Hiện kết quả từ 11 tới 14 của 14

Chủ đề: Tham Khảo Các Luật Thơ Trong Sáng Tác

Threaded View

  1. #1
    Avatar của Trần Vi Thông
    Ban Quản Trị
    Hiện Đang :    Trần Vi Thông đang ẩn
    Tham gia ngày : Feb 2011
    Đến từ : Sài Gòn

    Bài gửi : 1.681
    Thanks
    10.122
    Thanked 19.667 Times in 1.602 Posts
    Blog Entries
    83

    Thumbs up Tham Khảo Các Luật Thơ Trong Sáng Tác

    Thể theo yêu cầu của một số Thành viên, và cũng để thuận tiện khi tra cứu luật thơ các thể loại. VNTH sẽ trích đăng nơi này những kiến thức cơ bản về luật thơ để các bạn tham khảo.


    ĐƯỜNG LUẬT

    Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


    Thơ Đường luật hay Thơ luật Đường là thể thơ Đường cách luật xuất hiện từ đời nhà Đường (Tang), Trung Quốc. Thơ Đường luật gọi là thơ cận thể để đối lập với thơ cổ thể, không theo cách luật ấy[1].

    Vì giáo dục, thi cử... đều bằng tiếng Hán, nên từ lâu người Việt Nam đã sáng tác thơ văn bằng tiếng Hán, trong đó có thơ theo luật Đường.

    Nguyễn Thuyên là người đầu tiên đưa tiếng Việt vào thơ văn, đặt ra thể thơ Hàn luật, là sự kết hợp thơ Đường luật với các thể thơ dân tộc Việt [1].

    Thể loại thơ này của Việt Nam kéo dài từ thời nhà Trần cho đến nửa đầu thế kỷ 20. Kể từ phong trào Thơ Mới trở đi, số người trong nước làm luật thi đã bị giảm đi đáng kể.

    Bố cục một bài thơ Thất ngôn bát cú Đường luật gồm 4 phần: Đề, thực, Luận, Kết. -"Đề" gồm 2 câu đầu,câu đầu goị là câu phá đề, câu thứ 2 gọi là câu thừa đề, chuyển tiếp ý để đí vào phần sau. -"Thực" gồm 2 câu tiếp theo, giải thích ró ý đầu bài. -"Luận" gồm 2 câu tiếp theo nữa, phát triển rộng ý của đầu bài. -"Kết" là 2 câu cuối, kết thúc ý toàn bài.

    Thơ Đường luật nghiêm khắc ở 3 chỗ: Luật, Niêm và Vần. Về hình thức, thơ Đường luật có các dạng "thất ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu bảy chữ) được xem là dạng chuẩn, biến thể có các dạng: "thất ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu bảy chữ), "ngũ ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu năm chữ), "ngũ ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu năm chữ) cũng như các dạng ít phổ biến khác. Người Việt Nam cũng tuân thủ hoàn toàn các quy tắc này.

    Luật

    Luật thơ Đường căn cứ trên thanh bằng và thanh trắc, và dùng các chữ thứ 2-4-6 và 7 trong một câu thơ để xây dựng luật. Thanh bằng gồm các chữ có dấu huyền hay không dấu; thanh trắc gồm các dấu: sắc, hỏi, ngã, nặng.

    Luật bằng trắc

    Nếu chữ thứ 2 của câu đầu tiên dùng thanh bằng thì gọi là bài có "luật bằng"; nếu chữ thứ 2 câu đầu dùng thanh trắc thì gọi là bài có "luật trắc". Trong một câu, chữ thứ 2 và chữ thứ 6 phải giống nhau về thanh điệu, và chữ thứ 4 phải khác hai chữ kia. Ví dụ, nếu chữ thứ 2 và 6 là thanh bằng thì chữ thứ 4 phải dùng thanh trắc, hay ngược lại. Nếu một câu thơ Đường mà không theo quy định này thì được gọi "thất luật".

    Ví dụ: xét câu "Bước tới đèo Ngang bóng xế tà" trong bài Qua Đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan, có các chữ "tới" (thứ 2) và "xế" (thứ 6) giống nhau vì đều là thanh trắc còn chữ "Ngang" là thanh bằng thì đó là bài thất ngôn bát cú luật trắc.

    Luật bằng trắc trong thể Thất ngôn tứ tuyệt và Thất ngôn bát cú có thể nôm na liệt kê như sau, nếu chỉ vần bằng bằng chữ "B", vần trắc bằng chứ "T", những vần không có luật để trống, thì luật trong các chữ thứ 2-4-6-7 có thể viết là:

    1. Luật vần bằng

    Thất ngôn tứ tuyệt

    Câu số Vần Ví dụ: Mời trầu1 của Hồ Xuân Hương
    1 B T B B Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
    2 T B T B Này của Xuân Hương mới quệt rồi
    3 T B T T Có phải duyên nhau thì thắm lại
    4 B T B B Đừng xanh như lá, bạc như vôi
    Chữ thứ 1 2 3 4 5 6 7

    Thất ngôn bát cú

    Câu số Vần Ví dụ: Thương vợ1 của Trần Tế Xương

    1 B T B B Quanh năm buôn bánmom sông
    2 T B T B Nuôi đủ năm con với một chồng
    3 T B T T Lặn lội thân khi quãng vắng
    4 B T B B Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
    5 B T B T Một duyên hai nợ âu đànhphận
    6 T B T B Năm nắng mười mưa dám quản công.
    7 T B T T Cha mẹ thói đời ăn ở bạc!
    8 B T B B Có chồng hờ hững cũng như không!

    Chữ thứ 1 2 3 4 5 6 7

    2. Luật vần trắc

    Thất ngôn tứ tuyệt

    Câu số Vần Ví dụ: Phong Kiều dạ bạc (楓橋夜泊)
    của Trương Kế (张继 Zhang Jì) Phiên âm Hán-Việt
    1 T B T B 月落烏啼霜滿天 Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
    2 B T B B 江楓魚火對愁眠 Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
    3 B T B T 姑蘇城外寒山寺 Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
    4 T B T B 夜半鐘聲到客船 Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
    Chữ thứ 1 2 3 4 5 6 7

    Bản dịch tiếng Việt của Tản Đà (chuyển thể thành lục bát):

    Đỗ thuyền đêm ở bến Phong Kiều
    Trăng tà chiếc quạ kêu sương
    Lửa chài cây bãi sầu vương giấc hồ
    Thuyền ai đậu bến Cô Tô
    Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San

    Thất ngôn bát cú

    Câu số Vần Ví dụ: Nhớ bạn phương trời1 của Trần Tế Xương

    1 T B T B Ta nhớ người xa cách núi sông
    2 B T B B Người xa, xa lắm nhớ ta không
    3 B T B T Sao đương vui vẻ ra buồn bã!
    4 T B T B Vừa mới quen nhau đã lạ lùng
    5 T B T T Lúc nhớ, nhớ cùng trong mộng tưởng
    6 B T B B Khi riêng, riêng cả đến tình chung
    7 B T B T Tương tư lọ phải là trai gái,
    8 T B T B Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng
    Chữ thứ 1 2 3 4 5 6 7

    Luật đối

    Nguyên tắc cố định của một bài thơ Đường là ý nghĩa của hai câu 3 và 4 phải "đối" nhau và hai câu 5, 6 cũng "đối" nhau. Đối thường được hiểu là sự tương phản (về nghĩa kể cả từ đơn, từ ghép, từ láy) nhưng bao gồm cả sự tương đương trong cách dùng các từ ngữ. Nếu một bài thơ Đường mà các câu 3, 4 không đối nhau, các câu 5, 6 không đối nhau thì được gọi "thất đối".

    Ví dụ: hai câu 3, 4 trong bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:

    Lom khom dưới núi tiều vài chú
    Lác đác bên sông chợ mấy nhà,2
    "Lom khom" đối với "lác đác" (hình thể và số lượng - thực ra hai câu này chưa phải đối hoàn chỉnh), "dưới núi" đối với "bên sông" (vị trí địa hình), song nếu nối hình ảnh hai câu trên "lom khom dưới núi" và "lác đác bên sông" thì vì một câu diễn tả về cảnh động, còn một câu diễn tả về cảnh tĩnh, nên sự đối lập có thể chấp nhận được. Một điểm nên chú ý là cách dùng từ láy âm "lom khom" chỉ dáng người của câu trên, và "lác đác" chỉ số lượng của câu dưới. Hai vế tiếp: "tiều vài chú" đối với "chợ mấy nhà" (đối lập về số lượng và tĩnh/động). Sự đối lập của hai vế cuối có thể coi là hoàn chỉnh. Xin xem thêm về thơ đối hoặc Câu đối Việt Nam để hiểu thêm về luật đối trong thơ.

    Niêm

    Các câu trong một bài thơ Đường giống nhau về luật thì được gọi là "những câu niêm với nhau" (niêm = giữ cứng, ở đây được hiểu là giữ giống nhau về luật). Hai câu thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ nhì của hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Ở những câu theo nguyên tắc là cần phải niêm, nếu tác giả sơ xuất mà làm thành không niêm thì bài đó bị gọi là "thất niêm".

    Nguyên tắc niêm trong một bài thơ Đường chuẩn (thất ngôn bát cú) như sau:

    câu 1 niêm với câu 8
    câu 2 niêm với câu 3
    câu 4 niêm với câu 5
    câu 6 niêm với câu 7
    Chẳng hạn với luật vần bằng:

    - B - T - B B
    - T - B - T B
    - T - B - T T
    - B - T - B B
    - B - T - B T
    - T - B - T B
    - T - B - T T
    - B - T - B B

    Ví dụ: Xét trong bài thơ Qua đèo Ngang, hai câu thứ 2 và thứ 3:

    Cỏ cây chen đá lá chen hoa
    Lom khom dưới núi tiều vài chú

    Vần

    Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Trong một bài thơ Đường chuẩn, vần được dùng tại cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Những câu này được gọi là "vần với nhau". Nếu một bài thơ Đường mà chữ cuối của một trong các câu này không giống nhau về vần thì được gọi "thất vận".

    Những chữ có vần giống nhau hoàn toàn gọi là "vần chính", những chữ có vần gần giống nhau gọi là "vần thông". Hầu hết thơ Đường dùng vần thanh bằng, nhưng cũng có các ngoại lệ.

    Ví dụ: hai câu 1, 2 trong bài Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:

    Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà
    Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
    hai chữ "tà" và "hoa" được xem là vần với nhau, nhưng ở đây là "vần thông" vì chỉ phát âm gần giống nhau.

    Biến thể

    Ngoài dạng thơ Đường chuẩn luật là "thất ngôn bát cú" còn có các biến thể sau:

    Thất ngôn tứ tuyệt

    Thực chất là một bài "thất ngôn bát cú" đem bỏ đi bốn câu đầu hoặc bốn câu cuối. Luật bằng trắc và niêm, vần... vẫn giữ nguyên, có thể bỏ luật đối ở hai câu 3, 4 hoặc 5, 6. Lúc này nó sẽ thành một bài thơ "bốn câu ba vần" mà Nguyễn Du đã nhắc trong truyện Kiều.

    Ví dụ: bài thơ sau của Quách Tấn

    Từ buổi thuyền đưa khách thuận dằm
    Trông chừng bến cũ biệt mù tăm
    Cảm thương chiếc lá bay theo gió
    Riêng nhớ tình xưa ghé đến thăm

    Ngũ ngôn tứ tuyệt

    Thực chất là bài thất ngôn tứ tuyệt đem bỏ đi hai chữ đầu ở mỗi câu; các chữ còn lại vẫn giữ nguyên luật bằng trắc, niêm và vần.

    Ví dụ: từ bài trên mà thành

    Thuyền đưa khách thuận dằm
    Bến cũ biệt mù tăm
    Chiếc lá bay theo gió
    Tình xưa ghé đến thăm

    Ngũ ngôn bát cú

    Cũng là từ bài thất ngôn bát cú bỏ hai chữ đầu ở mỗi câu mà thành, luật bằng trắc, niêm và vần ở các chữ còn lại vẫn giữ nguyên.

    Yết hậu
    Yết Hậu3 (yết: nghỉ; hậu: sau) là lối thơ có ba câu trên đủ chữ, còn câu cuối cùng chỉ có một chữ.

    Ví dụ: bài Lươn

    Cứ nghĩ rằng mình ngắn,
    Ai ngờ cũng dài đườn.
    Thế mà còn chê trạch:
    Lươn!

    Vô Danh


Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình