, toan bỏ ra về nhưng không sao đứng dậy được. Còn Mã thì ngồi đấy không hề ngó thẳng mắt tôi nữa, buồn rầu cúi gầm xuống mà kể tiếp:
    "Một buổi trưa chủ nhật, ăn cơm sáng xong, Hùng rủ tôi đi săn. Tôi vờ nhức đầu ở lại nhà. Anh tất cũng hiểu tôi ở nhà để làm gì...

    "Bỗng một nửa giờ sau, bạn tôi hình như bỏ quên vật gì, trở về vào buồng giữa lúc bọn gian phu dâm phụ sắp phạm tội nhục thể...
    "Trời ơi! Tôi làm thế nào mà xóa bỏ trong trí nhớ cái cảnh tượng xấu xa, nhơ nhuốc ấy?
    "Bạn tôi, xưa nay tính vẫn nóng nẩy, chĩa súng về phía vợ ngồi, định bắn. Tôi nhẩy phắt ngăn lại giật lấy súng; Hùng liền vớ ngay hai con dao treo bài trí trên tường, sấn lại chém vợ. Người vợ hình như mất hết cả can đảm, ngồi im để chờ chết. Hai lưỡi dao sáng loáng sắp bổ xuống đầu người thiếu phụ, thì đứng trước mặt, tôi chẳng kịp nghĩ ngợi, giương súng... bóp cò... Bạn lăn ra đất.

    "Nhưng độ mấy giây sau, bạn tôi lại ngồi dậy. Tôi tưởng anh không việc gì, vì thấy anh men lại giường, rồi bước lên nằm duỗi thẳng cẳng trên nệm. Tôi nhìn cái áo lót của anh có vết máu ở ngực. Anh sẽ gật, ra hiệu bảo tôi ghé lại gần. Lúc bấy giờ tôi, một người không hồn, làm theo những lời sai khiến của bạn như cái máy theo người vặn. Anh Hùng thì thầm:
    - Lấy mảnh giấy và cái bút chì mau!

    "Rồi đặt lên trên một quyển sách có bìa cứng, anh viết mấy dòng sau này:
    Tôi xin cha tôi, vợ tôi và bạn thân nhất trên đời tôi (Mã đọc đến đây, nấc lên một tiếng, và phải ngừng lại mấy giây) tha lỗi cho tôi, vì mắc bệnh đau tim, tôi đã hèn nhát trốn nợ đời...
    "Nằm nghĩ ngợi một lát, anh lại bảo tôi nhặt hai con dao rơi ở mặt đất treo bên giường ngay bên cạnh mình.

    "Người vợ, con đàn bà khốn nạn, từ nãy vẫn gục quỳ ngay bên cạnh và luôn luôn van lạy xin lỗi. Lúc đó có người nhà chạy lên, nhưng tôi chẳng hề để ý tới ai hết.
    "Bạn tôi hiểu rằng mình còn sống trong giây phút, cố hết sức tàn se sẽ bảo tôi.
    "Thế rồi bạn tôi tắt nghỉ...".

    Có lẽ Mã đã ghi hết nghị lực để lấy giọng bình tĩnh kể đoạn chuyện sau cùng, vừa dứt lời, anh rú lên, văng từ ghế xuống gác, kêu rầm một tiếng. Bà mẹ ở dưới nhà tất tả chạy lên, hoảng hốt khóc lóc mếu máo:
    - Khổ quá! Con tôi đã lên cơn điên rồi!

    Tôi cùng một người đầy tớ khiêng Mã lên giường rồi cáo từ bà cụ ra về, trong trí còn phảng phất lời nói mỉa mai của Mã:
    "Chỉ những người ngu dốt, đần độn hay điên cuồng mới không tin là câu chuyện có thực".

    Khái Hưng

    Rút từ tập truyện ngắn Dọc đường gió bụi.
    Nxb Đời nay, Hà Nội, 1936


  14. Thành viên dưới đây cảm ơn Hansy vì bài viết hữu ích này


  15. #8
    Banned
    Hiện Đang :    Hansy đang ẩn
    Tham gia ngày : Jan 2012

    Bài gửi : 0
    Thanks
    5.759
    Thanked 6.595 Times in 1.818 Posts
    34.
    ĐIỆN THOẠI

    Phạm Thái Lê

    Giám đốc Nguyễn Sĩ Toại giật mình thức giấc vì tiếng chuông điện thoại. Ông dụi mắt rồi bật điện, bình tĩnh nhìn đồng hồ. Đã hơn một giờ sáng. Ông vẫn chưa nhấc máy vội.
    Từ ngày trung tâm giáo dục thường xuyên tách ra khỏi phòng giáo dục huyện, trực thuộc trung tâm giáo dục thường xuyên của tỉnh, quản lý theo ngành dọc, ông trở thành giám đốc. Cũng từ đó, ông có thêm phẩm chất kiên nhẫn này. Khác hẳn với hồi còn là hiệu trưởng của trường bổ túc văn hóa, mỗi lần chuông điện thoại reo là ông nhấc lên ngay.

    Nếu đang làm gì ở xa thì ông lao vội tới. Cũng bởi vì hồi ấy điện thoại hiếm lắm. Nó là sự hiện đại và xa xỉ. Cần việc gì với người ở thành phố, nhấc máy lên, bấm mấy cái, thế là nghe được nhau nói, nói được cho nhau nghe. Có khi chả phải vì cần việc gì cũng nhấc máy lên, hỏi han cho đỡ nhàn tẻ. Với lại là để khai thác hết cái hiện đại này.
    Hồi ấy, ông cứ có ý nghĩ điện thoại không đổ chuông, không gọi đi là điện thoại chết. Một ngày nó chết đến mấy chục tiếng đồng hồ. Lãng phí thật! Bởi vậy, nếu không gọi cho ai thì ông lại mong ai đó gọi tới cho mình. Thế mà có khi hai ba ngày ông chẳng gọi được cho ai và cũng chẳng ai gọi tới cho ông cả. Những lúc ấy, ông an ủi rằng: Nó - cái điện thoại, là vật trang trí đầy kiêu hãnh trong căn phòng nhỏ lộn xộn những sách báo giấy tờ này. Như vậy, điện thoại đúng là sự hiện đại và xa xỉ. Và cũng vì vậy mà giáo viên trong trường không được phép gọi, chỉ được nghe. Đó là quy định của hiệu trưởng. Nhưng vì nó hiện đại và xa xỉ mà bạn bè anh em họ không mấy ai có nên rất ít người gọi đến

    Cái điện thoại của nhà trường gần như nghiễm nhiên thuộc về riêng ông. Và ông thú vị lắm. Ông thưởng thức nó bằng cách lúc ngồi nghe điện, ông cho phép mình gác chân lên ghế. Đây là điều tuyệt đối cấm kỵ. Giáo viên không được gác chân lên ghế. Tất nhiên rồi. Bởi thế không mô phạm, là mất tư cách. Còn học sinh thì lại càng không. Em nào trong giờ học gác một chân lên ghế sẽ bị phạt một nghìn đồng. Quy định này được áp dụng triệt để từ ngày ông làm hiệu trưởng. Bởi vậy, khi cho phép mình vi phạm, ông cũng phải đảo mắt một vòng quanh sân trường. Đang là giờ học. Vắng tanh. Cẩn thận đến thế mà cũng có lần ông bị cô văn thư bắt gặp. Lần ấy, ông đang tiếp thu ý kiến của sở giáo dục. Nói chuyện với phó giám đốc phải vâng dạ rối rít mà vẫn gác được chân lên ghế. Thế mới sướng! Vì sướng quá nên ông mất cảnh giác. Khi thấy cô ta hiện ra đột ngột ở cửa, ông vội vàng lấy tay gãi sồn sột vào chân. Ngứa thì phải gãi. Ngứa ở chân thì phải cúi xuống mà gãi. Nhưng đang ngồi nghe điện thoại thì không thể cúi. Bởi vậy chỉ còn cách là nhấc chân lên. Thật chí lý!

    Ông còn thưởng thức cái điện thoại của nhà trường bằng một kiểu khác. Kiểu này thú vị hơn: ông đùa cợt này nọ qua điện thoại với một cô cùng học lớp đại học tại chức ngày trước. Cô ta trắng nhất lớp. Không xinh nhưng trông đầy đặn. Hồi ấy, ông mê cô nhưng cô thì chẳng để ý gì. Nói mê là mê thế thôi chứ ông không dám thổ lộ. Bởi ông có vợ rồi. Bây giờ ấy à, kể cả việc con sắp vào đại học, ông cũng chẳng việc gì phải sợ vì nói qua điện thoại. Ông còn dám nói với cô ấy rằng: "Người như em, khối thằng đàn ông muốn chết... Anh ấy à, anh chết em từ lâu rồi... Chết vì cái trứng gà bóc ấy". Một nhà sư phạm mà ăn nói bỗ bã thế là không được. Ông biết điều đó rõ lắm vì ông vẫn nhắc nhở đồng nghiệp luôn luôn. Thế nhưng bấy giờ ông nói được là nhờ cái điện thoại.

    Ấy thế mà mấy năm nay, ông không cợt nhả với cô ấy nữa. Mình bấy giờ đường đường là một giám đốc. Cô ta là gì? Mũm mĩm à? Trắng trẻo à? Cũng chỉ là giáo viên thường thôi nhé. Thế nhưng ông lại thấy thiêu thiếu một cái gì đó. Và thế là ông nảy ra sáng kiến khi sắp xếp phòng giám đốc. Ngay sát cửa ra vào ông cho kê một bộ salon nệm mút, giữa phòng là bàn làm việc. Trên bàn, sách vở giấy tờ được sắp xếp gọn ghẽ cạnh cái điện thoại. Sau cái ghế ông ngồi là tấm ri-đô. Tấm ri-đô được đặt may ở cửa hàng rèm vải cao cấp Hằng Huệ - hiệu may lớn nhất thị trấn. Điều đáng nói ở cái ri-đô là sự đặc biệt này. Nó được mắc từ trần nhà phủ xuống sát nền gạch, che kín toàn bộ phần còn lại của căn phòng. Đứng ngoài nhìn vào chỉ thấy toàn hoa nhưng đứng trong nhìn ra thì thấy hết mọi sự.

    Sau tấm ri-đô, ông cho kê một chiếc giường, không phải giường một, cũng chẳng phải giường đôi. Cái giường một người nằm thì rộng, hai người nằm thì vừa khít. Từ khi có cái giường, ông càng giàu trí tưởng tượng. Ông hình dung ra những cảnh vụng trộm đằng sau bức rèm đặc biệt này. Lúc thì cô áo hoa. Lúc thì cô tóc ngắn. Có lúc lại là cô mặc quần bò dù rằng ông rất ghét con gái mặc quần bò. Bởi vậy ông cấm tiệt giáo viên nữ mặc quần bò đến trường. Mặc thế còn ra thể thống gì nữa. Có lần ông còn bắt cô Hà nghỉ tiết dạy về nhà thay quần bò rồi mới được lên lớp. Các cô giáo trẻ mới ra trường là lắm vi phạm, phải rèn cho đến đầu đến đũa. Ai đời hồ sơ giáo án mà không kẻ lề ngang mục bằng mực đỏ. Thế thì đẹp làm sao được. Xếp loại trung bình để học kỳ sau rút kinh nghiệm.

    Chuông điện thoại vẫn réo một cách kiên nhẫn và giục giã vào một rưỡi sáng. Ông Toại bình tĩnh nhấc máy. Bình tĩnh cũng là phẩm chất cần có của một giám đốc. Ông đã từng im lặng một cách bình tĩnh khi nghe cô học viên lớp đại học tại chức của trung tâm trình bày lý do nghỉ hai buổi học hôm chủ nhật vì bố mất. Bố mất là một việc. Đi học lại là việc khác. Một tuần học có ba buổi, nghỉ mất hai thì còn gì. Học trình ấy lại có hai lăm tiết. Nghỉ hai buổi mất mười tiết. Làm sao đủ điều kiện mà thi. Không cho thi là đúng, việc gì phải khóc lóc. Đàn bà con gái là chúa đưa nước mắt ra để xin xỏ. Ông là ông ghét nhất thói ấy.

    Gọi điện vào giờ này chắc là nhờ cấp trên gây áp lực cho mình đây. Ông không lên tiếng vội. Bao giờ nghe điện thoại ông cũng không lên tiếng trước. Đó là một nghệ thuật. Nghệ thuật này có được phải trải qua một quá trình lâu dài chứ hồi mới có điện thoại ông còn nhầm lẫn chào "Anh về nhá", có khi cúp máy rồi còn nói vói theo. Bây giờ thì khác xa rồi. Sau khi nhận ra đầu dây đằng kia là đối tượng nào, ông mới có ngữ điệu phù hợp. Nhận định đối tượng qua điện thoại là một kỹ năng đòi hỏi sự tinh tường và nhạy cảm. Ông tự hào về điều đó. Thế mà cũng có lần ông nhầm. Giám đốc mới của trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh có giọng kim như giọng đàn bà khiến ông nhầm là học viên xin nghỉ học. May mà ông mới rắn giọng nói: " Phải, tôi là Toại, giám đốc đây" chứ chưa nói gì thêm. Thật hú vía!

    Rút kinh nghiệm, nếu người ta đã lên tiếng mà vẫn chưa phân loại được đối tượng thì ông làm tiếp động tác đằng hắng. Đằng hắng là tín hiệu dọn giọng để sẵn sàng thoại. Các học viên truyền cho nhau kinh nghiệm nếu điện cho giám đốc Toại mà nghe ông đằng hắng là phải cẩn thận, ăn nói cho nhún nhường, lễ độ kẻo ông nổi nóng. Ông mà đã nổi nóng thì thôi nhé, miễn trình bày. Lơ mơ ông cúp máy cái rụp là hết cơ hội. Vậy mà lần này nhấc máy lên, chờ một lúc vẫn không thấy bên kia lên tiếng. Ông hơi ngạc nhiên rồi đằng hắng. Vẫn im lặng. Ông chờ đợi và suy đoán. Ai nhỉ? Chắc chắn không phải là học viên, cấp dưới rồi. Vậy cấp trên có việc gì? Không phải việc chung. Việc chung phải gọi vào giờ khác. Vậy việc riêng gì đây? Hay là... Ông thấy thích thú khi chợt nghĩ cô nàng lâu lâu không thấy mình nay chủ động điện thoại cho với mình rồi làm trò thế này đây. Ông kiên nhẫn chờ đợi. Mấy phút im lặng trôi qua. Ông bắt đầu hết bình tĩnh thì nghe một tiếng "cộp". Tiếp theo đó là những tiếng tút tút của điện thoại. A, nó đã cúp máy. Cú điện thoại làm ông Toại không thể ngủ tiếp được. Ai đã gọi điện cho ông vào giờ này. Lại không nói gì cả. Im lặng một cách hỗn xược. Im lặng một cách đe dọa và khủng bố.

    Ai nhỉ? Mục đích gì vậy? Hay là thằng Sơn? Phải rồi. Thằng Sơn vừa mới bỏ học. Hắn bỏ vì tức ông không cho hắn thi. Ông có gì sai đâu. Hắn nghỉ học nhiều tiết, không đủ điều kiện dự thi. Quy định ấy là của Bộ Giáo dục chứ có phải của ông đâu. Đã đi học là phải chấp hành. Học tại chức thì càng phải nghiêm túc. Lâu nay, xã hội đã xem cái bằng tại chức không ra gì rồi. "Dốt như chuyên tu, ngu như tại chức". Ông phải làm nghiêm túc để mọi người hiểu được rằng cái sự học là vinh quang và gian khổ. Rằng học tại chức mà nghiêm túc thì không kém gì học chính quy. Với lại là giáo viên đi học càng phải nghiêm túc. Giáo viên mà không nghiêm túc thì nói học sinh làm sao được. Thằng Sơn là nó coi thường chuyện học tại chức. Nghe đâu hắn từng tuyên bố dưới lớp là hắn học thế thôi chứ có thêm được kiến thức đâu. Đành rằng hắn là giáo viên giỏi cấp tỉnh, hắn có chuyên môn tốt, nhưng hắn mới chỉ có bằng cao đẳng. Nếu chỉ có bằng cao đẳng thì khó mà lên hiệu trưởng được dù hắn là hiệu phó có năng lực. Không bằng cấp, không thẻ Đảng thì đừng có mơ làm lãnh đạo.

    Cùng dạy với nhau một trường ở miền núi cao, ông quá hiểu nó: tự cao tự đại. Nhưng cái mà ông khó chịu về nó nhất là đêm ngủ ngáy rất to, lại còn hay gác. Khi ông không cho thi, nó lên chửi ông một trận rồi đem chuyện hồi ở chung ra để rêu rao. Bạn thì bạn. Hiệu phó thì hiệu phó. Nó chỉ là học viên trong trung tâm của ông thôi. Nó sai, nó chịu. Chắc là nó đố kỵ với ông, lại hậm hực vì tiếc hai triệu học phí nên bày trò quấy rối ông đây.

    Nhưng... ông chợt chững lại. Nhà thằng Sơn không có điện thoại. Không phải thằng Sơn. Vậy thì ai? Ông thấy mình thật căng thẳng. Ai mà bí hiểm đến vậy? Gọi vì mục đích gì? Xưa nay ông có thù oán gì với ai đâu. Chỉ có lũ học viên thấy ông làm nghiêm túc thì không thích. Nhưng ông cũng chẳng sai bao giờ. Ông làm theo quy định của nhà nước cả đấy chứ. Đến giờ, ông cho bảo vệ khóa cổng. Đi chậm thì phải đứng ngoài, giáo viên cũng như học sinh. Có thế mới nền nếp được. Học không đủ tiết thì không được thi. Đến trường ăn mặc nói năng phải nghiêm chỉnh. Thầy ra thầy, trò ra trò. Làm gì có cái kiểu học viên cứ xông vào phòng nghỉ của giáo viên. Có hôm còn ngủ trưa với cô giáo dạy tại chức. Lỗi là cả của cô giáo đấy. Rồi còn cười to nữa chứ. Nhất là mấy cô tiểu học ở lớp tại chức. Ăn mặc thì luộm thuộm. Lương bây giờ mỗi tháng gần hai chỉ vàng mà không chịu ăn mặc cho tử tế. Có cô đến trường còn sặc mùi nến đất và bồ kết. Đã học thì thôi đừng có đẻ. Phải như cô Hoa ở lớp đại học Toán ấy. Bỏ trầu rồi vẫn trả trầu để người ta khỏi giục cưới. Cưới thì dễ đẻ lắm. Đẻ lại lôi thôi cho cái sự học. Người ta phải biết hy sinh như thế chứ đằng nào cũng muốn được thì có mà.

    Học viên của trung tâm mời đi dự đám cưới đố có bao giờ ông đi. Mình đi ăn cỗ nhà nó, đến khi nó đẻ, nó xin nghỉ học, mình nói nó làm sao được. Ông hậm hực rót cho mình chén nước. Nước nguội ngắt. Lạnh xuống đến tận bụng. Cái lạnh ấy làm ông thấy dịu dần. Tắt điện rồi chui vào màn, ông nằm lơ mơ bảo mình không nghĩ gì nữa để ngủ. Thế nhưng bảo không nghĩ mà ông vẫn cứ nghĩ. Ông chợt nhớ tới bà vợ nái nẩm của ông ở quê. Kể ra bà ấy cũng khổ. Hồi mới lấy nhau về ông đã thấy chán ngắt. Rồi ông đi dạy đi học ở xa. Một mình bà ở nhà lợn gà ruộng vườn con cái. Mọi công việc nhà chồng cũng một tay bà lo liệu.

    Nhiều lúc ông tính kiếm cho bà ấy cái việc gì đỡ chân lấm tay bùn nhưng trông bà ấy xồ xề và quê mùa quá. Ăn nói thì cục mịch thô thiển. Bởi vậy, ông phải giấu tiệt mọi người, giấu như mèo giấu cứt. Người ta mà biết ông giám đốc có bà vợ như thế thì người ta cười cho thối mũi ra. Nhiều lúc, nhìn vợ con người ta, nhất là mấy cô giáo trong trường, cứ trơn mườn mượt, son phấn hồng hào, ông lại chạnh lòng buồn bực cho số phận hẩm hiu của mình. Nhưng thôi, bù lại là bà ấy lo hết mọi việc ở nhà, ông không bận tâm tí gì, rảnh rang mà lo sự nghiệp. Với lại bà ấy sợ ông một phép. Ông nói gì là răm rắp nghe theo. Vợ là phải như thế. Được thế là tốt chứ cứ như mấy cô xinh đẹp kia về nhà cãi chồng lôm lổm. Lại còn xem bóng đá rồi vỗ đùi đen đét. Chồng ngồi uống nước cũng ngồi ngang hàng, cũng húp soàn soạt. Thật chả ra làm sao. Vợ con ngữ ấy phải rèn dạy nhiều vào mới nên người được. Ngẫm nghĩ, ông thấy vợ mình lại hay. Và ông hài lòng rồi thiếp ngủ.

    Đang bắt đầu chìm vào giấc, ông Toại giật bắn mình vì tiếng chuông điện thoại. Đêm yên tĩnh thế mà nghe chuông điện thoại thì thật là khó chịu.

    Càng khó chịu hơn khi ông vừa chợp mắt. Lại càng khó chịu hơn nữa khi ông nghĩ tới cú điện thoại vừa rồi. Ông thấy căng thẳng trở lại. Mớ bòng bong suy diễn và phán đoán lúc nãy ùa về. Nhưng ông vẫn bình tĩnh chưa nhấc máy vội. Ai đang gọi cho ông đây? Có phải kẻ lúc nãy? Gọi nhằm mục đích gì mà không lên tiếng? Hay là ông Hùng. Ông Hùng, giám đốc trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh, có cô cháu gái học lớp đại học Văn - Sử. Cô ấy chửa sắp đẻ. Nhìn học viên chửa ông rất ghét. Đến trường mà bụng cứ vác ngược ra, đi lại khệnh khạng dọc hành lang như là ở khoa sản bệnh viện. Đã thế lại hay về sớm. Giải lao là đã lẩn về. Ông bèn đổi cách điểm danh. Hôm thì ông điểm danh cuối giờ giải lao. Có hôm gần hết giờ ông mới lên kiểm tra. Có thế mới bắt được quả tang ai trốn học. Hôm nào không có ai nghỉ, ông cảm giác như là mình thất bại. Hôm thứ bảy, cô này nghỉ mất nửa buổi. Sáng chủ nhật lại đi chậm. Khi xe của sở về kiểm tra thì lẻn theo vào. Nhưng làm sao mà qua được mắt ông. Ông đã lên tận lớp để đề nghị cô ấy ra khỏi phòng học. Phải biết sai mà ra chứ đằng này lại còn dài dòng lý do lý trấu. Đã thế ông đuổi thẳng cổ. Hôm kia, ông Hùng gọi điện cho ông, nói xa nói gần về việc cô ta. Nhưng ông mà cho cô ta học là ông sai. Cấp trên mà biết thì ông phải chịu trách nhiệm. Trung tâm của ông vừa được sở khen tặng về nền nếp, làm thế đâu được. Làm giám đốc cũng có cái khổ thế đấy. Nhưng ông quyết không vi phạm. Gì chứ cái thói nhờ cấp trên gây áp lực là ông chúa ghét. Nhưng có phải ông Hùng làm cái trò này không?

    Ông nhấc máy. Vẫn lặp lại kịch bản cũ. Im lặng một cách nặng nề. Im lặng một cách đe dọa. Ông bắt đầu nổi nóng song vẫn cố kìm nén. "Alô". Vẫn im lặng. Ông bực mình lắm nhưng không dám cáu. Nhỡ đầu dây kia là cấp trên thì khốn. Bởi vậy, ông kiên nhẫn chờ đợi. Ai mà độc ác quá. Thần kinh ông căng ra như dây đàn. Hai mắt thì cay và nhức. Ông đằng hắng một tiếng thật to thì bên kia cũng đằng hắng lại. Rồi im lặng. Thật hỗn xược. Một lúc sau, không thể chịu đựng được nữa, ông định cất tiếng hỏi thì "Cộp". Nó đã cúp máy. Quái quỷ thật. Đã ba giờ sáng. Ông đứng dậy mở cửa sổ. Trăng cuối tháng sáng nhờ nhờ, bàng bạc. Một ngọn gió nhẹ len vào phòng. Cái ri-đô động đậy. Những bông hoa loang lổ, uốn éo. Cái ri-đô ban ngày trông sạch đẹp là thế sao bây giờ lại xộc xệch và bẩn thỉu đến vậy. Cứ như là cái áo của thầy dạy văn học Trung Quốc.

    Thôi chết rồi, đúng rồi. Đích thị là thầy Huy văn học Trung Quốc khủng bố ông rồi. Cách đây độ bốn tháng, thầy Huy về dạy ở lớp đại học Văn - Sử. Cô Hồng trong lớp là con của bạn thầy Huy có đem đến cho thầy can rượu bố gửi. Ai dè ra chơi, thầy Huy lại gọi mấy học viên có tuổi trong lớp ra làm mỗi người một chén. May mà ông bắt gặp kịp thời chứ không thì cuộc rượu hôm ấy chưa biết đi đến đâu. Ông cho lập biên bản rồi đình chỉ buổi học. Nếu thầy Huy có nhân cách, biết đúng sai, biết cư xử thì đã khác. Đằng này thầy lại cãi ông. Thầy Huy dạy rất lơ mơ. Lên lớp không bao giờ có giáo án sách vở gì. Dạy học thì toàn kể chuyện. Lại hay đứng ở cửa. Viết lên bảng thì ít. Có hôm lại để cho học viên tranh cãi ầm ĩ.

    Ông biết rõ về thầy Huy không chỉ vì thường xuyên theo dõi mà từ cái hồi ông học tại chức, thầy có dạy một học trình. Thầy dạy rất khó hiểu. Một số người trong lớp cũng thấy thế chứ không phải chỉ mình ông. Bằng chứng là không chỉ mình ông thiếu điểm môn thầy. Đành rằng cũng là thầy giáo cũ của ông đấy. Nhưng xa rồi. Bây giờ ông là giám đốc, thầy về dạy thì phải chịu sự kiểm tra quản lý của ông. Thầy vi phạm ông có quyền xử lý. Nghe đâu ở trường đại học, thầy Huy còn hay chống chủ nhiệm khoa. Thầy giáo đại học gì mà thiếu tư cách. Ăn mặc luộm thuộm, hút thuốc lào, lại uống nhiều rượu. Thầy giáo thế thì phải đuổi. Ông thảo ngay một công văn gửi về trường đại học báo cáo sự việc. Lớp Văn - Sử họp lên họp xuống kiểm điểm. Hai tháng sau, thầy Huy mới được về dạy nốt phần văn học Trung Quốc. Dân đọc nhiều, học nhiều văn học Trung Quốc là thâm nho lắm. Cái trò khủng bố tâm lý kiểu này chỉ có tầm cỡ như ông Huy Trung Quốc mới nghĩ ra thôi. Khốn nạn thật! Ông không thâm thù gì với ông Huy cả. Xong việc là thôi, ông có để bụng bao giờ. Thế mà không ngờ... Sự đời cũng lắm đảo điên. Ác thật! Cái điện thoại vốn là niềm tự hào, khâm phục của ông về sự văn minh và hiện đại lại chơi ông một vố thế này.

    Ừ, cái gì rơi vào tay kẻ xấu mà chẳng xấu. Ông thấy đầu đau như búa bổ. Không thể nằm lại được nữa, ông mở cửa đi ra ngoài. Sân trường vắng lặng trong giấc ngủ rạng đông. Trong xóm đã có người dậy. Con đường trước cổng trung tâm chạy về chợ huyện lác đác bóng người đi trong trăng, toàn tiếng đàn bà. Mà... biết đâu đấy. Biết đâu thủ phạm những cú điện thoại vừa nãy lại là của một nữ tặc nào đây. Ở lớp tiểu học có một cô ghê lắm. Ngày còn dạy vùng biên giới, nghe nói cô ta đánh nhau cả với phỉ. Đàn bà dễ có mấy tay... Nhưng cô này mới bị ông quát có một lần. Lần ấy cô ta sai sờ sờ. Cô ta không thể thù hằn cá nhân kiểu ấy với ông được. Vừa đi dọc hành lang lớp học, ông vừa ngẫm nghĩ. Người ông rã rời vì mất ngủ và căng thẳng. Một luồng gió sớm thổi tới khiến ông ớn lạnh. Ông khẽ rùng mình rồi quay về. Người cứ nôn nao như say sóng. Đầu ông váng vất những khuôn mặt - cái tròn, cái méo, cái cười nhăn nhở, cái trợn mắt lên...

    Những khuôn mặt các học viên từng "đụng độ" với ông. Đến gần phòng, ông chợt giật mình vì tiếng chuông điện thoại. Réo rắt và giục giã. Ông thấy sợ tiếng chuông điện thoại lắm rồi. Lao vội vào phòng, nhấc máy, ông định quát cho kẻ khốn nạn ở đầu dây một trận. Chưa kịp lên tiếng, ông đã nghe trong máy giọng đàn ông không ra đàn ông, đàn bà không ra đàn bà. Một câu chửi hết sức tục tĩu. Ông Toại hự lên một tiếng rồi ngã vật. Đầu đập vào cạnh bàn. Cái điện thoại rơi thõng xuống, bung beng.

    Nửa tiếng sau, bác bảo vệ lên mở cửa văn phòng thì phát hiện ra ông giám đốc nằm ngất lịm trên nền nhà. Bác hốt hoảng gọi người đưa đi cấp cứu. Hai tháng sau, ông Toại mới được biết thủ phạm của vụ khủng bố tâm lý qua kết quả điều tra của công an huyện. Thì ra đó là con trai của một tiệm vàng trong thị trấn. Hắn nghiện rượu và ma túy. Hắn khai là hôm đó hắn uống rượu về không ngủ được, bấm gọi ngẫu nhiên một số máy để đùa. Hắn không biết đó là số máy của ông giám đốc trung tâm giáo dục thường xuyên huyện. Hắn cũng không biết ông giám đốc phải vào viện mất gần một tháng. Bấy giờ hắn thấy ân hận lắm. Hắn đã từ bỏ ma túy rồi. Công an đừng bắt hắn đi cai nghiện. Hắn hứa sẽ không bao giờ lặp lại chuyện ấy nữa. Thật thế mà.

    Phạm Thái Lê

  16. #9
    Banned
    Hiện Đang :    Hansy đang ẩn
    Tham gia ngày : Jan 2012

    Bài gửi : 0
    Thanks
    5.759
    Thanked 6.595 Times in 1.818 Posts
    35.
    HỦ NHO

    Nguyễn Thế Duyên


    Lão đi lại phía cô lễ tân đang ngồi trực tại sảnh ngoài tòa soạn .
    -Tôi vào gặp anh Nhân tổng biên tâp.
    Lão nói với một giọng bình thản. Cô lễ tân nhìn hắn với ánh mắt đầy nghi ngại.
    -Dạ! Thưa bác bác vào gặp bác Nhân có việc gì ạ?
    Lão ngạc nhiên nhìn cô gái hỏi lại.
    -Cô không biết tôi là ai à?

    Cái giọng đầy tự tin của lão khiễn cho cô gái sợ đến tái cả mặt. Nhìn cái mặt tái mét vì hoảng sợ của cô gái lão cảm thấy thích thú. Có thế chứ! Mình vẫn còn là người “Nói có kẻ nghe, đe có kẻ sợ”
    -Tôi là Chu Văn giáo sư, tiến sỹ.—Lão nhấn mạnh vào bốn từ “giáo sư, tiến sỹ”.—Trường đại học tổng hợp .

    Nghe lão xưng danh, cô gái thở phào nhẹ nhõm. Cô liếc nhanh xuống cuốn sổ để trên mặt bàn rồi nói với lão giọng rất lễ độ.
    -Dạ ! cháu xin lỗi. Hôm nay bác tổng biên tập có cuộc họp đột xuất trên ban tư tưởng văn hóa trung ương. Có việc gì xin bác cứ nói, cháu sẽ thưa lại với bác tổng biên tập.
    Mặt lão cau lại vì bực bội
    -Tôi đã gọi điện hẹn trước với anh Nhân rồi cơ mà!

    Cô gái tươi tỉnh.
    -Vâng ! cháu biết. Bác Nhân có bảo cháu xin lỗi bác. Hay là bác vào làm việc với anh Thắng thư kí tòa soạn?
    Lão ngần ngừ. Tầm cỡ như lão chẳng lẽ lại phải làm việc với thằng cha thư kí tòa soạn vô danh tiểu tốt sao? Lão hỏi lại cô lễ tân
    -Thế bao giờ thì anh Nhân về?

    Cô bé lễ tân lắc đầu.
    -Dạ cháu cũng không biết . Họp ở tận Đà Lạt cháu chắc là cũng phải vài ngày.
    -Thôi vậy! để tôi vào làm việc với cậu thư kí tòa soạn.
    Nói rồi lão xách cái cặp nhỏ đi thẳng vào bên trong . Đợi lão đi khuất cô bé lễ tân nhấc vội điện thoại gọi lên tầng trên.

    -Dạ thưa bác ,ông Chu Văn đang vào làm việc với anh Thắng rồi ạ.
    Tiếng nói từ ống nghe vọng ra rất rõ.
    -Kệ lão! Thế sáng nay cô có nhớ bảo với anh Thắng những điều tôi dặn chưa?
    -Dạ ! cháu đã bảo với anh Thắng rồi.

    **

    Lão tiến thẳng đến chỗ cái bàn có cái biển mi ca đề một dòng chữ “Nguyễn Thắng thư kí tòa soạn”
    Một người trung niên đang cắm mặt vào chồng bản thảo ngước lên nhìn lão.
    -Chào bác! Bác có việc gì đấy ạ?
    Một vẻ mặt lãnh đạm, với một câu hỏi lãnh đạm. Lão cảm thấy bực bội. Con bé lễ tân không biết lão đã đành vì nó còn trẻ, có khi chưa học đại học. Còn thằng này còn trẻ gì nữa đâu mà sao cũng không biết đến mình?
    Lão xưng danh.
    -Tôi là Chu Văn!
    -Dạ vâng! Thì sao ạ?

    Lão lộn ruột! Không thể kìm nén được lão hất hàm hỏi lại tay thư kí tòa soạn
    -Hồi học đại học cậu học ở trường nào?
    -Dạ em học khoa ngữ văn trường Tổng Hợp.
    -Thế không nghe cái tên giáo sư tiến sỹ Chu Văn à?
    Lão lại nhấn mạnh vào bốn từ “Giáo sư tiến sỹ”. Tay thư kí tòa soạn nhìn lên trời, lấy tay vỗ vỗ vào đầu cố nhớ nhưng không ra. Gã lắc đầu.
    -Chưa từng nghe qua!

    Hành động , lời nói của gã làm lão tức nghẹn cổ. “Đúng là đồ vô học” lão thầm nghĩ . Những nhà báo không đọc như mày làm gì mà báo chí chẳng trở thành lá cải . Lão nuốt khan một cái cố gắng nuốt cục tức xuống bụng nhưng không hết nó lại buột ra mồm.
    -Chắc chẳng bao giờ cậu đọc sách nhỉ?
    Tay thư kí tỉnh như không.
    -ỐI giời! thời gian đâu mà đọc những thứ vô bổ của mấy tay giáo sư dởm ấy hả bác. Mà bác đến đây có việc gì đấy ạ?

    Lão cắn môi. Phải làm việc với những người như gã thư kí tòa soạn này lão cảm thấy như mình bị sỉ nhục. Nhưng biết làm sao! Tận vài ngày nữa tay tổng biên tập mới về. Lão đành mở chiếc cặp nhỏ vẫn cầm ở tay rút ra một tập bản thảo.
    -Tôi có một bài viết muốn gửi đăng trên báo nhà.
    Tay thư kí tòa soạn liếc nhanh vào cái tiêu đề bài viết “ Bàn về sự tiếp nối chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong văn học đương đại”. Gã bật cười nhưng rồi sực nhớ ra, anh ta vội vàng nín bặt, lễ độ đưa hai tay ra cầm lấy tập bản thảo.

    -Vâng! Bác cứ để đây chúng tôi sẽ nghiên cứu.
    -Không phải nghiên cứu! –Lão gằn giọng. –Tôi muốn bài báo được đăng trong số sớm nhất. Tôi đã làm việc với anh Nhân về vấn đề này.
    -Vâng ạ. Tôi sẽ gọi điện xin ý kiến của tổng biên tập.
    Đợi cho lão đi khuất, tay thư kí tòa soạn cầm lấy tập bản thảo của lão ném tọt ngay vào thùng rác rồi nhấc điện thoại gọi lên tầng trên.

    -Anh Nhân ạ! Lão ta đi rồi.
    Một lúc sau, ông tổng biên tập từ tầng trên đi xuống hỏi tay thứ kí.
    -Bài viết của lão ấy viết gì?
    Tay thư kí tòa soạn cười.
    -Em có thèm đọc đâu. Hình như là chủ nghĩa anh hùng cách mạng gì đấy.
    Ông tổng biên tập mặt nhăn tít lại như khỉ dính phải mắm tôm.

    -Mẹ kiếp! Bây giờ là thời buổi nào rồi mà vẫn còn “Anh hùng cách mạng”.
    -Thế có đăng không anh?
    Tay thư kí tòa soạn hỏi. Ông tổng biên tập trầm ngâm nghĩ một lúc rồi thở dài đến thượt một cái.
    -Thôi! Thí cho lão ấy năm trăm nghìn. Cho đăng ở trang cuối của tờ báo.
    -Thì mình cứ lờ đi không đăng có sao đâu. Đỡ mất mấy trăm.

    -Không được! –Ông tổng biên tập xua tay. –Những thằng như lão này thù dai lắm. Nhỡ sau này báo mình có điều gì sơ xẩy bọn khốn ấy xúm vào đánh hội đồng thì mình chết..
    Hôm sau bài viết của lão được đăng. Lão cầm tờ báo về đưa cho vợ. Vợ lão cầm lấy tờ báo rồi ném toẹt ngay xuống gầm bàn thậm chí còn chẳng thèm liếc xem bài viết của chồng mình đăng ở trang nào.

    -Ơ !
    Lão ơ một tiếng rồi im bặt. Vợ lão nhìn lão một thoáng rồi thủng thẳng.
    -Có gì mà đọc. Chắc nếu chẳng chủ nghĩa anh hùng cách mạng thì cũng là tính đảng trong văn chương chứ gì.
    Lão thấy cổ mình nghèn nghẹn.

    Thời xa xưa, Thời lão còn là sinh viên văn khoa lão đã từng mơ ước trở thành một nhà văn. Một trăm thằng sinh viên ngữ văn thì một trăm linh một thằng đều nghĩ mình sẽ là một nhà thơ hay nhà văn nổi tiếng. Lão cũng không ngoài cái lệ ấy. Thời ấy, Lão đã từng viết dăm ba cái truyện ngắn gửi đi để rồi hộp hộp từng ngày chờ cái truyện ngắn của mình xuất hiện trên mặt báo. Từng ngày mòn mỏi chờ đợi nhưng cái truyện ngắn của lão thì cứ chìm nghỉm chẳng thấy tăm đâu. Là một người tỉnh táo, lão nhận ra ngay cái điều mà không phải kẻ nào cũng dám đối mặt với nó. Lão không có khả năng viết! Và thế là lão xoay ngay sang mảng lý luận phê bình.

    Lão nghĩ : Viết văn thì khó. Nó cần những năng khiếu bẩm sinh chứ lý luận phê bình, một ngành tầm chương , trích cú thì chỉ cần chăm chỉ và thế là trong lúc các bạn lão tâm hồn lơ ngơ trên tận mây xanh với những tứ thơ thì lão cúi mặt vào học. Lão có biết đâu rằng cả một thời thơ mới có hàng trăm nhà thơ nhưng chỉ có một Hoài Thanh của phê bình văn học. Nhưng cần gì! Cái bóng của Hoài Thanh quá lớn . Lão chẳng dám mơ đến. Mà dẫu “Thi nhân việt nam” hay thì hay thật nhưng chẳng phải tác giả của nó đã phải tự cầm cuốn sách của mình vả vào miệng mình đôm đốp đó sao? Sáng tạo! hay ăn theo nói leo? Cái óc thực dụng còn hơn cả người Mĩ đã chỉ cho lão một con đường mới. Và,Trời cũng không phụ công lão . Lão được giữ lại ở trường làm cán bộ giảng dạy.

    Con đường “Khoa học” của lão cứ thế mà thẳng tiến. Lão trở thành một vị giáo sư, tiến sỹ hàng đầu tên tuổi nổi như sóng cồn trong lúc bạn bè hắn cũng có một vài người thành đạt trong văn chương nhưng vẫn xơ xác vì nghèo còn tất cả đều chìm nghỉm. Thế mới biết! Vấn đề không phải ở tài năng. Vấn đề là ở phương pháp. Cái phương pháp ăn theo, nói leo của lão thật là “Number one”.

    Lão cúi xuống gầm bàn nhặt tờ báo mà vợ vừa ném xuống, dở bài viết của mình đăng trên báo ngồi đọc. Lão có thói quen ngồi nhâm nhi lại những dòng chữ của chính mình. Vừa đọc lão vừa gật gù tự tán thưởng. Đọc xong bài mình viết, lão lật sang trang đầu tiên của tờ báo. Vợ lão thấy cái bộ mặt vừa tươi tỉnh đầy thỏa mãn của chồng mình bỗng nhiên cau lại. Lão chìa tờ báo sang cho vợ.
    -Bà xem này! Con mụ Bình vừa được phong giáo sư.
    -Đâu ! Đưa tôi xem nào.

    Vợ lão giật ngay lấy tờ báo. Một tấm hình chụp một đám sinh viên đang xúm quanh một cô giáo với nụ cười tươi rói. Một cánh tay cô ôm đầy những bó hoa, còn tay kia đang choàng ôm một cô bé sinh viên. Dòng chữ trên tấm phông hiện lên rất rõ “Lễ đón nhận danh hiệu giáo sư khoa học trường đại học sư phạm hà nội”. Bà gọi với lên trên gác.
    -Hòa ơi xuống mà xem! Cô giáo mày vừa được phong giáo sư đây này

    Có một tiếng reo của con gái lão. Cô gái lao ngay từ trên gác xuống, giật phăng lấy tờ báo trong tay mẹ rồi nghiêng đầu ngắm nghía mãi bức ảnh.
    -Con biết ngay mà! Thế nào cô con cũng trở thành giáo sư.
    Những lời vô tình của cô con gái như một mũi kim trích vào lòng lão khiến mặt lão sầm lại. Bà mẹ tinh ý khẽ bấm váo tay cô con gái. Cô gái sực nhớ ra , cô liếc nhanh về phía bố mình rồi thè lưỡi cười cùng mẹ.

    Con gái lão là thạc sỹ ngữ văn. Hồi cô viết luận văn thạc sỹ thì lão đang làm trưởng khoa ngữ văn trường đại học tổng hợp. Lão bảo con gái.
    -Mày về trường bố mà làm luận án.
    -Có đề tài gì mới hả bố?
    Cô con gái háo hức hỏi.
    -Thiếu gì!
    -Như?

    Cô gái hỏi rồi nhìn chằm chằm vào bố đợi câu trả lời. Lão phải suy nghĩ một lúc rồi mới từ từ bảo
    Như “ Từ Chí phèo đến đôi mắt ! Khát vọng tự do của những người nghèo khổ”
    Lại Nam cao
    Con gái lão thất vọng kêu lên.
    Thế rồi con gái lão không chịu về trường tổng hợp làm luận văn . Cô sang trường sư phạm đề nghị cô giáo Bình của nó huống dẫn. Và đề tài con gái lão chọn đã làm lão sửng sốt

    “Sự vô nghĩa của chiến tranh, khát vọng hòa bình trong chuông nguyện hồn ai của hê minh way và nỗi buồn của chiến tranh của bảo ninh phải chăng chính là nguồn cảm hứng cho ý tưởng bất bạo động hiện nay trên thế giới?”.
    -Ai gợi ý cho mày đề tài này?
    Đọc xong cái tiêu đề của luận văn, lão đã hỏi con gái.
    -Cô Bình!
    Con gái lão trả lời với đôi mắt sáng rực.

    -Đồ ngu! –Lão gầm lên! – Làm gì có chiến tranh vô nghĩa. Chỉ có chiến tranh chính nghĩa và chiến tranh phi nghĩa thôi.
    -Không đúng! – Con gái lão mạnh mẽ bác lại. -- Chính nghĩa hay phi nghĩa chỉ dành cho những người lãnh đạo. Còn với những người dân, những người buộc phải cầm súng, thì dù ở phía bên nào chiến tranh cũng đều là vô nghĩa.
    - Mày không biết câu” chỉ có thể giành chính quyền bằng bạo lực cách mạng” à?
    -Có! Con biết đấy là câu của Các Mác. Nhưng con còn biết đến Găng Đi của Ấn Độ.
    Lão thở dài lắc đầu ngán ngẩm.

    -Tao báo cho mày biết! Nếu mày cứ theo đuổi đề tài này chắc chắn là mày sẽ bị đánh trượt.
    -Trượt thì thôi! Con chả cần. Thà trượt mà kiến thức của mình được nâng lên một bậc còn hơn cầm một mảnh bằng cao hơn nhưng kiến thức của mình lại tụt đi mất vài bậc thì cầm mảnh bằng làm gì?
    Nghe con nói, Lão lặng đi một lúc rồi đột nhiên lão hỏi
    -Mày biết kiến thức đo bằng gì không?. -- . Con lão lắc đầu –Bằng tiền con ạ.

    Con gái lão bị đánh trượt thật. Và từ đấy lão ghét cay ghét đắng cô giáo của con gái lão còn con gái lão thì lại luôn nhắc đến cô Bình của nó như một thần tượng.
    -Này ông! –Vợ lão khéo léo chuyển đề tài để làm giảm sự căng thẳng giữa hai bố con. –Sắp tới ngày giỗ của Nam cao rồi đấy. Năm nay ông có định về Lý Nhân Nam Hà không?
    -Có chứ! –Lão vội vàng nói. –Tôi đã hẹn với bọn học sinh rồi.
    Nhắc đến Nam Cao , lão hồ hởi hẳn lên. Vợ lão hơi mỉm cườ đưa mắt nhìn cô con gái. Con gái lão cũng lắc đầu cười.

    -Mà bà có nhớ lão Tiến làm luận văn năm kia không nhỉ?
    Lão hỏi vợ, bà vợ ngẫm nghĩ một lúc rồi lắc đầu.
    -Tiến nào nhỉ?
    -Cái tay mà bà bảo “Sắp về hưu rồi còn làm luận văn tiến sỹ làm cái gì” ấy
    -À! –Vợ lão à lên một tiếng. –Tôi nhớ ra rồi. –Cái tay trưởng phòng giáo dục tỉnh H ấy phải không?
    Lão gật đầu.

    -Đúng rồi. Năm nay tay ấy lên phó chủ tịch tỉnh. –Lão nhìn con gái đắc ý. –Đấy là nhờ và cái luận văn tiến sỹ của bố đấy. Năm nay tay ấy bao toàn bộ chuyến đi.

    Hôm 30 tháng 10, ngày giỗ của Nam Cao, một đoàn ô tô con đen bóng đỗ thành dẫy trước cửa nhà lão khiến cả xóm lắc hết cả mắt. Một đoàn mười ông tiến sỹ về Nam cao, người trẻ nhất cái đầu cũng đã muối tiêu gần hết trịnh trọng đưa lão lên chiếc xe Mẹc đỗ ở đầu đoàn xe . Lão đi, đầu ngẩng cao, cố tạo ra cái vẻ oai vệ, đĩnh đạc . Mắt lão liếc nhìn những người hiếu kì tụ tập thành đám bên đường. Một người đi xe máy ngang qua, thấy lạ dừng xe lại hỏi một người trong đám đông đang tụ tập.

    -Ai đấy?
    -Không biết à? Đấy là giáo sư Chu Văn
    Môi lão nở một nụ cười mãn nguyện.
    Đoàn xe đi rồi, chỉ còn lại hai mẹ con ở nhà, cô con gái mới thỏ thẻ cùng mẹ.
    --Mẹ ạ! Phòng khách nhà mình phải mua thêm một bể cá cảnh.Nó vừa làm phòng khách thêm sang trọng lại vừa hợp với phong thủy của nhà mình nhưng chẳng biết đặt nó ở đâu.

    -Đặt nó ở chỗ cái kệ sách để luận văn của bố mày ấy.
    -Thế chồng luận văn ấy thì để vào đâu?
    -Cho ra đồng nát. Để chỉ tổ chật nhà.

    Nói rồi vợ lão đi ra cửa vẫy cô đồng nát vẫn ngồi bên kia đường. Cô đồng nát gánh đôi thúng tòng ten đi vào. Từ sáng đến giờ cô chưa mua được cái gì. Vợ lão chỉ vào chồng luận văn trên cái kệ gỗ.
    -Chị cân thử xem chồng luận văn kia được bao nhiêu tiền
    Cô đồng nát ôm chồng luận văn đặt lên bàn cân.
    -Được hai chục nghìn bà ạ.

    -Sao rẻ thế?—Vợ lão ngạc nhiên hỏi lại . Những mười tập luận văn tiến sỹ của tôi đấy. Chẳng lẽ mỗi luận văn chỉ mua được một mớ rau muống thôi sao?

    Cô hàng đồng nát cười.
    Thế là được giá lắm rồi đấy bà ạ. Bây giờ tiến sỹ nhiều như lợn con. Ông xã trưởng xã con hiện nay đang ở Hà Nội. Nghe đâu ông ấy cũng đang làm luận văn tiến sỹ


    Nguyễn Thế Duyên
    Hà Nội 10. –8 .—2013

  17. 2 Thành viên dưới đây cảm ơn Hansy vì bài viết hữu ích này


  18. #10
    Banned
    Hiện Đang :    Hansy đang ẩn
    Tham gia ngày : Jan 2012

    Bài gửi : 0
    Thanks
    5.759
    Thanked 6.595 Times in 1.818 Posts
    36.
    ĐIỆN THOẠI LÚC NỬA ĐÊM

    Phong Điệp

    Cô thường về rất muộn. Khi chung cư bắt đầu thưa thớt những tiếng thì thầm khe khẽ và những con chó nằm dài trên bậc thềm, thao láo cắn đêm đợi trời sáng. Sự rón rén của cô dần dần thành một thói quen: rón rén tra chìa khóa vào cái ổ khóa kềnh càng, loảng xoảng với những vòng xích nặng nề; rón rén đưa đẩy từng nhịp cổng cho nó khỏi vô cớ rít lên ken két; rón rén dắt xe qua dãy nhà bảy phòng, mái tôn lợp - Giống như những hộp đồ chơi chật chội và ít màu sắc - Để dừng lại ở phòng số 8 - Vẫn còn le lói ánh đèn bàn ngái ngủ.

    Lũ chó hồng hộc chạy theo và liếm vết bánh xe. Khi thấy không thể kiếm chác được gì, chúng mới chưng hửng bỏ đi.

    Mệt mỏi và cơn buồn ngủ khiến cô bải hoải. Đứa bạn cùng phòng đã ngủ say với chiếc gối ôm ngả màu bạc phếch. Gian nhà chín mét vuông gây gây mùi dầu hỏa và mùi xà phòng ngâm trong chậu quần áo xốp xộm nước, đẩy sát chân giường.

    Nước lạnh đẫm trong khăn mặt khiến cô tỉnh táo hơn. Nhẩn nha ngồi vào bàn chiếc bánh mì vẫn còn ấm nóng mua từ ngoài phố, cô rút trong ngăn bàn lá thư viết dở ngày hôm qua. Đó là lá thư gửi cho mẹ và các em dưới quê. Tìm mãi không được cái bút cùng màu, cô đành viết sang đoạn hai với màu mực khác.

    “Con đang chuẩn bị làm đồ án tốt nghiệp. Thầy giáo hướng dẫn rất tận tình. Con vẫn đi làm thêm, đủ tiền chi tiêu trên này, mẹ không phải gửi thêm nữa đâu! Việc tìm lớp học thêm cho em Toàn cũng đã xong. mẹ chuẩn bị cho em lên nhập học vào tháng tới. Có gì gấp mẹ cứ gọi điện cho con theo số..”

    Cô rũ xuống trong cơn ngáp ngủ dài lê thê. Chỉ kịp tắt điện và chui vào cạnh cô bạn đang thở nhịp đều đặn..

    Những âm thanh thất thường - Dường như một cuộc cãi vã vào hồi gay gắt khiến cô choàng tỉnh.
    - A, cô cũng biết đường mà dậy rồi hả?

    Người đàn bà ở phòng số 2 xốc xốc đứa con nhỏ gầy xanh như một con ngái bén, vẫn còn đang tấm tức khóc gắt ngủ, sấn sổ lao đến bên cô.
    - Cô xem ở cả khu này, có ai đi đêm về hôm như cô không? Ờ, thế tôi lại hỏi cô: 11-12 giờ đêm còn cơ quan xí nghiệp nào làm? Đi chơi đi bời thì cũng phải liệu đường về sớm chứ! Nữa đêm rồi còn lạch cạch cổng ngõ, cứ như phường khoét vách, đào ngạch. Đấy! Tối qua đã về muộn lại còn quên khóa cổng. Quá bằng mời lũ trộm cắp vào. Đấy, phòng đầu tiên mất tiêu cái xe đạp rồi đấy. May mà nó chưa kịp sờ đến nhà tôi thì đã bị phát hiện, chứ không thì cô không có yên với tôi đâu!

    Những âm thanh chói gắt thi nhau quay cuồng quanh đầu cô. Cô bắt đầu hiểu ra sự việc một cách khá tường tận.

    Các phòng khác đều đã cọt kẹt trở dậy. Khoảng sân hẹp với ngổn ngang của mọi thể loại áo quần trở nên chật chội. Mỗi người góp một câu rồi lại tất bật xô chậu cho các thủ tục cách rách của buổi sáng.

    “Em xin lỗi”. Cô ấp úng phân trần với anh chàng đầu dãy vừa bị mất chiếc xe đạp. “Em cũng chẳng nhớ mình đã khóa cổng hay chưa. Dù sao em cũng xin lỗi”.

    “Khóa hay không lại còn không nhớ nữa!” - Phòng số 5 lên tiếng giễu cợt - “Đãng trí thế là hỏng cả đời đấy em thân yêu ạ!”.
    “Anh xem lại xem nhà mình có mất gì không?” - Cặp vợ chồng trẻ phòng số 3 tất bật trở lại phòng mình xem xét.
    “Không sao đâu em ạ!”- Anh chàng phòng số 1 lên tiếng an ủi - “ Anh đang định đổi xe mới mà chưa tìm được lý do”.

    Chuông điện thoại nhà cô đổ dồn dập. Người bạn gái cùng phòng - Giờ mới lồm cồm bò dậy, gọi vọng tên cô bằng cái giọng khê nồng.

    Buổi sáng hối hả kết thúc bằng một bể nước cạn gần đáy.Vòi nước ri rỉ chảy như một gã ti tiện thích trêu tức mọi người. Cô cuống cuồng gò lưng trên chiếc xe đạp long xóc, bỏ lại sau lưng dãy nhà trọ 10 phòng rồng rắn như những toa tàu chờ chuyến.

    “Thực ra là cháu đang làm cái gì vậy? Tại sao tối nào cũng về khuya thế?” Bà chủ nhà kín đáo kéo cô vào phòng riêng để hỏi han.
    “Bác thấy mọi người trong khu nhà kêu về cháu nhiều quá. Chứ không phải là cháu làm cái việc đấy chứ?”.
    Cô thảng thốt:
    “Bác vẫn nghĩ là cháu... cháu...?”

    “À không!” - Người đàn bà phúc hậu cố gắng xoa dịu câu chuyện - “Một vài kẻ độc mồm độc miệng nói thế thôi. Chứ bác thì bác chẳng tin!”
    Cô ngồi ệp vào thành ghế - Giống hệt như một con mèo ốm.
    “Tại sao mọi người lại nghĩ tệ về cháu đến thế?”

    “Chẳng phải nhà cháu đang rất khó khăn sao? Thực ra cũng có thể giải thích được. Nhưng không đúng thế không? Thế thì tốt quá! Bác nhìn mày bác biết chứ!”.
    Cô thiểu não đứng dậy và uể oải đi về phòng. Vài ba cặp mắt nhấp nhỏm sau khe cửa. Những tiếng lào thào khó hiểu. Vòi nước ngoài bể bỗng xoe xóe như người đi xe máy lên ga quá đà. Cô bạn cùng phòng bươn bả bê chậu quần áo bẩn đi giặt, véo von chửi đổng thay cho bạn:
    “Cái quân rỗi việc, ngồi lê đôi mách, chỉ chực hại người. Rồi cũng bị trời đày thôi!”.

    Cô bật cười trước vẻ nanh rọc rất trẻ con của người bạn gái.
    Điện thoại xòng xọc kêu lên như một bà già bẳn tính. Cô vội vã thay quần áo và phóng xe đi.
    “Cái gì hả ?” - Người đàn ông có khuôn mặt bều bệu trắng, cất giọng đay đả - “Cô muốn về sớm hả. nửa lương nhé! Được không? Mẹ kiếp, làm ít đòi nhiều. Đừng tưởng bán hàng đông khách thì hạch sách nhé! 10 - 11 giờ khách mới tới ăn đông. Cô đòi về từ 9 - 10 giờ thì có mà bán cho chó à?”.

    Cô cố ghìm mình, nài nỉ thêm:
    “Cháu sẽ đi làm sớm hơn, được không chú?”.
    “Đến sớm để mà quẩn chân người khác à? Mẹ kiếp, ngày trước xếp cho làm ca chiều thì kêu ca: “Cháu bận học, cháu bận nọ bận kia, cho cháu làm tối thôi!”. Chập chập keng keng nó vừa vừa thôi. Mỗi bán quầy rượu đã rủng rỉnh tháng bảy - tám trăm ngàn đồng, chưa kể tiền “boa”. Mày tưởng tao mù à? Muốn khấm khá cũng phải chịu “vất” một tí chứ! Thôi ra làm đi. Không lôi thôi nữa. Thích thì cứ nghỉ việc. Tao không cần!”.

    Cô căng thẳng trở về gian phòng hun hút khói thuốc và nồng nặc mùi rượu mạnh. Nụ cười kéo ra hai phía gì má hốc hác vô hồn như một cái mặt nạ.
    “ Hay cậu nghĩ làm ở đấy đi” - Cô bạn gái xót xa - “Ban ngày lo cày đề tài tốt nghiệp, tối đứng chôn chân ở quán rượu, làm sao mà cậu chịu nổi? Nhưng mà cũng khó thật cơ…”.
    Lại nằm thượt xuống giường, ngao ngán. Chốc đã thấy tiếng khò khè đều đặn.

    Tự dưng điện thoại đổ chuộng giữa đêm. Cô hoảng hốt ngỡ là nhà đã ra chuyện gì.
    “Mẹ à? Mẹ có phải không?” - Cô áp chặt ống nghe vào tai - “ Có chuyện gì vậy mẹ?”.
    Cô biết từ khi bố qua đời, mẹ nghĩ việc ở nhà máy, tâm tư của bà rất bất ổn.

    “ Có chuyện gì thế” - Cô cuống quít hỏi lại, như sợ đầu dây bên kia nghe rõ tiếng mình.
    Nhưng vẫn là sự im lặng khó hiểu. cô nín thở chờ đợi khá lâu. Đến khi định buông máy xuống thì cũng là lúc đầu dây bên kia đã đáp lại:
    “Em đi nghỉ đi! Khuya rối đấy!”

    Giọng một người con trai, nghe rất lạ. Và máy điện thoại ngắt. Cô chưa kịp hiểu điều gì đã xảy ra. Nhưng rồi cũng nằm xuống và nhắm mắt lại, chờ đợi giấc ngủ sẽ đến - Thật thanh thản.

    Phong Điệp


  19. Thành viên dưới đây cảm ơn Hansy vì bài viết hữu ích này


+ Trả lời chủ đề
Trang 4/8 ĐầuĐầu ... 2 3 4 5 6 ... CuốiCuối

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình